HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM ĐỨC HOÀ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH
LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM ĐỨC HOÀ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH
LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA H
162 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỌC:
PGS.TS. QUÁCH SĨ HÙNG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi; các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án
là trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Phạm Đức Hoà
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT
VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 8
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 8
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 15
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề luận án
kế thừa 18
1.4. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 21
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG
CÁO 25
2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo 25
2.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo 51
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo 58
2.4. Pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở một số nước
trên thế giới và những giá trị có thể tham khảo cho Việt Nam 63
Chương 3: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP
LUẬT VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG
CÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 78
3.1. Quá trình phát triển của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam 78
3.2. Thực trạng pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở
Việt Nam hiện nay 80
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG
CÁO Ở VIỆT NAM 116
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam hiện nay 116
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam hiện nay 124
KẾT LUẬN 146
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 150
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cạnh tranh là quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường, đồng thời là
động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Để thúc đẩy cạnh tranh,
các doanh nghiệp đã áp dụng nhiều phương thức để truyền tải thông tin sản
phẩm của mình đến khách hàng, trong đó, quảng cáo được xem là hình thức
phổ biến hiện nay. Hoạt động quảng cáo không chỉ đơn thuần là một hành vi
thương mại, mà nó cũng là một biện pháp, một phương thức cạnh tranh không
thể thiếu trong kinh doanh. Những năm gần đây, quảng cáo trở nên thu hút sự
quan tâm rất lớn của các doanh nghiệp và nằm trong khâu chiến lược xúc tiến
hỗn hợp của marketing. Nó hỗ trợ cho hoạt động bán hàng đạt hiệu quả tốt
hơn theo đúng mục tiêu. Tuy nhiên, quảng cáo như thế nào lại là một vấn đề
cần được xem xét trong thời điểm hiện nay.
Thực tế cho thấy, trong lĩnh vực này đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
ảnh hưởng đến hoạt động cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế khác nhau, tác động xấu đến môi trường kinh doanh ở
Việt Nam, như: Nội dung quảng cáo không trung thực, sai lệch nhiều mặt,
dùng những hình ảnh, cử chỉ, lời nói gây phản cảm, vi phạm đạo đức truyền
thống Việc quảng cáo gian dối, sai sự thật, cạnh tranh không lành mạnh đã
và đang diễn ra khá phổ biến và gây ra nhiều hậu quả khôn lường. Bởi vậy, để
chấn chỉnh, đưa quảng cáo vào chuẩn mực, rất cần đến sự giám sát, điều
chỉnh hiệu quả của pháp luật.
Với tính chất phức tạp và đa dạng, các hành vi cạnh tranh, cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo không nằm ngoài phạm vi điều
chỉnh của Luật Cạnh tranh, được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 6
tháng 12/2004 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2005. Cụ thể, Luật Cạnh tranh
điều chỉnh các hành vi quảng cáo so sánh, quảng cáo bắt chước, quảng cáo
2
gian dối hoặc gây nhầm lẫn và các hoạt động quảng cáo bị pháp luật cấm
khác. Cùng với Luật Cạnh tranh, việc điều chỉnh hoạt động quảng cáo không
lành mạnh còn được thực hiện bởi Luật Thương mại, Luật Bảo vệ người tiêu
dùng, Luật Quảng cáo, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Dược, Luật Chất
lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Kinh doanh Bảo hiểm... và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, sự trùng lặp và chồng chéo về nội dung giữa
các văn bản pháp luật này đối với các hành vi quảng cáo không lành mạnh đã
và đang gây khó khăn cho việc tổ chức thực thi pháp luật thống nhất trên thực
tế. Trong khi đó, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành quảng cáo tại
Việt Nam, tình trạng quảng cáo không lành mạnh đã xuất hiện ngày càng
nhiều làm tổn hại đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp và đặc biệt là
quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng.
Cho đến nay, một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh năm
2004 được ban hành nhưng không có văn bản nào hướng dẫn việc áp dụng
pháp luật cạnh tranh về chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đặc
biệt là các quy định đặc thù để xử lý các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh. Luật Quảng cáo năm 2012 cũng không hướng dẫn cụ thể,
chi tiết về xử lý các hành vi quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành
mạnh. Luật này chỉ quy định các hành vi bị cấm trong hoạt động quảng cáo,
việc xử lý vi phạm trong hoạt động quảng cáo cũng quy định một cách chung
chung. Như vậy, cần nhận định rằng, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một
cơ chế thống nhất, đồng bộ trong việc xử lý có hiệu quả các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo...
Với các phân tích ở trên, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật và
cơ chế bảo đảm thi hành pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh gian dối,
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo có ý nghĩa quan trọng để vận dụng
trong công cuộc phát triển nền kinh tế, xây dựng môi trường cạnh tranh lành
mạnh trong kinh doanh ở nước ta. Đây là cơ sở để nghiên cứu sinh lựa chọn đề
3
tài “Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt
Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm Luận án Tiến sĩ luật học của mình tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích, làm rõ cơ sở lý luận hoàn
thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, đánh giá thực trạng
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam và đề ra quan
điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở
Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Phân tích khái niệm cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, khái niệm
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo; làm rõ những đặc điểm, vai
trò và nội dung của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo; nghiên
cứu các tiêu chí để xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật; các yếu tố ảnh
hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở
Việt Nam. Ở mức độ nhất định, luận án nghiên cứu pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo ở một số nước trên thế giới và rút ra những giá trị có
thể tham khảo ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay để khẳng định
những bước phát triển, những ưu điểm cần phát huy, đồng thời tìm ra những
hạn chế và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
- Đề xuất quan điểm và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
4
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Theo kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới cũng như thực tiễn pháp luật Việt Nam, pháp luật cạnh tranh như tên gọi
hiện nay bao gồm hai chế định chủ yếu là: (i) Pháp luật chống hạn chế cạnh
tranh, kiểm soát độc quyền; và (ii) Pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh. Điều chỉnh pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo chủ yếu là
nhằm hướng tới mục tiêu chống lại các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh và thuộc phạm vi của chế định pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh, bởi vậy, để làm sâu sắc hơn nội hàm đề tài nghiên cứu,
trong phạm vi luận án này, tác giả luận án tập trung nghiên cứu về chế định
pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo để đề
xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam hiện nay nhằm điều chỉnh và kiểm soát hiệu quả các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo.
Về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam chủ yếu từ khi Luật Cạnh tranh năm
2004 được ban hành cho tới nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận của đề tài luận án
Cơ sở lý luận của luận án là lý thuyết về kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước; đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện
trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ đại hội, đặc biệt là
đường lối, chính sách về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế; Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
5
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị.
4.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận án này, tác giả vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác –
Lênin. Bên cạnh đó, tác giả luận án còn sử dụng những phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng trong các chương 2,
3 và 4 để làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải
pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo;
- Phương pháp tiếp cận hệ thống được sử dụng trong các chương 2, 3 và
4 để làm rõ nội dung, vai trò, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp
luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, các yếu tố ảnh hưởng và các điều
kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở
Việt Nam.
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp lô gíc được sử
dụng ở các chương 2, 3, 4: Luận án nghiên cứu từng vấn đề trong mối quan hệ
chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, giữa quan điểm, đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước với thực tiễn thực hiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo.
Ba chương của luận án được nghiên cứu trong mối quan hệ lôgíc xuyên
suốt từ cơ sở lý luận đến thực trạng và quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp
luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong chương 1 để làm rõ tình hình
nghiên cứu, chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Phương pháp này
cũng được sử dụng ở chương 2 để so sánh các pháp luật về cạnh tranh trong
lĩnh vực quảng cáo của một số nước trên thế giới nhằm rút ra các bài học kinh
nghiệm vận dụng cho Việt Nam.
6
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Đây là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về hoàn
thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có những đóng góp mới về mặt khoa học
như sau:
- Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện các quan điểm, quan niệm về
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, luận án đã xây dựng khái
niệm khoa học pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, chỉ ra đặc
điểm, vai trò và nội dung của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo,
đồng thời, xây dựng các tiêu chí về nội dung và hình thức để xác định mức độ
hoàn thiện của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo; phân tích làm
rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, đánh giá tổng quát thực trạng các quy định pháp luật và
thực trạng áp dụng pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt
Nam, chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập của pháp luật cũng như trong cơ
chế áp dụng pháp luật và nguyên nhân.
- Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án đã đưa ra các quan
điểm và kiến nghị những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ
chế bảo đảm thi hành pháp luật cạnh trạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt
Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về mặt khoa học, luận án góp phần làm sáng tỏ thêm các vấn đề lý
luận của pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo phù hợp với điều kiện
thực tiễn của Việt Nam và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Những nghiên
cứu, đề xuất của luận án góp phần đáng kể vào việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật canh tranh cũng như cơ chế bảo đảm thi hành pháp luật cạnh
trạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam.
7
- Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham
khảo có giá trị trong công tác nghiên cứu lập pháp cũng như thực tiễn thi hành
pháp luật về cạnh trạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay. Luận
án cũng có thể là tài liệu giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo pháp
luật về cạnh trạnh trong lĩnh vực quảng cáo.
