BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
-------------------------
Nguyễn Thị Phượng
HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH VEN ĐÔ HÀ NỘI HIỆN NAY
(Trường hợp làng Sáp Mai, xã Võng La, huyện Đông Anh, Hà Nội)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
-----------------
Nguyễn Thị Phượng
HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH VEN ĐÔ HÀ NỘI HIỆN NAY
(Trường hợ
189 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 332 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hệ giá trị gia đình ven đô hà nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợp làng Sáp Mai, xã Võng La, huyện Đông Anh, Hà Nội)
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 9229040
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Trần Ngọc Thêm
Hà Nội - 2018
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu
được sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa
ra trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.
Hà Nội, ngày 24 tháng 7 năm 2018
Tác giả
Nguyễn Thị Phượng
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................... 1
MỤC LỤC .............................................................................................................. 2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................... 3
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................... 4
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH .......... 24
1.1. Khái niệm giá trị ......................................................................................... 24
1.2. Giá trị gia đình ........................................................................................... 28
1.3. Cấu trúc giá trị gia đình .............................................................................. 30
1.4. Khu vực ven đô .......................................................................................... 32
1.5. Một số luận điểm lý thuyết ......................................................................... 34
1.6. Làng Sáp Mai và hệ giá trị gia đình truyền thống ở Sáp Mai....................... 40
Tiểu kết ............................................................................................................. 53
Chương 2: THỰC TRẠNG HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH Ở SÁP MAI HIỆN NAY ......... 55
2.1. Thực trạng hệ giá trị gia đình trong lĩnh vực văn hóa vật chất ..................... 55
2.2. Thực trạng hệ giá trị gia đình trong lĩnh vực văn hóa tinh thần ................... 66
2.3. Thực trạng hệ giá trị gia đình trong lĩnh vực văn hóa ứng xử ...................... 77
Tiểu kết ............................................................................................................. 93
Chương 3: XU HƯỚNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ THỰC TRẠNG HỆ
GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH Ở SÁP MAI ......................................................................... 96
3.1. Bối cảnh tác động đến sự biến đổi hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội
từ sau đổi mới đến nay .................................................................................. 96
3.2. Các xu hướng biến đổi của hệ giá trị gia đình ....................................... 101
3.3. Những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi hệ giá trị gia đình làng ven đô
Sáp Mai....................................................................................................... 114
Tiểu kết ....................................................................................................... 124
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 126
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................... 130
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 131
PHỤ LỤC............................................................................................................ 146
3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Ch.b: Chủ biên
GDP: Tổng sản phẩm nội địa (Gross Domestic Product)
NCS: Nghiên cứu sinh
Nxb: Nhà xuất bản
PV: Phỏng vấn
STT: Số thứ tự
TP: Thành phố
UBND: Ủy ban nhân dân
4
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tỷ lệ các hộ gia đình sở hữu các tiện nghi sinh hoạt hiện đại ................. 56
Bảng 2.2: Sự lựa chọn giá trị trong lĩnh vực văn hóa vật chất ................................ 59
Bảng 2.3: Những giá trị gia đình ven đô tiếp nhận từ đô thị ................................... 63
Bảng 2.4: Sự lựa chọn giá trị gia đình trong lĩnh vực văn hóa tinh thần ................. 67
Bảng 2.5: Mức độ tặng quà cho người thân trong gia đình ..................................... 74
Bảng 2.6: Mức độ tổ chức sinh nhật trong các gia đình .......................................... 75
Bảng 2.7: Sự lựa chọn giá trị gia đình trong lĩnh vực văn hóa ứng xử .................... 78
Bảng 2.8: Mức độ chia sẻ trong công việc nhà ........................................................... 86
Bảng 2.9: Quan niệm giá trị con cái trong gia đình ................................................ 92
Bảng 3.1: Thu ngân sách nhà nước của Hà Nội 2008- 2013 ................................... 96
Bảng 3.2: Khuôn mẫu chào hỏi và cách xưng hô ................................................. 112
Bảng 3.3. Thực trạng giáo dục giá trị gia đình truyền thống ................................. 117
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong khoảng gần hai thập niên trở lại đây, ở Việt Nam nói chung, TP Hà
Nội nói riêng đang diễn ra quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ. Công
nghiệp hóa, đô thị hóa không chỉ làm mở rộng địa giới hành chính của thủ đô Hà
Nội mà còn tạo ra sự chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, lao động nghề nghiệp,
dịch chuyển dân cư giữa khu vực nông thôn và đô thị.
Việc thu hồi đất nông nghiệp để cho mục đích sử dụng phi nông nghiệp đã
có ảnh hưởng đến đời sống của các hộ gia đình. Ở Việt Nam, từ năm 1990 đến năm
2003 đã có 697.417 ha đất đã bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, cơ sở hạ
tầng và phục vụ các mục đích phi nông nghiệp khác [62]. Theo số liệu công bố của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong khoảng thời gian từ 2001-2005, có
366.000 ha đất nông nghiệp đã được chuyển thành đất đô thị và đất công nghiệp.
Con số này chiếm 4% tổng diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam. Đồng bằng sông
Hồng dẫn đầu với con số 4,4% diện tích đất nông nghiệp của toàn khu vực được
chuyển đổi thành đất phi nông nghiệp [145].
Ở thủ đô Hà Nội, từ năm 2000 đến năm 2010, có 11.000 ha đất, chủ yếu là
đất nông nghiệp đã được chuyển đổi thành đất phi nông nghiệp để phục vụ cho
1736 dự án phát triển đô thị và khu công nghiệp. Sự chuyển đổi này ước tính sẽ làm
mất việc làm truyền thống của khoảng 150.000 hộ nông dân [144]. Cho tới đầu năm
2011, Hà Nội có tổng cộng 19 khu công nghiệp mới, sử dụng 7.526 ha đất [8, tr.13]
cùng với một khu công nghệ cao, 45 cụm công nghiệp vừa và nhỏ và nhiều khu đô
thị mới ở khu vực ven đô [75, tr.88]. Kết quả là khu vực ven đô Hà Nội đã trở thành
nơi chứng kiến một quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ; nhiều làng ven
đô thành các trung tâm công nghiệp và đô thị năng động.
Là một làng ven đô, Sáp Mai thuộc xã Võng La, huyện Đông Anh, Hà Nội
cũng nằm trong quá trình công nghiệp hóa mạnh mẽ của thủ đô với hầu hết diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi để xây dựng khu công nghiệp Bắc Thăng Long. Từ năm
6
2003, từ một địa bàn thuần nông, Sáp Mai đã nhanh chóng trở thành một khu vực
dịch vụ năng động với những nhà máy, cơ sở sản xuất nằm ngay bên cạnh làng. Cơ
cấu kinh tế của xã không còn nghiêng về nông nghiệp như trước mà đã chuyển
trọng tâm sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ.
Tác động của chuyển đổi cơ cấu kinh tế làm cho đời sống gia đình các hộ
nông dân ở Sáp Mai có sự biến đổi mạnh mẽ. Những thay đổi nhận thấy rõ nét ở
Sáp Mai là sự thay đổi về cảnh quan, tỷ lệ hộ gia đình chuyển sang làm công
nghiệp, dịch vụ, thành phần dân cư; mức sống của các gia đình; mức độ mua sắm,
tiếp cận với các loại phương tiện sinh hoạt, giải trí, thông tin liên lạc hiện đại... So
với trước kia, nhu cầu hưởng thụ các hoạt động văn hóa, nghệ thuật vui chơi giải trí
của các gia đình có sự tăng lên rõ rệt...
Cần nói ngay là sự chuyển đổi này ở Sáp Mai vẫn còn đang tiếp tục, thậm chí
mới ở giai đoạn ban đầu, nghĩa là yếu tố đô thị chưa được hình thành một cách rõ
nét, trong khi yếu tố nông thôn, nông dân vẫn chưa mất đi sự ảnh hưởng của nó.
Tình trạng quá độ từ nông thôn sang đô thị này, bên cạnh những mặt tích cực, đã
làm nảy sinh nhiều mặt tiêu cực do tác động mặt trái của quá trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa mang lại như: bạo lực gia đình, tranh chấp tài sản giữa anh em ruột thịt
có xu hướng tăng, số vụ án liên quan đến tệ nạn xã hội cờ bạc, lô đề, ma túy... đã
xuất hiện với tần suất nhiều hơn trên địa bàn xã kể từ khi có khu công nghiệp.
Song hành với sự biến đổi trong đời sống gia đình là sự biến đổi về hệ giá trị
của người dân Sáp Mai. Việc lựa chọn những giá trị hiện đại trong đời sống vật chất
gia đình thay thế cho những giá trị truyền thống diễn ra khá nhanh và triệt để. Trong
quan hệ gia đình, sự biến đổi về giá trị diễn ra chậm hơn. Bên cạnh việc du nhập
một số giá trị mới như bình đẳng giới, quyền trẻ em... một số giá trị truyền thống đã
được người dân tái cấu trúc lại và cấp thêm ý nghĩa cho phù hợp với bối cảnh mới.
Nhìn nhận sự vận động của hệ giá trị gia đình ở Sáp Mai hiện nay và đặt chúng
trong bối cảnh đặc thù của làng là phi nông nghiệp hóa cho thấy một thực tế khá rõ:
việc đón nhận các giá trị mới và cải biến các giá trị gia đình truyền thống đã dẫn
đến những thay đổi quan trọng trong hành vi ứng xử và lối sống của gia đình nơi
7
đây. Như chúng ta biết, một số lý thuyết hiện đại về giá trị - tiêu biểu là Inglehart và
Baker [118], Tarkhnishvili và Tevzadze [134] đã nhận định rằng, trong xã hội hiện
đại, các giá trị truyền thống sẽ bị thay thế bởi các giá trị hiện đại và mất đi vai trò
vốn có của nó. Cụ thể là vai trò thống trị của nam giới, sự coi trọng quyền cha mẹ
và đời sống gia đình suy yếu, thay vào đó là giá trị tập trung vào cá nhân. Những xã
hội có mức an sinh xã hội thấp thường tập trung vào những an toàn về kinh tế và vật
chất hơn là những giá trị khác. Và khi kinh tế xã hội phát triển, sẽ xuất hiện giá trị
tự biểu hiện. Nói cách khác, tiền sẽ giúp cho con người có sự lựa chọn, và giá trị
của họ là dùng sự lựa chọn đó để tự biểu hiện. Với việc nghiên cứu hệ giá trị gia
đình ở Sáp Mai hiện nay sẽ phần nào kiểm chứng những quan điểm lý thuyết này,
xem trên thực tế nó có những điểm gì giống và khác nhau so với những xu hướng
biến đổi giá trị gia đình trên thế giới.
Với các lý do trên, Hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội hiện nay (trường hợp
làng Sáp Mai, xã Võng La, Đông Anh, Hà Nội) đã được chọn làm đề tài nghiên cứu
của luận án này. Và do gia đình ven đô nói chung, gia đình ở Sáp Mai nói riêng
đang nằm trong quá trình chuyển tiếp từ nông thôn sang đô thị, từ truyền thống sang
hiện đại, vì vậy trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi luôn nhìn nó trong sự vận
động và biến đổi, đặt trong mối liên hệ với công nghiệp hóa và đô thị hóa.
2. Tình hình nghiên cứu
Với nội dung trọng tâm là quá trình động của hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội
từ sau đổi mới đến nay, bên cạnh các công trình nghiên cứu về giá trị gia đình, đề tài
luận án có mối liên hệ gần gũi với các công trình nghiên cứu sự biến đổi của gia đình
Việt Nam nói chung, đặc biệt là gia đình ở vùng ven đô trong bối cảnh công nghiệp
hóa và hiện đại hóa. Do đó, trong phần tổng quan vấn đề, đối với các nghiên cứu
quốc tế, luận án sẽ ưu tiên cho các công trình nghiên cứu sự biến đổi giá trị gia đình,
đặc biệt là ở khu vực châu Á và Đông Nam Á. Đối với các nghiên cứu trong nước,
luận án sẽ điểm qua các công trình nghiên cứu về gia đình ở đồng bằng sông Hồng
trước khi tập trung giới thiệu các công trình nghiên cứu gia đình ở khu vực ven đô nói
chung và khu vực ven Hà Nội nói riêng, đặc biệt là từ hơn hai thập niên trở lại đây.
8
2.1. Các nghiên cứu về giá trị gia đình
Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, vấn đề giá trị từ xưa đến nay đã
được khá nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập đến. Từ cuối thế kỷ
XVIII, việc nghiên cứu giá trị đã dần phát triển thành một chuyên ngành khoa học
độc lập với tên gọi là Giá trị (Axiology). Lý thuyết về giá trị ban đầu tồn tại trong
khuôn khổ triết học, về sau mới dần tách ra và thâm nhập vào hầu như tất cả các
ngành khoa học xã hội và nhân văn [84, tr.30].
Đã có nhiều học giả trên thế giới và Việt Nam bàn về giá trị dưới các góc độ
triết học, tâm lý học như Immanuel Kant (1724-1804), Rudolph Hermann (1817-
1881), Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844-1900), Wilhelm Windelband (1848-1915),
Karl Heinrich Marx (1818-1883), Christian von Ehrenfels (1859-1932), Alexius
Meinong (1583-1920) John Dewey (1859-1952), George Edward Moore (1873-
1958)... Nghiên cứu về giá trị học hiện đại trên thế giới, điển hình có thể kể đến 3 học
giả là Robert.S.Hartman với cuốn Cấu trúc của giá trị: những cơ sở của giá trị học
khoa học (1967), Milton Rokeach với công trình Niềm tin, thái độ và giá trị: lý thuyết
về tổ chức và sự biến đổi (1968) và Ronald F. Inglehart, người được biết đến với tư
cách là giám đốc chương trình Điều tra giá trị thế giới (WVS) [84, tr.31 - 35].
Ở Việt Nam, có thể kể đến một số học giả tiêu biểu như Phạm Minh Hạc,
Ngô Đức Thịnh, Hồ Sĩ Quý, Trần Ngọc Thêm... Theo Ngô Đức Thịnh, giá trị là hệ
thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về bất cứ một hiện tượng
tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó là cần, là tốt, là hay, là đẹp.
Nói cách khác đó chính là những cái được con người cho là chân thiện mỹ, giúp
khẳng định và nâng cao bản chất người. Một khi những nhận thức giá trị ấy đã
hình thành và định hình thì nó chi phối cách suy nghĩ, niềm tin, hành vi, tình cảm
con người [86, tr.22]. Còn Trần Ngọc Thêm cho rằng, “Giá trị là tính chất của
khách thể được chủ thể đánh giá là tích cực xét trong so sánh với các khách thể khác
cùng loại trong một bối cảnh không gian- thời gian cụ thể” [84, tr.39].
