BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Thị Quỳnh Mai
HOA VĂN TRANG TRÍ TRÊN LỤA VẠN PHÚC
(Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội, 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Thị Quỳnh Mai
HOA VĂN TRANG TRÍ TRÊN LỤA VẠN PHÚC
(Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 9210
276 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 557 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoa văn trang trí trên lụa Vạn phúc (quận Hà đông, thành phố Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐOÀN THỊ TÌNH
Hà Nội, 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận án tiến sĩ Hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc
(quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) là công trình do tôi nghiên cứu, thực
hiện. Những vấn đề nghiên cứu cùng những ý kiến tham khảo, tài liệu đều có
chú thích nguồn đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung trong luận án.
Hà Nội, ngày tháng năm 2021
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Quỳnh Mai
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................... iii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ H I QU T VỀ HOA VĂN TRANG TR TR N LỤA ........ 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................. 9
1.2. Cơ sở lý luận ........................................................................................ 20
1.3. Khái quát về hoa văn trang trí trên lụa .................................................. 34
Tiểu kết ........................................................................................................ 54
Chƣơng 2. IỂU HIỆN CỦA HOA VĂN TRANG TR TR N LỤA VẠN
PH C .......................................................................................................... 56
2.1. Đề tài hoa văn trang trí ........................................................................ 56
2.2. Đồ án hoa văn trang trí ......................................................................... 92
2.3. Hình thức trang trí hoa văn ................................................................... 92
2.4. Kỹ thuật .............................................................................................. 106
Tiểu kết ...................................................................................................... 111
Chƣơng 3. LUẬN BÀN VỀ Đ C TRƢNG VÀ GI TRỊ CỦA HOA VĂN
TRANG TR TR N LỤA VẠN PH C ................................................... 114
3.1. Hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc trong tương quan với lụa một số
vùng khác ở Việt Nam ................................................................................ 114
3.2. Đặc trưng hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc .................................... 114
3.3. Giá trị văn hóa nghệ thuật của hoa văn trên lụa Vạn Phúc .................. 146
Tiểu kết ...................................................................................................... 162
KẾT LUẬN ............................................................................................... 164
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ................................... 169
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 170
PHỤ LỤC ................................................................................................. 183
iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GS.TS : Giáo sư Tiến sĩ
H : Hình
HVTT : Hoa văn trang trí
NCS : Nghiên cứu sinh
Nxb : Nhà xuất bản
PL : Phụ lục
Tr : Trang
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1. Làng lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) là làng
nghề dệt lụa tơ tằm có truyền thống từ ngàn xưa. Lụa Vạn Phúc nổi tiếng cả
nước vì chất lượng bền, đẹp, được triều đình lựa chọn để may trang phục và
được người Pháp đánh giá là sản phẩm tinh xảo của xứ Đông Dương tại hội
chợ Marseille năm 1931. Với những đặc tính như; mềm, mịn, độ thấm hút mồ
hôi cao, lụa tơ tằm Vạn Phúc đã và đang đáp ứng hiệu quả về mỹ cảm cùng
khả năng tạo dáng, khả năng định hình cho mẫu trang phục trở nên đặc sắc và
phong phú. Lụa Vạn Phúc được coi là chất liệu đặc sắc, được nhiều người ưa
chuộng bởi tính thân thiện với môi trường, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con
người. Trang phục may bằng chất liệu lụa, không chỉ tôn vinh vóc dáng cơ thể
mà còn thể hiện sự tinh tế, duyên dáng, ý nhị biểu hiện nét cổ điển truyền
thống của người Việt.
1.2. Hiện nay, lụa Vạn Phúc đã rất phát triển trong công nghiệp dệt xơ
sợi Việt Nam và được đánh giá cao trong các nhóm vật liệu ngành may. Một
trong những thành tố quan trọng tạo nên giá trị nghệ thuật, cũng là yếu tố
quyết định đến thẩm mỹ của lụa Vạn Phúc chính là HVTT. Chủng loại HVTT
trên lụa Vạn Phúc phong phú và đa dạng, được lấy từ kho tàng hoa văn truyền
thống của dân tộc ở các đề tài về thiên nhiên, cây cỏ, hoa lá, chim muông hay
đề tài về tứ linh, đề tài về chữ và nhóm hình học. Nhưng có sự sáng tạo chứ
không rập khuôn, nhằm phù hợp với kỹ thuật và chất liệu sợi dệt tạo hoa văn,
mang tính mỹ thuật đặc trưng của lụa, thể hiện sự cần mẫn, khéo léo của
người nghệ nhân đã làm nên những sản phẩm thủ công truyền thống đặc sắc.
Vì vậy, việc kế thừa và đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển HVTT trên lụa được
đặt ra như một nhu cầu cần thiết với những đổi mới liên tục của mẫu HVTT
trên trang phục hiện đại. Không chỉ trong quá khứ mà cho tới sau này, nghệ
2
thuật trang trí hoa văn trên bề mặt lụa Vạn Phúc đã và đang có ý nghĩa quan
trọng góp phần nâng cao giá trị sản phẩm hàng tiêu dùng của ngành công
nghiệp dệt may – thời trang nước ta.
Qua khảo sát thực địa cho thấy HVTT trên lụa Vạn Phúc đã sử dụng
phương thức nghệ thuật trang trí dân gian truyền thống, mang nét phóng
khoáng, mềm mại trong tương quan bố cục và phong cách tạo hình trên bề
mặt lụa. Nhưng điều này, chỉ nhận biết được qua sự hiện hữu của hoa văn trên
một số sản phẩm lụa đặc trưng, mà ít khi được quan tâm tới việc nó bắt nguồn
từ đâu, mang ý nghĩa và biểu tượng gì. Phải chăng HVTT trên lụa Vạn Phúc
là sản phẩm tiếp nối từ mỹ thuật trang trí truyền thống dân tộc và có cả yếu tố
mỹ thuật ngoại sinh. Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu, cũng là lý do
để NCS thực hiện nội dung đề tài luận án.
1.3. Hiện nay, do điều kiện kinh tế, các hộ làm nghề dệt lụa, năng suất
lao động thấp, không gian nhỏ hẹp, công cụ giản đơn nên cũng làm hạn chế
sự phát triển của các mô típ HVTT trên lụa, tình trạng trên phổ biến ở các
làng nghề Việt Nam nói chung và làng Vạn Phúc nói riêng. Đây cũng là nỗi lo
về sự “mai một” và thất truyền các hình thức trang trí trên sản phẩm tơ lụa
Việt Nam. Trong khi đó, các trào lưu mới, các phong cách, khuynh hướng
mới về trang phục đã cho ra đời nhiều hình thức trang trí công nghiệp phát
triển như in, thêu, vẽ bằng máy móc hiện đại. Trong bối cảnh giao lưu hội
nhập này, việc nghiên cứu, đánh giá về giá trị thẩm mỹ cũng như khẳng định
bản sắc dân tộc của sản phẩm tiêu dùng trên thị trường đang trở nên cấp thiết.
Từ tình hình đó, việc nghiên cứu hoa văn dưới góc độ mỹ thuật tạo hình trang
trí, hình thức biểu hiện cũng như giải mã biểu tượng hoa văn trên lụa Vạn
Phúc cũng là việc cần làm để phát huy ứng dụng vào đời sống đương đại.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, NCS lựa chọn đề tài nghiên
cứu về Hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà
3
Nội) làm luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật. Trên cơ
sở kế thừa những thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, luận án làm rõ
tính chất trang trí của hoa văn để tìm ra nét đặc trưng và giá trị nghệ thuật của
HVTT trên lụa Vạn Phúc. Góp phần bổ sung cho phần tư liệu còn khuyết
thiếu vào kho tàng nghệ thuật trang trí hoa văn Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu biểu hiện của HVTT trên lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội) để làm rõ các đặc trưng và giá trị nghệ thuật của HVTT
trên lụa tơ tằm Vạn Phúc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài, đồ án, hình thức và kỹ thuật của HVTT trên lụa Vạn
Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Được giới hạn tại làng lụa Vạn Phúc (quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội). Ngoài ra, luận án còn mở rộng đề cập tới việc so
sánh, đối chiếu đặc điểm, phong cách trang trí của hoa văn trên lụa ở một số
vùng khác để thấy được sự tương đồng và khác biệt về hình thức biểu hiện
của đề tài và đồ án trang trí.
Phạm vi thời gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài HVTT
trên lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) từ năm 1986 đến nay
(2020). Đây là giai đoạn đổi mới của đất nước, HVTT trên lụa Vạn Phúc đã
có sự chuyển mình rõ nét về đề tài, đồ án, hình thức và kỹ thuật của HVTT
trên lụa Vạn Phúc.
4
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: HVTT trên lụa Vạn Phúc được biểu hiện như thế nào thông
qua đề tài, đồ án, hình thức và kỹ thuật?
Câu hỏi 2: Đặc trưng và giá trị nghệ thuật HVTT trên lụa Vạn Phúc,
được biểu hiện như thế nào so với HVTT trên lụa các vùng khác?
Câu hỏi 3: HVTT trên lụa Vạn Phúc, mang phong cách tạo hình dân
gian Việt Nam hay được tiếp biến từ văn hóa một số nước khác ở khu vực
phương Đông?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Hoa văn trên lụa Vạn Phúc được biểu hiện rất đa dạng và
đặc sắc thông qua các đề tài, đồ án, hình thức và kỹ thuật. Đường nét trang trí
không quá rườm rà, phức tạp mà mềm mại, phóng khoáng và dứt khoát. Màu
sắc của hoa văn biến đổi linh hoạt, đa sắc, đa chiều nhờ vào những sợi tơ tằm
được dệt trên mỗi tấm lụa Vạn Phúc.
Giả thuyết 2: HVTT trên lụa Vạn Phúc tuy mang nhiều nét tương đồng
so với lụa ở các vùng miền khác, nhưng vẫn có những đặc trưng và giá trị
nghệ thuật riêng biệt mà không phải vùng nào cũng có. Điển hình là ở cách
sắp xếp các hoa văn trong đồ án trang trí mang giá trị về nghệ thuật, đã tạo
nên nét độc đáo của HVTT trên lụa Vạn Phúc, phù hợp với thẩm mỹ của dân
tộc.
Giả thuyết 3: HVTT trên lụa Vạn Phúc phần lớn mang đậm phong cách
tạo hình dân gian Việt Nam. Những đề tài trang trí truyền thống như hoa Sen,
hoa Cúc, hoa Mai, hoa Chanh thường thấy xuất hiện ở kiến trúc, điêu khắc
trong nghệ thuật trang trí cổ của dân tộc. Căn cứ vào tình hình nghiên cứu thì
những hoa văn kể trên, được nhận định là các đề tài mẫu mực trong nghệ
thuật tạo hình trang trí của nghệ nhân cũng là người nghệ sĩ dân gian Việt
5
Nam. Bên cạnh đó, có sự giao lưu tiếp biến về tạo hình và nghệ thuật trang trí
của văn hóa một số nước khác ở phương Đông, làm nảy sinh thể loại mới, kỹ
thuật mới nhưng vẫn mang đậm phong cách nghệ thuật trang trí của người
Việt, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng đương thời.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và phƣơng pháp tiếp cận
5.1. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu thứ cấp: Đây là phương
pháp cơ bản để luận án tiếp cận trực tiếp vấn đề nghiên cứu. Thông qua việc
thu thập tài liệu, thông tin, công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài
nước, từ đó chọn lọc những tài liệu chính thống, có nguồn gốc rõ ràng và khả
năng tin cậy cao. Nhằm nhận định thông tin tiếp cận một cách chính xác, để
khai triển luận án nghiên cứu mang tính khoa học logic hơn, làm cơ sở cho
những luận điểm được đặt ra trong nội dung của đề tài.
- Phương pháp điền dã: Qua điền dã tại thực địa đã giúp NCS thu thập,
xác minh các dữ liệu và thực hiện khảo sát, xem xét hiện vật, chụp hình, khảo
tả, làm bản rập.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Luận án thống kê các mẫu HVTT
trên lụa Vạn Phúc và so sánh sự khác biệt giữa các hoa văn đó với lụa ở các
vùng miền khác, có đối chiếu với mỹ thuật cổ Việt Nam. Từ đó xác định được
hoa văn nào mang giá trị truyền thống, yếu tố nào được hình thành trong quá
trình giao lưu tiếp biến. Nhìn nhận những vấn đề nảy sinh trong quá trình
nghiên cứu HVTT cũng như phát hiện tính mới và đưa ra giả thuyết trong đề
tài luận án.
- Phương pháp phỏng vấn: NCS tìm hiểu, nghiên cứu và phỏng vấn,
đặt câu hỏi cho một số nghệ nhân ở làng nghề dệt đã sáng tác hoa văn, các
nhà thiết kế thời trang và người dệt trực tiếp trang trí hoa văn trên lụa, nhằm
6
xác minh dữ liệu nghiên cứu một cách khoa học, rõ ràng, minh bạch giúp luận
án thêm những cứ liệu hiện thực và tin cậy.
5.2. Phƣơng pháp tiếp cận
Phương pháp tiếp cận liên ngành: Luận án sử dụng và tham khảo những
thành tựu nghiên cứu của một số ngành khoa học có mối liên quan tới đề tài
như: địa lý, lịch sử, văn hóa, khảo cổ để làm sáng tỏ hơn đặc trưng nghệ thuật
của HVTT trên lụa Vạn Phúc giai đoạn 1986 đến nay (2020). Phương pháp
này có ưu thế tổng hợp tri thức của nhiều lĩnh vực dựa trên mối quan hệ qua
lại của các ngành để nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện và hệ thống hơn
cho luận án.
Ngoài ra, luận án còn tiếp cận theo hướng nhân học biểu tượng. Mỗi
HVTT trên lụa Vạn Phúc đều mang giá trị biểu tượng riêng, được biểu hiện
như một thế giới quan sinh động, ẩn chứa trong đó những ước vọng về cuộc
sống, sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên mà người đương thời muốn
gửi gắm thông qua tấm lụa Vạn Phúc. Người nghệ nhân làng lụa Vạn Phúc đã
sử dụng các biểu tượng hoa văn mang đậm kiểu thức cổ truyền dân tộc để đưa
vào trang trí cũng là phản ánh một phần quan điểm gu thẩm mỹ về cái đẹp,
một phần thể hiện tư tưởng giáo lý, tín ngưỡng tôn giáo của người Việt. Mối
quan tâm của đề tài cũng chính là nghiên cứu, giải mã nội dung, ý nghĩa chứa
đựng bên trong mỗi biểu tượng HVTT trên lụa Vạn Phúc.
6. Những đóng góp mới của luận án
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
Về phương diện lý luận và lịch sử mỹ thuật: Đề tài là công trình nghiên
cứu chuyên biệt theo hướng tiếp cận nghệ thuật học, thông qua việc nghiên
cứu HVTT trên lụa Vạn Phúc mang giá trị về lịch sử, văn hóa tạo nên nét đặc
trưng riêng biệt trong HVTT Việt Nam. Đề tài đóng góp bổ sung tư liệu vào
kho tàng mỹ thuật dân gian Việt Nam.
