VI N H N L M
KHOA HỌC XÃ HỘI VI T NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ANH VŨ
HIỆN THỰC CHIẾN TRANH
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
QUA BA TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH (NGUYỄN MINH CHÂU),
ĐẤT TRẮNG (NGUYỄN TRỌNG OÁNH),
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH (BẢO NINH)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI - 2016
VI N H N L M
KHOA HỌC XÃ HỘI VI T NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ANH VŨ
HIỆN THỰC CHIẾN TRANH
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
QUA BA TÁC PHẨM
169 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 578 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Hiện thực chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam hiện đại qua ba tác phẩm tiêu biểu Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIÊU BIỂU
DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH (NGUYỄN MINH CHÂU),
ĐẤT TRẮNG (NGUYỄN TRỌNG OÁNH),
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH (BẢO NINH)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 62.22.01.20
Người hướng dẫn: PGS. TS. Phan Trọng Thƣởng
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu,
những kết luận, nhận định trong luận án là trung thực và chưa được công bố
trong bất kỳ công trình một công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2016
Tác giả luận án
Nguyễn Anh Vũ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................................. 1
2. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................................................... 4
3. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................................ 5
6. Đóng góp của luận án ..................................................................................................................... 6
7. Cấu trúc của luận án ........................................................................................................................ 7
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU..................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu về hiện thực chiến tranh trong văn xuôi những năm chống Mỹ cứu
nước và tiểu thuyết Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu .............................................. 8
1.2. Tình hình nghiên cứu về hiện thực chiến tranh trong văn xuôi sau 1975 và hai tiểu thuyết
Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ................................ 14
CHƢƠNG 2: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TỪ 1945 ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XX ............... 30
2.1. Tiểu thuyết chiến tranh trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945- 1975 .................... 35
2.1.1. Giai đoạn 1945- 1954 .......................................................................................................... 35
2.1.2. Giai đoạn 1955- 1964 .......................................................................................................... 39
2.1.3. Giai đoạn 1965- 1975 .......................................................................................................... 41
2.2. Tiểu thuyết chiến tranh trong văn học Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 .................... 47
2.2.1. Từ bối cảnh hiện thực thời kỳ hậu chiến .......................................................................... 47
2.2.2. Đến sự xuất hiện của một số hướng tiếp cận mới về chiến tranh ................................ 49
2.3. Tiểu thuyết chiến tranh trong văn học Việt Nam giai đoạn 1986 đến cuối thế kỷ XX .... 52
2.3.1. Giai đoạn 1986- 1990 .......................................................................................................... 52
2.3.2. Giai đoạn 1990 đến cuối thế kỷ XX ................................................................................... 54
2.3.3. Những cách tân về thi pháp thể loại .................................................................................. 55
CHƢƠNG 3: CÁC GÓC TIẾP CẬN HIỆN THỰC CHIẾN TRANH TRONG
BA TIỂU THUYẾT DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH, ĐẤT TRẮNG VÀ NỖI BUỒN
CHIẾN TRANH ......................................................................................................... 61
3.1. Các mô hình phản ánh hiện thực trong văn học .................................................................... 61
3.2. Từ đại tự sự đến dấu hiệu của các tiểu tự sự ........................................................................... 64
3.3. Hiện thực chiến trường .............................................................................................................. 68
3.3.1. Bản anh hùng ca chiến trường trong Dấu chân người lính ......................................... 69
3.3.2. Chiến trường khốc liệt và bi tráng trong Đất trắng ....................................................... 73
3.3.3. Chiến trường đối lập với nhân tính trong Nỗi buồn chiến tranh ................................. 78
3.4. Nhân vật người lính trong và sau chiến tranh ......................................................................... 82
3.4.1. Nhân vật anh hùng sử thi trong Dấu chân người lính ................................................... 82
3.4.2. Nhân vật người lính kết hợp chất sử thi và thế sự trong Đất trắng ............................. 87
3.4.3. Người lính nhìn từ góc độ số phận con người cá nhân trong Nỗi buồn chiến tranh 91
3.5. Tình yêu trong chiến tranh ........................................................................................................ 99
3.5.1. Vận mệnh dân tộc đặt trên hạnh phúc cá nhân trong Dấu chân người lính ........... 100
3.5.2. Tình yêu lý tưởng mang xúc cảm đời thường trong Đất trắng .................................. 102
3.5.3. “Thân phận của tình yêu” trong Nỗi buồn chiến tranh .............................................. 105
CHƢƠNG 4: THI PHÁP TIỂU THUYẾT CHIẾN TRANH QUA DẤU CHÂN
NGƯỜI LÍNH, ĐẤT TRẮNG VÀ NỖI BUỒN CHIẾN TRANH .......................... 111
4.1. Nghệ thuật tổ chức kết cấu ...................................................................................................... 111
4.1.1. Kết cấu tiểu thuyết sử thi trong Dấu chân người lính .................................................. 112
4.1.2. Kết cấu tiểu thuyết phóng sự trong Đất trắng ............................................................... 115
4.1.3. Kết cấu tiểu thuyết dòng ý thức trong Nỗi buồn chiến tranh ...................................... 117
4.2. Không gian và thời gian nghệ thuật ....................................................................................... 120
4.2.1. Không gian nghệ thuật ...................................................................................................... 120
4.2.1.1. Không gian sử thi trong Dấu chân người lính ........................................................... 120
4.2.1.2. Không gian chiến trường mang đậm tính phóng sự của Đất trắng ..................... 123
4.2.1.3. Không gian đa chiều trong tâm tưởng của Nỗi buồn chiến tranh ......................... 125
4.2.2. Thời gian nghệ thuật .......................................................................................................... 127
4.2.2.1. Thời gian hiện tại hướng tới tương lai của Dấu chân người lính .......................... 127
4.2.2.2. Thời gian hiện tại căng thẳng trong Đất trắng .......................................................... 129
4.2.2.3. Thời gian đồng hiện trong Nỗi buồn chiến tranh ...................................................... 130
4.3. Nghệ thuật trần thuật ................................................................................................................ 133
4.3.1. Điểm nhìn trần thuật .......................................................................................................... 133
4.3.1.1. Điểm nhìn “toàn tri” trong Dấu chân người lính và Đất trắng ............................. 133
4.3.1.2. Sự di chuyển của các điểm nhìn trần thuật trong Nỗi buồn chiến tranh .............. 135
4.3.2. Giọng điệu trần thuật ......................................................................................................... 138
4.3.2.1. Giọng điệu ngợi ca hào hùng trong Dấu chân người lính ...................................... 138
4.3.2.2. Giọng điệu khách quan bi hùng trong Đất trắng ...................................................... 139
4.3.2.3. Giọng điệu đa thanh trong Nỗi buồn chiến tranh ..................................................... 141
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 144
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ................................................................................................................. 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 150
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong văn học nhân loại, chiến tranh là một đề tài lớn. Điều này có thể
xem như một tất yếu bởi để phản ánh một cách chân thực và sinh động nhất hiện
thực cuộc sống, cuộc đấu tranh sinh tồn trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt
quan trọng của mỗi quốc gia và của cả loài người, chiến tranh là một đề tài thường
trực có ý nghĩa trung tâm không thể thay thế. Soi chiếu vào lịch sử văn học của cả
phương Đông và phương Tây, ta có thể thấy sự hiện diện đậm nét và chi phối mạnh
mẽ của siêu đề tài này với hàng loạt những tác phẩm có giá trị. Văn học phương
Tây với rất nhiều những tác giả, tác phẩm tiêu biểu đã để lại cho nhân loại những
kiệt tác có thể coi là đã đạt đến đỉnh cao của văn học về đề tài chiến tranh như
Chiến tranh và hòa bình của Lep Tônxtôi, Sông Đông êm đềm của Sôlôkhốp, Mặt
trận phía Tây vẫn yên tĩnh, Một thời để yêu, Một thời để chết, Đêm Lisbone, Ba
người bạn, Khải hoàn môn của E.M. Remarque. Văn học phương Đông cũng
không hề thua kém về thành tựu của mảng đề tài hiện thực chiến tranh với những
pho tiều thuyết chương hồi nổi tiếng có quy mô phản ánh hết sức rộng lớn, đồ sộ và
hoành tráng như Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại
Am trong văn học Trung Quốc.
1.2. Trong bối cảnh đó, văn học Việt Nam với tư cách là một bộ phận vận
động đương nhiên không thể nằm ngoài quỹ đạo của văn học nhân loại. Ngoài ra,
văn học Việt Nam còn gánh vác một sứ mệnh cao cả và vô cùng quan trọng, đó là
nhiệm vụ phải luôn song hành với với lịch sử dân tộc, với vận mệnh đất nước và
gắn liền với những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Chiến tranh đã, đang và sẽ còn
rất lâu nữa vẫn là một đề tài lớn của văn học Việt Nam, là nguồn mạch, cảm hứng
bất tận cho nhiều thế hệ nhà văn tìm tòi, thể nghiệm. Đó cũng là một hiện tượng rất
dễ lý giải, bởi chỉ tính riêng trong thế kỷ XX vừa qua, dân tộc Việt Nam đã có ngót
bốn mươi năm sống trong không khí của chiến tranh bom đạn. Nhìn xa hơn nữa về
1
quá khứ, chúng ta hẳn vẫn chưa quên một nghìn năm dân tộc Việt Nam bị phong
kiến phương Bắc đô hộ, gần một thế kỷ dưới ách cai trị của thực dân Pháp
Không gì khác, chính văn học là tấm gương phản ánh một cách chân thực, sinh
động nhất cuộc chiến đấu hào hùng đánh đuổi giặc ngoại xâm và bảo vệ bờ cõi của
dân tộc Việt Nam. Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam hình thành và phát
triển như một sự tất yếu, trưởng thành qua từng giai đoạn, thời kỳ của lịch sử và
văn học dân tộc.
Tuy nhiên, ở từng giai đoạn, mỗi chặng đường, đề tài chiến tranh lại được
khai thác, tiếp cận và phản ánh ở nhiều góc độ theo những cảm hứng khác nhau. Ba
mươi năm kháng chiến trường kỳ với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ đã đem lại cho dân tộc Việt Nam độc lập tự do và đồng thời đem lại cho văn
học Việt Nam một nền văn học hiện đại viết về chiến tranh tương đối đồ sộ. Văn
học giai đoạn 1945- 1975 là giai đoạn văn học mang âm hưởng sử thi, với cảm
hứng chủ đạo là ngợi ca mà khi tiếp cận người ta thấy tầng tầng lớp lớp những sự
kiện lịch sử, những chiến công hiển hách, những chí khí oai hùng Ở đó, có thể do
yêu cầu của lịch sử, những gì thuộc về con người thân phận dường như chưa được
đề cập đến, cũng có thể là né tránh, hoặc nếu có cũng chỉ lướt qua, khá mờ nhạt,
chưa định hình, rõ nét.
Một đất nước có chiến tranh, những người cầm bút sống và xúc cảm cùng
chiến tranh, nhìn và viết về chiến tranh đương nhiên sẽ có một dòng văn học viết về
chiến tranh. Tuy nhiến viết về chiến tranh, cảm nhận về chiến tranh khi cuộc chiến
đã lùi vào quá khứ hay việc phản ánh về cuộc sống và con người thời hậu chiến khi
người viết đã có một “độ lùi” cần thiết lại là vấn đề hoàn toàn khác. Văn học sau
năm 1975 đã chuyển sang một diện mạo mới, có thể gọi đó là giai đoạn văn học
mang cảm hứng thế sự, đời tư. Nếu trong chiến tranh, văn học viết về đề tài chiến
tranh ít nói đến mất mát hy sinh, ít nói về buồn vui của cuộc sống thường nhật, ít
quan tâm đến số phận con người thì những tác phẩm viết về đề tài này sau chiến
tranh đã có xu hướng viết về sự thật của đời sống, viết về sự ác liệt, gian khổ, thậm
2
chí cả những sai lầm, vấp ngã của người lính trước những cám dỗ thường nhât.
