HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHÙNG VĂN TÀI
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Hà Nội - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHÙNG VĂN TÀI
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ: 62 38 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. NGUYỄN NGỌC ANH
Hà Nội - 2018
L
171 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 410 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Phùng Văn Tài
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
1.2. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và
những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO
VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về
bảo vệ bí mật nhà nước
2.2. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các yếu tố ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
2.3. Pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở một số nước trên thế giới và
những giá trị tham khảo cho Việt Nam
Chương 3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam
3.2. Trực trạng pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam
hiện nay
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam
hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
6
6
22
28
28
47
61
71
71
80
111
111
115
135
137
138
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ANQG An ninh quốc gia
BLHS Bộ luật Hình sự
BMNN Bí mật nhà nước
BMQG Bí mật quốc gia
CAND Công an nhân dân
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
HĐND Hội đồng nhân dân
LHS Luật Hình sự
Nxb Nhà xuất bản
QPPL Quy phạm pháp luật
TNHS Trách nhiệm hình sự
UBND Ủy ban nhân dân
VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu luận án
Bí mật nhà nước (BMNN) là những thông tin quan trọng, liên quan đến sự ổn
định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) và Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc. Các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các thế lực thù địch và các
đối tượng phạm tội luôn tìm cách thu thập, chiếm đoạt BMNN nhằm gây nguy hại
cho lợi ích của quốc gia, dân tộc. Mặt khác, trong hoạt động của cơ quan, tổ chức,
việc nắm giữ được thông tin quan trọng là một trong những điều kiện đảm bảo cho
sự thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ta biết giữ bí mật, thì dù địch có
trăm tai, nghìn mắt, cũng không dò được tin tức và đoán được sự hành động của ta.
Biết giữ bí mật, tức là ta đã nắm được một phần thắng lợi trong tay” [65].
Bảo vệ BMNN là một quy luật tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc
gia, dân tộc, mỗi cơ quan, tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Những vǎn kiện
bí mật của Nhà nước quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, đến sự mất còn
của dân tộc. Cho nên giữ bí mật của Nhà nước là nhiệm vụ của toàn dân, đặc biệt là
nhiệm vụ của cán bộ các cơ quan, các đoàn thể. Muốn phá hoại ta về mọi mặt, kẻ
địch dùng mọi thủ đoạn đê hèn để đánh cắp vǎn kiện bí mật của ta về chính trị, kinh
tế, quốc phòng, v.v.. Khẩu hiệu của kẻ địch là: Lấy được bất kỳ tình báo gì và dù là
chút ít, cũng là quý” [66]. Bảo vệ BMNN có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong
bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG), đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi công nghệ,
thông tin phát triển mạnh mẽ, thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”
nhằm xoá bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú
trọng đến công tác bảo vệ BMNN; sử dụng nhiều lực lượng, phương tiện, biện pháp
để bảo vệ BMNN, trong đó, pháp luật được coi là “công cụ sắc bén, hữu hiệu” [77,
tr.01]. Trải qua các giai đoạn khác nhau, Nhà nước ta đều ban hành các quy phạm
pháp luật (QPPL) về bảo vệ BMNN phù hợp với đặc điểm tình hình và nhiệm vụ của
cách mạng trong từng giai đoạn, các QPPL đó là cơ sở để hình thành nên pháp luật
2
về bảo vệ BMNN. Từ khi hình thành, pháp luật về bảo vệ BMNN đã sớm đi vào
cuộc sống và phát huy vai trò, tác dụng là công cụ sắc bén, hữu hiệu, là cơ sở pháp lý
để tiến hành các hoạt động bảo vệ BMNN, góp phần giữ vững ANQG, phục vụ cho
sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Quá trình từ khi hình
thành đến nay, pháp luật về bảo vệ BMNN không ngừng được xây dựng, bổ sung, đã
tạo ra một hệ thống các QPPL quy định về công tác bảo vệ BMNN.
Tuy nhiên, do sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong và ngoài
nước, pháp luật về bảo vệ BMNN đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, như:
các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) về bảo vệ BMNN có hiệu lực pháp lý
thấp; phạm vi điều chỉnh chưa toàn diện; nội dung thiếu thống nhất; nhiều quy định
còn chung chung; chưa thực sự đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo đảm các
quyền tự do, dân chủ của con người, của công dân; nhiều quan hệ mới nảy sinh liên
quan đến bảo vệ BMNN nhưng chưa có QPPL điều chỉnh... Những hạn chế, bất cập
đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác bảo vệ BMNN, là một nguyên nhân dẫn
đến tình hình lộ, lọt, mất BMNN diễn biến phức tạp (từ năm 2001 đến nay đã phát
hiện 844 vụ lộ, lọt, mất BMNN [111]); việc xác định độ mật còn tùy tiện, không mật
cũng đóng dấu mật; công tác phòng ngừa, điều tra, xử lý các vụ lộ, lọt, mất BMNN
hiệu quả chưa cao, chế tài xử lý chưa nghiêm... [74]. Những hạn chế, bất cập đó đã
đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Đây cũng là yêu cầu tất
yếu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và là một nội
dung quan trọng của hoàn thiện pháp luật về ANQG đã được đề cập trong Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”.
Với các lý do trên, cùng với việc chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống ở cấp độ luận án về vấn đề này nên nghiên cứu sinh đã chọn
đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ
chuyên ngành “Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu luận án: làm rõ cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ BMNN ở Việt Nam; đánh giá đúng thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN ở
3
Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận án định ra và giải quyết các nhiệm vụ:
Làm rõ khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, đặc điểm, nội dung điều chỉnh
và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam; phân tích các tiêu chí đánh
giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN và các yếu tố ảnh hưởng đến
việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Ở mức độ nhất định, luận án nghiên cứu
pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới và rút ra những giá trị có thể
tham khảo cho Việt Nam.
Nghiên cứu tổng quan về quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở
Việt Nam từ 1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ
BMNN Việt Nam hiện nay để chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập
và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó.
Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp
luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận án:
Phạm vi về nội dung: Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ BMNN; quá trình phát triển và thực trạng của pháp luật về bảo vệ
BMNN ở Việt Nam hiện nay; quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về bảo vệ
BMNN ở Việt Nam từ năm 1945 nhưng tập trung vào giai đoạn hiện nay (từ năm
2000 đến nay) và có sự tham chiếu kinh nghiệm của nước ngoài.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ ANQG,
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, pháp chế XHCN và xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
4
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết
học Mác - Lênin, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Ở Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp nghiên cứu
tài liệu, phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu các công trình khoa học đã
công bố và khảo cứu các kết quả liên quan đến luận án, từ đó chỉ ra những vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu của luận án.
Ở Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích,
tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn dịch, phương pháp trao đổi, phương pháp
chuyên gia để nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý luận của hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ BMNN ở Việt Nam như: xây dựng khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN,
làm rõ đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN ở
Việt Nam; làm rõ các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ
BMNN và các yếu tố tác động đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt
Nam hiện nay.
Ở Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp nghiên cứu
tài liệu, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp trao đổi, phương pháp chuyên
gia để làm rõ quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm
1945 đến nay; đánh giá thực trạng với những kết quả đạt được, những hạn chế, bất
cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó của pháp luật về bảo vệ BMNN ở
Việt Nam hiện nay.
Ở Chương 4, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích,
tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp chuyên
gia để làm rõ quan điểm và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở
Việt Nam hiện nay.
5. Những điểm mới của luận án
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án có
những đóng góp mới về mặt khoa học như sau:
Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện các quan điểm, quan niệm về pháp luật
về bảo vệ BMNN, luận án đã xây dựng khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, làm
rõ đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN; làm rõ
5
các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN và các yếu
tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.
Luận án đã rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay qua việc nghiên cứu pháp luật về bảo vệ
BMNN ở một số nước trên thế giới.
Làm rõ quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm
1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt
Nam hiện nay, khẳng định những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế,
bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ấy. Từ đó, luận án đề xuất 5 quan
điểm và 3 nhóm giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt
Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận về hoàn thiện pháp
luật nói chung và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN nói riêng.
Về thực tiễn: Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và
hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN. Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị quan
trọng đối với các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời,
luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo về pháp luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các công
trình của tác giả liên quan đến luận án đã công bố và phụ lục, luận án bao gồm 4
chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công tác bảo vệ bí mật nhà nước liên
quan đến luận án
1.1.1.1. Đề tài khoa học
- Đề tài khoa học cấp Bộ Giải pháp của lực lượng An ninh nhân dân nhằm
nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong lĩnh vực kinh tế trọng điểm ở Việt
Nam hiện nay, do tác giả Đỗ Hữu Vấn làm chủ nhiệm [112], đã phân tích các quy
định của pháp luật về BMNN trong lĩnh vực kinh tế trọng điểm ở Việt Nam hiện nay,
trong đó đã chỉ ra các quy định của pháp luật về phạm vi BMNN trong lĩnh vực kinh
tế trọng điểm. Công trình đã đưa ra các kiến nghị, trong đó có kiến nghị hoàn thiện
hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN với các nội dung: hoàn thiện các văn bản pháp
luật về bảo vệ BMNN để các cơ quan, tổ chức thực hiện một cách đầy đủ, thống nhất
và có hiệu quả thiết thực; rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật, trên cơ sở đó
kiến nghị Nhà nước xây dựng, ban hành Luật Bảo vệ BMNN; kiến nghị Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo các cơ quan, tổ chức kinh tế sớm hoàn thành dứt điểm việc xây
dựng danh mục BMNN.