Về giá trị gia đình, cho đến nay mới có rất ít người trực tiếp đề cập đến hoặc
đưa ra những định nghĩa cụ thể, nhưng đã có nhiều công trình có nội dung hàm
9
chứa yếu tố giá trị được biểu đạt trong các đặc điểm của gia đình về hôn nhân, về
các vai trò trong gia đình, sự lưu truyền dòng dõi, kế thừa tài sản và thờ cúng tổ
tiên... Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như Việt Nam phong tục của Phan
Kế Bính [9], Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh [1], Văn Minh Việt
Nam của Nguyễn Văn Huyên [36], và các nghiên cứu gần đây của Trần Đình Hượu
về gia đình Việt Nam với ảnh hưởng của Nho giáo [39], Trần Từ bàn về cơ cấu tổ
chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ trong đó có bàn về gia đình [94], Mai Huy Bích
bàn về đặc điểm gia đình ở đồng bằng sông Hồng [5].... Các đặc điểm chủ yếu được
đề cập trong những nghiên cứu này bao gồm: hôn nhân là việc của gia đình, chồng
là chủ gia đình, vợ phụ thuộc chồng, con cái phụ thuộc vào cha mẹ, con cái phải
vâng lời cha mẹ, coi trọng con trai, con trai được quyền thừa kế tài sản, thờ cúng tổ
tiên, tính cộng đồng gia đình...
Về hôn nhân, gia đình người Việt theo chế độ phụ quyền nên hôn nhân là ở
nhà chồng. Đặc điểm nổi trội trong hôn nhân truyền thống là hôn nhân sắp đặt với
quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Do mục đích của hôn nhân là để có con
nối dõi, do vậy việc hôn nhân là việc chung của gia tộc chứ không phải là việc cá
nhân của con cái [1, tr.83]. Trong gia đình, người gia trưởng có quyền uy tuyệt đối
ở trong nhà, có quyền sở hữu, quản lý tài sản, sở hữu vợ con và có quyền độc đoán
về việc hôn nhân của con cái... Địa vị của người đàn bà là phải tuân theo luân lý
“tam cương ngũ thường” của Nho giáo, luôn phụ thuộc vào đàn ông [1, tr.91].
Trong quan hệ với cha mẹ, con cái luôn ở địa vị phụ thuộc. Cha đối với con
cái phải nghiêm, con đối với cha phải hết sức hiếu. Con cái phải kính trọng và vâng
lời cha mẹ, phải nuôi dưỡng ông bà cha mẹ... Ngoài ra anh em phải sống hòa thuận,
anh yêu mến em, em kính trọng anh [36, tr.87].
Do mục tiêu của hôn nhân là lưu truyền dòng dõi nên giá trị con trai trong gia
đình luôn được coi trọng. Đối với người chồng, hôn nhân đánh dấu việc anh ta đạt địa
vị người lớn, nhưng chỉ khi có con trai anh ta mới hoàn thành nghĩa vụ với dòng dõi,
địa vị của anh ta mới trở nên trọn vẹn. Còn với người vợ, khi sinh được con trai mới
có thể được an toàn trong nhà chồng [7, tr.25]. Xưa kia, nếu vợ chính vợ lẽ đều không
10
có con trai mà người chồng đã già thì phải nuôi một người con trai trong họ hàng là
người thừa tự, xem như con đích của mình [1, tr.105]. Việc thừa kế tài sản trong gia
đình cũng lấy con trai làm chủ, đặc biệt là con trai trưởng. Tuy nhiên luật pháp và
phong tục không tuân thủ chặt chẽ theo nguyên lý ấy mà vẫn cho các con trai khác
cũng như con gái đều có quyền cùng chia tài sản với con trưởng [1, tr.106-107].
Một đặc điểm quan trọng của gia đình người Việt, mà tác giả Mai Huy Bích
cho là “đặc điểm bao trùm lên các đặc điểm khác”, đó là tính cộng đồng (giá trị
cộng đồng). Phân tích của ông về các chức năng cơ bản của gia đình đã khẳng định,
điều tạo nên nét riêng của gia đình Việt Nam không chỉ ở ảnh hưởng Khổng giáo,
mà đó là tính cộng đồng, tức cơ cấu chặt chẽ đặc biệt của gia đình, buộc các thành
viên cá thể phải đặt lợi ích tập thể gia đình ở vị trí tối cao, hy sinh mọi lợi ích riêng
nếu nó trái với lợi ích chung của cả tập thể gia đình. Tính cộng đồng của gia đình
Việt Nam là sản phẩm của lịch sử xa xưa và có quan hệ mật thiết với tính cộng
đồng của xã hội Việt Nam [5, tr.14-16].
Tuy nhiên, bên cạnh những đặc điểm trên, các nghiên cứu còn cho thấy, gia
đình người Việt vẫn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ cơ tầng văn hóa bản địa, đó là chế
độ mẫu hệ [86]. Do vậy, các phong tục và pháp luật đối với đàn bà ở Việt Nam so
với luân lý có phần bớt nghiêm khắc hơn [1, tr.97- 99]. Thậm chí, người vợ Việt
Nam còn được chồng yêu mến và trân trọng, được con cái yêu quý và kính nể và chiếm
một chỗ đứng cao trong gia đình [36, tr.83]. Các nghiên cứu của Nguyễn Văn Huyên,
Trần Đình Hượu, Nguyễn Từ Chi đều chỉ ra rằng, người vợ trong gia đình thường là
người nắm giữ “tay hòm chìa khóa” và là “nội tướng”. Các quan hệ trong gia đình cũng
có phần bình đẳng hơn rất nhiều so với cái vỏ luân lý bề ngoài [36], [39], [12].
Trên thế giới, những ý niệm về giá trị gia đình đã được các học giả quan tâm
từ những thập niên 50, 60 của thế kỷ trước khi công nghiệp hóa phát triển mạnh mẽ
ở các nước phương Tây. Tuy nhiên phải cho đến những thập niên 90 của thế kỷ XX
trở đi, các vấn đề về gia đình và sự biến đổi của nó mới được kiểm chứng sinh động
trên thực tiễn. Các nghiên cứu về giá trị gia đình thường tập trung vào các khía cạnh
về đời sống gia đình và cấu trúc gia đình như: quan hệ hôn nhân, quan hệ trong gia
11
đình, các kiểu loại gia đình, vấn đề ly hôn... Theo Jagger và Wright, có bốn nhóm
giá trị gia đình được quan tâm bao gồm: i) giá trị gia đình truyền thống; ii) giá trị
gia đình được thể chế hóa trong hệ thống luật pháp thường được nghiên cứu trong
bối cảnh thay đổi luật pháp về gia đình với những biến đổi giá trị gia đình truyền
thống; iii) khái niệm gia đình trong mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước; iv) gia
đình trong chuyển đổi từ hiện đại đến hậu hiện đại. Đối với mỗi nhóm giá trị này lại
có những khía cạnh giá trị gia đình khác nhau. Chẳng hạn với gia đình truyền thống,
người ta quan tâm đến những khía cạnh mà con người hằng mong ước trong quan
hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau. Đối với
mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước, vấn đề trách nhiệm của nhà nước hay gia
đình trong việc chăm sóc người già và trẻ em được đặt ra. Một số giá trị gia đình có
thể cùng xuất hiện ở nhiều thời kỳ khác nhau như tình yêu, quan tâm chăm sóc, tôn
trọng lẫn nhau, trách nhiệm và sự cam kết thực hiện nghĩa vụ về lòng hiếu thảo, và
sự giao tiếp, sự chung thủy [dẫn theo 60, tr.35].
Theo Sobotka & Toulemon, các nghiên cứu ở Mỹ đã cho thấy hôn nhân đã
trở nên không có vai trò quan trọng trong sản xuất kinh tế, tiêu dùng và chuyển giao
tài sản từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hôn nhân không còn vai trò ảnh hưởng đến
mối quan hệ giữa nam và nữ, sự chuyển đổi sang giai đoạn trưởng thành của nam và
nữ. Hôn nhân cũng không còn ý nghĩa so sánh khi bàn về trải nghiệm tình dục, sắp
xếp cuộc sống, sinh con và nuôi con. Hôn nhân ngày nay không còn ý nghĩa thiêng
liêng như trước mà nó ngày càng được nhìn nhận về tính thực tiễn hơn là một thiết
chế mang tính tôn giáo [132, tr.87].
Trong nghiên cứu The most Important Person in the World: A look at
Contemporary Family value (Người quan trọng nhất trên thế giới: Nhìn vào giá trị
gia đình hiện đại) của A.Vandenheuvel cũng cho thấy, việc kết hôn để sinh con và
được an tâm hơn về mặt tài chính không còn được coi là lý do quan trọng nữa. Hôn
nhân không còn là điểm bắt đầu của việc chung sống và bắt đầu có quan hệ tình dục
giữa nam và nữ [135]. Theo Manning và cộng sự, hiện nay việc tìm hiểu và kết hôn
của thanh niên nam nữ đã có sự chuyển đổi. Thay vì từ làm quen, tìm hiểu rồi đến
12
kết hôn, họ chuyển từ tìm hiểu sang chung sống và sau đó có thể kết hôn hoặc
không. Phần nhiều những cặp nam nữ ngày nay coi sống thử và kết hôn là hai sự
việc không loại trừ nhau mà sống thử trở thành một giai đoạn diễn ra trước khi tiến
tới hôn nhân. Mô hình hôn nhân truyền thống vẫn giữ vai trò quan trọng nhưng
chung sống không kết hôn đã được chấp nhận rộng rãi [125].
Đối với châu Á, hôn nhân vẫn là một giá trị quan trọng trong quan niệm của
đa số người dân. Việc sống không kết hôn hay kết hôn quá muộn ở châu Á vẫn chưa
trở thành phổ biến. Cuộc khảo sát về giá trị gia đình được thực hiện lặp lại năm
1993 và năm 2010 ở Singapore cho thấy, trong 10 người được hỏi thì có tới 8 người
tin rằng hôn nhân là quan trọng [152]. Tuy nhiên tuổi kết hôn của thanh niên ở khu
vực này cũng ngày càng cao hơn. Các cặp vợ chồng sau khi kết hôn thường thích
sống riêng, và người vợ ngày càng tham gia nhiều hơn vào thị trường lao động bên
ngoài. Trong bài viết Late marriage and low fertility in Singapore: the limits of
policy (Hôn nhân muộn và mức sinh ở Singapore: giới hạn về chính sách)
G.W.Jones đã chỉ ra rằng, tuổi kết hôn đã tăng lên và một số người còn lưỡng lự
trong việc kết hôn bởi các vấn đề như: áp lực sinh con sau khi kết hôn, tỷ lệ ly hôn
gia tăng, và đặc biệt sự độc lập về kinh tế của người phụ nữ khi các cơ hội về học
tập và việc làm của họ ngày càng mở rộng... [120].
2.2. Các nghiên cứu về sự biến đổi giá trị gia đình
2.2.1. Các nghiên cứu về sự biến đổi giá trị gia đình trên thế giới
Để nghiên cứu các chiều cạnh biến đổi giá trị gia đình, các nhà xã hội học
cũng như nhân học trên thế giới thường gắn nó với sự phát triển, với công nghiệp
hóa, đô thị hóa - biểu hiện cơ bản của hiện đại hóa cũng như sự chuyển đổi xã hội.
Ít công trình nào khảo sát về biến đổi mà lại chỉ quan tâm đến một khía cạnh nêu
trên mà thường xuyên có sự gắn kết tương hỗ nhất định. Một số vấn đề cơ bản
thường thu hút các nhà nghiên cứu trong suốt nửa sau thế kỷ XX và vẫn phổ biến
hiện nay đó là vấn đề biến đổi giá trị trong hôn nhân gia đình. Sự biến đổi này
thường thể hiện trong các quan niệm về ý nghĩa của hôn nhân thông qua các chỉ báo
về sinh đẻ và việc nuôi dưỡng con cái, sự lựa chọn nơi ở sau kết hôn, vai trò của sự
tham gia lao động xã hội của phụ nữ trong hôn nhân...
13
Về biến đổi giá trị gia đình, đáng chú ý nhất là các nghiên cứu về sự biến đổi
vai trò giới. Nghiên cứu của G.Kaufman [121] và J.L. Rhoden [130] đã đề cập đến
những thay đổi vai trò của nam giới và phụ nữ ở nhà và nơi làm việc đã có tác động
đến đời sống gia đình nói chung và các giá trị trong quan hệ vợ chồng nói riêng.
Đặc biệt các tác giả đã đi sâu phân tích về sự độc lập về kinh tế của người phụ nữ
dẫn đến những biến đổi vai trò của họ trong gia đình như: có nhiều lựa chọn cho cuộc
sống cá nhân hơn, người phụ nữ cũng không phải cố gắng để cân bằng giữa đời sống
gia đình và công việc - điều hoàn toàn khác với mô hình hôn nhân truyền thống.
Bên cạnh đó các tác giả như Vandenheuvel, Kim và Hopped-Graff cũng đã
đi sâu nghiên cứu về sự biến đổi của giá trị con cái trong gia đình ở các nước châu
Á, về vai trò của người mẹ trong truyền thống và gia đình Hàn Quốc hiện đại..,
trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến giá trị tinh thần của đứa con, xem đó như là một
nhân tố làm cho cuộc sống gia đình trở nên phong phú hơn. Con cái ngày càng có ý
nghĩa về mặt tình cảm hơn là sự đầu tư về kinh tế [123], [135].
Nghiên cứu của East West Center còn đề cập đến sự suy giảm giá trị bền
vững của gia đình, thể hiện trong quan niệm của mọi người về ý nghĩa của gia đình,
về tỉ lệ ly hôn và sự hài lòng về đời sống gia đình... trong các xã hội hiện đại ở châu
Á như Hàn Quốc, Nhật Bản [110].