Cuộc sống thời hậu chiến bộn bề phức tạp làm thay đổi hệ quan niệm nghệ thuật về
đời sống xã hội và con người đòi hỏi các nhà văn phải có những sự cách tân mạnh
mẽ về nội dung cũng như hình thức để tạo dấu ấn, phong cách riêng. Sau chiến
tranh, với một độ lùi cần thiết, những tiểu thuyết viết về chiến tranh giai đoạn này
đã dần chuyển sang một âm điệu mới, không chỉ có hào hùng mà còn có cả bi
tráng, không chỉ ở chiến trường mà cả ở hậu phương, bên cạnh những con người
anh hùng còn có những con người mang số phận bi kịch, thất cơ lỡ vận
1.3. Ba cuốn tiểu thuyết: Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Đất
trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) có thể coi là ba tác
phẩm xuất sắc, tiêu biểu, đánh dấu những mốc quan trọng trong quá trình vận động
của tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1945. Dấu
chân người lính là tác phẩm tiêu biểu cho tiểu thuyết sử thi trong văn học cách
mạng (1945 – 1975). Đất trắng tiêu biểu cho tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh
giai đoạn mười năm đầu sau giải phóng, từng được giải thưởng của Bộ Quốc phòng
năm 1984 và Giải A của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986. Nỗi buồn chiến tranh
được đánh giá là một tác phẩm đặc sắc với nhiều ý tưởng cách tân, tiêu biểu cho
tiểu thuyết Việt Nam sau Đổi mới (1986), từng được Hội Nhà văn Việt Nam trao
tặng giải Nhất về tiểu thuyết năm 1991. Cùng viết về đề tài chiến tranh, song cái
nhìn nghệ thuật và hiện thực chiến tranh trong mỗi tác phẩm lại có những cách tiếp
cận, phản ánh và thể hiện khác nhau. Đó có thể xem là quy luật vận động sự đổi
thay, phát triển tất yếu của văn học. Dẫu cảm hứng sử thi đang ngày càng phai nhạt,
song tự trong sâu thẳm ký ức dân tộc, chiến tranh vẫn là một bộ phận chính yếu
trong đời sống văn học, đề tài chiến tranh vẫn là một đề tài lớn chưa thể thay thế và
hứa hẹn nhiều bất ngờ trong tương lai. Xuất phát từ lý do đó, chúng tôi chọn đề tài
“Hiện thực chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam hiện đại qua ba tác phẩm tiêu biểu:
Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Nỗi
buồn chiến tranh (Bảo Ninh)” cho luận án Tiến sĩ của mình với mục đích làm rõ
3
diện mạo, khuynh hướng, giá trị hiện thực cũng như những cách tân về thi pháp
trong ba tác phẩm tiêu biểu nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại viết về chiến tranh
chống Mỹ.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề hiện thực chiến tranh trong văn
xuôi Việt Nam hiện đại. Xác định đối tượng nghiên cứu như vậy, đề tài của chúng
tôi hướng tới cái nhìn tổng quan về vấn đề hiện thực chiến tranh bao hàm phương
thức phản ánh và giá trị hiện thực trong văn xuôi Việt Nam hiện đại thời chống Mỹ.
Tuy nhiên, chúng tôi chỉ lựa chọn nghiên cứu trường hợp là ba tác phẩm Dấu chân
người lính, Đất trắng và Nỗi buồn chiến tranh để qua đó nhìn nhận các bước vận
động và phát triển của thể tài chiến tranh trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XX. Lựa chọn tiểu thuyết thay vì truyện ngắn đại diện cho văn xuôi
vì chúng tôi cho rằng, tiểu thuyết là thể loại nòng cốt, tiêu biểu hơn cho những biến
động trong đời sống của một nền văn học.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là ba tiểu thuyết Dấu chân người lính
(1972), Đất trắng (1979; 1984), Nỗi buồn chiến tranh (1990). Bên cạnh đó, chúng
tôi cũng tiến hành khảo sát những tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận và trả lời
phỏng vấn của ba tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Bảo Ninh để
hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu.
Ngoài ra, để có cái nhìn tổng quan, những tiểu thuyết của những tác giả khác
viết về đề tài chiến tranh trước và sau 1975 cũng là những tư liệu tham khảo hữu
ích cho tác giả trong việc triển khai luận án.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát diện mạo, khuynh hướng của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh
trong văn xuôi hiện đại Việt Nam, chỉ ra những ảnh hưởng, tác động từ môi trường
4
sinh thái, lịch sử văn hóa chi phối đến sự phản ánh hiện thực chiến tranh trong
từng tác phẩm.
- Luận án thông qua ba tác phẩm cụ thể là Dấu chân người lính, Đất trắng
và Nỗi buồn chiến tranh để phân tích, lý giải sự vận động, những tiếp biến và đổi
thay để hướng tới cái mới và cái khác trong hành trình sáng tạo của các nhà văn
trước cùng một đề tài.
- Luận án tìm hiểu những đặc trưng thi pháp của các tiểu thuyết này để thấy
được sự vận động và những cách tân thể loại trong cách thức tái tạo hiện thực chiến
tranh.
- Từ đó, luận án khẳng định vai trò, vị trí và những đóng góp của Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh và Bảo Ninh vào thành tựu của văn xuôi chiến
tranh cùng tiến trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam hiện đại và đương đại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu hiện thực chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam hiện đại qua ba
tác phẩm Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Đất trắng (Nguyễn Trọng
Oánh), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp và
cách tiếp cận khác nhau để có thể soi chiếu đối tượng từ nhiều góc độ. Phương
pháp chủ đạo được sử dụng xuyên suốt luận án là phương pháp tiếp cận hệ thống.
Như Khravechenco đã chỉ ra thì một đặc điểm quan trọng của phương pháp phân
tích hệ thống là việc khám phá những liên hệ bên trong của một tổng thể nhất định
các hiện tượng, các liên hệ của từng thành tố trong các hiện tượng xã hội khác
nhau, là sự nghiên cứu thống nhất về cấu trúc của chúng, ở đó luôn phải xem xét
mỗi thành tố trong mối liên hệ phối thuộc lẫn nhau không thể tách biệt.
Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu loại hình và cấu
trúc loại hình để giải mã cấu trúc của loại hình tác phẩm văn học viết về chiến
tranh. Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp khi lựa chọn
tác phẩm cụ thể để tìm hiểu hiện thực chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam hiện
5
đại, từ những trường hợp cụ thể có ý nghĩa tiêu biểu cho từng giai đoạn để khái
quát được những vấn đề mang tính hệ thống.
Ở từng vấn đề, chúng tôi kết hợp các phương pháp và các cách tiếp cận:
- Phương pháp so sánh lịch sử: Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa đời sống
thể loại với cơ sở xã hội mà nó phát sinh và phát triển, sự tác động của xã hội tới
tiến trình phát triển của thể loại.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Khi muốn nghiên cứu về sự tiến hóa
của các phương thức, phương tiện chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng, sự hoạt
động chức năng xã hội- thẩm mỹ của chúng, nghiên cứu số phận của các khám phá
nghệ thuật.
- Phương pháp phân tích tác phẩm: Khi muốn tìm hiểu các yếu tố của văn
bản tác phẩm thông qua việc phục nguyên lại đời sống văn hóa của một thời đại
nhất định, dùng nó để lý giải các vấn đề văn học, đặc biệt là các quan niệm về văn
học và sáng tác văn chương.
- Phương pháp nghiên cứu loại thể: là một đề tài nghiên cứu về thể loại văn
học, đây là phương pháp quan trọng để chúng tôi tìm ra những đặc trưng về mặt thi
pháp của thể loại.
Ngoài ra, chúng tôi vận dụng các thao tác thông thường như: phân tích, đối
chiếu, thống kê, phân loại, mô hình hóa, khảo sát văn bản
6. Đóng góp của luận án
- Luận án cung cấp cái nhìn hệ thống về vấn đề hiện thực chiến tranh trong
văn học Việt Nam 1945 đến hết thế kỷ XX.
- Luận án với ba tác phẩm cụ thể Dấu chân người lính, Đất trắng và Nỗi
buồn chiến tranh đã nhìn nhận sự vận động của vấn đề hiện thực chiến tranh, lý
giải nguyên nhân cũng như kết quả của những biến đổi từ nhiều góc độ, hướng tới
việc khẳng định các giá trị bền vững thông qua các hiện tượng tiêu biểu đã lựa
chọn.
6
- Luận án lý giải sự vận động và phát triển của vấn đề hiện thực chiến tranh
song hành cùng quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận án được triển khai
thành bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Sự vận động của đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại từ 1945 đến cuối thế kỷ XX
Chương 3: Các góc tiếp cận hiện thực chiến tranh trong ba tiểu thuyết Dấu
chân người lính, Đất trắng và Nỗi buồn chiến tranh
Chương 4: Thi pháp tiểu thuyết chiến tranh qua Dấu chân người lính, Đất
trắng và Nỗi buồn chiến tranh
7
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu về hiện thực chiến tranh trong văn xuôi
những năm chống Mỹ cứu nƣớc và tiểu thuyết Dấu chân người lính của
Nguyễn Minh Châu
1.1.1. Ngày 5 tháng 8 năm 1964 là một thời khắc quan trọng trong lịch sử
dân tộc Việt Nam khi bầu trời xuất hiện những tốp máy bay mang bom phá hoại và
những tiếng súng chống Mỹ đầu tiên nổ ra trên miền Bắc, cả nước lại bước vào một
cuộc trường chinh mới gian khổ nhưng vĩ đại. Lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, ý thức tự tôn dân tộc, lòng quả cảm, đức hi sinh, sức mạnh quật khởi
của tinh thần đoàn kết dân tộc lại một lần nữa được tiếp tục trỗi dậy mạnh mẽ. Hòa
trong khí thế ấy, hàng triệu con tim thanh niên Việt Nam đã đi theo tiếng gọi thiêng
liêng của Tổ quốc, từ biệt gia đình, gác bút nghiên băng mình vào tuyến lửa. Trong
vô vàn những trái tim sôi sục đầy nhiệt huyết ấy có không ít chiến binh là những
nhà văn, bên cạnh nhiệm vụ cầm súng chiến đấu còn gánh vác một trọng trách cao
cả, đó là cổ vũ, động viên chiến sĩ bằng ngòi bút và trang văn của mình.
Chính bởi trọng trách thiêng liêng ấy mà trong những năm kháng chiến
chống Mỹ, văn học luôn xuất hiện ở vị trí mũi nhọn chiến đấu, luôn bám sát và
phục vụ nhiệm vụ chính trị. Những nhà văn đồng thời là những người lính, họ sống
và chiến đấu ở tất cả các mặt trận, các chiến dịch, họ viết bằng những cảm xúc hết
sức chân thật và trẻ trung, hào hứng với mong nuốn tái hiện thật chi tiết, đầy đủ
những diễn biến của cuộc chiến. Chính vì vậy các tác phẩm văn học nói chung và
tiểu thuyết nói riêng giai đoạn này đều tập trung phản ánh, khắc họa những diễn
biến cực kỳ mau lẹ của cuộc kháng chiến, khoảng cách cố hữu giữa sự kiện lịch sử
và văn học được thu hẹp một cách tối đa.
Với một vai trò, chức năng gần như duy nhất, “trùng khít” như vậy, lẽ đương
nhiên tiểu thuyết chiến tranh của giai đoạn này đều tập trung phản ánh một phạm vi
hiện thực cách mạng rộng lớn với tầng tầng lớp lớp những sự kiện, với muôn vàn
biến cố lớn lao mang tầm vóc sử thi của đời sống dân tộc. Cảm hứng chủ đạo bao
8
trùm lên các tác phầm không thể có gì khác ngoài sự ca ngợi chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, khẳng định và biểu dương khí thế hừng hực niềm tin chiến thắng của
quân và dân ta trên khắp mọi miền Tổ quốc. Bên cạnh đó, tiểu thuyết chiến tranh
thời kỳ này còn là những bản cáo trạng đanh thép, lên án mạnh mẽ cuộc chiến tranh
xâm lược phi nghĩa, vạch rõ bộ mặt dã man, độc ác, tàn bạo và hèn nhát của kẻ thù.
Chính vì thế, nhiều tiểu thuyết giai đoạn này mang dáng dấp của thể loại kí sự,
nặng về “tả” và “kể”. Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận một thành tựu nổi bật nhất của
tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn này, đó là nghệ thuật xây dựng nhân vật- cụ thể là
những nhân vật được coi là điển hình. Thành tựu này thể hiện sự phát triển, mở
rộng dung lượng phản ánh khi lần đầu tiên nhân vật người lính chống Mỹ được đặt
trong bối cảnh rộng lớn của đất nước, gắn hậu phương với chiến trường, gắn số
phận một người với nhiều người, lớp già và lớp trẻ Đó là thời điểm đáng nhớ của
văn xuôi cách mạng khi hình tượng người lính, người chiến sĩ giải phóng quân
mang trên vai mình trọng trách lớn lao của lịch sử dân tộc được khắc họa như
những nhân vật chính của thời đại, ở vào vị trí trung tâm xoáy động của cả một thời
kỳ lịch sử mà không đơn thuần chỉ ở nơi chiến trường. Với kiểu nhân vật người
lính, các tác giả tiểu thuyết thời kỳ này đã xây dựng thành công nhiều hình tượng
cá nhân điển hình, bên cạnh những điển hình tập thể, những hình tượng nhân vật
“đám đông”.
