HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN TUYẾT ÁNH
hoàn thiện pháp luật
về gia đình ở việt nam hiện nay
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: Lí LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN TUYẾT ÁNH
hoàn thiện pháp luật
về gia đình ở việt nam hiện nay
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: Lí LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mó số: 62 38 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. Lấ MINH TÂM
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tụ
173 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 375 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi; các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án
là trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trần Tuyết Ánh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIA ĐÌNH, PHÁP
LUẬT VỀ GIA ĐÌNH, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 7
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 7
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 17
1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 20
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH Ở
VIỆT NAM 23
2.1. Khái niệm pháp luật về gia đình, đặc điểm, nội dung và vai trò của
pháp luật về gia đình ở Việt Nam 23
2.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về gia đình ở
Việt Nam 45
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về gia đình ở
Việt Nam 50
2.4. Pháp luật về gia đình ở một số nước trên thế giới và những giá trị có thể
tham khảo cho Việt Nam 55
Chương 3: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
VỀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 67
3.1. Quá trình phát triển của pháp luật về gia đình 67
3.2. Thực trạng pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay 73
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 114
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay 114
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay 122
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐG Bình đẳng giới
BVCS&GDTE Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
CEDAW Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
CHDCND Cộng hòa dân chủ nhân dân
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GAD Giới và phát triển
HĐDT Hội đồng dân tộc
HĐND Hội đồng nhân dân
LĐTB&XH Lao động, Thương binh và Xã hội
LHPN Liên hiệp phụ nữ
LHQ Liên hợp quốc
PBGDPL Phổ biến, giáo dục pháp luật
PCBLGĐ Phòng chống bạo lực gia đình
UBND Ủy ban nhân dân
UBQGVSTBCPN Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ
UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc hội
UBVCVĐXH Ủy ban về các vấn đề xã hội
UN WOMEN Cơ quan phụ nữ của Liên hợp quốc
UNDP Chương trình phát triển Liên hợp quốc
UNFPA Quỹ Dân số Liên hợp quốc
UNIFEM Quỹ phát triển phụ nữ Liên hợp quốc
VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật
WID Phụ nữ trong phát triển
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường đặc biệt
quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, tạo nguồn
nhân lực để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, gia
đình cũng là tổ ấm, nơi bình yên, an toàn, nơi duy trì và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống về gia đình, bảo tồn các phong tục, tập quán tốt đẹp, đấu tranh loại bỏ
những tiêu cực, tệ nạn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, giữa gia đình và xã hội có
mối liên hệ mật thiết với nhau: “Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia
đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”.
Trong gần ba mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, những thành tựu to lớn
đạt được trong phát triển kinh tế, xã hội đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho mọi gia đình. Vị trí, vai trò, chức năng của gia đình tiếp tục được phát
huy và bổ sung thêm nhiều nét mới về nội dung và ý nghĩa xã hội ngày càng toàn
diện và sâu sắc hơn. Ngày càng có nhiều gia đình văn hóa góp phần giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc. Công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm đã
giúp hàng triệu gia đình thoát nghèo và nâng cao mức sống. Kinh tế gia đình thực
sự đóng góp quan trọng trong việc duy trì sự tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc
dân. Nhiều giá trị nhân văn mới như phòng chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới,
quyền trẻ em, vai trò của phụ nữ trong gia đình ngày càng được đề cao. Pháp luật về
gia đình ngày càng hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý xây dựng gia đình ấm no, hạnh
phúc, tiến bộ, bình đẳng. Hệ thống cơ quan nhà nước và tổ chức tham gia công tác
gia đình ngày càng kiện toàn và hoạt động có hiệu quả. Đảng và Nhà nước đã quan
tâm đề ra nhiều chủ trương, chính sách để phát huy vai trò của gia đình Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, nhiều hiện tượng tiêu cực mới nẩy sinh trong quan hệ gia đình có
xu hướng ngày càng phức tạp. Công tác quản lý nhà nước về gia đình chưa thực sự
hiệu quả. Bạo hành trong gia đình còn diễn biến rất phức tạp. Ở nhiều nơi, trong
nhiều gia đình vẫn còn nặng tư tưởng trọng nam, khinh nữ, chưa bảo đảm bình đẳng
giới trong gia đình. Tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, trẻ em bị xâm hại, trẻ em
2
phải lang thang kiếm sống, trẻ em vi phạm pháp luật có chiều hướng phát triển. Các
hiện tượng các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, HIV/AID xâm nhập vào gia
đình chưa thuyên giảm. Nhiều giá trị đạo đức truyền thống của gia đình như kính
trên nhường dưới, thủy chung, hiếu nghĩa đang có biểu hiện xuống cấp... Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình hình nói trên, trong đó có một số nguyên nhân như: Sự
nhận thức về vị trí, vai trò của gia đình và công tác gia đình, công tác quản lý nhà
nước về gia đình còn một số bất cập, chưa huy động sự tham gia của xã hội và cộng
đồng. Pháp luật về gia đình đã được sửa đổi, bổ sung nhưng chưa theo kịp sự phát
triển của gia đình trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Các
quy định pháp luật về gia đình tồn tại rải rác trong nhiều văn bản khác nhau. Nhiều
quy phạm chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu minh bạch, không phù hợp điều kiện thực tế
khách quan nên tính khả thi còn hạn chế. Nhiều vấn đề phát sinh trong lĩnh vực gia
đình chưa được phản ánh và xử lý kịp thời; chính sách, pháp luật về gia đình chưa
đồng bộ; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về gia đình và trang bị các kiến thức,
kỹ năng ứng xử trong các quan hệ về gia đình chưa được coi trọng Việc tổng kết
thực hiện pháp luật về gia đình, nghiên cứu chính sách, pháp luật về gia đình chưa
được quan tâm và đầu tư đúng mức, vì vậy, cho đến nay chưa có cơ sở khoa học và
thực tiễn đúng đắn phục vụ cho công tác hoạch định chính sách, xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về gia đình.
Do vậy, nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện pháp luật về gia đình, xây
dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về gia đình, hướng tới
mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững là
cần thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng ở nước ta hiện nay.
Xuất phát lý do trên, Nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về
gia đình ở Việt Nam hiện nay” làm Luận án tiến sĩ của mình tại Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích, làm rõ cơ sở lý luận hoàn
thiện pháp luật về gia đình, đánh giá thực trạng pháp luật về gia đình ở Việt Nam và
đề ra quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Phân tích khái niệm pháp luật về gia đình; làm rõ vai trò, nội dung và
những đặc điểm của pháp luật về gia đình Việt Nam; nghiên cứu hình thành các tiêu
chí để xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật về gia đình; các yếu tố ảnh hưởng
đến việc hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam. Ở mức độ nhất định, đề tài
nghiên cứu pháp luật về gia đình ở một số nước trên thế giới và rút ra những giá trị
có thể tham khảo ở Việt Nam.
- Nghiên cứu tổng quan về quá trình phát triển của pháp luật về gia đình ở
Việt Nam từ 1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về gia đình
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay để khẳng định những bước phát triển, những
ưu điểm cần phát huy, đồng thời tìm ra những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến
thực trạng đó.
- Đề xuất quan điểm và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về gia đình ở
Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn của
pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về gia đình có nội dung rộng, có liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp
luật khác trong hệ thống pháp luật chung, luận án tập trung nghiên cứu pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội có tác động và ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành,
tồn tại và phát triển của gia đình, với tư cách là một chủ thể, một tổ chức đặc biệt
của đời sống xã hội; các quan hệ về kết hôn tuy có được đề cập nhưng chỉ ở mức độ
nhất định.
Có nhiều nhóm quan hệ xã hội mà gia đình là chủ thể, bao gồm: 1/ quan hệ
về bình đẳng giới trong gia đình; 2/ quan hệ về phòng, chống bạo lực gia đình; 3/
quan hệ về trách nhiệm của gia đình trong ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập vào
gia đình; 4/ quan hệ dịch vụ gia đình; 5/ quan hệ hỗ trợ các gia đình có hoàn cảnh
4
khó khăn; 6/ quan hệ phát triển kinh tế gia đình; 7/ quan hệ phát sinh trong quá trình
quản lý nhà nước đối với gia đình;
Trong các quan hệ xã hội nói trên, luận án chỉ đi sâu nghiên cứu 4 nhóm
pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ 1, 2, 3, 7 bởi vì việc hoàn thiện các nhóm
quy phạm pháp luật này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần hoàn
thành mục tiêu hàng đầu được nêu trong Chiến lược phát triển gia đình Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, đó là: “Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí,
trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo
lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình”.
Về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về gia đình ở Việt
Nam từ năm 1945 nhưng tập trung vào giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
nhà nước và pháp luật nói chung, về gia đình và pháp luật về gia đình nói riêng. Bên
cạnh đó, đề tài chú trọng những quan điểm, tri thức khoa học có tính phổ biến ở
trong nước và nước ngoài về gia đình và pháp luật về gia đình để tham khảo và
phục vụ cho việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của
luận án.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tác giả luận án sử dụng những
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng trong chương 2, 3, 4 để
làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về gia đình.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống được sử dụng trong các chương 2,3,4 để
làm rõ nội dung, vai trò, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về
gia đình, các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về gia
đình ở Việt Nam.
5
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp lô gíc được sử
dụng ở chương 2, 3, 4: Luận án nghiên cứu từng vấn đề trong mối quan hệ chặt chẽ
giữa lý luận với thực tiễn, giữa quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước với thực tiễn thực hiện pháp luật về gia đình. Ba chương của luận án được
nghiên cứu trong mối quan hệ lôgíc xuyên suốt từ cơ sở lý luận đến thực trạng và
quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về gia đình.
- Phương pháp thống kê và xã hội học pháp luật được sử dụng trong chương
3 khi đánh giá thực trạng pháp luật về gia đình.
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong chương 1 để làm rõ tình hình
nghiên cứu, chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Phương pháp này cũng
được sử dụng ở chương 2 để so sánh các pháp luật về gia đình của một số nước.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện
về hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của
luận án sẽ có những đóng góp mới về mặt khoa học như sau:
- Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện các quan điểm, quan niệm về
pháp luật về gia đình, luận án đã xây dựng khái niệm khoa học pháp luật về gia
đình, chỉ ra vai trò, đặc điểm của pháp luật về gia đình, với nội dung bao gồm các
nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quản lý nhà nước
về gia đình, phòng chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới trong gia đình, phòng
chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình; đồng thời, xây dựng các tiêu chí về
nội dung và hình thức để xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật về gia đình;
phân tích làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về gia đình ở
Việt Nam hiện nay.
- Chỉ rõ quá trình phát triển của pháp luật về gia đình ở Việt Nam; phân tích,
đánh giá thực trạng pháp luật về gia đình ở Việt Nam, khẳng định những bước phát
triển, những ưu điểm cần phát huy, đồng thời chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân
của những hạn chế đó. Từ đó, luận án đề xuất 4 quan điểm và 6 nhóm giải pháp
hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay.