Có thể nói, các nghiên cứu quốc tế về biến đổi giá trị gia đình cho thấy,
đang có sự giao thoa mạnh mẽ giữa truyền thống và hiện đại ở các nước trên thế
giới như châu Âu, Mỹ nói chung và các nước công nghiệp mới ở châu Á nói
riêng, thể hiện trong sự biến đổi về vai trò giới, các quan niệm về giá trị con cái,
về giá trị bền vững của gia đình và ly hôn... Các nghiên cứu nói trên đã giúp
nghiên cứu sinh có cái nhìn so sánh trong nghiên cứu về giá trị gia đình giữa các
khu vực trên thế giới, tiếp nhận các lý thuyết và các phương pháp nghiên cứu
hiện đại để phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
2.2.2. Các nghiên cứu về sự biến đổi giá trị gia đình ở Việt Nam
Trong thời gian qua, cùng với sự biến đổi trong đời sống gia đình, hệ giá trị gia
đình của người Việt đã trải qua một quá trình biến đổi sâu sắc và được nhiều chuyên
ngành khoa học quan tâm nghiên cứu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
14
Một số nghiên cứu và những cuộc điều tra quy mô lớn gần đây, hệ giá trị gia
đình và sự biến đổi của nó trong xã hội đương đại cũng được gián tiếp đề cập như:
Điều tra gia đình Việt Nam 2006 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ
quan khác (2008), Điều tra cơ bản về bình đẳng giới (2005) của Viện Khoa học xã
hội Việt Nam tại 13 tỉnh thành phố của Việt Nam; Điều tra cơ bản về gia đình Việt
Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước của Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ thực hiện năm
2000 tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam; các nghiên cứu liên ngành về gia đình nông
thôn Việt Nam trong chuyển đổi thuộc Chương trình hợp tác nghiên cứu Việt Nam -
Thụy Điển do cơ quan Hợp tác quốc tế Thụy Điển tài trợ và Bộ Khoa học và Công
nghệ quản lý và thực hiện trong giai đoạn từ 2004- 2010; Điều tra về mối quan hệ
vợ chồng trong gia đình của Viện nghiên cứu Gia đình và Giới thực hiện năm 2011
tại Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc.... Các cuộc điều tra nói trên, cùng với các công trình
nghiên cứu, đã cung cấp một bức tranh toàn diện về những thay đổi trong các mối
quan hệ hôn nhân gia đình ở Việt Nam cũng như vai trò và trách nhiệm của mỗi
thành viên, góp phần làm sáng tỏ những thay đổi về giá trị chuẩn mực của gia đình
dưới tác động của công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Trong nghiên cứu Gia đình Việt Nam và một số vấn đề đang đặt ra hiện nay,
Nguyễn Hữu Minh đã chỉ ra một số vấn đề quan trọng của gia đình hiện nay trong
quan hệ gia đình như sự biến đổi quan hệ giới và các mối quan hệ khác [53].
Nghiên cứu của Lê Ngọc Văn, cũng đi sâu phân tích sự biến đổi gia đình thể hiện
trong quyền ra quyết định, quyền sở hữu tài sản... trong gia đình trên cơ sở số liệu
Điều tra cơ bản về gia đình 2000 [100].
Vấn đề giá trị con cái, ứng xử giữa cha mẹ và con cái cũng được một số
nghiên cứu đề cập đến như: Giá trị con cái trong gia đình Việt Nam - những vấn đề
đặt ra của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới [105], Quan hệ cha mẹ - con cái vị
thành niên: cơ sở lý luận và những vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay của Đặng
Bích Thủy [87]...., qua đó chỉ ra những biến đổi căn bản trong ứng xử giữa cha mẹ -
con cái và việc đón nhận các giá trị mới của gia đình.
15
Một số chuyên luận gần đây về đời sống văn hóa và quan hệ giữa người cao
tuổi với con cháu trong xã hội Việt Nam hiện nay của Lê Ngọc Lân [48], Lê Ngọc
Lân, Nguyễn Hữu Minh, Trần Quý Long [49] đều đi sâu phân tích vai trò, vị thế của
người già và mối quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu trong gia đình hiện nay.
Việc điểm qua các công trình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề giá trị gia
đình từ trước đến nay hầu hết mới chỉ được đề cập một cách gián tiếp trong các
công trình nghiên cứu về gia đình. Việc nghiên cứu hệ giá trị gia đình một cách hệ
thống với cơ sở lý luận và khung phân tích cụ thể mới lần đầu tiên được tiến hành
năm 2015 mang tên Hệ giá trị gia đình Việt Nam dưới góc nhìn xã hội học của
nhóm tác giả Lê Ngọc Văn và cộng sự. Ở đây, các tác giả đã đặt hệ giá trị gia đình
trong khung lý thuyết hiện đại hóa và lý thuyết nhóm để giải thích sự vận động và
biến đổi của nó trên ba chiều cạnh là sự biến đổi giá trị gia đình trong đời sống vật
chất, trong đời sống tinh thần - tâm linh và trong ứng xử gia đình [103].
Như vậy có thể thấy, cho đến nay vấn đề hệ giá trị gia đình Việt Nam căn
bản vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu một cách độc lập, mặc dù so với trước, các
chiều cạnh của hệ giá trị gia đình đã được gián tiếp đề cập một cách phong phú đa
dạng hơn. Trong các công trình trên đã chứa đựng những phân tích đáng chú ý về
hệ giá trị gia đình Việt Nam trên các phương diện đồng đại cũng như lịch đại. Các
nghiên cứu này đã gợi mở cho nghiên cứu sinh trong các cách tiếp cận khác nhau về
nghiên cứu giá trị gia đình và có được cái nhìn tổng thể về bức tranh chuyển đổi giá
trị gia đình ở Việt Nam hiện nay.
2.3. Các nghiên cứu về khu vực ven đô và biến đổi gia đình ven đô Hà Nội
Cho đến nay, khu vực ven đô là nơi thu hút được khá nhiều sự quan tâm
n..., tr.24].
Theo Phạm Côn Sơn, gia lễ với bốn nội dung chính là quan - hôn - tang - tế
(vào Việt Nam nó được rút gọn thành hôn - tang - tế) là một giá trị quan trọng, có
ảnh hưởng sâu sắc tới phẩm cách, cuộc sống của con người Việt Nam. Trong một
gia đình có truyền thống đạo đức, gia lễ luôn được tôn trọng hàng đầu [73, tr.7].
Còn Vũ Khiêu lại nhấn mạnh đến giá trị hiếu - đễ của gia đình. Theo tác giả, trong
ba mối quan hệ (cha con, vợ chồng, anh em) làm nên cái gọi là “gia đạo chính” ấy
thì quan hệ cha con, anh em tiêu biểu bằng chữ hiếu và chữ đễ, đã được Nho giáo
tôn lên rất cao, đặt vào một vị trí đặc biệt quan trọng, trở thành cốt lõi của các quan
hệ trong toàn xã hội (ngũ luân). Nho giáo đặt vấn đề “có được hiếu đễ thì có được
các đức khác. Hiếu đễ là cái gốc mà người quân tử phải nắm lấy, vì cái gốc được
vững tốt, tự nhiên đạo lý từ đó mà sinh ra” [46, tr.140-142].
Trong công trình Đến hiện đại từ truyền thống, Trần Đình Hượu khi phân
tích các mối quan hệ trong gia đình truyền thống đã chỉ ra ba giá trị văn hóa quan
trọng của gia đình đó là tình, nghĩa và lễ [40, tr.334].
30
Từ góc tiếp cận Tâm lý học, Nguyễn Khắc Viện trong công trình nghiên cứu
của mình cũng nêu ra 10 đặc điểm (cũng là những giá trị) của gia đình hiện đại
gồm: Vợ và chồng có quyền ngang nhau về công việc, về tiến thân nghề nghiệp và
hoạt động xã hội; Việc sinh đẻ được giới hạn theo quan niệm của vợ chồng, thường
là đẻ ít con; Việc giáo dục con cái chú trọng tới những lợi ích và ý kiến của con cái,
giáo dục chủ yếu bằng sự nêu gương, cả vợ và chồng đều chăm lo giáo dục con cái;
Về sinh hoạt có sự phân phối linh hoạt về các nghĩa vụ giữa vợ và chồng; Phúc lợi
vật chất do hoàn cảnh nghề nghiệp và khả năng kiếm tiền của cả hai vợ chồng; Sự
giao tiếp vợ chồng mang tính chất bè bạn, bao dung; Vợ chồng cùng nhau quyết
định những công việc gia đình sau khi bàn bạc chung, mỗi bên có thể đóng vai trò
chủ yếu tùy theo lĩnh vực; Thực hiện sự kiểm soát giống nhau đối với những hành
vi chệch khỏi những chuẩn mực xã hội của vợ hay chồng; Vợ chồng đối xử với
nhau tình cảm, có tính tới đặc thù của nam giới và nữ giới; Về đời sống tình dục có
sự tách rời giữa tính dục và sinh đẻ, tính tích cực tính dục của phụ nữ tăng lên, chấp
nhận quan hệ tính dục trước hôn nhân trên cơ sở tình yêu, quan hệ tính dục ngoài
hôn nhân của cả hai bên đều bị lên án [105, tr.107-108].
Theo Lê Ngọc Văn, giá trị gia đình là những ý niệm, quan niệm về những
điều được coi là tốt đẹp, đáng mong ước trong cuộc sống nội tâm của mỗi thành
viên [102, tr.6].
Như vậy, khái niệm giá trị gia đình hàm chỉ những gì được con người đánh
giá là tích cực trong đời sống gia đình trong một không gian và thời gian nhất định,
và sự đánh giá ấy chi phối sự lựa chọn, các cách thức và mục tiêu hành động của
thành viên trong đời sống và trong quan hệ gia đình.
1.3. Cấu trúc giá trị gia đình
Về cấu trúc, các tác giả đi trước cũng đã đưa ra một số cách phân loại về giá
trị gia đình. Chẳng hạn trong nghiên cứu về việc phát huy những giá trị truyền
thống của gia đình Việt Nam, Nguyễn Linh Khiếu đã nhấn mạnh đến giá trị kinh tế
gia đình; giá trị đạo đức của gia đình; giá trị phát triển con người của gia đình; và
giá trị cộng đồng của gia đình [47]. Theo Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, giá trị gia đình
31
biểu hiện ở tổ chức kiến trúc sinh hoạt gia đình; giá trị cấu trúc gia đình; giá trị đạo
đức trong văn hóa gia đình; và giá trị trong phong tục tập quán gia đình [30]. Từ
góc tiếp cận xã hội học, Lê Ngọc Văn (2014) cho rằng, có 3 hợp phần cơ bản trong
giá trị gia đình Việt Nam gồm: i) Hợp phần thuộc lĩnh vực kinh tế - vật chất - thể
chất: bao gồm những giá trị thiết yếu đảm bảo sự tồn tại của con người bao gồm: ăn
ngon mặc đẹp, có nhà ở, chỗ ở riêng; đủ tiện nghi sinh hoạt; có việc làm, thu nhập
ổn định; có việc làm theo sở thích; sở hữu phương tiện đi lại; khỏe mạnh; trường
thọ; có tài sản để dành, sống trong môi trường tự nhiên ôn hòa, không ô nhiễm; (ii)
Hợp phần về đời sống tinh thần - tâm linh - tín ngưỡng, bao gồm: tôn trọng lễ giáo;
hiếu kính với tổ tiên; con cái chăm ngoan, học hành tấn tới; có người nối dõi tông
đường; ăn ở hiền lành để phúc cho con; tâm hồn thanh thản, nhẹ nhõm; sẵn sàng
đón nhận cái mới; có điều kiện nghỉ ngơi thư giãn; được tự do tín ngưỡng theo quan
niệm sống của mình; (iii) Hợp phần trong quan hệ ứng xử giữa người với người,
bao gồm: vợ chồng chung thủy; có con trai con gái đầy đủ; anh em hòa thuận; cha
mẹ nhân từ, con cháu hiếu thảo; mọi người có trách nhiệm với nhau; bình đẳng nam
nữ; cha mẹ già sống cùng con cháu; có uy tín trong cộng đồng; quan hệ họ hàng,
láng giềng tốt, môi trường xã hội an ninh đảm bảo [102, tr.6].
Kế thừa cách làm của các học giả tiền bối, đặc biệt là trên cơ sở cách phân
loại của các tác giả cũng như tham khảo ý kiến của cộng đồng trong quá trình thực
địa, ở đây chúng tôi sẽ xem xét hệ giá trị gia đình trên ba phương diện chính: Giá trị
gia đình trong lĩnh vực văn hóa vật chất và giá trị gia đình trong đời sống tinh thần
và giá trị gia đình trong văn hóa ứng xử. Sự phân loại này chỉ mang ý nghĩa tương
đối. Tuy nhiên, với bản chất tương tác qua lại giữa các bộ phận trong tổng thể hệ
giá trị gia đình, trong quá trình phân tích, người viết sẽ cố gắng chỉ ra mối liên hệ
hữu cơ giữa các bộ phận giá trị này. Mặt khác, do hệ giá trị gia đình là động cơ
quan trọng trong định hướng hành vi và lối sống, nên ở chương hai chúng tôi sẽ chú
trọng phân tích quá trình chuyển đổi hệ giá trị gia đình từ sau đổi mới với những hệ
quả mà nó mang lại, đặc biệt là từ đầu thập niên 2000 cho đến nay.
32
1.4. Khu vực ven đô
Khu vực ven đô và nội hàm của nó là một khái niệm mang tính lý luận quan
trọng của luận án. Theo Nguyễn Văn Sửu, trên thực tế, khu vực ven đô không phải
là một khu vực hành chính riêng biệt, khi hiện nay chỉ có sự phân định hành chính
giữa nông thôn và đô thị, giữa làng xã và thành phố, giữa nông dân và thị dân...
song khu vực ven đô lại là một khái niệm học thuật được nhiều học giả bàn đến ở
nhiều chiều cạnh khác nhau khi phân tích và diễn giải về những chuyển đổi diễn ra
không nằm gọn trong mỗi khu vực nội thành và ngoại thành cũng như mối quan hệ
và sự tương tác giữa hai khu vực này trong bối cảnh mối quan hệ giữa nông thôn và
thành phố ngày càng trở nên khăng khít, làm xuất hiện tính đô thị ở khu vực nông
thôn và nông thôn ở khu vực thành phố [75, tr.65].
Về khái niệm ven đô, khi nghiên cứu về quá trình đô thị hóa ở Việt Nam,
Michael Leaf (2008) đã dùng thuật ngữ “peri-urban” để chỉ khu vực ven đô trong
mối tương quan phân biệt với “suburban” là khu vực ngoại ô. Ông cho rằng “ven
đô” dường như mang tính ngoại vi nhiều hơn “ngoại ô” [127]. Terry McGee trong
nghiên cứu của mình cũng đã dùng thuật ngữ “new urbanism” để chỉ một hình thức
đô thị mới dựa trên một sự tương tác chặt chẽ của con người và các hoạt động trong
một khu vực rộng đang phát triển. Theo tác giả, các quá trình hình thành nên
“những vùng đô thị mở rộng” chính là các mối liên kết năng động giữa nông nghiệp
và phi nông nghiệp, được gọi là những khu vực hay cộng đồng có sự xen kẽ giữa
tính đô thị (urbanity) và tính nông thôn (rurality) [126, tr.95]. Nói cách khác, “ven
đô” (peri-urban area) là điểm nằm ở giữa thành phố và nông thôn, kết nối giữa
thành phố với nông thôn và ngược lại.