Bối cảnh lịch sử- xã hội, hiện thực cuộc sống chiến đấu đã trở thành mảnh
đất màu mỡ để văn học nói chung và tiểu thuyết chiến tranh nói riêng giai đoạn
chống Mỹ cứu nước kế thừa những thành quả có tính chất nền tảng, tiền đề của văn
xuôi thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945- 1954, tiếp tục phát triển và gặt hái
được những thành tựu to lớn. Đã có rất nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về
văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng viết về chiến tranh trong giai đoạn chống
Mỹ cứu nước. Điều dễ nhận thấy nhất là hầu như tất cả các bài viết, các công trình
nghiên cứu đều thống nhất một quan điểm rằng, mảng văn xuôi nói chung và văn
xuôi viết về đề tài chiến tranh trước 1975 mang đậm tính chất sử thi và cảm hứng
9
lãng mạn; đã xây dựng được những hình tượng nhân vật anh hùng tiêu biểu cho thế
hệ, cho dân tộc; đã hoàn thành xuất sắc vai trò, chức năng của văn học thời kỳ này
trong việc cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu của bộ đội, nhân dân. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “Ra đời và phát triển trong không khí lịch
sử đó, văn học giai đoạn 1945- 1975 là văn học của những sự kiện lịch sử, của số
phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm của nó là những con
người đại diện cho giai cấp dân tộc, thời đại và kết tinh một cách chói lọi những
phẩm chất cao quý của cộng đồng” [140, tr. 61]. Đề cập đến nghệ thuật xây dựng
nhân vật với những cá nhân điển hình, Đinh Xuân Dũng nhận định: "chưa bao giờ
trong văn học của chúng ta lại xuất hiện nhiều đến thế những điển hình cao đẹp
sáng ngời chất lý tưởng của con người mới, con người anh hùng trong chiến tranh"
và "mỗi điển hình văn học tích cực là một đại diện chung cho cả một dân tộc hay
một tầng lớp, một thế hệ những người cầm súng" [36, tr. 49]. Sau khi khảo sát một
loạt tiểu thuyết mở đầu cho giai đoạn văn học mới (1945 – 1975), cùng chung quan
điểm và tinh thần ghi nhận ấy, nhà nghiên cứu Lê Thành Nghị đã khẳng định: trong
các tiểu thuyết này, "nhân vật anh hùng của cuộc kháng chiến hiện ra sau một bút
pháp vừa thực vừa ảo – một thứ "chủ nghĩa hiện thực" rắn rỏi mà mượt mà, tỉnh táo
mà say mê trào dâng sau ngọn bút" [140, tr. 166].
So sánh với tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn kháng chiến chống Pháp, tiểu
thuyết chiến tranh thời chống Mỹ đã có những chuyển biến tích cực trên mọi
phương diện, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định. Các nhà nghiên cứu đã
chỉ ra không ít những hạn chế của văn xuôi viết về đề tài chiến tranh giai đoạn này.
Đó là cách nhìn nhận một chiều: thuận lợi nhiều hơn khó khăn, chiến thắng nhiều
hơn thất bại, thành tích nhiều hơn tổn thất cách phản ánh hiện thực cuộc chiến, thể
hiện con người và cuộc sống còn giản đơn, xuôi chiều, phiến diện, công thức. Nhà
nghiên cứu Lê Thành Nghị cho rằng: "Nhìn chung, vẫn thiếu một số phận điển hình
tiêu biểu trọn vẹn của một cuộc đời cụ thể. Hình như cả một giai đoạn, tiểu thuyết
nặng về ký họa các hình ảnh, gương mặt, chân dung mà thiếu đào sâu một cách hệ
10
thống số phận, tính cách, lịch sử của nhân vật" [140, tr. 169, 170]. Với một đúc kết
mang tầm khái quát, tác giả Trần Đình Sử đã có nhận định chân xác hơn rằng: “Văn
học Việt Nam 40 năm qua chưa có nhiều thành công về mặt hình tượng tính cách.
Yếu tố cá tính chưa nổi bật, sự phân tích xã hội, phân tích tâm lý chưa được phát
triển đầy đặn. Còn ít có những hình tượng tầm cỡ cung cấp một mẫu mực thuyết
phục trọn vẹn về phương diện này” [141, tr. 93].
1.1.2. Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một trong những nhà văn lớn của
nền văn học Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX. Trong hơn ba mươi năm cầm
bút, Nguyễn Minh Châu đã để lại cho đời 13 tập văn xuôi và 1 tập tiểu luận phê
bình. Có thể thấy: tác phẩm của Nguyễn Minh Châu không quá đồ sộ nhưng đa
dạng về thể loại, bao gồm cả truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, bút ký, phê
bình Đánh giá về Nguyễn Minh Châu, các nhà phê bình, nghiên cứu từ trước đến
nay đều thừa nhận những tác phẩm của ông đã phản ánh được khí thế hào hùng và
phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam trong chiến đấu. Bên cạnh đó, khi đất
nước chuyển mình từ đời sống bất thường của ngày có giặc sang đời sống bình
thường, nhà văn không còn là người phát ngôn “nhân danh kinh nghiệm cộng
đồng” mà là “kinh nghiệm cá nhân”, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sâu sắc sự trăn
trở và khát vọng thức tỉnh lương tâm trong cảm hứng nhân văn mạnh mẽ. Đặc biệt,
sau 1986, Nguyễn Minh Châu đã hiện diện và được mệnh danh là một trong những
người tiên phong, “tinh anh”, “tài năng” và đầy bản lĩnh trong công cuộc đổi mới
nói chung và văn học nói riêng.
Tiểu thuyết Dấu chân người lính là một trong những tác phẩm tiêu biểu của
Nguyễn Minh Châu và cũng là một trong những tác phẩm có vị trí quan trọng trong
tiểu thuyết thể tài chiến tranh của văn học cách mạng Việt Nam (1945- 1975). Tác
phẩm đã đưa ông lên vị trí những nhà văn hàng đầu của cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Dấu chân người lính viết về cuộc hành quân, bao vây và tiêu diệt địch ở vùng
đất Quảng Trị, kết quả của những lần đi theo bộ đội tham gia chiến đấu ở các ...thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết về tình yêu xót thương
nhất” và ông cho rằng “Nỗi buồn chiến tranh thể hiện một điểm nhìn mới về cuộc
chiến tranh kéo dài ba mươi lăm năm”.
Nét đổi mới đặc sắc của Nỗi buồn chiến tranh không chỉ bộc lộ ở chiều sâu
tư tưởng tư duy nghệ thuật mà còn là những cách tân theo chiều hướng hiện đại,
hậu hiện đại của thi pháp thể loại. Đó là nỗi đau, nỗi mất mát, nỗi ám ảnh kinh
hoàng của người lính về sự tàn khốc của chiến tranh. Vượt lên trên nỗi đau thể xác
là nỗi đau tinh thần, và gọi đúng tên của nó là “hội chứng chiến tranh”. Về vấn đề
này Trần Đình Sử cho rằng: “Văn học nói nhiều đến tính chính nghĩa, tính anh
hùng, tính cách mạng nhưng chưa có gì đáng kể về tính tàn bạo, tính hủy diệt, bi
thảm của nó, những tính chất không chỉ thể hiện ở cái chết nơi chiến trận, mà còn
mở rộng thành cái chết nơi tâm hồn” [138, tr. 6- 14]. Nguyễn Đăng Điệp lại nhìn
thấy sự mới mẻ trong cách viết và tiếp cận hiện thực của Bảo Ninh qua kỹ thuật
dòng ý thức: "Cho dù viết nhiều về chiến tranh nhưng xét đến cùng tinh huyết của
Bảo Ninh kết tụ trong cuốn tiểu thuyết để đời của ông: Thân phận của tình yêu.
Toàn bộ tác phẩm là niềm khắc khoải không nguôi của một người lính bước ra từ
cuộc chiến khắc nghiệt ấy. Vì thế, nó trung thực đến tận đáy..." [164- tr. 399].
25
Nguyễn Thanh Sơn cho rằng, "Nỗi buồn chiến tranh không phải chỉ là một tác
phẩm viết về chiến tranh. Bản thân tiểu thuyết đã là một cuộc chiến tranh, một
thảm họa chiến tranh, một thế giới chiến tranh thu nhỏ trong bi kịch vĩ đại của một
con người" [159- tr. 63]. Còn Nguyễn Trường Lịch thì khẳng định: "Tác phẩm
Thân phận tình yêu (1990) của Bảo Ninh mở ra một bước ngoặt đáng kể trên quá
trình phát triển tiểu thuyết đương đại" [105]...
Với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã xây dựng một không gian đa chiều
về hiện thực chiến tranh, điều mà các tiểu thuyết viết về chiến tranh trước đó chưa
từng làm được. Hiện thực chiến tranh trong Nỗi buồn chiến tranh được khắc họa
qua tâm lý của nhân vật chứ không phải theo phương thức phản ánh miêu tả thông
thường của trật tự tuyến tính theo dòng cốt truyện. Phạm Xuân Thạch trong bài viết
Nỗi buồn chiến tranh viết về thời chiến tranh thời hậu chiến- từ chủ nghĩa anh
hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp, sau khi tìm hiểu thế giới nhân vật, biểu tượng
và ý nghĩa của nó đã khái quát cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh và con đường
viết về chiến tranh trong thời hậu chiến: “Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã
xác lập một cái nhìn mới về hiện thực lịch sử- hiện thực chiến tranh, mới trong sự
đối chiếu với văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trong chiến tranh và trước 1986.
Cái mới ở đây được xác định không chỉ ở việc anh đưa vào trong tác phẩm của
mình những chất liệu hiện thực chưa từng có trong văn học chiến tranh (dù điều
này cũng có giá trị thẩm mỹ riêng) mà trước hết thể hiện ở việc anh đã tìm đến một
phương pháp tiếp cận hiện thực khác với phương pháp điển hình hóa trong văn học
hiện thực truyền thống ”. “Riêng Bảo Ninh, anh đã đẩy những khuynh hướng nghệ
thuật của những nhà văn trước đây đến một chiều kích mới. Anh quyết liệt từ bỏ
hình thức tiểu thuyết hiện thực truyền thống (theo kiểu tiểu thuyết- kí sự như Đất
trắng) để theo đuổi tiểu thuyết tâm lý” [166].
Ra đời sau Đất trắng mười năm, Nỗi buồn chiến tranh đã đẩy những tín hiệu
mới mẻ trong quan niệm mới, góc nhìn mới về hiện thực chiến tranh trong Đất
trắng đến gần và trở nên rõ ràng hơn. Đó là một bước chuyển mình mạnh mẽ, đánh
26
dấu một thái độ, một cách nhìn công bằng và sòng phẳng về cuộc chiến. Tuy nhiên,
bên cạnh những ý kiến đánh giá cao cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh trên nhiều
phương diện, xem nó như một tác phẩm đỉnh cao, một thành tựu xuất sắc của văn
học thời kỳ đổi mới, cũng đã xuất hiện những phê phán, lên án gay gắt, phủ nhận
giá trị của Nỗi buồn chiến tranh trên cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ
thuật. Đỗ Văn Khang trong bài viết Nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận của tình
yêu, (Văn nghệ số 43- 1991) đã kết luận "thật đáng tiếc lẽ ra không nên in vội Thân
phận của tình yêu". Đức Trung trong bài viết Chiến tranh nào? Nỗi buồn nào?,
(Văn nghệ số 43- 1991) coi Nỗi buồn chiến tranh là “điên loạn”, “rối bời”, “lố bịch
hóa hiện thực”, “bôi nhọ quân đội”. Trần Duy Châu trong bài viết của mình nhấn
mạnh: "Bảo Ninh đã tạo nên hình ảnh đảo ngược của hiện thực, chuyển đổi các giá
trị, biến trắng thành đen, thay khúc ca khải hoàn của dân tộc thành tiếng hát bi
thương ai điếu cho những kẻ lạc loài" [23].