7. Bố cục của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo.
Chương 3: Quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT
VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về xây dựng và hoàn thiện pháp
luật cạnh tranh
Ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật nhằm đảm bảo để nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
phát triển, đã có một số công trình nghiên cứu bước đầu về pháp luật cạnh
tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh, như:
“Chuyên đề về cạnh tranh, chống cạnh tranh bất hợp pháp và kiểm soát
độc quyền” của tác giả Đặng Vũ Huân - Thông tin Khoa học pháp lý của Viện
Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, tháng 11/1996 và “Pháp luật về
kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam” sách
tham khảo của TS. Đặng Vũ Huân, Nxb. Chính trị Quốc gia năm 2004. Ở hai
công trình này, tác giả đã làm rõ các khái niệm về cạnh tranh, phân loại các
hành vi cạnh tranh, nhận diện các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp và xu thế
cạnh tranh dẫn đến độc quyền; chỉ ra các yêu cầu, định hướng cũng như mô
hình xây dựng pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát
độc quyền ở Việt Nam;
“Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay”
sách do PGS.TS. Nguyễn Như Phát và PGS.TS. Trần Đình Hảo làm chủ biên,
Nxb. Công an nhân dân năm 2001. Đây là công trình tập hợp các bài viết của
nhiều tác giả khảo cứu về kinh nghiệm xây dựng và thi hành pháp luật cạnh
tranh ở một số quốc gia trên thế giới; bàn luận về các chế định pháp luật cạnh
tranh như pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh, pháp luật chống cạnh tranh
9
không lành mạnh, thiết chế quản lý nhà nước về cạnh tranh đồng thời gợi
mở một số vấn đề về xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam;
Bên cạnh đó, cũng nhằm nhận diện và góp phần vào việc xây dựng
pháp luật về cạnh tranh ở Việt Nam, còn có một số công trình khác như: “Xây
dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền, Đại học Luật Hà
Nội, năm 2003; “Pháp luật và thiết chế chống cạnh tranh không lành mạnh”
- Chương 25 “Chuyên khảo Luật Kinh tế” của tác giả TS. Phạm Duy Nghĩa
(2004), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, (tr. 865 - tr. 883); “Pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam -
Lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Vũ
Quỳnh Lâm, năm 2004;
Sau khi Luật Cạnh tranh của Việt Nam được Quốc hội khóa XI thông
qua tại kỳ họp thứ 6 tháng 12/2004 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2005, đã có
thêm nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này nhằm bàn luận thêm về các
chế định của Luật Cạnh tranh và đặt ra các vấn đề cần quan tâm để đưa Luật
này vào cuộc sống như: “Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam”, sách tham khảo
của các tác giả Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, năm 2006; “Đưa pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
vào cuộc sống” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Tạp chí Luật học số 6/2006
(tr. 29 – tr. 35);
Nhằm phục vụ việc giảng dạy về Luật Cạnh tranh trong các cơ sở giáo
dục đại học, một số giáo trình về pháp luật cạnh tranh cũng được biên soạn
như: “Giáo trình Luật cạnh tranh” của TS. Tăng Văn Nghĩa, Đại học Ngoại
thương Hà Nội, Nxb. Giáo dục, năm 2009; “Giáo trình Luật cạnh tranh” của
Đại học Kinh tế - Luật do PGS – TS Lê Danh Vĩnh chủ biên ấn hành năm
2010; “Giáo trình Luật Cạnh tranh” của Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, năm 2012
10
“Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam”, Luận
án Tiến sĩ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2008. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện và sâu sắc về chế
định pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và đề xuất một số giải pháp
để thực thi chế định này trong bối cảnh Việt Nam chưa có văn bản pháp luật
nào hướng dẫn về thực thi chế định pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh. Tuy nhiên, các đề xuất của công trình này vẫn là các giải pháp chung,
trong khi đó, cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện ở tất cả các lĩnh vực của
nền kinh tế và cho đến nay, tình trạng thiếu văn bản hướng dẫn vẫn đang tồn
tại, gây khó khăn và rất nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng.
Sau 10 năm thực thi Luật Cạnh tranh năm 2004, Cục Quản lý cạnh
tranh, Bộ Công Thương đã thực hiện “Báo cáo rà soát các quy định của Luật
Cạnh tranh Việt Nam” và phối hợp với Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
thực hiện “Báo cáo rà soát Luật Cạnh tranh với pháp luật chuyên ngành”.
Qua hai báo cáo này cho thấy, Luật Cạnh tranh của Việt Nam đã trải qua 10
năm thực tiễn áp dụng, bước đầu đã có những chuyển biến trong việc tạo ra
môi trường pháp lý cạnh tranh bình đẳng, ngăn ngừa các hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thương
trường. Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh cũng đang bộc lộ rất nhiều bất cập trong
nhiều quy định pháp luật, đặc biệt là trong mối quan hệ với các Luật chuyên
ngành. Các báo cáo đã chỉ ra nhiều cơ sở thực tiễn để nghiên cứu nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay
Được đánh giá là “Hiến pháp của nền kinh tế thị trường”, nên Luật
Cạnh tranh phải được xem là luật gốc, điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh
tranh và cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực
của nền kinh tế. Khoản 1 Điều 5 Luật Cạnh tranh quy định, trường hợp có sự
khác nhau giữa quy định của Luật Cạnh tranh với quy định của Luật khác về
hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh thì áp dụng quy định
11
của Luật Cạnh tranh. Quy định này là nền tảng pháp lý giúp đảm bảo sự
tương thích, phù hợp và thống nhất của cả hệ thống pháp luật liên quan đến
vấn đề cạnh tranh. Căn cứ trên quy định này, sẽ rất hợp lý và đảm bảo sự phù
hợp, tính thống nhất cao trong cả hệ thống pháp luật nếu những văn bản pháp
luật (kể cả các luật sửa đổi, bổ sung) được ban hành sau khi Luật Cạnh tranh
có quy định dẫn chiếu đến pháp luật cạnh tranh nhằm điều chỉnh các hành vi
hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong các ngành, lĩnh
vực cụ thể đó. Hoặc nếu có xây dựng các điều khoản cụ thể trong pháp luật
chuyên ngành nhằm quy định điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh, hành
vi cạnh tranh không lành mạnh thì cần tham khảo các quy định về hành vi, về
hình thức và mức độ xử lý, về thẩm quyền và quy trình xử lý trong pháp luật
cạnh tranh để việc quy định không bị mâu thuẫn, chồng chéo, không có sự
khác biệt. Nếu điều đó được thực hiện, thì không chỉ giữa pháp luật cạnh
tranh và các pháp luật chuyên ngành có sự phù hợp, tương thích mà thông qua
đó đảm bảo sự thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật, tạo nên một môi
trường pháp lý thống nhất giúp tăng cường và đảm bảo hiệu quả kinh doanh
của các chủ thể trên thị trường.
Có thể nói, thông qua các nghiên cứu lý luận và thực tiễn về pháp luật
cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh đã công bố trong những năm
qua cho thấy, các vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật cạnh tranh, chống cạnh
tranh không lành mạnh đã được các tác giả nghiên cứu một cách tương đối có
hệ thống, bắt đầu từ các hành vi hạn chế cạnh tranh, các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề cạnh tranh. Ở
các mức độ khác nhau, các công trình nghiên cứu đều thể hiện sự cần thiết
phải có sự can thiệp của Nhà nước đối với hành vi cạnh tranh nói chung và
hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng. Sự can thiệp của Nhà nước
bằng pháp luật cần phải điều chỉnh hiệu quả các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh để bảo vệ người tiêu dùng, doanh nghiệp và đảm bảo sự công bằng
12
trong nền kinh tế. Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, cũng như học hỏi
kinh nghiệm pháp luật quốc tế, các công trình nghiên cứu trên đã xây dựng và
tạo lập được cơ sở lý luận về pháp luật cạnh tranh, chống cạnh tranh không
lành mạnh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam làm cơ sở cho các công
trình nghiên cứu về sau, cũng như góp phần vào việc nghiên cứu các luận cứ
khoa học để hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về xây dựng và hoàn thiện pháp
luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo
Các nghiên cứu về điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo cũng đã có nhiều luận văn, luận
án và các bài viết nghiên cứu đề cập như:
“Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng
cáo” Luận văn Thạc sĩ của tác giả Vũ Vân Anh, Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội, năm 2004; và “Điều chỉnh hoạt động quảng cáo trong khuôn khổ
pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả
Đoàn Tử Tích Phước, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007;
“Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh năm
2004” của tác giả Phùng Bích Ngọc đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 6/2013, (tr. 54 đến tr. 60) Ở các công trình nghiên cứu trên, dựa trên các
quy định của Luật Cạnh tranh, các tác giả đã tập trung làm rõ các vấn đề lý
luận về cạnh tranh trong hoạt động quảng cáo, pháp luật cạnh tranh điều chỉnh
quảng cáo trong nền kinh tế thị trường; đánh giá hiện trạng hoạt động quảng
cáo tại Việt Nam; luận giải về vấn đề điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, từ đó đề xuất các giải pháp thi
hành hiệu quả pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo, như điều chỉnh khái niệm cạnh tranh không lành mạnh, hoàn thiện
13
thủ tục và trình tự xử lý các vụ việc cạnh tranh, điều chỉnh chức năng nhiệm
vụ của cơ quan cạnh tranh và một số giải pháp khác
“Pháp luật về chống quảng cáo không trung thực ở Việt Nam và một số
nước trên thế giới” của PGS. TS. Nguyễn Bá Diến, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số tháng 10/1997. Bài viết này tác giả đã khái quát về thực trạng
quảng cáo không trung thực ở Việt Nam; kinh nghiệm chống quảng cáo
không trung thực ở một số nước trên thế giới và rút ra bài học trong chống
quảng cáo không trung thực cho Việt Nam.
“Pháp luật về kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn tại Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Phương Anh, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2012. Ở Luận văn này, tác giả trình bày một số vấn
đề lý luận của pháp luật về kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn; phân
tích thực trạng pháp luật về kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn và
thực tiễn áp dụng ở Việt Nam; thiết chế thi hành pháp luật về cạnh tranh và
pháp luật về kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn; từ đó, đề xuất một số
giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực thi hành pháp luật kiểm soát hành vi
quảng cáo gây nhầm lẫn ở Việt Nam.
“Áp dụng các quy định của Luật Cạnh tranh về quảng cáo so sánh và
một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn” của ThS. Nguyễn Thị Trâm, Tạp chí
Kiểm sát, số 9, tháng 05/2007; “Quảng cáo so sánh trong pháp luật cạnh
tranh – một nghiên cứu so sánh luật” của TS. Phan Huy Hồng, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số tháng 01/2007; “Quảng cáo dưới góc độ cạnh tranh”,
Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương, NXB. Lao động – Xã hội, Hà Nội,
năm 2008; “Một số vần đề về hành vi quảng cáo so sánh theo pháp luật Việt
Nam hiện nay” của tác giả Trương Hồng Quang, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số tháng 08/2010
Các công trình nghiên cứu trên tập trung nghiên cứu để nhận diện và
phân loại các hành vi quảng cáo so sánh và phương thức điều chỉnh của pháp
14
luật cạnh tranh đối với các loại quảng cáo này. Theo các tác giả, một quảng
cáo so sánh cho dù có trung thực, khách quan và đúng đắn đến mức độ nào đi
nữa thì cũng là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh và cần được ngăn
cấm bởi pháp luật cạnh tranh. Bởi lẽ, sự so sánh đã đi ngược lại với bản chất
của quảng cáo lành mạnh. Kinh tế học và pháp luật về quảng cáo đều khẳng
định những thông tin đưa ra cho khách hàng trong sản phẩm quảng cáo phải là
những thông tin về hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp thực hiện quảng cáo.
