VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐOÀN THANH LIÊM
HỆ BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT CƠ BẢN
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan bản luận án này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các
dẫn liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những phát
hiện trong luận án là kết q
165 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 349 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hệ biểu tượng nghệ thuật cơ bản trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quảĐO nghiênÀN THANHcứu của tác LIgiảÊ luậnM án.
Tác giả luận án
Đoàn Thanh Liêm
HỆ BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT CƠ BẢN
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9. 22. 01. 21
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp. Các kết quả nêu ra trong luận
án là hoàn toàn trung thực; các kết luận được đưa ra chưa từng được công bố trong
bất kỳ một công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2020
Tác giả
Đoàn Thanh Liêm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN......................................................................................................................... 6
1.1. Vấn đề nghiên cứu biểu tượng và tiểu thuyết lịch sử .......................................... 6
1.2. Cơ sở lí thuyết và hướng tiếp cận của luận án .................................................. 17
CHƯƠNG 2. HỆ BIỂU TƯỢNG TỰ NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH
SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM .............................................................................. 32
2.1. Các biểu tượng Nước, Lửa, Đất, Trời ............................................................... 32
2.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng tự nhiên trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam ................................................................................................................... 55
Chương 3 . HỆ BIỂU TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH
SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM .............................................................................. 68
3.1. Các biểu tượng đấng minh quân, kẻ sĩ, liệt nữ .................................................. 68
3.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng con người trong tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam ............................................................................................................ 95
CHƯƠNG 4. HỆ BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG TRONG TIỂU
THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM ............................................... 106
4.1. Các biểu tượng tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội .................................................... 106
4.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng văn hóa cộng đồng trong tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam ............................................................................................... 133
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 149
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Biểu tượng hiện hữu trong đời sống nhân loại ngay từ khi loài người
biết tư duy về tự nhiên và xã hội với những hình ảnh đơn giản nhất. Từ xã hội
nguyên thủy cho đến xã hội văn minh, từ con người tiền sử cho đến con người
hiện đại, biểu tượng luôn được tạo ra như là một công cụ thực hiện chức năng xã
hội, thể hiện nhận thức của con người về tự nhiên và xã hội. Cùng với trình độ tư
duy của con người ngày càng phát triển, thế giới biểu tượng càng ngày được thiết
tạo phong phú và sinh động, sử dụng rộng rãi trên các mặt đời sống xã hội. Biểu
tượng “không chỉ là hiện tượng văn hóa thông thường, hệ thống biểu tượng là
nền tảng cơ bản của một nền văn hóa dân tộc” [31, tr.9]. Hệ thống biểu tượng ấy
không hề tồn tại độc lập mà xuyên thấu vào nhau vừa mang bản sắc văn hóa của
thời đại mà nó được sản sinh ra vừa không ngừng được bổ sung các giá trị qua
lịch sử phát triển.
1.2. Biểu tượng không chỉ có trong phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo, trong chính trị, hoạt động quảng cáo sản phẩm mà biểu tượng cũng tồn
tại trong tác phẩm nghệ thuật rất phong phú, đa dạng. Nó không chỉ là một hiện
tượng văn hóa mà còn là một đơn vị ngôn ngữ đặc biệt trong quá trình sáng tạo
nghệ thuật, thực hiện chức năng giao tiếp gắn kết giữa mĩ học sáng tạo và mĩ học
tiếp nhận. Nghĩa của biểu tượng trong tác phẩm không chỉ có nghĩa định danh,
nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu cảm mà còn có nghĩa “siêu niệm”.
Tầng nghĩa ấy vừa mang tính phổ quát cộng đồng vừa mang cá tính sáng tạo của
người nghệ sĩ trước thời đại, vừa lưu giữ nguồn gốc khởi thuỷ của nó vừa phảng
phất vốn văn hoá, vốn sống của mỗi nhà văn, sự chi phối của tư duy nghệ thuật
mỗi thời đại. Đặc biệt hơn, tầng nghĩa ấy không bao giờ giống nhau qua cách
tiếp cận đồng đại và lịch đại.
1.3. Về mặt nhận thức, có nhiều phương tiện thực hiện chức năng chuyển
tải nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học. Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam, thế giới biểu tượng là một phương tiện nghệ thuật thực hiện chức
năng đó. Biểu tượng tự thân nó gắn liền với nội dung (tư tưởng, lịch sử, văn
1
hóa) nào đó, đến lúc nội dung đó làm bình diện biểu hiện cho một nội dung
khác cùng cấp độ hoặc khác cấp độ giá trị trong tác phẩm nghệ thuật. Những
biểu tượng nghệ thuật ở đây không thuộc về điển cố, điển tích, không thuộc về
ký hiệu chỉ dẫn, nó có thể hình thành từ những cổ mẫu mang tâm thức văn hoá
cộng đồng, từ khả năng sáng tạo biểu tượng mới của người nghệ sĩ Nó là một
đơn vị ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tiếp xã hội với việc tái tạo, cô đúc các
giá trị văn hóa đi qua các thời đại lịch sử, thiết chế xã hội. Trong thực tiễn sáng
tác, cùng với ngôn ngữ, biểu tượng thực hiện chức năng chuyển tải quan điểm
của nhà văn về văn hóa, lịch sử dân tộc, tham gia vào quá trình liên kết văn bản,
xây dựng tính cách nhân vật.
1.4. Đối với nền văn học đương đại Việt Nam (khái niệm đương đại mà
chúng tôi sử dụng vừa dùng để chỉ mốc thời gian ấn hành các tác phẩm, đồng
thời nói đến với sự đổi mới phương thức phản ánh và nội dung phản ánh trong
tác phẩm nghệ thuật), thể tài tiểu thuyết lịch sử có những đóng góp lớn, để lại
dấu ấn sâu sắc. Minh chứng cho điều này là sự “thắng thế” của các tiểu thuyết
lịch sử qua các lần trao giải và rất nhiều diễn đàn văn học bàn luận về tác giả và
tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử là thể tài văn học có đặc trưng phức hợp.
Thể tài văn học này lấy hiện thực lịch sử làm chất liệu “xương cốt” và hư cấu
nghệ thuật làm “hồn phách” tinh anh của tác phẩm. Đối tượng thẩm mĩ thường
được các nhà văn hướng đến là những chi tiết, sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch
sử được thời gian và các tầng lớp nhân dân phủ bóng trầm tích văn hóa trong quá
trình tiếp nhận. Nhà văn sử dụng đặc trưng hư cấu để làm sáng tỏ thêm những
góc khuất lịch sử trên tinh thần của thời đại ngày nay, qua đó nhắn gởi những
thông điệp đến đời sống đương đại và mai sau. Trong thời gian qua, các nhà
nghiên cứu đã thực hiện nhiều công trình khoa học chỉ ra tiến trình vận động,
phát triển, diện mạo, đặc điểm, các phương thức biểu đạt của tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam nói chung, tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam nói riêng từ góc
nhìn lí luận loại thể văn học. Cốt lõi của các tác phẩm thuộc thể tài văn học này
là thành tố lịch sử và văn hóa thì chưa có công trình nghiên cứu nào bàn luận sâu
rộng, chuyên biệt. Chỉ có một số bài viết bàn đến yếu tố văn hoá, lịch sử, đề cập
2
đến biểu tượng trong một tác phẩm cụ thể nào đó Trước bối cảnh văn hóa và
văn học thế giới đang xóa nhòa những khoảng cách, có khả năng chồng xếp và bị
hút lẫn nhau, việc nghiên cứu thế giới biểu tượng nhằm khám phá chiều sâu địa
tầng văn hoá, lịch sử nhân loại và dân tộc qua hệ thống tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam là rất cần thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Khám phá những giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc Việt qua các hệ biểu tượng.
- Trong quá trình khảo sát và phân tích các biểu tượng, chúng tôi sẽ làm rõ một
số luận điểm có ý nghĩa định vị giá trị biểu tượng và sự kết nối các giá trị ấy với vấn
đề đời sống xã hội, con người đương đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận án sẽ giới thuyết lại một số vấn đề lý luận về biểu tượng và tiểu thuyết
lịch sử trên tinh thần kế thừa, phát huy các công trình đã nghiên cứu trước đó.
- Luận án tập trung khảo sát, nhận diện và phân tích một số hệ biểu tượng nghệ
thuật cơ bản: hệ biểu tượng tự nhiên, hệ biểu tượng con người, hệ biểu tượng văn
hoá cộng đồng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam.
- Luận án sẽ làm rõ vai trò, chức năng của biểu tượng là đơn vị ngôn ngữ đặc
trưng - ngôn ngữ biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam qua tư
duy nghệ thuật của nhà văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng trực tiếp mà luận án nghiên cứu là biểu tượng nghệ thuật trong tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam thời kỳ đổi mới. Về bản chất, biểu tượng nghệ thuật cũng là
một loại ký hiệu, hàm chứa và biểu đạt vô vàn giá trị lịch sử, tư tưởng, văn hóa, của
cá nhân, cộng đồng... Đi sâu tìm hiểu, giải mã biểu tượng cho phép chúng ta mở
rộng nhận thức, khám phá những giá trị ẩn khuất của tác phẩm, hiểu biết sâu sắc hơn về
văn hóa nhân loại và dân tộc. Trong văn học, biểu tượng rời xa đời sống nguyên khởi của
nó để trở thành một dạng ký hiệu, một đơn vị ngôn ngữ quan trọng để kiến tạo nghĩa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3
Bên cạnh việc đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986, ở một
chừng mực nào đó, luận án sẽ khảo sát tiểu thuyết lịch sử các giai đoạn trước đó,
đồng thời, so sánh với tiểu thuyết lịch sử của một số nền văn học khác để thấy rõ
hơn thành tựu của tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp hệ thống
Phương pháp hệ thống giúp chúng tôi tập hợp được các biểu tượng khác nhau,
sắp xếp chúng theo hệ biểu tượng tương ứng để phân tích. Phương pháp hệ thống
cũng giúp chúng tôi tập hợp được các công trình, bài viết nghiên cứu xoay quanh
đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án.
4.2. Phương pháp so sánh
Sử dụng phương pháp so sánh, chúng tôi sẽ xác định được bản chất của đối
tượng nghiên cứu trong tương quan với đối tượng của các công trình nghiên cứu
khác; xác định bản chất của từng loại biểu tượng trong mối quan hệ với các biểu
tượng khác.
4.3. Phương pháp loại hình
Nói đến loại hình là nói đến “tập hợp những sự vật, hiện tượng cùng có chung
những đặc điểm cơ bản nào đó” [19, tr.327]. Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi
nhận dạng các biểu tượng khác nhau để xếp chúng về một kiểu loại phù hợp.
4.4. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa
Biểu tượng là phương diện quan trọng của văn hóa và là phương tiện biểu đạt
của văn học qua tư duy nghệ thuật của nhà văn. Tiếp cận biểu tượng văn học từ góc
nhìn văn hóa sẽ giúp luận án có điều kiện khám phá chiều sâu các giá trị của biểu
tượng trong tác phẩm văn học.
4.5. Phương pháp liên ngành
Nghiên cứu biểu tượng trong văn học, đặc biệt là biểu tượng trong tiểu thuyết
đòi hỏi sử dụng nhiều loại hình tri thức khác nhau như sử học, xã hội học, văn hóa
học, tâm lý học, tôn giáo, tín ngưỡng, thi pháp học, tự sự họcVì thế, luận án sẽ sử
dụng phương pháp liên ngành nhằm cắt nghĩa sâu hơn cách sử dụng biểu tượng
cũng như các tầng nghĩa nằm sâu trong biểu tượng văn học.
4
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu chuyên biệt về biểu tượng trong tiểu thuyết
lịch sử đương đại Việt Nam.
- Góp phần hệ thống hóa các tri thức lý thuyết về biểu tượng và biểu tượng
văn học, biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử làm cơ sở khám phá giá trị văn hóa và
văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng và văn học nói chung.
- Phân tích hệ biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, chỉ ra
những thành tựu sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, qua đó, nhận thấy rõ hơn sự giàu
có và phong phú của các giá trị văn hóa trong văn học.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Luận án xác định được quan điểm cơ bản về tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam.
- Luận án đóng góp thêm một tiếng nói nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam từ lý thuyết biểu tượng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án đi sâu nghiên cứu những giá trị lịch sử, văn hóa dân tộc qua các hệ
biểu tượng, từ đó góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc
trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học ở phổ
thông và đại học.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án
gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2: Hệ biểu tượng tự nhiên trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
Chương 3: Hệ biểu tượng con người trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
Chương 4: Hệ biểu tượng văn hoá cộng đồng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vấn đề nghiên cứu biểu tượng và tiểu thuyết lịch sử
1.1.1. Nghiên cứu biểu tượng
1.1.1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu biểu tượng trên thế giới
Ở các quốc gia phát triển và có truyền thống văn hóa lâu đời, việc nghiên cứu
biểu tượng đã có từ rất sớm cả về khảo sát thực tiễn lẫn nền tảng lý thuyết. Các thao
tác đọc biểu tượng và giải mã biểu tượng thường gắn với hệ tư tưởng triết học và
mỹ học nào đó.