7
Đối với nghệ thuật tạo hình: Luận án là công trình nghiên cứu chuyên
sâu về HVTT trên lụa Vạn Phúc, trên cơ sở làm rõ các đặc trưng và giá trị
nghệ thuật được biểu hiện thông qua đề tài, đồ án, hình thức và kỹ thuật. Từ
đó làm cơ sở tham khảo và phát huy giá trị mỹ thuật dân gian cho mỹ thuật
ứng dụng hiện nay. HVTT trên lụa Vạn Phúc giai đoạn 1986 đến nay (2020),
mang đến những giá trị thẩm mỹ nhất định, những đặc trưng riêng không thể
lẫn với các sản phẩm lụa ở các vùng miền khác.
Với di sản văn hóa: Đề tài chỉ ra được những đặc trưng và giá trị văn
hóa nghệ thuật sâu sắc, biểu hiện ở một số hoa văn chứa đựng tính dân tộc,
tính truyền thống quy tụ trong một bố cục trang trí trên lụa mang phong cách
tạo hình gần gũi với nghệ thuật dân gian. HVTT trên lụa đã vượt qua giá trị
hàng hóa đơn thuần, khẳng định được giá trị thẩm mỹ thông qua sản phẩm lụa
đặc sắc.
Về giáo dục thẩm mỹ: Góp phần nhận thức được những giá trị về nghệ
thuật, giá trị văn hóa của cha ông, có tiếp thu và kế thừa kho tàng mỹ thuật
truyền thống. Giáo dục thẩm mỹ có vai trò quan trọng nhằm biểu đạt tư duy
và bồi đắp kiến thức về cái đẹp thông qua các đặc trưng về HVTT, yếu tố tạo
hình cùng các đồ án trang trí trên lụa Vạn Phúc. Khơi dậy niềm đam mê yêu
thích nghệ thuật trang trí truyền thống của dân tộc.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Luận án góp phần bổ sung kiến thức về lý luận mỹ thuật cho các nhà
sáng tác hoa văn nói chung và HVTT trên lụa nói riêng, các nhà nghiên cứu,
các giảng viên, sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành mỹ thuật
ứng dụng. Cũng như người làm việc và công tác trong lĩnh vực văn hóa nghệ
thuật, lĩnh vực nghiên cứu vật liệu dệt may. Nhằm bảo tồn, phát huy giá trị
nghệ thuật truyền thống ứng dụng vào đời sống đương đại.
8
Luận án góp phần bổ khuyết cho những khoảng trống về nghiên cứu lý
luận cũng như hệ thống hóa tư liệu về HVTT trên lụa Vạn Phúc, mang tính
trực quan hữu ích cho mỹ thuật ứng dụng nói chung và chuyên ngành thiết kế
thời trang nói riêng.
7. ết cấu của luận án
Luận án ngoài phần mở đầu (8 trang), kết luận (5 trang), tài liệu tham
khảo (12 trang), phụ lục (87 trang), nội dung luận án được kết cấu 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát
về hoa văn trang trí trên lụa (47 trang).
Chương 2: Biểu hiện hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc (58 trang).
Chương 3: Luận bàn về đặc trưng và giá trị văn hóa nghệ thuật của hoa
văn trang trí trên lụa Vạn Phúc (50 trang).
9
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHI N CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
H I QU T VỀ HOA VĂN TRANG TR TR N LỤA
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Hướng nghiên cứu về lụa tiếp cận từ lịch sử
Theo nhận định của các nhà nghiên cứu đi trước cho rằng: nguồn gốc ra
đời của vải lụa ở nước ta có từ thời Hùng Vương, nhưng nghiên cứu về lụa thì
đến thế kỷ XV mới bắt đầu. Đã có nhiều nhà nghiên cứu phân tích, đánh giá
về vải lụa ở các khía cạnh khác nhau, trong đó có các nhà nghiên cứu thời kỳ
đầu như Nguyễn Trãi, Ngô Sỹ Liên, Lê Quý Đôn Mỗi tác giả lại đề cập ở
các khía cạnh liên quan tới chất liệu, màu sắc, kỹ thuật dệt, lịch sử hình
thành Qua tổng hợp các dạng tài liệu, NCS phân định theo trình tự về mặt
thời gian như sau:
Trong Dư Địa Chí [104] Nguyễn Trãi viết năm 1435, ông đã nói đến
các phường thợ dệt được lụa như Thụy Chương, Nghi Tàm thuộc Hà Nội hay
ấp Mao Điền, Bất Bể thuộc Hải Dương; ấp Hội Am thuộc Hải Phòng. Ở
những ấp nhỏ ấy, có các phường thợ tài giỏi đã dệt được loại vải nhỏ mặt, mịn
màng thường đựng vào hộp tre để tiến cống, đó là loại lụa mềm mại, óng ả.
Năm 1697, Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư (quyển II)
[48] về triều Lý Thái Tông, nhà vua đã cho gọi những người thợ giỏi ở các địa
phương về kinh đô dạy cho cung nữ dệt lụa, gấm, vóc. Số lượng lụa, là, gấm
vóc của ta thời bấy giờ đã đạt đến mức có thể thay thế toàn bộ gấm vóc phải
mua hàng năm của nhà Tống. Điều này đã khẳng định bước ngoặt quan trọng
cho sự phát triển vải lụa tơ tằm biểu hiện cho tinh thần tự lập tự cường mạnh
mẽ của triều đình và nhân dân ta thời bấy giờ. Đây cũng là cơ sở xác định sự
phát triển về mặt hàng lụa ở nước ta đã mang bản sắc riêng từ thời Lý.
10
Tiếp đến, cuốn Vân đài loại ngữ [22] của Lê Quý Đôn viết năm 1773
đã nêu:
Đất Việt, đất Giao là xứ nóng, nuôi tằm nhiều hơn nơi khác, một
năm nuôi đến 8 lứa... Tằm (tàm) là loại dương, thích ấm ráo, ghét
ẩm thấp Đó là: Bát bối tàm, Nguyên trân tàm ươm vào tháng Ba;
Thái tàm ươm vào tháng Tư; Nguyên tàm ươm vào tháng Năm; Ái
tàm ươm vào tháng Sáu; Hàn trân tàm ươm vào tháng Bảy; Tứ xuất
tàm ươm vào tháng Chín; Hàm tàm ươm vào tháng Mười [22, tr.
209].
Năm 1777, Lê Quý Đôn viết tiếp trong Kiến văn tiểu lục [23] như sau:
“Huyện Từ Liêm và Huyện Đan Phượng, thuộc phủ Quốc Oai có nhiều bãi
trồng dâu, nhân dân chăm lo việc chăn tằm, dệt cửi. Các xã Hà Hội, Thiên
Mỗ, Ỷ La, Trung Thụy và Đại Phùng có tài dệt lụa, trìu, lĩnh, là” [23, tr.
337].
Dựa vào các nhận định trên cho thấy sự phát triển của vải lụa đến thời
Lê đã ghi dấu ấn mạnh trong diễn trình lịch sử về sự phát triển của sản phẩm
lụa tơ tằm Việt Nam.
Năm 1954, P. Huard et M. Durand trong Connaissance du VietNam
[135] đã đề cập đến những vấn đề xung quanh con người Việt Nam thông qua
các lễ hội, nghệ nhân, đời sống xã hội, chiến tranh, nông dân, đặc biệt tác
giả đã nhắc đến vấn đề ăn mặc và trang phục. Trong nghiên cứu của mình, P.
Huard et M. Durand nói về chất liệu dùng để may trang phục triều đình thời
phong kiến Việt Nam chủ yếu là lụa mềm, bóng và nhiều màu sắc sinh động.
Đây thực sự là những ghi chép quý cho hướng nghiên cứu tiếp cận dưới góc
độ lịch sử của luận án. Tuy nhiên trong toàn bộ nghiên cứu, một phần rất quan
trọng để làm nên giá trị thẩm mỹ của sản phẩm lụa lại chưa được tác giả quan
tâm đến đó là HVTT. Đối tượng nghiên cứu chỉ xoay quanh đến chất liệu
11
trang phục mà chưa mở rộng đến các yếu tố nghệ thuật trang trí trên sản phẩm
đặc trưng này.
Sử quán triều Nguyễn đã ghi lại tình hình cả nước ta trong Đại Nam
nhất thống chí (tập 4) năm 1971 [70] đó là không có tỉnh nào không dệt vải
lụa, thậm chí còn ghi chép được đến 5 loại vải, 4 loại lụa, 3 loại sợi, 3 loại
lĩnh, 3 loại trừu, 3 loại the và một số loại nhiễu, gấm, bông, tơ khác. Cuốn
sách còn nêu:
Lụa trắng sản ở các huyện Đan Phượng, Tiên Phong, Yên Lãng,
Phúc Thọ có hộ chuyên nghiệp; duy có lụa ở Chu Chàng và Cổ Đô
thuộc huyện Tiên Phong là tốt hơn cả. The thổ có tên là the Đại
La Vải của xã Vân ở huyện Yên Lạc, sợi nhỏ dày và trắng hơn
các huyện khác [70, tr. 245 - 246].
Cuốn sách đã đề cập đến sự phát triển của chủng loại lụa thông qua
việc cải tiến khung dệt. Tức là, người thợ dệt đã nghiên cứu chuyển chiếc
khung cửi đạp chân thành khung cửi giật tay, nhằm nâng cao sản xuất và phát
triển mặt hàng lụa trong cả nước.
Trong tập sách Nghề đẹp quê hương (1977) [110] của tác giả Trần Lê
Vân cũng nói đến đình làng Cổ Đô có thờ Hoàng Phủ Thiếu Hoa – Bà tổ nghề
trồng dâu nuôi tằm dệt lụa như sau:
Hùng Định Vương sinh ra một Mỵ nương tên là Hoàng Phủ Thiếu
Hoa, có tên Mô Nhâm, lại có tên hiệu là Mô Nhĩ. Khi lớn tuổi, mỵ
nương theo Loa Tổ học nghề. Học được nghề, mỵ nương về dạy
dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa Năm 32 tuổi, Hoàng Phủ Thiếu
Hoa xin cho vua cha cho nàng đi chơi thăm nhiều nơi xa gần, vua
ưng cho. Đến làng nào, nàng cũng dạy dân nuôi tằm, cấy lúa
[110, tr.7].
12
Sau này bà được tôn thờ là vị tổ nghề lụa. Tập sách cũng nói về thời
Hùng Vương, dân chăm việc nông tang, nuôi tằm từ rất sớm. Có trồng dâu
nuôi tằm thì chắc hẳn phải có ươm tơ dệt lụa, thời kỳ này xuất hiện nhiều vị
“tổ nghề”. Trong nghiên cứu của mình, Trần Lê Vân cũng đưa ra các vị “tổ
nghề” như sau: Làng Vạn Phúc thờ bà tổ nghề tên là Lã Thị Nga, bà sống
khoảng thế kỷ VII - VIII rất giỏi dệt lụa, sa, the và đã truyền dạy cho dân làng
Vạn Phúc, sau này dân làng nhớ công lao của bà nên đã phong bà là Thành
Hoàng làng. Làng La Khê hiện nay còn đền thờ tổ phường “canh cửi” (dệt
vải). Trong đền La Khê có tấm bia khắc tên mười vị “tổ sư”, từ phương xa
đến nhập tịch và truyền nghề dệt lụa cho dân làng (Theo gia phả họ Nguyễn ở
La Khê). Mười vị “tổ sư” ấy nhập tịch làng vào thời Lê Trung Hưng. Làng
Phùng Xá (Hà Tây) thờ trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) bởi
ông có công cải tiến nghề dệt lụa.
Tiếp nối nghiên cứu về lụa là công trình Những bàn tay tài hoa của cha
ông (1988) [17] của hai tác giả Phan Đại Doãn và Nguyễn Quang Ngọc đã chỉ
ra rất rõ về lịch sử hình thành và phát triển của vải lụa làng Vạn Phúc. Nội
dung nghiên cứu tập trung đề cập đến những mốc tiêu biểu trong quá trình
phát triển của chất liệu lụa tơ tằm thông qua các triều đại phong kiến Việt
Nam. Ngoài ra, nghiên cứu còn bàn về vải tơ lụa trong thời cận đại. Đây được
coi là nguồn tư liệu quý, giúp ích cho NCS trong việc luận giải các vấn đề cơ
bản của đối tượng nghiên cứu trong đề tài luận án của NCS.
Cuốn Tinh hoa nghề nghiệp cha ông (1998) [117] của Bùi Văn Vượng
lại bàn về nghề dệt từ thời Đông Sơn, phong Kiến cho đến thế kỷ XIX. Tài
liệu bước đầu phân tích tổng hợp số lượng dọi xe sợi rất lớn thời Đông Sơn.
Sự phân bố của chúng trong các di chỉ khảo cổ học thuộc văn hóa Đông Sơn
cũng như di chỉ Phùng Nguyên trước đó. Tập trung với mật độ cao tại một số
địa điểm như làng Vạc (Thái Hòa, Nghệ An) tới 200 chiếc dọi xe sợi. Sự kiện
13
ấy dường như xác nhận quan điểm cho rằng, nghề dệt tơ lụa thời Đông Sơn đã
rất phát triển theo hướng chuyên môn hóa ở các trung tâm sản xuất. Tác giả
đã có sự so sánh, đối chiếu và đưa ra các dẫn chứng liên quan đến quá trình
sản xuất lụa ở từng vùng. Dựa vào công trình tổng hợp này, luận án có thể đối
chiếu để tìm ra nét đặc trưng riêng của lụa Vạn Phúc so với lụa ở các vùng
khác. Công trình có đối tượng khảo sát lớn xuyên suốt nhiều thời kỳ nên việc
đi sâu vào tính trang trí trên lụa không được nhắc tới. Vì vậy, luận án sẽ tiếp
tục nghiên cứu, làm rõ và bổ sung những đặc điểm của HVTT trên lụa.
Công trình Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội (2000) [122]
của hai tác giả Trần Quốc Vượng và Đỗ Thị Hảo nghiên cứu về sự phát triển
của các làng nghề Thăng Long, Hà Nội qua các thời kỳ. Công trình có nhắc
đến làng dệt lụa tơ tằm Vạn Phúc và nhấn mạnh sự biến đổi của làng nghề kéo
theo những ảnh hưởng đến chất liệu tơ tằm. Vì thế, luận án tiếp tục nghiên
cứu sự ảnh hưởng đó có dẫn tới sự thay đổi các yếu tố tạo hình trang trí trên
lụa Vạn Phúc không?