Mọi hành vi dùng thông tin về sản phẩm cùng loại của người khác để tạo ấn
tượng hoặc để đề cao sản phẩm của mình đều đi ngược lại bản chất của quảng
cáo. Hơn nữa, sự so sánh thể hiện tính chất hoặc mong muốn dựa dẫm vào sản
phẩm của của người khác, nhất là những sản phẩm nổi tiếng. Ví dụ, quảng cáo
cho rằng sản phẩm được quảng cáo có chất lượng không thua gì một sản
phẩm quen thuộc đối với người tiêu dùng hoặc một sản phẩm rất nổi tiếng
trên thị trường. Đồng thời, quảng cáo so sánh còn có thể nhằm đến mục tiêu
hạ thấp uy tín của sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác trên thị trường
liên quan hòng đề cao vị thế của mình. Vì vậy, pháp luật về cạnh tranh cần
phải xử lý có hiệu quả các hành vi quảng cáo so sánh nhằm bảo đảm môi
trường kinh doanh bình đẳng và lành mạnh
Sau khi khảo cứu các công trình khoa học đã công bố về xây dựng và
hoàn thiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam thời
gian qua cho thấy, các công trình này đã tiếp cận nghiên cứu về các hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, bước đầu làm rõ một số vấn đề
lý luận về pháp luật cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực quảng cáo, đồng thời cũng đã tìm hiểu thực trạng pháp luật và đề ra
phương hướng, quan điểm để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này; tăng
cường hiệu lực thi hành pháp luật để kiểm soát hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc nghiên cứu mới chỉ tập
trung vào việc điều chỉnh pháp luật đối với từng hành vi như quảng cáo so
15
sánh hoặc kiểm soát quảng cáo gây nhầm lẫn chưa làm rõ bản chất và tính
đặc thù của hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC
Theo pháp luật của các quốc gia và khu vực trên thế giới, vấn đề cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo được quan tâm là việc chống lại các hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh như quảng cáo so sánh, quảng
cáo gian dối, quảng cáo gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Pháp luật các nước cũng đã nghiên cứu và thực hiện điều chỉnh đối với các
hành vi này từ rất lâu thông qua các hiệp định, hiệp ước có tính khu vực và
được nội luật hóa trong pháp luật quốc gia. Hiện nay, hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh được Liên minh châu Âu điều chỉnh chính thức
bởi các văn bản: Chỉ thị số 84/450/EEC của Hội đồng Liên minh châu Âu
ngày 10/09/1984 về hài hòa các quy phạm pháp luật và quy định hành chính
của các nước thành viên về quảng cáo nhầm lẫn (từ đây gọi tắt là Chỉ thị
84/450/EEC); Chỉ thị số 97/55/EC của Nghị viện châu Âu và Hội đồng Liên
minh châu Âu ngày 06/10/1997 sửa đổi Chỉ thị 84/450/EEC nhằm bổ sung
quy định về quảng cáo so sánh (từ đây gọi tắt là Chỉ thị 97/55/EC); Chỉ thị
2002/65/EC và Chỉ thị 2005/29/EC sửa đổi hai Chỉ thị 84/450/EEC và Chỉ thị
95/77/EC; gần đây nhất là Chỉ thị 2006/114/EC ngày 12/12/2006 của Nghị
viện Châu Âu và Hội đồng Châu Âu hợp nhất các quy định đã được ban
hành và chỉnh sửa rải rác trong các văn bản trước. Đến nay các quốc gia
thành viên châu Âu đều đã nội luật hóa các quy định của hai Chỉ thị nêu trên
vào hệ thống pháp luật của từng quốc gia. Riêng quy định điều chỉnh các
hành vi quảng cáo so sánh đã được pháp luật các quốc gia tiếp nhận gần như
nguyên văn.
Ở Hoa Kỳ, các hành vi quảng cáo so sánh, gian dối hoặc gây nhầm lẫn
thuộc sự điều chỉnh của Đạo luật Lanham. Các hành vi quảng cáo hoặc
marketing thông thường gian dối hoặc gây nhầm lẫn gây thiệt hại cho tiêu
16
dùng nói chung thuộc sự quản lý của Ủy ban Thương ...ực hiện các hành vi cạnh tranh là
các chủ thể quảng cáo, trong đó, có thể là người quảng cáo (tổ chức, cá nhân
có yêu cầu quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình); hoặc là người
kinh doanh dịch vụ quảng cáo (tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình quảng cáo theo hợp đồng cung ứng dịch vụ
quảng cáo với người quảng cáo); hoặc là người phát hành quảng cáo (tổ chức,
cá nhân dùng phương tiện quảng cáo thuộc trách nhiệm quản lý của mình giới
thiệu sản phẩm quảng cáo đến công chúng). Các chủ thể này đã thực hiện các
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm lợi ích của
các đối thủ cạnh tranh và quyền lợi người tiêu dùng là đối tượng điều chỉnh
của pháp luật cạnh tranh, nhưng thuộc chế định pháp luật về chống cạnh tranh
không lành mạnh. Bởi vậy, việc điều chỉnh các hành vi loại này mang tính
chất của luật tư (dân luật) nhiều hơn [44, tr 45]. Các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật để xử lý khi nhận được cáo giác từ phía
người bị xâm hại (trong đó có doanh nghiệp bị cạnh tranh không lành mạnh
và người tiêu dùng xã hội).
Từ các phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm: “Pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các hành vi và quan hệ cạnh tranh
của các chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực quảng cáo, xác định các hành vi
quảng cáo bị coi là cạnh tranh không lành mạnh; quy định trách nhiệm pháp
lý của các chủ thể thực hiện hành vi; trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết,
các biện pháp chế tài được áp dụng nhằm mục đích đảm bảo để các hoạt
33
động cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo được diễn ra một cách công bằng,
bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo”.
2.1.2.2. Đặc điểm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo
Pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo là một bộ phận hợp
thành của hệ thống pháp luật, vì vậy, nó mang những đặc trưng cơ bản của
pháp luật nói chung như: Các quy định pháp luật là do Nhà nước ban hành và
bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của Nhà nước, có tính bắt buộc chung, tính
quy phạm phổ biến và tính hệ thống, phản ánh những nhu cầu khách quan, điển
hình, phổ biến và có tính công bằng đối với hoạt động cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo, điều chỉnh các mối quan hệ cạnh tranh phát sinh, tồn tại và phát
triển trong lĩnh vực quảng cáo. Tuy nhiên, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo là một lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, vì vậy, nó có những
đặc điểm riêng cơ bản sau:
Thứ nhất, về bản chất: Pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo là
một bộ phận của pháp luật cạnh tranh, thuộc chế định pháp luật về chống cạnh
tranh không lành mạnh, vì vậy, nó cũng mang những đặc điểm của pháp luật về
chống cạnh tranh không lành mạnh như: (i) Được tiếp cận từ mặt trái của hoạt
động cạnh tranh, tức là chỉ ra những hành vi bị ngăn cấm trong hoạt động cạnh
tranh; (ii) Quy định không triệt để về mặt nội dung, tức là pháp luật không thể
dự liệu triệt để toàn bộ các hành vi phản cạnh tranh tồn tại trong nền kinh tế.
Quy định của luật thường đặt ra điều khoản mở cho phép cơ quan có thẩm
quyền có thể bổ sung các hành vi mới xuất hiện có ảnh hưởng xấu đến cạnh
tranh và xét thấy cần điều chỉnh, ngăn chặn. Mặt khác, đối với các hành vi đã
được quy định trong luật, bên cạnh một số hành vi bị cấm đoán tuyệt đối,
nhiều hành vi khác được xem xét theo nguyên tắc hợp lý cho phép cơ quan xử
lý chiếu theo hoàn cảnh thực tế của vụ việc để cân nhắc xem xét hành vi có
xâm hại đến cạnh tranh và ảnh hưởng xấu cho xã hội hay không; (iii) Có tính
34
mềm dẻo và linh hoạt trong quá trình áp dụng pháp luật để xử lý hành vi vi
phạm và áp dụng các biện pháp chế tài.
Thứ hai, về mục đích điều chỉnh: Mục đích điều chỉnh của pháp luật
cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo là nhằm: (i) Ngăn chặn các hành vi
quảng cáo sai trái bằng việc quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các
chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo,
các chủ thể có căn cứ pháp lý để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình,
tránh vi phạm pháp luật và có thể tố giác hành vi vi phạm luật; (ii) Giải quyết
các tranh chấp phát sinh và xử lý vi phạm nhằm mục đích răn đe, giáo dục;
(iii) Xây dựng nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử trong kinh doanh và các hoạt
động liên quan đến quảng cáo; (iv) Xây dựng trật tự kinh doanh lành mạnh,
công bằng trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến khích cạnh tranh và phát triển
kinh doanh một cách lành mạnh thông qua việc bảo vệ quyền lợi của mọi chủ
thể kinh doanh, các đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng cũng như nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế.
Thứ ba, về phạm vi điều chỉnh: Phạm vi điều chỉnh pháp luật cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo là các quan hệ cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo
được pháp luật cạnh tranh điều chỉnh trong mối quan hệ với pháp luật quảng
cáo và pháp luật chuyên ngành khác có liên quan. Theo đó, phạm vi điều
chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo được xác định bởi các quan hệ giữa các chủ thể là Nhà nước, giữa
những người thực hiện dịch vụ quảng cáo và quan hệ với khách hàng phát
sinh bởi nhóm các hành vi quảng cáo so sánh, quảng cáo bắt chước và quảng
cáo gian dối, gây nhầm lẫn
Thứ tư, mối quan hệ của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng
cáo với pháp luật chuyên ngành: Pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo quy định và điều chỉnh các hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo, bên cạnh đó, các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
35
mạnh cũng được quy định trong các luật chuyên ngành như Luật Quảng cáo,
Luật Thương mại, Luật Dược, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật
Kinh doanh Bảo hiểm... và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, Luật
Cạnh tranh đã quy định, trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật
Cạnh tranh với quy định của luật khác về hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh
tranh không lành mạnh thì áp dụng quy định của Luật Cạnh tranh. Quy định
này là nền tảng pháp lý giúp đảm bảo sự tương thích, phù hợp và thống nhất
của cả hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề cạnh tranh. Vì vậy, việc xử lý
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo phải dẫn
chiếu áp dụng pháp luật cạnh tranh. Mặc dù vậy, nhưng trong quá trình áp
dụng pháp luật để xử lý vi phạm, Luật Cạnh tranh không có chế tài riêng mà
sử dụng chế tài của các ngành luật khác, bao gồm từ chế tài dân sự (bồi
thường thiệt hại) của Luật Dân sự, chế tài hành chính (buộc chấm dứt hành vi
vi phạm, phạt tiền) của Luật Hành chính, chế tài hình sự (áp dụng đối với các
hành vi vi phạm luật cạnh tranh đã hội đủ yếu tố cấu thành tội phạm) của Luật
Hình sự. Vì vậy, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo có mối liên
hệ chặt chẽ với pháp luật chuyên ngành.