- Đề tài khoa học cấp Bộ Công tác bảo vệ BMNN của lực lượng An ninh -
Những vấn đề lí luận và thực tiễn, do tác giả Đặng Văn Đoài làm chủ nhiệm [35],
dưới góc độ pháp luật, công trình đã chỉ rõ các VBQPPL làm cơ sở pháp lý cho công
tác bảo vệ BMNN của lực lượng An ninh (đến thời điểm đó) như: Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 2000; Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính phủ
Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN; Thông tư số 12/2002/TT-BCA
ngày 13/9/2002 của Bộ Công an Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 33/2002/NĐ-CP;
Quyết định số 160/2004/QĐ-TTg ngày 06/9/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc
xác định khu vực cấm, địa điểm cấm; các danh mục BMNN và các VBQPPL khác có
liên quan đến bảo vệ BMNN của lực lượng An ninh như: Bộ luật Hình sự (BLHS)
năm 1999; Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ Quy định
7
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội Đồng
thời, công trình cũng chỉ ra một số điểm hạn chế trong công tác bảo vệ BMNN của
lực lượng An ninh có nguyên nhân từ hạn chế trong pháp luật về bảo vệ BMNN, đó
là: có rất nhiều văn bản quy định về công tác này; việc ban hành chưa được kịp thời
và đề cập đến việc cần tổng kết thi hành pháp luật về bảo vệ BMNN để xây dựng
Luật Bảo vệ BMNN.
- Đề tài khoa học cấp Bộ Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN
trong lực lượng Công an nhân dân (CAND), do tác giả Ma Văn Kỳ làm chủ nhiệm
[52], dưới góc độ pháp luật, công trình đã thống kê các VBQPPL được ban hành điều
chỉnh về công tác bảo vệ BMNN do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính
phủ và Bộ Công an ban hành. Đồng thời công trình đã đưa ra các kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong lực lượng CAND thời gian tới,
trong đó có kiến nghị về mặt pháp luật đó là: Các cơ quan chức năng tiếp tục hoàn
thiện hệ thống các VBQPPL về công tác bảo vệ BMNN. Trước mắt cần đẩy nhanh
tiến độ việc nghiên cứu, xây dựng và hoàn chỉnh Dự án Luật Bảo vệ BMNN theo sự
phân công của Chính phủ và nghiên cứu, sớm bổ sung, sửa đổi Nghị định số
33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh
Bảo vệ BMNN năm 2000.
1.1.1.2. Sách, bài báo, tạp chí khoa học
- Sách Bảo vệ BMNN, bảo vệ bí mật và bảo vệ chính trị nội bộ trong lực lượng
CAND, do Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) ban hành [17], đã tập hợp một số
VBQPPL của Nhà nước và của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) liên quan đến bảo vệ
BMNN và bảo vệ chính trị nội bộ trong lực lượng CAND. Cuốn sách gồm 19 văn
bản, trong đó trình bày làm 2 phần: Phần I) Pháp lệnh Bảo vệ BMNN và các văn bản
hướng dẫn thi hành; Phần II) Các văn bản hướng dẫn về công tác bảo vệ BMNN, bảo
vệ chính trị nội bộ trong lực lượng CAND, gồm có: Mục A) Bảo vệ BMNN trong lực
lượng CAND; Mục B) Bảo vệ chính trị nội bộ trong lực lượng CAND. Những
VBQPPL này tương ứng với Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991.
- Sách Bảo vệ BMNN, do Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND - Bộ Công an
ban hành [08], đã nêu ra khái niệm BMNN theo quy định của Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 2000; nêu ra cơ sở pháp lý của công tác bảo vệ BMNN, điển hình là nêu
8
ra quy định trong Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009), Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội và các quy định trong một số VBQPPL
khác có liên quan; nêu ra nguyên tắc của công tác bảo vệ BMNN dựa trên những
nguyên tắc của hoạt động bảo vệ ANQG được quy định trong Luật ANQG.
- Sách Bảo vệ BMNN - dùng cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục các trường
cao đẳng, trung cấp CAND, do Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND - Bộ Công an
ban hành [09], dưới góc độ pháp luật, công trình đã nêu ra “các văn bản pháp luật
của Nhà nước; chỉ thị, nghị quyết của Đảng; văn bản của Bộ Công an về bảo vệ
BMNN” và bước đầu đề cập đến quy định về phạm vi BMNN của Việt Nam so với
một số nước trên thế giới.
- Bài viết Vấn đề thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí với bảo vệ
BMNN của tác giả Phạm Dũng [28], đã đề cập đến một nhiệm vụ cần thực hiện để
đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và bảo vệ được BMNN, đó là: tiếp tục
hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN, sớm ban hành Luật Bảo
vệ BMNN thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 và các văn bản dưới luật
hướng dẫn thi hành một cách cụ thể, chi tiết, dễ hiểu và vận dụng thống nhất như
điều kiện, trình tự, thủ tục để giải mật BMNN, tiêu chí xác định độ mật; rà soát
danh mục BMNN của Bộ, ban, ngành, địa phương để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp, đảm bảo pháp luật có tính khả thi trong thực tiễn, góp phần công khai minh
bạch các thông tin.
- Bài viết Từ kinh nghiệm của một số nước - đề xuất việc giải mật tài liệu có nội
dung BMNN ở nước ta hiện nay của tác giả Vũ Thị Minh [49], đã phân tích kinh
nghiệm của một số nước về việc giải mật tài liệu bí mật và thực tế lưu trữ, bảo quản
tài liệu BMNN ở Việt Nam và đi đến đề xuất cần thực hiện việc giải mật để đảm bảo
quyền tiếp cận thông tin cho toàn xã hội, tránh việc xuyên tạc thông tin khi không có
thông tin chính thức từ tài liệu lưu trữ và đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng tài liệu
lưu trữ phục vụ nhu cầu, lợi ích chính đáng của người dân. Tuy nhiên, việc giải mật
tài liệu lưu trữ còn gặp nhiều khó khăn do một số vấn đề liên quan đến bảo vệ
BMNN và giải mật tài liệu chưa được điều chỉnh bằng pháp luật.
- Trong bài viết Một số vấn đề rút ra qua việc lộ, mất thông tin bí mật của Mỹ
9
trên internet của tác giả Bùi Vọng Long [62], đã phân tích một số vụ lộ, mất thông
tin bí mật của Mỹ trên internet, mà điển hình là vụ Wikileaks và rút ra một số vấn đề
trong công tác bảo vệ các thông tin bí mật trên internet, trong đó có vấn đề về pháp
luật. Chính phủ Mỹ đã xác định độ mật tài liệu một cách tràn lan gây ra hiệu ứng
ngược. Chính phủ Mỹ đã lấy “thà lạm dụng chứ không được thiếu” làm nguyên tắc
xác định độ mật, các tập tài liệu to nhỏ đều đóng dấu mật, luôn nhắc nhở các công
chức không được rò rỉ các bí mật ra bên ngoài. Thực tế, do những lời cảnh báo “bí
mật” đã quá bão hòa, các thành viên trong chính phủ không còn chú ý đến chúng
nữa, cho nên rất nhiều tài liệu bí mật quốc gia (BMQG) được xác định là “cơ mật”
đều lần lượt rò rỉ. Tài liệu mật càng nhiều và càng nhiều người tiếp cận thì nguy cơ
lộ, mất bí mật càng cao. Điều luật hình sự quy định tội tiết lộ bí mật ở Mỹ chưa đầy
đủ, còn bất cập nên khi cần truy cứu tội của Julian Assage – nhà sáng lập Wikileaks
phải sử dụng tội hiếp dâm; không truy cứu được việc công ty kiến trúc đưa sơ đồ Đại
sứ quán Mỹ tại Iraq và Google đưa những hình ảnh chụp từ trên không các căn cứ
quân sự bí mật của Mỹ lên mạng Internet.
- Bài viết Tăng cường công tác bảo vệ BMNN trong tình hình mới của tác giả
Trần Đại Quang [75], đã đề cập đến các mặt công tác để bảo vệ BMNN trong tình
hình mới, trong đó có việc: Tiếp tục rà soát, bổ sung, sửa đổi nhằm xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN trên cơ sở quán triệt các mục tiêu, quan
điểm chỉ đạo và giải pháp nêu trong Nghị quyết số 48-NQ/TW. Trước mắt cần đẩy
nhanh tiến độ xây dựng Luật Bảo vệ BMNN trình Quốc hội thông qua. Đây là đạo
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất quan trọng, nhạy cảm liên quan đến
vấn đề chính trị nội bộ nên cần được tiến hành khẩn trương nhưng thận trọng, đảm
bảo tính toàn diện, tính đặc thù, tính kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập
pháp của các nước tiên tiến về lĩnh vực này. Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của đất
nước, đảm bảo quyền tự do, dân chủ của công dân, phòng ngừa hoạt động làm lộ, lọt
BMNN; có chế tài đủ sức răn đe đối với các hành vi vi phạm.
- Bài viết Thực hiện tốt công tác bảo vệ BMNN trong tình hình mới của tác giả
Mai Tùng Lâm [55], đã đề xuất một số giải pháp mà lực lượng Công an cần tập trung
để thực hiện tốt công tác bảo vệ BMNN trong tình hình mới. Trong đó có giải pháp
10
về mặt pháp luật, đó là: Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ
BMNN, đề xuất đàm phán, ký kết hiệp định hoặc thỏa thuận, biên bản ghi nhớ về
cùng bảo vệ tin mật với các nước láng giềng, các nước Việt Nam có quan hệ đối tác
chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện nhằm tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ tin mật
trong quá trình hợp tác, trao đổi.
- Bài viết Một số vấn đề xây dựng, hoàn thiện hệ thống lý luận bảo vệ BMNN
của tác giả Đặng Văn Đoài [37], đã chỉ ra một số vấn đề cần thực hiện tốt để tiếp tục
phát triển lý luận, góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ
BMNN. Trong đó, cần nghiên cứu, cân nhắc sử dụng khái niệm “BMQG” thay cho
khái niệm “BMNN” trong các văn bản chính thức của Đảng, Nhà nước và các cơ
quan, tổ chức. Theo đó, về chủ thể của BMQG không chỉ là các cơ quan trong hệ
thống chính trị, mà rộng hơn bao gồm cả các tổ chức và cá nhân, pháp nhân của Việt
Nam Do vậy, dùng khái niệm BMNN sẽ không bao trùm được tất cả các chủ thể
có bí mật cần bảo vệ.
Như vậy, bài viết đã đưa ra một cách nhìn khác về việc sử dụng khái niệm
BMQG thay thế cho khái niệm BMNN, khác với nhiều công trình đã nghiên cứu,
công bố trước đó.