Theo triết học mácxít, quá trình nhận thức của con người về thế giới trải qua
hai giai đoạn nhận thức cơ bản: cảm tính và lý tính. Các cấp độ của quá trình nhận
thức diễn ra rất biện chứng và phức tạp, mỗi cấp độ có nội dung, chức năng và ý
nghĩa khác nhau. Biểu tượng là mắt xích sau cùng, là hình thức phản ánh cao nhất
và phức tạp nhất của quá trình nhận thức cảm tính gồm: cảm giác, tri giác, biểu
tượng. Theo đó, biểu tượng là hình ảnh của sự vật, hiện tượng khách quan tương đối
hoàn chỉnh và trừu tượng còn lưu lại trong bộ óc người sau khi sự vật, hiện tượng
đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan. “Biểu tượng là hình ảnh của cảm
tính về các sự vật, hiện tượng khách quan nên ít nhiều mang tính trừu tượng hóa”
[120, tr.300-303]. Quan điểm triết học mácxít xem biểu tượng là sản phẩm chủ quan
cá nhân trong hoạt động nhận thức của con người, biểu tượng mất đi giá trị văn hoá
không thuộc về cái đã có, cổ xưa được tích luỹ qua các thời đại và không mang tâm
thức cộng đồng.
Đối với các nhà phân tâm học, biểu tượng không phải là một giai đoạn của quá
trình nhận thức mà là những hình ảnh, sự vật được kết tinh từ “vô thức tập thể”, của
“vùng kinh nghiệm” được truyền từ đời này sang đời khác (nằm ngoài quy luật di
truyền học) dùng để biểu đạt một điều gì đó. Biểu tượng một mặt xuất hiện trong
giấc mơ hay “giấc mơ là nguồn gốc chính để tìm ra biểu tượng” [14, tr.67] nhưng
không chỉ có vậy, biểu tượng còn được hình thành từ phương diện tâm lý cá nhân
và những vô thức tập thể. Từ phương diện tâm lý cá nhân, “có những ý tưởng và
6
tâm tình có tính cách biểu tượng. Có những hành động và hoàn cảnh có tính cách biểu
tượng” [14, tr.68]. Nhưng cũng “có rất nhiều biểu tượng quan trọng, không có tính
cách cá nhân mà có tính cách đoàn thể, kể cá phương diện tính chất lẫn phương diện
nguồn gốc” đó là “những ý tưởng tập thể thoát thai từ những giấc mơ, từ trí tưởng
tượng” [14, tr.68-69] tập thể xã hội trong hoàn cảnh nhất định nào đó tác động đến.
Carl Jung đã chia tâm thức con người ra làm ba phần: (1) Cái tôi - bộ phận ý
thức của tâm thần; (2) Cõi tiềm thức cá nhân - đó là tất cả những gì không xuất hiện
nhưng thuộc về ý thức. Khi cần sẽ trở thành một phần của ý thức; (3) Vô thức tập
thể. Đây chính là phần quan trọng, khẳng định giá trị học thuyết của Jung. Nếu S.
Freud quan tâm đến bản năng trong cõi vô thức tác động đến ý thức và hành vi con
người, làm nên các giấc mơ, biểu tượng hình thành từ giấc mơ để biểu đạt hành vi
thì với Carl Jung, những kiến thức từ cõi vô thức tập thể luôn có ảnh hưởng lên tất
cả những hành vi của con người. Nội dung của những ảnh hưởng đến từ cõi vô thức
tập thể được gọi là những nguyên mẫu. Đó chính là những tâm thức hệ chủ quan
bao gồm những biểu tượng hoặc những hình ảnh huyền thoại hay những hình ảnh
nguyên thủy. Các nguyên mẫu thuộc về tâm thức di truyền hoàn toàn không có liên
hệ nguồn gốc sinh học. Các nguyên mẫu không mang thuộc tính bản năng mà là
những nhu cầu mang thuộc tính tinh thần. Trong cuốn Thăm dò tiềm thức, Carl Jung
cho rằng: biểu tượng hoàn toàn khác với ký hiệu. Theo ông, “một chữ hay một hình
ảnh sẽ trở thành biểu tượng khi nó gợi đến một cái gì khác ngoài ý nghĩa hiển nhiên
và trực tiếp” [14, tr.18]. Trong khi “ký hiệu không bao giờ nói hết những ý nghĩa
của một ý niệm ghi lại bằng ký hiệu ấy còn biểu tượng gợi đến một nội dung to lớn
hơn ý nghĩa hiển nhiên và trực tiếp của biểu tượng” [14, tr.67]. Đối với các nhà triết
học phân tâm, khi phân tích biểu tượng trước hết họ khảo sát những biểu tượng tự
nhiên, đối chiếu với các biểu tượng văn hóa. Những biểu tượng tự nhiên “thoát thai
từ nội dung phi ý thức của cái psyché (Chữ này Jung dùng để chỉ toàn bộ những tác
động trí thức và tiềm thức và được dùng theo một nghĩa rộng hơn chữ “tâm thần”)
[14, tr.20], còn “những biểu tượng văn hóa dùng để diễn tả những chân lý vĩnh cửu.
Những biểu tượng này đã nhiều lần thay đổi, có thể do một tiến trình cấu tạo có ý thức,
và trở thành những hình ảnh tập thể được các xã hội văn minh chấp nhận” [14, tr.135].
7
Thế kỷ XX với sự phát triển vượt bậc của nhiều chuyên ngành khoa học xã hội
khác nhau như cấu trúc luận, ngôn ngữ học, ký hiệu học, nhân học... đã tác động
mạnh mẽ đến hoạt động nghiên cứu biểu tượng và lý thuyết biểu tượng trên thế giới.
Có thể có nhiều cách giải thích khác nhau về vỏ vật chất, nghĩa và ý nghĩa, giá trị
của một phương tiện giao tiếp, song các nhà khoa học cấu trúc luận, ngôn ngữ học,
ký hiệu học quan niệm ngôn ngữ, ký hiệu gồm hai phần: cái biểu đạt và cái được
biểu đạt. Từ mô hình cấu trúc do Ferdinand de Sausure lập ra với quan niệm ngôn
ngữ là một hệ thống ký hiệu, mỗi ký hiệu ngôn ngữ có hai phần cái biểu đạt và cái
được biểu đạt, nhiều nhà khoa học như Romand Jakobson, Tzvetan Todorov,
Roland Barthes, Jacques Derrida, C. Levi-Strauss kế tiếp nhau dụng hành và phát
triển nó thành hệ thống lý thuyết về cấu trúc luận, ký hiệu học với những giá trị lớn
lao. Roland Barthes đã phát triển mô hình cấu trúc của ký hiệu, cái biểu đạt và cái
được biểu đạt ở một mức cao hơn. Theo đó, “ký hiệu được hình thành từ cái biểu
đạt và cái được biểu đạt ban đầu lại kết hợp với nhau thành mô thức của cái biểu đạt
và cái được biểu đạt cao hơn tạo nên các ký hiệu mới” [38, tr.21]. Cái biểu đạt được
cảm nhận trực tiếp bằng các giác quan, cái được biểu đạt bị che lấp, ẩn sâu, khó
nắm bắt. Hệ thống quan điểm này là chìa khoá giải mã biểu tượng.
Dưới góc nhìn của ngôn ngữ học, biểu tượng là thuộc tính đặc trưng của ngôn
ngữ. Ferdinand de Sausure cho rằng “ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu đã được xã
hội chấp nhận bằng các quy ước... là sản phẩm của văn hóa đặc biệt của loài người.
Một trong những đặc tính quan trọng nhất cấu thành ngôn ngữ chính là tính biểu
tượng được thể hiện thông qua các ký hiệu” [38, tr.24-25]. Với quan niệm này, tác
giả đã thừa nhận “bên cạnh các ngôn ngữ thông thường như ngôn ngữ nói, ngôn
ngữ viết còn có thêm một loại ngôn ngữ quan trọng khác đó là ngôn ngữ biểu
tượng” [38, tr.25] được con người sử dụng trong hoạt động sống của mình. Và
“ngôn ngữ biểu tượng là một thành tố văn hóa do con người tạo ra để sử dụng như
một loại công cụ thông tin và giao tiếp có tính tượng trưng... Tìm hiểu ngôn ngữ
biểu tượng cũng chính là tìm hiểu đời sống văn hóa và xã hội thông qua các biểu
tượng văn hóa do họ tạo ra... Nghiên cứu biểu tượng là khoa học có chức năng sử
8
dụng ngôn ngữ biểu tượng để giải mã các thành tố văn hóa được sản sinh trong đời
sống của con người” [38, tr.27].
Theo Iu. M. Lotman, biểu tượng là một ký hiệu văn hóa. Ông khẳng định “văn
hóa là hiện tượng ký hiệu học. Mọi hiện tượng văn hóa đều có đặc điểm ký hiệu
học. Cho nên, đối tượng của ký hiệu học chỉ có thể là văn hóa, và hướng tiếp cận
văn hóa chỉ có thể là ký hiệu học” [66, tr.9]. Biểu tượng sẽ phải được soi xét dưới
góc độ ký hiệu học. “Biểu tượng được xác định như một ký hiệu, mà ý nghĩa của nó
là một ký hiệu thuộc loại này hay loại khác Hoặc biểu tượng là sự biểu đạt ký
hiệu cho một bản chất phi ký hiệu cao nhất và trừu tượng”. Không dễ gì định nghĩa
biểu tượng, quan niệm về biểu tượng “phải xuất phát từ các quan niệm trực giác do
kinh nghiệm văn hóa mang lại rồi cố gắng khái quát tiếp theo” [66, tr.218-219]. Lý
thuyết ký hiệu học văn hóa của Lotman lấy văn bản làm trung tâm. Ở bình diện biểu
hiện, biểu tượng là một văn bản. “Tức là nó có một ý nghĩa thống nhất đóng kín bên
trong nó”. Khi đó, “văn bản là thông tin chí ít hai lần mã hóa, thông tin được
chuyển tải bằng một ngôn ngữ, là một hiện tượng đa ngữVăn bản không phải là
một cái bọc đựng một nghĩa thụ động, mà là tổ chức “truyền đạt”, “lưu giữ” và sáng
tạo thông tin” [66, tr.11].
Biểu tượng thuộc về văn hóa. Giá trị của biểu tượng không hề bất định mà có
sự dịch chuyển, bổ sung khi nó dịch chuyển từ nền văn hóa này sang nền văn hóa
khác, từ các thiết chế xã hội này sang thiết chế xã hội khác. Tuy nhiên, giá trị ban
đầu vẫn tồn tại cùng nhận thức của xã hội để khi tư duy xã hội vận động thì giá trị
ấy được bổ sung, thêm mới phù hợp. Nghiên cứu biểu tượng trên thế giới vì thế đi
vào chiều sâu tri nhận, đó là thế giới biểu tượng của huyền thoại, chiêm mộng,
phong tục, cử chỉ, dạng thể, các hình, màu sắc, con số mà hai tác giả Jean
Chevalier và Alain Gheerbrant viết nên cuốn Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới,
hay đó thế giới bí ẩn thuộc về tướng số, kinh dịch, phong thuỷ của xã hội phương
Đông, là thế giới linh thú, con vật trong Thánh kinh của Thiên chúa giáo - Cựu Ước
và Tân Ước “không chỉ là vật thể của hiện thực mà còn là biểu trưng của thế giới
tâm thần” được soi sáng dưới lý thuyết phân tâm học về cổ mẫu.
9
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu biểu tượng trên thế giới xoay quanh trục nguồn
gốc biểu tượng, quá trình hình thành biểu tượng hoặc biểu tượng như là một phương
tiện giao tiếp văn hoá, là đơn vị ngôn ngữ nghệ thuật Vấn đề nghiên cứu biểu tượng
trên thế giới không đơn giản dừng lại ở những công trình mà chúng tôi đề cập. Vẫn còn
nhiều quan điểm về lý thuyết biểu tượng mà chúng tôi chưa thể cập nhật bởi nhiều lý
do chủ quan và khách quan. Song thiết nghĩ, những khái quát trên đây cũng nói lên
được trọng tâm của các khuynh hướng tiếp cận biểu tượng trên thế giới.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam
Biểu tượng không còn là đối tượng nghiên cứu mới ở Việt Nam, nhưng những
nghiên cứu về biểu tượng ở nước ta trong suốt thời gian dài vừa qua vẫn còn bỏ ngỏ
nhiều khoảng trống lí luận chuyên sâu, mang tính đặc thù trên từng lĩnh vực đời
sống xã hội. Tình hình nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam chủ yếu diễn ra theo hai xu
hướng chính là dịch thuật các công trình nghiên cứu nước ngoài và vận dụng lí thuyết
đã được dịch thuật để nghiên cứu biểu tượng theo từng lĩnh vực đời sống xã hội.