2.1.3. Nội dung pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo
Sự tác động của quảng cáo đến đời sống kinh tế, xã hội là rất lớn, dù đó
là tác động theo hướng tiêu cực hay tích cực thì ảnh hưởng của nó đến nhà
sản xuất và người tiêu dùng đều không nhỏ. Bên cạnh những lợi ích mà quảng
cáo đem lại thì trong hoạt động quảng cáo cũng phát sinh những tác động tiêu
cực cần được ngăn chặn. Vì mục đích lợi nhuận mà các doanh nghiệp đã
quảng cáo không trung thực, gây nhầm lẫn để lừa dối khách hàng, gây phản
cảm đến người tiêu dùng và ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh. Có hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh với mục đích nói xấu, bôi
nhọa danh dự, uy tín của doanh nghiệp khác. Vì vậy, để đảm bảo trật tự xã
hội, đảm bảo lợi ích của nhà sản xuất, lợi ích của người tiêu dùng thì cần phải
36
có hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo, làm cho hoạt động này ngày càng hoàn thiện và có
hệ thống hơn. Pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo trước hết là một
bộ phận của pháp luật cạnh tranh, điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh trong
lĩnh vực quảng cáo, bao gồm các quy phạm pháp luật xác định hành vi quảng
cáo bị coi là cạnh tranh không lành mạnh; trách nhiệm pháp lý của các chủ thể
trực tiếp thực hiện hành vi; trình tự, thủ tục khiếu nại và thủ tục giải quyết,
các biện pháp chế tài được áp dụng đối với hành vi vi phạm Nội dung của
pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo bao gồm các bộ phận hợp thành
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cụ thể:
Thứ nhất, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo
(i) Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh: Quyền tự do kinh
doanh là quyền bất khả xâm phạm của chủ thể kinh doanh, sự tự do này
không phải là sự tự do tùy tiện mà nó phải nằm trong khuôn khổ pháp luật của
nhà nước trên tinh thần được làm những gì mà pháp luật không cấm. Tuy
nhiên, sự can thiệp của Nhà nước phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của
kinh tế thị trường, phải tôn trọng các quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường. Quyền tự do kinh doanh được thừa nhận và tôn trọng ở hầu hết các
nước trên thế giới, nó được coi là nguyên tắc hiến định của nhiều nước, trong
đó có Việt Nam. Quảng cáo là một hành vi kinh doanh, do vậy nguyên tắc này
cũng được coi là nguyên tắc xương sống của các quy phạm pháp luật điều
chỉnh những hành vi này.
(ii) Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể tham gia vào
hoạt động quảng cáo: Quyền bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể thể
hiện sự tự do ý chí của các chủ thể, được thể hiện trên hai khía cạnh: bình
đẳng khi tham gia vào các quan hệ kinh doanh và quyền bình đẳng khi giải
quyết các tranh chấp nảy sinh. Trong quan hệ pháp luật về quảng cáo, các chủ
37
thể tham gia vào quan hệ này bao gồm: (a) Quan hệ giữa chủ thể kinh doanh
có sản phẩm quảng cáo và Nhà nước. Trong mối quan hệ này, tính bình đẳng
thể hiện ở chỗ các nhà sản xuất đều được tham gia hoạt động quảng cáo của
mình như nhau, không ai được ưu đãi hơn về mặt số lượng, nội dung, thời
lượng quảng cáo Tất cả đều tuân thủ theo các quyền và nghĩa vụ mà pháp
luật quy định; (b) Quan hệ giữa chủ thể kinh doanh có hàng hóa, dịch vụ
quảng cáo và người tiêu dùng. Việc đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể
này là việc đảm bảo cho họ được tham gia vào quan hệ một cách trung thực,
mỗi bên đều phải có những quyền và nghĩa vụ tương ứng. Người tiêu dùng
được quyền thông tin đầy đủ về sản phẩm cần mua một cách trung thực, hay
nói cách khác, họ phải được tự do ý chí khi tham gia vào hợp đồng mua bán
hàng hóa, không bị lợi dụng do tác động của quảng cáo không trung thực.
(iii) Nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh: Nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo là khuyến khích quảng cáo trung thực, nghiêm cấm
các hành vi quảng cáo gian dối. Muốn thúc đẩy sản xuất phát triển chúng ta
cần phải đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại mà trong đó, quảng cáo
là một biện pháp mà các doanh nghiệp chú trọng. Nếu các doanh nghiệp thực
hiện quảng cáo một cách đa dạng và phong phú thì đó sẽ là con đường ngắn
nhất khiến người tiêu dùng có thể tiếp cận hàng hóa của các doanh nghiệp
một cách nhanh nhất. Từ đó, phát triển được sản xuất, lưu thông hàng hóa.
Việc khuyến khích quảng cáo phải được thực hiện đồng thời các quy định và
thiết chế đảm bảo cho hành vi này, việc nghiêm cấm các hành vi quảng cáo
gian dối, xây dựng và thực hiện các chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực này sẽ tạo một môi trường thuận lợi cho quảng cáo phát triển.
(iv) Nguyên tắc tôn trọng quyền sáng tạo của chủ thể quảng cáo: Đây
được coi là nguyên tắc đặc trưng cho lĩnh vực pháp luật này vì khi thực hiện
nguyên tắc tự do kinh doanh, các doanh nghiệp cũng sẽ có quyền quảng cáo.
Khi đó, chủ doanh nghiệp có quyền quảng cáo sản phẩm của mình theo những
38
cách mà họ cho là có hiệu quả nhất cho việc xúc tiến thương mại doanh
nghiệp. Hơn nữa, quảng cáo là một hành vi cạnh tranh đòi hỏi yếu tố bất ngờ,
đặc trưng, gây ấn tượng riêng cho khách hàng đối với sản phẩm. Sự sáng tạo
mang tính quyết định đến hiệu quả của việc quảng cáo, do vậy, quyền sáng
tạo của mỗi chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo cần được thừa nhận và
khẳng định trong môi trường quảng cáo cạnh tranh như hiện nay.
Thứ hai, các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
Một là, nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi quảng cáo so
sánh: Hành vi quảng cáo nhằm so sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình
với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác, có thể được hiểu là
khi thực hiện quảng cáo sản phẩm của mình, doanh nghiệp đã đưa ra những
thông tin có nội dung so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp
mình với sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác. Có thể phân chia hành vi
quảng cáo so sánh thành các mức độ như: (i) Quảng cáo so sánh để khẳng
định “chất lượng như nhau” là hình thức so sánh cho rằng, sản phẩm của
mình có chất lượng, có cung cách phục vụ hoặc tính năng giống như sản
phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác; (ii) Quảng cáo so sánh để khẳng
định “chất lượng tốt hơn” là hình thức quảng cáo cho rằng, sản phẩm của
người quảng cáo có chất lượng tốt hơn, cung cách phục vụ, hình thức, tốt
hơn sản phẩm của doanh nghiệp khác; (iii) Quảng cáo so sánh để khẳng định
“chất lượng tốt nhất” là hình thức quảng cáo khẳng định sản phẩm của doanh
nghiệp đang giữ vị trí số một trên thị trường bằng cách cho rằng, chất lượng,
mẫu mã, phương thức cung ứng của mình là tốt nhất hoặc khẳng định
rằng, không có bất cứ sản phẩm cùng loại nào trên thị trường có được
những tiêu chuẩn nói trên như sản phẩm của mình. Tùy từng mức độ so sánh
và tính chất trung thực của thông tin mà khả năng xâm hại cho đối thủ cạnh
tranh và cho khách hàng sẽ là khác nhau.
39
Pháp luật cạnh tranh ngăn cấm mọi hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp
mà không phân biệt giữa so sánh bằng nhau, so sánh tốt hơn và so sánh để
khẳng định là tốt nhất. Hành vi quảng cáo bị coi là quảng cáo so sánh nhằm
cạnh tranh không lành mạnh khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau đây:
(i) Sản phẩm quảng cáo đã đưa ra những thông tin khẳng định sản phẩm
được quảng cáo có các điều kiện thương mại như chất lượng, mẫu mã, số
lượng, giá cả, điều kiện mua bán... ngang bằng, tốt hơn hoặc tốt nhất so với
các sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác. Như vậy, các thông tin trong
sản phẩm quảng cáo không chỉ nói về sản phẩm được quảng cáo, mà còn đề
cập đến sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác (sản phẩm bị so sánh),
khẳng định sản phẩm được quảng cáo có chất lượng, mẫu mã, cung cách
phục vụ ngang bằng hoặc tốt hơn sản phẩm bị so sánh. Thông tin so sánh
có thể đúng hoặc không đúng. Với hành vi quảng cáo so sánh, những
thông tin so sánh đúng hoặc không đúng đều là cạnh tranh không lành mạnh.
Trong dấu hiệu này, có hai nội dung cần xác định: (a) Sản phẩm được quảng
cáo và sản phẩm bị so sánh phải là những sản phẩm cùng loại. Các sản phẩm
chỉ có thể được coi là cạnh tranh với nhau khi chúng cùng loại và các thông
tin trong quảng cáo khi nói đến hai sản phẩm cùng loại của hai doanh
nghiệp khác nhau thì mới là so sánh. Ngược lại, một sản phẩm quảng cáo
đưa ra những thông tin nói về hai loại hàng hoá, dịch vụ không cùng loại, thì
hành vi ấy được kinh tế học coi là quảng cáo liên kết, chứ không phải là so
sánh; (b) Sản phẩm bị so sánh phải là sản phẩm do doanh nghiệp khác sản
xuất hoặc kinh doanh. Nếu nội dung quảng cáo so sánh các sản phẩm cùng
loại do doanh nghiệp thực hiện việc quảng cáo kinh doanh như: So sánh sản
phẩm mới và sản phẩm trước đây để cho khách hàng thấy được tính năng của
sản phẩm mới, thì việc quảng cáo đó không coi là quảng cáo so sánh.
(ii) Hành vi quảng cáo so sánh phải là so sánh “trực tiếp” với sản phẩm
cùng loại của doanh nghiệp khác. Các thông tin quảng cáo sẽ là so sánh trực
40
tiếp nếu những hình ảnh, màu sắc, tiếng nói, chữ viết... được sử dụng trong
sản phẩm quảng cáo đủ để người tiếp nhận thông tin xác định được sản phẩm
bị so sánh. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đã gọi tên sản phẩm cạnh tranh,
doanh nghiệp cạnh tranh khi thực hiện quảng cáo so sánh, song cũng có trường
hợp doanh nghiệp chỉ sử dụng hình ảnh, tên gọi chung chung về sản phẩm
khác để so sánh. Nếu những hình ảnh, màu sắc, tiếng nói... cho thấy, đặc
trưng riêng có của sản phẩm bị so sánh mà không cần gọi tên cụ thể cũng cấu
thành việc so sánh trực tiếp. Với dấu hiệu này, có nhiều khả năng sau đây sẽ xảy
ra trong việc so sánh: (a) So sánh trực tiếp (xâm phạm trực tiếp đến đối thủ cụ
thể) có thể là việc doanh nghiệp vi phạm điểm mặt, chỉ tên sản phẩm và
doanh nghiệp cụ thể mà nó muốn so sánh đến; (b) Sự so sánh sẽ là trực tiếp
nếu như những thông tin đưa ra làm cho khách hàng có khả năng xác định
được loại sản phẩm, nhóm doanh nghiệp bị so sánh mà không cần phải gọi tên
các doanh nghiệp cụ thể nào.