- Bài viết Mối quan hệ giữa bảo vệ BMNN và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
của công dân của tác giả Nguyễn Quỳnh Liên [60], đã chỉ ra mối quan hệ giữ bảo vệ
BMNN và tiếp cận thông tin là mối quan hệ biện chứng, có tác động qua lại lẫn nhau
và là mối quan hệ giữa phạm vi thông tin được tiếp cận và thông tin không được tiếp
cận để bảo vệ BMNN. Đồng thời, bài viết cũng chỉ ra cơ sở pháp lý của việc đảm
bảo quyền tiếp cận thông tin và một số vấn đề đặt ra trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa bảo vệ BMNN với bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của pháp luật quốc tế và
pháp luật của một số nước trên thế giới. Quyền tiếp cận thông tin là một trong các
quyền cơ bản của con người, của công dân, thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị
được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948;
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và tiếp tục được khẳng
định trong nhiều điều ước quốc tế khác.
Bài viết cũng chỉ ra sự khác nhau trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
của các nước chủ yếu xuất phát từ quan niệm như thế nào về khái niệm “ANQG”,
11
“trật tự công cộng”. Luật của một số nước trên thế giới (như Hàn Quốc, New
Zealand, Bulgari, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Đan Mạch) ghi nhận quyền thông tin chỉ áp
dụng đối với các thông tin “được ghi và lưu giữ lại”, điều này có thể tạo ra một
khoảng trống đối với các thông tin được truyền tải bằng lời nói (như một cuộc họp)
mà đã được sử dụng trong quá trình ra quyết định. Nhiều nước quy định rõ trong
luật, yêu cầu công khai tất cả các thông tin được biết đến. Luật Tiếp cận thông tin
của nhiều nước có quy định khuyến khích việc tiếp cận thông tin chủ động hoặc công
bố thông tin đều đặn. Trong đó, phần lớn các quốc gia đều quy định một danh sách
các loại thông tin/tài liệu phải công bố, phổ biến công khai hoặc cung cấp rộng rãi
cho công chúng.
- Bài viết Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay và hướng
hoàn thiện của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy [99], đã khái quát chung hệ thống văn
bản pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay có thể chia thành các nhóm
chính: VBQPPL chung về bảo vệ BMNN; văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ
có liên quan trong lĩnh vực bảo vệ BMNN; văn bản pháp luật quy định tội phạm và
xử lý đối với các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN; các hiệp
định, điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập hoặc ký kết có nội dung liên quan đến
việc hợp tác, chia sẻ thông tin BMNN và cùng bảo vệ tin mật.
Bài viết đã khái quát thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ BMNN và đánh
giá: Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân xuất
phát từ hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN còn có những điểm mâu thuẫn,
chồng chéo, chưa kịp thời, chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của công tác bảo vệ
BMNN trong tình hình mới, gây khó khăn cho quá trình tổ chức thực hiện. Để góp
phần hoàn thiện pháp luật trên lĩnh vực này, bài viết đưa ra một số điểm cần chú ý:
trong dự thảo Luật Bảo vệ BMNN cần quy định cụ thể hơn về tiêu chí xác định của
từng cấp độ mật, thẩm quyền sao chụp, thống kê, lưu trữ tài liệu, vật mang BMNN,
nguyên tắc của công tác bảo vệ BMNN, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người
đứng đầu và mỗi cán bộ, nhân viên trong bảo vệ BMNN; cần bổ sung, chỉnh sửa các
tội xâm phạm BMNN theo hướng toàn diện, khách quan, tránh bỏ lọt tội phạm; cần
nhanh chóng bổ sung quy định về thẩm quyền của lực lượng An ninh và lực lượng
12
thanh tra chuyên ngành trong CAND trong việc xử phạt vi phạm hành chính đối với
những hành vi vi phạm quy định về bảo vệ BMNN.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
1.1.2.1. Đề tài, hội thảo khoa học
- Đề tài khoa học cấp Bộ Phương hướng hoàn thiện quy định của Luật Hình sự
(LHS) Việt Nam về các tội xâm phạm ANQG do tác giả Phùng Văn Tài làm chủ
nhiệm [87], đã phân tích các hành vi xâm phạm ANQG, trong đó có hành vi xâm
phạm BMNN quy định trong BLHS Việt Nam và BLHS một số nước trên thế giới có
nền lập pháp gần với Việt Nam. Theo đó, pháp luật các nước đều xử lý rất nghiêm
khắc đối với hành vi cung cấp BMNN cho nước ngoài, tùy theo chủ thể thực hiện
hành vi. Nếu công dân thực hiện hành vi cung cấp BMNN cho nước ngoài nhằm
chống nhà nước thì bị xử lý về tội phản bội Tổ quốc, nếu do người nước ngoài thực
hiện thì xử lý về tội gián điệp. Quy định như vậy cũng khắc phục được tình trạng
giao thoa giữa tội phản bội Tổ quốc và tội gián điệp. Chẳng hạn, BLHS Liên bang
Nga năm 1996 quy định:
Điều 273. Tội gián điệp: Nếu người nào là người nước ngoài hay người
không có quốc tịch mà thực hiện các hoạt động chuyển giao, cũng như thu
thập, đánh cắp hay tàng trữ nhằm mục đích chuyển giao cho quốc gia
khác, tổ chức nước ngoài hay những người đại diện của họ các thông tin
mà có chứa BMQG, cũng như chuyển giao hoặc thu thập thông tin khác
theo sự chỉ đạo của tình báo nước ngoài để sử dụng nhằm gây thiệt hại
cho an ninh của Liên bang Nga thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi
năm [106, tr.516].
Đồng thời, đề tài cũng đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định về tội gián điệp
trong BLHS, đó là tách hành vi thu thập các tin tức, tài liệu khác (không phải
BMNN) ra khỏi tội gián điệp, không quy định cùng với hành vi cung cấp hoặc thu
thập nhằm cung cấp BMNN cho nước ngoài.
- Hội thảo khoa học Về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo
vệ BMNN, do Bộ Công an tổ chức [07], các nhà khoa học đã thảo luận một số vấn đề
lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác bảo vệ BMNN. Trong đó, các nhà khoa
học có bàn luận đến một số vấn đề của pháp luật về bảo vệ BMNN như: chế định về
13
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương trong bảo vệ BMNN;
quy định về phạm vi và phân loại BMNN; chủ thể thực hiện pháp luật về bảo vệ
BMNN; quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ BMNN; mối
quan hệ giữa bảo vệ BMNN và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân; quy
định của pháp luật hiện hành về các loại hình thông tin bí mật; kiến nghị sửa đổi quy
định về xử lý các tội xâm phạm BMNN trong BLHS năm 1999. Đồng thời các nhà
khoa học cũng đi đến thống nhất kiến nghị cần xây dựng Luật Bảo vệ BMNN để thay
thế cho Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000.
1.1.2.2. Sách, luận văn
- Sách Các quy định pháp luật về bảo vệ BMNN, do Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia ban hành [72], đã tập hợp một số VBQPPL về bảo vệ BMNN. Các văn bản
đó được tập hợp thành hai phần: Phần thứ nhất, những quy định chung, gồm Pháp
lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 và Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002
“Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN”; Phần thứ hai, quy định của
pháp luật về bảo vệ BMNN trong các lĩnh vực cụ thể, gồm có 37 quyết định d...i và phù hợp với định hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Từ đó, luận án đứng trước một số câu hỏi nghiên cứu quan trọng cần phải trả lời:
1. Pháp luật về bảo vệ BMNN là gì?
2. Pháp luật về bảo vệ BMNN có đặc điểm, vai trò như thế nào?
3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN ra sao?
4. Việc đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN dựa vào
những tiêu chí nào?
5. Quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm 1945
đến nay như thế nào?
6. Những kết quả đạt được; những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những
hạn chế, bất cập đó của pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay là gì?
7. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay cần xuất phát từ
những quan điểm mang tính chất định hướng nào?
8. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay là gì?
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, các công trình khoa học được
công bố liên quan trực tiếp đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam
27
chủ yếu là các bài viết, bài báo khoa học và nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau,
một số ít công trình trực tiếp nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN.
Các công trình nghiên cứu được công bố đã đề cập đến những vấn đề nhất định
của pháp luật về bảo vệ BMNN như: khái niệm, đặc điểm BMNN; phạm vi BMNN;
giải mật BMNN; khái niệm và nội dung của công tác bảo vệ BMNN Có công trình
đã trực tiếp đề cập đến một số nội dung của pháp luật về bảo vệ BMNN như: khái
niệm pháp luật về bảo vệ BMNN; đặc điểm của pháp luật về bảo vệ BMNN; hệ
thống các VBQPPL của pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay; một số hạn chế, bất
cập của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; nhu cầu, quan điểm và
một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, còn nhiều vấn đề liên quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt
Nam chưa được đề cập hoặc chưa được luận giải đầy đủ, đặt ra nhiệm vụ cho luận án
cần phải tiếp tục làm rõ như: khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của
pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam; các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; quá trình phát triển và thực trạng
pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; quan điểm và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.
Như vậy, qua tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án cho thấy,
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống hoàn thiện pháp luật
về bảo vệ BMNN ở Việt Nam. Các công trình này mới đề cập đến một số vấn đề
nhất định của pháp luật về bảo vệ BMNN dưới các phương diện và mức độ nhất
định, qua đó giúp cho nghiên cứu sinh có thể kế thừa những kết quả nghiên cứu, tiếp
tục triển khai, phát triển trong luận án những vấn đề còn bỏ ngỏ; giúp nghiên cứu
sinh hoàn thành các nhiệm vụ mà luận án đã đặt ra.