Về mặt dịch thuật và giới thiệu lý thuyết, có thể kể đến một số công trình đáng
chú ý sau đây: 1/ từ phân tâm học, chủ yếu là tác phẩm của Sigmund Freud, Carl
Jung như: Vật tổ và cấm kỵ (Đoàn Văn Chúc dịch), Nguồn gốc của văn hoá và tôn
giáo (Lương Văn Kế dịch), Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ (Nguỵ
Hữu Tâm dịch), Thăm dò tiềm thức (Vũ Đình Lưu dịch), Jung đã thực sự nói gì
(Bùi Lưu Phi Khanh dịch), Phân tâm học nhập môn (Nguyễn Xuân Hiến dịch),
Phân tâm học về tính dục (Thụ Nhân dịch); các ấn phẩm đề cập đến biểu tượng
trong mối quan hệ với văn hoá tâm linh, nghệ thuật, tình yêu, tính cách dân tộc do
Đỗ Lai Thúy và các cộng sự thực hiện; 2/ từ ngôn ngữ, ký hiệu học văn hóa với Ký
hiệu học văn hóa của Iu. M. Lotman (1922-1993) do nhóm tác giả Lã Nguyên, Đỗ
Hải Phong, Trần Đình Sử thực hiện. Đây là một công trình khoa học tuyển tập các
nghiên cứu đặc sắc, những tư tưởng nòng cốt làm nên lý thuyết ký hiệu học văn hóa
của nhà nghiên cứu văn học, nhà văn hóa học và ký hiệu học nổi tiếng thế giới, một
trong số học giả hàng đầu thế kỷ XX. Cùng hướng dịch thuật, nghiên cứu trên đây
là công trình Từ kí hiệu đến biểu tượng (Trịnh Bá Đĩnh chủ biên) đã nghiên cứu và
dịch tác phẩm của R. Barthes, R. Jakobson, W. Morris, D. Chandler
10
Bên cạnh đó, đáng chú ý là các nghiên cứu của Đoàn Văn Chúc, Đinh Hồng
Hải, Trần Đình Sử, Trần Lê Bảo, Lê Nguyên Cẩn, đã từng bước làm đầy đặn hơn
hướng nghiên cứu biểu tượng văn hóa và văn học ở Việt Nam.
Chúng tôi coi những công trình trên đây có ý nghĩa tạo lập cơ sở lý thuyết và thực
tiễn cho nghiên cứu Biểu tượng học ở Việt Nam. Đây cũng là các công trình lý luận
quan trọng giúp chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Việc nghiên cứu biểu tượng trong văn học cũng là hướng nghiên cứu được
nhiều nhà nghiên cứu chú ý trong thời gian qua. Từ các bài báo nghiên cứu biểu
tượng trong thơ ca, tiểu thuyết như Biểu tượng thơ ca, (Bùi Công Hùng), Vấn đề
nghiên cứu biểu tượng thơ ca dân gian (Phạm Thu Yến), Quan hệ giữa tôn giáo và
thơ ca trong thế giới biểu tượng (Nguyễn Văn Hạnh), Một số biểu tượng mang tâm
thức Mẫu trong “Đội gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh (Hoàng Thị Huế)
đến các công trình, luận án chuyên sâu như: Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao
truyền thống người Việt (Nguyễn Thị Ngọc Điệp), Thi pháp ca dao (Nguyễn Xuân
Kính), Từ kí hiệu đến biểu tượng (Trịnh Bá Đĩnh chủ biên), Tiếp cận văn học từ góc
nhìn văn hóa (Lê Nguyên Cẩn), Thơ Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hóa (Lương Minh
Chung), Biểu tượng trong thơ kháng chiến Việt Nam (Trần Thị Hường) đã khám phá
chiều sâu tác phẩm từ góc nhìn văn hoá, tư tưởng. Các tác giả đã khảo sát biểu tượng
rồi tiến hành giải mã các lớp trầm tích văn hoá, tư tưởng trên các biểu tượng trong tác
phẩm qua đó tìm thấy dấu ấn văn hoá trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà văn.
Biểu tượng rất khó tiếp cận vì tính phức tạp của nó. Ngay cả khi được trang bị
kiến thức về nó, chúng ta cũng không dễ dàng cảm thức đầy đủ giá trị mà nó biểu
đạt. Điều may mắn cho tôi khi thực hiện luận án này là tiếp cận được nhiều công
trình nghiên cứu về biểu tượng trên thế giới bằng tiếng Việt nhờ vào tâm huyết và
trí tuệ của các nhà nghiên cứu, dịch giả Việt Nam. Đấy là nguồn lí thuyết căn bản
để hiểu thế nào là biểu tượng, phân biệt được biểu tượng với các dạng thức tương
cận nó, cũng như xác lập các khuynh hướng tiếp cận biểu tượng. Nhìn chung,
nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam chưa hướng đến xây dựng hệ thống lí luận đặc
thù, chưa thành lập được khoa nghiên cứu biểu tượng độc lập như các chuyên ngành
khoa học khác. Tuy vậy, hoạt động nghiên cứu cũng đạt được kết quả đáng trân
11
trọng. Từ chỗ nghiên cứu biểu tượng như là thuộc tính cơ bản của văn hoá học, đến
nay, nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam diễn ra trên cả diện rộng và chiều sâu ở tất
cả các lĩnh vực xã hội, qua đó thấy được ý nghĩa to lớn của thế giới biểu tượng
trong đời sống xã hội.
1.1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
1.1.2.1. Nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trước 1986
Trong nền văn học Việt Nam, tiểu thuyết lịch sử xuất hiện khá sớm với Hoan
Châu ký, hay còn có tên là Thiên Nam liệt truyện, do tác giả Nguyễn Cảnh thị
(tức người họ Nguyễn Cảnh), biên soạn vào khoảng niên hiệu Chính Hòa (1680 -
1705) đời Lê, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Tiếp đến, nền văn học
hiện đại có Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu, Tiếng sấm đêm đông, Lê Đại
Hành, Hai Bà Trưng đánh giặc của Nguyễn Tử Siêu, đặc biệt là nhiều tác phẩm
của Nguyễn Triệu Luật như Hòm đựng người, Bà chúa chè, Chúa Trịnh Khải, Loạn
kiêu binh, Rắn báo oan đã làm nên dòng văn học riêng trong dòng văn học
chung- văn học hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, trước 1986, những công trình nghiên
cứu về dòng văn học này không nhiều, chỉ là những bài viết ngắn, nhỏ lẻ đăng trên
các tạp chí, thảng hoặc xuất hiện một số nhận định khái quát chung nhân đọc tác
phẩm như trường hợp tác giả Triêu Dương trong bài Mấy ý kiến về tiểu thuyết lịch
sử nhân đọc cuốn “Quận He khởi nghĩa”, đăng trên Tạp chí Văn học số 8/1964 có
đề cập đến chủ đề, nhân vật, phương thức tái hiện các sự kiện lịch sử. Hay Tân Dân
Tử viết lời giới thiệu tiểu thuyết Gia Long tẩu quốc có bàn đến lịch sử đại lược và
tiểu thuyết lịch sử với điểm khác nhau cơ bản là “Lịch sử đại lược có nói đến nhân
vật xuyên sơn, quốc gia hưng phế mà không tả diện mạo, tính tình ngôn ngữ, không
tả tính tình phong cảnh, còn lịch sử tiểu thuyết thì nói đủ các nhân vật xuyên sơn,
tính tình ngôn ngữ, tả tới hỉ nộ, ái ố, trí não tinh thần, tả tới phong cảnh, cỏ hoa, nhà
cửa, đài các, nhành chim lá gió, nhạc suối kèn ve làm cho độc giảdễ cảm xúc vào
lòng, dễ quan niệm vào trí” [57, tr.Pl10]. Nguyễn Triệu Luật trong lời mở đầu tiểu
thuyết Hòm đựng người, và lời tựa tác phẩm Ngọc đường Trường Thi có bàn đến
“Viết lịch sử tiểu thuyết (Roman historique) không cần theo phép của sử học, không
cần có sự thật. Tác giả chỉ tưởng tượng ra một chuyện “có thể có” ở một thời đại,
12
rồi đem chuyện ấy lồng vào khung thời đại ấy. Mục đích là lấy chuyện không đâu mà
làm sống lại một thời đại” [90, tr.5]; “Triệu Luật phỏng theo lối ấy mà viết cuốn lịch sử
tiểu thuyết này. Phần chân sử ở trong tự cũng như có giá mà phần lông bông thêm thắt
may ra cũng có giá. Tưởng đó là lối viết lịch sử tiểu thuyết nên cho nhập cảng vào địa
hạt văn chương ta nên đem ra thử lần đầu” [90, tr.302] Nhìn chung có rất nhiều phát
biểu về tiểu thuyết lịch sử song n... sao đảm bảo tính chân thực
nhưng không nhàm chán. Nhà văn Bùi Anh Tấn cũng quan niệm viết tiểu thuyết
lịch sử không phải là chép lại lịch sử, “vừa dùng tư duy của ngày hôm nay để đánh
giá những việc của người xưa, vừa thâm nhập vào thế giới quan của tiền nhân để
hiểu họ, phân tích, đánh giá việc làm của họ và rút tỉa những bài học lịch sử cho hậu
sanh” [Trả lời Báo Văn nghệ trẻ]. Nguyễn Xuân Khánh cũng nhấn mạnh quan điểm
trên khi trả lời phóng viên Báo văn nghệ trẻ, tháng 10/2015. Theo ông, “tiểu thuyết
lịch sử không phải là kể lại lịch sử, minh họa lịch sử mà là phản ánh những con
người hiện đại” [76].
25
Tóm lại, tiểu thuyết lịch sử là thể tài văn học có đặc thù riêng so với các thể
tài văn học khác. Như tên gọi, thể tài văn học này có sự kết hợp chặt chẽ giữa hai
thành tố lịch sử và tiểu thuyết, chất liệu hiện thực và đặc trưng phản ảnh của loại
hình nghệ thuật ngôn từ. Trong suốt thời gian qua, cùng với lịch sử thăng trầm của
thể tài này, giới nghiên cứu và sáng tác có nhiều phát biểu về tiểu thuyết lịch sử mà
trọng tâm vẫn là mục đích sáng tác, đối tượng nghệ thuật chính sử - dã sử, những
nguyên tắc tiếp cận hiện thực lịch sử. Theo quan niệm truyền thống, tiểu thuyết lịch
sử là sự tái hiện chân thực về lịch sử đã qua. Theo quan niệm hiện đại, tiểu thuyết
lịch sử là diễn ngôn lịch sử dưới cái nhìn của thời đại dân chủ hóa, toàn cầu hóa.
Nhà văn viết về lịch sử theo nguyên tắc “hoài cổ vi kim”.
Chúng ta có thể khái quát những quan điểm nhận thức về tiểu thuyết lịch sử
như sau: 1) Lịch sử là nguồn cảm hứng nghệ thuật trong quá trình sáng tác; 2) Lịch
sử không phải là lâu đài để nhà văn chạy trốn hiện thực đang diễn ra mà là cái cớ để
nhà văn trải nghiệm, chất vấn hiện tại và tương lai; 3) Tính quy mô, bao quát rộng
lớn các vấn đề của hiện thực bằng nhận thức mới của thời đại làm cho các sự kiện,
nhân vật lịch sử trở nên gần gũi với đời sống đương đại hơn so với khoa học lịch sử;
4) Hư cấu nghệ thuật không thể thiếu khi viết về lịch sử. Hư cấu khác với bịa đặt,
viết lại lịch sử.
1.2.2.2. Vài nét về tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
Là một bộ phận của tiểu thuyết đương đại Việt Nam, tiểu thuyết lịch sử giai
đoạn này cũng mang đậm dấu ấn của thời đại mà nó được sinh ra, tồn tại và phát
triển. Điều này phù hợp quy luật tất yếu của văn học nghệ thuật, bởi không một văn
nghệ sĩ nào lại đứng ngoài thời cuộc mà họ đang sống, không hấp thu những giá trị,
những vang vọng của thời đại. Vấn đề có khác chăng là họ chịu tác động của thời
đại ra sao và họ tác động lại xã hội như thế nào qua các sản phẩm mà họ tạo ra. Tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam vẫn bám lấy hiện thực lịch sử xã hội đã qua từ
nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật, hình tượng lịch
sử vẫn là cội nguồn cảm hứng sáng tạo không bao giờ cạn trong nhận thức. Mặt
khác, tính chất dã sử, đối thoại, phản biện thức nhận càng ngày đặt ra và thách thức
“tầm đón đợi” của bạn đọc khi đời sống xã hội và đời sống văn học được mở rộng
26
biên độ tư duy và tư tưởng. Lịch sử dưới cái nhìn của thời đại mới, không còn là những
trang giấy, những con chữ ghi chép xơ cứng mà nó luôn vận động không ngừng trong
mối quan hệ với tác giả và bạn đọc, gắn với các tiêu chí mĩ học sáng tạo và mĩ học tiếp
nhận thời đại mới, dân chủ, đa dạng. Là một thể tài năng động, tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam mang trong nó những khát vọng cách tân nghệ thuật, “làm mới” hiện thực
bằng quan điểm, tư duy của thời đại toàn cầu hóa, dân chủ hóa.
Về mặt nghệ thuật trần thuật: Kết cấu, ngôn ngữ, điểm nhìn, giọng điệu trần
thuật của tiểu thuyết lịch sử đương đại thể hiện rõ nhất sự đổi mới. Từ lối kết cấu
truyền thống theo trật tự thời gian tuyến tính, hay kết cấu chương hồi, đến thời điểm
này, kết cấu đã có sự phá cách táo bạo. Kết cấu phân mảnh, lắp ghép mang dấu ấn
điện ảnh đầy “ngẫu hứng” và kết cấu liên văn bản, tổng hợp nhiều loại hình văn bản
khác nhau cùng xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết theo lối viết hậu hiện đại đã
trở thành “trò chơi” sáng tạo của các nhà văn. Bằng cách xé lẻ tâm trạng của nhân
vật, sự kiện thành nhiều mảng nhỏ, rời rạc và đặt cạnh nhau không tuân theo lôgic
lý tính, cốt truyện truyền thống vì thế mà cũng bị phân rã, phá bỏ. Sự “tráo trở” và
“làm chủ sự tráo trở” cốt truyện là nét đặc sắc trong phong cách các nhà văn.