6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung và làm giàu thêm những
kiến thức lý luận về gia đình và pháp luật về gia đình; xây dựng cơ sở khoa học cho
việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về gia đình; xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về gia đình và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật về gia đình trong
thực tiễn.
Luận án là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy luật học và
văn hóa pháp lý chuyên sâu về gia đình và pháp luật về gia đình. Luận án cũng là tài
liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và trách nhiệm xã
hội trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các chính sách, pháp luật về gia đình;
xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch cụ thể tổ chức thực hiện có
hiệu quả pháp luật về gia đình ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố
liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4
chương, 11 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIA ĐÌNH,
PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIA
ĐÌNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về gia đình
- Đề tài “Nghiên cứu căn cứ khoa học để xây dựng ngành gia đình học ở Việt
Nam”, của Nguyễn Văn Cương [47]. Tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận
chung về gia đình, văn hóa gia đình và việc nghiên cứu về gia đình của các ngành
khoa học, khu biệt rõ các nội dung nghiên cứu, làm cơ sở cho việc xác định những
vấn đề cần khảo sát và đánh giá.
Tác giả và nhóm tác giả đã khảo sát, đánh giá những nét cơ bản trong đặc
trưng của gia đình truyền thống và những biến đổi của nó trong xã hội hiện nay;
khẳng định sự cần thiết phải xây dựng ngành Gia đình học để tăng cường và củng
cố nguồn nhân lực làm công tác nghiên cứu về gia đình. Đặc biệt, công trình này đã
đưa ra những định hướng giá trị tạo điều kiện cho gia đình Việt Nam phát triển theo
hướng vừa giữ được các giá trị văn hóa truyền thống, vừa tiếp thu được sự tiến bộ
trong văn minh nhân loại, hội nhập và phát triển.
Công trình còn khảo sát, đánh giá thực tế đội ngũ cán bộ làm công tác quản
lý nhà nước về gia đình ở cơ sở cũng như thực tế đào tạo kiến thức về gia đình ở
trong và ngoài nước hiện nay.
Trong các văn bản của Đảng và Nhà nước luôn đề cao vai trò của gia đình và
các hoạt động nhằm hỗ trợ sự phát triển toàn diện của gia đình. Có thể kể đến như:
Hiến pháp (1992), Bộ luật Dân sự (1995), Bộ luật Hình sự (1999), Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004), Luật Bình đẳng giới (2006), Luật Phòng chống
bạo lực gia đình có hiệu lực tháng 7 năm 2008 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã
ban hành Chỉ thị số 49-CT/TƯ ngày 21-2-2005 về xây dựng gia đình Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức triển khai thi hành Luật phòng chống bạo
8
lực gia đình; Quyết định số 629/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
- “Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện nay”,
của Uỷ ban dân số, Gia đình và trẻ em [183]. Cuốn sách này đã làm rõ khái niệm
quy mô gia đình; số người, số thế hệ trong gia đình; khái niệm về hôn nhân, tình
trạng kết hôn và ly hôn ở Việt Nam; thực trạng và những biến đổi của mối quan hệ
vợ chồng trong gia đình trên các phương diện: vai trò của chủ hộ, vai trò của vợ
chồng trong sản xuất, đóng góp thu nhập; mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia
đình; mối quan hệ họ hàng thân tộc Có thể nói cuốn sách đã nêu khá chi tiết các
khái niệm, các mối quan hệ, chức năng của gia đình đồng thời cũng dự báo được xu
thế biến đổi của gia đình Việt Nam, những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam
trong xu thế hội nhập quốc tế
- “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới”, của Lê Thi [148],
đã đề cập đến sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới
chuyển sang thế kỷ 21. Ở chương 1 tác giả đề cập tới những biến đổi chung, sau đó
đi sâu vào nghiên cứu biến đổi của hôn nhân, vấn đề xã hội hoá trẻ em và việc thực
hiện mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX. Chương 2, tác giả đi từ góc độ
giới để nghiên cứu các vấn đề gia đình cụ thể như mối quan hệ trong gia đình nhìn
từ cách tiếp cận giới; bất bình đẳng trong việc thực hiện chiến lược dân số và phát
triển bền vững ở Việt Nam; bạo lực gia đình, phân biệt đối xử giữa con trai và con
gái, ly hôn, tâm trạng phụ nữ đơn thân... Cuốn sách cũng đề cập tới vấn đề xây dựng
văn hóa gia đình và gia đình văn hóa.
- “Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới”, của Trần Hữu
Tòng, Trương Thìn [161]. Sách gồm 04 phần: Phần I: Một số quan điểm của Đảng
và Nhà nước về xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ đổi mới; Phần II: Vấn đề
gia đình và gia đình văn hóa; Phần III: Những kinh nghiệm và định hướng cuộc vận
động xây dựng gia đình văn hóa.
- “Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường”, của Nguyễn Thị Khoa
[93] đề cập tới vấn đề nền kinh tế thị trường có tác động mạnh mẽ đến đạo đức gia
đình, làm thay đổi nhận thức ở một số người về các chuẩn mực giá trị: quan niệm về
9
đạo đức trong hôn nhân bị lệch lạc, xu hướng ly hôn tăng; Đạo đức tình dục bị vi
phạm; Mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình bị lỏng lẻo; Hiện tượng coi
thường giáo dục gia đình đang xảy ra ngày càng nhiều. Nguyên nhân của các hiện
tượng này là do việc tuyên truyền, giáo dục luật pháp chưa được thực hiện tốt, chưa
coi trọng giáo dục về gia đình cho lớp trẻ, do tác động của nền kinh tế... Vì vậy nhà
nước, cộng đồng, gia đình và mỗi cá nhân phải có ý thức xây dựng đạo đức gia đình
tiến bộ, lành mạnh.
- “Gia đình ở đô thị trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá”, của Đỗ
Thị Bình [14]. Nội dung của sách đề cập tới vấn đề trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá gia đình ở các đô thị Việt Nam đang có sự chuyển tiếp từ truyền thống
sang hiện đại trên các bình diện hôn nhân, cơ cấu gia đình và các mối quan hệ trong
gia đình. Biến đổi trong lĩnh vực hôn nhân thể hiện ở vai trò quyết định của các
thành viên trong gia đình đối với công việc hệ trọng này, độ tuổi kết hôn cũng như
quan niệm về hôn nhân, cách tổ chức lễ cưới. Cơ cấu của gia đình đô thị chiếm đa
số là loại hình hai thế hệ và vai trò người phụ nữ được nâng cao. Về các mối quan
hệ trong gia đình đô thị Việt Nam hiện nay bao hàm nhiều nhân tố mới, tích cực,
bình đẳng trong quan hệ vợ chồng và các thành viên khác trong gia đình.
- “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình”, của Viện Nghiên cứu Gia đình và
giới [188]. Nội dung của cuốn sách được chia làm hai phần: Phần I - Gia đình Việt
Nam và việc thực hiện các chức năng của gia đình, phần này tập trung vào một số
vấn đề chủ yếu trong nghiên cứu về gia đình Việt Nam; những vấn đề lý luận,
phương pháp luận; quá trình biến đổi của gia đình Việt Nam từ truyền thống sang
hiện đại; Việc thực hiện các chức năng của gia đình Việt Nam hiện nay; Những vấn
đề kiến nghị về chính sách đối với gia đình và phụ nữ. Phần 2- Vai trò của giáo dục
trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam. Tác giả tập trung
đi sâu phân tích chức năng cụ thể của gia đình: chức năng giáo dục (xã hội hoá).
Trong đó vấn đề chủ yếu được nêu lên là vai trò của gia đình, các thành viên trong
gia đình với việc giáo dục thế hệ trẻ; Những nội dung, phương pháp giáo dục trong
gia đình hiện nay; Sự ảnh hưởng của các tôn giáo, thời đại và các môi trường giáo
dục khác đến giáo dục gia đình.
10
- “Nghiên cứu gia đình và giới thời kỳ đổi mới”, của Nguyễn Hữu Minh,
Trần Thị Vân Anh [110]. Sách đề cập nhiều vấn đề như: Thành tựu nghiên cứu của
Viện Gia đình và Giới và một số vấn đề đặt ra; Nghiên cứu phụ nữ, gia đình và giới:
Từ kết quả đến định hướng; Những chiều cạnh cơ bản của phát triển thanh niên
trong thời kỳ đổi mới; Giảng dạy và nghiên cứu về giới ở trường đại học; Đi tìm
những đặc trưng của gia đình Việt Nam truyền thống; Giới và các vấn đề giới ở
Việt Nam; Nghiên cứu về quyền phụ nữ; Phụ nữ Việt Nam và việc tham gia chính
trị Đây là công trình rất công phu, giải quyết được nhiều vấn đề đặt ra trong cuộc
sống. Tuy nhiên, vấn đề lý luận về gia đình và công tác gia đình còn hạn chế, các
tác giả chưa đi sâu phân tích nội hàm của công tác gia đình, quản lý nhà nước về gia
đình và công tác gia đình đề cập còn rất khiêm tốn. Vấn đề hành lang pháp lý cho
công tác gia đình ít được nhóm tác giả đề cập.
- “Diễn đàn gia đình cấp Bộ trưởng khu vực Đông Á lần thứ nhất”, của Uỷ
ban Dân số, Gia đình và trẻ em [171]. Kỷ yếu đã tập hợp trên 12 bài phát biểu, tham
luận của các đoàn đại biểu đến từ 12 nước: Úc, Brunei, Campuchia, Indonexia,
Malaixia, Mianmar, Lào, Philippines, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc và Việt
Nam về lĩnh vực gia đình.
Có thể nói các phát biểu tham luận của các đại biểu đều khẳng định vai trò
quan trọng của gia đình và đưa ra các cam kết giải quyết các vấn đề về gia đình
như: cải thiện các điều kiện và các chương trình hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực cho
các gia đình thuộc diện cực nghèo, tạo điều kiện để gia đình hoàn thành sứ mệnh là
đơn vị phòng vệ đầu tiên trước những tác động tiêu cực của hiện đại hóa, tiếp tục
duy trì và thúc đẩy tính năng động và sáng tạo của xã hội đối với vấn đề gia đình
- “Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chương trình hành động của Chính phủ,
của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch về Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình”,
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch [21]. Sách đã tập hợp và giới thiệu được các
Quyết định và Chỉ thị của Trung ương giúp định hướng quá trình nghiên cứu của
nghiên cứu sinh như: Quyết định số 106/2005/QĐ-TTg ngày 16/5/2005 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai
đoạn 2005 - 2010; Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21/02/2005 của Ban Bí thư về xây
11
dựng gia đình thời kỳ CNH-HĐH đất nước; Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 30/5/2008
của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình.