Trong Lịch sử Việt Nam (2008) [62], Nxb Khoa học Xã hội cũng đã
nêu sơ lược vào những thế kỷ đầu công nguyên, tổ tiên ta đã nuôi tằm với
năng suất cao: một năm tám lứa kén Thế kỷ XVII, cả vùng đất ven sông
Đuống, khi ấy là nhánh chính của sông Hồng, do có sự giao lưu buôn bán với
một số trung tâm kinh tế lớn mới được hình thành mà trở nên sầm uất. Các
làng thủ công, phường thủ công xuất hiện ở nhiều nơi. Trong sách có nêu sơ
lược như sau: Thăng Long, Sơn Tây ở Đàng Ngoài, Thuận Hóa ở Đàng Trong
là nơi tập trung nhiều làng dệt có truyền thống lâu đời, đặc biệt là nghề dệt lụa
tằm tang. Lúc này, các hộ nghề dệt lụa trong nhân dân được phát triển và
nhân rộng. Các khâu về kỹ thuật như chọn tơ, se tơ, nhuộm tơ được chú trọng
nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm lụa tơ tằm. Hàng năm, số lượng tơ lụa
mềm mại, óng ả được chuyển ra Đàng Ngoài lên đến hàng nghìn tạ. Như vậy,
14
có thể thấy rằng vào thế kỷ XVII, các sản phẩm lụa tơ tằm đã có bước tiến
mới cả về số lượng và chất lượng.
Trong cuốn Trang phục Thăng Long Hà Nội (2010) [98] của nhà
nghiên cứu Đoàn Thị Tình đã đưa ra một luận điểm đáng chú ý có liên quan
trực tiếp đến đề tài đó là: đời Lê có hồng phương ty, bạc phương ty; đời
Nguyễn có bát ty, trừu nam, nam đại (loại hàng dệt tơ dày). Tác giả nhận
định, từ thời Lý “Những người thợ đã dệt được đủ các loại gấm, vóc, lụa,
đoạn... nhiều màu, có họa tiết trang trí đặc sắc, không những được sử dụng
trong nước mà còn làm vật cống phẩm cho triều đình phương Bắc” [98, tr.
24]. Đến thời Nguyễn “đã có thêm nhiều mặt hàng mới, riêng Hà Nội có tơ,
bông, lụa trắng, lụa vân, trừu nam, lĩnh hoa, là, the hoa, the mình băng, sa hoa
nhỏ..., với nhiều màu sắc” [98, tr. 184]. Từ những luận điểm trên, tác giả đã
khẳng định về sự phong phú và đa dạng của các loại lụa tơ tằm Việt Nam.
Đây là những sản phẩm dệt tồn tại qua nhiều thế kỷ, nhưng ở mỗi thời kỳ mỗi
vùng miền khác nhau lại có những tên gọi riêng.
Trong hướng nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ lịch sử còn có công trình
Tổng quan về nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam (tập 1) [29] của
Trương Minh Hằng đã bàn đến làng nghề dệt và đưa ra cái nhìn toàn cảnh về
nghề tằm tang, ươm tơ dệt lụa của người Việt cổ. Một số bài báo trên các tạp
chí khoa học của các nhà nghiên cứu, phê bình viết về sản phẩm lụa, nhưng
chỉ dừng lại ở nghiên cứu làng nghề, nghiên cứu văn hóa, một số thành công
hay vấn đề bảo tồn mà chưa đề cập tới quá trình hình thành và phát triển, dấu
ấn lịch sử, điểm mới hay yếu tố cốt lõi hình thành nên giá trị thẩm mỹ của vải
lụa. Đó là các bài nghiên cứu: “Mấy ý kiến về nghề thủ công cổ truyền ở nước
ta” [58] của tác giả Lâm Bá Nam; “Nghề gấm vẫn còn có cái tên” (1989) của
Quách Vinh [116].
15
Như vậy qua một số cuốn sách, công trình chuyên khảo, bài viết, những
nội dung và cơ sở lý luận của các tài liệu trên đã giúp NCS có cái nhìn tổng
quan hơn về sản phẩm tơ lụa Việt Nam. Qua đó, khẳng định mốc thời gian,
lịch sử hình thành của sản phẩm lụa có từ khi nào? Cũng như mong muốn
phân giải được quá trình phát triển của chất liệu lụa tơ tằm Việt Nam qua các
giai đoạn lịch sử.
1.1.2. Hướng nghiên cứu hoa văn trang trí tiếp cận từ mỹ thuật
Trong quá trình nghiên cứu để thực hiện cho nội dung của đề tài, mục
đích tìm hiểu phân tích HVTT dưới góc độ mỹ thuật được coi là phần then
chốt quan trọng trong việc giải mã các vấn đề của luận án.
Theo các học giả đi trước, những nghiên cứu về lụa đã xuất hiện vào
những năm 30 của thế kỷ XV. Nhưng nghiên cứu về HVTT trên lụa thì chỉ
mới bắt đầu từ thế kỷ XX. Trong đó phải kể đến công trình Nghề dệt cổ
truyền ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam (1999) [57] của tác giả Lâm Bá Nam.
Công trình đã nêu “Hoa văn trên các sản phẩm dệt chủ yếu là hoa văn trên sản
phẩm tơ lụa với nhiều loại khác nhau” [57, tr.111]. Đáng lưu ý là tác giả đã
căn cứ vào hình dáng, ý nghĩa của hoa văn để đánh giá, phân loại và thống kê
các nhóm HVTT trên lụa thành 3 nhóm đề tài như sau: thứ nhất đề tài động
vật, thứ hai là đề tài thực vật và thứ ba là nhóm đề tài đồ vật/ hình học/ mô
phỏng. Nhận thấy, đây là công trình nghiên cứu đầu tiên có liên quan về tính
thẩm mỹ của lụa tơ tằm Việt Nam. Mặc dù phần dẫn chứng về HVTT còn khá
“khiêm tốn”. Nhưng công trình vẫn là nguồn tư liệu đáng quý cho NCS trong
việc hệ thống và phân loại các nhóm HVTT cũng như xác định cụ thể tên gọi
một số chủng loại hoa văn đặc trưng. Từ đó có sự so sánh đối chiếu sang lụa
Vạn Phúc, giúp ích cho quá trình nghiên cứu đề tài luận án.
Trong Hoa văn trang trí thông dụng [56] của tác giả Hoàng Minh với
hơn 1000 mẫu hoa văn được chọn lọc qua đồ dùng, vật dụng trong cuộc sống
16
hàng ngày của con người. Từ hoa văn cây cỏ thiên nhiên, chim muông đến
hình tượng con người, cho thấy sự phong phú đa dạng về HVTT, điều này
giúp NCS có thêm cơ sở để đối chiếu tư liệu và hệ thống HVTT trong luận án.
Tiếp nối nghiên cứu về HVTT là cuốn Tổng hợp hoa văn rồng phượng
(2003) [1] của tác giả Thái Dịch An đã chỉ rõ về hoa văn truyền thống Việt
Nam cũng như giải quyết các vấn đề trong quá trình nghiên cứu HVTT trên
lụa. Qua các tư liệu này, giúp NCS hiểu thêm một số loại hình, kiểu thức cũng
như xác định tên gọi của hoa văn nói chung. Từ đó có sự so sánh với HVTT
trên bề mặt lụa Vạn Phúc một cách khách quan nhất.
Năm 2003, một trong những nghiên cứu về hoa văn mang tính tổng hợp
và chuyên biệt là cuốn Hoa văn Việt Nam [10] của Nguyễn Du Chi, Nxb Mỹ
thuật. Đây được coi là công trình nghiên cứu công phu về HVTT qua các thời
kỳ lịch sử. Tác giả còn lý giả...nền văn hóa sẽ có biểu hiện khác nhau đều do sự tác động của môi trường tự
nhiên và vị trí địa lý. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về văn hóa phải xem xét cả
hai khía cạnh đồng đại và lịch đại. Khi các nền văn hóa gần gũi nhau về mặt
địa lý sẽ tạo nên nét đặc trưng riêng của vùng văn hóa đó. Vì vậy, với những
vùng có vị trí địa lý gần nhau sẽ hình thành nên sự giao thoa về văn hóa, còn
những vùng có địa lý xa nhau nhưng điều kiện sống tương đối giống nhau sẽ
tạo ra các nền văn hóa tương đồng.
Khi nghiên cứu về HVTT trên lụa giai đoạn 1986 đến nay (2020), NCS
nhận thấy việc xác định vị trí địa lý xung quanh làng lụa Vạn Phúc là điều cần
thiết để thấy sự tập trung của sản phẩm lụa ở vùng đất Hà Tây cũ nay là quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội. Đương thời, đây vốn là khu vực giao thông
huyết mạch của Bắc Bộ. Vì vậy, việc áp dụng lý thuyết địa – văn hóa sẽ phần
nào xác định không gian văn hóa của đề tài, để thấy rằng: vị trí địa lý có tác
động tới HVTT trên lụa Vạn Phúc. Sự tập trung các hộ nghề dệt lụa cùng
HVTT nơi đây mang đặc trưng văn hóa rõ nét.
33
Ngoài ra, thuyết địa – văn hóa còn được vận dụng trong nghiên cứu đặc
điểm chất liệu tơ tằm có phù hợp khí hậu môi trường địa lý và ưu việt để dệt
lên mỗi tấm lụa hay không? Bởi tơ tằm là chất liệu có độ đàn hồi tốt, thoáng
khí, hút ẩm cao nhưng truyền nhiệt kém, vì vậy vào mùa đông tơ tằm có khả
năng giữ ấm cơ thể, mùa hè thoáng mát tạo cho người mặc cảm nhận sự mềm,
nhẹ khi sử dụng.
Mặt khác, xác định không gian văn hóa dựa trên những giá trị cốt lõi,
tiêu biểu của vị trí địa lý giúp NCS có thể tìm hiểu và phân biệt những nét
chung, nét riêng của một số nền văn hóa thông qua thời gian và môi trường tự
nhiên. “Trong tâm thức dân gian Việt Nam, sự phân biệt về cái chung, nét
riêng giữa các vùng miền luôn có một vị thế quan trọng. Cái chung, nét riêng
này, thường được gắn với một địa danh, một giới hạn lãnh thổ nào đó” [89,
tr.150]. Trên bình diện chung, không ngạc nhiên khi một số HVTT trên lụa
Nha Xá (Hà Nam) cũng ảnh hưởng từ chủng loại, kiểu dáng, hình thức trang
trí hoa văn trên lụa Vạn Phúc. Rõ nét nhất là các đồ án thực vật như hoa Cúc,
hoa Chanh, hoa Bèo cho đến các đồ án động vật như Chuồn Chuồn, đuôi
Công Tất cả các đồ án này đều rất đặc trưng với lối cách điệu mềm mại,
uyển chuyển tạo cho người nhìn liên tưởng đến lụa tơ tằm, mang bản sắc
riêng của không gian văn hóa Việt Nam nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói
riêng.
Đồng bằng Bắc Bộ giai đoạn trước những năm 1986 đến nay, là một xã
hội văn hóa pha trộn giữa các yếu tố ngoại sinh và các tộc người bản địa. Tuy
nhiên, sự giao thoa, ảnh hưởng của yếu tố địa – văn hóa đã thúc đẩy sự phát
triển HVTT trên lụa rất mạnh, mang trong mình đầy đủ thế giới quan, nhân
sinh quan. Việc áp dụng thuyết địa – văn hóa vào đề tài làm nổi bật lên các
giá trị thẩm mỹ cốt lõi của nghệ thuật tạo hình đặc trưng vùng đồng bằng Bắc
Bộ, nơi bảo lưu nghệ thuật trang trí lụa tơ tằm Vạn Phúc một cách rõ nét nhất.
34
Mặt khác, làng nghề dệt lụa Vạn Phúc chính là cái nôi trung tâm văn hóa, nơi
giao thương của tơ lụa Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Hoạt động kinh tế phát
triển, hàng loạt các làng nghề thủ công ra đời nhằm phục vụ cho đời sống
nhân dân và vua quan thời trước, đặc biệt là nghề ươm tơ dệt lụa.
Như vậy, thuyết địa – văn hóa được biểu lộ từ bên trong của quá trình
nghiên cứu, được nhìn nhận đánh giá và khơi dậy yếu tố nội sinh của đối
tượng nghiên cứu thông qua vị trí địa lý. Yếu tố địa lý trong đề tài được vận
dụng trên nhiều phương diện như lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, mang tính
định hướng trong nhận thức về biểu hiện, hình thức trang trí của HVTT. Việc
vận dụng thuyết địa – văn hóa đã mang lại những hiệu quả nhất định cho đề
tài, điều này sẽ là cách để tìm ra mối liên hệ giữa HVTT trên lụa Vạn Phúc
trong hệ thống hoa văn Việt Nam.
1.3. Khái quát về hoa văn trang trí trên lụa
1.3.1. Khái quát về hoa văn trang trí trên lụa thế giới
Trong ngành công nghiệp vật liệu dệt may và thiết kế thời trang trên thế
giới, lụa là một trong những loại vải được sử dụng nhiều trong cuộc sống
hàng ngày. Hình thức trang trí trên lụa được đánh giá là một công trình nghệ
thuật chứa đựng những sáng tạo, tinh hoa của văn hóa lịch sử mà chúng đại
diện. HVTT trên lụa vì thế mà chinh phục được nhiều người sử dụng bởi sự
nổi bật của nghệ thuật trang trí, sự tinh tế trong cách xử lý màu sắc. Đặc biệt ở
phong cách tạo hình mang đậm nét mềm mại mà vẫn sang trọng, lịch sự. Trên
thế giới, đã có nhiều nước sản xuất ra lụa từ lâu đời như: Trung Quốc, Nhật
Bản, các nước thuộc Trung Á, Ấn Độ, Ba Tư (cũ) và một số nước Châu Âu
thông qua con đường tơ lụa. Nơi đây từng là trung tâm buôn bán và sản xuất
tơ lụa thượng hạng có trang trí hoa văn đặc sắc, sầm uất bậc nhất trên thế giới,
cụ thể:
35
- Trung Quốc: Là cái nôi của lụa tơ tằm thế giới, khoảng 3630 năm
trước công nguyên vải lụa đầu tiên được xuất hiện ở Trung Quốc. Sau này,
lụa tơ tằm được phát triển rộng khắp nền văn hóa Trung Quốc. Nổi tiếng nhất
là lụa Hàng Châu với sợi tơ mỏng, mịn kỹ thuật dệt đạt đến độ hoàn mỹ, tinh
xảo về HVTT. Các hoa văn này chịu sự chi phối sâu sắc của chế độ phong
kiến Trung Hoa, đầu tiên nó mang tư tưởng nho giáo với các hoa văn được bố
trí hài hòa thể hiện cho vạn vật, vũ trụ và nhân sinh với biểu tượng trời và đất
(hình tròn và hình vuông) kết hợp với một số ký hiệu hán học, hoặc hoa văn
chữ thọ trên nền lụa [PL3, H3.1, tr.191]. Sau đó ảnh hưởng của đạo phật nên
các hoa văn mang dáng dấp tạo hình trong những ngôi chùa Trung Hoa với
nhiều chuỗi hoa dây, hoa leo, hoa Cúc, hoa Mai được thể hiện rõ nét thông
qua kỹ thuật dệt tinh xảo [PL3, H3.3, tr.192]. Cùng một số loài hoa biểu
tượng cho sự may mắn trong văn hóa Trung Hoa như Mẫu Đơn, hoa Mận,
Thủy Tiên hay biểu tượng Phúc – Lộc – Thọ [PL3, H3.2, tr.191]. Bố cục
trang trí trên lụa Trung Quốc thường được sắp xếp theo cặp từng đôi một hoặc
đơn lẻ. Đây là phong cách tạo hình mà sau này một số nước phương Đông,
khu vực Trung Á và nhiều nước ở Châu Âu ưa chuộng sử dụng.