Về phương diện hiện thực lịch sử: Các nhà văn không ngần ngại gia cố chất
đời tư, thế sự vào các nhân vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ lối tư duy viết tiểu
thuyết lịch sử theo kiểu “chép sử” với mục đích giáo huấn thì đến nay, các nhà văn
đưa thêm vào các tiểu tiết, các giả thuyết lịch sử làm cho tác phẩm trở nên “có vấn
đề”, làm cho các “đại tự sự” thành “tiểu tự sự”, làm cho cái “trung tâm” thành cái
“ngoại biên” để “giải thiêng” các sự kiện, nhân vật, hình tượng lịch sử. “Lịch sử
trong tiểu thuyết lịch sử đã mang trong mình hai lần lịch sử: lịch sử đã qua và lịch
sử thời người viết đang sống” [168]. Có lẽ vì thế mà những tranh luận về chính sử -
dã sử trở thành chủ đề nóng bỏng trên các diễn đàn văn học.
Khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam: Về phương diện này,
Trần Đình Sử cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời đổi mới có rất nhiều tác
phẩm đến được với lòng người, được người đọc trân trọng, yêu chuộng. Điểm đáng
chú ý nhất là nó đã vượt qua mô hình cũ và tạo ra nhiều hướng phát triển có hứa
hẹn. Có hướng “văn chương hóa lịch sử” như Hoàng Quốc Hải với hai bộ trường
27
thiên. Có hướng nghiêng về phương diện văn hóa, đối thoại văn hóa như Nguyễn
Xuân Khánh, có hướng diễn giải lại lịch sử như Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy,
có hướng “phi trung tâm hóa” như Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, có
hướng phi huyền thoại hóa lịch sử như Hội thề của Nguyễn Quang Thân, có hướng
đối thoại với chính sử như Mạc Đăng Dung của Lưu Văn Khuê, có hướng đổi mới
cách nhìn như Biết đâu địa ngục thiên đường của Nguyễn Khắc Phê, có hướng viết
“tiểu sử gia tộc” hư cấu, mà thực ra là viết lịch sử thời đại với con mắt giễu nhại
trong Thời của thánh thần của Hoàng Minh Tường, Dưới chín tầng trời của Dương
Hướng, Cuồng phong của Nguyễn Phan Hách, còn có hướng ngụ ngôn hóa lịch
sử Sáng tạo lại diễn ngôn lịch sử bằng nghệ thuật sẽ là một nguồn cảm hứng lớn
cho các nhà văn Việt Nam hôm nay và ngày mai” [168]. Tuy nhiên, để lí giải sáng
tỏ vấn đề này, thiết nghĩ phải phân tích các đặc điểm của nó dưới góc nhìn lí luận
văn học. Ở đây, chúng tôi chỉ xác định, phân loại các khuynh hướng sáng tác tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam dựa trên một số căn cứ như sau. Căn cứ vào kết
cấu nghệ thuật sẽ có các kiểu loại tiểu thuyết theo kết cấu nhân/quả, tiểu thuyết theo
kết cấu tuyến nhân vật chính diện/phản diện, tiểu thuyết theo kết cấu chương hồi,
tiểu thuyết theo kết cấu mang dấu ấn hậu hiện đại. Căn cứ vào mục đích sẽ có tiểu
thuyết lịch sử chính sử, giáo huấn, tiểu thuyết lịch sử - văn hóa. Căn cứ vào tính
chất và chức năng phản ảnh sẽ có khuynh hướng tiểu thuyết mô phỏng lịch sử và
khuynh hướng tiểu thuyết hư cấu lịch sử.
Tóm lại, sự vận động và phát triển của thể tài tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong dòng chảy văn học dân tộc thời
kỳ này. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945 có đặc
điểm về nội dung thể hiện ở cảm hứng sáng tạo và quan niệm nghệ thuật về con
người. Trong đó, cảm hứng lịch sử và dân tộc, cảm hứng thế sự, cảm hứng đạo lý là
những cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này. Hình tượng con người
anh hùng cứu nước là hình tượng trung tâm. Song, có sự phát hiện độc đáo và chân
thực hơn là nét đời thường ở con người anh hùng phi thường. Đặc điểm kết cấu tiểu
thuyết lịch sử thời kỳ này theo phong cách kết cấu truyền thống: kết cấu theo thời
gian tuyến tính và kết cấu theo tuyến nhân vật chính diện/phản diện. Tiểu thuyết
28
lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1985 có nội dung chủ yếu là yêu nước, nghệ thuật tự
sự theo lối kết cấu chương hồi, kết cấu thời gian, kết cấu nhân quả, ngôn từ nghệ
thuật đậm chất biền ngẫu, nhiều điển tích, điển cố. So với tiểu thuyết lịch sử các
thời kỳ trước đó, tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam có những đặc điểm riêng,
mới mẻ về ngôn ngữ, kết cấu văn bản, điểm nhìn trần thuật, nội dung trần thuật, tư
duy nghệ thuật Tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam vẫn đặt ra nhiều thách
thức khám phá cho đông đảo công chúng văn học.
1.2.3. Hướng tiếp cận của luận án
Tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam có nhiều khuynh hướng sáng tác,
nhưng khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử - văn hóa là khuynh hướng nổi bật hơn cả.
Đó là những diễn ngôn về lịch sử, văn hóa mang cảm quan nghệ thuật thời đại dân
chủ, hội nhập.
Bên cạnh ngôn ngữ là chất liệu làm nên tác phẩm, biểu tượng nghệ thuật cũng
là một đơn vị ngôn ngữ tham gia kiến tạo diễn ngôn lịch sử. Khi xem biểu tượng là
một đơn vị ngôn ngữ/ ký hiệu chúng tôi sẽ xét đến nghĩa định danh, gọi tên sự vật,
hiện tượng; nghĩa tri nhận, lí tính, phân biệt sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng;
đặc biệt biểu tượng không phải là một vật thay thế trực tiếp cho một cái khác nó, ngoài
nghĩa quy ước một cái gì cụ thể thì đến lượt cái cụ thể đó mang nghĩa chuyển tiếp ở cấp
độ khác qua đặc trưng phản ánh của loại hình nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh đó, chúng tôi
phân tích, làm rõ nguyên tắc, phương thức kiến tạo biểu tượng nghệ thuật nhằm làm cho
biểu tượng biểu đạt hiệu quả nhất thông tin mà nó đa mang và sự tham gia của biểu
tượng vào kết cấu văn bản nghệ thuật.
Vấn đề hệ biểu tượng cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau. Xem xét cấu tạo
và cách xếp đặt của biểu trưng, J.Lacan cho rằng “hệ biểu tượng chỉ loại hiện tượng
mà khoa phân tâm học quan tâm trong chừng mực chúng được cấu trúc như một
ngôn ngữ” [67, tr.XXII]. S.Feurd nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa cái vỏ vật
chất/bên ngoài và nội hàm được biểu đạt/bên trong, ông cho rằng “hệ biểu tượng là
tập hợp những biểu tượng có ý nghĩa ổn định có thể tìm thấy trong các sản phẩm
khác nhau của vô thức” [67, tr.XXII]. Trong Luận án tiến sĩ Thơ Hoàng Cầm từ góc
nhìn văn hoá, tác giả Lương Minh Chung cho rằng “Hệ biểu tượng là những giá trị
29
mang tính kết tinh, là thuộc tính cơ bản của một nền văn hoá” [18, tr.61]. Theo hai
nhà nghiên cứu Jean Chevalier và Alain Gheerbrant thì “Hệ biểu tượng, một mặt tập
hợp các quan hệ và các giải thích gắn với một biểu tượng, chẳng hạn hệ biểu tượng về
lửa, mặt khác tập hợp các biểu tượng đặc trưng cho một truyền thống, như hệ biểu
tượng Pháp truyền Kinh Thánh hay hệ biểu tượng của người Maya, hệ biểu tượng nghệ
thuật Roman; cuối cùng là nghệ thuật giải thích các biểu tượng, bằng phân tích tâm
lí, bằng dân tộc học so sánh, bằng cơ chế và kĩ thuật của sự tích hội [67, tr.XXII]. Tóm
lại, hệ biểu tượng là tập hợp, hệ thống những biểu tượng có chung nguồn gốc hoặc cơ
chế nảy sinh từ hệ hình tư tưởng, văn hóa, tín ngưỡng cộng đồng.
Tiểu kết Chương 1
Tiểu thuyết lịch sử, tự tên gọi của nó đã thể hiện đặc trưng thể loại là hư cấu-
sử liệu. Nhưng thế nào là hư cấu, sử liệu nào làm bình diện nội dung cho tác phẩm
nghệ thuật? Những quan điểm khác nhau về vấn đề này phản ánh sự khác nhau
trong tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ, từ đó hình thành những khuynh hướng
sáng tác tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam. Về nguyên tắc, tiểu thuyết lịch sử
không khác gì so với tiểu thuyết thông thường, cái khác ở đây là hiện thực đã qua -
sự vĩ đại của lịch sử được nó thể hiện như thế nào. Xuất phát từ quan điểm hiện
thực lịch sử cần được tôn trọng, sẽ đưa đến khuynh hướng lịch sử hóa tiểu thuyết.
Nhưng với quan điểm “hoài cổ vi kim”, lịch sử tự thân nó là những kí hiệu sẽ làm
nên khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử. Cũng cần nói thêm rằng, việc nhà văn
“triệu hồi”, “phục dựng” lịch sử qua các trang tiểu thuyết khi chính họ thấy nhu cầu
lịch sử cần phải được giải mã. Không hẳn các nhà văn là những nhà tư tưởng nhưng
họ đã mẫn cảm thấy rõ sự lãng quên lịch sử dân tộc, sự đánh mất bản sắc văn hóa
dân tộc trong thế giới phẳng ngày nay của con người hiện tại là có lỗi với lịch sử,
thời đại và hậu thế.
Nhìn từ triết học của sự tồn tại, con người có ba mối quan hệ chính đó là: tự
nhiên, cộng đồng nhân loại, lịch sử - văn hóa. Đây cũng chính là ba thành tố làm
nên ba hệ biểu tượng cơ bản trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam gồm có
hệ biểu tượng tự nhiên, hệ biểu tượng con người, hệ biểu tượng văn hóa cộng đồng.
Tuy nhiên, từ biểu tượng văn hóa đến biểu tượng văn học là hành trình nhà văn tạo
30
mã mới cho thế giới biểu tượng. Con người tạo ra thế giới nhờ biểu tượng, thông
qua biểu tượng nhận thức thế giới. Nghĩa nguyên sơ của biểu tượng có thể do ngẫu
nhiên hoặc từ những quy ước mà có, gắn với quá trình tư duy tập thể. Biểu tượng
thuộc về văn hóa, nó có thể dịch chuyển từ thời đại này sang thời đại khác hoặc mất
đi nếu như giá trị/ý nghĩa của nó không được con người tái tạo, bồi đắp. Vậy nên,
khi những biểu tượng ấy trở thành biểu tượng nghệ thuật, đòi hỏi nhà văn cấp mã
mới sao cho nó thực hiện được chức năng liên văn hóa, liên văn bản, kết nối với đời
sống đương đại. Không phải tất cả biểu tượng văn hóa xuất hiện trong tác phẩm văn
học đều trở thành biểu tượng nghệ thuật mà chỉ có những biểu tượng được nhà văn
tái lập mã mới, thiết lập được kênh giao tiếp với đời sống đương đại mới trở thành
biểu tượng nghệ thuật. Thế giới biểu tượng nghệ thuật ấy đã diễn đạt hiệu quả nhất,
chuyển tải hữu dụng nhất những khát vọng, thông điệp của nhà văn về lịch sử và văn
hóa dân tộc trước đời sống đương đại.
Mỗi tác phẩm là một cách ứng xử của nhà văn trước lịch sử và văn hóa.
Phương tiện để nhà văn thể hiện cách ứng xử ấy không chỉ có ngôn ngữ mà còn có
thế giới biểu tượng. Khảo sát tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, chúng ta
không ngạc nhiên khi các trang tiểu thuyết lấp lánh hệ thống các biểu tượng tự
nhiên, con người, văn hóa, tín ngưỡng Các chương tiếp theo của luận án sẽ đi sâu
khảo sát và phân tích các biểu tượng cơ bản, tìm hiểu những phương thức kiến tạo
và ý nghĩa của từng hệ biểu tượng để qua đó thấy được bản chất của lịch sử và văn
hóa qua cái nhìn của nhà văn đương đại, những bài học nhân sinh rút ra cho hậu thế
từ lịch sử và văn hóa dân tộc thông qua các hệ biểu tượng.
31
CHƯƠNG 2
HỆ BIỂU TƯỢNG TỰ NHIÊN
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
Hệ biểu tượng tự nhiên xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam. Đây là những biểu tượng có sức sống vĩnh hằng cùng với lịch sử văn hoá
nhân loại, được các nhà văn mã hoá thành biểu tượng nghệ thuật vừa mang nghĩa
nguyên sơ vừa được bồi đắp thêm giá trị khi đi qua các hệ hình văn hoá, tư tưởng xã
hội khác nhau. Xuất hiện trong tác phẩm nghệ thuật, hệ biểu tượng tự nhiên khoác
lấy vỏ âm thanh của ngôn ngữ, làm thành phương tiện nghệ thuật. Trong tiểu thuyết
lịch sử đương đại Việt Nam, những biểu tượng tự nhiên mà chúng tôi khảo sát như
Nước, Lửa, Đất, Trời và các biến thể của nó hoặc xuất hiện nhiều lần, tham gia trực
tiếp vào kết cấu tác phẩm hoặc xuất hiện không nhiều nhưng đã mở ra khả năng
khám phá đời sống văn hoá xã hội và con người.
