Luận án Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ wto và sự tham gia của các nước đang phát triển và Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THU HIỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG KHUÔN KHỔ WTO VÀ SỰ THAM GIA CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THU HIỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG KHUÔN KHỔ WTO VÀ SỰ THAM GIA CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ VIỆT NAM –

pdf186 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ wto và sự tham gia của các nước đang phát triển và Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 62 38 01 08 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG PHƯỚC HIỆP HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Nội dung cũng như các số liệu trình bày trong luận án hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN NCS. Nguyễn Thị Thu Hiền DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AB Appellate Body - Cơ quan Phúc thẩm ACWL Advisory Centre on WTO Law – Trung tâm tư vấn về pháp luật WTO ADA Anti-Dumping Agreement - Hiệp định về chống bán phá giá ADC Anti-Dumping Code - Bộ luật về chống bán phá giá BPG Bán phá giá DSB Dispute Settlement Body - Cơ quan giải quyết tranh chấp DSM Dispute Settlement Mechanism – Cơ chế giải quyết tranh chấp DSU Understanding on rules and procedures governing the settlement of disputes - Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp EC European Communities – Cộng đồng Châu Âu EU European Union – Liên minh Châu Âu GATT General Agreement on Trade and Tariffs - Hiệp định chung về thương mại và thuế quan GATT 1947 Hiệp định chung về thương mại và thuế quan năm 1947 GATT 1994 Hiệp định chung về thương mại và thuế quan năm 1994 Nxb Nhà xuất bản USDOC United States Department of Commerce – Bộ thương mại Hoa Kỳ VCCI Vietnam Chamber of Commerce and Industry - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam WTO World Trade Organization - Tổ chức Thương mại thế giới MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở CÁC NƯỚC VÀ Ở VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8 1.1. Tình hình nghiên cứu ở các nước 8 1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 14 1.3. Các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và phương pháp xử lý vấn đề 21 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 25 CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI TRANH CHẤP VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ ÁP DỤNG TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI WTO 26 2.1. Lịch sử hình thành, phát triển và việc áp dụng pháp luật quốc tế trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá tại WTO 26 2.1.1. Giai đoạn trước năm 1947 26 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1947 cho đến năm 1995 27 2.1.3. Giai đoạn từ năm 1995 cho đến nay 29 2.2. Quan niệm hiện hành của WTO về chống bán phá giá, tranh chấp về chống bán phá giá và pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá 31 2.2.1. Quan niệm hiện hành của WTO về chống bán phá giá và tranh chấp về chống bán phá giá 31 2.2.2. Quan niệm hiện hành của WTO về pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá 42 2.3. Nội dung những vấn đề chung của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá tại WTO 44 2.3.1. DSM của WTO – Nền tảng pháp luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá tại WTO 44 2.3.2. Qui định đặc biệt và khác biệt trong DSM của WTO dành cho các nước đang phát triển 59 2.3.3. Quan hệ tương tác giữa giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá theo pháp luật WTO và giải quyết tranh chấp về bán phá giá theo pháp luật quốc gia thành viên 62 2.4. Nội dung những vấn đề cụ thể của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá tại WTO 64 2.4.1. Phạm vi các vấn đề tranh chấp về chống bán phá giá được giải quyết tại DSB 64 2.4.2. Nội dung một số vấn đề cụ thể khác của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá tại WTO 76 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 78 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI WTO VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ SỰ THAM GIA CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ VIỆT NAM 80 3.1 Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại WTO về chống bán phá giá 80 3.1.1. Sơ lược thực trạng giải quyết tranh chấp tại WTO về chống 80 bán phá giá 3.1.