- Nhật Bản: Nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa ở Nhật Bản ra đời muộn
hơn Trung Quốc nhưng không vì thế mà không có HVTT, trái lại hoa văn trên
lụa Nhật rất phong phú về thể loại và đa dạng về tạo hình. Sự hiện đại, mới
mẻ của hoa văn được thể hiện trên mỗi tấm lụa, khiến cho nó có sức lôi cuốn
hấp dẫn riêng. Chẳng hạn như hoa văn Nami (con sóng) tượng trưng cho sức
mạnh, biểu tượng này thể hiện cho vị thần của biển cả, có lẽ do nước Nhật là
một quốc đảo nên biển và sóng nước gắn liền với văn hóa của người Nhật. Vì
thế hoa văn Nami được trang trí với mật độ khá nhiều trên vải lụa Nhật [PL3,
H3.4, tr.192].
36
Kiku: Nghĩa là hoa Cúc biểu tượng của tuổi thọ, thể hiện cho giới quý
tộc Nhật. KiKu được coi là hoa văn của hoàng gia, xuất hiện trên cả hộ chiếu
Nhật nay cũng có mặt trong trang trí vải lụa với nhiều biến thể có dạng hình
tròn hay hình quạt [PL3, H3.5, tr.193].
Asanoha: Một loại hoa văn lấy ý tưởng từ hình lá của cây gai dầu Nhật
bản [PL3, H3.6, tr.193]. Từ thế kỷ XVII, người Nhật đã biết lấy tơ gai xe sợi
để dệt thành lụa, sau đó họ cách điệu cây gai thành hoa văn để trang trí trên
lụa.
Seigaiha: Đây là tên một điệu nhảy cung đình cổ xưa của người Nhật,
mang ý niệm về sự may mắn, hòa bình và thịnh vượng. Trang trí trên lụa, hoa
văn Seigaiha được cách điệu thành các hình bán nguyệt theo dạng tầng lớp,
mang tính liên kết cao [PL3, H3.7, tr.194].
Kol: Nghĩa là cá Chép, người Nhật đã tạo ra hoa văn Kol trên nền lụa
như đang bơi vượt vũ môn để hóa Rồng. Biểu tượng này thể hiện cho sự
thành công, hạnh phúc nên nhiều gia đình người Nhật thường treo các tấm lụa
trang trí cá Chép vào dịp tết nhằm mong cầu những điều như ý, may mắn
trong năm mới [PL3, H3.8, tr.194].
Sakura: Loài hoa biểu tượng cho con người Nhật với những cánh hoa
mỏng manh, nở to đẹp. Người Nhật rất yêu loài hoa này nên họ đã sử dụng
làm HVTT với mật độ nhiều trên lụa [PL3, H3.9, tr.195].
Ngoài các hoa văn trên, đất nước Nhật Bản còn sử dụng các mẫu hoa
văn lấy từ thiên nhiên như Kiri (sương mù), Yama (núi), Mizu (nước) để
trang trí. Phần lớn các tấm lụa này được sắp xếp theo bố cục tự do rất ít xuất
hiện dạng hàng lối như hoa văn Seigaiha. Ngoài kỹ thuật dệt người Nhật còn
sử dụng hình thức thêu trên lụa. Sau này kết hợp cả hình thức in, nhằm tạo ra
những tấm lụa trông giống như một bức tranh phong cảnh thiên nhiên nhiều
màu, có nét tương đồng với các bức họa Trung Quốc cùng thời. Sự kết hợp
37
chặt chẽ giữa HVTT với kỹ thuật đặc biệt trên đã làm cho lụa Nhật Bản trở
thành niềm tự hào của người Nhật qua bao thế kỷ.
* HVTT trên lụa Ấn Độ, Ba Tư và khu vực Trung Á,
Lụa ra đời từ rất sớm ở Trung Quốc nhưng phải đến thế kỷ thứ 4 trước
công nguyên mới phát triển ở Ấn độ, Ba Tư và các nước khu vực Trung Á
thông qua con đường tơ lụa. Đây là tuyến đường thông thương quan trọng của
nhân loại trong suốt thời gian dài lịch sử. Nhờ có con đường tơ lụa mà những
vùng đất, những nền văn hóa mới được tìm ra và là động lực cho sự phát triển
của cả châu Á và châu Âu trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là lụa tơ tằm. Con
đường tơ lụa bắt đầu từ Trung Quốc qua Mông cổ, Ấn Độ đến các nước
Afghanistan, Kazakhstan, Uzbekistan (khu vực Trung Á), Ba Tư (cũ), xung
quanh vùng Địa Trung Hải cho đến tận Châu Âu. Lúc này, HVTT trên lụa
nhanh chóng được tiếp thu và phát triển với nhiều chủng loại hoa văn đa
dạng, phong phú như hoa văn hình học, đồ vật, thực vật, động vật và hình
người cách điệu
- Ấn Độ: là nước sản xuất ra nhiều loại tơ lụa tự nhiên, những người
thợ dệt chủ yếu là người Hồi giáo được học nghề theo phương thức “cha
truyền con nối” để giữ gìn nghề thủ công. Họ kết hợp cả kỹ thuật thêu trên
các tấm lụa với những chi tiết HVTT tinh xảo, đa dạng về các chủ đề thiên
nhiên và tôn giáo như con người, mặt Trời, mặt Trăng, ngôi sao, hoa Sen, quả
Nho, quả Dâu, quả Mận, chim Công, Voi Ấn Độ từng là trung tâm dệt lụa
phát triển nhất con đường tơ lụa vào thế kỷ XVI, phần lớn chịu ảnh hưởng từ
các triều đại Ba Tư cũ. Ngày nay, HVTT trên lụa Ấn Độ thiên về hoa lá, cây
cỏ, thực vật nhiều hơn các loại hoa văn khác [PL3, H3.10, tr.195].
- Ba Tư: lụa Ba Tư rất nổi tiếng bởi nghệ thuật trang trí hoa văn có
màu sắc và kỹ thuật dệt đa dạng và cầu kỳ. Quá trình dệt nổi hoa văn trên bề
mặt lụa thể hiện được sự kiên nhẫn, tỉ mỉ của người thợ. HVTT trên lụa tơ
38
tằm Ba Tư được giới chuyên môn đánh giá cao về nghệ thuật trang trí, bởi
xuất phát từ văn hóa và phong tục lâu đời của người Ba Tư cũng như tâm
huyết họ đặt vào sản phẩm. Các hoa văn được dệt trên lụa đều là những hoa
văn lấy từ thiên nhiên như: hoa lá, cây cỏ, chim thú, bánh xe, sọc ngang, hình
thoi, các chấm tròn nhỏ, màu sắc trang nhã được sắp xếp gần nhau và gần
như không lộ nền của lụa. Ngày nay, họ ít dệt lụa mà tập trung sản xuất các
loại thảm bằng chất liệu len, bông
Các nước Afghanistan, Uzbekistan, Turkmenistan, Kyrgyzstan thuộc
khu vực Trung Á vốn là trung tâm giao thương lớn nhất con đường tơ lụa thời
trước. Trong lịch sử, người Trung Hoa đã mang vải lụa, gấm, vóc đến các
nước thuộc khu vực Trung Á nhằm kết nối thị trường, nhờ đó mà con đường
tơ lụa ở Trung Á phát triển với tốc độ khá nhanh. Những người thợ ở đây đã
bắt kịp kỹ thuật của Trung Quốc để dệt lên các hoa văn tinh xảo, cầu kỳ.
Cùng màu sắc rực rỡ đã tạo cho HVTT vùng Trung Á một “sức sống” mãnh
liệt, trộn lẫn văn hóa và tôn giáo, truyền thống và hiện đại. Đây là sự kết hợp
giữa hai phong cách phương Đông, phương Tây. Đến thế kỷ thứ VIII sản xuất
lụa mới phát triển sang châu Âu nhưng phong cách trang trí hoa văn vẫn được
kế thừa khu vực Trung Á.
* HVTT trên lụa Châu Âu
- Italia: Đất nước Italia được biết đến là một trong những vùng đất du
nhập lụa sớm nhất châu Âu, nhưng phải đến thế kỷ XIV lụa tơ tằm mới phát
triển rực rỡ. HVTT trên lụa Italia (Ý) ảnh hưởng phong cách trang trí của
phương Đông với các chủ đề thiên nhiên, cây cỏ hoa lá, đường nét mềm mại
[PL3, H3.11, tr.196]. Ngoài ra, HVTT trên lụa Ý còn ảnh hưởng phong cách
trang trí của nước Pháp với những họa tiết chấm tròn kiểu lốm đốm kết hợp
với lá cây nhiều màu (xanh, đỏ, vàng, trắng, ghi) [PL3, H3.12, tr.196].
39
- Tây Ban Nha: Vào thế kỷ X, Andalusia miền nam Tây Ban Nha là
trung tâm sản xuất lụa chính tại châu Âu, nhưng đến thế kỷ XVII mới phát
triển rộng khắp Tây Ban Nha. Sự pha trộn giữa phong cách hồi giáo và thiên
chúa giáo cho ra đời phong cách trang trí nổi tiếng trên lụa Tây Ban Nha.
Trường phái này nổi bật với cách tạo hình hoa văn nhẹ nhàng, hài hòa. Màu
sắc không rực rỡ, chói mặt như HVTT khu vực Trung Á và Italia mà trầm
nhẹ, dịu mắt hơn [PL3, H3.13, tr.197].
- Pháp: Nước Pháp từng là trung tâm tơ lụa của cả châu Âu với nhiều
loại lụa tinh xảo có màu sắc sặc sỡ, HVTT phong phú và đa dạng. Cuối thế kỷ
XIX, phong cách trang trí thiên về sự nhã nhặn, đơn giản, không cầu kỳ, tiêu
biểu là các hoa văn kẻ sọc ngang, hoa nhí [PL3, H3.14, tr.197].
Nhìn chung, HVTT trên lụa thế giới xuất hiện từ lâu đời khởi nguồn ở
Trung Quốc, sau này phát triển sang Nhật Bản, Ấn Độ các nước thuộc khu
vực Trung Á và châu Âu thông qua con đường tơ lụa. Mỗi một quốc gia, một
nền văn hóa khác nhau đều có các HVTT đặc trưng của vùng đó. Đến nay,
phong cách trang trí và tạo hình hoa văn vẫn nguyên vẹn trên các tấm lụa trên
thế giới.
1.3.2. Khái quát về hoa văn trang trí trên lụa Việt Nam
Lịch sử đã chứng minh những vết tích hoa văn đầu tiên mà con người
biết đến ở các vách đá, trên những mẩu xương động vật tìm được trong các di
chỉ thuộc văn hóa Hòa Bình. Cho dù đấy chỉ là những ký hiệu hoa văn không
rõ ràng, nhưng điều này là sự khởi nguồn cho nghệ thuật trang trí hoa văn trên
tất cả các sản phẩm vật dụng sau này của người Việt. Trong đó có HVTT trên
bề mặt lụa tơ tằm Việt Nam. HVTT trên lụa xuất hiện từ rất sớm, được hình
thành chủ yếu trên quan niệm, thói quen thẩm mỹ của cư dân nông nghiệp, nó
đã trải qua những thăng trầm biến đổi của lịch sử, văn hóa, môi trường. Đến
nay HVTT vẫn tồn tại, duy trì và ghi dấu ấn qua mỗi giai đoạn lịch sử, mang
40
trong mình mạch nguồn từ nền văn minh lúa nước, trong môi trường thiên
nhiên gắn bó với đời sống. Điều này tạo cho HVTT trên lụa những giá trị bình
dị, chân thực đậm chất dân gian.
Trước đây, mô hình nhà nước phong kiến Việt Nam là chế độ tập
quyền chuyên chế, tức là mọi quyền lực đều nằm trong tay người đứng đầu là
nhà vua. Để thể hiện sức mạnh và quyền uy của mình, các vị vua đã đề ra
những quy định khắt khe về trang phục của triều đình, trong đó có những quy
chuẩn sử dụng HVTT.
Trải qua các triều đại từ Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều đã có những quy
định riêng biệt về HVTT trên trang phục cho các giai tầng trong xã hội.
HVTT không chỉ là yếu tố nghệ thuật, mà còn mang ý nghĩa phân biệt giữa
trang phục hoàng đế với trang phục bá quan và trang phục dân thường. Chẳng
hạn trang phục dành cho vua, có trang trí hình rồng, trang phục dành cho
hoàng hậu, có trang trí phượng hoàng Cho thấy, HVTT trên lụa tơ tằm
được ra đời để đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội phục vụ cho mọi thể thức
trang phục của con người. Những người thợ khéo tay đã sáng tạo ra nhiều loại
HVTT trên lụa vừa thể hiện cái nhìn nhân sinh quan, thế giới quan vừa gần
gũi gắn bó với môi trường thiên nhiên nơi con người sinh sống. Ngay cả “trên
trang phục dành cho nhà vua, ngoài hoa văn động vật như hình tượng rồng,
trong hệ thống tâm linh còn có các hình trang trí thủy ba, sóng dợn, mây
bay biểu tượng của sự bao trùm thiên hạ; quần thần, dân chúng và non
sông; trong sâu thẳm, nó vẫn thể hiện sự gắn bó với thiên nhiên” [27, tr.34].
Bởi vậy, cho đến ngày nay HVTT trên lụa tơ tằm Việt Nam chủ yếu vẫn là
các đề tài thiên nhiên cây cỏ, hoa lá với màu sắc tinh tế đậm tính dân tộc.