Tựu trung, những công trình, ý kiến nghiên cứu, đánh giá về văn xuôi nói
chung, tiểu thuyết nói riêng viết về đề tài chiến tranh trước và sau 1975 cũng như
về vấn đề phản ánh hiện thực cuộc chiến trong ba tiểu thuyết Dấu chân người lính
(Nguyễn Minh Châu), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo
Ninh) là khá đa dạng, phong phú, xét ở một góc độ nào đó còn có phần bề bộn. Vì
vậy trong khuôn khổ luận án, chúng tôi không hi vọng và cũng không thể có một
cái nhìn bao quát mà chỉ tập trung vào những công trình, ý kiến tiêu biểu, liên quan
mật thiết và phục vụ cho hướng triển khai đề tài và những vấn đề thuộc nội dung
luận án. Theo chúng tôi, những vấn đề có thể tóm lược khái quát như sau:
Thứ nhất, nhận định về văn xuôi thời kỳ chống Mỹ, hầu hết các ý kiến đều
khẳng định, mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định tuy nhiên tiểu thuyết chiến
tranh thời kỳ này (và mở rộng ra cả giai đoạn 1945 – 1975) đã có những chuyển
biến tích cực trên mọi phương diện, thực sự là tấm gương phản chiếu những
phương diện cơ bản nhất của đời sống và tâm hồn dân tộc; thể hiện được lẽ sống,
khát vọng lớn “không có gì quý hơn độc lập, tự do” của nhân dân ta; đồng thời có
27
tác dụng cổ vũ, động viên, xây dựng tư tưởng, bồi đắp tâm hồn, góp phần hoàn
thiện và phát triển nhân cách cao đẹp của con người Việt Nam trong thời đại chiến
tranh cách mạng. Các ý kiến cũng thống nhất cho rằng những hạn chế của tiểu
thuyết chiến tranh thời kỳ này là do sự chế định của điều kiện lịch sử, của trình
độ nhận thức thời đại. Bên cạnh đó còn phải kể đến những hạn chế trong tài
năng, bản lĩnh của người sáng tác và không loại trừ những luồng ảnh hưởng tiêu
cực của khuynh hướng xã hội học du nhập từ bên ngoài. Đi sâu vào những vấn đề
cụ thể, các ý kiến nhận định rằng: nhiều tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn này phản
ánh hiện thực chiến tranh và xây dựng hình tượng người lính còn giản đơn, xuôi
chiều, ít nhiều còn mang tính minh hoạ công thức do phải thực hiện nhiệm vụ tuyên
truyền chính trị, cổ vũ chiến đấu. Nói chung, tiểu thuyết chiến tranh chặng đường
này chỉ tập trung phản ánh những “điểm sáng” của con người và hiện thực, phần
nào đó còn tô hồng hiện thực, còn những “chỗ tối”, những góc khuất chưa được đề
cập đến hoặc có phần né tránh. Nâng lên tầm khái quát, các ý kiến đều kết luận đây
cũng là những nhược điểm chung của văn học cách mạng Việt Nam (1945 – 1975).
Thứ hai, với văn học sau 1975, hầu hết các ý kiến nhận định đều thống nhất,
văn xuôi sau 1975 đã có sự chuyển biến trên nhiều phương diện, xuất phát từ nhu
cầu đổi mới trước những đòi hỏi cấp bách của đời sống xã hội, từ chủ thể sáng tạo
và cả phía khuynh hướng tiếp nhận. Mặc dù chưa có sự thay đổi một cách rõ rệt,
nhưng đã xuất hiện những tác phẩm viết theo xu hướng nhận chân “phản tư” với sự
đổi mới cách tiếp cận, khai thác hiện thực. Đó là những yếu tố quan trọng, thể hiện
sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật và là dấu hiệu cho một cuộc cách tân văn xuôi-
tiểu thuyết nói riêng và của văn học nói chung. Cụ thể hơn, các ý kiến đã cho rằng
tiểu thuyết sau 1975 có diện mạo mới, thể hiện đúng bản chất của thể loại nhờ
những thay đổi trong cảm hứng sang tác mà quan trọng nhất đó là sự dịch chuyển
từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư.
Thứ ba, khi đề cập đến sự vận động và đổi mới của văn xuôi sau 1975, hầu
hết các ý kiến đều lấy những sáng tác tiêu biểu về đề tài chiến tranh thời kỳ này làm
28
cơ sở, cứ liệu và coi là những hiện tượng nổi bật thể hiện những nỗ lực cách tân của
văn xuôi Việt Nam thời hậu chiến. Các ý kiến đã khẳng định, hiện thực chiến tranh
trong tiểu thuyết sau 1975 đã thể hiện những đặc điểm tư duy nghệ thuật và đặc
trưng thẩm mỹ mới. Chiến tranh và người lính đã bước đầu được đặt trong một hệ
quy chiếu khác, với những tiêu chí khác, theo xu hướng dân chủ hóa, gắn với ý
thức con người cá nhân, cá thể. Chiến tranh được phản ánh dưới góc nhìn đa chiều,
đa hướng. Chính vì thế, giá trị nhân văn, nhân bản được bộc lộ chân thực, sâu sắc
hơn, từ đó hướng con người đến một cách nhìn về thời cuộc nhân ái và toàn diện
hơn.
Thứ tư, các ý kiến đều thống nhất rằng, với việc nhà văn hướng ngòi bút của
mình vào đời sống nội tâm, bộc lộ diện mạo tinh thần con người, do vậy, hiện thực
chiến tranh và đời sống hậu chiến đã được mở rộng, đào sâu hơn. Và cũng qua đó,
sự khốc liệt của chiến tranh cũng như những vấn đề đặt ra hết sức nóng bỏng của
cuộc sống hiện tại đã được nhà văn phơi bày một cách đầy đủ và toàn vẹn.
Có thể khẳng định rằng, văn xuôi viết về đề tài chiến tranh nói chung và ba
tiểu thuyết Dấu chân người lính, Đất trắng và Nỗi buồn chiến tranh - ba tác phẩm
tiêu biểu cho ba chặng đường về đề tài chiến tranh cách mạng của văn học Việt
Nam trước và sau 1975- nói riêng, đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm nghiên
cứu thể hiện qua nhiều công trình và những bài báo khoa học. Tuy nhiên, theo sự
nhìn nhận, quan sát và định vị của chúng tôi, thực tế cho đến nay vẫn chưa có một
công trình hay bài viết nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ
thống vấn đề phản ánh hiện thực chiến tranh qua sự kết nối ba tiểu thuyết này. Đặc
biệt là đi vào phân tích, so sánh nhằm đưa ra những kiến giải về sự khác biệt trong
việc tiếp cận, di chuyển và phản ánh hiện thực chiến tranh của từng tác giả, để qua
đó khẳng định sự thay đổi, cách tân trong cảm hứng, thi pháp và phương thức thể
hiện của các tác giả qua từng giai đoạn là tất yếu, là phù hợp với quy luật vận động,
đổi mới và phát triển của văn học. Đây chính là vấn đề trọng tâm của nội dung luận
án mà chúng tôi sẽ tập trung giải quyết.
29
CHƢƠNG 2:
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
TỪ 1945 ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XX
Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc.
Cùng với khí thế “long trời lở đất” của một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ để
khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà lập nên nền chuyên chính vô sản, đất
nước vừa thoát khỏi vòng nô lệ đó đã phải lâm vào một cuộc chiến kéo dài 30 năm
ngay sau những ngày lập quốc. Từ 1945 đến 1975, dân tộc Việt Nam nhỏ bé phải
gồng hết sức mình để chiến đấu chống trả hai “đế quốc to”, hùng mạnh nhất thế
giới là Pháp và Mỹ. Để đến được ngày kết thúc chiến tranh thống nhất hai miền
Nam Bắc, 30- 4- 1975, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua nỗi đau chia cắt, phải trả
giá bằng sinh mệnh hàng triệu người vĩnh viễn nằm xuống, hàng triệu người bị
thương tật, hàng vạn người bị nhiễm chất độc da cam và những di chứng man rợ
của chiến tranh. Những con số biết nói đó cho thấy, cuộc chiến ở Việt Nam là cuộc
chiến có thời gian dài nhất, khốc liệt và phức tạp nhất. Song sự mất mát và “nỗi
buồn chiến tranh” không chỉ diễn ra trên dải đất hình chữ S đau thương mà còn
vượt nửa vòng trái đất đến với nước Mỹ xa xôi bên kia bờ Thái Bình Dương. Với
gần 7 tỷ USD ném vào cuộc chiến, 58.000 binh sĩ Mỹ tử trận ở chiến trường Việt
Nam, 1.300 người mất tích, hơn 300 nghìn thương binh, tàn phế và hàng chục vạn
quân nhân, cố vấn Mỹ bị “dính” chất độc da cam, đặc biệt là hàng vạn người lính
trở về từ Việt Nam bị mắc chứng rối loạn tâm thần, cụ thể là căn bệnh “Hội chứng
Việt Nam”, , tiền bạc, bản chất hiếu chiến, danh dự và niềm kiêu hãnh của một
siêu cường quốc đã bị phơi bày, trắng tay, sụp đổ hoàn toàn. Có nghĩa là những
chấn thương dữ dội của chiến tranh đã được chia đều cho hai phía: người chiến đấu
để bảo vệ tổ quốc và kẻ xâm lược.
30
Thực tế lịch sử đó đã đổ bóng xuống đời sống văn học nghệ thuật, thẩm thấu
và chi phối đến tiến trình vận động của hệ hình văn chương. Từ 1945 đến 1975, nền
văn học Việt Nam chính thức mang danh nền văn học chiến tranh cách mạng, hình
thành và phát triển dưới sự tác động đầy quyền năng của cơ chế phương pháp sáng
tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, văn nghệ sĩ – những chủ thể cầm bút – là chiến sĩ
trên mặt trận văn hoá văn nghệ.
Trong suốt ba mươi năm ấy, chiến tranh đã chi phối, ảnh hưởng mạnh mẽ
đến mọi mặt của đời sống đất nước. Cả dân tộc Việt Nam bị đặt trước những tình
huống, thử thách đặc biệt. Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt đó, “không một ai
trên đất nước này có thể tuyên bố mình đứng ngoài lịch sử, kể cả người đó là một
nữ tu sĩ trong nhà tu kín hay một người Mông trên núi cao. Tất cả mọi người đều bị
cuốn vào dòng thác lớn của lịch sử” [44, tr. 200]. Và trong bối cảnh người sáng tác
không bị đặt trước những lựa chọn, không có hiện tượng phân luồng trung tâm –
ngoại vi, nền văn hóa văn nghệ Việt Nam mang đậm dấu ấn chiến tranh cũng là
điều tất yếu. Phát triển trong hoàn ảnh đặc biệt như vậy, văn học hướng đến khai
thác, phản ánh vấn đề trung tâm của thời đại là cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của
dân tộc cũng là điều dễ hiểu. Bước ra khỏi thời kỳ 1930-1945 như là đỉnh cao của
bước ngoặt hiện đại hoá với sự hoà trộn, tích hợp Đông – Tây, những phẩm tính
truyền thống và hiện đại, diện mạo văn học 1945-1975 đã được thay thế căn bản.
Chiến tranh trở thành đề tài chính, lấn át và chi phối các đề tài khác của văn học.
Với sứ mệnh lớn lao, với tư cách là “phát ngôn viên của thời đại”, trong suốt thời
kỳ kháng chiến, văn học luôn là “một mặt trận” quan trọng trong việc tuyên truyền,
cổ vũ, khích lệ chiến đấu, khẳng định cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc, ca
ngợi chế độ xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm tin trong quần chúng nhân dân. Từ
những buổi đầu kháng chiến chống Pháp, chính phủ Việt Minh đã đề ra khẩu hiệu
“Kháng chiến hóa văn hóa. Văn hóa hóa kháng chiến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
quan tâm tới văn nghệ, Người xem “Văn hóa văn nghệ cũng là một mặt trận. Anh
chị em là chiến sĩ trên mặt trận ây”. Đồng thời, Hồ Chủ tịch cũng luôn dặn dò đội
31
ngũ văn nghệ sĩ: “Nhiệm vụ văn hóa chẳng những để cổ động tinh thần và lực
lượng kháng chiến của nhân dân, mà còn phải nêu rõ những thành tích kháng chiến
kiến quốc vĩ đại của ta cho thế giới biết. Các nhà văn hóa ta phải có những tác
phẩm xứng đáng chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây
giờ, mà còn để lưu truyền những gương mẫu oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho
con cháu đời sau”. [136, tr. 21- 22]. Hưởng ứng những lời kêu gọi ấy, rất nhiều
văn nghệ sĩ đã tự nguyện, hăm hở đi theo kháng chiến. Trong những năm tháng
gian nan thử thách ấy, đội ngũ những nhà văn, những “thư ký trung thành của thời
đại” với trọng trách của một chiến sĩ thực thụ, một tuyên truyền viên đã kịp thời
phản ánh một cách chân thực, sinh động và cảm động những ngày tháng gian khổ
mà hào hùng của dân tộc Việt Nam Một nền văn học cách mạng được sinh thành
và gặt hái nhiều thành tựu quan trọng nhờ nhiệt huyết đối với sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc và đam mê sáng tạo nghệ thuật của đội ngũ các văn nghệ sĩ gồm
nhiều thế hệ.