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá theo các giai đoạn trong qui trình tố tụng của DSM 86 3.2. Thực tiễn tham gia của một số nước đang phát triển vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống bán phá giá và những bài học kinh nghiệm cần chú ý 95 3.2.1. Thực tiễn tham gia của Ấn Độ vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống bán phá giá 96 3.2.2. Thực tiễn tham gia của Trung Quốc vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống bán phá giá 99 3.2.3. Thực tiễn tham gia của Thái Lan vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống bán phá giá 107 3.3. Thực tiễn tham gia của Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống bán phá giá 111 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 118 CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM VÀO VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI WTO VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 120 4.1. Những quan điểm và định hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia của Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống bán phá giá 120 4.2. Những giải pháp và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia của Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống bán phá giá 125 4.2.1. Nhóm giải pháp chung nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia của Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về 125 chống bán phá giá 4.2.2. Một số đề xuất cụ thể khi Việt Nam tham gia vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống bán phá giá với tư cách là nguyên đơn, bị đơn và bên thứ ba 134 KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 145 KẾT LUẬN 146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong thương mại quốc tế hiện nay, các tranh chấp về chống BPG ngày càng trở nên phức tạp và phổ biến khi mà các biện pháp chống BPG đang được nhiều quốc gia, trong đó chủ yếu là các nước phát triển, sử dụng như một rào cản trong thương mại và bảo hộ cho ngành sản xuất nội địa. Trong vòng 17 năm, tính từ ngày 1/1/1995 cho tới ngày 30/06/2013, đã có tổng cộng 4.358 vụ điều tra chống BPG mới được khởi xướng với 2.795 biện pháp chống BPG đã được áp dụng bởi các thành viên WTO. Các vụ điều tra chống BPG và sử dụng các biện pháp chống BPG của các thành viên WTO mặc dù không tăng nhiều về số lượng nhưng chúng ngày càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát hơn. Tính đến hết tháng 12/2013, khoảng hơn 100 thành viên WTO đã có khung pháp lý về điều tra chống BPG, trong số đó, có đến hơn nửa số thành viên mỗi năm khởi xướng ít nhất 1 vụ điều tra chống BPG [64], và khoảng 70 thành viên WTO đã tiến hành các vụ điều tra chống BPG trên thực tế [54]. Bởi vậy, trước thực trạng nói trên, các thành viên WTO, bên cạnh việc tìm ra những giải pháp để đối phó với các cuộc điều tra về chống BPG và việc áp thuế chống BPG, đã tích cực sử dụng những cơ chế thích hợp để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Một trong những cơ chế được đánh giá là có hiệu quả nhất hiện nay chính là DSM của WTO. Theo Điều 17 của ADA, các thành viên WTO có thể đưa các tranh chấp về chống BPG ra giải quyết theo DSM của tổ chức này. Trên thực tế, tính đến hết tháng 12/2013, 102 vụ tranh chấp về chống BPG đã và đang được giải quyết tại WTO [78]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được, qua hơn 19 năm tồn tại, việc giải quyết tranh chấp về chống BPG nói riêng và DSM của WTO nói chung đã bộc lộ một số điểm hạn chế và bất cập cần phải được hoàn thiện. 2 Ngày 11/01/2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO và được hưởng qui chế dành cho một thành viên đang phát triển. Kể từ thời điểm đó, Việt Nam có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ và được hưởng sự đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho thành viên đang phát triển trong giải quyết tranh chấp tại WTO để bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình. Tính đến hết tháng 12/2013, Việt Nam đã tham gia vào chín vụ tranh chấp về chống BPG trên tổng số mười chín vụ kiện có sự tham gia của Việt Nam tại WTO [59]. Qua từng vụ tranh chấp, Việt Nam, ở một mức độ nhất định, đã tham gia chủ động và tích cực vào DSM của WTO. Tuy nhiên, sự tham gia đó vẫn còn những hạn chế bởi tính phức tạp của các vụ tranh chấp về chống BPG tại WTO cũng như cơ chế điều phối của chính Việt Nam. Việc nghiên cứu pháp luật của WTO, cũng như yêu cầu chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp quốc tế là nhiệm vụ trọng tâm được đặt ra trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước như Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/04/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới; Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế; Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP của Chính phủ ngày 27/02/2007 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW; Quyết định số 37/2002/QĐ-TTg ngày 14/03/2002 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW; Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 09/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp triển khai chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. 