- “Các kiến thức chung về gia đình”, của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
[20]. Tài liệu đã hệ thống được các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến lĩnh vực
gia đình: Gia đình, hôn nhân, hộ, hộ gia đình, huyết thống, nuôi dưỡng các chức
năng cơ bản của gia đình: Chức năng sinh sản, tái sản xuất con người, chức năng
kinh tế, chức năng giáo dục, xã hội hóa cá nhân; Vai trò của gia đình đối với các
thành viên, đối với cộng đồng và xã hội; Các mối quan hệ trong gia đình: quan hệ
vợ chồng, quan hệ cha, mẹ và con gái, quan hệ cha, mẹ và con trai; Các văn bản
pháp luật, chính sách về hôn nhân gia đình; Chủ trương, đường lối của Đảng và
chính sách của Nhà nước về gia đình.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu chính sách, pháp luật về gia đình
- “Báo cáo Đánh giá hệ thống chính sách và pháp luật Việt Nam hiện hành
liên quan đến gia đình - khuyến nghị hướng hoàn thiện”, của Vụ Pháp luật Hình sự
- Hành chính, Bộ Tư pháp [192]. Báo cáo gồm 07 phần, được sắp xếp theo một bố
cục hợp lý, dễ theo dõi. Nhóm chuyên gia pháp luật khi xây dựng Báo cáo tổng thể
đã thống nhất tiến hành việc xem xét, đánh giá theo 05 chủ đề mà các Tiểu báo cáo
đã đi sâu đánh giá cụ thể. Tuy nhiên, những chủ đề này được đề cập trong Báo cáo
Tổng thể với sự đánh giá khái quát mang tính tổng hợp hơn trong mối liên hệ biện
chứng giữa các chủ đề nhằm tạo nên một bức tranh chung về thực trạng hệ thống
pháp luật Việt Nam hiện hành về gia đình cùng những nhận định đánh giá trên cơ
sở các tiêu chí và căn cứ đặt ra. Bên cạnh những khuyến nghị đề xuất cụ thể theo
từng chủ đề, Báo cáo Tổng thể đưa ra những khuyến nghị chung mang tính tiêu
biểu, dưới góc độ tổng thể nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về gia
đình Việt Nam trong thời kỳ tới và trong tương lai.
Báo cáo tiến hành xem xét, đánh giá chỉ đối với những văn kiện, nghị quyết
của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định pháp luật trực tiếp đề
cập, điều chỉnh đến vấn đề gia đình, đến các quan hệ pháp luật mà gia đình là chủ
thể. Việc giới hạn phạm vi của Báo cáo nhằm mục đích tập trung phân tích, đánh
12
giá sâu, đúng trọng tâm phục vụ mục tiêu mà Báo cáo hướng tới. Vì vậy, đối với
những văn bản, những quy định pháp luật điều chỉnh chung, liên quan đến nhiều
chủ đề khác nhau, không trực tiếp quy định đến các vấn đề về gia đình thuộc 05 chủ
đề sau đây thì không thuộc phạm vi xem xét, đánh giá của báo cáo này: Quan điểm
chỉ đạo và vấn đề quản lý nhà nước về gia đình - vị trí vai trò của gia đình; Phát
triển kinh tế gia đình; Dịch vụ gia đình; Hỗ trợ các gia đình có hoàn cảnh khó khăn;
Vai trò và trách nhiệm của gia đình trong đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn
ma túy, mại dâm, HIV/AIDS và bạo lực trong gia đình.
- “Một số luận cứ xây dựng và hoàn thiện chính sách xã hội đối với Phụ nữ
và Gia đình trong giai đoạn hiện nay”, của Trần Thị Vân Anh [2]. Đây là kết quả
nghiên cứu của công trình khoa học cấp Nhà nước KX.04 gồm 17 đề tài tập trung
vào các vấn đề: các mặt đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân, dự báo chiều
hướng phát triển, hình thành nhận thức mới và hệ quan điểm tương đối với từng đối
tượng được nghiên cứu, qua đó bước đầu đề xuất một số kiến nghị về việc tiếp tục
đổi mới, bổ sung, hoàn thiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước về gia
đình ở Việt Nam.
1.1.3. Nhóm công trình liên quan đến quản lý nhà nước về gia đình
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về gia đình”, của Lê Trung
Trấn [162]. Đề tài phân tích những vấn đề chung về gia đình: định nghĩa, phân
loại, chức năng, vị trí, vai trò, các mối tương quan của gia đình trong quá trình
phát triển... Quan điểm gia đình là đối tượng quản lý của Nhà nước; Nội dung
quản lý Nhà nước đối với gia đình; Thực trạng và những thách thức của quản lý
Nhà nước về gia đình ở Việt Nam và kiến nghị nhằm tăng cường quản lý nhà
nước về gia đình.
- “Quản lý nhà nước về gia đình - lý luận và thực tiễn”, của Lê Thị Quý
[131]. Sách đã đề cập tới một số vấn đề như: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
nghiên cứu gia đình Việt Nam hiện nay; Những đặc trưng cơ bản của quản lý gia
đình trong quản lý xã hội phát triển; Sự tôn trọng gia đình và tôn trọng các mối
quan hệ gia đình của người Việt; Vấn đề giáo dục các giá trị truyền thống trong gia
đình qua một số khảo sát xã hội học; Sự thay đổi vai trò của người chồng, người cha
13
trong gia đình từ truyền thống đến hiện đại; Chủ hộ gia đình ở Việt Nam; Dịch vụ y
tế cho gia đình miền núi
Một phần quan trọng của cuốn sách là những bài viết tập trung phân tích
các mô hình được xây dựng và thực hiện ở một số địa phương Việt Nam về lĩnh
vực quản lý nhà nước về gia đình. Dịch vụ y tế cho gia đình miền núi (Đinh Văn
Chuyển), Về mô hình can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình tại Thái Bình
(Nguyễn Thị Tuyết Nga, Nguyễn Trung Hiếu, Đỗ Thị Quyên), Mô hình “Địa chỉ
tin cậy” phòng, chống bạo lực gia đình tại Thái Bình (Triệu Thị Phượng), Vấn đề
quản lý gia đình ở huyện Kiến Thụy, Hải Phòng (Bùi Đức Thảo, Vũ Thị Nguyệt,
Nguyễn Đức Thảnh, Ngô Đăng Đán) Đây là những nghiên cứu công phu của
các tác giả khi tiến hành khảo cứu các mô hình về lĩnh vực đó. Tuy chỉ giới hạn ở
một số địa phương trong nước, nhưng nó cũng cung cấp cho những nhà nghiên
cứu sau này những tài liệu thực địa quan trọng khi nghiên cứu vấn đề quản lý nhà
nước về gia đình.
Mặc dù cuốn sách đã đi sâu phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề liên quan tới
công tác quản lý nhà nước về gia đình, nhưng chưa đi sâu phân tích và làm rõ vấn
đề hoàn thiện pháp luật về gia đình ở nước ta hiện nay như một đòi hỏi tất yếu.
- “Văn bản quản lý nhà nước về gia đình và công tác gia đình ở Việt Nam
hiện nay” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch [25]. Đây là cuốn sách tập hợp các
văn bản của Đảng và văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý nhà
nước về gia đình và công tác gia đình ở Việt Nam. Cuốn sách này cung cấp tài liệu
quan trọng cho việc nghiên cứu đánh giá cơ sở pháp lý của hoạt động quản lý nhà
nước về gia đình ở Việt Nam hiện nay.
1.1.4. Nhóm tài liệu nghiên cứu về phòng, chống bạo lực gia đình
- “Báo cáo điều tra thực trạng bạo lực gia đình, đề xuất giải pháp có tính đột
phá nhằm giảm thiểu b...ng suất thấp. Họ sẽ có nhiều thời gian nghỉ ngơi, học tập, giải
trí, vui chơi với gia đình.
Có thể nói, gia đình Việt Nam trong quá trình phát triển đã, đang và sẽ chịu
ảnh hưởng đồng thời của nền văn minh, của văn hóa phương Đông, văn hóa khu
vực Đông Nam Á cùng với nhiều tôn giáo vốn đã tồn tại lâu đời như Đạo phật,
Thiên chúa giáo, đạo Hồi...
Gia đình ở Việt Nam hiện nay đang phải đương đầu với một loạt thử thách
lớn khi chuyển từ mô hình gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại. Để tồn tại
và phát triển, mỗi gia đình phải tìm cách thích ứng với những điều kiện mới, từng
thành viên trong gia đình phải tự điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình. Thực tế
cho thấy, sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng cùng với những trào lưu tiến bộ về
khoa học công nghệ có phần không tương xứng với sự phát triển văn hóa, xã hội đã
làm đổ vỡ, mờ nhạt một số giá trị tinh thần, đạo đức ở nhiều nước trên thế giới,
trong đó có Việt Nam.
Gia đình Việt Nam có các đặc trưng cơ bản: Gia đình phải sống chung một
mái nhà; Trong một gia đình phải có giới tính (nam, nữ); Quan hệ trong gia đình
phải là quan hệ ruột thịt, huyết thống nghĩa là có quan hệ tái sản xuất con người;
Các thành viên trong gia đình phải gắn bó với nhau về đặc điểm tâm sinh lý; Gia
29
đình phải có ngân sách chung. Do đó gia đình phải là một nhóm xã hội ít nhất có từ
02 người trở lên.
Gia đình Việt Nam truyền thống có những đặc trưng khác với gia đình của
các dân tộc khác trên thế giới. Đó là sản phẩm của nền văn minh lúa nước và tồn tại
ở địa bàn nông thôn. Gia đình truyền thống được coi là đại gia đình mà các thành
viên liên kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết thống. Trong gia đình này có thể
cùng chung sống từ 3 thế hệ trở lên: ông bà - cha mẹ - con cái mà người ta quen gọi
là "tam, tứ, ngũ đại đồng đường". Kiểu gia đình này khá phổ biến và tập trung nhiều
nhất ở nông thôn Bắc Bộ.
Gia đình truyền thống thường biểu hiện các mặt sau đây:
- Gia đình không chỉ là đơn vị cuối cùng của xã hội mà còn là mẫu hình để tổ
chức xã hội và nhà nước.
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc ta được nâng lên thành đạo hiếu -
đạo tổ tiên và gia đình cũng là nơi quan trọng nhất để duy trì đạo đức trung hiếu,
được coi là giá trị nền tảng của xã hội truyền thống.
- Người đứng đầu gia đình (gia trưởng) chịu trách nhiệm trước về mọi hành
vi của những người trong nhà.
- Gia đình là đơn vị kiểm soát cá nhân; từng cá nhân trong một gia đình bị
ràng buộc và kiểm soát bằng luân lý, phong tục, lễ nghi và pháp luật.
- Về hôn nhân và quan hệ vợ chồng: Cha mẹ quyết định, con cái nghe theo;
người chồng phải giữ nghĩa với vợ, người vợ phải thủ tiết với chồng.