2.1. Các biểu tượng Nước, Lửa, Đất, Trời
2.1.1. Biểu tượng Nước và các biến thể
Nước là một trong tứ đại mẫu gốc tự nhiên (Nước, Lửa, Khí/Trời, Đất) có giá
trị phổ quát trong mọi nền văn hoá nhân loại. Những dạng thể tồn tại của nước rất
phong phú, đa dạng như biển, sông, suối, thác ghềnh, ao, hồ, đầm, vực, mưa, nước
mắt, dòng sữa Đó là tất cả dạng thức tinh thể lỏng, bay hơi và ngưng tụ. Là một
thực thể tự nhiên mang giá trị văn hóa phổ quát, nước và các dòng sông trên con
đường hình thành biểu tượng nghệ thuật, mang giá trị văn hóa tộc người khi nó
phản ánh được tâm thức cộng đồng dân tộc và thời đại nào đó, kết nối và phản chiếu
cuộc đời của các nhân vật lịch sử.
Nhìn từ đặc điểm địa lí- lịch sử, biểu tượng nước với biến thể sông, suối, kênh,
rạch để lại những dấu ấn đậm nét trong đời sống văn hóa, lịch sử dân tộc Việt
Nam. Nước gắn liền với hệ thống sông suối, kênh rạch và lưu trình của nó làm
thành hệ thống giao thông quan trọng trên dải đất Việt này. Ngay từ xa xưa, các lưu
vực sông lớn luôn là địa điểm trọng yếu để xây dựng kinh đô phong kiến Đại Việt,
từ đó hình thành trung tâm văn hoá- chính trị- kinh tế của các vùng miền. Không
32
phải ngẫu nhiên mà các dòng sông Bạch Đằng, Như Nguyệt, Sông Lam, Sông
Gianh, Sông Hương, Sông Côn có sức sống vững bền trong tâm thức dân tộc Việt
mà nó là những chứng nhân lịch sử, là những biểu tượng cho truyền thống đấu tranh
dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam. Xuất hiện trong tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam, những dòng sông lịch sử được nhà văn miêu tả trong mối gắn
kết mật thiết với các yếu nhân Đại Việt trong tiến trình lịch sử dân tộc. Hình ảnh
người anh hùng Lý Thường Kiệt đại thắng quân Tống trên sông Như Nguyệt, Nhà
Trần với ba lần đại thắng quân Nguyên Mông trên dòng Thiên Đức, Bạch Đằng
giang xuất hiện khá nhiều trên các trang văn của Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ, Vũ
Ngọc Đĩnh, Bùi Anh Tấn, Hoàng Quốc Hải, Trần Thanh Cảnh có ý nghĩa biểu
tượng khẳng định quá khứ hào hùng của dân tộc Việt Nam trong các cuộc chiến
tranh với giặc dữ phương Bắc, như muốn đánh thức ý chí của con dân đất Việt hôm
nay cần gìn giữ và phát huy truyền thống yêu nước trong bối cảnh lịch sử đương
đại. Nhưng cũng từ những dòng sông ấy, với cái nhìn nghệ thuật thời đại mới, các
nhà văn đã miêu tả những dòng sông chiến địa không chỉ lưu dấu hào hùng của kẻ
chiến thắng mà bên cạnh đó, sau mỗi trận chiến, sông nước làm chứng cho thảm
cảnh tang thương. Trong tiểu thuyết Hội thề, nhà văn Nguyễn Quang Thân đau xé
cõi lòng khi nói đến dòng Nhị Hà. Mải miết chảy cứ ngỡ hồn nhiên và lặng lẽ
nhưng dòng sông ấy, “ con sông mẹ vẫn mênh mông, lặng lẽ đổ về xuôi ngày đêm
mang theo trong dòng nước nâu hồng chất chứa oan khiên khổ nạn của mấy chục
năm tan nhà mất nước” [148, tr.63]. Nguyễn Trãi nhìn ra sông, Ông nghĩ “Sông
Nhị Hà chưa một ngày được bình yên đưa phù sa tưới nhuần cây cỏ, ruộng đồng.
Triều Lý rồi Trần, sông này vẫn là con sông trận mạc” [148, tr.78]. Trong Sông
Côn mùa lũ, nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã khắc họa khung cảnh chiến trường lặng
ngắt, không một âm thanh, “những cột buồm đơn côi, như những nén hương khổng
lồ cắm rải khắp một quãng sông dài, tựa như một bãi tha ma dưới nước. Và dòng
sông đỏ lựng màu máu cứ lững lờ trôi xuôi” [36, tr.550] như xoáy sâu vào nỗi tang
thương của bao số phận, cuộc đời nhỏ bé bị chiến tranh cuốn theo. Có thể thấy rằng,
đằng sau chiến thắng hay thất bại của những thế lực chính trị trên mặt trận quân sự
là nỗi đau, nỗi mất mát của nhân dân vô tội. Vậy nên, tiếng nói phản kháng chiến
33
tranh, thể hiện tinh thần yêu chuộng hòa bình cần được nhìn nhận từ số phận của
nhân dân, những con người vô tội bị cuộc chiến lôi kéo chứ không thể chỉ từ kết quả
phân định thắng bại của các lực lượng tham chính. Thắng trận hay bại trận trên đấu
trường quân sự đều là sự thất bại của chiến tranh bởi hậu quả nặng nề nó để lại
trong đời sống nhân loại.
Các biểu tượng vốn dĩ đã có mã giá trị trong tâm thức cộng đồng. Nhìn từ
phương diện văn hóa, biểu tượng nước tại một số nước châu Á “có thể xem xét trên
hai bình diện hoàn toàn đối lập Nước là nguồn sống và là nguồn chết, có chức
năng tạo dựng và tiêu huỷ” [67, tr.711]. Tâm thức văn hoá cộng đồng dân cư châu
Á, trong đó có người Việt, xem nước là dạng thức thực thể của thế giới, là biểu
tượng của “tính thanh khiết, tính hiền minh, tính khoan dung và đức hạnh” [19,
tr.710]. Trong các tác phẩm, nhà văn sử dụng hệ thống biểu tượng đó để xây dựng
biểu tượng thẩm mĩ bằng cách gắn kết văn hóa cộng đồng với đối tượng lịch sử cụ
thể, qua đó vừa lưu giữ giá trị nguyên khôi, vừa dùng giá trị ấy để nói lên ý nghĩa
lịch sử của đối tượng được đề cập hay cụ thể hoá các giá trị ấy qua biểu đồ tâm hồn,
dòng đời các nhân vật và lịch sử xã hội. Biểu thị giá trị này thể hiện rõ qua cách
miêu tả nguồn nước giếng làng của cộng đồng cư dân người Việt trên các trang tiểu
thuyết. Nếu trong tiểu thuyết Minh sư, nhà văn Thái Bá Lợi đã khai thác giá trị
thiêng của nước/giếng để khẳng định tính đúng đắn và tài năng của Nguyễn Hoàng
khi khai mở trời Nam thì trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh lại khai
thác nghĩa ngưng đọng, tắc nghẽn của nước/giếng khi bàn về chính sự Nhà Trần.
Tính chất lưỡng diện đối lập về nghĩa của biểu tượng nước thể hiện qua những chi
tiết nói lên sự thành bại của yếu nhân lịch sử. Hay tin Nguyễn Hoàng lập nghiệp
trên đất Thuận Hóa, với ước vọng và lòng thành không nói được nên lời, làng nghèo
không có gì xứng đáng, dân làng Thuận Hóa dâng lên Đoan Quận Công bảy vò
nước giếng thiêng, trong khiết như là “điềm trời ban cho quận công cả một giang
sơn” [87, tr.39]. Sau khi Hồ Quý Ly giúp Trần Nghệ Tông đánh bại loạn quân
Dương Nhật lễ, khôi phục triều Trần, chính sự tạm yên, Quý Ly nhận xét, “nước ta
như cái giếng khơi để lâu năm, dưới đáy có nhiều bùn nhơ lắng cặncó thể nói cái
giếng cũ toàn một thứ nước tanh tưởi, những nguồn thuỷ sinh, những mạch nước
34
ngầm trong và mát đều đã bị bịt kín Bệ hạ lên ngôi đó là một trận mưa rào”
[77, tr.120]. Nếu nguồn nước giếng thường được dùng trong đời sống sinh hoạt
hằng ngày, “để giữ cho mạch nước trong linh thiêng này, người làng chỉ dùng nước
giếng vào những việc như tế làng, múc nước về cúng tổ tiên ngày đầu năm, và các
sự kiện trọng đại khác” [87, tr.38]. Ngược lại, giếng và nước nếu không được khơi
sâu, gìn giữ sẽ là ao tù, nước đọng bẩn dơ biểu thị cho những mặt trái, cái xấu của
xã hội và con người. Giếng và nước qua hai trường hợp được phân tích trên đây đã
vượt qua nghĩa biểu tượng của đời sống sinh hoạt làng Việt trở thành biểu tượng
cho sự thăng trầm một triều đại, cho những nhân cách lịch sử.
Sông là một biến thể của nước. Biểu tượng sông hay dòng nước chảy đồng
thời là biểu tượng của sự phong nhiêu, của cái chết và sự đổi mới. Giá trị này biểu
tượng sông nước được các nhà văn tái tạo khi phản ánh dòng đời của các nhân vật
lịch sử. Trong tác phẩm Giàn thiêu, nhà văn Võ Thị Hảo đã khéo léo tạo dựng sức
sống bền vững cho những giá trị của biểu tượng nước trong tính đối lập, lằn ranh
mong manh giữa sự sống và sự chết qua cuộc đời, tâm hồn của các nhân vật. Sông
Gâm và thác nước của con sông này phản chiếu khá rõ dòng đời của Từ Lộ. Ngược
dòng sông Gâm, chiếc bè dưới tay sào Từ Lộ vẫn luồn lách qua những mõm đá
ngầm cây đổ sóng dữ. “Càng lên thượng nguồn nước sông càng chảy xiết Những
thân cây đổ từ thượng nguồn trôi về lập lờ trên mặt nước như những thay người
chết đuối vừa bị hồn quỷ nhập chỉ phăm phăm nhằm thẳng bè của chàng mà sầm
sập lao tới” [52, tr.201-202]. Từ Lộ thấy cả thế giới này đang bủa vây lấy chàng,
những hiểm nguy khôn lường cứ hiện ra. Nếu dòng nước sông Gâm khi Từ lộ
ngược dòng là dòng chảy của sự chết, thể hiện lòng hận thù dâng cao trong tâm hồn
và trí nghĩ, những khổ đau mà chàng nếm trải bấy nhiêu thì khi Từ Lộ xuôi dòng
buông trôi, dòng sông lại cuốn phăng những đắng cay, thù hận rồi tắm táp cho
chàng những ngọt ngào hạnh phúc, cho sự tái sinh tâm hồn, cho tình yêu của chàng
và Nhuệ Anh. “Con bè tuột dây neo từ từ tách bến Đá trôi xuôi. Chỉ còn lại Từ Lộ,
Nhuệ Anhbao nhiêu căm uất hận thù chứa chất trong lồng ngực, bóp nghẹt trái
tim chàng từng ấy ngày đêm cũng theo đó mà tan ra mất dạng” [52, tr.211-213].
35
Biểu tượng nước mang tâm thức Mẫu cứu rỗi cuộc đời con người thể hiện khá
rõ nét trong nhiều tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam. Nước tuôn chảy từ các
nguồn như người mẹ hiền dung dưỡng phù sa làm cho cây cối, vạn vật sinh sôi, phát
triển. Trong tiểu thuyết Giàn thiêu, nhà văn Võ Thị Hảo đã thổi luồng sinh bất diệt
vào biểu tượng nước. Nước tuôn chảy từ trời - mưa, là biểu tượng cho sự ban phúc.
Những cơn mưa trời đã tưới tắm cho tâm hồn, cho tình yêu và thể xác của Từ Lộ -
Nhuệ Anh thăng hoa. “Những giọt mưa dội xuống thân thể lúc này lại dịu dàng êm
ái, mỗi giọt mưa chạm xuống như mang theo một hơi thở nồng nàn sưởi ấm cơ thể
nàng” [52, tr.211] đã kéo Nhuệ Anh và Từ Lộ hoà quyện vào nhau trong niềm
khoái lạc mênh mang và nỗi đau trần thế kì diệu. Nước cứu sống chàng Cá Bơn khi
cậu bé bị dì ghẻ quăng xuống sông. Nước và chàng Cá Bơn cứu sống Nhuệ Anh khi
nàng buông tay xuống Thác Oán. Nguồn nước là một biểu tượng của tình mẫu tử.
Những giọt sữa của Dã Nhân đã cứu lấy Từ Lộ. Nước thanh tẩy và gột rửa những
bụi bẩn trần tục để con người trở nên cao cả đẹp đẽ hơn. “Mưa trở về trời/ Nu na nu
nời/ Ru trời/ Trời ơi” [52, tr.339] là dòng nước mát lành xoa dịu không khí hừng
hực của giàn thiêu nhân thế, cởi bỏ lớp áo bào của đức hoàng đế và cung nhân để
Thần Tông và Ngạn La tan biến vào khung trời trẻ thơ, mộng mơ đáng yêu. Những
giọt nước mắt của sư bà Động Trầm “chảy đến đâu, những đám lông vằn vện tuột
ra từng đám, rồi lột hết, lộ ra thân mình của đức vua với nước da trắng xanh, thư
sinh nho nhã” [52, tr.563]. Giọt nước mắt ấy đã xoá hết lịch sử của một đời người
từng trải qua những kiếp nạn và khôi phục con người trong một trạng thái mới.
Trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh miêu tả
nước dày đặc: 273 lần. Đó là nước mưa, sông, sữa. Là Mẫu Mẹ, nước nuôi dưỡng
đời sống tinh thần. Đó là thứ “thứ nước tinh khiết từ rừng, từ suối bốc lên, rồi rơi
xuống bốn cái tán lá cau xanh tươi đó, rồi theo cuống phễu tức là bốn thân cây
chảy xuống đến ngang tầm miệng bể, gặp bốn tàu cau buộc ngang thân cây ngăn
lại, rót nước vào bể” [78, tr.63] mà trời ban phúc cho con người. Nước mưa ở cái
bể cụ Tiết vì thế mà rất ngon, rất quý, đã đánh thức khát vọng tâm hồn mỗi người
như cụ Tiết, Điều, Trịnh Huyền, Nhụ; Đó là sữa, nguồn dinh dưỡng cứu sống cho
con người trên bờ vực cái chết. Cả làng Cổ Đình rơi vào đại dịch tả, người mắc dịch
36
liệt giường chiếu rồi “ra đi luôn”. Ông lý Cỏn đang trong cơn thập tử nhất sinh vì
bệnh nhưng “cái vú mềm mại và bóng mượt” của bà Ba Váy như có cách gọi riêng
của nó, để rồi chồng bà, ông lý Cỏn bám vào đôi bầu vú, “bú sữa mới được hai
ngàyđã khá hẳn lên. Đến ngày thứ ba, ông mở được mắt raThế là ông tỉnh lại
rồi” [78, tr.578]. Điều cũng vậy, không thể thoát khỏi lưỡi hái tử thần nếu không có
bầu sữa của Nhụ giữ cái vong linh lay lắt chỉ chực vụt bay đi mất Sữa là nguồn dinh
dưỡng đầu đời của mỗi con người mà trong sử thi Ramayana Ấn Độ, trong đạo Hindu
giáo, trong tâm thức của người Maya, trong Kito giáo hay đạo Hồi luôn đề cao giá trị
“là thức uống của sự sống... là biểu tượng của sung túc, màu mỡ là biểu tượng của sự
bất tử” [67, tr.835-836]. Sữa là biểu tượng thái âm, nữ tính ở mức cao nhất, gắn với sự
đổi mới thanh xuân. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã miêu tả rất ấn tượng vẻ đẹp
thiêng liêng đậm tính phồn thực, mẫu tính là bộ ngực, bầu vú và nguồn sữa của những
người phụ nữ là nguồn thức uống bất tử, cứu rỗi con người làng Cổ Đình.
Tóm lại, các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đã khai phóng tính
chất của nước theo tư duy nghệ thuật thời đại mới. Tâm thức lịch sử, văn hóa nhân
loại và dân tộc, “những dòng nước chết chỉ nhằm vào những kẻ có tội, đối với
những người chính trực, những dòng nước đó hoá thành nước của sự sống” [67,
tr.713]. Với ý nghĩa mang tâm thức Mẫu, nước và các biến thể tái sinh những kiếp
sống trong ý nghĩa thiêng liêng nhất, với ý nghĩa là dòng chảy cuộc đời, nước và
các biến thể nhiều khi đưa đến sự chết chóc, hủy diệt.
2.1.2. Biểu tượng Lửa và các biến thể
Lửa tồn tại một cách bí ẩn trong tự nhiên. Việc loài người phát hiện ra lửa đã
đánh dấu bước tiến hóa quan trọng, làm thay đổi căn bản thói quen, phong tục, tập
quán sinh hoạt của họ. Từ chỗ con người sử dụng lửa trong đời sống sinh hoạt
thường nhật như để nấu chín thức ăn, nước uống, xua đuổi thú dữ đến việc linh
thiêng lửa, thần thánh hoá lửa, thờ bái lửa đã phản ánh đầy đủ, sâu sắc giá trị bản
thể cũng như vai trò của lửa trong đời sống sinh hoạt và văn hoá tâm linh của con
người. Trong cuốn Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Chevallier và Alain
Gheerbart cho rằng lửa vừa tượng trưng cho sự văn minh, chân lí, soi sáng, tẩy uế,
hồi sinh, sinh sôi nảy nở vừa tượng trưng cho sự tàn phá, huỷ diệt, thiêu cháy. Đó
37
là ngọn lửa tư duy, trí tuệ, ngọn lửa tinh thần, tình yêu, ngọn lửa của dục vọng, thù
hận, ngọn lửa chiến tranh. Như vậy, lửa là biểu tượng có tính lưỡng diện. Đặc tính
căn bản của lửa là phát ra ánh sáng, toả nhiệt và đốt cháy, thiêu huỷ. Các nhà tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam tri dụng lửa trong các tác phẩm theo tinh thần
lưỡng diện ấy. Lửa vừa là biểu tượng cho chiến loạn, hận thù tàn phá, chết chóc vừa
tượng trưng cho niềm tin, sức mạnh, trí tuệ, khai sáng và tái sinh trong mối tương
liên với thời đại lịch sử và con người thời đại.
Lửa thiêu đốt, huỷ diệt đó là ngọn lửa chiến tranh, dục vọng tham tàn, thù hận,
trừng phạt. Hiện thực lịch sử được tái hiện trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt
Nam phần lớn là hiện thực chiến tranh tham tàn giữa các lân bang phong kiến
phương Bắc với Đại Việt, Việt với Chiêm. Không khí chiến tranh bao trùm xã hội,
có thể cảm được, ngửi được mùi thuốc súng, mùi lửa, mùi máu me và chết chóc lan
tận nơi nơi. Đặc biệt, các cuộc chiến tranh của Đại Việt chống lại phong kiến
phương Bắc bao giờ cũng diễn ra vô cùng ác liệt, người chết như rạ, lấp kín các
dòng sông. Để khắc hoạ bức tranh tang thương ấy, các nhà văn thường dùng biểu
tượng lửa và các biến thể của lửa để tạo điểm nhấn, gây ấn tượng mạnh. Lửa tàn sát
giết người là súng đạn, hoả công do các thế lực cầm quyền sử dụng trong chiến trận,
máu và nước mắt tưới lên nhau làm nên cảnh thảm sát. Trong Thăng Long nổi giận,
Ho...hĩ về lịch sử. Từ mẫu
hình về đấng minh quân, anh hùng hào kiệt ăn sâu vào trong tiềm thức văn hóa,
được nhân dân sùng bái, thánh hóa đến nhân vật tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt
Nam là một hành trình mang tính lịch sử của hệ hình tư duy nghệ thuật mới. Tiểu
thuyết không bao giờ cũ. Tiểu thuyết lịch sử là chiếc la bàn định vị những giá trị
lịch sử đã qua trong bối cảnh xã hội mới. Những nhân vật, sự kiện và góc khuất lịch
sử được các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam “viết lại” trên tinh thần của
thời đại hội nhập với độ mở về giá trị tư tưởng và thẩm mỹ rõ nét. Những nhân vật
lịch sử như: Hồ Quý Ly, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, những
mỹ nhân chốn cung đình được các nhà tiểu thuyết định vị lại chân giá trị như là
những biểu tượng trong đời sống chính trị - xã hội của dân tộc. Quay về với lịch sử
mấy nghìn năm của dân tộc không hề là sự bế tắc của nhà văn đương đại trước cuộc
sống hiện nay mà từ những thành công và thất bại của các vương triều hay cá thể
lịch sử nhà văn hướng tìm chân lí trước thực tại đang diễn ra. Nếu như trong văn
học Việt Nam trước đổi mới, thế giới biểu tượng con người trong tiểu thuyết của
Chu Thiên, Hoa Bằng, Nguyễn Huy Tưởng,.. mang tính đại chúng, gắn kết cộng
đồng, thể hiện tư tưởng chính trị, giai cấp thì trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam biểu tượng gắn với văn hóa, tâm thức dân tộc. Bởi lẽ quá trình hình thành
và vận động của tiểu thuyết lịch sử vừa mang tính loại hình khu biệt vừa chịu sự tác
144
động bởi các yếu tố của thời đại sản sinh ra nó. Mỗi nhà tiểu thuyết lịch sử sẽ chọn
cho mình một điểm tựa nào đấy từ lịch sử để dấn thân trên con đường nghệ thuật, để
tường giải hiện tại và hướng đến tương lai. Có tác giả tái hiện rộng rãi, dằng dặc cả
mấy trăm năm lịch sử của một triều đại bằng các bộ trường thiên tiểu thuyết nhưng
cũng có nhà văn chỉ chọn một thời khắc lịch sử, một sự kiện diễn ra để viết nên tác
phẩm. Không ai quy ước tỉ lệ hiện thực lịch sử được phép hư cấu trong mỗi tác
phẩm là bao nhiêu phần trăm nhưng hư cấu nghệ thuật ở đây không phải là sự tùy
tiện phóng đại, bịa đặt, thêm bớt cho nhân vật, sự kiện lịch sử những tâm tư tình
cảm, những tư tưởng ý nghĩ ngược lại với thời đại. Nhà văn có quyền chất vấn lịch
sử, phản biện lịch sử để thấy được sự tiến bộ hay tụt hậu của lịch sử nhưng không vì
thế mà gán ghép, chắp vá lịch sử. Các nhà văn, hoặc xem tiểu thuyết lịch sử là tấm
gương phản chiếu trung thực thời đại đã qua hoặc xem mỗi tác phẩm là một diễn
ngôn thời đại mới... Dù tìm về lịch sử từ điểm nhìn nào chăng nữa thì nguyên lý của
sáng tạo nghệ thuật không bao giờ hướng đến bạn đọc đã tồn tại trong quá khứ mà
hướng đến con người đương đại và tương lai, các nhà văn thường chọn điểm tựa từ
nguyên tắc “dĩ cổ vi kim” khi viết về lịch sử trong bối cảnh thời đại mới. Hơn nữa,
nền tảng làm nên sự đổi mới ấy có thể bắt đầu từ nội lực nhu cầu cần đổi mới của
văn học nước nhà, cũng có thể luồng gió mới của thời đại hội nhập, giao thoa văn
hóa đã cuốn theo sự đổi mới tư duy nghệ thuật về con người trong quá trình sáng tác
đã chi phối mạnh mẽ đến bút pháp sáng tạo của nhà văn nói chung, đến việc xây
dựng hệ biểu tượng con người với nguyên mẫu từ các nhân vật lịch sử nói riêng. Hệ
biểu tượng con người trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam vì thế cũng trở
nên sinh động, chân thực, có “đời sống mới”, gần gũi hơn với thời đại hôm nay.
Nhân vật lịch sử, nhất là các vĩ nhân đã từng được phong thánh trở nên thân thiện
hơn với đại chúng nhân dân. Đằng sau con người lịch sử là con người tự nhiên nhi
nhiên, những khuất lấp phía sau các thánh nhân lịch sử được khơi sâu, mô tả thế nào
đó để cho họ không sụp đổ về mặt hình tượng. Mục đích của giải thiêng là để lịch
sử và hiện tại càng gần nhau thì những bài học lịch sử được con người đương đại dễ
dàng tiếp cận với ý nghĩa sâu sắc, nếu dân tộc nào biết rút ra từ lịch sử của mình
những bài học, thì dân tộc đó có trí khôn và sức mạnh gấp đôi.
145
4. Thành tựu quý giá nhất của sự phát triển xã hội là văn hoá. Chỉ có văn hóa
mới xuyên thấm qua các thiết chế xã hội. Biểu tượng thuộc về văn hóa. Do vậy, ở
cấp độ phản ánh cao hơn, biểu tượng trong tác phẩm nghệ thuật sẽ phản ánh được
thuộc tính văn hóa tộc người. Sự đồng hóa văn hóa tộc người diễn ra rất khó, nhưng
hễ đồng hóa được văn hóa nghĩa là sự tồn vong của dân tộc lại bị xâm hại tột đỉnh.
Từ góc nhìn này, các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại không chỉ tái dựng lại thời
đại đã qua bằng các nhân vật, sự kiện lịch sử mà quan trọng lồng xen vào đó bản sắc
văn hóa dân tộc Việt với các lễ hội, tín ngưỡng, phong tục, tập quán... Những bộ
tiểu thuyết như Giàn thiêu, Đội gạo lên chùa, Mẫu thượng ngàn, Đức Thánh Trần
không hẳn gọi tên rành mạch như tên thể tài lịch sử mà liền sau đó phải thêm danh
xưng văn hóa, phong tục bởi thấm đẫm trên mỗi trang viết là sự lồng ghép đan xen
các lễ hội văn hoá dân gian truyền thống người Việt. Trong tất cả các khía cạnh đa
dạng của văn hoá truyền thống dân tộc, có thể thấy tri thức địa phương là nền tảng
cơ bản nuôi dưỡng đời sống tinh thần xã hội Việt Nam, đáp trả sự cưỡng đoạt văn
hoá, xâm thực văn hoá từ bên ngoài trong quá trình giao lưu, mở cửa của đất nước.