Như vậy, quảng cáo so sánh được coi là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh bởi việc quảng cáo bằng cách so sánh trực tiếp với hàng hóa, dịch vụ
cùng loại của doanh nghiệp khác đã vượt quá giới hạn cho phép và nhiệm vụ
của hoạt động quảng cáo. Quảng cáo là việc doanh nghiệp giới thiệu về sản
phẩm để xúc tiến việc tiêu thụ sản phẩm nên những thông tin được đưa ra phải
là những thông tin về hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp thực hiện quảng
cáo. Mọi hành vi dùng thông tin về sản phẩm cùng loại của người khác để tạo
ấn tượng, đề cao sản phẩm của mình đều đi ngược lại bản chất của việc quảng
cáo. Bên cạnh đó, sự so sánh thể hiện mong muốn dựa dẫm vào sản phẩm của
người khác, nhất là những sản phẩm nổi tiếng. Ví dụ như quảng cáo cho rằng,
sản phẩm được quảng cáo có chất lượng không thua gì một sản phẩm quen
thuộc đối với người tiêu dùng hoặc một sản phẩm rất nổi tiếng trên thị trường
nhằm đề cao vị thế của mình, hạ thấp uy tín sản phẩm cùng loại của doanh
nghiệp khác trên thị trường liên quan [78, tr. 184].
41
Hai là, nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi quảng cáo bắt
chước: Hành vi bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác là để gây nhầm lẫn
cho khách hàng. Sản phẩm quảng cáo là những thông tin bằng hình ảnh, hành
động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng chứa
đựng nội dung quảng cáo, được trình bày thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng, pano, áp phích để đưa các thông tin mà nó chứa đựng đến với
khách hàng. Sự hấp dẫn của cách thức trình bày và nội dung trong sản phẩm
quảng cáo quyết định mức độ thu hút của nó đối với khách hàng làm cho mục
đích quảng cáo sẽ đạt được hiệu quả. Bên cạnh nâng cao năng lực cạnh tranh
qua giá cả và chất lượng, việc cạnh tranh qua hoạt động quảng cáo diễn ra rất
quyết liệt, đòi hỏi các sản phẩm quảng cáo của các doanh nghiệp ngày càng
đa dạng, hấp dẫn và có quy mô đầu tư ngày càng lớn. Chi phí dành cho quảng
cáo trong cơ cấu chi phí kinh doanh của doanh nghiệp cũng chiếm một tỷ lệ
không nhỏ. Sự lựa chọn ngày càng khắt khe của người tiêu dùng trong môi
trường cạnh tranh đa thông tin và đa phương tiện đã buộc mọi doanh nghiệp
phải biết cách xây dựng chiến lược đầu tư để tạo ra các sản phẩm quảng cáo
độc đáo, ấn tượng đối với khách hàng. Trước tình hình đó, xuất hiện nhiều
toan tính không lành mạnh bằng cách bắt chước sản phẩm quảng cáo của
người khác nhằm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Bắt chước chữ viết,
hình ảnh, màu sắc giống với sản phẩm của doanh nghiệp khác đã công bố
trước đó với mục đích gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc xuất
xứ, về chất lượng của sản phẩm được quảng cáo.
Loại quảng cáo bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm
lẫn cho khách hàng bị cấm nếu thỏa mãn hai điều kiện sau: (i) Về hành vi,
phải là hành vi bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác, tức là sao chép một
phần đáng kể hoặc toàn bộ các yếu tố cấu thành sản phẩm quảng cáo của
doanh nghiệp, thường là các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; (ii)
42
Về mục đích là nhằm gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp sản xuất
hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Ba là, nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi quảng cáo đưa
thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng: Đưa thông tin gian
dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung sau đây: (i)
Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản
xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người
gia công, nơi gia công; (ii) Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn
bảo hành; (iii) Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác. Đối tượng tác
động trực tiếp của các hành vi này là khách hàng bao gồm khách hàng hiện tại
và cả khách hàng tiềm năng của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Đối tượng tác
động gián tiếp là các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp
đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn. Nội dung quảng cáo là hành vi đưa
thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn về các thông tin liên quan đến giá, số
lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng Mục đích của hành vi là nhằm lừa
đối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng, qua đó tác động đến sức mua hàng
hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mình, đồng thời cạnh tranh không lành mạnh
với doanh nghiệp khác. Pháp luật cạnh tranh cấm doanh nghiệp thực hiện
hành vi
đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng trong
hoạt động quảng cáo về một trong các nội dung sau: Giá cả, số
lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày
sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản
xuất, người gia công, nơi gia công; cách thức sử dụng, phương thức
phục vụ, thời hạn bảo hành; và các nội dung gian dối hoặc gây nhầm
lẫn khác [61, tr.21].
Các thông tin về giá cả, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng,
chủng loại được liệt kê trong Luật Cạnh tranh là những thông tin có ý nghĩa
43
quan trọng tác động đến sự lựa chọn của khách hàng đối với sản phẩm quảng
cáo. Các thông tin bị sai lệch làm cho sự lựa chọn sẽ không chính xác. Hành vi
gian dối trong quảng cáo bằng cách làm sai lệch nhận thức, gây nhầm lẫn
trong ý thức lựa chọn của khách hàng đều là không lành mạnh.
Luật Cạnh tranh và Luật Quảng cáo đều có các quy định ngăn cấm việc
quảng cáo gian dối. Căn cứ các quy định của Luật Cạnh tranh, hành vi này có
hai cấp độ vi phạm: Đầu tiên là quảng cáo gian dối, cụ thể đó là việc doanh
nghiệp cung cấp các thông tin quảng cáo về giá, số lượng, chất lượng sai sự
thật khách quan. Với cấp độ này, để xác định hành vi, cơ quan có thẩm quyền
chỉ cần đối chiếu nội dung của thông tin quảng cáo với thực tế khách quan.
Tiếp đó là quảng cáo đưa thông tin nhầm lẫn. Quảng cáo gây nhầm lẫn là việc
chủ thể thực hiện quảng cáo đưa ra các thông tin có thể không hoàn toàn sai
lệch so với thực tế nhưng lại không đầy đủ, không rõ ràng làm cho người tiêu
dùng hiểu nhầm về hàng hoá, dịch vụ hoặc hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Cụ thể là việc doanh nghiệp cố ý cung cấp những thông tin có khả
năng gây nhầm lẫn cho khách hàng về giá cả, số lượng, chất lượng, công dụng
của sản phẩm, chẳng hạn như cung cấp thông tin thiếu sót, sai lệch,. Trong
trường hợp này, thông tin quảng cáo chưa là gian dối, song lại có thể làm cho
khách hàng hiểu không chính xác về nội dung quảng cáo với điều kiện
khách hàng đang trong trạng thái bình thường. Ranh giới giữa quảng cáo gây
nhầm lẫn và quảng cáo thông thường là không thật sự rõ ràng.
Quảng cáo nói chung đều nhằm đến mục đích đưa những thông tin về
sản phẩm, dịch vụ đến gần hơn với người tiêu dùng. Trong khi đó, các quảng
cáo gây nhầm lẫn thường cung cấp những thông tin mập mờ, không đầy đủ,
không rõ ràng, làm cho người tiêu dùng có những hiểu nhầm về hàng hóa,
dịch vụ của doanh nghiệp. Những thông tin này thường được các doanh
nghiệp "ngụy trang" bằng những hình thức tinh vi, phức tạp. Và với những
nhận thức thông thường của mình về sản phẩm, dịch vụ, người tiêu dùng khó
44
có thể phân biệt được đâu là những thông tin chính xác, đâu là những thông
tin gây hiểu nhầm. Bởi vậy, để xác định tính gian dối trong hành vi quảng
cáo, cần có quy trình thẩm định thông tin một cách khoa học và trung thực và
phải phân tích, so sánh tính đúng đắn của những thông số kinh tế - kỹ thuật liên
quan đến giá, sản phẩm.
Thứ ba, các quy phạm pháp luật quy định trình tự, thủ tục xử lý đối
với các hành vi vi phạm
Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận điều tra, xử lý vụ việc về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo là cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh (ở Việt
Nam là Cục Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương). Cơ quan quản lý nhà
nước về cạnh tranh có quyền tiến hành điều tra, xem xét, xử lý các vụ việc vi
phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo dựa trên cơ sở có đơn
khiếu nại về hành vi vi phạm của chủ thể kinh doanh đã thực hiện hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; hoặc qua quá trình kiểm tra,
kiểm soát việc thực hiện pháp luật về cạnh tranh phát hiện thấy vi phạm.
Trong quá trình điều tra, thẩm vấn, thụ lý hồ sơ, cơ quan quản lý nhà nước về
cạnh tranh có quyền yêu cầu các chủ thể kinh doanh có liên quan cung cấp
mọi thông tin cần thiết bằng văn bản, yêu cầu các cơ quan hữu quan cung cấp
các tài liệu phục vụ quá trình điều tra.
Trong trường hợp có các hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, cơ
quan quản lý cạnh tranh có quyền ra quyết định buộc chấm dứt hành vi vi
phạm và áp dụng các biện pháp chế tài theo quy định của pháp luật về cạnh
tranh. Trường hợp cấu thành tội phạm hình sự thì chuyển hồ sơ sang các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự để xử lý hình sự. Bên bị thiệt hại do hành vi vi
phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo gây ra có quyền khởi
kiện bên vi phạm ra Tòa án để đòi bồi thường thiệt hại dân sự. Trình tự, thủ
tục khởi kiện được thực hiện theo pháp luật về tố tụng dân sự.
Thứ tư, các quy phạm pháp luật quy định các biện pháp chế tài
45
Các biện pháp chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo bao gồm:
- Buộc chấm dứt thực hiện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh;
- Buộc phải hiệu chỉnh đối với nội dung quảng cáo sai sự thật;
- Phạt tiền (có thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung);
- Buộc phải bồi thường thiệt hại do hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh gây ra;
- Trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Tóm lại, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo rất phong
phú, sâu sắc và có tính đặc thù riêng. Hệ thống các nguyên tắc, quy phạm
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo được ghi nhận trong Luật
Cạnh tranh và trong các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành có liên quan một
cách toàn diện, có hệ thống và được bảo đảm thực hiện có hiệu quả, thể hiện
rõ sự tương tác giữa pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo với các
lĩnh vực pháp luật chuyên ngành khác và có sự liên quan mật thiết, đồng bộ.