- Nước xét xử theo pháp luật thì nhà - gia đình thực hiện nhiệm vụ của nó,
thực sự trở thành nơi sàng lọc và răn dạy các thành viên về đạo lý, quốc pháp.
- Gia đình là một thiết chế gia trưởng. Trong một gia đình cha ra cha, con ra
con, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng và vợ ra vợ. Các mối quan hệ này được
điều chỉnh bằng luân lý tam cương, ngũ thường và nó được cụ thể hoá thành gia quy.
Nền kinh tế tiểu nông là cơ sở phát sinh và tồn tại của loại hình gia đình
truyền thống. Về mặt tâm lý, người Việt Nam luôn có xu hướng quần tụ con cái
xung quanh mình. Vì thế, các đại gia đình cùng sống dưới một mái nhà hoặc vài
nhà cạnh nhau cũng là hình thức tổ chức gia đình phổ biến ở đô thị.
30
Gia đình truyền thống có các ưu điểm: Có sự gắn bó cao về tình cảm theo
huyết thống; Bảo lưu được các truyền thống văn hóa, tập tục, nghi lễ, phát huy tốt
các gia phong, gia lễ, gia đạo; Các thành viên trong gia đình có điều kiện giúp đỡ
nhau về vật chất và tinh thần, chăm sóc người già và giáo dưỡng thế hệ trẻ. Đó là
những giá trị rất căn bản của văn hóa gia đình mà chúng ta cần kế thừa và phát huy.
Tuy nhiên, nhược điểm của loại gia đình này là ở chỗ trong khi giữ gìn các
truyền thống tốt đẹp thì cũng duy trì luôn cả những tập tục, tập quán lạc hậu, lỗi
thời. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tuổi tác, lối sống, thói quen cũng đưa đến một hệ
quả khó tránh khỏi là mâu thuẫn giữa các thế hệ: giữa ông bà - các cháu, giữa mẹ
chồng - nàng dâu Bên cạnh việc duy trì được tinh thần cộng đồng, gia đình
truyền thống phần nào cũng hạn chế sự phát triển tự do quá mức của mỗi cá nhân.
Trái với đặc trưng của gia đình truyền thống, gia đình Việt Nam hiện nay
phần lớn là gia đình hạt nhân trong đó chỉ có một cặp vợ chồng (bố mẹ) và con cái
mà họ sinh ra. Hầu hết các gia đình trí thức, viên chức nhà nước, công nhân công
nghiệp, gia đình quân đội, công an đều là gia đình hạt nhân. Xu hướng phát triển gia
đình hạt nhân ở Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng vì nhiều ưu điểm và lợi thế
của nó. Trước hết gia đình hạt nhân tồn tại như một đơn vị độc lập, gọn nhẹ, linh
hoạt và có khả năng thích ứng nhanh với các biến đổi xã hội. Gia đình hạt nhân có
sự độc lập về quan hệ kinh tế. Kiểu gia đình này tạo cho mỗi thành viên trong gia
đình khoảng không gian tự do tương đối lớn để phát triển tự do cá nhân. Cá nhân
tính được đề cao. Trong xã hội hiện đại, mức độ độc lập cá nhân được coi là một
yếu tố biểu hiện chất lượng cuộc sống gia đình. Tính độc lập cá nhân được gia đình
tạo điều kiện nuôi dưỡng, phát triển sẽ tạo ra phong cách sống, tính cách, năng lực
sáng tạo riêng khiến cho mỗi người đều có bản sắc.
Mô hình gia đình hạt nhân cũng có những điểm yếu sau đây:
- Quy mô trung bình của gia đình Việt Nam giảm từ 4,4 người/hộ (2006)
xuống còn 3,7 người/hộ (2013).
- Tỉ lệ ly hôn, ly thân trong các gia đình hạt nhân ngày càng gia tăng.
- Dưới sự tác động của của các yếu tố kinh tế, văn hóa trong nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, không ít những giá trị truyền thống tốt đẹp trong gia
31
đình Việt Nam đang có xu hướng bị coi nhẹ; mức độ liên kết giữa các thành viên
trong gia đình cũng có nhiều thay đổi; các thành viên trong gia đình có sự bình đẳng
và tôn trọng các phẩm chất cá nhân của nhau nhiều hơn.
- Gia đình nhiều thế hệ về cơ bản đã được thay thế bằng mô hình gia đình hạt
nhân - gia đình quy mô nhỏ, chỉ có vợ chồng (bố, mẹ) và con cái.
Trong xã hội hiện đại, sự tác động của các yếu tố khách quan như nền kinh tế
thị trường, quá trình giao lưu hợp tác quốc tế, sự thâm nhập của những giá trị mới,
cùng với việc bản thân giá trị truyền thống trong gia đình Việt Nam chưa có những
cơ chế vững chắc để có thể tự bảo lưu, tiếp tục phát triển là những nguyên nhân dẫn
đến sự biến đổi của gia đình truyền thống. Sự bảo lưu phải vừa tích cực, giữ lại
được những tinh hoa của giá trị gia đình truyền thống, vừa phải biết bổ sung thêm
những giá trị tích cực của thời đại mới.
Tóm lại, đặc trưng của gia đình Việt Nam có quy luật phát triển mang tính
chất và đặc thù riêng với tư cách là một thể thống nhất, một tế bào hoàn chỉnh và là
một đơn vị cơ sở của một xã hội cụ thể.
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về gia đình ở Việt Nam
2.1.2.1. Khái niệm pháp luật về gia đình
Trong khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật, khái niệm pháp luật có
thể được hiểu theo nghĩa rộng và hẹp tuỳ thuộc yêu cầu tiếp cận và giải quyết các
vấn đề cụ thể của hệ thống pháp luật. Theo nghĩa hẹp, pháp luật là tổng thể các quy
tắc xử sự, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện,
thể hiện ý chí của nhà nước và phản ánh những nhu cầu xã hội khách quan, điển
hình, phổ biến để điều chỉnh các quan hệ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Như
vậy, theo nghĩa hẹp, pháp luật chỉ bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật thực định,
nên còn gọi là pháp luật thực định. Theo nghĩa rộng, pháp luật là tổng thể các quy
tắc xử sự và các nguyên tắc, định hướng, mục đích pháp luật, do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước và
phản ánh những nhu cầu xã hội khách quan, điển hình, phổ biến để điều chỉnh các
quan hệ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghĩa là, khái niệm pháp luật
hiểu theo nghĩa rộng bao gồm pháp luật thực định, hệ thống quy phạm pháp luật cụ
32
thể, hiện hành và những vấn đề có tính khái quát, trừu tượng hơn, thể hiện bản chất
của pháp luật và có tính định hướng cho cả tương lai tồn tại và phát triển của pháp
luật: Nguyên tắc, định hướng, mục đích.
- Nguyên tắc pháp luật là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo cho việc
xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật. Nguyên tắc pháp luật khác với các quy
phạm pháp luật cụ thể ở tính khái quát, không quy định cho một trường hợp cụ thể
mà tạo ra nền tảng, cơ sở và có tính định hướng xuyên suốt trong quá trình xây
dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật. Ví dụ, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc vì con
người, nguyên tắc bình đẳng, công bằng, nhân đạo, nhân văn tuy không được ghi
nhận cụ thể dưới dạng một quy phạm pháp luật, nhưng nội dung của chúng được
thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau trong các quy phạm pháp luật và luôn là tư
tưởng chỉ đạo xuyên suốt của hệ thống pháp luật.
- Các định hướng pháp luật cũng là một bộ phận quan trọng của pháp luật,
thể hiện các quan điểm chính sách của nhà nước về những vấn đề quan trọng cho
một thời gian tương đối dài. Ví dụ, định hướng: xây dựng gia đình thực sự là nơi
hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người.
Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc,
văn minh. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền
nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em
đoàn kết, thương yêu nhau.
- Các mục đích của pháp luật là các quy định của pháp luật phải hợp lý và có
thể được áp dụng một cách hợp lý. Bản chất của sự việc chỉ đưa ra được những giải
pháp chung cho những trường hợp điển hình; các nguyên tắc và định hướng pháp
luật đặt ra những “đường ray” và xác định hướng vận động cho “con tàu pháp luật”.
Để pháp luật phát huy được vai trò thực sự của mình thì các mục đích pháp luật
phải được xác định và phải được kiểm nghiệm trong đời sống pháp luật và đời sống
xã hội. Mục đích chung của pháp luật là bảo đảm sự an toàn, công lý và lợi ích.
Mục đích cụ thể của pháp luật thì hết sức đa dạng và phức tạp vì suy cho cùng tất cả
các hành vi của con người đều nhằm tới một mục tiêu nào đó và giá trị của nó sẽ
phụ thuộc vào giá trị của các mục đích đề ra.
33
Từ những phân tích trên, pháp luật về gia đình cần được hiểu theo nghĩa
rộng, bởi vì gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, các mối quan hệ về gia đình rất
phong phú, sinh động nhưng cũng rất phức tạp, tinh tế và nhạy cảm, được điều
chỉnh không chỉ bằng pháp luật, mà còn bằng đạo đức và các quy phạm xã hội khác.
Việc kết hợp pháp luật với đạo đức và các quy phạm xã hội khác có ý nghĩa rất
quan trọng và để thực hiện được điều đó thì những nguyên tắc, định hướng và mục
đích của pháp luật luôn đòi hỏi phải được nhận thức đầy đủ và vận dụng một cách
sáng tạo và phù hợp.
Pháp luật về gia đình là một lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, là một bộ
phận hợp thành của hệ thống pháp luật nói chung và đến lượt mình pháp luật về gia
đình cũng là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận hợp thành để điều chỉnh các
quan hệ về gia đình.
Xuất phát từ nhu cầu khách quan, Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực gia đình. Các quy
phạm pháp luật về gia đình là các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, là khuôn
mẫu, thước đo để các chủ thể thực hiện các hành vi trong quan hệ về gia đình, đồng
thời, các quy phạm pháp luật về gia đình cũng là tiêu chí để đánh giá tính hợp pháp
hay không hợp pháp của các hành vi con người trong lĩnh vực gia đình.
Các quy phạm pháp luật về gia đình thể chế hóa chủ trương, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển gia đình. Đại hội đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ X (4/2006) đã đề ra định hướng phát triển gia đình Việt Nam
trong giai đoạn mới:
Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích
ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của
mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình
thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy
văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc [60].
34
Định hướng về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam nêu trên hoàn toàn
phù hợp với ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Bởi lẽ bất cứ
ai cũng là thành viên của một gia đình nhất định; mỗi gia đình và thành viên gia
đình đều mong muốn hướng tới một cuộc sống no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc. Vì vậy, chủ trương, quan điểm của Đảng và ý chí, nguyện vọng của nhân dân
chính là cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực thi có hiệu quả pháp
luật về gia đình.