Trong các nghiên cứu của Ngô Văn Giá [21], Nguyễn Văn Sửu [75], khái
niệm khu vực ven đô được dùng để chỉ một khu vực địa lý cận kề với thành phố,
thuộc cả phạm trù thành phố và phạm trù nông thôn, là nơi tồn tại đan xen giữa các
đặc tính đô thị và các đặc tính nông thôn, của truyền thống và hiện đại, kết nối nông
thôn và thành phố, là nơi diễn ra quá trình đô thị hóa, chứng kiến sự mở rộng của
thành phố sang nông thôn [75, tr.74].
33
Các tác giả nói trên đều thống nhất rằng, sự phân chia nông thôn - đô thị chỉ
là một cách phân chia hành chính đơn giản, trên thực tế chưa lột tả hết được “những
mối quan hệ và sự tương tác giữa hai khu vực này” ở một khu vực kết nối đó là khu
vực ven đô [75, tr.65].
Theo Nguyễn Thị Phương Châm và Đỗ Lan Phương, một số nhà nghiên cứu
khác không sử dụng thuật ngữ ven đô mà dùng thuật ngữ làng xã ngoại thành (Trần
Đức Ngôn [57]) hay vùng đô thị hóa (Nguyễn Đình Tuấn [92]) hoặc những làng
quê chuyển đổi từ xã lên phường (Trần Thị Hồng Yến [108])... song nội hàm của
những thuật ngữ này cũng đều chỉ ra một khu vực trung chuyển, giao thoa, tương
tác giữa nông thôn và đô thị [11, tr.51].
Ven đô cũng là một khu vực địa lý rất dễ thay đổi, tùy theo chính sách phát
triển đô thị cũng như quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nông thôn. Theo
Michael Leef, đặc trưng của khu vực ven đô là một vùng có cảnh quan năng động,
hỗn độn, chắp vá và liên tục biến đổi [127, tr.532]. Tuy nhiên, ranh giới của khu
vực ven đô được nhìn nhận từ ba phương diện: thứ nhất, đó là nơi mà chức năng
của đô thị không ngừng được mở rộng ra bên ngoài, thể hiện qua việc dân số tăng
nhanh, cư trú xen kẽ giữa cư dân bản địa và cư dân từ đô thị ra, từ nông thôn vào;
sự suy giảm của các hoạt động nông nghiệp và sự gia tăng của các hoạt động phi
nông nghiệp; sự biến đổi về văn hóa- xã hội và lối sống; Thứ hai, khu vực ven đô
cũng có thể chịu tác động của toàn cầu hóa, nói cách khác, khu vực ven đô trong
quá trình đô thị hóa có thể trở thành vùng công nghiệp, nơi xây dựng các khu vui
chơi giải trí, thị trường bất động sản nhộn nhịp, chính vì thế thu hút nguồn vốn đầu
tư trực tiếp từ nước ngoài. Thứ ba: ranh giới (địa giới) hành chính có thể được thay
đổi bằng việc mở rộng hay thu hẹp địa giới của các đơn vị hành chính, và tùy theo
đặc điểm kinh tế, chính trị của mỗi địa phương trong quá trình đô thị hóa mà có sự
khác nhau [dẫn theo 75, tr.67].
Về đặc trưng, khu vực ven đô là một không gian đô thị hóa năng động, linh
hoạt và dễ biến đổi, là nơi thành phố và nông thôn đụng độ, giao thoa với nhau như
Michael Leef và Terry McGee đã chỉ ra. Đây cũng là nơi bao gồm toàn diện hơn
34
các hoạt động kinh tế và chịu tác động của quá trình đô thị hóa, là nơi đa dạng về
dân cư khiến cho các quan hệ xã hội trở nên đa chiều và phức tạp, lối sống cũng có
sự pha trộn giữa đô thị và nông thôn [63, tr.18]. Theo Trần Đức Ngôn [57], Nguyễn
Thị Phương Châm và Đỗ Lan Phương [11] thì các làng xã ngoại thành có thành
phần cư dân đa dạng, có tính năng động, nhạy bén cao và vì vậy trong kinh tế cũng
phát triển hơn các khu vực nông thôn khác.
Cư trú trong khu vực ven đô, các gia đình trong khu vực này cũng mang
những nét đặc trưng của vùng, đó là có sự quá độ từ gia đình nông thôn sang gia
đình đô thị, đan xen giữa đặc tính của gia đình nông thôn và gia đình đô thị, thể hiện
trong một số đặc điểm sau:
- Mô hình gia đình, chủ yếu là gia đình hạt nhân
- Chuyển từ gia đình sản xuất sang gia đình tiêu thụ
- Chuyển đổi về cơ cấu việc làm từ làm nông nghiệp sang phi nông nghiệp
- Quan hệ gia đình chuyển từ gia đình gia trưởng sang gia đình dân chủ bình đẳng.
- Không gian sống, lối sống có sự đan xen giữa nông thôn và đô thị
Như vậy có thể nói, ven đô là khu vực nằm tiếp giáp giữa nông thôn và đô thị, đóng
vai trò to lớn đối với sự phát triển của cả thành phố và và vùng nông thôn. Thực tiễn thủ đô
Hà Nội cho thấy, nhiều vùng ngoại thành chỉ sau hơn chục năm phát triển đã trở thành
những khu vực hiện đại, và các hộ gia đình nông dân ven đô cũng từng bước hội nhập để trở
thành cư dân đô thị, thể hiện trong những thay đổi về nhu cầu, nhận thức xã hội, quan hệ xã
hội, và đặc biệt là sự lựa chọn phương thức sống thích nghi với điều kiện mới. Và các hộ gia
đình ở Sáp Mai được chọn trong nghiên cứu này cũng là một cộng đồng nông dân ven đô
như vậy của Hà Nội. Chúng tôi sẽ tìm hiểu về sự chuyển đổi hệ giá trị gia đình và tiếp tục
thảo luận về các đặc trưng ven đô mà các nghiên cứu trước đã bàn đến.
1.5. Một số luận điểm lý thuyết
Với nội dung chính của luận án là quan tâm đến thực trạng hệ giá trị gia đình
ven đô hiện nay, tức là quan tâm đến quá trình động của nó trong bối cảnh đương
đại, vì vậy luận án đặc biệt quan tâm đến một số lý thuyết và luận điểm biến đổi giá
trị văn hóa, gia đình trong bối cảnh chuyển đổi xã hội hiện nay làm cơ sở lý luận
35
chủ yếu. Đó là các luận điểm về biến đổi giá trị, biến đổi gia đình với các học giả
tiêu biểu như Ronald Inglehart, Wayne E Baker, Tarkhnishvili & Tevzadze và
William Goode...
1.5.1. Lý thuyết hiện đại hóa và các luận điểm về biến đổi giá trị
Hiện đại hóa là một lý thuyết đã phát triển ở phương Tây từ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX và đã trải qua nhiều giai đoạn từ cổ điển đến hiện đại và hậu hiện đại
với nhiều tác giả thuộc lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau bàn luận về nó (Samuel
P.Huntington, 1971; K.Marx, 1973; Ronald Inglehart, 2008...). Ý tưởng trung tâm
của thuyết hiện đại hóa cho rằng, công nghiệp hóa có liên quan tới những quá trình
biến đổi xã hội- chính trị có thể áp dụng rộng rãi. Phát triển kinh tế liên quan đến
một loạt các biến đổi bao gồm không chỉ công nghiệp hóa mà cả giáo dục phổ cập,
chuyên môn hóa nghề nghiệp, sử dụng khoa học công nghệ, quan liêu hóa và phát
triển truyền thông. Những tiến trình này, đến lượt chúng lại có liên quan đến những
biến đổi văn hóa xã hội và chính trị còn rộng lớn hơn [45, tr.30].
Khi bàn về Hiện đại hóa, biến đổi văn hóa và sự tồn tại bền vững của các giá
trị truyền thống (2000), Ronald Inglehart và Wayne E Baker đã chỉ ra rằng: sự phát
triển kinh tế - xã hội những năm gần đây được gắn với sự thịnh hành một cách đối
lập hai trường phái quan điểm: thứ nhất nhấn mạnh sự hội tụ của những giá trị như
là kết quả của hiện đại hóa, sự vượt trội của các động lực kinh tế, chính trị đã khiến
cho văn hóa biến đổi. Vì thế có thể đoán định được sự suy tàn của các giá trị truyền
thống và sự thay thế của các giá trị hiện đại. Thứ hai nhấn mạnh sự bền vững của
các giá trị truyền thống bất chấp sự biến đổi kinh tế, chính trị. Những giá trị này
tương đối độc lập với sự phát triển kinh tế. Vì thế có thể tiên đoán rằng, sự hội tụ
của một số tập hợp những giá trị hiện đại là không chắc chắn và những giá trị truyền
thống sẽ tiếp tục đưa đến sự ảnh hưởng độc lập tới sự biến đổi văn hóa có nguyên
nhân từ sự phát triển kinh tế [119, tr.20].
Về sự biến đổi giá trị dưới tác động của hiện đại hóa, R.Inglehart trong cuốn
Hiện đại hóa và hậu hiện đại hóa (2008) đã dùng khái niệm giá trị “duy vật” và giá
trị “hậu duy vật” để diễn giải sự chuyển đổi về sự lựa chọn giá trị của các thế hệ
36
trong các xã hội công nghiệp hóa, thể hiện ở hai phương diện cơ bản: từ chỗ nhấn
mạnh các giá trị về an ninh vật chất và kinh tế là trên hết sang ưu tiên các giá trị về
sự tự thể hiện và chất lượng cuộc sống [45, tr.66].
Cuộc Điều tra giá trị thế giới của các học giả nước ngoài tiến hành vào cuối
thế kỷ XX dựa trên quan điểm hiện đại hóa, đã chỉ ra rằng, các gia đình truyền
thống thường nghiêm khắc với một số hiện tượng như nạo hút thai, ly hôn và tình
dục đồng giới, nhấn mạnh vào vai trò thống trị của nam giới trong đời sống xã hội,
coi trọng quyền cha mẹ và tầm quan trọng của đời sống gia đình. Xu hướng chung
của những xã hội này là sự ưa chuộng hình thức quản trị mang tính quyền lực, thứ
bậc và rất chú trọng đến đời sống tâm linh, tôn giáo. Xã hội truyền thống luôn coi
trọng sự hy sinh của cha mẹ đối với con cái, và sự phục tùng của con đối với cha
mẹ, đặc biệt là làm cho cha mẹ được tự hào về bản thân. Con người trong xã hội
truyền thống thích gia đình quy mô lớn. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, các giá trị
truyền thống nói trên sẽ thay đổi, thay vào đó sẽ là những giá trị dựa trên và tập
trung vào cá nhân [Tarkhnishvili & Tevzadze, dẫn theo 85, tr.29]..
Cuộc điều tra nói trên cũng cho thấy, ở những xã hội có mức an sinh và phúc
lợi thấp, con người có xu hướng tập trung vào những an toàn về kinh tế và vật chất
hơn là những giá trị khác. Nói cách khác là họ quan tâm chủ yếu đến giá trị sinh tồn.
Theo Inglehart & Baker (2000), khi giá trị sinh tồn (survival values) được thừa
nhận sẽ xuất hiện giá trị tự biểu hiện (self- expression values). Ở những xã hội công
nghiệp phát triển, khi sự đa dạng được chấp nhận, người ta bắt đầu quan tâm đến
việc đi ăn nhà hàng để thưởng thức các món mới lạ hay dành dụm tiền bạc để đi du
lịch, khám phá những nền văn hóa mới. Họ không còn e ngại đối với vấn đề thay
đổi vai trò giới hay những quan niệm về tình dục như trước [119]. Sự phát triển
kinh tế - xã hội và tăng tính cơ động xã hội cũng làm củng cố mạnh mẽ những mối
quan hệ theo chiều ngang và và làm yếu đi những mối quan hệ quyền lực theo chiều
dọc, nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu mức độ tự trị của cá nhân. Những quá trình
như đô thị hóa, cơ động xã hội, đa dạng việc làm, tính đa dạng xã hội- biểu hiện của
sự phát triển kinh tế đã làm các mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân trở nên đa
dạng hơn, từ đó làm tăng những nguồn lực cá nhân [dẫn theo 85, tr.31].
37
Những luận điểm nghiên cứu nói trên chính là những căn cứ để chúng
tôi đánh giá thực trạng hệ giá trị gia đình làng ven đô Sáp Mai trong các chiều
cạnh cụ thể của nó. Từ các luận điểm giải thích nguyên nhân biến đổi giá trị áp
dụng vào luận án chúng tôi sẽ chỉ ra các tác nhân quan trọng của hiện đại hóa
dẫn đến sự biến đổi hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội hiện nay, cụ thể là:
Công nghiệp hóa, đô thị hóa với chính sách thu hồi đất nông nghiệp và phát
triển công nghiệp của nhà nước, sự chuyển đổi cơ cấu việc làm từ nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ đã tạo nên một bước ngoặt to lớn trong đời sống gia đình ở
Sáp Mai. Các hộ gia đình không những có cơ hội để chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp
nghiêng về phát triển công nghiệp và dịch vụ mà còn có khả năng tích lũy vốn và
trở thành hộ gia đình khá giả nhờ khoản tiền đền bù khá cao. Mặt khác, không gian
sống của các hộ gia đình nhìn ở vẻ bề ngoài đã không khác gì so với đô thị với
những căn nhà cao tầng, tiện nghi hiện đại. Không gian trong ngôi nhà đã có sự cá
nhân hóa rõ rệt với những phòng chức năng và phòng ngủ riêng biệt. Quá trình phát
triển kinh tế hộ, chuyển đổi cơ cấu việc làm, thay đổi không gian sống... cũng đồng
nghĩa với sự hình thành một nếp tư duy mới, một lối sống mới với những lựa chọn
giá trị mới mang màu sắc hiện đại.