Có thể khẳng định rằng, trên cơ sở lập trường cách mạng và lòng yêu nước,
song hành cùng cuộc kháng chiến trường kỳ kéo dài ba mươi năm, chúng ta đã cho
ra đời một nền văn học “xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền
văn học chống đế quốc trong thời đại ngày nay”. Trong bảng “địa dư” đó của văn
học, đề tài chiến tranh luôn giữ vị trí chủ lưu. Trước 1975, khí thế cách mạng sục
sôi và tinh thần chiến đấu hi sinh quên mình của quân dân hai miền đã trở thành
nguồn cảm hứng nóng bỏng, trực tiếp đối với các nhà văn. Sau 1975, chiến tranh
vẫn là một “siêu đề tài”, là mảnh đất màu mỡ để các nhà văn “cày xới” nhưng đã có
sự cách tân đồng bộ về tâm thế, cảm hứng sáng tác, tư duy nghệ thuật, đặc điểm thi
pháp và hình thức diễn ngôn. Trước đây, trong giai đoạn 1945- 1975, với nhiệm vụ
chính trị lớn lao, nặng nề, văn học giai đoạn này chứa đựng âm hưởng sử thi (anh
hùng ca) với cảm hứng lãng mạn bao trùm. Các tác phẩm tập trung ngợi ca chủ
nghĩa yêu nước, thể hiện khát vọng độc lập tự do, tự hào và tin tưởng vào sự nghiệp
giải phóng dân tộc của con người Việt Nam. Hình tượng người lính trong văn học
32
giai đoạn 1945- 1975 được lý tưởng hóa đến mức tuyệt đối tạo nên khoảng cách sử
thi. Sau đại thắng mùa xuân 1975, giai đoạn 1975- 1985, mặc dù vẫn theo “quán
tính cũ” (Nguyên Ngọc) nhưng văn học viết về đề tài chiến tranh đã có dấu hiệu đổi
mới trên phương diện tiếp cận, miêu tả và phản ánh hiện thực. Đó là sự tái hiện
hiện thực chiến tranh với tất cả sự khốc liệt, những tổn thất, hy sinh nặng nề của nó.
Đâu đó trong một số tác phẩm, người đọc đã thấy thấp thoáng những bi kịch của
con người thời hậu chiến và những dự cảm về hệ lụy chiến tranh. Tuy nhiên, đó
mới chỉ là sự manh nha, là quá trình tìm đường, đặt nền móng cho văn học giai
đoạn sau. Phải đến giai đoạn từ 1986 cho đến những năm cuối thế kỷ XX, văn học
viết về đề tài chiến tranh mới thực sự đổi mới một cách mạnh mẽ. Bên cạnh cảm
hứng anh hùng ca đã có sự tồn tại của cảm hứng “bi ca”. Hình ảnh người lính đã
không còn được tô vẽ, luôn đứng vị trí cao hơn cộng đồng tiếp nhận mà đã trở nên
đời thường, gần gũi hơn với những khát khao hết sức bản năng, tự nhiên của con
người. Đặc biệt, hình tượng nhân vật kẻ thù trong văn học chiến tranh giai đoạn này
đã được các nhà văn soi chiếu với cái nhìn tỉnh táo và nhân bản. Họ, những con
người bên kia chiến tuyến không chỉ độc ác, tàn nhẫn, vô lương, ngu dốt mà cũng
thiện chiến, có lý tưởng, có lòng nhân ái Rõ ràng, bên cạnh những khám phá đa
diện về người lính cách mạng, hình ảnh kẻ thù – những chủ thể trên chiến trường -
đã được các nhà văn miêu tả đa chiều, có sức sống nội tại và chân thực.
Văn học viết về chiến tranh cả trước và sau 1975 khá đa dạng về thể loại và
phương thức thể hiện. Đã có rất nhiều thể loại được các nhà văn thử nghiệm như
thơ, truyện ngắn, ký, tiểu thuyết. Mỗi thể loại đều có những thế mạnh và giới hạn
riêng. Thơ, truyện ngắn, ký được các nhà văn sử dụng với mục đích phản ánh
nhanh chóng những chiến công, những sự kiện nóng hổi trên chiến trường, đồng
thời nó cũng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh sáng tác nhiều khó khăn của thời
chiến. Tuy nhiên, do hạn chế bởi dung lượng nên dù các thể loại trên giúp nhà văn
phản ánh kịp thời một vấn đề của hiện thực cuộc sống, hiện thực chiến tranh nhưng
nó vẫn chỉ là một lát cắt, chưa thể hiện được tầm vóc của cuộc kháng chiến, chưa lý
33
giải được những vấn đề phức tạp của đời sống, quá trình phát triển tính cách của
nhân vật không được diễn tả đầy đủ. Chiến tranh với bản chất là một hiện tượng
lịch sử - xã hội phức tạp mang tính nhân loại cần một loại hình năng động, mang
tính tổng hợp cao để phản ánh nó một cách toàn vẹn, sống động. Trên cơ sở tiêu chí
đó, với đặc trưng là một cấu trúc tự sự lớn, có khả năng bao quát về thời gian,
không gian, sự kiện, nhân vật; khả năng mở rộng tối đa tầm vóc, quy mô hiện thực;
khả năng đi sâu khám phá những vấn đề thân phận con người; sự đa dạng về màu
sắc thẩm mĩ; tính đối thoại và đa âm về giọng điệu tiểu thuyết đã hiện diện như
một thể loại giàu tiềm năng, có sức cạnh tranh bền vững và đã trở thành sự lựa
chọn ưu tiên của các nhà văn.
Nhìn vào bức tranh thể loại, tiểu thuyết luôn đóng vai trò then chốt và là
nòng cốt, chủ lực của văn xuôi, đồng thời cũng là tiêu chí đánh giá sự trưởng thành
của một nền văn học. Tuy ra đời muộn nhưng tiểu thuyết lại là một thể loại có một
vai trò, vị thế hết sức quan trọng trong lịch sử văn học. Không quá khi nói rằng tiểu
thuyết là danh dự, là niềm tự hào của mỗi dân tộc, “thiếu nó, dân tộc thiếu sử thi”.
Hegel đã từng nói: “Danh dự của mỗi dân tộc cần phải có Homeros của riêng
mình”. Dễ hiểu vì sao rất nhiều các nhà văn trưởng thành cùng thời đại chiến tranh
cách mạng luôn ước ao, khao khát viết được những bộ tiểu thuyết phản ánh được sự
kỳ vĩ hào hùng với tất cả lẫm liệt và đau thương mà dân tộc Việt Nam đã kinh qua.
Tuy nhiên, hoàn cảnh chiến tranh với muôn vàn những khó khăn thiếu thốn đã là
một cản trở lớn cho thể loại văn học dài hơi cần đầu tư nhiều thời gian và công sức
này. Bên cạnh đó, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, các nhà văn đối
diện với một cuộc sống mới mẻ chưa từng có. Bên cạnh tài năng, họ cần có thời
gian để làm quen, khám phá, để tích luỹ vốn sống thực tế nên việc viết được những
tác phẩm dài hơi không phải là điều dễ dàng. Ngoài ra, những quan niệm có phần
cực đoan về quyền lực chính trị và nhiệm vụ của văn học, về nguyên tắc và phương
pháp sáng tác những năm đầu của cuộc kháng chiến cũng là một trở ngại lớn cho
các nhà tiểu thuyết. Chính vì vậy, khép lại một thời kỳ khởi sắc và thành tựu của
34
văn xuôi 1930-1945, những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, tiểu thuyết xuất
hiện thưa thớt trên văn đàn. Phải đến năm 1954 khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, các
nhà văn mới có điều kiện thuận lợi về khách quan và ý thức rõ rệt hơn để đầu tư
vào những tác phẩm dài hơi. Trong vòng mười năm (1954-1964) tiểu thuyết viết về
đề tài chiến tranh đã có sự phát triển so với giai đoạn trước với khá nhiều những tác
phẩm dày dặn. Từ 1965 đến 1975, tiểu thuyết chiến tranh đã góp phần quan trọng
trong việc tái dựng một giai đoạn, một chặng đường trọng đại của dân tộc. Sau
1975 đến những năm cuối thế kỷ XX, với một độ lùi nhất định, cần thiết, với những
nhu cầu đổi mới bức bách về tư duy, lối viết, về việc đáp ứng nhu cầu tiếp nhận và
đặc biệt là sự mở rộng giao lưu văn hóa toàn cầu của “thế giới phẳng”; đề tài chiến
tranh trong tiểu thuyết đã được các nhà văn khoác lên một diện mạo khác: sâu sắc
và mới mẻ hơn. Những “rạn vỡ” trong cảm hứng sáng tạo, sự di chuyển của cái
nhìn nghệ thuật và việc mở rộng đường biên hiện thực trong các tiểu thuyết viết về
chiến tranh giai đoạn này đã mang đến những lý giải sâu sắc, khách quan cũng như
những nhận thức, quan niệm nhân văn hơn về chiến tranh và số phận con người.
Tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh, do vậy, đã có sự vận động trên nhiều phương
diện, có những chuyển biến nhanh nhạy để bắt kịp với không khí chung của văn
hoá văn nghệ qua từng thời kỳ.
2.1. Tiểu thuyết chiến tranh trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945- 1975
2.1.1. Giai đoạn 1945- 1954
Mùa thu năm 1945, nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc Cách mạng tháng
Tám thành công, phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp đã kìm kẹp nhân dân
ta gần một thế kỷ. Cả dân tộc vui mừng chào đón sự ra đời của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa. Một kỷ nguyên mới được mở ra cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên
của độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng Hiệp định sơ bộ ngày
06/3/1946 cho phép quân Pháp được quay trở lại miền Bắc để thay thế quân đội
Trung Quốc Tưởng Giới Thạch rút quân về nước đồng nghĩa với việc thực dân
Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam một lần nữa. Song, bằng ý chí quật cường và
35
tinh thần đoàn kết một lòng đấu tranh, bảo vệ chủ quyền dân tộc, một lần nữa nhân
dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục làm nên
chiến thắng oai hùng trước kẻ thù xâm lược. Đó chính là cuộc kháng chiến chín
năm chống thực dân Pháp. Thành quả cách mạng đó cùng với hiện thực chiến tranh
nóng bỏng sục sôi, tinh thần vệ quốc cao cả đã trở thành nguồn mạch cảm hứng dồi
dào cho các nhà văn khai phá, sáng tác.
Như đã trình bày ở trên, sinh trưởng, hun đúc trong hoàn cảnh đất nước
chiến tranh, chính vì vậy vai trò của văn nghệ rất được các nhà lãnh đạo cách mạng
quan tâm. Văn nghệ được định hướng, quy tụ thành “một mặt trận” và văn nghệ sĩ
là “những chiến sĩ”: “Thời khác, chế độ khác, trong đấu tranh giai cấp, người nghệ
sĩ có thể đứng bên này, bên kia hay đứng giữa. Nhưng thời ta, dưới chế độ ta, điều
đó không thể có được và chúng ta nói hẳn với nhau là đã là người nghệ sĩ thì không
ai dung thứ thái độ chông chênh ấy được” [193, tr. 41]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt
ra những nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng với văn nghệ sĩ: “Cũng như các chiến sĩ khác,
chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự
Tổ quốc, phụng sự nhân dân trước hết là Công- Nông Binh”. Tổng Bí thư Trường
Chinh nhấn mạnh thêm: “Văn nghệ sĩ phải thừa nhận rằng văn nghệ phục vụ chính
trị, phục vụ đường lối chính sách của Đảng văn nghệ sĩ Cộng sản cũng như mọi
Đảng viên khác phải phục tùng tổ chức của Đảng” [136, tr. 271, 272]. Đảng chủ
trương: “Phải làm sao dần dần từng bước, từng phần làm cho nước ta có một đội
ngũ làm văn học, nghệ thuật gồm những người có bản lĩnh lớn, có nhiệt tình lớn, có
khí phách lớn, và từ đó có tài năng lớn để cống hiến lớn cho sự nghiệp cách mệnh
của dân tộc” [193, tr. 39]. Thấm nhuần tinh thần chỉ đạo đó, đội ngũ văn nghệ sĩ đã
không quản ngại khó khăn gian khổ, dấn thân, xông pha trên khắp các mặt trận để
phản ánh chân thực và sinh động hiện thực cuộc kháng chiến, trở thành một chiến
sĩ tuyên truyền đắc lực, phục tùng tuyệt đối đường lối văn nghệ của Đảng. Trong
những năm tháng trường kỳ 9 năm gian khổ ấy, các văn nghệ sĩ phải từ bỏ những
“tháp ngà nghệ thuật” để làm quen với một lối sống mới hoàn toàn khác. Họ lăn lộn
36
với quần chúng công nông binh, thường xuyên phải đối mặt với bom đạn, chết chóc
cùng những chuyến hành quân gian khổ. Đó quả là những thử thách không nhỏ cho
đội ngũ những tầng lớp trí thức tiểu tư sản thành thị vốn quen với đời sống thị
thành. Nhưng ở một góc nhìn khác, chính những dấn thân, những xông pha ấy đã
giúp các văn nghệ sĩ tích lũy được nguồn vốn sống hết sức quý giá, đó là thực tiễn
chiến trường, là những miền đất và gương mặt con người mà nếu không nhập cuộc
họ không sao hình dung nổi. Và nguồn vốn sống ấy đã trở thành niềm cảm hứng, đã
chuyển hoá thành những tác phẩm chân thực, sinh động và giàu xúc cảm.