2.1.4. Vai trò của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay thì nhu
cầu phát triển mạnh mẽ hoạt động quảng cáo là xu thế tất yếu, đa số các
doanh nghiệp sử dụng phương tiện quảng cáo như là công cụ hữu hiệu để tiếp
cận thị trường nhằm quảng bá sản phẩm để thu hút khách hàng và cạnh tranh
đối với các doanh nghiệp đối thủ để thu hút khách hàng. Tuy nhiên, bên cạnh
những tác động tích cực, thì cũng nảy sinh những hiện tượng vi phạm pháp
luật về cạnh tranh trong hoạt động quảng cáo, lợi dụng việc quảng cáo để
gièm pha bôi nhọ doanh nghiệp khác hoặc nhằm mục đích cạnh tranh không
lành mạnh đưa ra các quảng cáo không trung thực để lừa dối khách hàng, ảnh
hưởng mạnh mẽ đến quyền lợi hợp pháp của các đối thủ cạnh tranh và người
46
tiêu dùng xã hội. Vì vậy, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo có
vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh phát
sinh trong lĩnh vực quảng cáo. Vai trò của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo được thể hiện như sau:
Một là: Pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo là phương
tiện để thể chế hoá quan điểm, chủ trương của Đảng về tạo lập môi trường
kinh doanh lành mạnh và cạnh tranh bình đẳng, minh bạch
Pháp luật luôn phản ánh đường lối, chủ trương của Đảng, thể chế hóa
đường lối, chủ trương ấy thành các quy định chung thống nhất trên quy mô
toàn xã hội. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như
công tác tổ chức và thực hiện pháp luật phải thấm nhuần các quan điểm của
Đảng. Các văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội đều khẳng định chủ trương
phát triển, hoàn thiện các loại hình thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ
pháp lý và thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự,
kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn
chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Bên cạnh đó, Nghị quyết Đại hội lần
thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ ra rằng: “Hoàn thiện hệ
thống pháp luật bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch của doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế là một trong những nội dung quan trọng nhằm
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”[24, tr.67].
Trên thực tế, thị trường luôn nảy sinh những biểu hiện tiêu cực từ cạnh
tranh. Do những thôi thúc từ nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận, bằng những toan
tính không phù hợp với truyền thống kinh doanh lành mạnh, những biểu hiện
tiêu cực đó đã xâm hại trật tự kinh doanh, đe dọa hoặc xâm hại trực tiếp đến
lợi ích của đối thủ cạnh tranh hoặc của người tiêu dùng. Với tư cách là lĩnh
vực pháp luật đặc thù của nền kinh tế thị trường, pháp luật cạnh tranh được
ban hành nhằm bảo vệ hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo bằng
47
cách chống lại các hành vi cạnh tranh k...uy trình phức tạp và phải bảo đảm tuân thủ
các yêu cầu chặt chẽ khác nhau tùy thuộc vào thể chế và quan điểm của mỗi
quốc gia, mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử và những điều kiện kinh tế - xã
hội thực tại. Tuy nhiên, dù quy trình nào hay thể chế nào thì các nguyên tắc
nguyên nghĩa của pháp luật cũng phải được tôn trọng và nhằm thực hiện mục
tiêu vì con người, hướng tới xây dựng một xã hội, một quốc gia phồn vinh và
văn minh. Chính vì vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới
sâu rộng và xu hướng dân chủ hóa, minh bạch trong quản lý nhà nước hiện
nay đã và đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi các nhà lập pháp, các nhà
hoạch định chính sách phải đổi mới nhiều hơn nữa không chỉ về nội dung của
pháp luật, hệ thống pháp luật mà còn cả quy trình lập pháp để bảo đảm sự
tham gia nhiều hơn của các chủ thể trong xã hội, huy động tối đa sáng kiến, trí
tuệ của mọi công dân, tổ chức trong xã hội.
4.2.3. Tăng cường tính công khai, minh bạch và sự tham gia đóng
góp ý kiến của nhân dân, của đối tượng điều chỉnh, đối tượng chịu sự tác
động của văn bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo
Trong những năm gần đây, mặc dù quy trình xây dựng pháp luật không
còn khép kín, hoạt động triển khai lấy ý kiến của người dân, doanh nghiệp đã
được thực hiện rộng rãi, công khai, tuy nhiên vẫn chưa đi vào thực chất.
Doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xây dựng chính sách và pháp luật còn
rất hạn chế, xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: Việc lấy ý kiến đối với dự
140
thảo nhiều khi mang tính hình thức; không giải trình công khai minh bạch về
các ý kiến nhận được; lấy ý kiến một lần và không lấy ý kiến khi có thay đổi
quan trọng liên quan đến nghĩa vụ doanh nghiệp
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 thể hiện rõ quan điểm: “ Bảo đảm để nhân dân tích cực tham
gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật” và một trong các giải pháp quan
trọng được nhấn mạnh vai trò của các đơn vị nghiên cứu, khuyến khích cơ chế
thu hút “các hiệp hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các
chuyên gia giỏi” tham gia hoạch định chính sách, pháp luật ở tất cả các quá
trình lập pháp cũng như xác định cơ chế phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến.
Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định khá cụ thể nguyên tắc về quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân.
Để cơ chế tham vấn hiệu quả hơn, trong quá trình xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo phải có sự tham
gia của các chủ thể liên quan đến văn bản đó, cụ thể là các doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực quảng cáo. Từ các ý kiến tham vấn của doanh nghiệp,
Chính phủ sẽ xem xét những văn bản chưa có tính khả thi đối với doanh
nghiệp trong lĩnh vực này để tránh tình trạng phải sửa đổi khi văn bản đã đi
vào cuộc sống. Về nguyên tắc, dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật sẽ
được xin ý kiến góp ý, phản biện của tất cả các đối tượng chịu tác động của
văn bản đó. Từng cá nhân, pháp nhân đều có thể tự mình nêu các ý kiến góp
ý, phản biện hoặc thông qua tổ chức đại diện của mình.
Chúng ta cần đổi mới cách thức và phương pháp huy động sự tham gia
của doanh nghiệp vào quá trình xây dựng chính sách pháp luật, trong đó tập
trung vào việc tăng cường năng lực đóng góp ý kiến, phản biện chính sách
của doanh nghiệp thông qua các buổi tập huấn chuyên sâu; mở rộng đối tác
lấy ý kiến; thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp giữa cơ quan
141
nhà nước với doanh nghiệp để truyền tải trực tiếp ý kiến của các doanh
nghiệp, chuyên gia, nhà hoạt động thực tiễn về các vấn đề chính sách hoặc dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật; phát huy vai trò của báo chí trong xây dựng
chính sách, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo
Quyền tham gia xây dựng pháp luật là biểu hiện cụ thể của quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội. Trong điều kiện mở rộng dân chủ và xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân thì sự tham gia của tổ chức xã hội vào quá trình xây dựng pháp luật
là một trong những điều kiện cần thiết để đảm bảo cho pháp luật phản ánh
được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Sự tham gia của công dân, tổ chức xã
hội vào quá trình xây dựng pháp luật cũng chính là cơ hội để tuyên truyền,
phổ biến chính sách, pháp luật, hay nói khác đi đó cũng là quá trình để các
bên hiểu nhau và vận động sự ủng hộ lẫn nhau trong việc thiết lập một cơ chế,
khuôn khổ mang tính pháp lý chung đối với xã hội. Bên cạnh đó, với chức
năng vốn có của các tổ chức xã hội, cũng như theo kinh nghiệm của nhiều
nước, việc tham gia của tổ chức xã hội trong quá trình xây dựng pháp luật rõ
ràng là một sự giám sát khách quan, hữu hiệu đối với các quá trình trong quy
trình lập pháp và các bên tham gia lập pháp - điều này cũng thể hiện xu hướng
tất yếu của xã hội dân chủ hiện đại dù ở bất kỳ thể chế nào.
4.2.4. Nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và quần
chúng nhân dân về pháp luật về cạnh tranh nói chung và pháp luật về
cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo nói riêng
Mặc dù đã trải qua 30 năm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hơn 10 năm Luật Cạnh tranh năm 2004 đi vào cuộc sống,
song nhận thức của quần chúng xã hội nói chung và cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam nói riêng về vấn đề cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh vẫn còn rất hạn
chế. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cạnh tranh chưa được chú trọng
nhiều. Một số cơ sở đào tạo về pháp luật và kinh tế có đưa vào nội dung
142
chương trình đào tạo pháp luật cạnh tranh, song mới chỉ dừng lại ở những vấn
đề mang tính khái quát. Thực tế hiện nay, Việt Nam đang thiếu những chương
trình phổ biến, giáo dục pháp luật về cạnh tranh mang tính tổng thể, cơ bản.
Cũng bởi vậy, khái niệm cạnh tranh trong kinh doanh vẫn chỉ là khái niệm
truyền miệng nhưng rất ít người hiểu nó một cách tường tận, kể cả cộng đồng
các doanh nghiệp, cho dù nó được coi như là một phần rất quan trọng của
chiến lược kinh doanh. Theo một khảo sát do Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ
Công thương thực hiện mới đây cho thấy, về tổng thể, nhận biết mới dừng lại
ở mức độ “biết Luật Cạnh tranh đã được ban hành”. Các đối tượng được hỏi
cũng biết được sơ bộ các khái niệm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
hành vi hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên số doanh nghiệp hiểu chi tiết về Luật
Cạnh tranh như biết về các hành vi bị ngăn cấm, mức phạt, thủ tục khiếu nại
và giải quyết vụ việc cạnh tranh còn khá khiêm tốn. Khi nhận thức về Luật
còn chưa cao, nhận thức về cơ quan quản lý cạnh tranh cũng còn thấp, điều
này đã được khảo sát kiểm chứng.
Trong số 500 doanh nghiệp được khảo sát, chỉ 1,6% doanh nghiệp hiểu
rõ về Luật Cạnh tranh, trong khi đó có tới 92,8% doanh nghiệp “chưa hiểu rõ”
về Luật này. Ngoài ra, có tới 32% số doanh nghiệp không biết Cục Quản lý
cạnh tranh là cơ quan nào; chưa tới 28% doanh nghiệp có bộ phận pháp chế
để xử lý các vụ việc liên quan đến tranh chấp pháp lý và cạnh tranh không
lành mạnh [14] Trong khi đó, quảng cáo là một phần vô cùng quan trọng
đối với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp và hoạt động quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh đang ngày càng có xu hướng gia tăng. Số
vụ việc bị điều tra liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành luôn luôn đứng đầu danh sách các vụ việc về cạnh tranh không lành
mạnh bị khởi xướng điều tra.