Nếu thuyết luận tiến hoá xem xét nền văn hoá châu Âu là chuẩn mực của sự tiến bộ
và phát triển thì thuyết luận tương đối văn hoá nhấn mạnh tính bình đẳng, độc đáo
của mỗi nền văn hoá. Khi viết về văn hoá truyền thống dân tộc Việt, các nhà tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đề cao, ngợi ca sức sống bền bỉ của văn hoá
truyền thống dân tộc nhằm bác bỏ khái niệm cao - thấp, tiến bộ - lạc hậu, phi lí -
duy lí trong việc nhìn nhận về sự đa dạng của các nền văn hoá. Mặt khác, các nhà
văn cũng cảnh tỉnh con người đương đại đang hiện đại hoá, quan phương hoá, kế
hoạch hoá các lễ hội văn hoá truyền thống người Việt bằng tính hiện đại của khoa
học công nghệ sẽ giết chết tri thức bản địa, giết chết nền văn hoá dân tộc. Nhằm
khôi phục hoàn nguyên giá trị vốn dĩ của lễ hội văn hoá dân tộc với tính cố kết cộng
đồng, thướt đo của sự đồng thuận xã hội, tinh thần quốc dân Đại Việt trong đời sống
mới, các nhà văn đã miêu tả tỉ mỉ, tái hiện chân thực, sinh động các tầng bậc không
gian văn hoá cộng đồng, hồi sinh các nghi thức thực hành lễ hội với vẻ đẹp vừa
trang trọng, thiêng liêng vừa gần gũi, thân thiết với con người trong đời sống xã hội
146
đương đại. Đó là sự thành công đáng trân trọng trong quá trình sáng tạo nghệ thuật
của người nghệ sĩ trước vận mệnh đất nước.
5. Thế giới biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam khá phong
phú, mang hơi thở thời đại mới. Thế giới biểu tượng ấy làm thành đơn vị ngôn ngữ
đặc trưng trong hoạt động sáng tạo và tiếp nhận văn học. Trong giới hạn khả dĩ,
chúng tôi đã nghiên cứu hệ biểu tượng tự nhiên, hệ biểu tượng con người và hệ biểu
tượng văn hoá cộng đồng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, thông qua
các hệ biểu tượng ấy, chúng tôi nhận thấy được sự vận động của tư duy nghệ thuật,
sự thay đổi phương thức phản ánh hiện thực của văn học thời đại mới.
6. Với tư duy nghệ thuật hiện đại, hiện thực lịch sử luôn rộng mở trước khả
năng tri nhận của con người. Qua quá trình khảo sát, phân tích tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam, chúng tôi nhận diện được khuynh hướng “dĩ cổ vi kim” ở mỗi
nhà văn. Tri nhận của nhà văn về lịch sử không chỉ để làm giàu vốn hiểu biết mà để
phản biện, thức tĩnh công chúng văn học trên con đường đến với giá trị Chân -
Thiện - Mỹ. Bên cạnh ngôn ngữ thì thế giới biểu tượng cũng là đơn vị ngôn ngữ đặc
biệt - ngôn ngữ biểu tượng thực hiện chức năng tri nhận ấy. Nghiên cứu hệ biểu
tượng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam nói riêng, nghiên cứu biểu
tượng nói chung là rất cần thiết, góp phần khám phá giá trị văn hóa của nhân loại và
dân tộc trong tiến trình hội nhập và phát triển đa dạng về văn hóa. Tuy nhiên, vẫn
còn đó nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi sự chuyên sâu và cần có thời gian để dấn
thân nhiều hơn.
147
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐUỢC CÔNG BỐ
1. Đoàn Thanh Liêm (2017), Biểu tượng Đấng minh quân qua một số tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam đương đại, tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 273/
tháng 10 năm 2017.
2. Đoàn Thanh Liêm (2017), Nguyễn Hoàng - hành trình mở cõi qua tiểu
thuyết Minh Sư của Thái Bá Lợi, tạp chí Khoa học và công nghệ, Trường Đại học
Khoa học, Đại học Huế, số 2 tháng 11 năm 2017.
3. Đoàn Thanh Liêm (2019), Lễ hội biểu tượng văn hóa Việt Nam qua tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam đương đại, tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Học viện khoa
học xã hội Việt Nam, số 4 tháng 4 năm 2019.
148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Đào Duy Anh (2014), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thế giới, Hà Nội.
2. Toan Ánh (2005), Khúc ca diệt thù, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
3. Đào Tuấn Ảnh (2003), Văn học hậu - hiện đại thế giới, những vấn đề lý
thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (2005), Tiểu thuyết và lịch sử, Vietnam.net, 31/10.
5. Diệp Quang Ban (2012), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb
Giáo dục Việt Nam.
6. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí
Văn học, số 6, tr. 66-67.
7. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn - lý luận, tác gia và tác phẩm, tập 1, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
8. Lê Huy Bắc (2008), Cốt truyện trong tự sự, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số
7, tr.34 - 43.
9. Hoa Bằng (2015), Quang Trung, Nxb Dân trí, Hà Nội.
10. Nguyễn Chí Bền (2013), Lễ hội cổ truyền của người Việt, cấu trúc và thành
tố, Nxb Khoa học xã hội.
11. Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh (2011), Thế giới biểu tượng trong di sản văn hoá
Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Bình (2005), “Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt
Nam từ cuối thập kỷ 80 đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11/2005.
13. Nguyễn Thị Bình (2008), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời
điểm đổi mới đến nay (Báo cáo tổng kết đề tài khoa học cấp bộ), Đại học Sư
phạm Hà Nội.
14. Carl Jung (2007), Thăm dò tiềm thức, Vũ Đình Lưu dịch, Nxb Tri thức, Hà
Nội.
15. Trần Thanh Cảnh (2017), Đức Thánh Trần, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
149
16. Lê Nguyên Cẩn (2014), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
17. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
18. Lương Minh Chung (2012), Thơ Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hóa, Luận án
tiến sĩ, Hà Nội.
19. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Văn Dân (2012), Mấy xu hướng chủ yếu trong tiểu thuyết lịch sử
Việt nam đương đại, Tạp chí Nhà văn, số 1/2012.
21. Trương Đăng Dung (1994), Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mỹ học của
G. Lucas, Tạp chí Văn học số 5.
22. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
23. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
24. Hàn Thế Dũng (2004), Đinh Bộ Lĩnh, Nxb Công an Nhân dân.
25. Hàn Thế Dũng (2005), Một thời để nhớ, Nxb Công an Nhân dân.
26. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Đăng Điệp (2012), “Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh - một diễn
ngôn về lịch sử văn hóa”, Nghiên cứu Văn học số 10/2012.
28. Nguyễn Đăng Điệp (2012), Lịch sử và Văn hóa - cái nhìn nghệ thuật của
Nguyễn Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ, Hà Nôi.
29. Nguyễn Đăng Điệp (Chủ biên 2016), Văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi
mới và hội nhập quốc tế, Nxb Khoa học xã hội.
30. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền
thống người Việt, Luận án tiến sĩ, TP. Hồ Chí Minh.
31. Trịnh Bá Đĩnh (Chủ biên, 2017), Từ kí hiệu đến biểu tượng, Nxb Khoa học
xã hội.
32. Vũ Ngọc Đĩnh (2003), Hào Kiệt Lam Sơn (tập 1,2), Nxb Văn học, Hà Nội.
150
33. Vũ Ngọc Đĩnh (2005), Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành Hoàng đế phá Tống
(tập 1,2), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
34. Erich Fromm (2012), Phân tâm học và tôn giáo, Lưu Văn Hy dịch, Nxb Từ
điển bách khoa, Hà Nội.
35. Francois Jullien (2007), Các biểu tượng của nội giới hay cách đọc triết học
về Kinh dịch, Lê Nguyên Cẩn, Đinh Thy Reo dịch, Nxb Đà Nẵng.
36. Nguyễn Mộng Giác (2003), Sông Côn mùa lũ (tập 1,2), Nxb Văn học, Hà
Nội.
37. Minh Giang (2005), Cuộc thăng trầm, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
38. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng - một số hướng tiếp cận lý
thuyết, Nxb Thế giới, Hà Nội.
39. Đinh Hồng Hải (2012), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền
thống Việt Nam, tập 1, Nxb Tri thức, Hà Nội.
40. Hoàng Quốc Hải (1996), Bão táp cung đình, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
41. Hoàng Quốc Hải (2005), Thăng Long nổi giận, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
42. Hoàng Quốc Hải (2005), Vương triều sụp đổ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
43. Hoàng Quốc Hải (2006), Huyền Trân công chúa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
44. Hoàng Quốc Hải (2010), Con ngựa nhà phật, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
45. Hoàng Quốc Hải (2010), Con đường định mệnh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
46. Hoàng Quốc Hải (2010), Bình Bắc dẹp Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
47. Hoàng Quốc Hải (2010), Thiền sư dựng nước, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
48. Siêu Hải (2004), Nắng kinh thành, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
49. Siêu Hải (2004), Mảnh trăng Tô Lịch, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
50. Nguyễn Văn Hạnh (2006), Quan hệ giữa tôn giáo và thơ ca trong thế giới
biểu tượng, Nghiên cứu văn học, 9/2006.
51. Trần Mai Hạnh (2015), Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
52. Võ Thị Hảo (2003), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
53. Nguyễn Văn Hậu (2000), Biểu tượng như là đơn vị cơ bản của văn hóa, Tạp
chí Văn hóa và nghệ thuật, (7), tr.24-30.
151
54. Nguyễn Đức Hiền (1999), Sao khuê lấp lánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Đỗ Đức Hiểu (Chủ biên, 2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.
56. Bùi Công Hùng (1988), Biểu tượng thơ ca, Tạp chí văn học, 1/1988.
57. Nguyễn Văn Hùng (2014), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 dưới góc
nhìn tự sự học, Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
58. Phạm Văn Hưng (2015), Lược khảo các vụ án văn chương ở Việt nam thế kỷ
X-XIX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
59. Nguyễn Thị Thu Hương (2015), “Yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết của
Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí khoa học ĐHSP TPHCM, số 4(69) năm
2015.
60. Tử Đinh Hương (2014), Biểu tượng (tập 1,2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
61. Dương Hướng (2007), Dưới chín tầng trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
62. Itamar Even - Zohar (2014), Lý thuyết đa hệ thống trong nghiên cứu văn
hoá, văn chương, Trần Hải Yến, Nguyễn Đào Nguyên dịch, Nxb Thế giới.
63. I.P Ilin - E.A Tzurganova (2018), Các trường phái nghiên cứu văn học Âu
Mỹ thế kỷ XX - khái niệm và thuật ngữ, Nhiều người dịch, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
64. Iu Lotman (2007), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
65. Iu Lotman (2012), Biểu tượng trong hệ thống văn hóa, Trần Đình Sử dịch,
Nghiên cứu văn học số 10/2012.
66. Iu Lotman (2014), Ký hiệu học văn hóa, Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần
Đình Sử dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
67. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới, Nhiều người dịch, Nxb Đà Nẵng.
68. Jean Francois Frocer, Jean Fierre Durand (2012), Biểu tượng và ý nghĩa của
các loài thú trong Thánh kinh, Lê Thành dịch, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí
Minh.
69. Jean Francois Lyotard (2008), Hoàn cảnh hậu - hiện đại, Ngân Xuyên dịch,
Nxb Tri thức, Hà Nội.
152
70. Karl Popper (2012), Sự nghèo nàn của thuyết sử luận, Chu Lan Đình dịch,
Nxb Tri thức, Hà Nội.
71. Phạm Minh Kiên (2015), Lê Triều Lý Thị, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
72. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
73. Phùng Quang Khai (2015), Phùng Vương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
74. Đỗ Văn Khang (2013), Giáo trình Mỹ học Mác - Lênin, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
75. Vũ Ngọc Khánh (2005), Nữ thần và thánh mẫu, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
76. Nguyễn Xuân Khánh (2005), “Trả lời phóng viên Báo Văn nghệ trẻ”,
10/2005.
77. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
78. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
79. Nguyễn Xuân Khánh (2014), Đội gạo lên chùa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
80. Lucien Lesvy Bruhl (2008), Kinh nghiệm thần bí và các biểu tượng ở người
nguyên thủy, Ngô Bình Lâm dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội.
81. Liviu Petrescu (2013), Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại, Lê Nguyên Cẩn
dịch, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
82. Đinh Trọng Lạc (1998), 99 Phương tiện và Biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
83. Đoàn Thanh Liêm (2012), Phi lý - hậu hiện đại - trò chơi qua nghiên cứu
tiểu thuyết Tạ Duy Anh (in chung), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
84. Đoàn Thanh Liêm (2017), “Biểu tượng Đấng minh quân qua một số tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam đương đại”, tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số
273/ tháng 10 năm 2017.
85. Đoàn Thanh Liêm (2017), “Nguyễn Hoàng - hành trình mở cõi qua tiểu
thuyết Minh Sư của Thái Bá Lợi”, tạp chí Khoa học và công nghệ, Trường
Đại học Khoa học, Đại học Huế, số 2 tháng 11 năm 2017.
86. Bùi Văn Lợi (1999), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945,
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội.
87. Thái Bá Lợi (2014), Minh Sư, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
153
88. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 -
Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
89. Hoàng Đình Long (2014), Tam hùng tranh thiên hạ, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
90. Nguyễn Triệu Luật (2013), Tiểu thuyết lịch sử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
91. Vũ Tài Lực (1973), Những quy luật chính trị trong sử Việt, Việt Chiến xuất
bản.
92. Vũ Tài Lực (1969), Thân phận trí thức, Việt Chiến xuất bản.
93. M. Cagan (2014), Hình thái học của nghệ thuật, Phan Ngọc dịch, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
94. M. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
95. Melainie Barnum (2017), Cuốn sách về các biểu tượng tâm linh, Thế Anh
dịch, Nxb Hồng Đức.