Sau này, trong sự phát triển kinh tế chung của xã hội, ở từng vùng miền
từng địa phương, mà dần hình thành những làng nghề dệt chuyên biệt, các
trung tâm buôn bán tơ lụa sầm uất. Sự xuất hiện này đã tác động trực tiếp và
41
làm đòn bẩy cho việc nghiên cứu sáng tạo hoa văn, thúc đẩy tính thương mại,
sự cạnh tranh giữa những sản phẩm lụa tơ tằm tại các làng nghề. Khi xã hội
có sự phân chia giai cấp, giá trị thẩm mỹ của sản phẩm được được đề cao,
quyền hạn sử dụng được quy định. Chính là nguyên nhân làm nảy sinh sự
phân cấp hàng hóa, ví dụ: những mặt hàng lụa được dệt tinh xảo, có giá trị
thẩm mỹ cao dành cho vua, quan và người giàu, còn mặt hàng đơn giản có giá
trị thấp thì dân thường và người nghèo sử dụng. Hiện tượng này được thể hiện
rõ nét trên các loại trang phục từ trong cung đình đến ngoài dân gian của xã
hội phong kiến trước kia.
Các HVTT trên lụa được chia theo sự phân tầng cho người sử dụng,
như đề tài tứ linh: “long, ly, quy, phượng” chỉ được dùng cho vua chúa, còn
các con vật khác như Rùa, Dơi, cá Chép chủ yếu dành cho tầng lớp quan
lại, nhà giàu. Các đồ án “Dơi Thọ”, “Rồng Phượng” cũng thấy trên lễ phục.
Ngoài ra còn có các hoa văn như: chữ Thọ, chữ Vạn, sóng gợn, mây bay
được sử dụng xen kẽ với các HVHT khác trong triều phục của hoàng tộc. Đối
với dân thường, những dịp quan trọng hay lễ tết mới sử dụng lụa có trang trí
hoa văn như hoa Chanh, hoa Mai, hoa Hồng, bông Cúc
Ngày nay, HVTT trên lụa đã có sự thay đổi về kỹ thuật, kiểu cách, hình
thức, màu sắc trở nên đa dạng và phong phú hơn. Nhìn chung, vẫn kế thừa từ
phong cách dân gian truyền thống như Cúc, Hồng, Mai, Chanh nhưng có sự
tiếp nhận các yếu tố mới và mở rộng sang các đề tài hoa văn khác như: hoa
Hướng Dương, hoa Bèo, hoa Phăng
Đề cập đến HVTT trên lụa tơ tằm Việt Nam, không thể không nhắc tới
các làng dệt lụa hoa nổi tiếng như: làng lụa Vạn Phúc (Hà Nội), làng lụa Mã
Châu (tỉnh Quảng Nam), lụa Mỹ A (tỉnh An Giang), làng Nha Xá (tỉnh Hà
Nam), làng lụa Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng). Nhưng phong phú về HVTT nhất
phải nói đến là làng lụa Vạn Phúc với nhiều chủng loại hoa văn như Sen, Cúc,
42
Chanh, Mai, Bèo, Hồng, Hướng Dương, cành Trúc, hoa Phượng, hoa Bướm,
hoa Phăng cùng các chuỗi hoa dây, hoa leo, hình lá cây Cho đến các đề tài
động vật như Rồng, Phượng, Rùa, Dơi, Chuồn Chuồn, cá, chim Công. Các
hoa văn chữ Thọ vuông/tròn/cong/ngoặc, chữ Vạn, chữ Triện
Tiếp đến là HVTT trên lụa Nha Xá (tỉnh Hà Nam) [PL4, H4.1, tr.198].
cũng tương đồng về kiểu dáng, tên gọi với HVTT trên lụa Vạn Phúc như hoa
văn đuôi Công, Chuồn Chuồn, hoa Hồng, Hoa Bèo... Nhưng chủng loại hoa
văn trên lụa Nha Xá không nhiều như hoa văn lụa Vạn Phúc. Lụa Nha Xá có
màu sắc đa dạng, hoa văn trang nhã được dệt 100% từ tơ tằm tự nhiên, bề mặt
vải nhẵn, bóng, mềm, mịn, ít bị nhăn. Tương truyền, ông tổ dạy dân làng Nha
Xá dệt lụa là Trần Khánh Dư, vị tướng lỗi lạc thời nhà Trần. Trong một lần du
ngoạn trên sông Hồng, thấy bãi sông đẹp, ông đã dừng chân và hướng dẫn
người dân trong làng trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Từ đó, nghề dệt lụa làng
Nha Xá được hình thành và lưu truyền cho đến tận ngày nay. Với bề dày lịch
sử hơn 700 năm tuổi, làng Nha Xá đã đứng vững trên thị trường cùng các
dòng sản phẩm tơ tằm như: lụa hoa, sa tanh, đũi Hiện nay, các nghệ nhân
làng Nha Xá đã tiếp cận những kỹ thuật mới, công nghệ tiên tiến nhằm áp
dụng trong việc dệt lụa. Từ khung dệt khổ 30cm đã chuyển sang khổ 80 –
90cm với nhiều sản phẩm lụa tơ tằm phong phú và đa dạng.
Lụa tơ tằm Mã Châu bền, đẹp, HVTT có nhiều màu sắc rực rỡ. HVTT
trên lụa Mã Châu (tỉnh Quảng Nam) về chủng loại cũng không nhiều như lụa
Vạn Phúc, chỉ có một số hoa văn tiêu biểu như đuôi Công, hoa Cúc, chữ Thọ,
hoa Hồng [PL4, H4.2, tr.199].
Hình thành từ thế kỷ XV, nhưng phải đến thế kỷ XVI, làng lụa Mã
Châu mới thực sự nổi tiếng nhờ được chọn là vùng chuyên dệt lụa cung cấp
cho giới quý tộc, quan lại trong triều đình thời đó. Các công việc trồng dâu,
nuôi tằm, se tơ, dệt lụa được thực hiện với sự tham gia của nhiều hộ sản xuất
43
thủ công trong làng. Thế kỷ XIX, phương thức sản xuất của làng được cải tiến
hơn so với trước đây. Từ chỗ sử dụng các máy móc thủ công đã chuyển sang
một phần bán cơ giới, rồi tiến đến tự động hóa. Tuy nhiên, khi Trung Quốc
xuất sang nước ta các loại lụa có giá rẻ hơn so với giá lụa của làng nghề, dẫn
đến sự phát triển của làng lụa Mã Châu bị chững lại. Diện tích đất trồng dâu,
nuôi tằm giảm mạnh, thay vào đó là các loại cây trồng khác và người dệt lụa
cũng chuyển sang làm công việc khác. Được biết, hiện nay làng nghề có duy
nhất Hợp tác xã tơ lụa Mã Châu còn giữ được phương thức dệt lụa hoa truyền
thống với hơn 2000 khung cửi. Đa số, nguồn nguyên liệu tơ tằm của làng Mã
Châu phải nhập từ nơi khác về để sản xuất. Hiện nay, huyện Duy Xuyên (tỉnh
Quảng Nam) đã quy hoạch nhiều đất chuyên canh trồng dâu, nuôi tằm, phục
vụ cho làng nghề duy trì sản xuất.
Lụa hoa Tân Châu với mặt hàng tơ tằm Mỹ A từng phổ biến khắp
“Nam kỳ lục tỉnh” ở những năm 30 của thế kỷ XX. Đặc biệt lụa Mỹ A có các
sợi tơ để dệt hoa văn, được nhuộm kỹ theo phương thức truyền thống do ông
bà ta để lại nên phần nhiều lụa tơ tằm Mỹ A đều có màu đen. HVTT trên lụa
Mỹ A, được dệt tinh xảo trên nền màu đậm óng ả như hoa Hồng, hoa Dâu,
hoa Bèo [PL4, H4.3, tr.200], tạo sự huyền bí, độc đáo và ấn tượng riêng biệt
cho từng tấm lụa. Một số ít HVTT có màu khác như xanh lam, tím than, nâu,
vàng nhưng chủ yếu vẫn là màu đen truyền thống do nhuộm nguyên liệu tự
nhiên của trái “mặc nưa”. Sản phẩm lụa Tân Châu được tạo ra từ những
nguyên liệu tự nhiên mà không làng nghề nào có được. Vì vậy, sản phẩm tơ
lụa Tân Châu sản xuất đến đâu thì tiêu thụ hết đến đó và hiếm khi bị tồn đọng.
Tuy nhiên, làng nghề truyền thống Tân Châu cũng gặp khó khăn trong việc
sáng tác HVTT. Bởi vậy, hiện nay mặt hàng lụa hoa Tân Châu ít thấy trên thị
trường so với các sản phẩm lụa hoa ở các vùng miền khác.
44
Làng lụa Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng) được mệnh danh là thủ phủ tơ tằm
của Việt Nam. Mặc dù, từng có giai đoạn khó khăn, nhưng hiện nay ngành
sản xuất tơ lụa tại Bảo Lộc đã rất phát triển, đặc biệt với sự đầu tư về thiết bị,
máy móc, dây chuyền sản xuất hiện đại, công suất cao đã góp phần nâng cao
chất lượng, sản phẩm tơ lụa Bảo Lộc. Ngày nay, theo xu hướng thị trường mà
HVTT trên lụa Bảo Lộc không còn được dệt truyền thống nhiều như trước kia
mà thay vào đó là hình thức in công nghiệp với các hoa văn hiện đại. Dù đã
có nhiều sự thay đổi để phù hợp với tốc độ sản xuất công nghiệp và thị hiếu
người tiêu dùng, nhưng đâu đó trên lụa Bảo Lộc chúng ta vẫn bắt gặp nét cổ
xưa truyền thống thông qua một số chủng loại HVTT trên lụa Bảo Lộc như:
hoa Sen, cành Trúc [PL4, H4.4, tr.200].
Ngoài các làng lụa kể trên, còn có một số công ty dệt lụa hoa như công
ty Bảy Hiền, làng dệt Phùng Xá, nhưng tất cả HVTT trên lụa đều xoay
quanh các đề tài gần gũi với cuộc sống, cỏ cây hoa lá trong thiên nhiên. Như
vậy, giống như một số nước phương Đông khác, người Việt đã mang thiên
nhiên vào trang trí trên lụa với cách diễn đạt mộc mạc, giàu chất trữ tình như
cách sống của những cư dân nông nghiệp nơi đây. HVTT trên lụa thể hiện óc
tưởng tượng phong phú và bàn tay tài hoa của người thợ dệt. Nghệ thuật “cài
hoa” trên lụa tơ tằm tạo hiệu ứng khi nổi khi chìm, lúc ẩn, lúc hiện khiến cho
mỗi tấm lụa có sự óng ánh, mềm mại nhất là khi được ánh sáng quang phổ
của thiên nhiên chiếu vào. Màu sắc được sử dụng hài hòa tươi sáng, nền và
hình biểu hiện rõ ràng mạch lạc, tạo bố cục cân đối dưới mọi góc nhìn.
Nhìn chung, HVTT trên lụa tơ tằm ở các làng nghề trên khắp vùng
miền trong đất nước ta là sản phẩm thủ công được dệt tinh xảo, thể hiện
phong cách tạo hình đậm chất dân gian, mang dấu ấn riêng của nghệ thuật
trang trí Việt Nam.
45
1.3.3. Khái quát về lụa Vạn Phúc
1.3.3.1. Lịch sử nghề dệt lụa Vạn Phúc
Theo cứ liệu của các nhà nghiên cứu, trong cuốn Nghề dệt – nghề thêu
cổ truyền [118] đoán định: cách đây khoảng 1200 năm làng Vạn Phúc (ngoại
thị Hà Đông) có bà Lã Thị Nga hay còn gọi là Lã Thị Nương là vợ của tướng
quân Cao Biền theo chồng sang nước Nam cai trị. Khi đó nước ta bị nhà
Đường đô hộ gọi là An Nam đô hộ phủ, bà ở hành cung ngoài thành Đại La
có đi thăm thú các nơi. Đến trang Vạn Bảo (nay là làng Vạn Phúc do tên cũ
trùng với tên vua Nguyễn nên phải đổi) thấy dân tình hiền hòa, lại có cảnh
đẹp bên dòng sông Nhuệ nên bà ở lại, dạy nhân dân cách làm ăn và truyền
nghề dệt lụa. “Thời ấy, dân ta luôn phải đem những sản vật quý giá của đất
nước mình làm cống phẩm nộp cho bọn đô hộ. Trong các cống phẩm thời ấy
có tơ lụa, sa, the, đồ mây, bạch lạp” [118, tr.13].
Sau khi bà mất, dân làng Vạn Phúc lập đền thờ và tôn bà là “Bà Tổ
nghề dệt” của làng, có điều đáng chú ý là trong hậu cung của đình làng Vạn
Phúc, có bày cái thúng sơn, thước gỗ sơn, cái kéo bằng sắt, phấn bằng ngà,
toàn là đồ dùng của thợ may. Có thể bà Lã Thị Nga vừa là thợ dệt vừa là thợ
may chăng? Việc dệt cửi là việc làm thường xuyên của người phụ nữ xưa trên
cơ sở kinh tế tự sản, tự tiêu của gia đình. Từ cái áo vải, cái thắt lưng do bàn
tay các bà, các chị dệt lấy, khâu lấy. Nhưng đến những thứ hàng “cao
cấp” như lụa có trang trí hoa văn trên đó, thì phải nhờ đến bàn tay thợ chuyên
nghiệp ở các làng dệt, phường dệt Vạn Phúc, họ đều có thể dệt thành thạo
nhiều loại hàng khác nhau như hàng đơn, hàng kép hay lụa, là, lĩnh, xuyến
Trải qua các thời kỳ, nghề dệt lụa làng Vạn Phúc vẫn được duy trì để
phục vụ cho việc may mặc của vua, quan, dân chúng ở kinh đô. Dưới thời Lê,
chỉ có làng Vạn Phúc là nơi duy nhất biết dệt lụa có HVTT và nhiều khung
46
dệt nhất nước ta thời bấy giờ. Ban đầu, lụa Vạn Phúc chỉ dành riêng cho giới
quý tộc, vua, chúa, bá quan và những người giàu có trong kinh thành.
Thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đặt ra Bộ Công, trưng dụng thợ giỏi trong
dân gian, phiên chế thành đội ngũ. Tuy nhiên, những người thợ trong các
công xưởng nhà Nguyễn hưởng lương thấp, lại bị kiểm soát nghiêm ngặt nên
tâm trạng chán nản. Không ít người thợ tài năng xuất chúng bị ngược đãi hoặc
phải phục dịch, đi làm đồ ngự dụng, sống trong những bức tường đóng kín
của kinh thành Huế. Nhiều làng nghề dệt lụa truyền thống vốn nổi tiếng, phồn
thịnh lâu đời đã giải thể. Các nghệ nhân phải nộp thuế bằng hiện vật rất nặng,
nên tiếng khung cửi thưa thớt dần. Dân làng Vạn Phúc, La khê (Hà Đông) vốn
giỏi dệt lụa hoa, lụa Vân đến thời Nguyễn phải nộp mỗi năm hàng nghìn tấm
lụa.