28
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH VÀ VAI TRÒ CỦA
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
2.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước và bảo vệ bí mật nhà nước
2.1.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước
Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “bí mật” được hiểu là: “Điều cần giữ kín
trong phạm vi một số ít người, không để lộ cho người ngoài biết” [113, tr.155]. Như
vậy, “bí mật” là thuật ngữ quy ước về những điều được giữ kín, không để lộ ra,
không được công khai. Quan niệm về bí mật được hình thành từ buổi sơ khai của xã
hội loài người, khi con người ý thức được sự cần thiết phải giữ kín những điều có thể
đem lại nguồn lợi hoặc gắn với lợi ích hay sự sinh tồn của mình. Theo nghĩa đó, bí
mật là một khái niệm rất rộng, có thể là bí mật của một cá nhân, một gia đình, một tổ
chức hoặc của một nhà nước. Mỗi cá nhân, tổ chức, nhà nước đều có những bí mật
riêng của mình, họ là chủ sở hữu bí mật. Trong các chủ thể sở hữu bí mật thì nhà
nước là chủ sở hữu của nhiều bí mật quan trọng, vì khi những bí mật này bị lộ thì sẽ
ảnh hưởng đến sinh mệnh chính trị của một chế độ, một nhà nước, một dân tộc. Như
vậy, BMNN, là một thuật ngữ dùng để chỉ những bí mật thuộc phạm vi nhà nước
quản lý, chi phối, nếu để lộ thì sẽ gây nguy hại cho nhà nước.
Ở Việt Nam, BMNN là thuật ngữ dùng để chỉ những bí mật thuộc sở hữu của
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, do các cơ quan nhà nước hoặc các cơ quan
được nhà nước uỷ quyền tạo ra, khai thác, sử dụng và bảo vệ vì lợi ích chung của nhà
nước và toàn xã hội. Hiện nay, BMNN được hiểu là “những tin về vụ, việc, tài liệu,
vật, địa điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác mà Nhà
nước không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” [109].
Bí mật nhà nước trước hết phải là những tin (thông tin) về vụ, việc, tài liệu, vật,
địa điểm, thời gian, lời nói, tức là những điều báo cho chúng ta biết về một sự việc,
29
một hành động hay một vật, một văn bản, lời nói nào đó trong một khoảng thời gian,
địa điểm xác định. Những thông tin đó là những thông tin quan trọng thuộc các lĩnh
vực của đời sống xã hội như: chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa
học, công nghệ, văn hoá, giáo dục,..
Bí mật nhà nước là những tin mà Nhà nước không công bố (có thể vĩnh viễn)
hoặc chưa công bố (có thời hạn). Nội dung, phạm vi BMNN phản ánh chủ trương,
đường lối, chính sách và hoạt động đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, có tác
động, ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định, vững mạnh của Nhà nước và chế độ
XHCN ở nước ta. Do tính chất quan trọng của thông tin nên Nhà nước không công
bố hoặc chưa công bố và có biện pháp bảo vệ an toàn cho những tin đó.
Những tin thuộc phạm vi BMNN nếu bị tiết lộ sẽ gây nguy hại cho Nhà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam. Vì vậy, những tin nếu bị tiết lộ mà không gây nguy hại
cho Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thì không phải BMNN.
Với nhận thức về BMNN như trên cho thấy, BMNN có những đặc điểm cơ bản sau:
- Bí mật nhà nước là những thông tin có có giá trị đặc biệt, quan hệ trực tiếp
đến sự tồn tại, phát triển bền vững của chế độ XHCN và Nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc. Ở Việt Nam, BMNN được tạo ra và gắn liền với quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và tổ chức, hoạt động của các
cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Nó phản ánh chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bí mật
nhà nước được hình thành trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng và hoạt
động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị, bao gồm: nghệ thuật, phương
pháp cách mạng; phương pháp tổ chức, định hướng điều hành, hoạt động đối nội, đối
ngoại của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức thuộc hệ thống chính trị; các
phát minh, sáng chế, giải pháp khoa học, công nghệ mới và những thông tin phản
ánh tình hình nội bộ có tính chất nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến sự hoạt động
bình thường, ổn định, vững mạnh của các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Thông tin
thuộc phạm vi BMNN trở thành căn cứ, cơ sở quan trọng cho việc xây dựng và tổ
chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình hành động và các
hoạt động cụ thể của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị để thực hiện
30
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo ra sản phẩm mới có chất lượng, góp phần
củng cố, nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của quốc gia trong bối
cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế.
- Bí mật nhà nước là những thông tin cần được giữ kín, không công khai, nếu bị
tiết lộ sẽ gây nguy hại cho lợi ích của Nhà nước, xã hội và rất khó khắc phục. Bí mật
nhà nước khi bị tiết lộ có thể gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại về vật chất, uy
tín, danh dự của Việt Nam trên trường quốc tế, uy tín của Đảng, Nhà nước... đe doạ
đến sự phát triển ổn định, vững mạnh của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
hoặc bị các thế lực thù địch, các loại tội phạm và phần tử xấu sử dụng để chống
Đảng, Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước phải bảo vệ bằng những biện pháp cần
thiết, trong đó giữ kín và giới hạn phạm vi nắm giữ thông tin bí mật là biện pháp
quan trọng. Phạm vi giữ bí mật là bí mật đối với người không có trách nhiệm trong
soạn thảo, in, sao, vận chuyển, chuyển giao, sử dụng, lưu giữ, bảo quản và tiêu huỷ...
mà không phải bí mật đối với tất cả mọi người. Như vậy, đặc trưng về phương thức
tồn tại của thông tin thuộc phạm vi BMNN là phương thức bí mật. Cấp độ giữ bí mật
của mỗi thông tin khác nhau có sự khác nhau, tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ quan
trọng của nó và hậu quả tác hại xảy ra nếu bị lộ, mất.
- Bí mật nhà nước thể hiện dưới nhiều hình thức: chữ viết, âm thanh, hình ảnh,
ký hiệu, tín hiệu, tín hiệu số... Nội dung thông tin cũng rất đa dạng, có thể là thông
tin về vụ, việc, địa điểm, thời gian, lời nói thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội: chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa
học, công nghệ... Cũng có khi chỉ là những thông tin liên quan đến cá nhân nhưng
nếu bị tiết lộ sẽ gây nguy hại cho Nhà nước. Chẳng hạn như thông tin về cá nhân
lãnh tụ, lịch trình làm việc của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước chưa công bố...
Bí mật nhà nước có thể được chứa đựng trong nhiều phương tiện mang thông tin
khác nhau như: văn bản, băng, đĩa ghi âm, ghi hình, thẻ nhớ hay một vật, sản phẩm
hoặc trong bộ óc của một người.
- Phạm vi BMNN luôn có sự thay đổi theo thời gian và cùng với sự phát triển
của kinh tế, xã hội. Bí mật nhà nước có tính lịch sử vì nó không tồn tại vĩnh viễn mà
chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định theo yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, đối ngoại
của Đảng, Nhà nước và hoạt động chuyên môn của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể.
31
Tính chất quan trọng, phạm vi, độ mật (Tuyệt mật, Tối mật, Mật) của BMNN cũng
thay đổi (giải mật, tăng, giảm độ mật) theo yêu cầu của công tác bảo vệ nhằm phục
vụ có hiệu quả các hoạt động đối nội, đối ngoại, phát triển kinh tế, xã hội và an ninh,
quốc phòng. Một thông tin BMNN, dù quan trọng nhưng khi đã được Nhà nước công
bố công khai thì tính mật không còn nữa. Khoảng thời gian tồn tại của BMNN tùy
thuộc vào nội dung, tính chất và phạm vi của nó. Trên thực tế, có những BMNN mà
khoảng thời gian tồn tại của nó rất ngắn, tính bằng phút hoặc bằng giờ và ngược lại,
có những BMNN tồn tại hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm.
Chẳng hạn như bức thư do những người xây dựng thủy điện Hòa Bình viết,
hiện đang được bảo quản tại khu vực thủy điện Hòa Bình sẽ được giữ bí mật đến
năm 2100.
- Bí mật nhà nước có thể được vận chuyển, chuyển giao, sử dụng trong những
phạm vi nhất định, liên quan đến nhiều người, số lượng tài liệu, vật mang BMNN
tương đối lớn, do đó, luôn tiềm ẩn nguy cơ cao bị lộ, mất. Bí mật nhà nước do các cơ
quan nhà nước và các cơ quan được Nhà nước uỷ quyền tạo ra, được hình thành và
luôn gắn liền với quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà
nước, hệ thống chính trị. Theo yêu cầu khách quan, những BMNN được tạo ra từ quá
trình hình thành, phát triển của các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước phải được
sử dụng thường xuyên, đưa vào khai thác nhằm đảm bảo hoạt động chuyên môn bình
thường tại cơ quan, đơn vị, góp phần phục vụ lợi ích chung của Nhà nước, của Nhân
dân. Do vậy, BMNN thường được chuyển giao, sử dụng trong phạm vi nhất định, cả
ở trong nước và ở nước ngoài. Bí mật nhà nước cũng liên quan đến nhiều người, bao
gồm: người soạn thảo, tạo ra BMNN; người chịu trách nhiệm quyết định, in sao, vận
chuyển, giao nhận, bảo quản, lưu giữ, tiêu huỷ BMNN; người được phép nghiên cứu,
khai thác BMNN, các cá nhân, cơ quan, tổ chức sử dụng BMNN phục vụ cho hoạt
động chuyên môn ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội... Mặt khác, xuất phát từ
đặc điểm hoạt động của hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay nên số lượng
tài liệu, vật mang BMNN thường rất lớn.
- Bí mật nhà nước là mục tiêu hoạt động tình báo của các cơ quan đặc biệt nước
ngoài, là đối tượng xâm phạm của các loại tội phạm. Về bản chất, BMNN phản ánh
những lợi ích cơ bản của một quốc gia, dân tộc. Ở phạm vi hẹp hơn, BMNN luôn
32
chứa đựng những thông tin quan trọng, có liên quan đến hoạt động bình thường của
các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị xã hội, có liên hệ trực tiếp đến lợi ích
của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Chính vì thế, BMNN luôn là mục tiêu hoạt
động tình báo của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, họ thu thập BMNN để phục vụ
cho việc hoạch định các chính sách, kế hoạch và quyết định của họ. Đồng thời
BMNN cũng là đối tượng xâm phạm của các loại tội phạm, các phần tử xấu để phục
vụ cho ý đồ và hoạt động của chúng.