Một đặc điểm nổi bật của gia đình Việt Nam truyền thống nói chung, ở làng
ven đô Sáp Mai nói riêng đó là quan niệm coi trọng cộng đồng, nhấn mạnh vai trò
của nam giới, trọng nam khinh nữ, coi trọng quyền của cha mẹ và sự tuân thủ của
con cái, lên án các hiện tượng như nạo hút thai, ly hôn... Tuy nhiên, hiện đại hóa đã
làm thay đổi phần nào các quan niệm trên khi những giá trị gia đình hiện đại đang
trở nên phổ biến với sự thay đổi các vai trò trong gia đình và giá trị cộng đồng đang
dần nhường chỗ cho những giá trị cá nhân.
Nằm trong bối cảnh chuyển đổi hiện nay, mức sống hộ gia đình ở Sáp Mai
mặc dù đã được nâng lên đáng kể so với trước song vẫn chưa có sự phát triển bền
vững, đặc biệt là các sinh kế gia đình. Do vậy mà người dân nơi đây có xu hướng
tập trung vào những an toàn về kinh tế và vật chất hơn. Tuy nhiên, ở một bộ phận
gia đình khá giả đang bắt đầu có sự quan tâm đến giá trị về chất lượng sống như:
38
tìm đến nhà hàng để thưởng thức các món ăn mới lạ hoặc dành một khoản tiền cho
du lịch hàng năm. Vai trò giới và quan điểm về tình dục đã có nhiều thay đổi theo
cách nhìn thoáng hơn. Tuổi thọ các thành viên gia đình ngày càng được nâng cao,
trình độ học vấn gia tăng, khả năng tiếp cận thông tin và tăng tính cơ động xã hội...
đã làm mối quan hệ vợ chồng ngày càng bình đẳng. Quyền uy của ông bà cha mẹ
đối với con cái ở đây đã giảm bớt nhiều. Một khi quyền bình đẳng giữa nam và nữ,
giữa già và trẻ bắt rễ sâu vào trong đời sống gia đình thì quyền tự do cá nhân của
các thành viên cũng sẽ được tôn trọng, đó cũng là cơ sở để cá nhân có nhiều lựa
chọn hành động hơn nhằm thể hiện giá trị của mình. Đây là những luận điểm xuyên
suốt luận án trong quá trình tìm hiểu và phân tích thực trạng hệ giá trị gia đình ở
Sáp Mai hiện nay.
1.5.2. Lý thuyết xã hội công nghiệp
Lý thuyết xã hội công nghiệp là lý thuyết chủ yếu đề cập đến tác động của công
nghiệp hóa đến biến đổi gia đình ở phương Tây, với các đại diện tiêu biểu là Talcott
Parsons, William Goode, E.Boss... Tuy nhiên nó cũng có tính chất gợi mở nhiều vấn
đề liên quan đến việc giải thích về thực trạng hệ giá trị gia đình ở làng ven đô Sáp
Mai. Quan điểm chính của lý thuyết này cho rằng, trước công nghiệp hóa gia đình ở
phương Tây mang hình thái mở rộng, nghĩa là nằm trong mạng lưới quan hệ thân tộc,
là đơn vị sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp, thế hệ già nắm quyền kiểm soát
cuộc sống của thế hệ trẻ, và nam giới chi phối phụ nữ. Di cư và đô thị hóa khiến gia
đình trở thành hình thái được gọi là "hạt nhân". Do công nghiệp hóa, giới trẻ nông
thôn di cư ra đô thị, thoát khỏi sự kiểm soát của thế hệ già và họ hàng, tự do lựa chọn
vợ chồng tại nơi ở mới. Đặc điểm của gia đình này là ít quan hệ với họ hàng bên
ngoài hạt nhân nói trên. Nói cách khác, công nghiệp hóa giải phóng con người vì đã
tạo ra một hình thái gia đình tự do và bình đẳng hơn [Goode, 1963, dẫn theo 7, tr.42].
Trong công trình Gia đình và quan hệ họ hàng ở phía đông Luân Đôn (1962),
Young và Willmott cũng chỉ ra rằng, ở giai đoạn thứ ba của sự phát triển lịch sử của
gia đình Anh mà họ gọi là gia đình đối xứng có sự bình đẳng hơn giữa vợ và chồng,
thể hiện ở sự phá bỏ lối phân công lao động truyền thống như phụ nữ đảm nhận việc
39
kiếm thêm thu nhập bên ngoài gia đình, và nam giới làm những công việc của phụ
nữ như làm việc nhà, đi mua hàng và chăm con... Đặc biệt trong công trình của
Boss, tác giả đã phân biệt thành hai loại quan hệ vai trò vợ chồng: các vai trò vợ
chồng tách biệt và các vai trò vợ chồng làm chung. Trong loại thứ nhất, người vợ và
người chồng có những thế giới và công việc tách biệt nhau, chỉ gắn với nhau bằng
trách nhiệm và quyền hạn qua lại với nhau. Vợ chịu trách nhiệm việc nhà, chăm sóc
con cái, chồng hỗ trợ về tài chính cho gia đình và các việc nặng trong nhà. Mỗi
người có mạng lưới bạn bè riêng. Nhưng trong loại vai trò vợ chồng làm chung, ranh
giới giữa thế giới của hai người ít rõ ràng hơn. Người vợ và người chồng có thể đổi
chỗ cho nhau, và rất mềm dẻo khi phân chia giới nào chịu trách nhiệm việc gì. Họ có
thể có bạn bè chung giải trí với nhau và ra các quyết định gia đình bình đẳng hơn
[Boss, 1957, dẫn theo 7, tr.44]. Điều này cho thấy, dưới tác động của công nghiệp
hóa, quan niệm về giá trị và các vai trò trong gia đình đã có sự thay đổi đáng kể.
1.5.3. Một số luận điểm về giá trị gia đình và khu vực ven đô
Bàn về hệ giá trị gia đình Việt Nam, một số nghiên cứu của Bùi Thị Hương
Trầm (2014), Lê Thị Hồng Hải và Mai Văn Huyên (2014), Lê Ngọc Văn và cộng sự
(2016), Nguyễn Hữu Minh (2016) cũng cho thấy quá trình hiện đại hóa đã khiến
cho hệ giá trị gia đình trở nên đa dạng, nhiều biến động, thay đổi không ngừng. Nét
nổi bật của hệ giá trị gia đình Việt Nam hiện nay là tiếp nhận những giá trị mới của
xã hội hiện đại như tôn trọng quyền con người, tôn trọng tự do cá nhân, xóa bỏ sự
khác biệt giới và sự phổ biến ưa thích những tiện nghi sinh hoạt hiện đại phục vụ
cho đời sống vật chất và tinh thần của gia đình [31, tr.71]. Tuy nhiên trong gia đình,
các giá trị truyền thống cũng vẫn được coi trọng và ưu tiên lựa chọn, trong đó các
giá trị có cội nguồn từ văn hóa bản địa có sức sống trường tồn hơn các giá trị vay
mượn từ Nho giáo [103, tr.91]. Sử dụng các luận điểm lý thuyết về biến đổi giá trị
và gia đình dưới tác động công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà các nhà nghiên cứu đã
đề cập, luận án quan tâm đến thực trạng các giá trị gia đình ở cộng đồng làng được
nghiên cứu đang vận động như thế nào trong quá trình hội nhập vào đô thị, từ đó chỉ
ra các xu hướng biến đổi của hệ giá trị gia đình và những hệ quả mà nó mang lại
trong lối sống của người dân.
40
Đối với khu vực ven đô, các luận điểm của Michael Leef, Terry McGee, Nguyễn
Văn Sửu, Nguyễn Hữu Minh, Lương Hồng Quang, Nguyễn Thị Phương Châm & Đỗ
Lan Phương... về khu vực này cũng là những luận điểm lý thuyết quan trọng được
luận án áp dụng để tìm hiểu về hệ giá trị gia đình nơi đây, đặc biệt là sự chuyển đổi
từ nông thôn sang đô thị, từ truyền thống sang hiện đại... biểu hiện trong sự lựa
chọn về giá trị gia đình của người dân cũng như các khuôn mẫu, vai trò được hình
thành từ quá trình lựa chọn đó.
1.6. Làng Sáp Mai và hệ giá trị gia đình truyền thống ở Sáp Mai
1.6.1. Vài nét về làng Sáp Mai
Làng Sáp Mai cùng với làng Võng La và Đại Độ, là ba làng cổ thuộc xã
Võng La, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, phía Bắc giáp xã Kim Chung, phía
Đông giáp làng Đại Độ, phía Tây giáp xã Đại Mạch, phía Nam giáp sông Hồng.
Hiện tại Sáp Mai là địa bàn cộng cư của 4 cụm dân cư với 1296 hộ gia đình (5.224
nhân khẩu) và gần 234,26 ha diện tích đất tự nhiên.
Theo các thư tịch còn lại đến nay cho biết, vào thời Nguyễn Sáp Mai có tên
là Quải Mai, thuộc tổng Quải Mai, trấn Sơn Tây. Đầu thế kỷ XX sáp nhập vào
huyện Đông Anh và đổi tên là làng Sáp Mai [17].
Trước cách mạng (1945) Sáp Mai là một làng quê mang những nét tiêu biểu
của một làng nông nghiệp ở châu thổ sông Hồng. Có thể nói, canh tác nông nghiệp
là hình thức sinh kế xuyên suốt lịch sử của người nông dân nơi đây, và đặc điểm
này đã chi phối đời sống văn hóa của họ.
Về các hình thức tổ chức của làng, như nét chung của các làng Việt cổ truyền
mà Trần Từ [94] và Phan Đại Doãn [16] từng đề cập, ở Sáp Mai có tập hợp người
theo địa vực (ngõ, xóm), tập hợp người theo huyết thống (gia đình, dòng họ), tập
hợp người theo lớp tuổi (giáp), tập hợp người trong những tổ chức dựa trên sự tự
nguyện tham gia của cá nhân (phe, hội, phường), và tập hợp người trong bộ máy
chính quyền cấp xã. Làng có 5 dòng họ chính là họ Hà, họ Nguyễn, họ Phan, họ Lê,
họ Trần, chia thành 4 giáp: giáp đông, giáp tây, giáp nam, giáp bắc. Ngày nay, Sáp
Mai được chia thành 4 cụm dân cư theo thứ tự từ 1- 4 trên cơ sở ba xóm cũ của làng
là xóm đồng, xóm bãi và xóm ấp.
41
Nằm ở vùng châu thổ sông Hồng, cái nôi văn hóa của người Việt, Sáp Mai
cũng có một kho tàng di sản văn hóa rất phong phú gồm lễ hội gắn với hệ thống
đình chùa của làng, các phong tục tập quán... Chùa Phong Đức được xây dựng vào
thời Mạc - Lê Trung Hưng (1527-1786), hiện đã được trùng tu tôn tạo lại và còn giữ
được 7 tấm bia đá có niên đại thời Nguyễn và một số pho tượng Phật có giá trị.
Về kinh tế xã hội và văn hóa, từ sau năm 1954 cho đến trước đổi mới năm
1986, Sáp Mai cũng nằm trong tình trạng chung của các làng xã miền Bắc, là quá
trình sản xuất tập thể hóa. Toàn bộ nông dân của làng đã trở thành xã viên của hợp
tác xã nông nghiệp, đi làm chấm công điểm, chia thóc..., các hoạt động kinh doanh
bị cấm hoàn toàn.
Về xã hội và văn hóa, cũng như nhiều làng xã khác, các thiết chế xã hội và
văn hóa cổ truyền ở Sáp Mai đã bị giải thể và thay thế bằng các thiết chế xã hội chủ
nghĩa. Và gia đình, điều mà chúng ta quan tâm lúc này cũng không tránh khỏi bị
nhìn nhận một cách lệch lạc. Được mệnh danh là “cơ sở” của chủ nghĩa cục bộ, cái
có hại cho việc xây dựng xã hội mới, gia đình lúc này không còn điều kiện tồn tại
theo ý nghĩa nguyên dạng như trước nữa, đúng như nhận định của Vũ Ngọc Khánh
rằng, người ta không còn thấy hết tầm quan trọng của gia đình mà cứ vin vào câu
“vì nước không nên nghĩ đến nhà” đến mức quên hẳn nhà mà cũng chẳng là vì
nước... Các bản gia phả bị hủy hoại, giỗ tổ ít người nhớ, thậm chí giỗ bố mẹ cũng
chỉ tổ chức qua loa [45, tr.21]. Và như một lẽ tất yếu, Sáp Mai cũng không phải là
một ngoại lệ. Tuy nhiên, nền tảng văn hóa gia đình vẫn còn duy trì được ở Sáp Mai
với một mức độ nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của gia đình.
Từ năm 1986, công cuộc đổi mới bắt đầu và tiếp theo nó là các chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đem lại
những thay đổi lớn cho nông thôn cả nước nói chung, trong đó có làng Sáp Mai và
các hộ gia đình nơi đây. Chế độ khoán ruộng đối với từng hộ gia đình được thực
hiện từ sau đổi mới khiến cho họ trở thành những đơn vị kinh tế tự chủ, làm nhanh
chóng thay đổi bộ mặt làng xã.
Từ sau những năm 90, do là một trong 6 xã của huyện Đông Anh được chính
42
phủ quy hoạch nằm trong khu đô thị Bắc Thăng Long - Vân Trì nên Sáp Mai trở
thành một làng có quá trình thu hồi đất nông nghiệp diễn ra nhanh trên một quy mô
lớn. Hiện tại cả làng chỉ còn 60 ha đất nông nghiệp, trong đó 30 ha đất trong đồng
chủ yếu là đất xen kẹt, sản xuất cho năng suất thấp, 30 ha đất bãi được giao cho các
hộ đấu thầu trồng cam, chuối và rau màu các loại, mang lại thu nhập khá cho các hộ
gia đình. Năm 2016, cả làng có tổng số 134/312 hộ chăn nuôi của cả xã, trong đó có
3 trang trại. Việc không còn đất để sản xuất nông nghiệp đã tạo nên sự chuyển đổi
đa dạng về chiến lược sinh kế với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành nghề phi
nông nghiệp tại Sáp Mai. Ngoài sản xuất nông nghiệp, trong làng hiện có nhiều
ngành nghề dịch vụ khác như cho thuê nhà trọ, mở nhà hàng, quán nhậu, kinh doanh
buôn bán nhỏ thu hút một lực lượng lớn lao động của làng. Theo báo cáo kết quả
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2016 của xã Võng La, toàn thôn Sáp
Mai hiện có 678/1401 hộ kinh doanh và 18/34 doanh nghiệp của cả xã [96, tr.2].