Dưới thời Thiệu Trị, khoảng những năm 40 thế kỷ XIX, làng dệt Vạn
Phúc bị triều đình phiên chế thành một công xưởng dệt của nhà nước, gọi là
“Chức tạo cục”. Năm nào cũng phải nộp đủ số lượng lụa hoa theo quy định
nói trên. “Chức tạo cục” còn phải dệt tất cả các loại lụa hoa nhiều màu cho
triều đình theo sắc chỉ của nhà vua. Thợ dệt bị bóc lột nặng nề, các làng nghề
sút kém dần, nhiều nơi trở nên tiêu điều, sản xuất thủ công đình đốn. Hình
ảnh đó chính là hậu quả tất yếu của chế độ “công tượng” dưới chính thể quân
chủ tập trung chuyên chế nhà Nguyễn, với quy định trói buộc khắt khe của nó,
tuy đã gây nên phản ứng tiêu cực của thợ thủ công trong các công xưởng của
nhà nước phong kiến, nhưng cũng không thể kìm hãm việc sản xuất thủ công
trong dân gian, đặc biệt là nghề dệt lụa tơ tằm.
Trước khi Pháp sang, nền sản xuất ở Việt Nam hầu hết là thủ công
nghiệp, kể cả trong nông nghiệp. Dân số nước ta ở nửa thế kỷ XIX có khoảng
13 triệu người, nhu cầu ăn mặc lúc ấy khá lớn. Do đó, trong các nghề thủ
công, có lẽ phát triển nhất là nghề dệt lụa tơ tằm. Những nơi có nhiều làng
47
nghề dệt và hoạt động nhộn nhịp lúc bấy giờ phải kể đến Hà Nội, Hưng Yên,
Nam Định, Biên Hòa, Gia Định, An Giang. Hàng trăm mặt hàng dệt tơ tằm
các loại đã ra đời trên các địa phương đó như: lụa hoa, the đen, sa, lương,
nhiễu, lĩnh
Đến thời Tự Đức (1848 – 1883), nhà nước phong kiến nhận ra vai trò
quan trọng của nghề dệt lụa, bắt đầu khuyến khích sản xuất, hồi phục và phát
triển khắp cả nước đặc biệt là làng Vạn Phúc. Thị trường tiêu thụ mở rộng, có
sự tiếp thu kỹ thuật và trang thiết bị cơ khí từ Pháp sang. Có thể nói, trong số
các sản phẩm thủ công của Việt Nam đã thu hút sự chú ý của giới tư bản Pháp
lúc đó, đặc biệt là hàng lụa hoa. Lúc này, hàng dệt trong nước bị hàng ngoại
cạnh tranh gay gắt, các làng nghề dệt tơ lụa lại bị đẩy vào tình cảnh điêu
đứng. Nghề dệt lụa lao đao một thời, dần dần hồi phục, ngay cả trong hoàn
cảnh chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 – 1918. Nhân dân các tỉnh trên toàn
xứ Bắc kỳ quen chăm loại tằm kén vàng, thuộc giống sinh nhiều lứa, có thể
cho 4 – 5 lứa/ năm. Các nhà tằm kiểu mẫu cũng phát triển mạnh mẽ, mỗi năm
tới 6 triệu lứa trứng, lứa tằm tạo nguồn sợi cho việc sản xuất các mặt hàng
dệt. Nhiều người dân chăn tằm đã được phép tới các nhà tằm kiểu mẫu tham
quan, thực tập. Công việc dệt lụa thủ công truyền thống vẫn tiếp tục trong các
làng nghề, tập trung và nổi bật nhất là Hà Đông, vì vậy, các sản phẩm lụa Vạn
Phúc đã bước sang giai đoạn phát triển mới.
Những năm 30 của thế kỷ XX, làng Vạn Phúc giữ nghề truyền thống
làm hàng lụa giỏi nhất Hà Đông với các mặt hàng chủ yếu như lụa Vân nhiều
màu, lụa hoa cánh Chuồn, lụa hoa Cúc tất cả các sản phẩm này, đều được
bán khắp cả nước và xuất khẩu sang Campuchia, Thái Lan cũng như một số
nước khác. Như vậy, cho thấy vào thời kỳ này, nghề dệt lụa Vạn Phúc đã phát
triển đến mức sâu rộng trong cả nước, đồng thời sản phẩm lụa Vạn Phúc cũng
từng theo chân những nghệ nhân nước ta đi tham dự triển lãm ở nước ngoài
48
và được giới thiệu lần đầu ra quốc tế tại các hội chợ Marseille (1931) và Paris
(1938) được người Pháp đánh giá là loại sản phẩm tinh xảo của vùng Đông
Dương Từ đó, lụa Vạn Phúc bắt đầu có mặt trên thị trường thế giới và xuất
khẩu hầu hết sang các nước Đông Âu.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 – 1945) nổ ra, nguyên liệu cho ...iếng Thơm Thủ Phủ Tơ Lụa Của
Trung Quốc”, https://toluavietnam.net/lua-hang-chau-tieng-thom-
thu-phu-to-lua.html (ngày đăng 07/01/2020).
140. Madhu Silk Private Limited , Bengaluru , Karnataka (2020),
https://www.indiamart.com/madhu-silk/jacquards.html (ngày truy
cập 15/10/2020).
141. Le Na (2019), “Vải hoa văn Nhật Bản – Cảm hứng đến từ thiên nhiên”,
https://khoytuong.vn/vai-hoa-van-nhat-ban-cam-hung-den-tu-thien-
nhien/ (ngày đăng 29/10/2019).
142. Lê Phương (2020), “Giải mã bí ẩn của nữ hoàng các loại lụa - Lãnh Mỹ
A”, https://bnews.vn/giai-ma-bi-an-cua-nu-hoang-cac-loai-lua-lanh-
my-a/146129.html (ngày đăng 30/01/2020).
143. Phương Thanh (2020), “Top 6 quốc gia sản xuất lụa tơ tằm lớn nhất thế
giới”, https://nhasilk.com/top-6-quoc-gia-san-xuat-lua-to-tam-lon-
nhat-the-gioi/ (ngày đăng 03/01/2020).
144. Tsarevazana (2018), https://www.ebay.co.uk/itm/100-Italian-Silk-
Fabric-/332731188481 (ngày đăng 18/09/2018).
145. (ngày truy cập
15/11/2020).
146. https://toiyeu.com.vn/vaidep/2019/05/phan-biet-lua-tam-y-va-lua-han-
quoc/ (ngày truy cập 17/11/2020).
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
HOA VĂN TRANG TRÍ TRÊN LỤA VẠN PHÚC
(Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội)
PHỤ LỤC LUẬN N TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội, 2021
182
Mục lục
Trang
Phụ lục 1: Bản đồ hành chính phường Vạn Phúc 183
Phụ lục 2: Bảng kê số liệu 184
Phụ lục 3: Hoa văn trang trí trên lụa Thế giới 191
Phụ lục 4: Hoa văn trang trí trên lụa Việt Nam 198
Phụ lục 5: Đề tài hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc 201
Phụ lục 6: Đồ án hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc 221
Phụ lục 7: Hình thức trang trí hoa văn trên lụa Vạn Phúc 234
Phụ lục 8: Một số hoa văn ảnh hưởng từ mỹ thuật cổ Việt Nam 256
Phụ lục 9: Danh mục người phỏng vấn 262
183
Phụ lục 1
ẢN ĐỒ HÀNH CH NH PHƢỜNG VẠN PH C
(Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội)
Hình 1: Bản đồ hành chính làng Vạn Phúc
Nguồn:
184
Phụ lục 2
ẢNG SỐ LIỆU VỀ ĐỀ TÀI VÀ ĐỒ N HOA VĂN TRANG TRÍ
TR N LỤA VẠN PH C
ảng 1 Đề tài hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc
TT Hoa văn trang trí Phụ lục hình ảnh
A Nh m đề tài thực vật
1 Hoa Bèo [PL5, H5.1, tr.201]
2 Hoa Bướm [PL5, H5.2, tr.201]
3 Hoa Chanh [PL5, H5.3, tr.202]
4 Hoa Cúc [PL5, H5.4-5.5, tr.202- 203]
5 Hoa Hồng [PL5, H5.6-5.9, tr.203-205]
6 Hoa Hướng dương [PL5, H5.10, tr.205]
7 Hoa Mai [PL5, H5.11, tr.206]
8 Hoa Phăng [PL5, H5.12, tr.206]
9 Hoa Phượng [PL5, H5.13, tr.207]
10 Hoa Sen [PL5, H5.14-5.15 tr.207-208]
11 Cây Trúc [PL5, H5.16, tr.208]
12 Cây leo [PL5, H5.17, tr.219]
13 Hoa leo [PL5, H5.18, tr.209]
14 Lá cây [PL5, H5.19, tr.210]
B Nh m đề tài động vật
15 Rồng [PL5, H5.20- 5.21, tr.210-211]
16 Phượng [PL5, H5.22, tr.211]
17 Rùa [PL5, H5.23, tr.212]
18 Dơi [PL5, H5.24, tr.212]
19 Chuồn chuồn [PL5, H5.25, tr.213]
20 Cá [PL5, H5.26, tr.214]
21 Công [PL5, H5.27-5.28, tr.214]
C Nh m đề tài khác
22 Chữ Thọ [PL5, H5.29-5.32, tr.215-216]
23 Chữ Vạn [PL5, H5.33, tr.217]
24 Chữ Triện [PL5, H5.34, tr.217]
25 Vân mây, sóng nước [PL5, H5.35, tr.218]
26 Hình học [PL5, H5.36- 538, tr.218-219]
27 Đồ vật [PL5, H5.39, tr.220]
185
ảng 2 Đồ án hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc
TT Đồ án trang trí Phụ lục hình ảnh
A Đồ án linh vật
1 Đồ án Rồng chầu thọ [PL6, H6.1, tr.221]
2 Đồ án Rồng chầu Khuê Văn Các [PL6, H6.2, tr.221]
3 Đồ án Dơi chầu Thọ [PL6, H6.3, tr.222]
4 Đồ án Song Phượng [PL6, H6.4, tr.222]
B Đồ án thực vật
5 Đồ án hoa Cúc [PL6, H6.5-6.6, tr.223]
6 Đồ án hoa Chanh [PL6, H6.7, tr.224]
7 Đồ án hoa Bèo [PL6, H6.8, tr.224]
8 Đồ án hoa Bướm [PL6, H6.9, tr.225]
9 Đồ án hoa Hướng dương [PL6, H6.10, tr.225]
10 Đồ án hoa Phăng [PL6, H6.11, tr.226]
C Đồ án chữ, hình học, đồ vật
11 Đồ án Thọ triện [PL6, H6.12, tr.226]
12 Đồ án Thọ đỉnh [PL6, H6.13, tr.227]
13 Đồ án hình tròn [PL6, H6.14, tr.227]
14 Đồ án hình đa giác [PL6, H6.15, tr.228]
15 Đồ án hình vuông [PL6, H6.16, tr.228]
16 Đồ án trống đồng [PL6, H6.17, tr.229]
D Đồ án tổ hợp
17 Đồ án Vạn Cúc [PL6, H6.18, tr.229]
18 Đồ án Trúc, Mai, Thọ, Hỷ [PL6, H6.19, tr.230]
19 Đồ án Hồng Thọ [PL6, H6.20, tr.230]
20 Đồ án Hồng Cá [PL6, H6.21, tr.231]
21 Đồ án Sen Hạc [PL6, H6.22, tr.231]
22 Đồ án Sen Mây [PL6, H6.23, tr.232]
23 Đồ án đuôi Công [PL6, H6.24-6.25, tr.232-233]
24 Đồ án hoa, lá, chim [PL6, H6.26, tr.233]
186
ảng 3 hai triển hoa văn trang trí
T
T
Tên gọi Đồ án hoa văn trang trí hai triển hoa văn
1
Hoa
Cúc
2
Hoa
Chanh
3
Hoa
Cúc
xoáy
4
Hoa
Bèo
187
T
T
Tên gọi Đồ án hoa văn trang trí hai triển hoa văn
5
Hoa
Phượng
6
Hoa
Hồng
7
Hồng
Thọ
8
Hoa
văn cây
leo
188
T
T
Tên gọi Đồ án hoa văn trang trí hai triển hoa văn
9
Dơi
chầu
Tho
10
Chuồn
Chuồn
11
Hồng
cá
12
Đuôi
Công
mau
189
T
T
Tên gọi Đồ án hoa văn trang trí hai triển hoa văn
13
Đuôi
Công
thưa
14
Rồng
chầu
Thọ
15
Thọ
Triện
16
Thọ
Đỉnh
190
T
T
Tên gọi Đồ án hoa văn trang trí hai triển hoa văn
17
Vạn
Cúc
18
Trống
Đồng
191
Phụ lục 3
HOA VĂN TRANG TR TR N LỤA THẾ GIỚI
Hình 3.1: Hoa văn chữ Thọ trên lụa Trung Hoa [137]
Hình 3.2: Hoa văn Phúc- Lộc- Thọ [137]
192
Hình 3.3: Hoa văn trên lụa Trung Hoa [139]
Hình 3.4: Hoa văn Nami (con sóng) trên lụa Nhật Bản [141]
193
Hình 3.5: Hoa văn KiKu (hoa Cúc) trên lụa Nhật Bản [141]
Hình 3.6: Hoa văn Asanoha trên lụa Nhật Bản [141]
194
Hình 3.7: Hoa văn Seigaiha (điệu nhảy) trên lụa Nhật Bản [141]
Hình 3.8: Hoa văn Kol (cá Chép) trên lụa Nhật Bản [141]
195
Hình 3.9: Hoa văn Sakura trên lụa Nhật Bản [141]
Hình 3.10: Hoa văn trang trí trên lụa Ấn Độ [143]
196
Hình 3.11: HVTT trên lụa Italia [144]
Hình 3.12: HVTT trên lụa Italia [146]
197
Hình 3.13: HVHT trên lụa Tây Ban Nha [140]
Hình 3.14: HVHT trên lụa Pháp [136]
198
Phụ lục 4
HOA VĂN TRANG TR TR N LỤA VIỆT NAM
Hình 4.1: Hoa văn trang trí trên lụa Nha Xá (tỉnh Hà Nam)
Nguồn: Ảnh Nha Xa.silk
199
Hình 4.2: Hoa văn trang trí trên lụa Mã Châu (tỉnh Quảng Nam)
Nguồn: machausilk.com
200
Hình 4.3: Hoa văn trang trí trên lụa Mỹ A (tỉnh An Giang) [141]
Hình 4.4: Hoa văn trang trí trên lụa Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng) [146]
201
Phụ lục 5
ĐỀ TÀI HOA VĂN TRANG TR TR N LỤA VẠN PH C
Hình 5.1: Hoa văn hoa Bèo trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.2: Hoa văn hoa Bướm trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
202
Hình 5.3: Hoa văn hoa Chanh trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.4: Hoa văn hoa Cúc trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
203
Hình 5.5: Hoa văn hoa Cúc xoáy trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.6: Hoa văn hoa Hồng trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
204
Hình 5.7: Hoa văn hoa Hồng đơn trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.8: Hoa văn hoa Hồng kép trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
205
Hình 5.9: Hoa văn hoa Hồng leo trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.10: Hoa văn hoa Hướng Dương trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
206
Hình 5.11: Hoa văn hoa Mai trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.12: Hoa văn hoa Phăng trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
207
Hình 5.13: Hoa văn hoa Phượng trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.14: Nụ và hoa Sen trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
208
Hình 5.15: Hoa văn hoa Sen trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.16: Hoa văn cây Trúc trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
209
Hình 5.17: Hoa văn cây leo trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.18: Hoa văn hoa leo trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
210
Hình 5.19: Hoa văn lá cây trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.20: Hoa văn con Rồng trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
211
Hình 5.21: Hoa văn con Rồng trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.22: Hoa văn chim Phượng trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
212
Hình 5.23: Hoa văn con Rùa trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.24: Hoa văn con Dơi trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
213
Hình 5.25: Hoa văn Chuồn Chuồn trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.26: Hoa văn con cá trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
214