2.1.1.2. Khái niệm bảo vệ bí mật nhà nước
Pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay chưa có quy định khái niệm bảo vệ
BMNN, cho nên còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm bảo vệ BMNN. Có
quan điểm tiếp cận chung, coi bảo vệ BMNN là một hoạt động áp dụng pháp luật để
phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN, cho rằng: “Bảo vệ BMNN là hoạt
động tổ chức sử dụng lực lượng, biện pháp, phương tiện cần thiết để giữ gìn, chống
lại mọi sự huỷ hoại, xâm phạm BMNN; chủ động phòng ngừa, phát hiện và xử lý
những hành vi làm lộ, mất hoặc xâm hại đến BMNN và kịp thời khắc phục hậu quả,
tác hại xảy ra” [09]. Quan điểm khác, tiếp cận dưới góc độ công tác Công an, coi
BMNN là một đối tượng quan trọng cần phải bảo vệ, chống lại mọi sự xâm hại của
các thế lực thù địch và vi phạm pháp luật khác thì cho rằng: “Công tác bảo vệ
BMNN là hoạt động tổ chức sử dụng các lực lượng, phương tiện, biện pháp đảm bảo
sự an toàn cho BMNN phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
hoạt động xâm hại đến BMNN và những hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ
BMNN” [23]. Ngoài ra còn có quan điểm coi bảo vệ BMNN vừa là một hoạt động áp
dụng pháp luật, vừa là một công tác Công an: “Bảo vệ bí BMNN đó là hoạt động tổ
chức, sử dụng các lực lượng, phương tiện, biện pháp nhằm đảm bảo sự an toàn cho
BMNN, phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm
hại đến BMNN, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN, khắc phục hậu quả do vi
phạm pháp luật về bảo vệ BMNN gây ra” [107].
Như vậy, các quan điểm trên đều thống nhất cho rằng bảo vệ BMNN là hoạt
động tổ chức, sử dụng lực lượng, phương tiện, biện pháp để đảm bảo sự an toàn cho
BMNN, phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm
hại đến BMNN.
33
Mặt khác, bảo vệ BMNN là một nhiệm vụ trong bảo vệ ANQG. Do đó, bảo vệ
BMNN cũng được hiểu là một bộ phận của bảo vệ ANQG. Luật ANQG quy định:
“Bảo vệ ANQG là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt
động xâm phạm ANQG” [76, tr.8].
Với cách tiếp cận đó, ta có thể hiểu: Bảo vệ BMNN là phòng ngừa, phát hiện,
ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN.
Như vậy, khái niệm bảo vệ BMNN đã chỉ rõ, bảo vệ bí mật gồm 4 loại hoạt
động có chung mục đích làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN, bảo đảm an
toàn BMNN, đó là: phòng ngừa; phát hiện; ngăn chặn và đấu tranh với các hoạt động
xâm phạm BMNN. Các hoạt động này được tiến hành đồng thời và thường xuyên,
liên tục. Mục tiêu cao nhất của bảo vệ BMNN là đảm bảo an toàn tuyệt đối cho
BMNN trong bất kỳ tình huống nào, không để cho các thế lực thù địch và bọn tội
phạm thu thập, chiếm đoạt được BMNN.
Nội dung bảo vệ BMNN là việc tổ chức, sử dụng tổng hợp các lực lượng,
phương tiện, biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các
hoạt động xâm phạm BMNN. Cụ thể gồm có các nội dung sau:
- Tham mưu với Đảng, Nhà nước tổ chức triển khai công tác bảo vệ BMNN. Để
tổ chức chỉ đạo có hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong phạm vi cả nước, Bộ Công
an chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương tham mưu
cho Đảng, Nhà nước ban hành đường lối, chính sách, pháp luật về bảo vệ BMNN; chỉ
đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ BMNN; áp dụng các hình thức, biện pháp, đối
sách xử lý đối với các đối tượng thu thập, chiếm đoạt hoặc làm lộ, mất BMNN, đấu
tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động tình báo của các cơ quan đặc biệt nước ngoài.
- Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN. Đó là sự tác động
có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước đối với
hoạt động xác lập, soạn thảo, in ấn, vận chuyển, giao nhận, sử dụng, lưu giữ, phổ
biến, nghiên cứu, cung cấp, tiêu huỷ BMNN của các cơ quan, tổ chức và công dân
nhằm đảm bảo an toàn cho BMNN. Quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN là một nội
dung của quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về an ninh, trật tự nói
riêng. Vì vậy, Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền sử dụng pháp luật và
bằng pháp luật để quản lý đối với hoạt động bảo vệ BMNN.
34
- Xây dựng, triển khai các phương án, kế hoạch, áp dụng các biện pháp bảo vệ
BMNN, khu vực, địa điểm cấm, nơi diễn ra các hoạt động có nội dung thuộc phạm vi
BMNN. Đây là nội dung trọng tâm, mang tính chất nghiệp vụ chuyên sâu của cơ
quan an ninh nhằm chủ động bố trí lực lượng, phương tiện, phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan, ban, ngành của Đảng, Nhà nước tổ chức bảo vệ an ninh các địa bàn, mục
tiêu trọng điểm nơi tập trung BMNN, khu vực, địa điểm cấm, nơi diễn ra các hoạt
động quan trọng, có liên quan trực tiếp đến ANQG; phòng ngừa, ngăn chặn hoạt
động của các phần tử thù địch, các loại tội phạm đột nhập, xâm nhập phương tiện, kỹ
thuật thu thập, chiếm đoạt BMNN. Đồng thời, dự báo và đưa ra được phương hướng
xử lý các tình huống nghiệp vụ đột xuất, bất ngờ như: đối tượng tìm cách thu thập,
đánh cắp, moi hỏi thông tin BMNN hoặc cố ý cung cấp cho cá nhân, tổ chức nước
ngoài vì động cơ kinh tế hoặc chính trị...
- Phòng, chống lộ, mất BMNN và hoạt động của các thế lực thù địch, các đối
tượng phạm tội hoạt động thu thập BMNN. Cơ quan an ninh áp dụng tổng hợp các
biện pháp công tác theo quy định của pháp luật về ANQG, bao gồm: biện pháp quần
chúng, biện pháp ngoại giao, biện pháp kinh tế, biện pháp pháp luật, biện pháp khoa
hoc - kỹ thuật, biện pháp nghiệp vụ, biện pháp vũ trang để tổ chức phòng ngừa tại
các địa bàn, mục tiêu nơi tập trung nhiều BMNN, phát hiện kịp thời những sơ hở,
thiếu sót của các cơ quan chức năng và âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch,
các loại tội phạm xâm hại sự an toàn của BMNN. Trên cơ sở đó tổ chức triển khai
các biện pháp công tác ngăn chặn, bao vây, vô hiệu hoá, làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động xâm hại đến BMNN và những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
BMNN, khắc phục những hậu quả, thiệt hại xảy ra (nếu có).
- Điều tra, xử lý các vụ lộ, mất BMNN, đối tượng có hành vi thu thập, chiếm
đoạt, tiết lộ, tiêu huỷ trái phép BMNN. Căn cứ vào quy định của pháp luật về chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan Công an trong công tác bảo vệ ANQG, giữ gìn trật tự,
an toàn xã hội, cơ quan an ninh tiến hành các biện pháp theo thẩm quyền để điều tra,
xác minh làm rõ nguyên nhân của các vụ lộ, mất BMNN; thu thập, củng cố tài liệu
chứng cứ về hành vi thu thập, chiến đoạt, tiết lộ, tiêu huỷ trái phép BMNN của các
đối tượng, làm căn cứ để xử lý nghiêm minh trước pháp luật hoặc phục vụ công tác
đánh địch lâu dài.
35
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
2.1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Pháp luật nói chung được hiểu là những quy tắc xử sự chung (QPPL) do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước
bảo đảm thực hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các quan hệ xã
hội, nhằm duy trì xã hội [42, tr.167]. Pháp luật được biểu hiện ra bên ngoài qua ba
hình thức là tập quán pháp, tiền lệ pháp và VBQPPL. Trong đó, VBQPPL là những
văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, có chứa đựng các quy tắc xử
sự mang tính bắt buộc chung được áp dụng nhiều lần trong thực tế cuộc sống. Các
VBQPPL chia làm 2 loại: văn bản luật và văn bản dưới luật. Đối với pháp luật Việt
Nam hiện nay, hình thức biểu hiện chủ yếu của pháp luật là VBQPPL, đây được coi
là một hình thức pháp luật tiến bộ nhất.
Cấu trúc của pháp luật gồm các bộ phận cấu thành là: QPPL, chế định pháp luật
và ngành luật. QPPL là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra
hoặc thừa nhận; QPPL được coi là tế bào của hệ thống pháp luật. Chế định pháp luật
là tổng thể các QPPL điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội cùng loại, đồng tính
chất trong cùng một ngành luật [42, tr.203].
Pháp luật về bảo vệ BMNN là một lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, là một bộ
phận hợp thành của hệ thống pháp luật nói chung. Đồng thời, pháp luật về bảo vệ
BMNN cũng là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận hợp thành để điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong bảo vệ BMNN. Bảo vệ BMNN là một bộ phận quan trọng
trong bảo vệ ANQG, bảo đảm cho sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ XHCN
và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bảo vệ BMNN là nhiệm vụ quan trọng
của Nhà nước, của mọi cơ quan, tổ chức và công dân. Để bảo vệ BMNN, Nhà nước
tiến hành nhiều hoạt động, trong đó có ban hành các QPPL quy định về BMNN,
quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân
trong bảo vệ BMNN và khen thưởng, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN.
Tổng thể các QPPL đó có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong hoạt động bảo vệ BMNN, tức là các quan hệ xã hội phát sinh
trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm
36
phạm BMNN. Các QPPL này được thể hiện trong các VBQPPL do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự nhất định.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu: Pháp luật về bảo vệ BMNN là tổng thể các
QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN, được thể hiện trong
các VBQPPL do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ
tục nhất định.
Khái niệm trên đây cho thấy, pháp luật về bảo vệ BMNN có cấu trúc chặt chẽ,
vừa bảo đảm tính liên kết nội tại, tính hệ thống vừa bảo đảm tính xác định chặt chẽ
về nội dung và hình thức biểu hiện. Theo đó, về nội dung điều chỉnh của pháp luật về
bảo vệ BMNN là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm
BMNN. Các quy phạm đó bao gồm các QPPL quy định về BMNN, quản lý nhà nước
về bảo vệ BMNN, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân trong bảo vệ
BMNN và quy định về khen thưởng, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN.