Đáng lưu ý là trong số các hộ làm các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ, đối
tượng làm dịch vụ xây nhà cho thuê chiếm con số áp đảo. Nhóm này bên cạnh việc
sản xuất nông nghiệp cũng đồng thời kinh doanh luôn dịch vụ cho thuê nhà. Trên
thực tế, rất nhiều hộ tuy trên giấy tờ chính thức là làm nông nghiệp nhưng từ lâu họ
đã không còn làm ... Cụm dân cư số 2 Giáo viên nghỉ hưu
12. Hà Quang Toại 83 Cụm dân cư số 4 Cán bộ nghỉ hưu
13. Hà Quang Tám 78 Cụm dân cư số 3 Hội Người cao tuổi
14. Nguyễn Tiến Thắng 40 Cụm dân cư số 2 Người dân
15. Chu Văn Định 55 Cụm dân cư số 2 Người dân
16. Nguyễn Thị Tứ 50 Cụm dân cư số 2 Người dân
17. Đường Xuân Lý 35 Cụm dân cư số 4 Người dân
18. Nguyễn Thị Thủy 46 Thôn Đại Độ Chủ tịch Hội Phụ nữ xã
19. Hà Văn Thái 59 Cụm dân cư số 1 Chủ tịch Hội Nông dân xã
20. Hà Quốc Kiên 73 Cụm dân cư số 4 Hưu trí
21. Lưu Thị Xuyến 54 Cụm dân cư số 3 Giáo viên
22. Nguyễn Thành Trung 15 Cụm dân cư số 3 Học sinh
23. Nguyễn Văn Hạnh 57 Cụm dân cư số 3 Người dân
24. Lê Thị Lý 35 Cụm dân cư số 3 Người dân
25. Dương Thanh Tân 17 Cụm dân cư số 2 Học sinh
149
26. Nguyễn Hữu Hoàng 52 Cụm dân cư số 4 Người dân
27. Nguyễn Thị Hào 60 Cụm dân cư số 1 Người dân
28. Vũ Thị Nga 21 Cụm dân cư số 1 Sinh viên
29. Nguyễn Minh Nghiêm 53 Cụm dân cư số 1 Lái xe
30. Nguyễn Gia Trí 65 Cụm dân cư số 2 Người dân
31. Đặng Thị Phương 82 Cụm dân cư số 2 Người dân
32. Đỗ Thị Tú Anh 17 Cụm dân cư số 1 Học sinh
33. Lê Thị Thanh Dung 51 Cụm dân cư số 4 Cán bộ
34. Bùi Văn Lộc 81 Cụm dân cư số 4 Người dân
Thời gian điền dã, năm 2015 và 2016
150
PHỤ LỤC 3: ĐỀ CƯƠNG PHỎNG VẤN SÂU
I. Đối với người cao tuổi:
1. Thời các cụ xưa việc ăn uống, trang phục, nhà ở ở đây như thế nào? Ngày
xưa các cụ ăn ở thế nào?
2. Thời xưa, quan niệm về ăn ở của các cụ có khác với hiện nay không
3. Ngày xưa các cụ quan niệm cha mẹ đối với con cái thế nào? Con cái đối với
ông bà, cha mẹ thế nào? Anh chị em đối xử với nhau ra sao?
4. Vai trò của người đàn ông trong gia đình trước đây được các cụ quan niệm
như thế nào? Người phụ nữ trong gia đình có vai trò ra sao?
6. Hôn nhân của con cái thời các cụ là do ai quyết định?
7. Các cụ xưa quan niệm thế nào về sự chung thủy vợ chồng? nếu vợ hoặc
chồng ngoại tình thì sẽ bị xử lý ra sao?
8. Trong gia đình ở Sáp Mai trước đây ai thường đứng tên chủ hộ?
9. Con cái trong gia đình có ý nghĩa như thế nào trong gia đình trước đây?
10. Việc thờ cúng tổ tiên được các cụ ta quan niệm như thế nào?
II. Đối với các cặp vợ chồng
1. Hiện nay gia đình ông bà (anh/ chị) có mấy thế hệ sống với nhau?
2. Ông bà (anh/ chị) lập gia đình từ năm nào? Lúc ấy ông bà (anh/ chị) bao
nhiêu tuổi? hiện đã được bao nhiêu năm? Gia đình có mấy cháu?
3. So với trước khi có khu công nghiệp kinh tế và các tiện nghi sinh hoạt trong
gia đình ông/bà (anh/ chị) có thay đổi như thế nào?
4. Nhà ở của ông/bà (anh/ chị) so với trước đây 20 năm có thay đổi thế nào?
Các tiện nghi sinh hoạt trong gia đình ra sao?
5. Mức độ ăn uống của gia đình ông/bà so với trước khi có khu công nghiệp?
6. Mức độ đi lại của gia đình ông bà so với trước đây?
7. Từ khi có khu công nghiệp đời sống vật chất của gia đình ông bà (anh/ chị)
khác gì so với trước? nguyên nhân của sự khác biệt đó?
8. Việc giữ gìn sức khỏe, thể chất của gia đình ông/ bà (anh/ chị) hiện nay
được biểu hiện như thế nào?
151
9. Ông/bà (anh/ chị) có thường xuyên tập thể dục không?
10. Gia đình ông/bà (anh/ chị) quan niệm thế nào về việc thờ cúng tổ tiên?
11. Trong những dịp lễ tết, ngày kỷ niệm của các thành viên, ông/bà (anh/ chị)
có mua quà tặng, tổ chức ăn uống hay hình thức nào khác không?
12. Ông/bà (anh/ chị) có thường tổ chức sinh nhật cho người thân trong gia
đình không?
13. Việc giải trí, thư giãn trong gia đình ông/ bà (anh/ chị) hiện nay thế nào?
So với trước đây nó có phong phú đa dạng hơn không?
14. Ông/bà (anh/ chị) thường xuyên tham gia các hoạt động vui chơi giải trí
không? các hoạt động giải trí chủ yếu là gì?
15. Từ khi có khu công nghiệp đời sống tinh thần của gia đình ông/bà
(anh/chị) khác gì so với trước? nguyên nhân của sự khác biệt đó
16. Ông/bà (anh/ chị) có nhận xét gì về mối quan hệ giữa ông bà cha mẹ với
con cái hiện nay? So với trước đây mối quan hệ này có gì khác không?
17. Theo ông/bà (anh/ chị) quan niệm về “trẻ cậy cha, già cậy con” hiện nay
như thế nào? Có thay đổi gì không?
18. Con cái hiện nay cần thể hiện “sự hiếu thảo” với cha mẹ như thế nào?
Ông/bà (anh/ chị) cảm thấy thế hệ mình thể hiện sự hiếu thảo đổi với bố mẹ khác gì
so với thế hệ con cái đối với ông/ bà?
19. Ông/bà (anh/chị) có những trăn trở, lo ngại nhất khi nuôi dạy các con cái
nên người hiện nay? (về chi phí, những rủi ro, các yếu tố, áp lực xã hội khác?)
20. Ông/bà (anh/chị) nhận định thế nào về quan điểm “phải có con trai nối
dõi” và “đàn ông xây nhà đàn bà xây tổ ấm”? Tại sao lại nhận định như vậy?
21. Theo ông bà, những gia đình không “có nếp có tẻ”, nghĩa là chỉ sinh con
một bề, liệu họ có gặp khó khăn hay trở ngại gì không? (ví dụ)
22. Trong gia đình ông/bà (anh/chị), việc nhà thường được phân công như thế
nào? Bố/mẹ thường làm việc gì? con cái thường làm những công việc gì? có sự
phân biệt không? so với trước đây sự phân công công việc có gì khác không?
23. Đối với những việc lớn trong gia đình ai là người quyết định cuối cùng?
152
Nêu ví dụ cụ thể. Tại sao người đó lại có quyền ra quyết định cuối cùng? Việc ra
quyết định này có gì khác so với trước đây không?
24. Ông/bà (anh/chị) thường giành thời gian quan tâm đến nhau như thế nào?
Ông/bà có thường tâm sự, kể chuyện với nhau không? Các con ông/bà có thường
nói chuyện, chia sẻ với bố mẹ không?
25. Hiện tại ông/bà (anh/chị) hài lòng và mong mỏi điều gì nhất ở con cái (vật
chất, tinh thần, học hành, nghề nghiệp...)? và thường không hài lòng/thất vọng nhất
về điều gì ở con cái?
26. Ông/bà (anh/chị) định hướng học hành, nghề nghiệp cho con cái như thế nào?
Có khác biệt gì giữa con trai và con gái không? Ông/bà (anh/chị) mong muốn con cái
mình sau này làm nghề gì? đầu tư tiền bạc, thời gian cho các cháu như thế nào?
27. Tài sản ông/bà (anh/chị) được thừa kế và tích lũy được sẽ phân chia cho
con cái như thế nào? Có gì khác biệt giữa con trưởng, con thứ, con trai, con gái (sau
này khi lập gia đình)? Vì sao ông/ bà (anh/chị) lại phân chia như vậy
28. Ông/bà (anh/chị) có nguyện vọng và kế hoạch sống riêng/ chung với con
cái (con trường, con thứ, con gái) khi về già như thế nào? Vì sao
29. Sự hiếu thảo của con cái đối với cha/mẹ hiện nay nên được hiểu như thế
nào? Con cái cần thể hiện sự hiếu thảo với cha mẹ như thế nào (trong cuộc sống
hàng ngày, khi cha mẹ về già?)
30. Quan hệ giữa anh chị em với nhau hiện nay nên được hiểu như thế nào?
Anh em cần thể hiện sự hòa thuận đùm bọc như thế nào trong cuộc sống hàng ngày?
31. Sự xuất hiện của khu công nghiệp có ảnh hưởng gì đến quan hệ gia đình
ông/bà không (quan hệ vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em)? Nguyên nhân của sự
khác biệt đó
32. Sự xuất hiện phổ biến của Internet có ảnh hưởng gì đến gia đình của
ông/bà (anh/chị) không? ví dụ?
153
PHỤ LỤC 4: PHIẾU ĐIỀU TRA VỀ HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH
Ở SÁP MAI HIỆN NAY
------------------------------------------
PHIẾU HỎI HỘ GIA ĐÌNH
Đề tài: Hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội hiện nay (trường hợp làng Sáp Mai xã
Võng La, huyện Đông Anh, TP Hà Nội).
Nhằm phục vụ đề tài nghiên cứu “Hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội hiện nay”,
chính quyền địa phương các cấp đã cho phép chúng tôi thu thập thông tin bằng
phiếu hỏi hộ gia đình. Ý kiến của ông/ bà sẽ góp phần quan trọng vào việc thu thập
thông tin cho đề tài của chúng tôi. Xin ông/bà trả lời các câu hỏi dưới đây.
Làng..................................
Xã/phường..................................
Phiếu số:.....................................
Ngày điều tra:............................
Điều tra viên:.............................
THÔNG TIN CHUNG VỀ HỘ GIA ĐÌNH
STT Quan hệ với chủ hộ Giới tính Tuổi Học
vấn
Nghề nghiệp Hôn nhân
Câu 1. Xin ông/ bà (anh/chị) cho biết gia đình đã sinh sống ở làng từ bao giờ?
1. Từ thế hệ trước □
2. Chuyển đến làng từ năm □
Câu 2: Hiện nay gia đình ông/bà(anh/chị) có mấy thế hệ cùng sinh sống?
1. Một thế hệ (hộ đơn thân, hộ có vợ và chồng) □
2. Hai thế hệ □
3. Ba thế hệ □
4. Bốn thế hệ trở lên □
Câu 3: Gia đình ông/bà(anh/chị) đang ở loại nhà gì dưới đây?
1. Nhà tầng, xây dựng kiên cố □
2. Nhà cấp 4 (nhà gạch cũ, mái ngói, tôn) □
3. Loại khác (ghi rõ) □
Câu 4: Theo ông/bà (anh/chị)thế nào là một ngôi nhà đẹp ?
1. Hợp với xu thế chung □ 3. Tiện nghi hiện đại □
2. Sử dụng tiện lợi □ 4. Hài hòa giữa truyền thống và hiện đại □
154
Câu 5. Nguồn thu nhập trong gia đình ông/bà (anh/chị) hiện nay là từ những nguồn
nào ?
1. Sản xuất nông nghiệp □ Tiền lương (cố định) □
2. Làm nghề truyền thống □ Buôn bán dịch vụ □
3. Làm thuê/mướn □ Khác (ghi rõ) □
Câu 6. Trong những nguồn thu nhập trên, nguồn nào đóng góp nhiều nhất ? (ghi lại
mã câu trên). □
Câu 7. Hiện tại gia đình ông/bà (anh/chị) đang sử dụng những thiết bị nào dưới đây ?
1. Ti vi □ Máy giặt □
2. Tủ lạnh □ Bình nóng lạnh □
3. Bếp ga/bếp từ □ Nồi cơm điện □
4. Điện thoại □ Máy tính/ Internet □
5. Ô tô □ Xe máy □
Câu 8. Mức độ ăn uống của gia đình ông/bà(anh/chị) hiện nay như thế nào ?
1. Ăn uống đầy đủ □ Ăn uống kham khổ □
2. Ăn ngon □ Thiếu ăn □
Câu 9. Theo ông/bà (anh/chị) điều gì là quan trọng trong cuộc sống của ông bà hiện
nay? (đánh theo mức độ quan trọng từ 1 đến 10)
1. Khỏe mạnh □ 6. Có việc làm thu nhập ổn định □
2. Có nhà riêng □ 7. Đủ tiện nghi sinh hoạt □
3. Sở hữu phương tiện đi lại □ 8. Ăn ngon mặc đẹp □
4. Có tài sản để dành □ 9. Có việc làm theo sở thích □
5. Trường thọ □ 10. Môi trường tự nhiên trong lành □
Câu 10. Trong gia đình ông/bà (anh/chị) có những hoạt động cúng lễ sau đây không?
Các hoạt động Có Không
1. Giỗ gia tiên □ □
2. Rằm/mồng một □ □
3. Rằm tháng giêng □ □
4. Tết Thanh minh □ □
5. Tết Đoan ngọ (5/5) □ □
6. Rằm tháng bảy □ □
7. Trung thu □ □
8. Tết ông Công ông Táo □ □
9. Cầu an, giải hạn đầu năm □ □
Câu 11. Theo ông/bà (anh/chị) thờ cúng tổ tiên là nhằm mục đích gì?