96. Trần Thuỳ Mai (2019), Từ Dụ Thái hậu (tập 1), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
97. Trần Thuỳ Mai (2019), Từ Dụ Thái hậu (tập 2), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
98. Hữu Mai (2014), Không phải huyền thoại, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
99. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2011), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975
(chuyên luận), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
100. Nguyễn Hữu Nam (2011), Huyền Trân, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
101. Phạm Ngọc Cảnh Nam (2011), Thế kỷ bị mất, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
102. Nguyễn Thị Ninh (2012), Kết cấu tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Luận án
tiến sĩ, Hà Nội.
103. Nguyễn Thị Kim Ngân (2017), Folklore và văn học Viết - Nghiên cứu từ góc
độ “dịch chuyển không gian” trong truyện Cổ tích và truyện Truyền kỳ, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
104. Võ Khắc Nghiêm (2015), Thị Lộ chính danh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
105. Lã Nguyên (2018), Phê Bình kí hiệu học, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
154
106. Lã Nguyên (2018), Số phận lịch sử của các lí thuyết văn học, Nxb Phụ nữ,
Hà Nội.
107. Nguyên Ngọc (2006), “Một cuốn tiểu thuyết hay về văn hoá Việt”, Báo Tuổi
trẻ, ngày 12/7/2006.
108. Phan Ngọc (2013), Nền văn hóa mới của Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
109. Nhiều tác giả (1997), Điển tích văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
110. Nhiều tác giả (1998), Freud đã thực sự nói gì, Lê Văn Luyện và Huyền
Giang dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội.
111. Nhiều tác giả (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Thanh Hóa.
112. Nhiều tác giả (2002), Giáo trình Triết học Mac – Lênin, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
113. Nhiều tác giả (2003), Phân tâm học và tình yêu, Đỗ Lai Thuý dịch, Nxb Văn
hoá thông tin, Hà Nội.
114. Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hoá nghệ thuật, Đỗ Lai Thuý
dịch, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
115. Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hoá tâm linh, Đỗ Lai Thuý dịch,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
116. Nhiều tác giả (2007), Phân tâm học và tính cách dân tộc, Đỗ Lai Thuý dịch,
Nxb Tri thức, Hà Nội.
117. Nhiều tác giả (2010), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, TP. Hồ Chí
Minh.
118. Nhiều tác giả (2014), Biểu tượng văn hóa ở làng quê Việt Nam, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
119. Nhiều tác giả (2016), Lý thuyết và ứng dụng lý thuyết trong nghiên cứu văn
học, Trần Hải Yến tổ chức bản thảo và biên tập, Nxb Khoa học xã hội.
120. Nhiều tác giả (?), Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ Mát - xcơ - Va.
121. Lê Lưu Oanh (2011), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sư
Phạm, Hà Nội.
155
122. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại giai đoạn 1986 - 2006, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
123. Hoàng Phê (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
124. Bùi Huy Phồn (2009), Lá huyết thư (tập 1,2,3), Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí
Minh.
125. Ngô Văn Phú (2010), Tuyên Phi Đặng Thị Huệ, Nxb Dân trí, Hà Nội.
126. Nguyễn Khắc Phục (2015), Hỗn độn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
127. Diêu Vĩnh Quân, Diêu Chu Huy (2004), Bí ẩn của chiêm mộng và Vu thuật,
Nxb văn hoá thông tin, Hà Nội.
128. Nguyễn Thế Quang (2013), Khúc hát những dòng sông, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
129. Nguyễn Thế Quang (2015), Thông reo ngàn Hống, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí
Minh.
130. Nguyễn Thế Quang (2015), Nguyễn Du, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
131. Rachel Storm (2003), Huyền thoại phương Đông, Chương Ngọc dịch, Nxb
Mỹ Thuật.
132. Sigmund Freud (2001), Nguồn gốc của văn hoá và tôn giáo, Lương Văn Kế
dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
133. Sigmund Freud (2002), Phân tâm học nhập môn, Nguyễn Xuân Hiến dịch,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
134. Sigmund Freud (2005), Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ, Nguỵ
Hữu Tâm dịch, Nxb Thế giới.
135. Nguyễn Thơ Sinh (2007), Các học thuyết tâm lý nhân cách, Nxb Lao Động,
TP Hồ Chí Minh.
136. Lưu Minh Sơn (2016), Trần Khánh Dư, Nxb Văn học, Hà Nội.
137. Nguyễn Bắc Sơn (2011), Lửa đắng, Nxb Lao Động, Hà Nội.
138. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học, (tập 1,2), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
139. Yên Tử cư sỹ Trần Đại Sỹ (2003), Nam quốc sơn hà (tập 1,2), Nxb Trẻ.
140. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi, (quyển 1- Oan Khuất), Nxb Thanh Niên,
TP. Hồ Chí Minh.
156
141. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi, (quyển 2- Bức huyết thư), Nxb Thanh
Niên, TP. Hồ Chí Minh.
142. Bùi Anh Tấn (2012), Bí mật hậu cung, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
143. Vũ Ngọc Tiến (2016), Quỷ vương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
144. Vũ Ngọc Tiến (2007), Ba nhà cải cách, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
145. Vũ Ngọc Tiến (2019), Kẻ sĩ thời loạn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
146. Phạm Xuân Thạch (2005), Suy nghĩ từ những tiểu thuyết mang chủ đề lịch
sử, Vietnam.net 9/10.
147. Nguyễn Quang Thân (2000), Con ngựa Mãn Châu, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
148. Nguyễn Quang Thân (2009), Hội thề, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
149. Bùi Quang Thắng (2008), 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hoá, Nxb Khoa học
Xã hội.
150. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà
Nội.
151. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí
Minh.
152. Bùi Thiết (1993), Từ điển Hội lễ Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
153. Nguyễn Khắc Thuần (2007), Thế thứ các triều vua Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
154. Hà Văn Thùy (2005), Nguyễn Thị Lộ, Nxb Văn học, Hà Nội.
155. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
156. Khuất Quang Thụy (2015), Đối chiến, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
157. Hoàng Trinh (1979), Ký hiệu, nghĩa và phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà
Nội.
158. Liễu Trương (2011), Phân tâm học và phê bình văn học, Nxb Phụ nữ, Hà
Nội.
159. Tạ Chí Đại Trường (2014), Thần người và đất việt, Nxb Tri thức, Hà Nội.
160. Hoàng Minh Tường (2008), Thời của thánh thần, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
157
161. V.N. Voloshinov (2015), Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ, Ngô Tự
Lập dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
162. Kiều Văn (2002), Giai thoại lịch sử Việt Nam (tập 1,2), Nxb Văn hoá Thông
tin, Hà Nội.
163. Võ Quốc Việt (2013), Từ biểu tượng tâm lý đến biểu tượng thẩm mỹ, Tạp chí
Khoa học ĐHSP TPHCM.
164. Nguyễn Quốc Vượng (2015), Trong cõi, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
165. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2007), Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam,
Nghiên cứu Văn học, số 1/2007.
166. Phạm Thu Yến (1999), Vấn đề nghiên cứu biểu tượng thơ ca dân gian, Tạp
chí Văn học, số 4/1999.
B. TÀI LIỆU TRÊN INTERNET
167. Hoàng Thị Huế (2012), “Một số biểu tượng mang tâm thức Mẫu trong “Đội
gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh”, nguồn: vietvan.vn.
168. Trần Đình Sử (2013), Lịch sử và tiểu thuyết lịch sử, nguồn:
vanhoanghean.vn.
169. Nguyễn Thành (2016), Tiểu thuyết VN sau 1986: sự mở rộng biên độ tư duy
nghệ thuật và những nỗ lực dung hợp về thể loại,
nguồn
doi-moi-qua-de-tai-chu-de-va-phuong-thuc-the-hien
C. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
170. J. E. Cirlot (1990), A dictionary of symbols, New York, America.
171. Michael Ferber (1999), A dictionary of Literary Symbols, Cambridge
University Press, Cambridge.
158
DANH MỤC
TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐÃ KHẢO SÁT
172. Toan Ánh (2005), Khúc ca diệt thù, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
173. Hoa Bằng (2015), Quang Trung, Nxb Dân trí, Hà Nội.
174. Trần Thanh Cảnh (2017), Đức Thánh Trần, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
175. Hàn Thế Dũng (2004), Đinh Bộ Lĩnh, Nxb Công an Nhân dân.
176. Hàn Thế Dũng (2005), Một thời để nhớ, Nxb Công an Nhân dân.
177. Vũ Ngọc Đĩnh (2003), Hào Kiệt Lam Sơn (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
178. Vũ Ngọc Đĩnh (2003), Hào Kiệt Lam Sơn (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
179. Vũ Ngọc Đĩnh (2005), Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành Hoàng đế phá Tống
(tập 1), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
180. Vũ Ngọc Đĩnh (2005), Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành Hoàng đế phá Tống
(tập 2), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
181. Nguyễn Mộng Giác (2003), Sông Côn mùa lũ (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
182. Nguyễn Mộng Giác (2003), Sông Côn mùa lũ (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
183. Minh Giang (2005), Cuộc thăng trầm, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
184. Hoàng Quốc Hải (1996), Bão táp cung đình, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
185. Hoàng Quốc Hải (2005), Thăng Long nổi giận, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
186. Hoàng Quốc Hải (2005), Vương triều sụp đổ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
187. Hoàng Quốc Hải (2006), Huyền Trân công chúa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
188. Hoàng Quốc Hải (2010), Con ngựa nhà phật, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
189. Hoàng Quốc Hải (2010), Con đường định mệnh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
190. Hoàng Quốc Hải (2010), Bình Bắc dẹp Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
191. Hoàng Quốc Hải (2010), Thiền sư dựng nước, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
192. Siêu Hải (2004), Nắng kinh thành, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
193. Siêu Hải (2004), Mảnh trăng Tô Lịch, Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
194. Võ Thị Hảo (2003), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
195. Nguyễn Đức Hiền (1999), Sao khuê lấp lánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
196. Dương Hướng (2007), Dưới chín tầng trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
197. Phạm Minh Kiên (2015), Lê Triều Lý Thị, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
159
198. Phùng Quang Khai (2015), Phùng Vương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
199. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
200. Nguyễn Xuân Khánh (2012), Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
201. Nguyễn Xuân Khánh (2014), Đội gạo lên chùa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
202. Thái Bá Lợi (2014), Minh Sư, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
203. Hoàng Đình Long (2014), Tam hùng tranh thiên hạ, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
204. Hữu Mai (2014), Không phải huyền thoại, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
205. Trần Thuỳ Mai (2019), Từ Dụ Thái hậu (tập 1), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
206. Trần Thuỳ Mai (2019), Từ Dụ Thái hậu (tập 2), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
207. Nguyễn Hữu Nam (2011), Huyền Trân, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
208. Phạm Ngọc Cảnh Nam (2011), Thế kỷ bị mất, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
209. Võ Khắc Nghiêm (2015), Thị Lộ chính danh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
210. Bùi Huy Phồn (2009), Lá huyết thư (tập 1), Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí
Minh.
211. Bùi Huy Phồn (2009), Lá huyết thư (tập 2), Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí
Minh.
212. Bùi Huy Phồn (2009), Lá huyết thư (tập 3), Nxb Thanh niên, TP. Hồ Chí
Minh.
213. Ngô Văn Phú (2010), Tuyên Phi Đặng Thị Huệ, Nxb Dân trí, Hà Nội.
214. Nguyễn Khắc Phục (2015), Hỗn độn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
215. Nguyễn Thế Quang (2013), Khúc hát những dòng sông, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
216. Nguyễn Thế Quang (2015), Thông reo ngàn Hống, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí
Minh.
217. Nguyễn Thế Quang (2015), Nguyễn Du, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
218. Lưu Minh Sơn (2016), Trần Khánh Dư, Nxb Văn học, Hà Nội.
219. Nguyễn Bắc Sơn (2011), Lửa đắng, Nxb Lao Động, Hà Nội.
220. Yên Tử cư sỹ Trần Đại Sỹ (2003), Nam quốc sơn hà (tập 1), Nxb Trẻ.
221. Yên Tử cư sỹ Trần Đại Sỹ (2003), Nam quốc sơn hà (tập 2), Nxb Trẻ.
160
222. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi, (quyển 1- Oan Khuất), Nxb Thanh Niên,
TP. Hồ Chí Minh.
223. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi, (quyển 2- Bức huyết thư), Nxb Thanh
Niên, TP. Hồ Chí Minh.
224. Bùi Anh Tấn (2012), Bí mật hậu cung, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
225. Vũ Ngọc Tiến (2007), Ba nhà cải cách, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
226. Vũ Ngọc Tiến (2016), Quỷ vương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
227. Vũ Ngọc Tiến (2019), Kẻ sĩ thời loạn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
228. Nguyễn Quang Thân (2000), Con ngựa Mãn Châu, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
229. Nguyễn Quang Thân (2009), Hội thề, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
230. Hà Văn Thùy (2005), Nguyễn Thị Lộ, Nxb Văn học, Hà Nội.
231. Khuất Quang Thụy (2015), Đối chiến, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
232. Hoàng Minh Tường (2008), Thời của thánh thần, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
233. Nguyễn Quốc Vượng (2015), Trong cõi, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
161
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_he_bieu_tuong_nghe_thuat_co_ban_trong_tieu_thuyet_li.pdf
- Trichyeu_DoanThanhLiem.pdf