Hình 5.27: Hoa văn đuôi Công trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.28: Hoa văn đuôi Công thưa trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
215
Hình 5.29: Chữ Thọ vuông cong trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.30: Chữ Thọ vuông trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
216
Hình 5.31: Chữ Thọ tròn trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.32: Chữ Thọ cong trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
217
Hình 5.33: Hoa văn chữ Vạn trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.34: Hoa văn chữ Triện trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
218
Hình 5.35: Hoa văn vân mây sóng nước trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.36: Hoa văn hình vuông trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
219
Hình 5.37: Hoa văn hình tròn trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 5.38: Hoa văn hình đa giác trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
220
Hình 5.39: Hoa văn trống Đồng trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
221
Phụ lục 6
ĐỒ N HOA VĂN TRANG TR TR N LỤA VẠN PH C
a b
Hình 6.1: Rồng chầu Thọ trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2019)
a b
Hình 6.2: Rồng chầu Khuê Văn Các trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2019)
222
Hình 6.3: Dơi chầu Thọ trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2019)
Hình 6.4: Song Phượng trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2019)
223
Hình 6.5: Đồ án hoa Cúc trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
Hình 6.6: Đồ án hoa Cúc xoáy trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
224
Hình 6.7: Đồ án hoa Chanh trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
Hình 6.8: Đồ án hoa Bèo trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
225
Hình 6.9: Đồ án hoa Bướm trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
Hình 6.10: Đồ án hoa Hướng Dương trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
226
Hình 6.11: Đồ án hoa Phăng trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
Hình 6.12: Đồ án Thọ Triện trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
227
Hình 6.13: Đồ án Thọ Đỉnh trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 6.14: Đồ án hình tròn trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
228
Hình 6.15: Đồ án hình đa giác trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 6.16: Đồ án hình vuông trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
229
Hình 6.17: Đồ án trống Đồng trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
Hình 6.18: Đồ án Vạn Cúc trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Xưởng dệt nghệ nhân Triệu Văn Mão (2018)
230
Hình 6.19: Đồ án Trúc, Mai, Thọ, Hỷ trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Xưởng dệt nghệ nhân Triệu Văn Mão (2018)
Hình 6.20: Đồ án Hồng Thọ trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2019)
231
Hình 6.21: Đồ án Hồng cá trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
Hình 6.22: Bản thiết kế Sen Hạc trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
232
Hình 6.23: Bản thiết kế Sen Mây trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
Hình 6.24: Đồ án đuôi Công có mật độ trang trí thưa trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
233
Hình 6.25: Đồ án đuôi Công có mật độ trang trí mau trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
Hình 6.26: Đồ án tổng hợp hoa, lá, chim trang trí mau trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2018)
234
Phụ lục 7
HÌNH THỨC TRANG TRÍ HOA VĂN TR N LỤA VẠN PH C
Hình 7.1: Bố cục đăng đối trong hoa văn chữ Thọ vuông cong
Nguồn: NCS (2020)
235
Hình 7.2: Bố cục đăng đối trong hoa văn chữ Thọ tròn
Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.3: Bố cục đối xứng trong hoa văn trang trí kép Rồng chầu Thọ
Nguồn: NCS (2020)
236
Hình 7.4: Bố cục đối xứng trong hoa văn trang trí kép Dơi chầu Thọ
Nguồn: NCS (2020)
237
Hình 7.5: Bố cục hàng lối trong đồ án hoa Cúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.6: Bố cục hàng lối trong đồ án Vạn Cúc
Nguồn: NCS (2020)
238
Hình 7.7: Bố cục hàng lối trong đồ án Thọ Triện
Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.8: Bố cục hàng lối (xoay chiều, xen kẽ) trong đồ án đuôi Công
Nguồn: NCS (2020)
239
Hình 7.9: Bố cục hàng lối trong đồ án hoa Bèo
Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.10: Bố cục hàng lối trong đồ án hoa Bướm
Nguồn: NCS (2020)
240
Hình 7.11: Bố cục hàng lối trong đồ án Hồng Cá
Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.12: Bố cục hàng lối trong đồ án tổ hợp “hoa, lá chim”
Nguồn: NCS (2020)
241
Hình 7.13: Đồ án Sen mây trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.14: Đường nét hoa Cúc trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
242
Hình 7.15: Đường nét hoa Bèo trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.16: Đường nét hoa văn trống Đồng trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
243
Hình 7.17: Đường nét đuôi Công có mật độ trang trí dày đặc trên lụa
Vạn Phúc Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.18: Đường nét đuôi Công có mật độ trang trí không dày đặc
trên lụa Vạn Phúc. Nguồn: NCS (2020)
244
Hình 7.19: Đường nét cong tròn trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.20: Đường nét gấp khúc trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: NCS (2020)
245
Hình 7.21: Màu sắc hoa Cúc trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2019)
Hình 7.22: Màu sắc hoa Cúc xoáy trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2019)
246
Hình 7.23: Màu sắc hoa Hồng trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2019)
Hình 7.24: Màu sắc hoa Chanh trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2019)
247
Hình 7.25: Màu sắc hoa Bướm trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2019)
Hình 7.26: Màu sắc đồ án Hồng cá trang trí trên lụa Vạn Phúc
Nguồn: Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển (2019)
248
Hình 7.27: Quá trình đục bìa “các- tông” tạo hoa văn
Nguồn: NCS (2020)
249
Hình 7.28: Lựa chọn tơ chuẩn được cuốn quanh con tơ
Nguồn: NCS (2020)
250
Hình 7.29: Guồng tơ ra các ống
Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.30: Mắc dọc các sợi tơ chuẩn bị quá trình dệt
Nguồn: NCS (2020)
251
Hình 7.31: Hệ thống “cổ thảo” để đưa “cây hoa” lên hoặc xuống
Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.32: Bộ “go dọc” để tạo hoa văn
Nguồn: NCS (2020)
252
Hình 7.33: Quá trình dệt lụa
Nguồn: NCS (2020)
253
Hình 7.34: Bộ mẫu bìa làm nhiệm vụ nâng, hạ các sợi dọc theo quy định để
tạo hoa văn. Nguồn: NCS (2020)
Hình 7.35: Nhuộm lụa. Nguồn: NCS (2020)
254
Hình 7.36: Giặt lụa. Nguồn: NCS (2020)
255
Hình 7.37: Sấy lụa. Nguồn: NCS (2020)
256
Phụ lục 8
MỘT SỐ HOA VĂN ẢNH HƢỞNG TỪ MỸ THUẬT CỔ VIỆT NAM
Hình 8.1: Sen, Phượng, Hạc. Chạm gỗ chùa Bối Khê
(Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Tây) [101]
257
Hình 8.2: Hoa Sen. Chạm gỗ đền Din (Nam Ninh, Nam Định) [101]
258
Hình 8.3: Hoa Sen. Chạm gỗ, cửa võng đình Trà Cổ
(Hải Ninh, Quảng Nam) [101]
259
Hình 8.4: Hoa Cúc. Chạm gỗ, chùa Bối Khê
(Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Tây) [101].
Hình 8.5: Hoa Cúc. Chạm đá bia Văn Miếu (Hà Nội) [101].
260
Hình 8.6: Hoa văn chữ Vạn. Đình Chu Quyến, Ba Vì, Hà Nội.
Thế kỷ XVII-XVIII [7].
Hình 8.7: Rồng chầu ngọc. Chạm đá, bệ tượng Phật chùa Nhạn Tháo
(Mễ Sở, Châu Giang, Hưng Yên) [101].
261
Hình 8.8: Rồng chầu mặt trời. Chạm đá, tháp Phổ Minh (Lộc Vượng, Ngoại
thành Nam Định) [101].
262
Phụ lục 9
DANH MỤC NGƢỜI PHỎNG VẤN
TT Họ và tên Nghề nghiệp, thời
gian
làm nghề
Địa chỉ Thời điểm
phỏng vấn
1 Nghệ nhân
Nguyễn Hữu Chỉnh
(hiện đã mất)
- Dệt lụa
- Sáng tác HVTT
- Làm nghề từ
những năm 1950 -
2012
Làng Vạn
Phúc, Hà
Đông, Hà Nội
05/7/2011
2 Nghệ nhân
Phạm Khắc Hà
- Chủ tịch hiệp hội
làng nghề Vạn Phúc
- Làm nghề từ
những năm 1970 tới
nay
Làng Vạn
Phúc, Hà
Đông, Hà Nội
08/7/2018
3 Nghệ nhân
Đỗ Văn Hiển
- Nghệ nhân đục bìa,
sáng tác HVTT và
dệt lụa làng Vạn
Phúc.
- Làm nghề từ
những năm 1980 tới
nay
Xưởng dệt
Cẩm Hoa Lâm,
khu xưởng dệt
chùa Vạn
Phúc, Hà
Đông, Hà Nội
22/6/2017
18/7/2018
29/6/2019
4 Nghệ nhân
Nguyễn Thị Tâm
- Dệt lụa
- Làm nghề từ
những năm 1970
đến nay
Xưởng dệt
Nguyễn Văn
Mão, làng Vạn
Phúc, Hà
Đông, Hà Nội
07/7/2018
08/9/2019
5 Nghệ nhân
Trần Thị Ngọc Lan
- Dệt lụa
- Làm nghề từ
Xưởng dệt
LanSon, làng
04/11/2020
263
những năm 2000
đến nay
Vạn Phúc, Hà
Đông, Hà Nội
6 Nhà thiết kế thời
trang Xuân Thu
- Thiết kế thời trang Số 3, Hai Bà
Trưng, Hoàn
Kiếm, Hà Nội
20/9/2018
9.1. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Chỉnh
- Hỏi: Xin ông cho biết hoa văn trang trí (HVTT) trên lụa Vạn Phúc có
từ khi nào?
- Trả lời: Khi tôi 19 tuổi đã cùng gia đình dệt lụa, tự mắc go võng và
thiết kế các mẫu hoa văn. Còn hoa văn trên lụa Vạn Phúc có từ lâu rồi, tôi
cũng không nhớ chính xác vào khoảng thời gian nào. Nhưng nghe các cụ kể
lại trước đây đã có hoa văn con Rồng, hoa văn chữ Thọ, các hoa văn cây lá và
một số hoa văn dây leo, chuỗi thảo mộc, có cả hoa Cúc, hoa Chanh, hoa
Mai
Mỗi đồ án hoa văn trên lụa Vạn Phúc giống như một tác phẩm điêu
khắc mà ở đó người dệt chúng tôi là những nghệ sĩ. Năm ngoái, tôi đã dồn
mọi tâm huyết để dệt nên mẫu lụa Rồng chầu mang biểu tượng lưỡng long
chầu Khuê Văn Các, đây là biểu tượng của Hà Nội được cách điệu kết hợp
cùng một số hoa văn thảo mộc dệt điểm xuyết xung quanh biểu tượng Khuê
Văn Các nhằm chào mừng đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Có thể gọi
là đồ án Rồng chầu Khuê Văn Các cũng được.
- Hỏi: Xin ông cho biết lụa Vạn Phúc gồm bao nhiêu chủng loại và đó
là những chủng loại nào?
- Trả lời: Lụa Vạn Phúc gồm lụa trơn, lụa hoa và lụa Vân. Lụa trơn là
chất liệu vải không có HVTT trên bề mặt, lụa trơn có độ bóng, bền dai nhất
định. Lụa hoa có đặc tính chất liệu giống lụa trơn, nhưng bề mặt có dệt các
264
hoa văn nhiều màu đẹp mắt. Lụa Vân là một loại lụa tưởng như thất truyền,
nhưng đến nay lụa Vân rất may mắn được khôi phục lại. Lụa Vân có một
điểm đặc biệt, đó là trên bề mặt lụa như được trang trí các đám mây, nhìn lụa
như thấy mây, bởi vậy mà lụa có tên gọi là Vân (mây).
- Hỏi: Thưa ông, xin ông cho biết, để dệt lên một mẫu HVTT cần chú ý
đến công đoạn nào trong quá trình dệt?
- Trả lời: Theo kinh nghiệm của tôi, dể dệt một mẫu HVTT phải chú ý
hoa văn đó là gì, đường nét, kích thước định dệt. Trong quá trình dệt phải theo
dõi go võng, con suốt sao cho sợi tơ được dệt chặt, sắc nét, nổi rõ các hoa văn
là được.
- Hỏi: Vậy xin hỏi ông kỹ thuật quan trọng nào để tạo ra hoa văn trên
lụa Vạn Phúc?
- Trả lời: Thông thường để tạo được hoa văn trên lụa phải chú ý khâu
đục bìa. Công đoạn đục bìa “các tông” sẽ cho ra nhiều lỗ thủng nhằm tạo các
điểm nổi để dệt hoa văn. Điều này gần như quyết định kích thước, hình dáng
và chủng loại hoa văn muốn trang trí.
Ngoài ra, xưởng nhà tôi cũng dệt rất nhiều chủng loại lụa có trang trí
hoa Cúc, hoa Chanh và hoa Mai. Tất cả đều được bày bán ở nhiều cửa hàng
trong làng Vạn Phúc.
Vâng! Xin cảm ơn ông!
9.2. Nghệ nhân Phạm Khắc Hà
- Hỏi: Xin ông cho biết HVTT trên lụa Vạn Phúc có nét đặc trưng riêng
biệt so với các vùng khác không?
- Trả lời: Phần lớn lụa Vạn Phúc có sự nổi trội riêng, bề mặt bóng mịn,
có trang trí nhiều hoa văn hơn hẳn các vùng khác, như hoa Mai, hoa Cúc, hoa
Chanh, hoa Đào, bây giờ thêm các loại hoa mới như Hướng Dương, hoa
Phăng, hoa Bướm. Chưa kể đến các hoa văn hình học, đồ vật khác do anh Đỗ
265
Văn Hiển sáng tác. Nhưng, hiện nay tôi thấy có một vài nơi cũng có những
hoa văn tương đồng hoa văn lụa Vạn Phúc. Nhưng không nhiều và kỹ thuật
dệt hoa văn không sắc nét như lụa Vạn Phúc.