3 Bên cạnh đó, thực tiễn tham gia của Việt Nam trong các vụ tranh chấp về chống BPG đã đặt ra một yêu cầu cấp bách đối với việc nghiên cứu một cách toàn diện pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, học hỏi kinh nghiệm của các nước cũng như xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan ở trong và ngoài nước, để từ đó, có thể đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tham gia của Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO. Thực hiện các chủ trương mà Đảng đề ra, xuất phát từ thực tiễn tham gia của Việt Nam vào việc giải quyết các tranh chấp về chống BPG tại WTO cũng như những yêu cầu cấp bách đặt ra cho Việt Nam v.v., cho thấy tính cấp thiết cao, cả về lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài “Giải quyết tranh chấp về chống BPG trong khuôn khổ WTO và sự tham gia của các nước đang phát triển và Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. 2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu của luận án bao gồm các vấn đề: lịch sử hình thành, phát triển và việc áp dụng pháp luật quốc tế trong giải quyết các tranh chấp về chống BPG tại WTO; quan niệm hiện hành của WTO về chống BPG, tranh chấp về chống BPG và pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG; nội dung những vấn đề chung và những vấn đề cụ thể của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO; thực tiễn giải quyết tranh chấp tại WTO về chống BPG; thực tiễn tham gia của một số nước đang phát triển và thực tiễn tham gia của Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO. Tranh chấp về chống BPG và cơ chế giải quyết các tranh chấp này trong khuôn khổ WTO là những vấn đề phức tạp và có phạm vi nghiên cứu rộng. Bởi vậy, trong khuôn khổ hạn định về số trang đối với một luận án, tác giả sẽ chỉ tiến 4 hành: (1) phân tích lịch sử hình thành, phát triển và việc áp dụng pháp luật quốc tế trong giải quyết các tranh chấp về chống BPG tại WTO; (2) phân tích quan niệm hiện hành của WTO về chống BPG, tranh chấp về chống BPG và pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG; (3) phân tích nội dung những vấn đề chung và những vấn đề cụ thể của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, trong đó, tập trung vào những điểm đặc thù của lĩnh vực giải quyết tranh chấp về chống BPG và phạm vi các vấn đề tranh chấp về chống BPG được giải quyết tại DSB. Mặc dù có liệt kê tất cả các phương thức giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO, tuy nhiên, tác giả cũng sẽ chỉ chủ yếu phân tích cơ chế giải quyết tranh chấp về chống BPG tại DSB/WTO; (4) trình bày khái quát về thực tiễn giải quyết tranh chấp tại WTO về chống BPG, tập trung phân tích kinh nghiệm và thực tiễn tham gia vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống BPG của ba nước Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan và thực tiễn của Việt Nam. Tác giả lựa chọn ba nước Ấn Độ, Trung Quốc và Thái Lan bởi lẽ đây cũng là những nước đang phát triển, cùng ở khu vực Châu Á, rất “tích cực” tham gia vào việc giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, đồng thời có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về các mặt hàng thường xuyên bị điều tra chống BPG, và một phần nào đó là về điều kiện, hoàn cảnh phát triển kinh tế - xã hội. 3. Phương pháp nghiên cứu đề tài Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu nêu trên, Luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn để đưa ra các giải pháp cụ thể và khả thi. Trong khuôn khổ của Luận án này, phương pháp so sánh là 5 phương pháp chủ đạo được sử dụng trong hầu hết các chương, đặc biệt là Chương 2 khi phân biệt khái niệm “tranh chấp về chống BPG” tại WTO với khái niệm “tranh chấp về BPG” và “tranh chấp về chống BPG” theo pháp luật của quốc gia thành viên, đồng thời, tác giả cũng tiến hành phân biệt ba loại tranh chấp liên quan tới các biện pháp khắc phục thương mại có mối liên hệ gần gũi với nhau trong khuôn khổ WTO, đó là “tranh chấp về chống BPG”, “tranh chấp về chống trợ cấp” và “tranh chấp về tự vệ thương mại”. Tương tự, phương pháp kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn cũng được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ nội dung của luận án. Phương pháp tổng hợp và phân tích được sử dụng như những phương pháp bổ trợ cho phương pháp so sánh. 4. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích của Luận án là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn thông qua việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề liên quan tới giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, vị thế của các nước đang phát triển cũng như làm rõ thực tiễn tham gia của các nước đang phát triển nói chung và của Việt Nam nói riêng vào việc giải quyết tranh chấp về chống BPG, để trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia của Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp về chống BPG trong khuôn khổ WTO. Để thực hiện mục đích trên, Luận án đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Phân tích các quan điểm về chống BPG, tranh chấp về chống BPG cũng như những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO; - Tổng hợp, phân tích và đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, đi sâu vào phân tích một số vụ tranh chấp cụ thể và làm rõ những điểm bất cập của việc giải quyết tranh chấp về chống BPG trong khuôn khổ của tổ chức này; đồng thời, phân tích và đánh giá thực tiễn tham gia của Ấn Độ, 6 Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; - Phân tích các quan điểm và định hướng cơ bản, từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia của Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO. 5. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận án - Luận án đã phân biệt “tranh chấp về chống BPG” theo pháp luật của WTO với “tranh chấp về BPG” và “tranh chấp về chống BPG” theo pháp luật của quốc gia thành viên, đồng thời phân biệt ba loại tranh chấp theo pháp luật của WTO liên quan tới các biện pháp khắc phục thương mại có mối liên hệ gần gũi với nhau, đó là “tranh chấp về chống BPG”, “tranh chấp về chống trợ cấp” và “tranh chấp về tự vệ thương mại”, qua đó, làm rõ quan niệm hiện hành của WTO đối với “tranh chấp về chống BPG”. Đây là những thuật ngữ thường dễ bị nhầm lẫn trong quá trình sử dụng, bởi vậy, các kết quả nghiên cứu nói trên đã góp phần làm sáng tỏ và giúp phân biệt rõ ràng những thuật ngữ này; - Luận án đã làm rõ nội dung và điểm đặc thù của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG so với việc giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế nói chung tại WTO; - Luận án đã làm rõ mối quan hệ tương tác giữa giải quyết tranh chấp về chống BPG theo pháp luật WTO và giải quyết tranh chấp về BPG theo pháp luật quốc gia thành viên; - Luận án đã làm rõ phạm vi và đặc điểm của bốn vấn đề tranh chấp về chống BPG được giải quyết tại DSB, bao gồm tranh chấp về thuế chống BPG chính thức, tranh chấp về sự chấp thuận một biện pháp cam kết giá, tranh chấp về biện pháp tạm thời, và tranh chấp về sự không phù hợp trong các qui định pháp luật của một quốc gia thành viên với nội dung của ADA; 7 - Luận án đã nhận định được xu hướng vận động và phát triển của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO; - Luận án đã làm sáng tỏ được thực tiễn giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO và sự tham gia của các nước đang phát triển; tổng hợp được kinh nghiệm tham gia vào việc giải quyết tranh chấp về chống BPG của Ấn Độ, Trung Quốc và Thái Lan; đồng thời Luận án cũng đã chỉ ra được thực trạng và nguyên nhân sự tham gia hạn chế của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng vào quá trình giải quyết các tranh chấp này; - Luận án, dựa trên cơ sở những kết quả phân tích và đánh giá khách quan, đã nêu ra được những bài học kinh nghiệm và đưa ra được các giải pháp mới, có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia của Việt Nam vào quá trình giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, chủ yếu là những đề xuất cụ thể khi Việt Nam tham gia với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hay bên thứ ba trong các vụ tranh chấp về chống BPG tại WTO. 6. Cấu trúc của Luận án Luận án bao gồm phần mở đầu, nội dung, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục. Nội dung luận án được bố cục thành bốn chương, có kết luận của từng chương, cụ thể: Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu ở các nước và ở Việt Nam liên quan đến đề tài Luận án. Chương 2: Những vấn đề lý luận đối với tranh chấp về chống BPG và pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO. Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại WTO về chống BPG và sự tham gia của các nước đang phát triển và Việt Nam. Chương 4: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả sự tham gia của Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống BPG. 8 CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở CÁC NƯỚC VÀ Ở VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu ở các nước Ở các nước, có nhiều công trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề giải quyết tranh chấp về chống BPG trong khuôn khổ WTO và sự tham gia của các nước đang phát triển. Điển hình trong số những tác giả và công trình nghiên cứu nói trên phải kể đến: (i) J.G. Merrills (2011), International Dispute Settlement, 5th ed., Cambridge University Press; (ii) James P. Durling (2002), Matthew R. Nicely, Understanding the WTO Anti-Dumping Agreement: Negotiating History and Subsequent Interpretation, Cameron May Ltd.,; (iii) David Palmeter, Petros C. Mavroidis (2004), Dispute settlement in the World Trade Organization: Practice and procedure, 2nd ed., Cambridge: Cambridge Univ.,; (iv) Peter Van den Bossche (2008), The Law and Policy of the World Trade Organization: Text, Cases and Materials, 2nd ed., Cambridge University Press; (v) Terence P. Stewart (1993), The GATT Uruguay Round: A negotiating history (1986-1992), Volume II: Commentary, Deventer: Kluwer Law and Taxation Publishers v.v. Ngoài ra, còn có các tài liệu đăng trên các trang thông tin điện tử như tài liệu về “Anti-dumping measures” trong khuôn khổ khóa học về “Dispute Settlement – World Trade Organization” của Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD); bài viết “The role of Public International Law in the WTO: How far can we go?” của tác giả Joost Pauwelyn; bài viết “Does WTO Dispute Settlement provide effective remedies for Anti-dumping Measure” của tác giả Alam Mansoor; bài viết “WTO Dispute Settlement: Challenges faced by developing countries in the implementation and enforcement of DSB recommendations and rulings” của tác giả Jimcall 9 Pfumorodze; bài viết “Developing Countries and General Agreement on Tariffs and Trade/World Trade Organization Dispute Settlement” của các tác giả Marc L. Busch và Eric Reinhardt; bài viết “Developing Countries and Dispute Settlement: Having One’s Day in Court;” của tác giả Roderick Abbott; bài viết “Developing Countries and the Initiation of GATT/WTO Disputes” của tác giả Todd Allee; bài viết “The WTO Dispute Settlement System: How have Developing Countries fared?” của tác giả William J. Davey; bài viết “Shifting Coordinates of India’s Stance at the WTO: Understanding the Domestic and International Economic Drivers” của tác giả Amit Shovon RAY; bài viết “China's WTO entry: Antidumping, Safeguards, and Dispute Settlement” của tác giả Chad P. Bown; sách tham khảo “Dispute Settlement at the WTO: The Developing country experience” của các tác giả Gregory C. Shaffer và Ricardo Meléndez-Ortiz; bài viết “China: How to Fight the Antidumping War?” của tác giả Jason Z. Yin; bài viết “Dispute Settlement in the WTO and the Least Developed Countries: the Case of India’s Anti-Dumping Duties on Lead Acid Battery Import from Bangladesh” của tác giả M. A. Taslim; bài viết “Sense and Sensibilities of China and WTO Dispute Settlement” của tác giả Marcia Don Harpaz; bài viết “The WTO Dispute Settlement Understanding from a Developing Country Perspective: The Example of Thailand” của tác giả Mickey J. Wheatley; bài viết “China in the WTO: Antidumping and Safeguards” của tác giả Patrick A. Messerlin; bài viết “India at Dispute Settlement Understanding” của tác giả Simi T.B v.v. Bên cạnh đó, một số tài liệu đã được dịch sang tiếng Việt như cuốn “Sổ tay về hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO”, bản dịch của Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế xuất bản năm 2006 v.v. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập, ở những mức độ chi tiết khác nhau, về: 10 Một là, lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật quốc tế và việc áp dụng pháp luật đó trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá tại WTO. Có nhiều công trình nghiên cứu ở các nước về vấn đề này, trong đó, điển hình là một số công trình nghiên cứu như cuốn “The GATT Uruguay Round: A negotiating history (1986-1992), Volume II: Commentary” của Terence P. Stewart; cuốn “Understanding the WTO Anti-Dumping Agreement: Negotiating History and Subsequent Interpretation” của James P. Durling và Matthew R. Nicely; cuốn “Dispute settlement in the World Trade Organization: Practice and procedure” của David Palmeter và Petros C. Mavroidis; giáo trình “The Law and Policy of the World Trade Organization: Text, Cases and Materials” của Peter Van den Bossche; và cuốn sách dịch “Sổ tay về hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO” của Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế v.v. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên chủ yếu phân tích lịch sử của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO bắt đầu từ sự ra đời và trên cơ sở kế thừa và phát triển pháp luật của GATT 1947, có phân chia thành các giai đoạn cụ thể tương ứng với những cột mốc quan trọng (trước và sau khi có GATT 1947 và sự ra đời của WTO, các bản ADC, ADA và DSU v.v), đồng thời có đánh giá xu hướng vận động và phát triển của lĩnh vực pháp luật này. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ phân tích, một cách riêng rẽ, lịch sử hình thành và phát triển của các yếu tố cấu thành lên pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, chủ yếu là DSU và ADA, mà chưa đặt chúng trong một bức tranh tổng thể của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO. Hai là, các loại nguồn của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp tại WTO. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có thể nhắc tới như cuốn “Dispute settlement in the World Trade Organization: Practice and procedure” 11 của Palmeter, N. David; giáo trình “The Law and Policy of the World Trade Organization: Text, Cases and Materials” của Peter Van den Bossche; bài viết “The role of Public International Law in the WTO: How far can we go?” của Joost Pauwelyn đăng trên tạp chí “The American Journal of International Law”, VOL. (95):3 v.v. Mặc dù vẫn còn có những quan điểm khác nhau về số lượng, tên gọi, vị trí, vai trò đối với từng loại nguồn, nhưng nhìn chung, trong những nghiên cứu của các học giả trên thế giới, việc xác định các loại nguồn của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp tại WTO, cơ bản cũng đều dựa trên cách xác định nguồn luật áp dụng truyền thống theo Điều 38(1) của Qui chế Tòa án Công lý Quốc tế và có tính tới cả những đặc thù của WTO. Ba là, DSM của WTO với những vấn đề chung như hệ thống các nguyên tắc, các cơ quan tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp, các phương thức giải quyết tranh chấp, các loại khiếu kiện trong những tranh chấp được giải quyết tại WTO (khiếu kiện vi phạm, khiếu kiện không vi phạm và khiếu kiện tình huống); các bên nguyên đơn, bị đơn, bên thứ ba và các tổ chức, cá nhân khác trong vụ tranh chấp tại WTO; trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tại WTO với bốn giai đoạn bao gồm tham vấn, xét xử tại Ban hội thẩm, kháng cáo và xét xử phúc thẩm và giai đoạn thực thi quyết định của DSB; vấn đề bảo mật và qui tắc đạo đức nghề nghiệp trong giải quyết tranh chấp nói chung tại WTO v.v. Đây là nội dung đã được những công trình nghiên cứu ở các nước đề cập và phân tích một cách tương đối chi tiết và toàn diện, trong số đó có thể kể tới cuốn sách “WTO disputes: anti-dumping, subsidies and safeguards” của Edwin A. Vermulst, Folkert Graafsma; cuốn sách “Dispute settlement in the World Trade Organization: Practice and procedure” của David Palmeter và Petros C. Mavroidis; cuốn sách “Key issues in WTO dispute settlement: the first ten years” của Rufus Yerxa và Bruce Wilson; giáo trình “The Law and Policy of the World 12 Trade Organization: Text, Cases and Materials” của Peter Van den Bossche; cuốn sách “International Dispute Settlement” của J.G. Merrills; cuốn sách dịch “Sổ tay về hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO” của Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế v.v. Bốn là, chế độ đối xử đặc biệt và khác biệt trong DSM của WTO dành cho các nước đang phát triển. Có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này ở các nước như cuốn sách “Dispute settlement in the World Trade Organization: Practice and procedure” của David Palmeter và Petros C. Mavroidis; giáo trình “The Law and Policy of the World Trade Organization: Text, Cases and Materials” của Peter Van den Bossche v.v. . Ngoài việc phân tích nội dung chế độ đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển trong giải quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh chấp về chống BPG nói riêng, các công trình nghiên cứu nói trên còn có sự đánh giá về tính khả thi của những đối xử đặc biệt và khác biệt này. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng, chế độ đối xử đặc biệt và khác biệt chỉ mang tính hình thức và không mang lại hiệu quả thiết thực trong việc thúc đẩy và trợ giúp các nước đang phát triển khi tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO. Năm là, quan niệm của WTO về chống BPG và pháp luật của WTO về chống BPG. Đây là vấn đề đã được nghiên cứu tương đối chi tiết và đầy đủ ở các nước, với một số công trình nghiên cứu điển hình như cuốn “Understanding the WTO Anti-Dumping Agreement: Negotiating History and Subsequent Interpretation” của James P. Durling và Matthew R. Nicely; giáo trình “The Law and Policy of the World Trade Organization: Text, Cases and Materials” của Peter Van den Bossche; các tài liệu sử dụng trong khóa học “Dispute Settlement – World Trade Organization” của UNCTAD với chủ đề “Anti-dumping measures” và tài liệu đào tạo về “The WTO Agreement on Anti-dumping” v.v. 13 Sáu là, phạm vi các vấn đề tranh chấp về chống BPG được giải quyết tại DSB, bao gồm, tranh chấp về thuế chống BPG chính thức, tranh chấp về sự chấp thuận một biện pháp cam kết giá, tranh chấp về biện pháp tạm thời và tranh chấp về sự không phù hợp trong các qui định pháp luật của một thành viên với nội dung của ADA. Điển hình trong số các công trình nghiên cứu đề cập tới nội dung này là cuốn “Key issues in WTO dispute settlement: the first ten years” của Rufus Yerxa và Bruce Wilson; giáo trình “The Law and Policy of the World Trade Organization: Text, Cases and Materials” của Peter Van den Bossche; cuốn “WTO Dispute Settlement Understanding: A Detailed Interpretation” của Guohua Yang; cuốn “WTO disputes: anti-dumping, subsidies and safeguards” của Edwin A. Vermulst và Folkert Graafsma; bài nghiên cứu “The Case for Tradable Remedies in WTO Dispute Settlement” của Kyle Bagwell, Petros C. Mavroidis, và Robert W. Staiger v.v. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu nói trên còn chưa phân tích chuyên sâu về những vấn đề mà Việt Nam cần lưu ý đối với phạm vi các vấn đề tranh chấp về chống BPG được giải quyết tại DSB. Bảy là, thực tiễn giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và các tranh chấp về chống BPG nói riêng tại WTO và sự tham gia của các nước đang phát triển. Có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, trong đó có thể kể đến cuốn sách “Dispute Settlement at the WTO: The Developing country experience” của Gregory C. Shaffer và Ricardo Meléndez-Ortiz; bài viết “Sense and Sensibilities of China...iếp tục đàm phán và nỗ lực hơn nữa để hoàn thiện pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG. 2.1.3. Giai đoạn từ năm 1995 cho đến nay Ngay khi WTO vừa ra đời, rất nhiều các hiệp định được ký kết tại Vòng đàm phán Uruguay đã đặt ra thời gian biểu cho các cuộc đàm phán trong tương lai. Trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp, cuối năm 1998, các thành viên WTO cũng đã tiến hành một hoạt động rà soát toàn diện các qui tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp, nhưng không đạt được một kết quả rõ rệt nào. Sau đó, trong 30 khuôn khổ Chương trình nghị sự phát triển Đôha (Doha Development Agenda – DDA) được khởi động từ năm 2001, những vấn đề liên quan tới pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO được các thành viên WTO tiếp tục đàm phán, chủ yếu là về ADA và DSU, cụ thể: Thứ nhất, theo DDA, các thành viên WTO, sẽ tiến hành đàm phán về những sửa đổi đối với ADA. Tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ tư ở Đôha (Quata), các Bộ trưởng đã thống nhất tiến hành đàm phán về ADA với mục đích là làm rõ và cải tiến các qui định bên cạnh việc vẫn giữ lại những nguyên tắc, khái niệm và nội dung căn bản của hiệp định, có tính tới lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển [67]. Tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 5 ở Cancun (Mêxicô), vấn đề chống BPG lại được đưa ra thảo luận với nhiệm vụ chủ yếu là tiếp tục đàm phán và tiến hành các công việc khác trong khuôn khổ DDA. Nhìn chung, nội dung của các cuộc đàm phán về ADA thường xoay quanh những chủ đề chính như nghiêm cấm sử dụng cách tính “Qui về không” trong xác định biên độ bán phá giá (Zeroing), về cách xác định thiệt hại, vấn đề cam kết giá, thủ tục rà soát cuối kì bắt buộc, vấn đề đối xử với các nước đang phát triển v.v [82],[83],[90, tr. 48-64]. Cho đến thời điểm này, khó có thể dự đoán trước được về diễn biến của những cuộc đàm phán sửa đổi ADA, tuy nhiên, theo như chính tuyên bố ban đầu tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 4 ở Đôha thì có lẽ sẽ không có mấy thay đổi lớn trong các vấn đề cơ bản của ADA. Thứ hai, theo DDA, đối với DSU, các thành viên thống nhất sẽ tiến hành đàm phán nhằm cải tiến và làm rõ DSU [92]. Tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ năm ở Cancun (Mêxicô), các cuộc thảo luận về DSU đã nhận được sự tham gia đông đảo, tích cực và chủ động hơn của các thành viên so với các cuộc đàm phán khác (ngoại trừ lĩnh vực nông nghiệp) với hơn 40 đề nghị từ hơn 80 thành viên WTO. Tiếp theo đó, ngày 16/05/2003, một bản dự thảo đã được đưa ra để các 31 thành viên WTO tiến hành đàm phán [79]. Các thành viên WTO đã thảo luận bản dự thảo này cho đến tận cuối tháng 05/2003 nhưng vẫn còn nhiều điểm bất đồng. Sau đó, tại Hội nghị Bộ trưởng WTO ở Hồng Kông, các thành viên đã tiến hành thảo luận một số nội dung chính như vấn đề quyền của bên thứ ba, thẩm quyền trả hồ sơ để xét xử lại, vấn đề hậu quả cũng như thủ tục và thời hạn để xử lí trong trường hợp bị đơn không thi hành quyết định v.v [60]. Tại Hội nghị Bộ trưởng ở Giơnevơ diễn ra vào năm 2006 và 2008, các cuộc đàm phán về DSU vẫn tiếp tục được tiến hành nhưng cũng chưa thể đạt được sự đồng thuận [66]. Tính đến hết tháng 12/2013, đã có 102 vụ tranh chấp về chống BPG được đưa ra giải quyết tại DSB, tiếp tục bổ sung loại nguồn quan trọng là các báo cáo của Ban hội thẩm và AB cho pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO. Có thể thấy, pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO ở giai đoạn từ năm 1995 cho đến nay vẫn tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện thông qua thực tiễn giải quyết tranh chấp và từ những nỗ lực của các thành viên WTO. Tuy nhiên, với những bất đồng và xung đột lợi ích còn tồn tại, những điểm hạn chế và bất cập của lĩnh vực pháp luật này cũng chưa thể sớm