Các quy phạm pháp luật về gia đình được chứa đựng trong các văn bản quy
phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo hình thức, trình
tự, thủ tục nhất định và được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống. Các quy phạm
pháp luật về gia đình được quy định chủ yếu trong Hiến pháp, Luật hôn nhân và Gia
đình (2014), Luật Bình đẳng giới (2007); Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
(2008); các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành, các Thông tư của bộ...
Ngoài ra, để điều chỉnh một số quan hệ xã hội về gia đình, Nhà nước thừa
nhận và cho phép sử dụng các tập quán tốt đẹp của các dân tộc. Điều 7 Luật Hôn
nhân gia đình năm 2014 quy định về áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình:
“Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập
quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định
tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng”. Như vậy, bên
cạnh hình thức chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật, các tập quán tốt đẹp của các
dân tộc không trái với nguyên tắc của Luật Hôn nhân gia đình có thể được áp dụng
để điều chỉnh quan hệ xã hội về gia đình.
Từ đó chúng tôi có thể đưa ra khái niệm: Pháp luật về gia đình là hệ thống
các nguyên tắc, quy phạm pháp luật chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp
luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo hình thức, trình tự, thủ
tục nhất định và các tập quán tốt đẹp được nhà nước thừa nhận, thể hiện bản sắc
văn hóa của mỗi dân tộc, không trái với những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn
nhân và gia đình và các điều cấm của Hiến pháp và pháp luật, nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội về gia đình, hướng tới xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc, bền vững.
35
2.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về gia đình
Pháp luật về gia đình là một bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật, vì
vậy nó mang những đặc trưng cơ bản của pháp luật nói chung như: Pháp luật về gia
đình do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước, có
tính bắt buộc chung, tính quy phạm phổ biến và tính hệ thống, phản ánh những nhu
cầu khách quan, điển hình, phổ biến và có tính công lý trong lĩnh vực gia đình, để
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh, tồn tại và phát triển trong lĩnh vực gia
đình. Bên cạnh đó, pháp luật về gia đình là một lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, vì
vậy nó có những đặc điểm riêng cơ bản sau:
Thứ nhất, về tính chất: Pháp luật về gia đình cùng loại với pháp luật dân sự,
nhưng không đồng nhất với pháp luật dân sự. Sự khác biệt đó thể hiện rõ nét ở đối
tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về gia đình là các quan hệ nhân thân và
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và các con, giữa những người thân
thích ruột thịt khác. Quan hệ nhân thân là những quan hệ xã hội phát sinh giữa các
thành viên trong gia đình như: quan hệ giữa vợ và chồng về sự thương yêu, chăm
sóc, giúp đỡ nhau, về việc xác định chỗ ở chung, quan hệ giữa cha mẹ và các con về
việc xác định chế độ pháp lý nhân thân của con chưa thành niên... Quan hệ tài sản là
những quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành viên trong gia đình về những lợi ích
tài sản như: quan hệ cấp dưỡng lẫn nhau giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và các con,
giữa các thành viên khác trong gia đình, quan hệ về sở hữu giữa vợ và chồng...
Xét về mặt hình thức, đối tượng điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình có
nhiều điểm giống với đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự. Tuy nhiên, về nội
dung, các quan hệ hôn nhân và gia đình có những điểm riêng đáng chú ý đó là:
Một là: nhóm quan hệ nhân thân là đối tượng điều chỉnh cơ bản và có ý
nghĩa quyết định của pháp luật về gia đình. Bởi vì, trong đời sống gia đình nói
chung và trong từng nhóm, từng mối quan hệ gia đình cụ thể nói riêng, thì tình cảm,
sự tin tưởng, chân thành, sự gắn bó, yêu thương, chia sẻ giữa vợ và chồng, giữa cha
mẹ và con cái và giữa các thành viên khác trong gia đình luôn là yếu tố quan trọng,
thiêng liêng và hiện thực nhất.
36
Hai là: chủ thể trong các quan hệ gia đình là các cá nhân con người cụ thể
(thể nhân), không thể là các cơ quan, tổ chức hay pháp nhân. Cá nhân con người
được đặc trưng bằng những cá tính, phẩm chất, năng lực, nhu cầu, lợi ích riêng, vừa
là một chủ thể xã hội có sở nguyện độc lập và khả năng tự quyết, thể hiện thành ý
chí, nguyện vọng riêng, đòi hỏi được tôn trọng và phản ánh.
Ba là: quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có tính bền
vững, lâu dài và có những đặc thù riêng, cụ thể là: Quyền và nghĩa vụ của các thành
viên trong gia đình được pháp luật về gia đình quy định gắn liền với với nhân thân
của mỗi chủ thể tùy thuộc vào vị trí, vai trò, lợi ích, trách nhiệm và bổn phận đạo
đức của chủ thể đó, không thể chuyển giao cho người khác được. Đồng thời, quyền
và nghĩa vụ tài sản trong quan hệ gia đình được pháp luật về gia đình quy định và
thực hiện trên thực tế cũng có những đặc điểm riêng, có quan hệ mật thiết với quyền
và nghĩa vụ về nhân thân, không đơn thuần dựa trên cơ sở hàng hoá-tiền tệ, không
mang tính chất đền bù ngang giá.
Bốn là: căn cứ làm phát sinh các quan hệ về gia đình là những sự kiện pháp
lý đặc biệt, có sự gắn bó chặt chẽ với các mối quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của
pháp luật gia đình về hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng.
Thứ hai, về nguồn pháp luật: Pháp luật về gia đình có hệ thống nguồn pháp
luật rất phong phú. Các quy phạm pháp luật về gia đình được ghi nhận trong rất
nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau bao gồm: Hiến pháp, Luật hôn nhân
và gia đình, Bộ luật dân sự, Luật giáo dục, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia
đình, các Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ về hướng dẫn, thi hành các luật nói
trên và về các vấn đề có liên quan...
Thứ ba, về phạm vi điều chỉnh: Pháp luật về gia đình có hệ thống các nguyên
tắc, quy phạm đặc trưng bao gồm: những quy định về chế độ hôn nhân và gia đình;
về những chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; về
quyền và trách nhiệm của gia đình, của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong
việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ ở Việt Nam. Chế độ
hôn nhân và gia đình là toàn bộ những quy định của pháp luật về kết hôn, ly hôn;
37
quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác
trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài và những vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình. Pháp
luật về gia đình đưa ra những chuẩn mực pháp lý cho các thành viên trên cơ sở kết
hợp hài hòa giữa lợi ích của cá nhân, gia đình và xã hội, thể hiện ý chí nhà nước về
sự kết hợp hài hòa giữa pháp luật với đạo đức và phong tục tập quán. Đồng thời,
pháp luật về gia đình còn có các quy định về trách nhiệm của nhà nước và xã hội
đối với hôn nhân và gia đình; về bảo vệ hôn nhân và gia đình; về các điều cấm, về
áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự, của các luật khác có liên quan và áp dụng
các tập quán về hôn nhân và gia đình trong trường hợp pháp luật về gia đình không
có quy định. Như vậy, phạm vi điều chỉnh của pháp luật về gia đình khá rộng, khá
linh hoạt và có liên quan tới nhiều lĩnh vực pháp luật khác.
Thứ tư, về mục đích: Pháp luật về gia đình quy định, xây dựng và bảo vệ một
trật tự pháp luật về gia đình hợp lý, bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích của cá nhân, gia
đình và xã hội; phản ánh, bảo vệ và bảo đảm các giá trị xã hội lớn như an toàn, bình
đẳng, tiến bộ, nhân ái, phát huy các giá trị đạo đức, các phong tục tập quá tốt đẹp
của các địa phương, dân tộc để điều chỉnh và hướng tới xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững
Thứ năm, về mối quan hệ của pháp luật về gia đình với pháp luật quốc tế: Ở
những mức độ khác nhau, pháp luật về gia đình còn phản ánh mối quan hệ giữa
pháp luật quốc gia và quốc tế trong lĩnh vực gia đình, phù hợp với xu hướng phát
triển chung pháp luật quốc tế về gia đình, hướng tới những mục tiêu chung về gia
đình của nhân loại trên thế giới.
Pháp luật về gia đình của Việt Nam phát triển phù hợp với các công ước,
điều ước quốc tế về gia đình. Mục tiêu điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ
xã hội về gia đình ở Việt Nam hướng tới chuẩn mực, giá trị cao đẹp, tiến bộ và văn
minh của nhân loại về gia đình.
2.1.3. Nội dung của pháp luật về gia đình
Pháp luật về gia đình là một bộ phận trong hệ thống pháp luật nói chung,
nhưng đồng thời với vị trí, vai trò là một lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, có những
38
đặc điểm riêng, có đối tượng và phương pháp điều chỉnh đặc thù, đến lượt mình,
pháp luật về gia đình cũng là một hệ thống có hình thức biểu hiện khá phong phú
với những bộ phận hợp thành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bao gồm:
Thứ nhất: Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về gia đình
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về gia đình là những nguyên lý, tư
tưởng chỉ đạo quán xuyến và xuyên suốt trong tổng thể hệ thống quy phạm pháp
luật về gia đình. Các nguyên tắc này bao gồm: 1) Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ,
một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; 2) Hôn nhân giữa công dân Việt Nam
thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn
giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; 3) Xây
dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn
trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con; 4)
Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi,
người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ
thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình;
5) Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
về hôn nhân và gia đình.
Thứ hai: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ về gia đình
Xét ở góc độ chung, hệ thống các quy phạm pháp luật về gia đình bao gồm
các nhóm lớn để điều chỉnh các nhóm quan hệ tương ứng là các quan hệ nhân thân
và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và các con và giữa những người
thân thích, ruột thịt khác trong gia đình; và nhóm quan hệ xã hội mà gia đình là chủ
thể. Quan hệ nhân thân là những quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành viên trong
gia đình về những lợi ích nhân thân. Đó là các quan hệ như: Quan hệ giữa vợ và
chồng về sự thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, về việc xác định chỗ ở chung,
quan hệ giữa cha mẹ và các con về việc xác định chế độ pháp lý nhân thân của con
chưa thành niên... Quan hệ tài sản là những quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành
viên trong gia đình về những lợi ích tài sản. Đó là những quan hệ như: Quan hệ cấp
39
dưỡng lẫn nhau giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và các con, giữa các thành viên khác
trong gia đình, quan hệ về sở hữu giữa vợ và chồng...
Xét ở mức độ cụ thể, hệ thống các quy phạm pháp luật về gia đình bao gồm
các nhóm quy phạm sau:
- Các quy định của Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản có giá trị pháp lý
cao nhất, những quy định của Hiến pháp là cơ sở để hình thành và phát triển hệ
thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về gia đình nói riêng. Các Hiến
pháp của nước ta đều có các quy định chung về những nguyên tắc, những giá trị mà
Hiến pháp và pháp luật bảo vệ và bảo đảm thực hiện, về các quyền cơ bản của con
người, quyền công dân và những quy định trực tiếp về gia đình là cơ sở cho việc
xây dựng và phát triển gia đình. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 có rất nhiều quy
định cụ thể về các nguyên tắc và về những quyền cơ bản của của con người, công
dân làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về gia đình. Ví
dụ, Điều 26 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt.
Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới...nghiêm cấm
phân biệt đối xử về giới”. Điều 36 quy định: “1. Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn.
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng và tôn trọng lẫn nhau. 2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền
lợi của người mẹ, trẻ em”. Điều 61, khoản 3 quy định: “Nhà nước, xã hội tạo môi
trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạn phúc; xây dựng con người
Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức
làm chủ, trách nhiệm công dân”...
- Các quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Đây là hệ thống các quy phạm
pháp luật chuyên ngành thể hiện một cách toàn diện và có hệ thống để điều chỉnh
các nhóm quan hệ cụ thể trong lĩnh vực gia đình. Ở Việt Nam, đó là các Luật hôn
nhân và gia đình được ban hành qua các thời kỳ: Luật hôn nhân và gia đình các năm
1959, 1986, 2000, 2014. Trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, hệ thống các
quy phạm pháp luật này được thể hiện trong 9 chương, 133 điều, với các nội dung
toàn diện và cụ thể bao gồm: Những quy định chung gồm 7 điều (từ Điều 1 đến
Điều 7); các quy định về kết hôn gồm 8 điều (từ Điều 8 đến Điều 16); các quy định
40
về quan hệ giữa vợ và chồng gồm 34 điều (từ Điều 17 đến Điều 50), quy định bình
đẳng về quyền giữa vợ và chồng, về tình nghĩa vợ chồng, bảo vệ quyền và nghĩa vụ
về nhân thân của vợ, chồng; Lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng, về tôn trọng danh
dự, nhân phẩm, uy tín, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; Quyền,
nghĩa vụ về học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội;
về đại diện giữa vợ và chồng; về chế độ tài sản của vợ chồng; các quy định về chấm
dứt ly hôn gồm 17 điều (từ Điều 51 đến Điều 67) quy định cụ thể về ly hôn, về yêu
cầu và trình tự, thủ tục giải quyết ly hôn; về nguyên tắc và cách thức giải quyết
quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng sau ly hôn; các quy định về mối quan hệ giữa
cha mẹ và con gồm 35 điều (từ Điều 68 đến Điều 102), quy định chi tiết về quyền
và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con, về xác định cha, me, con; các quy định về quan hệ
giữa các thành viên khác trong gia đình gồm 4 điều (từ Điều 103 đến Điều 106); các
quy định về cấp dưỡng gồm 14 điều (từ Điều 107 đến Điều 120); các quy định về
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài gồm 10 điều (từ Điều 121 đến
Điều 130); và, các quy định về điều khoản thi hành gồm 3 điều (từ Điều 131 đến
Điều 133).
- Các quy phạm được ghi trong các văn bản pháp luật khác có chứa các quy
định có liên quan để điều chỉnh quan hệ về gia đình. Ví dụ, các quy định có liên
quan được quy định trong Bộ luật dân sự, Luật giáo dục, Luật bảo vệ sức khỏe nhân
dân, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật bình đẳng giới, Luật phòng,
chống bạo lực gia đình... Về nguyên tắc, các quy định của Bộ luật dân sự và các luật
khác có liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình được áp dụng đối với quan hệ
hôn nhân và gia đình trong trường hợp Luật này không quy định.
- Các quy định được thể hiện trong các nghị định của Chính phủ để hướng
dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình hoặc để cụ thể hóa và bổ sung những quy
định cụ thể, cần thiết để kịp thời điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh trong lĩnh
vực gia đình như: Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Nghị định số
77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết
hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội; Nghị định số
41
87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày
10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân
và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (được sửa đổi, bổ
sung theo Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài); Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005
của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch; Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày
12/02/2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học; Nghị định số
32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật hôn
nhân và gia đình dối với các dân tộc thiểu số.
- Các quy phạm pháp luật về gia đình còn được thể hiện trong các văn bản
khác của các cơ quan có thẩm quyền như: Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT
ngày 3/1/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc
hội; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và ...thống vẻ vang, công
lao to lớn, tại trang
[truy cập ngày 12/8/2014].
2. Trần Thị Vân Anh (1994), Một số luận cứ xây dựng và hoàn thiện chính sách
xã hội đối với Phụ nữ và Gia đình trong giai đoạn hiện nay, Đề tài khoa
học cấp bộ, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội.
3. Lê Thị Tuyết Ba (1999), "Vấn đề bảo vệ các giá trị đạo đức trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam", Tạp chí Triết học, (1).
4. Ban Bí thư (1994), Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16/5/1994 về một số vấn đề công
tác cán bộ nữ trong tình hình mới, Hà Nội.
5. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2005), Chỉ thị số 49/CT-TW ngày 21/12/2005
khóa IX về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa”,
Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2007), Báo cáo
khóa IX trình Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ X, Hà Nội.
7. Ban Chấp hành Trung ương (2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014
của Ban Chấp hành Trung ương, khóa XI về xây dựng và phát triển văn
hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước,
Hà Nội.
8. Ban Chỉ đạo phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá tỉnh Tiền
Giang (2007), Văn bản hướng dẫn phong trào toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá, Tiền Giang.
9. Ban Luật pháp chính sách Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam (2007), Một số
thuật ngữ về giới và bình đẳng giới, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
10. Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, Hoạt động của cơ quan Trung ương Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hà Nội.
11. Mai Huy Bích (1993), Đặc điểm gia đình đồng bằng sông Hồng, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
153
12. Vũ Ngọc Binh (2012), Nhìn lại quá trình thực hiện Công ước CEDAW trong
hơn ba thập kỷ qua trên thế giới và Việt Nam cùng với các mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh, Chuyên gia
nghiên cứu về quyền con người của Liên Hợp quốc, Cần Thơ.
13. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục. Nxb Đồng Tháp.
14. Đỗ Thị Bình (1997), Gia đình ở đô thị trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện
đại hoá, Trung tâm Nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ ấn hành,
Hà Nội.
15. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu (2002), Số liệu điều tra cơ bản
về gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (khu vực miền Bắc), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Bộ Chính trị (2007), Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 về công
tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Hà Nội.
17. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Báo cáo số 119/BGDĐT-TCCB ngày
10/01/2011 về chuẩn bị báo cáo việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình
đẳng giới, Hà Nội.
18. Bộ Lao Động, Thương binh và Xã hội (2010), Thông tư số 23/2010/TT-
LĐTBXH quy định quy trình can thiệp, giúp trẻ em bị bạo lực, bị xâm hại
tình dục, Hà Nội.
19. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - UNICEF (2006), Kết quả điều tra Gia đình
Việt Nam năm 2006, Hà Nội.
20. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2008), Các kiến thức chung về gia đình, Hà Nội.
21. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2008), Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng,
Chương trình hành động của Chính phủ, của Bộ Văn hoá, Thể thao và
Du lịch về Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình, Hà Nội.
22. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2010), Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL
ngày 16/3 quy định chi tiết về thủ tục đăng ký hoạt động, giải thể cơ sở
hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực
gia đình, Hà Nội.
154
23. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Thông tư số 23/2011/TT/BVHTTDL
ngày 30/12/2011 Quy định thu thập, xử lý thông tin về gia đình và phòng
chống bạo lực gia đình, Hà Nội.
24. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Thông tư số 143/2011/TTLT/BTC-
BVHTTDL ngày 21/10/2011 Quy định chế độ quản lý và sử dụng kinh
phí ngân sách Nhà nước chi cho công tác phòng, chống bạo lực gia
đình; kinh phí ngân sách Nhà nước hỗ trợ các cơ sở hỗ trợ nạn nhân
bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình ngoài
công lập, Hà Nội.
25. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013), Văn bản quản lý nhà nước về gia
đình và công tác gia đình ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.
26. Bộ Y tế (2011), Báo cáo số 28/BC-BYT ngày 14/01/2011 tình hình thực hiện
Mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới từ tháng 3/2009- 12/2010, Hà Nội.
27. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Nguyễn Từ Chi (1991), "Nhận xét bước đầu về gia đình của người Việt",
trong: Liljestrom, R. & Tương Lai (Chủ biên), Những nghiên cứu xã hội
học về gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Chính phủ (2001), Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11 về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
31. Chính phủ (2002), Nghị định số 94/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân số
Gia đình và Trẻ em, Hà Nội.
32. Chính phủ (2006), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện bình đẳng giới 5 năm
(2001-2005) lần đầu tiên trình Quốc hội, Hà Nội.
33. Chính phủ (2008), Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg ngày 30/5 của Thủ tướng Chính
phủ về việc tổ chức triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình, Hà Nội.
34. Chính phủ (2009), Báo cáo số 63/BC-CP ngày 08/05/2009 việc thực hiện các
mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, Hà Nội.
155
35. Chính phủ (2009), Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 4/02 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình, Hà Nội.
36. Chính phủ (2009), Nghị định số 66/2009/NĐ-CP ngày 01/8/2009 về sửa đổi,
bổ sung một số điều Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24/11/2003 của
Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng, Hà Nội.
37. Chính phủ (2009), Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10/12 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình,
Hà Nội.
38. Chính phủ (2010), Báo cáo số 36/BC-CP ngày 20/4/2010 việc thực hiện các
mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2009, Hà Nội.
39. Chính phủ (2010), Báo cáo số 158/BC-CP ngày 22/10/2010 đánh giá tình
hình thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006-2010
và đề xuất danh mục các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn
2011- 2015, Hà Nội.
40. Chính phủ (2010), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, tại trang
www.chinhphu.vn, [truy cập ngày 30/2/2015]
41. Chính phủ (2011), Báo cáo số 23/BC-CP ngày 09/3/2011 của Chính phủ việc
thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2010, Hà Nội.
42. Chính phủ (2012), Báo cáo quốc gia lần thứ 7 và lần thứ 8 tình hình thực hiện
CEDAW giai đoạn 2004-2010 của Chính phủ Việt Nam gửi Ủy ban
CEDAW năm 2012 (theo Công văn số 6637/VPCP-KGVX ngày 28/8/2012
của Văn phòng Chính phủ về việc Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân phê
duyệt Báo cáo quốc gia lần thứ 7 và lần thứ 8), Hà Nội.
43. Phạm Thị Hải Chuyền (2012), "Báo cáo kết quả thực hiện CEDAW, mục tiêu
3 của Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và một số giải pháp thực hiện
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới ở Việt Nam", Hội thảo quốc tế
Nhóm Nữ đại biểu Quốc hội với Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới,
thành phố Nha Trang, Khánh Hòa.
156
44. CEDAW (2007), Bảng kiểm sử dụng Công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) trong hoạt động của Tòa án
nhân dân, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
45. CEDAW (2008), 25 năm thực hiện Công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) thực tiễn tại Việt Nam, Nxb
Hà Nội, Hà Nội.