Pháp luật về bảo vệ BMNN là một bộ phận của hệ thống pháp luật nói chung, do
vậy, phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật; đồng thời, giữa
các QPPL này có mối liên hệ chặt chẽ, quan hệ nội tại, thống nhất, hướng đến việc
bảo vệ tuyệt đối an toàn cho BMNN. Về mặt hình thức, hệ thống QPPL về bảo vệ
BMNN được thể hiện trong các VBQPPL với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau,
từ Hiến pháp đến các bộ luật, luật và văn bản quy phạm dưới luật tạo thành trật tự
thống nhất; các văn bản này được ban hành theo trình tự, thủ tục luật định.
2.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Pháp luật về bảo vệ BMNN là một bộ phận của hệ thống pháp luật, do vậy, nó
có đầy đủ các đặc trưng của pháp luật nói chung. Bên cạnh đó, pháp luật về bảo vệ
BMNN có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, pháp luật về bảo vệ BMNN được hình thành từ rất sớm. Bảo vệ
BMNN là một nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ ANQG, gắn liền với sự ổn định,
phát triển bền vững của chế độ XHCN và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, sự
bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng mới được
37
thành lập, đất nước ta đã phải đối phó với nhiều nguy cơ, thách thách to lớn về
ANQG, “thù trong, giặc ngoài”, tình thế đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước
tình hình đó, Đảng, Nhà nước ta đã sử dụng mọi lực lượng, phương tiện, biện pháp
để bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ chính quyền non trẻ, trong đó có việc ban
hành các VBQPPL làm cơ sở cho việc đấu tranh ngăn chặn các âm mưu và hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.
Các QPPL về bảo vệ BMNN ra đời ngay từ thời kỳ này và gắn liền với việc bảo
vệ ANQG, đó là cơ sở để hình thành nên pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta.
Ngày 14/02/1946, Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 21/SL về tổ chức các Tòa
án quân sự, trong đó quy định: “Tòa án quân sự xét xử tất cả những người nào phạm
một việc gì sau hay trước ngày 19/8/1945 có phương hại đến nền độc lập của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa" và “Tòa án quân sự có thể áp dụng một trong năm hình
phạt sau đây đối với người phạm tội xâm phạm ANQG”. Theo Sắc lệnh này, các
hành vi xâm phạm ANQG được hiểu là “việc gì sau hay trước ngày 19/8/1945 có
phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, trong đó có hành
vi xâm phạm đến BMNN (hoặc bí mật của Chính phủ, BMQG...). Đến các giai đoạn
tiếp theo, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống các QPPL trực tiếp quy định về bảo vệ
BMNN như: Sắc lệnh số 154/SL ngày 17/11/1950 về việc ấn định những hình phạt
trừng trị việc để tiết lộ bí mật cơ quan hay công tác của Chính phủ; Sắc lệnh số
69/SL ngày 05/12/1951 bổ khuyết Sắc lệnh số 154/SL ngày 17/11/1950, mục đích là:
(1) Giữ BMQG, ngăn ngừa địch và tay sai của chúng dò xét, đánh cắp BMQG; (2)
Đặt nhiệm vụ cho bộ đội, cơ quan, cán bộ, các đoàn thể, các báo chí và nhân dân
phải giữ BMQG. Đến nay, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống các QPPL quy định về
bảo vệ BMNN, các QPPL này được quy định trong nhiều văn bản QPPL với các cấp
độ khác nhau, từ Hiến pháp đến các bộ luật, luật và văn bản quy phạm dưới luật,
trong đó có Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000.
Thứ hai, pháp luật về bảo vệ BMNN luôn phải đáp ứng đồng thời các yêu cầu
của quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN và công nhận, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Pháp luật về bảo vệ BMNN là một công cụ sắc bén, hữu hiệu để nhà
nước quản lý hoạt động bảo vệ BMNN. Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện những
quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN nhằm phòng ngừa, ngăn chặn việc lộ, mất
38
BMNN, đảm bảo an toàn BMNN có quan hệ mật thiết với việc bảo đảm các quyền tự
do, dân chủ của con người, của công dân được quy định trong Hiến pháp, luật và các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin... Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm
và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân...”; Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật”; Điều 25 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin...” [81]; Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền quy định: “Ai cũng có
quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền
không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận
cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên
giới quốc gia” [58]; Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị quy
định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên
truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất
kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ” [59].
Tuy nhiên, các quyền này cũng bị hạn chế trong các trường hợp luật định, như
khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, ANQG, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”;
khoản 3 Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị quy định: “Việc
thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 Điều này kèm theo những nghĩa vụ và
trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy
nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: a)
Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ ANQG hoặc trật tự công
cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội” [59].
Như vậy, quá trình quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN nhằm phòng ngừa, ngăn
chặn việc lộ, mất BMNN, đảm bảo an toàn BMNN luôn đặt ra yêu cầu phải đồng
thời bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Vì vậy, pháp luật về bảo vệ
39
BMNN phải đáp ứng đồng thời yêu cầu của quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN và
công nhận, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, pháp luật về bảo vệ BMNN gồm các QPPL thể hiện trong nhiều
VBQPPL với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau. Pháp luật về bảo vệ BMNN
không phải là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đó là một
hệ thống các QPPL có quan hệ mật thiết với nhau, có cùng mục đích, dùng để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh
làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN. Các QPPL này thuộc nhiều ngành luật
khác nhau (Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Tố tụng hình sự, LHS) và được
thể hiện trong rất nhiều VBQPPL từ Hiến ph...a học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN,
Hà Nội.
104. Trung tâm Từ điển học (2011), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
105. Trường đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp
luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
106. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Liên bang Nga, Nxb
CAND, Hà Nội.
107. Phan Xuân Tuy (2014), “Góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN”,
Tạp chí CAND, số 01-12.
108. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, tr.263.
109. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Pháp lệnh Bảo
vệ BMNN, số 30/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/12/2000.
110. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Pháp lệnh
Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, số 03/2012/UBTVQH13 ngày
16/4/2012.
111. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, “Tờ trình Dự
án Luật Bảo vệ BMNN”, tại trang
ail.aspx?ItemID=717&TabIndex=2&TaiLieuID=2522, [truy cập ngày
15/8/2017].
112. Đỗ Hữu Vấn (2005), Giải pháp của lực lượng An ninh nhân dân nhằm nâng
cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong lĩnh vực kinh tế trọng điểm ở Việt
Nam hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ Công an, Hà Nội.
113. Viện Khoa hoc xã hội (2000), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
114. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ (1992), Từ điển
tiếng Việt, Hà Nội.
115. Phan Quang Vinh (2010), “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 17(187)-09.
148
116. Phan Quang Vinh (2015), “Chủ thể thực hiện pháp luật về bảo vệ BMNN theo
quy định của pháp luật Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề
lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
117. Congress of the Republic of Moldova (1994), “Law on state secrets”, tại trang
8)008-e, [truy cập ngày 10/01/2017].
118. Congress of the State of Georgia (1999), “Law on state secrets”, tại trang
https://matsne.gov.ge/en/document/download/33280/22/en/pdf, [truy cập ngày
30/10/2016].
119. National Assembly of the Republic of Albania (1999), “Laws on information
classified as state secrets”, tại trang
juridica.com/legislacion/albania/, [truy cập ngày 20/01/2017].
120. National Assembly of the Republic of Mongolia (2004), “Law on state secrets”,
tại trang [truy cập ngày
20/10/2016].
121. Russian Federation House of Representatives (2007), “Law on state secrets”,
tại trang
https://www.wto.org/english/thewto_e/acc_e/rus_e/WTACCRUS58_LEG_125.
pdf, [truy cập ngày 10/01/2017].
122. Standing Committee of the National Assembly of the People's Republic of
China (1988), “Law of Archives”, tại trang
[truy cập ngày 10/01/2017]
123. Standing Committee of the National Assembly of the People's Republic of
China (1988), “Law of the People's Republic of China on Guarding State
Secrets”, tại trang
12/12/content_1383925.htm, [truy cập ngày 10/01/2017].