1. Bày tỏ lòng biết ơn □
2. Cầu xin tổ tiên phù hộ cho con cháu □
3. Giáo dục con cháu về cội nguồn □
155
Câu 12. Theo ông/bà, những điều nào là quan trọng trong đời sống tinh thần hiện
nay? (đánh theo mức độ quan trọng từ 1 đến 10)
1. Con cái chăm ngoan học giỏi □ 2. Hiếu kính tổ tiên □
3. Tâm hồn thanh thản □ 4. Có con trai nối dõi □
5. Tự do tín ngưỡng □ 6. Có điều kiện nghỉ ngơi thư giãn □
7. Ăn ở hiền lành để phúc cho con cháu □ 8. Tôn trọng lễ giáo □
9. Cởi mở đón nhận cái mới 10. Hòa hợp giữa gia đình và cộng đồng □
Câu 13. Ngoài thời gian cho công việc, ông/bà (anh/chị) có tham gia vào các hoạt
động sau đây không? (đánh dấu mã số tương ứng với các hoạt động được chọn)
STT Các hoạt động Hàng ngày Hàng tuần Hiếm khi
1 Xem ti vi 1 2 3
2 Xem video phim ảnh tại nhà 1 2 3
3 Xem phim tại rạp 1 2 3
4 Đọc sách báo 1 2 3
5 Chơi thể thao 1 2 3
6 Internet, trò chơi điện tử 1 2 3
7 Tụ tập ăn uống 1 2 3
8 Tham gia các hoạt động vui
chơi giải trí
1 2 3
13 Nghỉ ngơi thư giãn 1 2 3
Câu 14. Theo ông/bà (anh chị) điều gì là quan trọng trong quan hệ ứng xử gia đình
hiện nay? (đánh theo mức độ quan trọng từ 1 đến 10)
Các yếu tố mức độ
1. Hiếu kính tổ tiên □
2. Tôn trọng lễ giáo □
3. Vợ chồng chung thủy □
4. Anh em hòa thuận □
5. Cha mẹ nhân từ con cháu hiếu thảo □
6. Bình đẳng nam nữ, già trẻ □
7. Mọi người có trách nhiệm quan tâm đến nhau □
8. Có con trai con gái đầy đủ □
9. Ông bà cha mẹ sống cùng con cháu □
10. Quan hệ họ hàng láng giềng tốt □
Câu 15. Ngoài nhu cầu tối thiểu hàng ngày, ông/bà (anh/chị) thường chi tiền vào
những khoản nào?
1. Đi tham quan du lịch □ 4. Đi lễ, cúng bái □
2. Mua sắm, đầu tư cho con cái □ 5.Mua sách báo □
3. Đi học (nghề, vi tính, ngoại ngữ) □ 6.Mua sắm làm đẹp cho bản thân □
156
6. Chi cho thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe; cà phê, quán xá □
7. Mua thuốc bổ, thực phẩm chức năng... để nâng cao thể chất □
8. Khác (ghi rõ) □
Câu 16. Ông/bà(anh/chị) có thường xuyên tặng quà cho người thân trong các dịp lễ,
tết không?
Thường xuyên □ Thỉnh thoảng □ Không tặng □
Câu 17. Trong gia đình ông/bà (anh/chị)có thường xuyên tổ chức sinh nhật cho
người thân không?
Thường xuyên □ Thỉnh thoảng □ Không tổ chức □
Câu 18. Mối quan hệ ứng xử trong gia đình ông/bà (anh/chị) được biểu hiện như
thế nào?
Ứng xử giữa cha mẹ và con cái Có Không
1. Cha mẹ yêu thương con cái □ □
2. Cha mẹ tôn trọng con cái □ □
3. Con cái kính trọng cha mẹ □ □
4. Con cái vâng lời cha mẹ □ □
5. Con cái phục tùng cha mẹ □ □
Ứng xử giữa anh chị em Có Không
1. Yêu thương đùm bọc lẫn nhau □ □
2. Anh độ lượng em lễ phép □ □
3. Quan tâm giúp đỡ lẫn nhau □ □
4.Ai lo phận nấy □ □
Câu 19. Trong gia đình ông/bà(anh/chị), có phải bắt buộc chào hỏi và xưng hô
trong các trường hợp sau không?
Tình huống Có Không
1. Xưng hô đúng vai vế □ □
2. Ra khỏi nhà phải xin phép □ □
3. Gặp gỡ □ □
4. Ăn cơm □ □
5. Đi ngủ □ □
Câu 20. Ai là người đứng tên giấy tờ nhà đất trong gia đình ông/ bà(anh/chị)?
1. Chồng □ 2. Vợ □
3. Cả hai vợ chồng □ 4. Khác (ghi rõ).......
157
Câu 21. Trong gia đình ông/bà (anh/chị) ai là người quyết định những việc quan
trọng? (mua nhà, đất, mua xe cộ, sinh con, việc học của con, hôn nhân...)
Công việc Chồng Vợ Người khác
1. Chăm sóc dạy dỗ con cái □ □ □
2. Việc hôn nhân của con cái □ □ □
3. Việc làm nghề nghiệp của con cái □ □ □
4. Chi tiêu hàng ngày □ □ □
5. Mua bán tài sản đắt tiền □ □ □
6. Sản xuất kinh doanh □ □ □
7. Làm nhà, sửa nhà □ □ □
Câu 22. Đối với các công việc sau đây, giữa ông/bà(anh/chị) ai là người làm chính?
Công việc Vợ Chồng Hai vợ chồng
1. Nội trợ □ □ □
2. Trông con/ cháu □ □ □
3. Chăm sóc người già, người ốm □ □ □
4. Tiếp khách □ □ □
5. Làm việc với chính quyền □ □ □
6. Tham gia các công việc họ hàng □ □ □
Câu 23. Trong gia đình ông/bà (anh/chị), ai là người quyết định hôn nhân của con cái?
1. Bố mẹ quyết định hoàn toàn □
2. Con cái quyết định hỏi ý kiến bố mẹ □
3. Con cái hoàn toàn quyết định □
4. Khác □
Câu 24. Tiêu chuẩn hàng đầu trong chọn bạn đời cho con của gia đình ông/bà
(anh/chị) là:
1. Có sức khỏe □ 4. Có hình thức □
2. Có đạo đức, ngoan ngoãn □ 5. Có việc làm ổn định, thu nhập tốt □
3. Không mắc tệ nạn □ 6. Có tài sản, thu nhập cao □
Câu 25. Ông/bà (anh/chị)quan niệm thế nào về sự bình đẳng trong gia đình?
1. Cần thiết □ 2. Rất cần thiết □ 3. Không cần thiết □
Câu 26. Ông/bà (anh/chị)có đồng ý với các quan niệm sau đây không?
Quan niệm Đồng ý Không đồng ý
1. Con cái là người chăm sóc khi về già □ □
2. Con cái là nguồn lao động giúp đỡ gia đình □ □
3. Con cái là mục đích của hôn nhân □ □
4. Con cái mang lại niềm vui □ □
5. Con cái làm tăng giá trị của cha mẹ □ □
6. Con cái củng cố quan hệ vợ chồng □ □
158
7. Phải có con để nối tiếp dòng dõi □ □
Câu 27. Ông/bà có thường xuyên trao đổi với con cái về những vấn đề sau không?
Vấn đề Thường xuyên Thỉnh thoảng Không trao đổi
1. Học tập □ □ □
2. Định hướng nghề nghiệp □ □ □
3. Tình cảm □ □ □
4. Quan hệ bạn bè □ □ □
5. Ứng xử □ □ □
6. Ăn mặc □ □ □
Câu 28. Ông/bà (anh/chị)có thường xuyên giáo dục con cái về những giá trị gia
đình truyền thống không?
Vấn đề Thường xuyên Thỉnh thoảng Không dạy
1. Ăn nói lễ phép □ □ □
2. Tôn kính người trên □ □ □
3. Biết ơn cha mẹ □ □ □
4. Giữ chữ tín □ □ □
5. Có lòng nhân ái □ □ □
6. Chăm chỉ học hành □ □ □
Câu 29. Xin ông/bà (anh/chị)cho biết ý kiến về các nhận định dưới đây
Nhận định Đồng ý Không đồng ý Không ý kiến
1. Con cái phải biết ơn cha mẹ □ □ □
2. Con cái phải đối xử tốt với cha mẹ □ □ □
3. Con cái không vâng lời cha mẹ như trước □ □ □
4. Con cái không gắn bó với họ hàng như trước □ □ □
5. Cha mẹ có quyền đánh nếu con cái hư □ □ □
6. Cha mẹ nên tôn trọng con cái □ □ □
Câu 30. Theo ông bà(anh/chị) trong gia đình hiện nay những tệ nạn nào là trầm
trọng nhất?
1. Nạn bạo hành gia đình □ 4. Nạn cờ bạc, lô đề □
2. Nạn nghiện hút □ 5. Nạn nhậu nhẹt □
3. Con cái bất hiếu, hỗn láo □
Câu 31.Theo ông/bà(anh/chị), các gia đình đã tiếp nhận ảnh hưởng gì từ văn hóa đô thị?
Tiêu chí Có Không
1. Ăn mặc đẹp, thẩm mỹ □ □
2. Đầy đủ tiện nghi sinh hoạt □ □
3. Quan hệ gia đình bình đẳng, dân chủ □ □
4. Giải trí đa dạng □ □
159
PHỤ LỤC 5: KẾT QUẢ TỔNG HỢP SỐ LIỆU ĐIỀU TRA VỀ HỆ GIÁ TRỊ
GIA ĐÌNH Ở SÁP MAI
Giới tính
Giới tính SP TL% TL% số người được hỏi
Valid Nam 170 43, 43,8
Nữ 218 56,2 56,2
Total 388 100,0 100,0
Câu 1. Xin ông/ bà cho biết gia đình đã sinh sống ở làng từ bao giờ?
Thời gian SP TL% TL % số người được hỏi
Valid Từ thế hệ trước 272 70,1% 70,1%
Chuyển đến sau này 116 29,9% 29,9%
Tổng 388 100,0% 100,0%
Câu 2: Hiện nay gia đình ông/bà có mấy thế hệ cùng sinh sống?
Thế hệ SP TL% TL % số người được hỏi
Valid 1 20 5,2% 5,2%
2 214 55,2% 55,2%
3 138 35,6% 35,6%
4 16 4,1% 4,1%
Tổng 388 100,0% 100,0%
Câu 3: Gia đình ông/bà đang ở loại nhà gì dưới đây?
Loại nhà SP TL% TL % số người được
Valid Kiên cố 360 92,8% 92,8%
Cấp 4 28 7,2% 7,2%
Tổng 388 100,0% 100,0%
Câu 4: Theo ông/bà thế nào là một ngôi nhà đẹp?
Tiêu chí SP TL% TL % số người được hỏi
Valid Hợp xu thế 60 15,5 15,5
Tiện lợi 27 7,0 7,0
Hiện đại 251 64,7 64,7
Hài hòa 50 12,9 12,9
Tổng 388 100,0 100,0
160
Câu 5. Nguồn thu nhập trong gia đình ông/bà hiện nay là từ những nguồn nào ?
Nguồn thu nhập
Không Có
SP TL % SP TL %
Sản xuất nông nghiệp 255 65,7% 200 34,2%
Nghề phụ 373 96,1% 15 3,9%
Làm thuê 316 81,4% 72 18,6%
Lương cố định 241 62,1% 147 27,9%
Buôn bán, dịch vụ 222 57,2% 166 42,8%
Câu 6. Trong những nguồn thu nhập trên, nguồn nào đóng góp nhiều nhất ?
Đóng góp SP TL% Valid Percent
Valid Nông nghiệp 115 29,6% 30,3
Nghề phụ 4 1,0% 1,1
Lương cố định 119 30,7% 31,3
Buôn bán 150 38,6% 37,4
Tổng 388 100,0% 100,0
Câu 7. Hiện tại gia đình ông/bà đang sử dụng những thiết bị nào dưới đây ?
Tiện nghi
Không Có
SP TL % SP TL %
Ti vi 388 100,0%
Tủ lạnh 32 8,2% 356 91,8%
Bếp gas 8 2,1% 380 97,9%
Điện thoại 8 2,1% 380 97,9%
Ô tô 376 96,9% 12 3,1%
Máy giặt 137 35,3% 251 64,7%
Bình nóng lạnh 52 13,4% 336 86,6%
Nồi cơm điện 388 100,0%
Máy tính/Internet 256 65,9% 132 34,0%
Xe máy 16 4,1% 372 95,9%
Câu 8. Mức độ ăn uống của gia đình ông/bà hiện nay như thế nào ?
Mức độ SP TL% Valid Percent
Valid Đầy đủ 337 86,9 86,9
Ngon 19 4,9 4,9
Kham khổ 32 8,2 8,2
Tổng 388 100,0 100,0
161
Câu 9. Theo ông/bà điều gì là quan trọng trong cuộc sống của ông bà hiện nay?
Nhu cầu
Không Có
SP TL % SP TL %
Khỏe mạnh 3 0,77% 385 99,2%
Có nhà ở, chỗ ở riêng 126 32,5% 262 67,5%
Sở hữu phương tiện đi lại 46 11,8% 342 88,1%
Có tài sản để dành 175 45,1% 213 54,9%
Trường thọ 64 16,5% 320 82,5%
Có công việc ổn định 28 7,2% 360 92,7%
Đầy đủ tiện nghi sinh hoạt 53 14,7% 331 85,3%
Ăn ngon mặc đẹp 267 68,8% 121 31,2%
Có việc làm theo sở thích 305 78,6% 83 21,4%
Môi trường sống trong lành 136 35,0% 252 64,9%
Câu 10. Trong gia đình ông/bà có những hoạt động cúng lễ sau đây không?
Họat động
Không Có
SP TL% SP TL%
Giỗ gia tiên 388 100%
Rằm hàng tháng 23 5,9% 365 94,%
Rằm tháng giêng 37 9,5% 351 90,4%
Mồng 3-3 14 3,6% 374 96,4%
Đoan ngọ 9 2,3% 379 97,6%
Rằm tháng 7 388 100,0%
Trung thu 8 2,1% 380 97,9%
Ông Công, ông Táo 4 1,0% 384 99,0%
Cầu an, giải hạn 91 23,4% 297 76,5%
Câu 11.Theo ông/bà thờ cúng tổ tiên là nhằm mục đích gì?
Mục đích
Không Có
SP TL% SP TL %
Biết ơn 271 69,8% 117 30,2%
Cầu xin tổ tiên 43 11,1% 345 88,9%
Giáo dục con cháu 255 65,7% 133 34,3%
Câu 12. Theo ông/bà, những điều nào là quan trọng trong đời sống tinh thần hiện nay?