Nói đến văn học cách mạng giai đoạn 1945- 1954, dù được đánh giá là có
phát triển nhưng vẫn nằm trong tình trạng đơn điệu về thể loại. Thành tựu chủ yếu
chỉ nằm trong thơ, truyện ngắn và ký. Với ưu thế cơ động, linh hoạt trong tiếp cận
hiện thực, gọn nhẹ về dung lượng, có khả năng phản ánh chớp nhoáng, kịp thời
những sự kiện nóng bỏng, phù hợp với điều kiện khó khăn, thiếu thốn của chiến
tranh, sự lấn chiếm của các thể loại này để thay thế tiểu thuyết cũng là điều dễ hiểu.
Chính vì vậy, mặc dù ý thức về những bộ tiểu thuyết thể hiện được toàn cảnh, quy
mô của cuộc kháng chiến vẫn nung nấu tâm trí các nhà văn, nhưng để thực hiện
được ý định đó trong hoàn cảnh chiến tranh là không dễ dàng. Việc dấn thân vào
chiến trường, đối diện với một hiện thực mới, cân nhắc lựa chọn những hệ giá trị
mới thay thế hệ giá trị cũ, các nhà văn cần có thời gian để làm quen, để “nhận
đường”, tạo sự phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Cũng không thể không nhắc tới
nhịp độ khẩn trương của đời sống kháng chiến gian khổ và thiếu thốn trăm bề, nhà
văn không thể đóng cửa phòng văn quay lưng lại đám đông quần chúng để “hì hục”
viết tiểu thuyết. Những nhà văn trực tiếp tham gia kháng chiến thì việc viết tiểu
thuyết lại càng khó khăn gấp bội bởi chức trách chính của họ là cán bộ tuyên
truyền, dân vận, giao liên, chiến sĩ. Việc viết lách chỉ có duy nhất một nhiệm vụ
phản ánh nhanh nhạy những chiến công của quân ta, biểu dương kịp thời những
gương chiến đấu, người tốt việc tốt. Một khó khăn cản trở không nhỏ đến sự phát
triển của tiểu thuyết giai đoạn này chính là quan niệm của các nhà quản lý văn nghệ
37
về chức năng và nhiệm vụ trước mắt của văn học nghệ thuật. Nhiều người cho
rằng, cuộc chiến đấu đang cần những tấm gương chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi hơn
là những người chỉ giỏi văn chương thơ phú, ít am hiểu cuộc sống chiến đấu, lao
động khổ cực. Quan niệm tiểu thuyết là câu chuyện tình lãng mạn, chủ yếu nói về
cuộc sống riêng tư, là một thể loại văn học để tiêu khiển, giúp người đọc thoát ly,
xa rời cuộc sống hiện tại trong khi đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng sử dụng
văn chương để phục vụ các mục tiêu chính trị, bám sát cuộc sống lao động và chiến
đấu của nhân dân cũng là một trở ngại cho những người viết tiểu thuyết. Những lý
do trên đây lý giải phần nào sự phát triển thiếu liên tục, hiện tượng vắng bóng
những tên tuổi hoặc chính xác hơn là sự xuất hiện thưa thớt các tác phẩm tiểu
thuyết trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1954.
Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai trong bài viết Tình hình văn học Viêt Nam
sau cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đăng trên báo Tiên phong số 8- 1946 đã
nhận xét: “Văn đàn tiểu thuyết hai năm nay vắng vẻ quá. Những khuynh hướng
tràng giang đại hải đã đứng ngừng lại. (Chẳng biết độ bao lâu đây?). Những tập
ngoài ba trăm trang hình như cũng hiếm. Nghe đâu vào hạng “mập” thì cũng chỉ có
Khao của Đỗ Phồn và Nguyễn của Nguyễn Tuân thôi. Nhưng hai quyển này đều là
những tác phẩm viết trước cuộc khởi nghĩa khá lâu”. Phải đến năm 1951, những tác
phẩm được xem là mở màn cho tiểu thuyết của nền văn học cách mạng Việt Nam
mới ra đời. Đó là Xung kích của Nguyễn Đình Thi (1951), Vùng mỏ của Võ Huy
Tâm (1951) và Con trâu của Nguyễn Văn Bổng (1952). Xung kích có vẻ gần với
truyện ký hơn là tiểu thuyết, tác phẩm phản ánh một cách chân thực quá trình chiến
đấu với quân đội viễn chinh Pháp ở chiến dịch trung du Bắc Bộ. Với Vùng mỏ, Võ
Huy Tâm đã khắc họa lại cuộc đấu tranh của những người công nhân ở vùng mỏ
Quảng Ninh đòi thay đổi, cải thiện đời sống, điều kiện làm việc. Ở tiểu thuyết Con
trâu, Nguyễn Văn Bổng lại đề cập đến đời sống những người nông dân khu Năm
biết hy sinh những lợi ích cá nhân để sả...trình
hiện đại hóa của văn học cũng như tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Dấu chân người lính và Đất trắng đều thuộc về hệ thống đại tự sự của thời
hiện đại, của thời đại chiến tranh cách mạng. Dù Đất trắng đa chiều hơn, phản ánh
nhiều mặt phức tạp hơn của hiện thực chiến tranh, nhưng nó vẫn thuộc về mô thức
tư duy của tiểu thuyết truyền thống, vẫn chưa bao giờ hồ nghi những định đề chung
đã được khẳng định. Nỗi buồn chiến tranh đã bước xa hẳn vào thời hậu chiến với
sự khủng hoảng niềm tin vào những chân lý tưởng chừng bất biến của một thời, đã
bắt đầu đặt ra những vấn đề gần với tinh thần của hậu hiện đại. Nỗi buồn chiến
144
tranh là sự nhìn nhận lại chiến tranh từ một tâm thế hoàn toàn khác, của một thời
đại khác, đã tách mình ra khỏi những ánh hào quang kéo dài của cuộc chiến nhiều
thập kỷ của một dân tộc để hướng về những vấn đề mang tính bản thể, vĩnh cửu
hơn của nhân loại, vấn đề về nhân tính, về số phận con người, về hạnh phúc và khổ
đau trên thế gian này.
Hiện thực chiến trận là góc tiếp cận hiện thực chiến tranh ngắn nhất. Dấu
chân người lính đã phản ánh một khung cảnh chiến trường hào hùng đầy khí thế
của cả dân tộc thời chống Mỹ với cảm hứng sử thi kết hợp cảm hứng lãng mạn
dưới sự chi phối của nguyên tắc và đặc trưng thẩm mỹ của văn học chiến tranh
cách mạng. Với Đất trắng, hiện thực chiến tranh bắt đầu được khai thác ở nhiều
chiều hơn, quyết liệt hơn, cả vinh quang và những góc khuất của cuộc chiến. Nỗi
buồn chiến tranh nhìn lại hiện thực chiến trận từ hậu chiến, thế nên chiến tranh
được chiêm nghiệm từ những đau thương mất mát của số phận cá nhân con người
đã mang màu sắc hoàn toàn khác, nó tàn khốc hủy diệt nhân tính.
Nhân vật người lính cũng là một góc tiếp cận chiến tranh cơ bản mà chúng
tôi khảo sát qua ba tiểu thuyết Dấu chân người lính, Đất trắng, Nỗi buồn chiến
tranh. Ở Dấu chân người lính, nhân vật người lính được xây dựng theo nguyên tắc
của tiểu thuyết sử thi, mẫu hình người anh hùng lý tưởng mà số phận cá nhân phụ
thuộc và bị chi phối bởi vận mệnh của cộng đồng được đề cao. So với Dấu chân
người lính, Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh đã mở rộng góc nhìn khi khắc hoạ
chân dung người lính bên cạnh phẩm chất anh hùng lý tưởng có một phần đời sống
tự nhiên mang bản tính người. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đi xa hơn bằng
cách tái tạo bộ mặt chiến tranh qua số phận con người.
Tình yêu nam nữ là một góc tiếp cận chiến tranh đặc biệt của tiểu thuyết,
những câu chuyện tình yêu trong ba tác phẩm dù đậm nhạt, dài ngắn khác nhau đều
mang tính đặc thù của những năm tháng trong và sau cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Ở Dấu chân người lính, vận mệnh dân tộc đặt trên hạnh phúc cá nhân, những cung
bậc cảm xúc tình yêu đặt trong tương quan tác phẩm có phần mờ nhạt và bị lấn át.
Tình yêu trong Dấu chân người lính mang vẻ đẹp lý tưởng, cao cả giữa sự lấn át
145
của ý thức tập thể. Những mối tình trong Đất trắng cũng được mang màu sắc lý
tưởng dù đã bắt đầu nhuốm màu sắc hiện thực. Nỗi buồn chiến tranh là một nỗi đau
mang tên Thân phận của tình yêu, mà ở đó tác giả đem tình yêu đối lập với chiến
tranh.
Cùng với những chuyển đổi về phương diện tiếp cận và tái tạo hiện thực,
khám phá số phận cá nhân, lĩnh vực tình yêu trong Dấu chân người lính, Đất trắng
và Nỗi buồn chiến tranh đã có nhiều tìm tòi, đổi mới. Dễ nhận thấy là từ Dấu chân
người lính của Nguyễn Minh Châu, Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh đến Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh, văn học chiến tranh của thời hiện đại đã đi từ
những vấn đề cộng đồng đến vấn đề của cá nhân. Điều đó cho thấy những nỗ lực
cách tân theo chiều hướng hiện đại hoá qua từng chặng đường của dòng tiểu thuyết
thể tài chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX.
3. Ở phương diện thi pháp thể hiện hiện thực chiến tranh, luận án khảo sát
các yếu tố nghệ thuật tổ chức kết cấu, không gian và thời gian nghệ thuật, nghệ
thuật trần thuật để xem xét sự vận động của các yếu tố nghệ thuật tiểu thuyết tương
ứng với sự biến đổi của cách thức tiếp cận hiện thực chiến tranh. Dấu chân người
lính là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu cho lối kết cấu tiểu thuyết sử thi mang
âm hưởng ngợi ca. Trong khi đó, Nguyễn Trọng Oánh trong Đất trắng lại phản ánh
hiện thực cuộc chiến qua kiểu kết cấu tiểu thuyết phóng sự. Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh được coi như một dấu một mốc quan trọng trong sự phát triển của kỹ
thuật dòng ý thức trong văn học Việt Nam, có thể gọi kết cấu của Nỗi buồn chiến
tranh là kết cấu dòng ý thức. Bằng cách thức đó, ông đã tái hiện được toàn vẹn “hai
nửa sự thật” của hiện thực chiến tranh và truyền đi những thông điệp đa chiều về
chiến tranh, những đau đớn, vụn vỡ, những hoang mang, mất hướng của con người
sau chiến tranh.
Dấu chân người lính mang phong cách sử thi, hướng đến những biến cố lịch
sử lớn lao của dân tộc nên không gian nghệ thuật của những tác phẩm đó chủ yếu là
không gian mang tính sử thi. Đất trắng là kiểu tiểu thuyết phóng sự, lấy chiến
trường làm trung tâm khai thác các sự kiện, nên không gian bao trùm tác phẩm là
146
không gian chiến trường dưới các góc nhìn cận cảnh. Với thể loại tiểu thuyết dòng
thời gian, với sự hướng đến một diễn ngôn đa thanh, với việc nhìn hiện thực chiến
tranh từ những chiều kích khác của một thời đại mới, không gian trong Nỗi buồn
chiến tranh đa chiều nhưng đều bị giới hạn trong tâm tưởng của nhân vật.
Trong Dấu chân người lính, thời gian hiện tại chi phối toàn bộ hệ thống tổ
chức thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Cũng giống như Dấu chân người lính, thời
gian nghệ thuật trong Đất trắng vẫn chủ yếu là thời gian hiện tại, nhưng nó là một
thực tại được nhìn cận cảnh hơn, mang nhịp điệu căng thẳng, gấp gáp hơn của tiểu
thuyết phóng sự. Thời gian nghệ thuật trong Nỗi buồn chiến tranh là một dòng thời
gian hỗn độn không theo quy luật và trật tự của hiện tại và quá khứ, trong đó quá
khứ hoàn toàn chi phối hiện tại.