PHỤ LỤC
HỆ THỐNG VĂN BẢN VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
Phần thứ nhất
PHÁP LỆNH BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
VÀ CÁC VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THI HÀNH
STT Tên văn bản
1 Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước ngày 28 tháng 12 năm 2000
2
Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28 tháng 3 năm 2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước
3
Quyết định số 160/2003/QĐ-TTg ngày 06 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ bí mật nhà
nước trong tình hình mới
4
Thông tư số 33/2015/TT-BCA ngày 20 tháng 7 năm 2015 của Bộ Công an
hướng dẫn thực một số điều của Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28
tháng 3 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo
vệ bí mật nhà nước
5
Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 21 tháng 02 năm 2012 của Thủ tướng chính phủ
về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ bí mật nhà nước trong tình
hình mới
6
Hướng dẫn số 02/HD-BCA-A81 ngày 12 tháng 3 năm 2012 của Bộ Công an
về thực hiện chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 21 tháng 02 năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ bí mật
nhà nước trong tình hình mới
Nguồn: Cục Pháp chế và cải cách hành, chính tư pháp – Bộ Công an
Phần thứ hai
DANH MỤC BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
CÁC CÁN BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG
STT Tên văn bản
7
Quyết định số 220/2003/QĐ-TTg ngày 28 tháng 10 năm 2003 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật
của Ban Cán sự Đảng ngoài nước
8
Quyết định số 15/2003/QĐ-TTg ngày 20 tháng 1 năm 2003 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật trong ngành
Ngân hàng
9
Quyết định số 151/2003/QĐ-BCA ngày 11 tháng 03 năm 2003 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Ngân hàng
10
Quyết định số 637/2003/QĐ-BCA(A11) ngày 12 tháng 9 năm 2003 về quy
định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Trung ương Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh
11
Quyết định số 41/2003/QĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 2003 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật thuộc
phạm vi Quốc phòng
12
Quyết định số 41/2003/QĐ-BQP ngày 8 tháng 4 năm 2003 của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng về danh mục bí mật nhà nước độ Mật thuộc phạm vi
Quốc phòng
13
Quyết định số 168/2004/QĐ-BCA ngày 12 tháng 9 năm 2003 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật thuộc lĩnh vực
quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp
14
Quyết định số 18/2004/QĐ-TTg ngày 12 tháng 02 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật thuộc lĩnh vực quản lý
nhà nước của Bộ Tư pháp
15
Quyết định số 45/2004/QĐ-TTg ngày 07 tháng 01 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật nhà nước độ Mật của
Ban tổ chức Trung ương
16
Quyết định số 31/2004/QĐ-BCA ngày 08 tháng 11 năm 2004 về danh mục
bí mật nhà nước độ Mật của Ban Tổ chức Trung ương
17
Quyết định số 322/2004/QĐ-BCA ngày 7 tháng 04 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Tạp chí Cộng sản
17
Quyết định số 181/2004/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật
của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức
liên quan thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
19
Quyết định số 1279/2004/QĐ-BCA ngày 10 tháng 11 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của của Tỉnh ủy,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức liên quan
thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
20
Quyết định số 01/2004/QĐ-TTg ngày 05 tháng 01 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của ngành Toà
án nhân dân
21
Quyết định số 30/2004/QĐ-BCA ngày 08 tháng 01 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Tòa án nhân
dân
22
Quyết định số 154/2004/QĐ-TTg ngày 19 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Quốc
hội, các Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Văn phòng Quốc hội
23
Quyết định số 486/2004/QĐ-BCA ngày 28 tháng 5 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Quốc hội, các cơ
quan Quốc hội, các Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Văn phòng
Quốc hội
24
Quyết định số 19/2004/QĐ-BCA ngày 05 tháng 3 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Báo Nhân dân
25
Quyết định số 89/2004/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật của nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật trong
ngành Cơ yếu
26
Quyết định số 482/2004/QĐ-BCA ngày 27 tháng 5 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Cơ yếu
27
Quyết định số 193/2004/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Đài Tiếng nói Việt Nam
28
Quyết định số 1307/2004/QĐ-BCA ngày 12 tháng 11 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Đài Tiếng nói
Việt Nam
29
Quyết định số 485/2004/QĐ-BCA ngày 28 tháng 5 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Đài Truyền
hình Việt Nam
30
Quyết định số 1485/2005/QĐ-BCA ngày 20 tháng 12 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Giao
thông vận tải
31
Quyết định số 1261/2004/QĐ-BCA ngày 8 tháng 11 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Hội Cựu
chiến binh Việt Nam
32
Quyết định số 52/2004 QĐ-BCA ngày 15 tháng 01 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam
33
Quyết định số 170/2004/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của cơ
quan Ủy ban Kiểm tra Đảng
34
Quyết định số 1040/2004/QĐ-BCA ngày 11 tháng 5 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của cơ
quan Ủy ban Kiểm tra Đảng
35
Quyết định số 409/2004/QĐ-BCA ngày 05 tháng 5 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật thuộc lĩnh vực Khoa học
và Công nghệ
36 Quyết định số 88/2004/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ tuyệt mật và tối mật trong
ngành Kiểm sát
37
Quyết định số 481/2004/QĐ-BCA ngày 27 tháng 5 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Kiểm sát
38
Quyết định số 156/2004/QĐ-TTg ngày 25 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật của Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật
39
Quyết định số 749/2004/QĐ-BCA ngày 18 tháng 6 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của nhà xuất bản Chính
trị quốc gia - Sự thật
40
Quyết định số 109/2005/QĐ-BCA ngày 01 tháng 02 năm 2005 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Bảo
hiểm xã hội Việt Nam
41
Quyết định số 306/2005/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2005 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật về
Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
42
Quyết định số 1811/2005/QĐ-BCA ngày 08 tháng 12 năm 2005 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ban Quản lý
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
43
Quyết định số 83/2005/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm 2005 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của Liên hiệp tổ chức
hữu nghị Việt Nam
44
Quyết định số 479/2005/QĐ-BCA ngày 25 tháng 4 năm 2005 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Liên hiệp tổ chức
hữu nghị Việt Nam
45
Thông tư số 211/2005/QĐ-BCA ngày 18 tháng 6 năm 2005 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Thể
thao, Văn hóa và Du lịch
46
Quyết định số 211/2005/QĐ-TTg ngày 25 tháng 8 năm 2005 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Văn
phòng Chủ tịch nước
47
Quyết định số 1254/2004/QĐ-BCA ngày 08 tháng 9 năm 2005 của Bộ
trưởng Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Văn
phòng Chủ tịch nước
48
Quyết định số 21/2006/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam
49
Quyết định số 144/2006/QĐ-BCA ngày 24 tháng 02 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam
50
Quyết định số 143/2006/QĐ-TTg ngày 19 tháng 6 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của Viện Khoa học xã
hội Việt Nam
51
Quyết định số 801/2006/QĐ-BCA ngày 28 tháng 06 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Viện
Khoa học xã hội Việt Nam
52
Quyết định số 214/2006/QĐ-BCA ngày 24 tháng 3 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ủy ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em
53
Quyết định số 91/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Ủy
ban Dân tộc
54
Quyết định số 329/2006/QĐ-BCA ngày 11 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật thuộc lĩnh vực
quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc
55
Quyết định số 244/2006/QĐ-TTg ngày 27 tháng 01 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật
của Ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương
56
Quyết định số 1657/2006/QĐ-BCA ngày 09 tháng 10 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ban Bảo vệ
chính trị nội bộ Trung ương
57
Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật trong ngành Bưu chính
Viễn thông và Công nghệ thông tin
58
Quyết định số 96/QĐ-BCA ngày 22 tháng 8 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ
Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong nghành Bưu chính
Viễn thông và Công nghệ thông tin
59
Quyết định số 660/2006/QĐ-BCA ngày 01 tháng 6 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam
60
Quyết định số 71/2006/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Kiểm
toán nhà nước
61
Quyết định số 269/2006/QĐ-BCA ngày 17 tháng 4 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Kiểm toán nhà nước
62
Quyết định số 04/2007/QĐ-BCA ngày 02 tháng 01 năm 2007 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ban Nghiên cứu của
Bộ Chính trị về an ninh quốc gia
63
Quyết định số 67/2007/QĐ-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt Mật và Tối mật trong
ngành Kế hoạch và đầu tư
64
Quyết định số 650/QĐ-BCA ngày 13 tháng 6 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ
Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Kế hoạch và
Đầu tư
65
Quyết định số 1858/2008/QĐ-BCA ngày 5 tháng 11 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Thông tấn xã
Việt Nam
66
Quyết định số 130/2008/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Ban
Dân vận Trung ương
67
Quyết định số 1856/2008/QĐ-BCA ngày 05 tháng 11 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật Nhà nước độ Mật của Ban Dân vận
Trung ương và hệ thống công tác dân vận của Đảng
68
Quyết định số 2039/2008/QĐ-BCA ngày 03 tháng 12 năm 2008 danh mục
bí mật nhà nước độ Mật của ngành xây dựng
69
Quyết định số 106/2008/QĐ-TTg ngày 21 tháng 7 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật trong
ngành Công thương
70
Quyết định số 1534/2008/QĐ-BCA ngày 18 tháng 9 năm 2008 về danh mục
bí mật nhà nước độ Mật của ngành Công thương
71
Quyết định số 1857/2008/QĐ-BCA ngày 05 tháng 11 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của chính phủ,
Văn phòng Chính phủ
72
Quyết định số 168/2008/QĐ-TTg ngày 12 tháng 12 năm 2008 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
73
Thông tư số 68/2009/TT-BCA ngày 30 tháng 11 năm 2009 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước của Học viện Chính trị-
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
74
Quyết định số 90/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 7 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của
Trung ương Đảng và Văn phòng Trung ương Đảng
75
Quyết định số 48/2009/QĐ-BCA ngày 28 tháng 8 năm 2009 về quy định
danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Trung ương Đảng và Văn phòng
Trung ương Đảng
76
Quyết định số 73/2009/QĐ-TTg ngày 04 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật của Ban
Tuyên giáo Trung ương
77
Thông tư số 39/2009/TT-BCA ngày 18 tháng 6 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ
Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ mật của Ban Tuyên giáo
Trung ương
78
Quyết định số 128/2009/QĐ-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật
của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
79
Thông tư số 73/2009/TT-BCA ngày 24 tháng 12 năm 2009 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn
80
Quyết định số 13/2010/QĐ-TTg ngày 12 tháng 02 năm 2010 của Thủ tướng
chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật trong lực
lượng Công an nhân dân
81
Thông tư số 11/2010/TT-BCA ngày 25 tháng 3 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ
Công an quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong lực lượng Công
an nhân dân
82