Không Có
Count % Count %
Con cái chăm ngoan học giỏi 15 3,9% 373 96,1%
Hiếu kính tổ tiên 50 12,9% 338 87,1%
Tâm hồn thanh thản 200 51,5% 188 48,5%
Có con trai nối dõi 173 44,6% 215 55,4%
162
Tự do tín ngưỡng 155 39,9% 233 60,1%
Đcó điều kiện nghỉ ngơi thư giãn 124 32,0% 264 68,0%
Ăn ở hiền lành để phúc cho con cháu 146 37,6% 242 62,4%
Tôn trọng lễ giáo 209 53,8% 179 46,1%
Cởi mở đón nhận cái mới 158 40,7% 230 59,3%
Hòa hợp giữa gia đình và cộng đồng 263 67,8% 125 32,2%
Câu 13. Ngoài thời gian cho công việc, ông/bà có tham gia vào các hoạt động sau đây
không? (đánh dấu mã số tương ứng với các hoạt động được chọn)
Họat động
Có Hàng tuần Hiếm khi
SP TL% SP TL% SP TL%
Xem ti vi 352 90,7% 32 8,2% 4 1,0%
Xem video 11 2,8% 75 19,3% 302 77,8%
Xem phim rạp 4 1,0% 384 99,0%
Đọc sách báo 35 9,0% 69 17,8% 284 73,2%
Chơi thể thao 114 29,4% 118 30,4% 156 40,2%
Internet, game 92 23,7% 35 9,0% 261 67,3%
Ăn uống 80 20,6% 308 79,4%
Hoạt động vui
chơi
30 7,8% 183 47,7% 171 44,5%
Nghỉ ngơi 351 90,5% 37 9,5%
Câu 14. Theo ông/bà, điều gì là quan trọng trong quan hệ ứng xử gia đình hiện nay?
Giá trị
Không Có
SP TL % SP TL %
Hiếu kính với tổ tiên 11 2,9% 377 97,1%
Tôn trọng lễ giáo 209 53,8% 179 46,1%
Vợ chồng chung thủy 4 1,0% 384 99,0%
Anh em hòa thuận 113 29,1% 275 70,9%
Cha mẹ nhân từ, con cháu hiếu thảo 39 10,1% 349 89,9%
Bình đẳng nam nữ, già trẻ 51 13,1% 337 86,9%
Có trách nhiệm, quan tâm đến nhau 102 26,3% 286 73,7%
Có con trai con gái đầy đủ 186 47,9% 202 52,1%
Ông bà cha mẹ sống cùng con cháu 262 67,5% 126 32,5%
Quan hệ họ hàng, láng giềng tốt 164 42,3% 224 57,7%
Câu 15. Ngoài nhu cầu tối thiểu hàng ngày, ông/bà chi tiền vào những khoản nào?
Họat động
Không Có
SP TL% SP TL%
Du lịch 180 46,4% 208 53,6%
Mua sắm 54 13,9% 334 86,1%
163
Đi học 314 80,9% 74 19,1%
Cúng bái 274 70,6% 114 29,4%
Mua sách 360 92,8% 28 7,2%
Làm đẹp 295 76,0% 93 24,0%
Thể thao 280 72,2% 108 27,8%
Mua thuốc bổ 278 71,6% 110 28,4%
Câu 16. Ông/bà có thường xuyên tặng quà cho người thân trong các dịp lễ, tết không?
Mức độ SP TL % Valid Percent
Valid Thường xuyên 94 24,2 24,2
Thỉnh thoảng 156 40,2 40,2
Không tặng 138 35,6 35,6
Tổng 388 100,0 100,0
Câu 17. Trong gia đình ông/bà có thường xuyên tổ chức sinh nhật cho người thân không?
Mức độ SP TL % Phần trăm hợp lệ
Valid Thường xuyên 89 22,9 23,1
Thỉnh thoảng 194 50,0 50,5
Không tổ chức 105 27,0 27,1
Total 388 99,0 100,0
Tổng 388 100,0
Câu 18. Mối quan hệ ứng xử trong gia đình ông/bà được biểu hiện như thế nào?
- Ứng xử giữa cha mẹ và con cái
Thái độ
Không Có
SP TL% SP TL %
Cha mẹ yêu thương con cái 388 100,0%
Cha mẹ tôn trọng con cái 47 12,1% 341 87,8%
Con cái kính trọng cha mẹ 25 6,4% 363 93,5%
Con cái vâng lời cha mẹ 254 65,5% 134 34,5%
Con cái phục tùng cha mẹ 141 36,3% 247 63,7%
- Ứng xử giữa anh chị em với nhau
Thái độ
Không Có
SP TL% SP TL%
Yêu thương đùm bọc 388 100,0%
Anh độ lượng em lễ phép 12 3,1% 376 96,9%
Quan tâm giúp đỡ nhau 4 1,0% 384 99,0%
Ai lo phận nấy 348 89,7% 40 10,3%
164
Câu 19. Trong gia đình ông/bà, có phải bắt buộc chào hỏi và xưng hô trong các trường hợp
sau không?
Khuôn mẫu
Không Có
SP TL% SP TL %
Xưng hô đúng vai vế 8 2,1% 380 97,9%
Chào hỏi khi gặp gỡ 16 4,1% 372 95,9%
Ra khỏi nhà phải xin phép 81 20,9% 307 79,1%
Mời ăn cơm 138 35,6% 250 64,4%
Chào trước khi ngủ 345 88,9% 43 11,1%
Chào khi đi về 195 50,3% 193 49,7%
Câu 20.Ai là người đứng tên giấy tờ nhà đất trong gia đình ông/ bà?
Đứng tên SP TL Valid Percent
Valid Chồng 211 54,4 54,4
Vợ 7 1,8 1,8
Cả hai 122 31,4 31,4
Khác 48 12,4 12,4
Tổng 388 100,0 100,0
Câu 21. Trong gia đình ông/bà ai là người quyết định những việc quan trọng?
Ra quyết định
Chồng Vợ Hai vợ chồng
SP TL % SP TL% SP TL%
Dạy con 4 1,0% 287 74,0% 97 25,0%
Hôn nhân của con 8 2,1% 380 97,9%
Nghề nghiệp của con 66 17,0% 12 3,1% 310 79,9%
Chi tiêu hàng ngày 364 93,8% 24 6,2%
Mua sắm tài sản 30 7,7% 19 4,9% 339 87,4%
Sản xuất kinh doanh 28 7,2% 19 4,9% 341 87,9%
Nhà cửa 42 10,9% 11 2,9% 331 86,2%
Câu 22. Đối với các công việc sau đây, giữa ông/bà ai là người làm chính?
Công việc
Chồng Vợ Cả hai vợ chồng Khác
SP TL% SP TL% SP TL% SP %
Nội trợ 4 1,0% 355 91,5% 29 7,5%
Trông con, cháu 7 1,8% 310 79,9% 71 18,3%
165
Chăm sóc người già 8 2,1% 255 66,4% 109 28,4% 12 3,1%
Tiếp khách 212 54,6% 24 6,2% 152 39,2%
Giao dịch chính quyền 264 68,0% 40 10,3% 80 20,6% 4 1,0%
Việc họ hàng 147 37,9% 28 7,2% 209 53,9% 4 1,0%
Câu 23.Trong gia đình ông/bà, ai là người quyết định hôn nhân của con cái?
Người quyết định SP TL Valid Percent
Valid Con hỏi ý kiến 201 51,8 52,3
Con tự quyết 175 45,1 97,9
Khác 16 4,1 100,0
Tổng 388 100,0
Câu 24.Tiêu chuẩn hàng đầu trong chọn bạn đời cho con của gia đình ông/bà là:
Tiêu chuẩn
Không Có
SP TL% SP TL%
Sức khỏe 133 34,3% 255 65,7%
Đạo đức 85 21,9% 303 78,1%
Không tệ nạn 185 47,7% 203 52,3%
Hình thức 160 41,2% 228 58,8%
Việc làm ổn định 48 12,4% 340 87,6%
Tài sản, thu nhập cao 352 90,7% 36 9,3%
Câu 25. Ông/bà quan niệm thế nào về sự bình đẳng trong gia đình?
Mức độ Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid Cần thiết 319 82,2 82,2 82,2
Rất cần thiết 69 17,8 17,8 100,0
Total 388 100,0 100,0
Câu 26. Ông/bà có đồng ý với các quan niệm sau đây không?
Quan niệm
Không Có
SP TL% SP TL%
Con cái là người chăm sóc khi về già 57 14,7% 331 85,3%
Con cái là nguồn lao động 226 58,2% 162 41,8%
Con cái là mục đích của hôn nhân 53 13,7% 335 86,3%
Con cái mang lại niềm vui 12 3,1% 376 96,9%
Con cái làm tăng giá trị của bố mẹ 99 25,5% 289 74,5%
Con cái củng cố quan hệ vợ chồng
28 7,2% 360 92,8%
Phải có con để tiếp nối dòng dõi 64 16,5% 324 83,5%
166
Câu 27. Ông/bà có thường xuyên trao đổi với con cái về những vấn đề sau không?
Vấn đề
Không Thường xuyên Thỉnh thoảng
SP TL% SP TL% SP TL%
Học tập 72 18,6% 134 34,5% 182 46,9%
Định hướng nghề
nghiệp
259 66,8% 35 9,0% 94 24,2%
Tình cảm 90 23,2% 62 16,0% 236 60,8%
Quan hệ bạn bè 198 51,0% 4 1,0% 186 47,9%
ứng xử 48 12,4% 83 21,4% 257 66,2%
Ăn mặc 264 68,0% 19 4,9% 105 27,1%
Câu 28. Ông/bà có thường xuyên giáo dục con cái về những giá trị gia đình truyền thống không?
Giá trị Thường xuyên Thỉnh thoảng Không dạy
SP TL% SP TL% SP TL%
Ăn nói lễ phép 151 38,9% 167 43,0% 70 18,0%
Tôn kính người trên 176 45,4% 155 39,9% 57 14,7%
Lòng biết ơn cha mẹ 133 34,3% 148 38,1% 107 27,5%
Giữ chữ tín 90 23,2% 163 42,0% 135 34,8%
Có lòng nhân ái 113 29,1% 92 23,7% 183 47,2%
Chăm chỉ học hành 318 82,1% 55 14,2% 15 3,7%
Câu 29. Xin ông/bà cho biết ý kiến về các nhận định dưới đây
Nhận định
Không ý kiến Đồng ý Không đồng ý
SP TL% SP TL% SP TL%
Biết ơn 8 2,1% 380 97,9%
Đối xử tốt 8 2,1% 380 97,9%
Không vâng lời 106 27,3% 263 67,8% 19 4,9%
Không gắn bó họ hàng 114 29,4% 251 64,7% 23 5,9%
Cha mẹ có quyền đánh con 53 13,7% 64 16,5% 271 69,8%
Cha mẹ nên tôn trọng con cái 55 14,2% 333 85,8%
Câu 30. Theo ông bà trong gia đình hiện nay những tệ nạn nào là trầm trọng nhất?
Tệ nạn
Không Có
SP TL% SP TL%
Bạo hành 357 92,0% 31 8,0%
Nghiện hút 200 51,5% 188 48,5%
Bất hiếu 256 66,0% 132 34,0%
Cờ bạc 140 36,1% 248 63,9%
Nhậu nhẹt 298 76,8% 90 23,2%
167
Câu 31. Theo ông/bà, các gia đình đã tiếp nhận ảnh hưởng gì từ văn hóa đô thị?
Tiêu chí Có Không
SP TL% SP TL%
Ăn mặc đẹp, thẩm mỹ 356 91,7% 32 8,3%
Đầy đủ tiện nghi sinh hoạt 378 97,4% 10 2,6%
Quan hệ gia đình bình đẳng 325 83,7% 63 16,4%
Giải trí đa dạng 252 64,9% 36 35,1%
168
PHỤ LỤC 6: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ LÀNG SÁP MAI
Cổng làng Sáp Mai. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Đường ra Sáp Mai Bãi. Nguồn: NCS chụp năm 2016
169
Cổng chùa Phong Đức. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Toàn cảnh Chùa Phong Đức. Nguồn: NCS chụp năm 2016
170
Làng Sáp Mai nhìn từ đê sông Hồng. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Làng Sáp Mai nhìn từ Quốc lộ 5 kéo dài. Nguồn: NCS chụp năm 2016
171
Đường làng khu vực xóm bãi. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Đường làng ở khu vực xóm đồng cũ Sáp Mai. NCS chụp năm 2016
172
MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐẤT NÔNG NGHIỆP
Cổng khu công nghiệp Bắc Thăng Long trên đất nông nghiệp làng Sáp Mai.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
Cổng C khu Công nghiệp Bắc Thăng Long sát làng Sáp Mai.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
173
Khu công nghiệp Bắc Thăng Long. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Một góc khu công nghiệp Bắc Thăng Long. Nguồn: NCS chụp năm 2016
174
Khu công nghiệp Bắc Thăng Long nhìn từ đê sông Hồng.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
Canh tác trên khu vực đất bãi. Nguồn: NCS chụp năm 2016
175
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ NHÀ CỬA Ở SÁP MAI
Nhà ở phổ biến ở Sáp Mai hiện nay. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Các ngôi nhà xây kiểu biệt thự. Nguồn: NCS chụp năm 2016
176
Phòng khách trong gia đình. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Phòng khách trong gia đình. Nguồn: NCS chụp năm 2016
177
Hình ảnh gian bếp phổ biến trong gia đình Sáp Mai.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
Bếp trong gia đình. Nguồn: NCS chụp năm 2016
178
Chơi cây cảnh. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Ngôi nhà cấp 4 đã được tu sửa theo lối hiện đại.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
179
Những ngôi nhà cũ ít ỏi còn sót ở Sáp Mai.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
Một phần đất thổ cư đã được cắt để bán.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
180
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÁC DỊCH VỤ TRONG LÀNG
Các điểm bán hàng tự phát dọc các ngõ xóm.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
181
Các quán hàng dọc đường chính sát khu công nghiệp.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
Quán nước giải khát dọc đường chính của làng.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
182
Cửa hàng bánh ngọt, bánh sinh nhật.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
Dịch vụ cung cấp gas. Nguồn: NCS chụp năm 2016
183
Dịch vụ thuốc men. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Dịch vụ mua bán sửa chữa điện thoại.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
184
Dịch vụ Karaoke. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Dịch vụ giới thiệu việc làm. Nguồn: NCS chụp năm 2016
185
Dịch vụ cho thuê nhà trọ tại cụm dân cư số 3.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
Những dãy nhà trọ phổ biến ở Sáp Mai.
Nguồn: NCS chụp năm 2016
186
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ SINH NHẬT TRONG GIA ĐÌNH
Một buổi tiệc sinh nhật. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Gia đình chúc mừng sinh nhật. Nguồn: NCS chụp năm 2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_he_gia_tri_gia_dinh_ven_do_ha_noi_hien_nay.pdf