Trong Dấu chân người lính và Đất trắng, giống như kiểu tiểu thuyết truyền
thống, người viết đã chọn điểm nhìn ngôi thứ ba- điểm nhìn tác giả (điểm nhìn biết
tuốt" hay điểm nhìn “toàn tri”)- làm điểm nhìn chủ đạo để quan sát và trần thuật.
Nỗi buồn chiến tranh được xây dựng từ nhiều điểm nhìn trần thuật khác nhau. Sự
đa dạng về điểm nhìn trần thuật, người trần thuật cũng như mạch trần thuật đã tạo
nên tính đa thanh, đa âm cho Nỗi buồn chiến tranh, cho diễn ngôn về hiện thực
chiến tranh của thời Đổi mới.
Ở Dấu chân người lính, ở phương diện giọng điệu trần thuật, chất đơn thanh
của sử thi vẫn hoàn toàn chiếm ưu thế, tính chất ngợi ca, khẳng định xung quanh
đại tự sự vẫn là xu thế chính của tác phẩm. Đất trắng không dùng giọng điệu trần
thuật ngợi ca hào hùng dễ nhận thấy như Dấu chân người lính mà trong cái đơn
thanh của Đất trắng đã thấp thoáng dấu hiệu của những màu sắc khác nhau. Nỗi
buồn chiến tranh là một bước tiến về phương diện nghệ thuật tự sự trên quá trình
hiện đại hóa của tiểu thuyết Việt Nam nói chung cũng như tiểu thuyết phản ánh
hiện thực chiến tranh nói riêng với giọng điệu đa thanh, đa tầng mang tính đối
thoại.
4. Từ Dấu chân người lính đến Đất trắng tới Nỗi buồn chiến tranh, văn học
viết về đề tài chiến tranh đã trải qua một chặng đường khá dài đi từ những vấn đề
147
mang tính cộng đồng đến số phận cá nhân của mỗi con người, từ những lý tưởng về
một thế giới toàn vẹn đến những hoài nghi trước một hiện thực ngổn ngang, từ
niềm tin vào một đại tự sự tuyệt đối đến ranh giới sự đổ vỡ của đại tự sự và dấu
hiệu khởi đầu của những tiểu tự sự của tương lai. Nhìn vào sự vận động từ tư tưởng
nội dung đến hình thức thể loại của các tác phẩm, có thể thấy, từ tâm thức hiện đại,
văn học Việt Nam đã đang chuyển mình về phía tâm thức hậu hiện đại. Đề tài chiến
tranh ở những năm đầu thế kỷ XXI không còn nóng hổi như trước nữa, nhưng vẫn
hứa hẹn những bước tiến theo xu hướng hiện đại hóa nói chung của nền văn học
Việt Nam.
148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Anh Vũ (2015), Tiểu thuyết chiến tranh từ sau 1975 đến nay,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 374, tr. 97- 100.
2. Nguyễn Anh Vũ (2015), Tiểu thuyết chiến tranh trong văn học Việt Nam
1945- 1975, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 9, tr. 23- 32.
3. Nguyễn Anh Vũ (2015), Những góc nhìn về hiện thực chiến tranh trong
Dấu chân người lính, Đất trắng và Nỗi buồn chiến tranh, Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật, số 375, tr. 74- 78.
4. Nguyễn Anh Vũ (2015), Chân dung và số phận người lính qua một số
tác phẩm viết về chiến tranh, Tạp chí Lý luận Phê bình Văn học, nghệ thuật, số
37, tr. 52- 60.
149
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1991), Tư duy nghiên cứu văn học hiện đại trước yêu cầu
đổi mới, Tạp chí Văn học (số 5).
2. Vũ Tuấn Anh (1995), Đổi mới văn học vì sự phát triển, Tạp chí Văn học
(số 4).
3. Vũ Tuấn Anh (1996), Quá trình văn học đương đại nhìn từ góc độ thể
loại, Tạp chí Văn học (số 9).
4. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa học Xã
hội.
5. Thái Phan Vàng Anh (2010), Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 2).
6. Aristote (1999), Nghệ thuật thơ ca- Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, Nxb
Văn học, Hà Nội.
7. Lại Nguyên n (1998), Sống với văn học cùng thời, Nxb Văn học, Hà
Nội.
8. Lại Nguyên n (Biên soạn, 1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
9. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki (Trần Đình Sử,
Lại Nguyên n, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. M. Bakhtin (1992) - Lý luận và thi pháp tiểu thuyết - Trường viết văn
Nguyễn Du, Hà Nội,
11. M. Bakhtin (2006), Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức trong sáng
tạo nghệ thuật ngôn từ (Phạm Vĩnh Cư dịch), Tạp chí Văn học nước ngoài (số 1).
12. Ban chấp hành trung ương Đảng (1975), Những bức thư của Ban chấp
hành trung ương Đảng gửi các Đại hội văn nghệ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. S. Barnet, M. Berman, W. Burton (1992), Nhập môn văn học (Hoàng
Ngọc Hiến dịch và giới thiệu), Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản, Hà Nội.
150
14. D. Brewster, J.A. Burrell (2006), Tiểu thuyết hiện đại (Dương Thanh
Bình dịch), Nxb Lao động, Hà Nội.
15. Lê Huy Bắc (1996), Đồng hiện trong văn xuôi, Tạp chí Văn học (số 6).
16. H. Bénac (2005), Dẫn giải ý tưởng văn chương (Nguyễn Thế Công
dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam
sau 1975, Luận án PTS Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Bình (2007), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 – một cái nhìn
khái quát, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 2).
19. Vũ Cao (2004), Vài điều ghi về Nguyễn Minh Châu, Tuyển tập mười năm
Tạp chí Văn học và tuổi trẻ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh họa, Báo Văn nghệ, Số 49- 50, tr. 2- 15.
21. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
22. Nguyễn Minh Châu (2001), Toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
23. Trần Duy Châu (1994), Từ đâu đến Nỗi buồn chiến tranh ?, Tạp chí
Cộng sản (số 10).
24. Nguyễn Văn Dân (2010), Sức sống dai dẳng của kỹ thuật “dòng chảy ý
thức”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8.(2010)
25. Trương Đăng Dung (Chủ biên, 1990), Các vấn đề của khoa học văn học,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Trương Đăng Dung (1996), Tác phẩm văn học như là một quá trình, Tạp
chí Văn học (số 12).
27. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Trương Đăng Dung (2001), Những đặc điểm của hệ thống lý luận văn
học macxit thể kỉ XX, Tạp chí Văn học (số 7).
151
29. Trương Đăng Dung (2005), Trên đường đến với tư duy lý luận văn học
hiện đại, Tạp chí Văn học nước ngoài (số 1).
30. Nguyễn Thị Xuân Dung (2010), Dục vọng trong tiểu thuyết Việt Nam về
chiến tranh từ 1986 đến 1996,
31. Trung Dũng (1972), "Đọc Dấu chân người lính", Báo Nhân dân (số ra
ngày chủ nhật, 10/12).
32. Đinh Xuân Dũng (1990), Đổi mới văn xuôi chiến tranh, Báo Văn nghệ
(số 51).
33. Đinh Xuân Dũng (1995), Văn học Việt Nam về chiến tranh, hai giai đoạn
của sự phát triển, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 12, tr. 91- 95.
34. Đinh Xuân Dũng (1998), Nghĩ về sự biến đổi bên trong của tư duy sáng
tạo của nhà văn viết về chiến tranh, Văn hoá văn nghệ và đời sống quân đội, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
35. Đinh Xuân Dũng (2003), Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
36. Đinh Xuân Dũng (2004), Văn học văn hóa tiếp nhận và suy nghĩ, Nxb
Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38. Đặng Anh Đào (1991), Một hiện tượng mới trong hiện thực kể chuyện
hiện nay, Tạp chí Văn học (số 6).
39. Đặng Anh Đào (1993), Sự tự do của tiểu thuyết – Một khía cạnh của thi
pháp, Tạp chí Văn học (số 3).
40. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện
đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Phan Cự Đệ (1973), Nguyễn Minh Châu một cây bút văn xuôi nhiều triển
vọng, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 1).
42. Phan Cự Đệ (1984), Mấy vấn đề của tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh
cách mạng, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 9, tr. 108- 103.
152
43. Phan Cự Đệ (1974- 1975), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb ĐH&
THCN, Hà Nội.
44. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
45. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
46. Nguyễn Đăng Điệp (2004), Kỹ thuật dòng ý thức trong “Nỗi buồn chiến
tranh” của Bảo Ninh, in trong sách Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.
299- 408.
47. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng (Tuyển chọn và biên soạn, 2010),
Thi pháp học ở Việt Nam , Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
48. Trần Độ (1987), Về một đặc điểm của văn học trong đại hội Đảng lần
VI, Tạp chí Văn học (số 1).
49. Anh Đức (2010), Hòn Đất, Nxb Văn học, Hà Nội.
50. Hà Minh Đức (1987), Thời gian và trang sách, Nxb Văn học, Hà Nội
51. Hà Minh Đức (2001), "Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu",
Tác phẩm văn học - Phân tích và bình giảng, Nxb Văn học, Hà Nội.
52. Nguyễn Tiến Đức (2009), Cái nhìn mới về người lính và sự thay đổi
quan niệm về đề tài của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, Tạp chí Văn nghệ quân đội
(số 697).
53. Nguyễn Hương Giang (2001), Người lính sau hoà bình trong tiểu thuyết
chiến tranh thời kỳ đổi mới, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 4).
54. M. Gorky (1970), Bàn về văn học (Tập 1 – Nhiều người dịch), Nxb Văn
học, Hà Nội.
55. A.R. Griliet (2000), Vì một nền tiểu thuyết mới (Lê Phong Tuyết dịch),
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
56. N.A. Gulalev (1982), Lý luận văn học (Lê Ngọc Tân dịch), Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
57. K. Gunnars (2005), “Về những truyện ngắn”,
153
58. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết L. Tônxtôi, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
59. Nam Hà (2002), Lại nói về chiến tranh và viết về chiến tranh, Tạp chí
Văn nghệ quân đội (số 564).
60. Lưu Thị Thu Hà (2009), Hiện tượng phân rã cốt truyện trong Phiên
chợ Giát và Thân phận tình yêu,
61. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên, 2004), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Hêghen (1999), Mỹ học - Tập 2 - Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Phạm Ngọc Hiền (2007), Chất sử thi và chất tiểu thuyết trong Dấu chân
người lính của Nguyễn Minh Châu, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 2).
64. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Thời kỳ văn học vừa qua và xu thế phát triển,
Chuyên san báo Văn nghệ, tháng 4, tr. 9- 15.
64. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Bộ Văn hóa –
Thông tin và thể thao - Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản, Hà Nội.
66. Đào Duy Hiệp (2007), Thời gian trong Thân phận tình yêu của Bảo
Ninh, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 8).
67. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
68. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
69. Phạm Thị Hoài (1990), Trích Hội thảo về tình hình văn xuôi hiện nay,
Báo Văn nghệ (số 9).
70. Nguyễn Trọng Hoàn (Tuyển chọn và giới thiệu, 2004), Nguyễn Minh
Châu – Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
71. Nguyễn Trí Huân (2003), Chim én bay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
72. Trần Quốc Huấn (1991), Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Tạp chí
Văn học (số 3).
73. Nguyễn Thanh Hùng (2004), Chiến tranh đi qua, tình người ở lại, Tạp
chí Văn nghệ quân đội (số 12).
154
74. Đinh Thị Huyền (2008), Nhân vật của tiểu thuyết hậu chiến, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học (số 10).
75. Mai Hương (2006), Đổi mới văn học và đóng góp của một số cây bút văn
xuôi, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 11).
76. Dương Hướng (2000), Bến không chồng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
77. Tố Hữu (1973), Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân
ta, với thời đại ta, Nxb Văn học, Hà Nội.
78. Tố Hữu (1982), Phấn đấu vì một nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
79. Đỗ Văn Khang (1991), Nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận tình yêu,
Báo Văn nghệ (số 43).
80. M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
văn học (Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
81. M.B. Khrapchenco (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu văn học (Nhiều người dịch, Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
82. Phùng Ngọc Kiếm (2000), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945
– 1975 (Bộ phận văn học cách mạng), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
83. M. Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Đà
Nẵng.
84. M. Kundera (2005), Sứ mệnh của tiểu thuyết (Ngân Xuyên dịch),
85. Chu Lai, (1995) Nhân vật người lính trong văn học, Tạp chí Văn nghệ
quân đội (số 6).
86. Chu Lai (2002), Sử thi và hoành tráng – Câu trả lời cho một đời, Tạp
chí Văn nghệ quân đội (số 564).