Quyết định số 27/2011/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và tối mật thuộc lĩnh
vực Khoa học và Công nghệ
83
Quyết định số 18/2012/QĐ-TTg ngày 03 tháng 4 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của
ngành Nội vụ
84
Thông tư số 36/2012/TT-BCA ngày 18 tháng 6 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ
Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Nội vụ
85
Thông tư số 64/2012/TT-BCA ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ủy ban
Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam
86
Quyết định số 22/2012/QĐ-TTg ngày 22 tháng 5 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Ban Nội chính Trung
ương
87
Quyết định số 59/2013/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của
ngành Tài chính
88
Thông tư số 56/2013/TT-BCA ngày 13 tháng 11 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ
Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Tài chính
89
Quyết định số 21/2013/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật trong lĩnh vực Tài
nguyên và Môi trường
90
Thông tư số 29/2013/TT-BCA ngày 10 tháng 5 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ
Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong lĩnh vực Tài nguyên và
Môi trường
91
Quyết định số 81/2013/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của
ngành Thể thao, Văn hóa và Du lịch
92
Thông tư số 32/2014/TT-BCA ngày 25 tháng 7 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ
Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Hội Nông dân Việt Nam
93
Quyết định số 52/2014/QĐ-TTg ngày 16 tháng 9 năm 2014 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của ngành Lao động -
Thương binh và xã hội
94
Thông tư số 59/2014/TT-BCA ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Lao động -
Thương binh và xã hội
95
Thông tư số 084/2014/TT-BCA ngày 321 tháng 02 năm 2014 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Ban Nội chính Trung ương
96
Quyết định số 17/2014/QĐ-TTg ngày 25 tháng 02 năm 2014 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật của ngành
Ngoại giao
97
Thông tư số 12/2014/TT-BCA ngày 19 tháng 3 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ
Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Ngoại giao
98
Thông tư số 63/2014/TT-BCA ngày 26 tháng 11 năm 2014 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ban Kinh tế
Trung ương
99
Quyết định số 49/2014/QĐ-TTg ngày 04 tháng 9 năm 2014 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Ban
Kinh tế Trung ương
100
Thông tư 08/2015/QĐ-BCA ngày 27 tháng 01 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ
Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Thanh tra
101
Quyết định số 56/2015/QĐ-TTg ngày 10 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật trong
ngành Y tế
102
Thông tư số 06/2015/TT-BCA ngày 31 tháng 3 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ
Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Y tế
103
Quyết định số 59/2016/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2016 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật trong nghành Giáo dục
và Đào tạo
104
Thông tư số 11/2017/QĐ-BCA ngày 23 tháng 3 năm 2017 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Giáo dục và
Đào tạo
Nguồn: Cục Pháp chế và cải cách hành, chính tư pháp – Bộ Công an
Phần thứ ba
CÁC QUY ĐỊNH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ BỘ CÔNG AN
CÓ LIÊN QUAN VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
A. CÁC QUY ĐỊNH CỦA ĐẢNG
STT Tên văn bản
105
Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 25 tháng 12 năm 1997 của Bộ Chính trị về nói
và viết những vấn đề liên quan đến lịch sử các đồng chí lãnh đạo Đảng,
Nhà nước
106
Chỉ thị số 64-CT/TW ngày 14 tháng 02 năm 2001 của Bộ Chính trị về giữ
nghiêm kỷ luật và bảo vệ bí mật của Đảng trong tình hình hiện nay
107
Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 14 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị về bảo
vệ bí mật của Đảng trong phát ngôn, sử dụng, bảo quản thông tin, tài liệu
trong tình hình mới
108
Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 14 tháng 10 năm 2006 của Bộ Chính trị về tăng
cường lãnh đạo công tác đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới
109
Quy chế số 22-CT-TW ngày 19 tháng 10 năm 2006 của Ban chấp hành
Trung ương về thu hồi tài liệu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước
đã chuyển công tác, nghỉ hưu, từ trần
110
Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07 tháng 7 năm 2007 của Bộ Chính trị về sự
lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều
tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng
111
Quy định số 212-QĐ/TW ngày 16 tháng 3 năm 2009 quy định giải mật tài
liệu của cơ quan, tổ chức trước khi nộp và lưu vào kho lưu trữ của Trung
ương Đảng và tài liệu của kho lưu trữ Trung ương Đảng
112
Quy định số 47-QĐ/TW ngày 01 tháng 11 năm 2011 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về những điều Đảng viên không được làm
Nguồn: Cục Pháp chế và cải cách hành, chính tư pháp – Bộ Công an
QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC
STT Tên văn bản
Năm ban
hành
113 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 1999
114 Luật An ninh quốc gia 2004
115 Luật Phòng, chống tham nhũng 2005
116 Luật Giao dịch điện tử 2005
117 Luật Công nghệ thông tin 2006
118 Luật Tương trợ tư pháp 2007
119 Luật Cán bộ, công chức 2008
120 Luật Công nghệ cao 2008
121 Luật Khám bênh, chữa bệnh 2009
122
Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ở nước ngoài
2009
123 Luật Quy hoạch đô thị 2009
124 Luật Viễn thông 2009
125 Luật Bưu chính 2010
126 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
127 Luật Viên chức 2010
128 Luật Cơ yếu 2011
129 Luật Lưu trữ 2011
130 Luật Xuất bản 2012
132 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật 2012
133 Hiến pháp 2013
134 Luật Khoa học và công nghệ 2013
135 Luật Công an nhân dân 2014
136 Bộ luật Hình sự 2015
137 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
138 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015
139 Luật An toàn thông tin mạng 2015
140 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015
141 Luật Thống kê 2015
142 Luật Trưng cầu ý dân 2015
143 Luật Ttố tụng hành chính 2015
144 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
145
Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức
quốc phòng
2015
146 Luật Báo chí 2016
147 Luật Tiếp cận thông tin 2016
148 Pháp lệnh Bảo vệ công trình quốc phòng và khu vực quân sự 1994
149
Pháp lệnh Bảo vệ công trình, phương tiện liên quan đến an
ninh quốc gia
2007
150 Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng 2008
151 Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật 2012
152
Nghị định số 04/1995/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 1995 của
Chính phủ ban hành Quy chế bảo vệ công trình quốc phòng và
khu vực quân sự
1995
153
Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2004 của
Chính phủ về công tác văn thư
2004
154
Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2007 của
Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
của cơ quan nhà nước
2007
155
Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28 tháng 5 năm 2007
của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế phát ngôn
và cung cấp thông tin cho báo chí
2007
156
Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 8 năm 2008 của
Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và
thông tin điện tử internet
2008
157
Nghị định số 126/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
2008
điều của Pháp lệnh Bảo vệ công trình, phương tiện quan trọng
liên quan đến an ninh quốc gia
158
Nghị định số 89/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2009 của
Chính phủ về hoạt động đối ngoại biên phòng
2009
159
Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2009 của
Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật
2009
160
Quyết định số 42/2009/QĐ-TTg ngày 16 tháng 3 năm 2009
của Thủ tướng Chính phủ quy định về kiểm tra, xử lý văn bản
quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước
2009
161
Nghị định số 49/2012/NĐ-CP ngày 04 tháng 6 năm 2012 của
Chính phủ quy định danh mục quyết định hành chính, hành vi
hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, đối ngoại
2012
162
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2009
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội;
phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình
2013
163
Nghị định số 120/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 10 năm 2012
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quốc phòng, cơ yếu
2013
165
Thông tư số 25/2008/TT-BCA ngày 27 tháng 10 năm 2008
hướng dẫn quản lý hoạt động thông tin tuyên truyền, báo chí,
xuất bản trong Công an nhân dân
2008
166
Quy định về quản lý và khai thác mạng máy tính diện rộng
ngành Công an (Ban hành kèm theo Quyết định số
39/2008/QĐ-BCA ngày 11 tháng 01 năm 2008 của Bộ trưởng
Bộ Công an
2008
167
Thông tư số 01/2009/TT-BCA ngày 06 tháng 01 năm 2009 của
Bộ Công an về các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật trong Công an nhân dân trước tình hình mới.
2009
168
Thông tư số 11/2009/TT-BCA ngày 25 tháng 3 năm 2009 của
Bộ trưởng Bộ Công an Quy định danh mục đơn vị, bộ phận
trọng yếu, cơ mật trong lực lượng Công an nhân dân
2009
169
Thông tư số 59/2009/TT-BCA ngày 29 tháng 10 năm 2009 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về mạng liên lạc mật mã trong
Công an nhân dân.
2009
170
Thông tư số 71/2009/TT-BCA ngày 29 tháng 10 năm 2009 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về công tác văn thư hành
chính, hồ sơ lưu trữ văn bản quản lý nhà nước trong Công an
nhân dân
2009
164
Thông tư số 53/2010/TT-BCA ngày 11 tháng 02 năm 2010 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về công tác bưu chính trong
Công an nhân dân
2010
171
Thông tư số 59/2010/TT-BCA ngày 14 tháng 12 năm 2010 của
Bộ Công an quy định về công tác bảo vệ bí mật nhà nước
trong lực lượng Công an nhân dân
2010
172
Thông tư số 10/2010/TT-BCA ngày 25 tháng 02 năm 2010 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định xử lý vi phạm điều lệnh Công
an nhân dân
2010
173
Thông tư số 51/2010/TT-BCA ngày 24 tháng 11 năm 2010 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về việc xây dựng, quản lý và
sử dụng hệ thống thư điện tử có bảo mật phục vụ trao đổi
thông tin trong Công an nhân dân
2010
174
Thông tư số 72/2011/TT-BQP ngày 29 tháng 4 năm 2011 của
Bộ Quốc phòng quy định bảo mật nội dung thông tin khi sử
dụng phương tiện liên lạc tại quần đảo Trường Sa và DK1
2011
175
Thông tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19 tháng 01 năm 2011 của
Bộ Nội vụ hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản
hành chính
2011
176
Thông tư số 05/2011/TT-BCA ngày 11 tháng 02 năm 2011của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về quan hệ, tiếp xúc cán bộ,
chiến sĩ Công an với tổ chức, cá nhân có yếu tố nước ngoài
2011
177
Thông tư số 17/2011/TT-BCA ngày 19 tháng 4 năm 2011 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định quản lý, sử dụng Mạng diện
rộng Cơ yếu trong Công an nhân dân
2011
178
Thông tư số 18/2011/TT-BCA ngày 20 tháng 04 năm 2011 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về quản lý, sử dụng điện mật
trong Công an nhân dân
2011
179
Thông tư số 36/2011/TT-BCA ngày 27 tháng 5 năm 2011 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về đảm bảo an toàn thông tin
số trong Công an nhân dân
2011
180
Thông tư số 17/2012/TT-BCA ngày 10 tháng 2 năm 2012 của
Bộ Công an quy định về điều lệnh nội vụ Công an nhân dân
2012
Nguồn: Cục Pháp chế và cải cách hành, chính tư pháp – Bộ Công an
Phần thứ tư
HIỆP ĐỊNH GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM VỚI CHÍNH PHỦ CÁC NƯỚC VỀ CÙNG BẢO VỆ TIN MẬT
181 Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ Cộng hòa Ba Lan về cùng bảo vệ tin mật
182 Hiệp định giữa Cộng hòa Bê-la-rút và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về cùng bảo vệ tin mật
183 Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ Cộng hòa Bun-ga-ri về cùng bảo vệ và trao đổi tin mật
184 Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ Liên bang Nga về cùng bảo vệ các tài liệu mật
185 Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ U-Crai-Na về cùng bảo vệ tin mật
Nguồn: Cục Pháp chế và cải cách hành, chính tư pháp – Bộ Công an