Do thiếu kiến thức pháp luật về cạnh tranh, nên các doanh nghiệp, các
chủ thể kinh doanh thường hay thực hiện hoạt động cạnh tranh một cách tự
143
phát, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm thương trường. Vì vậy, các cơ quan chức
năng cần có nhiều biện pháp đa dạng để tuyên truyền pháp luật cạnh tranh
rộng rãi đến các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp và các chủ
thể kinh doanh.
Đối tượng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh chủ yếu nên hướng tới là cộng đồng doanh nghiệp. Nội
dung tuyên truyền cần giúp các doanh nghiệp nhận diện rõ những hành vi bị
coi là cạnh tranh không lành mạnh và quyền khiếu nại, khởi kiện của doanh
nghiệp bị xâm hại, các hình thức chế tài có thể được áp dụng đối với doanh
nghiệp có hành vi vi phạm. Các nội dung khác như trình tự, thủ tục khiếu nại,
khởi kiện đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, phạm vi chứng minh,
kinh nghiệm xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng cần được tuyên
truyền, phổ biến.
Để Luật Cạnh tranh đi vào cuộc sống, phát huy được vai trò của nó
trong mọi mặt hoạt động của nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh nước ta
đang hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế quốc tế, trước hết phải tăng cường tuyên
truyền, phổ biến Luật Cạnh tranh. Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng cần liên
tục rà soát nhằm sửa đổi những điểm bất cập, bổ sụng và hoàn thiện pháp luật;
các thủ tục khi doanh nghiệp muốn khiếu nại cũng cần phải đơn giản, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải
quyết các vụ việc liên quan đến cạnh tranh.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, cho phép đưa ra những quan
điểm và giải pháp để hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng
cáo. Trong chương này, luận án đã luận giải 4 quan điểm hoàn thiện pháp luật
về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, bao gồm: Hoàn thiện pháp luật cạnh
144
tranh trong lĩnh vực quảng cáo cần phải phù hợp với quan điểm hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế; hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo phải
đáp ứng các tiêu chí hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm cạnh tranh công
bằng, lành mạnh giữa các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế;
hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo cần quan tâm coi
trọng công tác tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật và công tác rà soát, hệ
thống hóa pháp luật; và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng
cáo cần đảm bảo nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của cơ quan
quản lý cạnh tranh
Từ các quan điểm hoàn thiện ở trên, luận án đã đề xuất các nhóm giải
pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, bao gồm:
Hoàn thiện nội dung pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo; đổi
mới quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo; tăng cường tính công khai, minh bạch và sự tham gia đóng góp ý
kiến của nhân dân, của đối tượng điều chỉnh, đối tượng chịu sự tác động của
văn bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo; nâng cao
nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và quần chúng nhân dân về pháp luật
về cạnh tranh nói chung và pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo
nói riêng.
145
KẾT LUẬN
Sau khi thực hiện nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay”, cho phép rút ra những
kết luận sau:
1. Cạnh tranh là quy luật rường cột của kinh tế thị trường và xảy ra ở
mọi lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó có lĩnh vực quảng cáo. Qua việc nghiên
cứu tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề hoàn thiện
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay cho
thấy, pháp luật về cạnh tranh nói chung và pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo nói riêng là vấn đề đã được các nhà khoa học trong và ngoài
nước quan tâm nghiên cứu ở nhiều phương diện khác nhau. Đã có nhiều công
trình nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật cạnh tranh, chống cạnh tranh không
lành mạnh... Ở mức độ nhất định, một số công trình trong nước đã phân tích cơ
sở lý luận và thực trạng pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực quảng cáo hoặc các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh theo Luật Cạnh tranh năm 2004. Một số công trình đã làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn pháp luật điều chỉnh các hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn
hoặc quảng cáo so sánh, áp dụng các quy định của Luật Cạnh tranh về quảng
cáo so sánh sau khi Luật Cạnh tranh năm 2004 được ban hành. Mặc dù
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về hoàn
thiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, song kết quả nghiên cứu
của các công trình đã công bố được coi là nguồn tài liệu quan trọng để tác giả
luận án kế thừa, tham khảo trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án
của mình.
2. Pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo là một bộ phận của
pháp luật về cạnh tranh, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các hành vi và quan hệ cạnh tranh
146
của các chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực quảng cáo, xác định các hành vi
quảng cáo bị coi là cạnh tranh không lành mạnh; quy định trách nhiệm pháp
lý của các chủ thể thực hiện hành vi; trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết,
các biện pháp chế tài được áp dụng nhằm mục đích đảm bảo để các hoạt động
cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo được diễn ra một cách công bằng, bảo vệ
môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo. Việc nghiên cứu,
chỉ ra các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo
có ý nghĩa hết sức quan trọng, trong đó, có các tiêu chí về nội dung và tiêu chí
hình thức là những tiêu chí cơ bản để đánh giá mức độ hoàn thiện về nội dung
của hệ thống pháp luật. Đồng thời, việc xem xét hình thức của văn bản thông
qua trình độ, kỹ thuật xây dựng văn bản pháp luật về cạnh tranh cũng là một
yêu cầu thiết yếu để hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng
cáo. Qua nghiên cứu pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo của một
số nước, luận án rút ra một số bài học có giá trị tham khảo đối với Việt Nam
hiện nay về xác định đối tượng điều chỉnh, về phạm vi và nguyên tắc điều
chỉnh cũng như việc áp dụng các hình thức xử lý đối với các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo.
3. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về cạnh tranh trong
lĩnh vực quảng cáo thực sự được bắt đầu từ khi Luật Cạnh tranh năm 2004
được ban hành và có hiệu lực đi vào cuộc sống. Trong thời gian qua cho thấy,
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam đã đạt được
những thành tựu bước đầu như: Thể chế hóa các quan điểm, đường lối của
Đảng về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, tích cực xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; chú trọng tính phù hợp
với thực tiễn điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, tương thích với các công
ước, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tạo cơ sở pháp lý cho việc
thực hiện pháp luật nhằm chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
147
trong lĩnh vực quảng cáo, đóng góp vào sự phát triển kinh tế, sự ổn định và
phát triển của xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, về nội
dung điều chỉnh, pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo còn tồn tại
một số hạn chế, đó là một số quy định chưa rõ ràng, khó thực hiện; một số quy
định không hợp lý; chưa đầy đủ; một số quy định về thủ tục rườm rà, phức tạp,
khó thực hiện.
4. Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, cho phép đưa ra những quan
điểm và giải pháp để hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng
cáo. Trong chương này, luận án đã luận giải 4 quan điểm hoàn thiện pháp luật
về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, bao gồm: Hoàn thiện pháp luật cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo cần phải phù hợp với quan điểm hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế; đáp ứng các tiêu chí hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm cạnh
tranh công bằng, lành mạnh giữa các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế; coi trọng công tác tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật và công
tác rà soát, hệ thống hóa pháp luật; và cần đảm bảo nguyên tắc độc lập trong tổ
chức và hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh Đồng thời, luận án đề
xuất các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo, bao gồm: Hoàn thiện nội dung pháp luật về cạnh tranh trong
lĩnh vực quảng cáo; đổi mới quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo; tăng cường tính công khai, minh bạch và
sự tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân, của đối tượng điều chỉnh, đối tượng
chịu sự tác động của văn bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo; nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và quần chúng
nhân dân về pháp luật về cạnh tranh nói chung và pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo nói riêng.
148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phạm Đức Hòa (2016): “Yêu cầu hoàn thiện pháp luật cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận Chính trị
điện tử, ngày 22/9/2016 (
dan/item/1642-yeu-cau-hoan-thien-phap-luat-canh-tranh-trong-linh-vuc-
quang-cao-o-viet-nam.html).
2. Phạm Đức Hòa (2014): “Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
- Những vấn đề pháp lý có liên quan”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (1), tr.6-11.
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt:
1. Vũ Vân Anh, Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ – Đại học Quốc gia
Hà Nội.
2. Nguyễn Phương Anh (2006, Pháp luật về kiểm soát hành vi
quảng cáo gây nhầm lẫn tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ – Đại học Quốc gia
Hà Nội.
3. Chương trình hỗ trợ hậu gia nhập WTO của Bộ Công thương
công bố báo cáo “Thực thi pháp luật cạnh tranh liên quan tới lĩnh vực sở hữu
trí tuệ”, Hà Nội, 2010.
4. Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. (Tài
liệu dịch).
5. Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (CIDA), (2004), Luật cạnh
tranh Canada và bình luận, Dự án hỗ trợ thực thi chính sách (PIAP).
6. Cục Quản lý Cạnh tranh Bộ Công thương (2005), Thực thi Luật
thương mại lành mạnh ở Đài Loan, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia.
7. Cục Quản lý Cạnh tranh Bộ Công thương (2007), Luật chống
độc quyền Nhật Bản và kinh nghiệm thực thi, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
8. Cục Quản lý Cạnh tranh Bộ Công thương (2008), Quảng cáo
dưới góc độ cạnh tranh, Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội.
9. Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Công Thương (2015) tài liệu Hội
nghị “Pháp luật cạnh tranh phòng vệ thương mại và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng”, Hà Nội.
10. Cục Quản lý cạnh tranh và Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật
Bản, Báo cáo rà soát Luật cạnh tranh Việt Nam, trong khuôn khổ của
150
Dự án “Nâng cao năng lực thực thi Luật và chính sách cạnh tranh” giữa
Cục Quản lý Cạnh tranh và Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản,
truy cập ngày 15/10/2012. Cục Quản lý Cạnh tranh, Báo cáo thường niên năm
2011
11. Cục Quản lý Cạnh tranh (2012), Báo cáo rà soát Luật Cạnh
tranh với pháp luật chuyên ngành.
12. Cục Quản lý Cạnh tranh, Báo cáo thường niên năm 2010.
13. Cục Quản lý Cạnh tranh, Báo cáo thường niên năm 2012.
14. Cục Quản lý Cạnh tranh, Báo cáo thường niên năm 2013.
15. Cục Quản lý Cạnh tranh, Báo cáo thường niên năm 2014
16. Cục Quản lý Cạnh tranh, Báo cáo thường niên năm 2015.
17. Cục Quản lý Cạnh tranh (2010), Báo cáo đánh giá 10 lĩnh vực.
18. Cục Quản lý cạnh tranh, Bản tin Cạnh tranh và người tiêu dùng,
số 20 – 9/2010.
19. Chính phủ (2006), Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005,
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh.
20. Chính phủ (2014), Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng
7 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh.
21. Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh
doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, sách chuyên khảo, Nxb.
Chính trị quốc gia.