Riêng nói đến kỹ thuật dệt thì ngày nay, lụa Vân được dệt theo kỹ thuật
mới và người nghệ nhân đã dùng bộ go võng kết hợp các mẫu hoa văn để vặn
bắt chéo sợi dọc, khóa chặt sợi ngang làm cho quá trình sử dụng không bị co
giãn, không bị trôi như trước kia, tạo cho bề mặt lụa Vân trông mỏng nhưng
không hề lỏng lẻo, cấu trúc các sợi tơ chắc chắn, bền chặt.
- Hỏi: Trong nền kinh tế đang phát triển hiện nay, cạnh tranh là điều
không thể tránh khỏi. Xin ông cho biết, cần phải làm gì để giữ gìn và nâng
cao các sản phẩm lụa hoa truyền thống Vạn Phúc?
- Trả lời: Để nâng cao chất lượng sản phẩm trong thời buổi cạnh tranh,
theo tôi nên đầu tư, nâng cao công cụ sản xuất, kết hợp tìm hiểu thị trường để
tìm đầu ra cho sản phẩm lụa tơ tằm. Ngoài ra, cũng cần phải chỉnh sửa các
hoa văn truyền thống, sao cho sắc nét và sáng tạo ra nhiều HVTT mang tính
hiện đại mà vẫn thanh nhã, giữ được tinh thần của mặt hàng dệt thủ công
truyền thống.
Trước đây, các nghệ nhân trong làng chuyên dùng máy dệt cũ khổ nhỏ,
cho năng suất thấp. Nhưng nay, họ đã làm được máy cài hoa khi dệt - với
khung dệt cải tiến, họ không cần dùng hai tay lao thoi như trước mà chỉ dùng
một tay giật dây cho thoi vào con chuột, còn tay kia dập khổ, nhịp độ vừa
nhanh vừa đỡ tốn sức.
Xưa nay, người ta quen gọi tất cả các mặt hàng tơ dệt của Vạn Phúc là
tơ lụa Hà Đông. Chỉ riêng làng dệt Vạn Phúc đã từng làm ra tới 20 thứ hàng
the, lụa, đũi, nái, sồi, gấm, vóc, lĩnh, đoạn, sa v.v từ chất liệu tơ tằm.
Nhưng riêng chỉ có lụa hoa là bền và có nhiều mẫu HVTT.
Vâng! Xin cảm ơn ông!
266
9.3. Nghệ nhân Đỗ Văn Hiển
- Hỏi: Xin anh cho biết các tên gọi của HVTT trên lụa Vạn Phúc có sự
thống nhất từ truyền thống đến hiện đại, hay đã có sự thay đổi?
- Trả lời: Đa phần các tên gọi hoa văn là giống nhau, được thống nhất
từ trước đến bây giờ. Hiện tại trong làng có tôi là người thiết kế chính các
HVTT trên lụa. Trước đây, có cụ Triệu Văn Mão và cụ Nguyễn Hữu Chỉnh,
nhưng nay các cụ đã mất. Một số nghệ nhân khác tại các xưởng dệt trong làng
cũng sáng tác hoa văn, nhưng không nhiều.
- Hỏi: Xin anh cho biết sản phẩm lụa Vạn Phúc hiện có bao nhiêu loại
HVTT?
- Trả lời: Thực vật có rất nhiều hoa lá cành, như: hoa Sen, hoa Cúc, hoa
Mai, hoa Chanh, hoa Hồng, hoa Phăng, hoa Bèo, Hướng Dương, hoa Phăng,
hoa Phượng, cây Trúc Động vật có Chuồn Chuồn, Bướm, cá, Công, có cả
Rồng và Phượng, Dơi nhưng không nhiều bằng hoa lá thiên nhiên. Đề tài
khác gồm hoa văn chữ, hoa văn hình học và hoa văn đồ vật. Các hoa văn hình
học mấy năm gần đây được nhiều xưởng dệt hơn, khách hàng ưa thích bởi
hoa văn có phần hiện đại, trẻ trung.
- Hỏi: Anh có thể chia sẻ về một số hoa văn do anh thiết kế và trực tiếp
dệt được không?
- Trả lời: Tôi đã tìm hiểu các hoa văn truyền thống như hoa Cúc, hoa
Chanh, hoa Mai và nghiên cứu về kỹ thuật dệt để thực hiện bộ mẫu “Hồng
leo” tạo sự mềm mại, nhẹ nhàng phù hợp với chất liệu lụa tơ tằm. Ngoài các
hoa văn hoa Bướm, hoa Bèo được tôi cải biên lại, đầu năm 2016, tôi có sáng
tác và dệt bộ “Hồng leo” để bán và tiêu thụ trên thị trường. Ngoài ra còn có
các bộ hoa Hướng Dương, hoa Phăng, hoa Phượng, bộ hoa văn hình học,
trống Đồng, bộ hoa - lá - chim cũng được đưa vào sản xuất phục vụ người
tiêu dùng.
267
- Hỏi: Anh có biết được nguồn gốc của các đồ án HVTT truyền thống
không?
- Trả lời: Thực ra các đồ án hoa văn trên lụa Vạn Phúc có từ rất lâu rồi,
từ thời cụ nội tôi là Đỗ Đình Ái- người đã tặng cho vua Tự Đức tấm lụa hoa
do chính tay cụ dệt, đến đời ông nội tôi là nghệ nhân Đỗ Đình Lương cũng đã
có đồ án hoa Chanh, hoa Cúc rồi.
Chỉ biết rằng, cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, hoa văn Dơi thường
được kết hợp với chữ Thọ mang tên Dơi chầu Thọ. Gọi là đồ án Dơi chầu
Thọ. Có lẽ, đây cũng là mong muốn cuộc sống no đủ, thịnh vượng của nhân
dân ta trong bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Đến nay đồ án này
vẫn được nhiều nơi đặt dệt. Thậm chí có các công ty, cửa hàng trong Sài Gòn
cũng ra Vạn Phúc đặt dệt để về may theo nhu cầu của xã hội. Hay “Hồng
Thọ” là đồ án trang trí mới, được xuất hiện và phát triển nở rộ vào những năm
90 của thế kỷ XX. Trong giai đoạn đất nước vừa bước vào thời kỳ mở cửa nên
nhu cầu sử dụng lụa của nhân dân tăng lên. Đặc biệt, các loại lụa có trang trí
hoa lá thực vật được yêu thích hơn. Điển hình như đồ án “Hồng Thọ”, “Hồng
cá”, “Trúc, Mai, Thọ, Hỷ”, “Sen Hạc”
Sau này, các đồ án hoa văn như hoa Bèo, hoa Bướm, hoa Hướng
Dương là do tôi sáng tác cũng được bán chạy do thị hiếu người tiêu dùng. Và
lụa Vạn Phúc đa phần được dệt từ sợi tơ tằm tự nhiên, rất ít pha các sợi tơ
nhân tạo như các vùng khác.
- Hỏi: Xin anh cho biết để dệt lên các HVTT này cần trải qua bao nhiêu
công đoạn
- Trả lời: Để dệt được một tấm lụa có HVTT trên đó cần trải qua rất
nhiều công đoạn, các khâu kỹ thuật cầu kỳ phức tạp. Thứ nhất là khâu đục
bìa, mỗi lỗ bìa tương ứng với một sợi vải được kéo lên khi dệt, những sợi đó
sẽ tập hợp thành các hoa văn trên mặt vải lụa. Sau đó là guồng tơ để chuyển
268
đổi thành các ống tơ phục vụ cho những công đoạn tiếp theo. Thứ 3 là se tơ để
đảm bảo lụa sau khi dệt không bị nhăn. Nhuộm sợi dọc và sợi ngang khác
màu nhau để tạo nên mặt lụa có 2 màu, nhuộm xong sẽ mang chuội tơ, tức là
luộc qua rồi mới mang đi mắc dọc để dệt. Cuối cùng sau khi dệt xong sẽ
mang nhuộm, giặt và sấy lụa.
Vâng. Xin cảm ơn anh!
9.4. Nghệ nhân Nguyễn Thị Tâm
- Hỏi: Xin cô cho biết chất liệu lụa nào được yêu thích và trên đó có dệt
HVTT gì?
- Trả lời: Những chất liệu lụa có HVTT thường được yêu thích nhiều
hơn các sản phẩm không có HVTT trên bề mặt. Ở Vạn Phúc nổi tiếng có sản
phẩm lụa Vân và lụa hoa. Lụa Vân bề mặt mỏng, các HVTT dệt trên đó tạo
hiệu ứng trong suốt, thường mặc kèm với một áo lụa trơn khác. HVTT trên
lụa Vân thường chìm không nổi rõ như lụa hoa. Lụa Vân quý, mặc vào rất
mát, nhưng HVTT lại mờ, khách hàng thường không thích nên không lựa
chọn để may trang phục. Nhiều bạn trẻ đến mua không nhìn rõ hoa văn vì vậy
thường mua lụa hoa nhiều hơn. Hiện tại, trong xưởng của chúng tôi ít dệt lụa
Vân hơn lụa hoa.
Lụa hoa là chủng loại lụa có dệt nhiều HVTT trên đó, như hoa Đào,
hoa Chanh, hoa Mai, hoa Cúc. Lụa hoa thường có hoa văn nổi trên bề mặt vải,
tạo hình rõ ràng, sắc nét không chìm như lụa Vân. Lụa hoa cũng cho màu đẹp
và rực rỡ hơn lụa Vân. Những năm gần đây, chúng tôi dệt khá nhiều lụa có
hoa văn phong phú và đa dạng, nhiều màu sắc rực rỡ được nhiều người tiêu
dùng ưa chuộng.
- Hỏi: Màu sắc HVTT trên lụa Vạn Phúc trước đây có rực rỡ như bây
giờ không ạ?
269
- Trả lời: Nói về lụa trước đây, không chỉ lụa Vạn Phúc mà cả các làng
lụa khác màu sắc cũng ít và thiên về màu tối, trầm hơn. Hoa văn trên lụa
thường chỉ 2 màu. Nhưng đến những năm 80 trở lại đây, HVTT trên lụa có
thể dệt được 2,3,4, màu kết hợp với nhau tạo hiệu ứng đan xen rực rỡ, óng ả
như đỏ, nâu, vàng hay trắng, hồng, tím
Vâng. Xin cảm ơn cô!
9.5. Nghệ nhân Trần Thị Ngọc Lan
- Hỏi: Xin chị cho biết, có bao nhiêu đồ án HVTT trên lụa Vạn Phúc?
- Trả lời: Đồ án hoa văn trên lụa Vạn Phúc nhiều hơn lụa ở các vùng
miền khác ở Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng đồ án hoa văn về cây cỏ, thiên
nhiên, thực vật nhiều hơn đồ án về động vật như đồ án hoa Cúc, hoa Chanh,
hoa Bướm, hoa Sen, hoa Mai Ngoài ra còn có các đồ án về chữ, đồ án hình
học, đồ vật Đặc biệt cơ sở chúng tôi chuyên dệt các hoa văn hình học như
hình tròn, vuông, đa giác Hoặc biến kiểu từ các hoa văn truyền thống theo
lối hiện đại.
- Hỏi: Theo chị hiện nay thị hiếu sử dụng HVTT trên chất liệu lụa tơ
tằm Vạn Phúc là gì?
- Trả lời: Hiện nay, thị hiếu người tiêu dùng về hoa văn trên lụa Vạn
Phúc thường là dạng: hoa Cúc, hoa Chanh, hoa Mai, đuôi Công... Các hoa văn
mềm mại, nhẹ nhàng thiên về cây cỏ, hoa lá nhiều hơn là động vật. Một số
hoa văn hình học, đồ vật cũng được người tiêu dùng quan tâm và sử dụng,
nhưng không nhiều. Có lẽ, do sự hoài nghi với lụa Trung Quốc, nên người
dân Việt không lựa chọn các mẫu lụa có trang trí hoa văn hình học, hoa văn
hiện đại mà chỉ chọn dòng HVTT truyền thống để may trang phục.
Vâng. Xin cảm ơn chị!
270
9.6. Nhà thiết kế Xuân Thu
- Hỏi: Xin chị cho biết, chị có sử dụng chất liệu lụa Vạn Phúc để may
các bộ thiết kế thời trang không?
- Trả lời: Đa số các mẫu trang phục của chúng tôi đều được may bằng
chất liệu lụa tơ tằm. Bởi, khi mặc trang phục làm từ loại vải này giúp người
mặc có cảm giác nhẹ nhàng, mát mẻ, thoải mái và sang trọng. Đây cũng là lý
do mà bấy lâu tôi luôn lựa chọn chất liệu lụa tơ tằm là chất liệu chủ đạo cho
các bộ sưu tập thời trang của chúng tôi.
- Hỏi: Theo chị chất liệu lụa Vạn Phúc có những ưu điểm nổi bật nào?
- Trả lời: Lụa tơ tằm là loại vải cao cấp nhất trong các loại vải. Nó
được sản xuất hoàn toàn bằng dệt thủ công truyền thống. Lụa tơ tằm Vạn
Phúc khá nhẹ, bền và cho khả năng cách nhiệt tốt. Khả năng hút ẩm, thấm hút
mồ hôi tốt. Được làm từ nguyên liệu tự nhiên nên rất an toàn, thân thiện với
môi trường và đảm bảo cho sức khỏe người sử dụng Vải lụa tơ tằm có bề mặt
mềm mại và bóng mượt, thường được chúng tôi may áo dài, lễ phục, váy dài
cho phụ nữ. Bên cạnh ứng dụng trong may mặc thì vải lụa còn được dùng để
trang trí nội thất như bọc ghế hoàng gia, rèm cửa, màn...
- Hỏi: Chị làm thế nào để phân biệt được lụa tơ tằm Vạn Phúc và vải
lụa có pha Polyester?
- Trả lời: Nếu không phải là người sành lụa và may nhiều chất liệu này,
thì rất khó để phân biệt đâu là vải lụa tơ tằm, đâu là lụa pha tạp chất. Để phân
biệt vải lụa tơ tằm với các loại vải lụa pha Polyester. Thứ nhất, vải lụa tơ tằm
sẽ có màu ngà, còn lụa pha sẽ có màu trắng tinh. Thứ hai, vải lụa tơ tằm mềm
mại, cầm mát tay. Rút một đoạn sợi kéo đứt thấy sợi dai, bền, mối đứt gọn,
không xù lông. Thứ ba, khi đốt một vài sợi tơ tằm sẽ cho mùi khét của tóc, tro
màu đen, vón cục tròn và dễ bóp vỡ.
Vâng. Xin cảm ơn chị!