46. Đinh Thu Cúc (1985), "Cách mạng tháng Tám và những thay đổi của người
phụ nữ nông dân đồng bằng Bắc Bộ", Báo Phụ nữ Việt Nam, (35+36).
47. Nguyễn Văn Cương (2012), Nghiên cứu căn cứ khoa học để xây dựng ngành
gia đình học ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
48. Ngô Thị Tuấn Dung (Chủ nhiệm) (2007), Những vấn đề lý luận cơ bản về
giới và kinh nghiệm giải quyết vấn đề giới ở một số nước trên thế giới,
Đề tài nghiên cứu cấp bộ, Viện Gia đình và giới - Viện Khoa học xã hội
Việt Nam, Hà Nội.
49. Vũ Thị Dung (2005), Phụ nữ Nhật Bản tụt hậu về bình đẳng giới, tại trang
www.vietbao.vn, [truy cập ngày 5/12/2014]
50. Hồ Ngọc Đại (1990), "Tam giác gia đình", Tạp chí Xã hội học, (3).
51. Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích từ ngữ luật học, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
52. Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam (2002), Luật cơ bản về phát triển của phụ
nữ, tại trang [truy cập ngày 12/8/2014].
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 9, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 11, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
157
57. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
59. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư Trung
ương về xây dựng gia đình Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Hà Nội.
60. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Đảng đoàn Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2009), Báo cáo số 51-BC/ĐĐ
ngày 11/6/2009 về Công tác cán bộ nữ sau 2 năm thực hiện Nghị quyết
11-NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện
đại hóa đất nước, Hà Nội.
63. Đảng đoàn Quốc hội (2012), Đề án số 257/ĐA-ĐĐQH13 ngày 4/5/2012 của
Đảng đoàn Quốc hội khóa XIII Quy hoạch đại biểu Quốc hội chuyên
trách và cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan của Quốc hội, Hà Nội.
64. Đoàn Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2010), Báo cáo số 64/BC-
ĐCT ngày 19/8/2010 đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại
hội phụ nữ toàn quốc lần thứ X, (phần báo cáo số liệu), Hà Nội.
65. Đoàn Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2011), Báo cáo số 11/BC-
ĐCT ngày 28/01/2011 về Kết quả công tác Hội năm 2010 và nhiệm vụ
năm 2011, Hà Nội.
66. Đoàn Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2011), Báo cáo số 68/BC-ĐCT-
TC ngày 31/8/2011 đánh giá kết quả tham gia bầu cử ĐBQH khóa XIII và
Đảng bộ Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011- 2016, Hà Nội.
67. Đỗ Thái Đồng (1990), "Gia đình truyền thống và những biến thái ở Nam Bộ
Việt Nam", Tạp chí Xã hội học, (3).
158
68. Trần Hàn Giang (2003), “Lịch sử phát triển của lý thuyết nữ quyền và lý
thuyết giới”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (6), tr.10.
69. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
70. Trần Thanh Hiển (2008), Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân ở
đồng bằng sông Cửu Long, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
71. Lê Như Hoa (2001), Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân
cách trẻ em, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
72. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Thông tin khoa học và Trung
tâm nghiên cứu quyền con người (1999), Vì quyền trẻ em và sự bình
đẳng của phụ nữ, Hà Nội.
73. Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I (Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh) (2008), "Vấn đề giới và bình đẳng giới ở Việt
Nam và một số nước trên thế giới", Thông tin chuyên đề, (4), Hà Nội.
74. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Tài liệu học
tập Môn học Nhà nước và pháp luật - Lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, tập 1, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
75. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2011), Tài liệu học tập Lý luận về
Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
76. Hội đồng bầu cử (2011), Báo cáo số 453/BC-HĐBC ngày 18/7/2011 Tổng kết
cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XIII và Đại biểu HĐND các cấp,
nhiệm kỳ 2011-2016 của Hội đồng bầu cử, Hà Nội.
77. Hội Liên hiệp phụ nữ Hà Nội (1989), Lịch sử phong trào phụ nữ Hà Nội
(1954-1987), Nxb Hà Nội, Hà Nội.
78. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ Liên khu
3 (2002), Lịch sử phụ nữ đồng bằng Bắc bộ trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (1946- 1955), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2002), Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
80. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2011), Tài liệu bồi dưỡng nữ ứng cử viên đại
biểu Quốc hội khóa XIII lần đầu tham gia ứng cử, Hà Nội.
81. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2012), Báo cáo đánh giá phong trào phụ nữ
và kết quả hoạt động Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhiệm kỳ 2007-
2012 và phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2012-2017, Hà Nội.
82. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2012), Nghị quyết của Bộ Chính trị về đổi
mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới,
Hà Nội.
83. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Phú Thọ (2008), Báo cáo về tình hình bạo lực gia
đình ở tỉnh Phú Thọ từ năm 2007-2012, Phú Thọ.
84. Lê Thế Huê (2007), Người cao tuổi và bạo lực gia đình, Hội Người cao tuổi
Việt Nam, Viện Nghiên cứu Người cao tuổi, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
85. Trần Thị Hương (2008), "Bình đẳng giới ở Vương quốc Na Uy", Thông tin
chuyên đề: Vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam và một số nước trên thế
giới, (4), Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tr.277.
86. Trần Đình Hượu (1996), "Gia đình và giáo dục gia đình", trong cuốn, Những
nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam của Tương Lai (Chủ biên),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
87. Đặng Cảnh Khanh (2003), Gia đình, trẻ em và sự kế thừa các giá trị truyền
thống Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
88. Trần Thị Quốc Khánh (2012), Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới ở
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
89. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hoá gia đình Việt Nam, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
90. Nam Khánh (2011), “Iceland - Thiên đường của phụ nữ”, Báo Phụ nữ Việt
Nam, ngày 26/9, tr.4.
91. Nguyễn Linh Khiếu (chủ biên) (2003), Gia đình trong giáo dục sức khỏe sinh
sản vị thành niên. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
160
92. Nguyễn Linh Khiếu (2007), “Nghiên cứu giới ở Việt Nam- Quá trình và xu
hướng”, Tạp chí Cộng sản, (3).
93. Nguyễn Thị Khoa (1997), Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường,
Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Gia đình và phụ nữ, Hà Nội.
94. Đặng Phương Kiệt (2006), Gia đình Việt Nam - các giá trị truyền thống và
những vấn đề tâm - bệnh lý xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.
95. Nguyên Lâm (2010), Nghị viện và bình đẳng giới: Anh: Khung pháp lý chặt chẽ
+ cơ chế giám sát phong phú, tại trang www.daibieunhandan.vn, [truy cập
ngày 15/10/2014].
96. Liên hợp quốc, Quỹ mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, Bộ Lao động - Thương
binh - Xã hội (2011), Hệ thống các văn bản qui định hiện hành về Bình
đẳng giới và Phòng, Chống bạo lực gia đình, Nxb Thời đại, Hà Nội.
97. Nguyễn Đình Lộc (2009), Cẩm nang pháp luật trong cuộc sống hằng ngày,
của Ban Tuyên giáo trung ương- Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
98. Vũ Mạnh Lợi, Vũ Tuấn Huy, Nguyễn Hữu Minh, Jennifer Clement (1999),
Bạo lực trên cơ sở giới: Trường hợp Việt Nam, chuẩn bị Báo cáo Nghiên
cứu chính sách toàn cầu và phát triển 1999, Hà Nội.
99. Vũ Mạnh Lợi (2000), "Một số quan điểm lý thuyết về giới trong nghiên cứu
gia đình", Tạp chí Xã hội học, (4), tr.12.
100. Vũ Mạnh Lợi (2007), "Quan niệm về gia đình của người Việt Nam - Nghiên
cứu trường hợp tại Yên Bai, Tiền Giang và Thừa thiên - Huế", Tạp chí
Xã hội học, (3).
101. Dương Thanh Mai (Chủ biên) (2004), Công ước của Liên Hợp quốc và
pháp luật Việt Nam về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
102. Dương Thanh Mai (2008), CEDAW và hệ thống pháp luật Việt Nam - 25
năm thực hiện Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử
chống lại phụ nữ (CEDAW) thực tiễn tại Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
103. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161
105. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Lê Minh (1997), Phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội, Nxb Lao động,
Hà Nội.
109. Nguyễn Hữu Minh, Đặng Bích Thủy (2009), Những vấn đề lý luận và thực
tiễn cơ bản về việc thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam trong giai đoạn
phát triển 2007-2020, Báo cáo kết quả đề tài cấp Bộ, Bộ Văn hóa - Thể
thao và Du lịch, Hà Nội.
110. Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Vân Anh (Đồng chủ biên) (2011), Nghiên cứu
gia đình và giới thời kỳ đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
111. Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Vụ phát
triển quốc tế Anh (DFID), Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA)
(2006), Báo cáo đánh giá tình hình giới ở Việt Nam,Hà Nội.
112. Huỳnh Thị Nhân (2007), Dạy nghề và tạo việc làm cho phụ nữ nhằm đáp
ứng nhu cầu công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, Báo cáo tham luận
tại Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ X, Hà Nội.
113. Níchkhăm (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội Liên hiệp
Phụ nữ ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới, Luận án Tiến sĩ Lịch sử,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
114. Hòa Ninh (2010), Thụy Điển - Thiên đường của bình đẳng giới, tại trang
www.phunuonline.com.vn, [truy cập ngày 20/2/2015].
115. Ph.Ăngghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà
nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.
116. Uyên Phi (2005), Phụ nữ Việt Nam ngày càng được đánh giá cao, tại trang
www.vietbao.vn, [truy cập ngày 20/2/2015].
117. Pratibha Mehta (2012), Phát biểu tại Hội thảo Nhóm nữ đại biểu Quốc hội
với chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, Ủy ban về các vấn đề xã hội
của Quốc hội, nhóm nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam và Liên Hợp quốc
tại Việt Nam tổ chức ngày 27-28/7/2012 tại thành phố Nha Trang, tỉnh
Khánh Hòa.
162
118. Đông Quan (2010), "Hoàn thiện và thực thi pháp luật về dân chủ, nhân
quyền", Báo Quân đội nhân dân, ngày 26/9.
119. Đặng Phùng Quân (1972), Từ điển Triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.
120. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp,
Hà Nội.
121. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Hình
sự, Hà Nội.
122. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật Bảo vệ,
chăm sóc trẻ em, Hà Nội.
123. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật Dân sự
năm 1995, sửa đổi năm 2005, Hà Nội.
124. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Bình đẳng
giới, Hà Nội.
125. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Phòng
chống bạo lực gia đình, Hà Nội.
126. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009) Luật phòng,
chống bạo lực gia đình năm 2007 và Nghị định hướng dẫn thi hành, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
127. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Viên chức,
Hà Nội.
128. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn nhân
và gia đình, Hà Nội.