87. Chu Lai (2003), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
88. Chu Lai (2003), Vòng tròn bội bạc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
155
89. Chu Lai (2004), Viết về chiến tranh đôi điều suy ngẫm, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội, số 8, tr. 102- 104.
90. Cao Kim Lan (2015), Tác giả hàm ẩn trong tu từ học tiểu thuyết, Nxb
Văn học, Hà Nội.
91. Tôn Phương Lan, Lại Nguyên n (Biên soạn, 1991), Nguyễn Minh Châu
– Con người và tác phẩm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
92. Tôn Phương Lan (1994), Chiến tranh qua những tác phẩm được giải,
Tạp chí Văn học (số 12).
93. Tôn Phương Lan (1995), Người lính trong văn xuôi viết về chiến tranh
của những nhà văn cầm súng, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 4).
94. Tôn Phương Lan (1999), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
95. Tôn Phương Lan (2005), Nhà văn Nguyễn Trọng Oánh – Người đi từ
chiến tranh, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 2).
96. Tôn Phương Lan (2010), Một cách nhìn về đổi mới tiểu thuyết chiến
tranh,
97. Phạm Gia Lâm (1995), Tiểu thuyết chiến tranh Nga- Xô Viết hiện đại:
Những vấn đề thi pháp của thể loại, Tạp chí Văn học (số 11), tr.37.
98. Nguyễn Văn Linh (1987), Nói chuyện với văn nghệ sĩ, Báo Văn nghệ, (số
11), tr.2- 7.
99. Phong Lê (1980), Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội
chủ nghĩa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
100. Phong Lê (1993), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
101. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình thế kỷ XX, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
102. Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại – Nghĩ tiếp, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
156
103. Phong Lê (2009), Hiện đại hóa và đổi mới văn học Việt Nam thế kỷ
XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
104. Phong Lê (2010), Tiểu thuyết viết về chiến tranh nhìn từ hôm nay, Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, Xuân Canh Dần, tr. 48.
105. Nguyễn Trường Lịch (2006), Đôi điều về tiểu thuyết trong bối cảnh
giao lưu văn hoá, http:// www.vienvanhoc.org.vn.
106. Nguyễn Văn Long (1981), Cuộc chiến tranh chống Mĩ và những trang
văn xuôi hôm nay, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 7).
107. Nguyễn Văn Long (1985), Văn xuôi sau 1975 viết về cuộc kháng chiến
chống Mỹ, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 4), tr.116- 122
108. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
109. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (Đồng chủ biên, 2006), Văn học Việt
Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
110. Lê Lựu (2000), Thời xa vắng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
111. Nguyễn Văn Lưu (1992), Văn học cách mạng và cách mạng văn học,
Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (số 8).
112. Phương Lựu (1989), Đổi mới từ những bài học cách mạng, Báo Văn
nghệ (số 09), tr.6.
113. Phương Lựu (1995), Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại,
Nxb Văn học, Hà Nội.
114. Phương Lựu (Chủ biên, 2002), Lý luận văn học (Tái bản lần thứ 2),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
115. J.- F. Lyotard (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, (Ngân Xuyên dịch),
Nxb Tri thức, Hà Nội, tr. 55.
116. Huỳnh Lý (2009), Sự phát triển văn học từ Cách mạng tháng Tám đến
nay, Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Quyển 5 - Tập IX, Nguyễn Ngọc Thiện chủ
biên), Nxb Văn học, Hà Nội.
157
117. C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin (1977), Về văn học và nghệ thuật,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
118. Nguyễn Đăng Mạnh (1998), Văn học Việt Nam 1945 – 1975, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
119. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
120. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung
và phong cách, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
121. Thiếu Mai (1983), “Từ Dấu chân người lính đến Những người đi từ
trong rừng ra", Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 4).
122. Hữu Mai (1983), Viết về đề tài chiến tranh giải phóng, Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, (số 8), tr.113- 118.
123.Hữu Mai (1984), Chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc và trách
nhiệm của chúng ta, Báo Văn nghệ, (số 52), tr.3.
124. Hữu Mai (1985), 40 năm văn học viết về đề tài chiến tranh, thành tựu
và trách nhiệm, Nxb Văn học, Hà Nội.
125. Sương Nguyệt Minh (2004), Văn xuôi viết về người lính - Một thách đố
nhà văn, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 610).
126. Nguyên Ngọc (1983), Đôi nét về tình hình văn học và công việc của
những người cầm bút Việt Nam trong thời gian qua, Báo Văn nghệ (số 13), tr.8.
127. Nguyên Ngọc (1990), Mạnh bạo bước qua cái xấu để hướng tới cái
thiện, cái đẹp, Báo Lao động chủ nhật (số 08).
128. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò đôi nét về quy
luật phát triển, Tạp chí Văn học (số 4).
129. Nguyên Ngọc (2000), Đất nước đứng lên, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
130. Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hoá, văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
131. Phạm Xuân Nguyên (2010), Người Mĩ nghĩ gì về Nỗi buồn chiến
tranh,
158
132. Vương Trí Nhàn (Sưu tầm và biên soạn, 1996), Khảo về tiểu thuyết,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
133. Vương Trí Nhàn (2009), Phê bình và tiểu luận, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
134. Trần Thị Mai Nhân (2007), Quan niệm về tiểu thuyết trong văn học Việt
Nam giai đoạn 1986 – 2000, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 7).
135. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại, văn học Việt Nam giao lưu
gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.
136. Nhiều tác giả (1972), Về văn hóa văn nghệ, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
137. Nhiều tác giả (1990), Hội thảo về tình hình văn xuôi hiện nay, Báo Văn
nghệ (số 14- 15).
138. Nhiều tác giả (1991), Thảo luận về tiểu thuyết Thân phận của tình yêu,
Báo Văn nghệ (số 37).
139. Nhiều tác giả (1995), Nguyễn Minh Châu – Kỷ yếu 5 năm ngày mất,
Hội Nhà văn Nghệ An xuất bản, Nghệ An.
140. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng
8, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
141. Nhiều tác giả (1996), Một thời đại mới trong văn học, Nxb Văn học, Hà
Nội.
142. Nhiều tác giả (1997), Kỷ yếu hội thảo Việt Nam - Nửa thế kỷ văn học:
1945 – 1995 (26/9/1995), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
143. Nhiều tác giả (1998), Hội thảo về tiểu thuyết, Báo Văn nghệ (số 3).
144. Nhiều tác giả (2001), Những vấn đề lý thuyết lịch sử văn học và ngôn
ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
145. Nhiều tác giả (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
146. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
147. Bảo Ninh (2009), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.
159
148. Bảo Ninh (1991), Bài ca người lính sau chiến tranh, Báo Văn nghệ (số
28).
149. Mai Hải Oanh (2007), Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết
Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp chí Văn học (số 10).
150. Nguyễn Trọng Oánh (1980), Từ tấm lòng người viết, Tạp chí Văn nghệ
quân đội (số 6).
151. Nguyễn Trọng Oánh (2007), Đất trắng (Tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
152. Nguyễn Trọng Oánh (2007), Đất trắng (Tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
153. Ngô Văn Phú (2004), Nguyễn Trọng Oánh một con người trầm lặng,
Báo Văn nghệ, (số 47), tr.19.
154. Hồ Phương (1991), Những tìm tòi không mệt mỏi, Tạp chí Văn nghệ
quân đội (số 9).
155. Hồ Phương (2001), Có gì mới trong tiểu thuyết về đề tài chiến tranh
hôm nay, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 4).
156. Hồ Phương (2002), Tản mạn về tiểu thuyết sử thi, Tạp chí Văn nghệ
quân đội (số 564).
157. G.N. Poxpelov (Chủ biên, 1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, (Trần
Đình Sử, Lại Nguyên n, Lê Ngọc Trà dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
158. Trần Huyền Sâm (2000), Bảo Ninh và nỗi ám ảnh về chiến tranh, http://
www.tapchisonghuong.com.vn.
159. Nguyễn Thanh Sơn (2000), Nỗi buồn chiến tranh đến từ đâu?, Phê bình
văn học, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
160. Trần Đăng Suyền (2004), Nhà văn, hiện thực đời sống và cá tính sáng
tạo, Nxb Văn học, Hà Nội.
161. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận văn
học (Tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
162. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
163. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học, Hà Nội.
160
164. Trần Đình Sử (Chủ biên, 2007), Tự sự học, một số vấn đề lý luận và
lịch sử, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
165. Trần Duy Thanh (1985), Đọc tiểu thuyết Đất trắng, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội, (số 4), tr.129- 131.
166. Phạm Xuân Thạch (2004), "Nỗi buồn chiến tranh viết về chiến tranh
thời hậu chiến từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới thi pháp",
167. Phạm Xuân Thạch (2014), Sự khởi sinh của tính hiện đại- trần thuật
Việt Nam trong ba thập niên đầu thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
168. Bùi Việt Thắng (1991), Văn xuôi gần đây và quan niệm con người, Tạp
chí Văn học (số 6).
169. Bùi Việt Thắng (Biên soạn, 2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
170. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
171. Nguyễn Đình Thi (1969), Công việc của người viết tiểu thuyết, Nxb
Văn học, Hà Nội.
172. Nguyễn Đình Thi (1997), Xung kích, Nxb Văn học, Hà Nội
173. Đoàn Cầm Thi (1994), Về nhân vật Phương, người phụ nữ Hà Nội và
chủ đề văn học trong Nỗi buồn chiến tranh,
174. Đoàn Cầm Thi (2004), "Chiến tranh, tình yêu, tình dục trong văn
chương Việt Nam",
175. Nguyễn Ngọc Thiện (1990), Tiểu thuyết hướng nội trong văn xuôi Việt
Nam hiện đại, Tạp chí Văn học (số 6).
176. Xuân Thiều (1998), Mấy suy nghĩ về mảng văn học chiến tranh cách
mạng, Báo Văn nghệ (số 3).
177. Bích Thu (1995), Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975
qua hệ thống mô típ chủ đề, Tạp chí Văn học (số 11).
161
178. Bích Thu (2006), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi
mới, tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 11).
179. Lý Hoài Thu (2006), Đồng cảm và sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.
262.
180. Đỗ Lai Thúy (2002), Nghệ thuật như là thủ pháp (Lý thuyết văn chương
của Chủ nghĩa hình thức Nga), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
181. Đỗ Lai Thúy (2004), Sự đỏng đảnh của phương pháp (giới thiệu 15 lý
thuyết và phương pháp nghiên cứu văn hóa, văn học của thế giới trong thế kỷ XIX,
XX), Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.
182. Đỗ Lai Thúy (2004), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn
hóa- Thông tin, Hà Nội.
183. Đỗ Lai Thúy (2010), Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy (Tư tưởng
phê bình văn học Việt Nam, một cái nhìn lịch sử), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
184. Khuất Quang Thuỵ (2004), Không phải là vấn đề đề tài, Tạp chí Văn
nghệ quân đội (số 10).
185. Phan Trọng Thưởng (1991), Đặc điểm cơ bản của sự phát triển văn học
trong điều kiện chiến tranh 1945- 1975, Tạp chí Văn học (số 1).
186. Phan Trọng Thưởng (2005), Văn học Việt Nam 60 năm nhìn lại (1945-
2005), Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 9), tr. 3- 12
187. Phan Trọng Thưởng (2013), Thẩm định các giá trị văn học, Nxb văn
học, Hà Nội.
188. Nguyễn Đình Tiến (1976), Viết về đề tài chiến tranh sau chiến tranh,
Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 9.
189. Tz. Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm
dịch), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
190. Lê Ngọc Trà (2002), Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới, Tạp
chí Văn học (số 2).
191. Vân Trang, Ngô Hoàng, Bảo Hưng (Sưu tầm và biên soạn, 1997), Văn
học 1975 – 1985 - Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
162
192. Đức Trung (1991), Chiến tranh nào? Nỗi buồn nào ?, Báo Văn nghệ
(số 43).
193. Hà Xuân Trường (1977), Đường lối văn nghệ Đảng: vũ khí, trí tuệ, ánh
sáng, (in lần thứ 2) Nxb Giáo dục, Hà Nội.
194. Nguyễn Thanh Tú (2007), Một hình dung về quá trình phát triển của
tiểu thuyết sử thi Việt Nam từ 1945 đến nay, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 669).
195. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại – Những tìm tòi đổi
mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
196. Nguyễn Thiệu Vũ (2004), Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng
và lực lượng vũ trang sau 1975- những thành tựu nghệ thuật còn bỏ lỡ, Tạp chí
Văn nghệ quân đội (số 604).
163
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hien_thuc_chien_tranh_trong_van_xuoi_viet_nam_hien_d.pdf