22. Bùi Ngọc Cường (2002), Vai trò của pháp luật kinh tế trong việc
bảo đảm quyền tự do kinh doanh, Tạp chí Khoa học pháp lý số 7.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
151
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Tài liệu của Văn phòng Trung ương Đảng ấn hành, Hà Nội
25. Nguyễn Hữu Đễ, 2013, “Đạo đức kinh doanh ở Việt Nam, một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Triết học, (12)
26. PGS.TS. Nguyễn Bá Diến (1997), “Pháp luật về chống quảng
cáo không trung thực ở Việt Nam và một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, (10).
27. Dominique Brault, Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh
của Cộng hòa Pháp, tập 1, Sách do Nhà pháp luật Việt Pháp dịch trong khuôn
khổ dự án hợp tác Việt – Pháp “Hỗ trợ Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
28. Arrmand Dayan (2006), Nghệ thuật quảng cáo, NXB. Thế giới,
Hà Nội
29. ThS. Nguyễn Thị Dung, (2005), “Khái niệm “quảng cáo” trong
pháp luật Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến việc hoàn thiện pháp luật về
quảng cáo”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (12).
30. ThS. Nguyễn Thị Dung (2006), “Kinh nghiệm quốc tế về điều
chỉnh pháp luật đối với hoạt động xúc tiến thương mại và một số yêu cầu đặt
ra đối với Việt Nam”, Tạp chí Luật học (09).
31. Đại từ điển Kinh tế thị trường, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội,
năm 1998
32. TS. Đỗ Văn Đại (2003), Xung đột giữa Luật Cạnh tranh
với luật chuyên ngành khác,
viet/2003/07/3B9CA167/.
33. TS. Đỗ Văn Đại và Nguyễn Thị Hoài Trâm (2012), “Bồi thường
thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra”, Tạp chí Khoa học
pháp lý (2), tr.62 - 71.
152
34. Cộng hòa Liên bang Đức (2002), Luật Chống cạnh tranh không
lành mạnh. NXB Thế giới, Hà Nội.
35. Đặng Minh Đức (2010), Chính sách cạnh tranh của Liên minh
Châu Âu trong bối cảnh phát triển mới, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
36. Quách Thị Hương Giang (2011), Chế tài đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ luật học,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
37. Nguyễn Kiều Giang (2007), “Cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực ngân hàng – nhìn từ góc độ pháp lý”, Tạp chí Luật học (12).
38. Viên Thế Giang (2013), “Quảng cáo nhằm mục đích cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, (2).
39. Bùi Xuân Hải (2003), “Về mục tiêu và phạm vi điều chỉnh của
Luật cạnh tranh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (2).
40. Hoàng Xuân Hoà (2016), Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
van-de/hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-
o-viet-nam-471501.
41. Phan Huy Hồng và Nguyễn Thanh Tú (2012), Quyền tự do kinh
doanh theo pháp luật Liên minh Châu Âu và Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
42. Phan Huy Hồng (2007), “Quảng cáo so sánh trong Luật cạnh
tranh – Một nghiên cứu so sánh luật”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (7).
43. Đặng Vũ Huân (2004). Pháp luật về kiểm soát độc quyền và
chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
44. Nguyễn Hữu Huyên (2004), Luật cạnh tranh của Pháp và Liên
minh Châu Âu, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
153
45. Bùi Nguyên Khánh (2007), “Chức năng của luật tư trong việc
bảo vệ trật tự cạnh tranh từ góc độ nghiên cứu so sánh giữa pháp luật cạnh
tranh không lành mạnh của Việt Nam và Cộng hoà Liên bang Đức”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, (10).
46. Đinh Thị Mỹ Loan, (Chủ biên, 2008), Quảng cáo dưới góc độ
cạnh tranh, Nxb. Lao động - Xã hội.
47. Phạm Văn Lợi, Lê Thị Hoàng Oanh, Nguyễn Văn Cương, Hoàng
Thế Anh và Vũ Thị Hiệp, (2004), Pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội.
48. Nguyễn Phương Trà My (2012), “Uỷ ban Châu Âu rà soát Chỉ
thị 2006/114/EC về quảng cáo so sánh và quảng cáo gây nhầm lẫn”, Bản tin
Cạnh tranh và người tiêu dùng, số 36.
49. Michael E.Porter (2012), Chiến lược cạnh tranh, Nxb. Trẻ
50. Michael E.Porter (2012), Lợi thế cạnh tranh, Nxb. Trẻ.
51. Tăng Văn Nghĩa (2009), Giáo trình Luật cạnh tranh, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
52. Phùng Bích Ngọc (2013), “Quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh theo Luật Cạnh tranh năm 2004”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
(6), tr. 54– 60.
53. P.A. Samuelson và W. Nordhaus (1990), Kinh tế học, Tập 1,
Viện Quan hệ quốc tế, Bộ Ngoại giao, Hà Nội dịch.
54. Quỳnh Như, (2011), Quảng cáo “chê” sản phẩm đối phương, xử
sao?
san-pham-doi-phuong-xu-sao.htm
55. Lê Hoàng Oanh (2005), Bình luận khoa học Luật cạnh tranh,
Nxb. Chính trị Quốc gia.
154
56. Nguyễn Như Phát và Trần Đình Hảo (Chủ biên, 2001), Cạnh
tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, Sách tham
khảo, Nxb. Công an nhân dân.
57. Nguyễn Như Phát và Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây
dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
58. Nguyễn Như Phát (2006), “Đưa pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh vào cuộc sống”, Tạp chí Luật học (6), tr. 29 – 35.
59. Đoàn Tử Tích Phước, Điều chỉnh hoạt động quảng cáo trong
khuôn khổ pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ – Đại học
Quốc gia Hà Nội
60. Trương Hồng Quang, (2008), “Quảng cáo so sánh theo pháp luật
Liên minh châu Âu và Việt Nam - nghiên cứu dưới góc độ so sánh luật”, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, (8).
61. Dương Mạnh Quân, 2008, Giáo trình “Đạo đức kinh doanh và
văn hoá doanh nghiệp”, NXB Kinh tế quốc dân
62. Quốc hội, (2004), Luật Cạnh tranh
63. Quốc hội, (2005), Luật Thương mại
64. Quốc hội, (2005), Luật Sở hữ trí tuệ
65. Quốc hội, (2012), Luật Quảng cáo
66. Quốc hội, (2015), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
67. Russell Pittman, (200), Tại sao phải có chính sách cạnh tranh,
đăng trên tạp chí Điện tử của Bộ ngoại giao Mỹ (Tư liệu dịch Kinh tế và
Thương mại).
68. Nguyễn Ngọc Sơn (2005), “Xác định thị trường liên quan theo
Luật cạnh tranh năm 2004”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (11).
69. Hà Thu Trang, Pháp luật quảng cáo ở Việt Nam – Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2004,
155
70. Nguyễn Thị Trâm, Áp dụng các quy định của Luật Cạnh tranh
về quảng cáo so sánh và một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn, Tạp chí
Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 9, tháng 05/2007,
71. Lê Anh Tuấn (2009), Pháp luật về chống cạnh tranh không lành
mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Phùng Văn Thành (2014), “Luật Cạnh tranh sau 10 năm nhìn
lại”, Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng (48).
73. Bùi Nguyễn Anh Tuấn (2010), “Chính sách cạnh tranh từ quốc
gia đang phát triển”, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế và Chính sách thuộc
trường Đại học Kinh tế Đại học Quốc gia Hà Nội, bài nghiên cứu số 18 mã
số: NC-18.
74. Từ điển Luật học (1999), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
75. Từ điển Kinh tế Anh, Pháp, Việt - Tài chính Ngân hàng (1994),
Nxb. Giáo dục và Viện khoa học Ngân hàng.
76. Từ điển Tiếng Việt “Bách khoa tri thức phổ thông” (1995), Nxb.
Đà Nẵng.
77. Lê Minh Tâm (2000), “Về khái niệm hiệu quả pháp luật và tiêu
chí xác định hiệu quả pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (11), tr. 51.
78. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 263.
79. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc và Nguyễn Ngọc Sơn (2006),
Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
80. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc và Nguyễn Ngọc Sơn (2010),
Giáo trình Luật cạnh tranh.
81. Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học,
Nxb. Tư pháp và Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
82. Viện Nghiên cứu lập pháp (2012), Pháp luật quảng cáo một số
nước trên thế giới.
156
83. Viện Ngôn ngữ học (1989), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học - Xã
hội, Hà Nội.
84. Xuân Đương (2010), "Quảng cáo, khuyến mãi gây nhầm lẫn",
www.cand.com.vn, ngày 24/11/2010.
85. Vụ Pháp chế - Bộ Công Thương (2011), Chuyên đề pháp luật
cạnh tranh không lành mạnh, Nxb. Công Thương, Hà Nội.
86. Vụ Pháp chế - Bộ Công Thương (2011), Chủ trường, đường lối
của Đảng về vấn đề cạnh tranh: Từ văn kiện đến pháp luật của Nhà nước,
Nxb. Công Thương, Hà Nội.
87. Vụ Pháp chế - Bộ Công Thương (2011), Đánh giá, tổng kết
công tác điều tra, xử lý và giải quyết khiếu nại trong vụ việc cạnh tranh
không lành mạnh, Nxb. Công Thương, Hà Nội.
88. Vụ Pháp chế - Bộ Công Thương (2011), Nghiên cứu, đánh giá và
tổng kết 5 năm thi hành Luật cạnh tranh, Nxb. Công Thương.
Tài liệu Tiếng Anh:
89. Centennial Edition (1891 – 1991), Black’s Law Dictionary.
90. Fair Trade Commission (FTC), Fair trade act in Taiwan of 2015.
91. Ferrels and John Fraedrich, Business ethics - Ethical decision
making and cases, Houghton Mifflin Company, 2005, p. 256.
92. Federal Trade Commission (1980) – https://www.ftc.gov/public-
statements/1980/12/ftc-policy-statement-unfairness.
93. Japan Fair Trade Conmmission, The Antimonopoly Act (AMA).
94. Japan Fair Trade Conmmission, Law against Unjustifiable
Premiums and Misleading Representations (Act No. 134 of May 15, 1962, as
last amended by Act No. 49 of June 5, 2009).
95. Marcoux, Alexei (2006), “The concept of business in business
ethics”, Journal of private enterprise, (2), tr.57 – 69.
157
96. Philip Kotler (2002), Marketting management, NXB Printice Hal
Inc.
97. Phillip V.Lewis (1985). “Defining Business Ethics: Like Nailing
Jello to a Wall”, Journal of Business Ethics (4), tr. 377-383.
98. Taiwan Fair Trade Commission, Fair Trade Commission
disposal directions (Guidelines) on comparative advertising.
99. The Act Unfair Competition of Federal Republic of Germany;
100. Misleading Advertising and Labelling - Competition Bureau