129. Lê Thị Quý (1998), “Bất bình đẳng nam nữ nhìn từ góc độ lịch sử”, Tạp chí
Khoa học về phụ nữ, (2), tr.39.
130. Lê Thị Quý, Đặng Vũ Cảnh Linh (đồng chủ biên) (2007), Bạo lực gia đình -
một sự sai lệnh giá trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
131. Lê Thị Quý (chủ biên) (2010), Quản lý nhà nước về gia đình - lý luận và
thực tiễn, Nxb Dân trí, Hà Nội.
132. Lê Thị Quý (2011), Khoa học nghiên cứu về giới ở Việt Nam, những vấn đề đặt
ra, Báo cáo chuyên đề, Trung tâm nghiên cứu giới và phát triển, Hà Nội.
163
133. Nguyễn Cảnh Quý (2010), pháp luật bảo vệ phụ nữ, trẻ em nhằm phòng
chống bạo lực gia đình, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
134. Quỹ Phát triển phụ nữ Liên hợp quốc UNIFEM (2009), Các nhận xét và kết
luận về Việt Nam của Uỷ ban xóa bỏ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ,
Hà Nội.
135. Quỹ Phát triển phụ nữ Liên hợp quốc UNIFEM (2009), Nghiên cứu rà soát
văn bản pháp luật Việt Nam trên cơ sở quyền và giới qua lăng kính
CEDAW, Lê Thành Long chủ biên dịch, Hà Nội.
136. Quỹ Phát triển Phụ nữ Liên Hợp quốc (UNIFEM) (2009), Tuyển chọn các
khuyến nghị chung CEDAW, Hà Nội.
137. Quỹ Phát triển phụ nữ Liên hợp quốc (UNIFEM) và Cơ quan phát triển quốc
tế Canada (CIDA) (2009), Luật bình đẳng giới, Hà Nội.
138. Quỹ Phát triển Phụ nữ tại Việt Nam (UNIFEM) (2010), 15 năm thực hiện
cương lĩnh hành động Bắc Kinh và kết quả của phiên họp đặc biệt lần
thứ 23 Đại hội đồng Liên hợp quốc tại Việt Nam, Hà Nội.
139. Quỹ Phát triển phụ nữ Liên hợp quốc UNIFEM, CEDAW - Vì sự bình đẳng
phụ nữ, Hà Nội.
140. Dương Quỳnh (2010), “Trang phục ca sĩ, lại thấy cần chấn chỉnh”, Báo Thời
nay, (ấn phẩm của báo Nhân dân), (90).
141. Rea Abada Chingson (2009), CEDAW và pháp luật, Quỹ phát triển liên hợp
quốc ấn hành, Hà Nội.
142. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ (2012), Báo cáo tình hình thực
hiện nhiệm vụ phòng chống bạo lực gia đình năm từ năm 2009 đến năm
2012, Phú Thọ.
143. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ (2012), Báo cáo tổng hợp thông
tin về gia đình và phòng chống bạo lực gia đình năm 2012, Phú Thọ.
144. Nguyễn Văn Tân (2011), “Báo cáo Những vấn đề dân số mới nổi và định
hướng công tác dân số trong thời gian tới”, Hội thảo Nữ đại biểu Quốc
hội với vấn đề dân số và phát triển do Ủy ban về các vấn đề xã hội của
Quốc hội tổ chức, Hà Nội.
164
145. Văn Ngọc Thái (2012), “Tình hình đấu tranh, xử lý hoạt động môi giới hôn
nhân bất hợp pháp tại các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam”, Hội thảo phụ
nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài và phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em
qua biên giới do Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội phối hợp với
Nhóm nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam và UNDP tổ chức, Vĩnh Long.
146. Thái Thanh (2012), "Phụ nữ Bolivia xóa rào cản giới về chính trị", Tạp chí
Phụ nữ Việt Nam, (8).
147. Lê Thi (1998), Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam, Nxb Phụ
nữ, Hà Nội.
148. Lê Thi (chủ biên) (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi
mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
149. Minh Thy (2000), Nghị viện và bình đẳng giới: Thái Lan: Xác lập bình đẳng
giới trong Hiến pháp, tại trang www. đạibieunhandan.vn, [truy cập ngày
25/8/2014].
150. Hoài Thu (2010), “Nghị viện và bình đẳng giới: Thụy Điển: Họ đã làm thay
đổi những gì?”, Báo điện tử Đại biểu nhân dân, ngày 22/10.
151. Trương Thị Thu (chủ biên) (2006), Lịch sử Phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Hà
Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
152. Thủ tướng Chính phủ (1957), Nghị định số 338-TTg ngày 27/7/1957 ban
hành Bản điều lệ tạm thời về huy động và sử dụng dân công trong thời
kỳ kiến thiết hòa bình, Hà Nội.
153. Thủ tướng Chính phủ (2006), Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai
đoạn 2005 - 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội.
154. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 114/2008/QĐ-TTg ngày 22/8/2008
về kiện toàn Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Hà Nội.
155. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010
phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020,
Hà Nội.
156. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định 629/QĐ-TTg ngày 22/7/2013 về
việc phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến 2020 và tầm
nhìn 2030, Hà Nội.
165
157. Phạm Thị Thanh Thủy (2013), Thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình ở tỉnh Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
158. Vũ Ngọc Thủy (2012), Thực hiện cam kết quốc tế và pháp luật về bình đẳng
giới, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc
hội tổ chức, thành phố Cần Thơ.
159. Tổng cục Thống kê (2004), Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm
2004, Hà Nội.
160. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2011), Báo cáo số 02/BC-TLĐ
ngày 10/01/2011 về tình hình thực hiện bình đẳng giới năm 2009-
2010, Hà Nội.
161. Trần Hữu Tòng, Trương Thìn (chủ biên) (1997), Xây dựng gia đình văn hóa
trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162. Lê Trung Trấn (chủ nhiệm) (2003), Cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước
về gia đình, Đề tài cấp bộ, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Hà Nội.
163. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người - Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh (2002), Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
164. Trung tâm Nghiên cứu Thị trường và phát triển, Trung ương Hội liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam (2001), Bạo lực gia đình đối với phụ nữ Việt Nam,
Hà Nội.
165. Đào Thế Tuấn (1995), "Kinh tế học gia đình", Tạp chí Xã hội học, (1).
166. Tấn Tuấn (2008), Hỏi đáp về Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Nxb Văn
hoá - Thông tin, Hà Nội.
167. Nguyễn Ánh Tuyết (2008), Hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt
Nam, Luận án thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
168. UNFPA (2006), Bạo lực gia đình: Sự thay đổi ở Việt Nam kết quả và khuyến
nghị từ một dự án của UNFPA/SDC, Hà Nội.
166
169. UNFPA (2007), Phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam, Hà Nội.
170. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em Việt Nam (2002), Hôn nhân và gia đình
các dân tộc H’Mông và Dao, Hà Nội.
171. Uỷ ban Dân số, Gia đình và trẻ em (2004), Diễn đàn gia đình cấp Bộ trưởng
khu vực Đông Á lần thứ nhất, Kỷ yếu đề tài khoa học, Hà Nội..
172. Ủy ban nhân quyền của Liên hợp quốc (1996), Luật mẫu về bạo lực gia đình,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
173. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1979), Pháp lệnh về bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em, Hà Nội.
174. Ủy ban Văn hoá, giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội
(2007), Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đời
sống văn hoá ở cơ sở, Hà Nội.
175. Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội XI (2006), Luật phòng chống bạo lực
gia đình của một số nước trên thế giới, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
176. Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội (2009), Báo cáo số 1346/BC-
UBXH12 ngày 11/5/2009 khóa XII kết quả giám sát tình hình thực hiện
bình đẳng giới và việc triển khai thi hành Luật bình đẳng giới, Hà Nội.
177. Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội (2011), Báo cáo số 2894/BC-
UBXH12 ngày 18/3/2011 thẩm tra báo cáo của Chính phủ về việc thực
hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2010, Hà Nội.
178. Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội XI (2012), Báo cáo đánh giá 5 năm
thực hiện luật bình đẳng giới, Hà Nội.
179. Văn phòng Quốc hội (2002), Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
180. Lê Ngọc Văn (1996), Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
181. Lê Ngọc Văn (1999), "Phân công lao động theo giới trong gia đình ngư dân",
Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, (1).
182. Lê Ngọc Văn (2002), "Chức năng của gia đình", trong: Gia đình Việt Nam và
người phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
167
183. Lê Ngọc Văn (chủ biên) (2004), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối
với gia đình Việt Nam hiện nay, Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em,
Hà Nội.
184. Lê Ngọc Văn (2012), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
185. Viện Chủ nghĩa xã hội và Cơ quan phát triển quốc tế Canada (2007), Những
vấn đề Giới: Từ lịch sử đến hiện đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
186. Viện Gia đình và giới thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2012), Tài liệu
Nghiên cứu Gia đình và giới, quyển 22 số 01 và 02, Hà Nội.
187. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2007), Bình đẳng giới ở Việt Nam, Hà Nội.
188. Viện Nghiên cứu Gia đình và giới (1994), Gia đình và vấn đề giáo dục gia
đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
189. Viện Nghiên cứu lập pháp (Uỷ ban Thường vụ Quốc hội) (2010), Chương
trình mục tiêu quốc gia Dân số- kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2006-
2010- Một số kết quả đạt được và những vấn đề cấp bách đặt ra cần giải
quyết, Hà Nội.
190. Lâm Vũ (2008), Hôn nhân của người khuyết tật: Phụ nữ khó kết hôn hơn
nam giới gấp 3 lần, tại trang www.giadinh.net.vn, [truy cập ngày
20/2/2015].
191. Vụ Gia đình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2012), Báo cáo điều tra
thực trạng bạo lực gia đình, đề xuất giải pháp có tính đột phá nhằm
giảm thiểu bạo lực gia đình trong năm 2012 và giai đoạn 2012 - 2016,
Hà Nội.
192. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp (2004), Báo cáo Đánh giá
hệ thống chính sách và pháp luật Việt Nam hiện hành liên quan đến gia
đình - khuyến nghị hướng hoàn thiện, Hà Nội.
193. Trần Quốc Vượng (1991), Nho giáo và văn hóa Việt Nam, Trong cuốn Nho
giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
168
* Tài liệu tiếng Anh
194. Abdullahi A. An-Na'im (2002), Islamic Family Law in A Changing World, A
Global Resource Book Paperback.
195. Barbara Stark (2000), International family law, Ashgate Publishing Limited
Ashgate Publishing Company Gower House.
196. Marianne D. Blair, Merle H. Weiner, Barbara Stark, Solangel Maldonado
(2009), Family Law in the World Community: Cases, Materials, and
Problems in Comparative and International Family Law, Carolina
Academic Pres Law Casebook Series.
197. More Buying Choices (1978), The reform of family law in Europe,
Springer Science Business Media.
198. Stephen Cretney (2005), Family Law in the Twentieth Century: A History, Oxford.