được khắc phục và hoàn thiện. Điều này đòi hỏi phải có sự thiện chí và những nỗ lực nhiều hơn nữa của các thành viên WTO, trong đó có cả Việt Nam. 2.2. Quan niệm hiện hành của WTO về chống bán phá giá, tranh chấp về chống bán phá giá và pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá 2.2.1. Quan niệm hiện hành của WTO về chống bán phá giá và tranh chấp về chống bán phá giá Trong thương mại quốc tế thời kỳ trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt là trong quá trình đàm phán cho ra đời Hiến chương Havana, những 32 nước tham gia đàm phán đã chia BPG thành bốn nhóm: BPG về giá, BPG dịch vụ, BPG hối đoái và BPG xã hội. Sau này, chỉ có BPG về giá là tiếp tục được qui định trong Điều VI của GATT 1994 và trở thành khái niệm BPG trong thương mại quốc tế được sử dụng phổ biến ngày nay [12, tr. 19]. Theo qui định của GATT 1994 và ADA, một sản phẩm bị coi là BPG nếu giá xuất khẩu của sản phẩm thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó [34],[36]. BPG trong thương mại quốc tế tác động tới nền kinh tế của cả nước nhập khẩu và nước xuất khẩu [12, tr. 22-25], do đó, trong một số trường hợp, để đối phó và hạn chế những tác động tiêu cực từ việc hàng nhập khẩu BPG, nước nhập khẩu có thể tiến hành các biện pháp chống BPG. Như vậy, chống BPG được hiểu là “việc các cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu áp dụng các biện pháp phù hợp tác động trực tiếp lên sản phẩm nhập khẩu BPG để loại bỏ những thiệt hại mà sản phẩm nhập khẩu BPG đó gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự của nước mình” [12, tr. 26]. Liên quan tới vấn đề BPG và chống BPG, quan điểm của WTO thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây: thứ nhất, WTO không có qui định cấm việc BPG và cũng không điều chỉnh lĩnh vực này bởi BPG là hành vi của doanh nghiệp. WTO chỉ tập trung qui định cách thức mà các Chính phủ thành viên có thể hoặc không thể tiến hành các hành động để chống lại hàng nhập khẩu BPG [61]; thứ hai, không phải mọi trường hợp hàng nhập khẩu BPG thì các Chính phủ thành viên đều có quyền tiến hành các hành động để chống lại. Hàng nhập khẩu cũng phải BPG và gây ra những thiệt hại đến một mức độ nhất định thì mới bị áp dụng các biện pháp chống BPG; thứ ba, việc áp dụng các biện pháp chống BPG là quyền, chứ không phải là nghĩa vụ, của Chính phủ thành viên là nước nhập khẩu. Việc thành viên là nước nhập khẩu có ra quyết định khởi xướng các cuộc điều tra chống BPG cũng như có áp dụng các biện pháp chống BPG đối với 33 hàng nhập khẩu hay không hoàn toàn là sự lựa chọn của họ cho dù tất cả các căn cứ và yêu cầu đều đã được đáp ứng đầy đủ. Trong trường hợp nước nhập khẩu muốn đối phó với hàng nhập khẩu BPG thì họ có quyền áp dụng các biện pháp chống BPG (Anti-dumping measures) [12, tr. 40]. Các biện pháp chống BPG thường được các nước nhập khẩu qui định và áp dụng bao gồm: thuế chống BPG chính thức, biện pháp cam kết giá và biện pháp tạm thời. Có thể thấy, các biện pháp chống BPG nói trên chủ yếu là các biện pháp hành chính, là công cụ tài chính - phi thuế quan mà nước nhập khẩu có thể sử dụng để chống lại hàng nhập khẩu BPG, và về bản chất, chúng mang nặng tính chính trị và bảo hộ cho ngành công nghiệp nội địa trước sức ép cạnh tranh của ngành công nghiệp nước ngoài, chứ không hoàn toàn dựa trên những tính toán về lợi ích tổng thể của nền kinh tế hay của người tiêu dùng [12, tr. 37]. Khi một nước nhập khẩu, bằng công cụ pháp luật về chống BPG của nước mình, khởi xướng các cuộc điều tra và áp dụng các biện pháp chống BPG nhằm đối phó với hàng nhập khẩu BPG thì cũng chính là cách thức mà nước đó đã sử dụng để giải quyết những tranh chấp về BPG giữa các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm BPG với các doanh nghiệp nội địa của họ hiện đang sản xuất các sản phẩm tương tự với sản phẩm nhập khẩu. Bởi lẽ, trong trường hợp này, xét về bản chất, đã có một tranh chấp thương mại (tranh chấp về BPG) giữa các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm BPG với các doanh nghiệp nội địa sản xuất các sản phẩm tương tự với sản phẩm nhập khẩu về việc có sự chênh lệch về giá của sản phẩm. Để bảo vệ quyền lợi của mình, một hoặc một nhóm các doanh nghiệp có đủ điều kiện để được coi là đại diện cho ngành sản xuất trong nước theo pháp luật về chống BPG của nước nhập khẩu có thể đứng đơn kiện và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của quốc gia mình tiến hành các thủ tục điều tra chống BPG đối với hàng nhập khẩu. Trên cơ sở yêu cầu đó, cơ quan có thẩm quyền của nước 34 nhập khẩu sẽ tiến hành các thủ tục điều tra và giải quyết tranh chấp về BPG, xem xét và quyết định việc liệu có áp dụng các biện pháp chống BPG đối với sản phẩm nhập khẩu hay không. Để được thực hiện một cách hợp pháp và có hiệu quả, hầu hết các quốc gia đều xây dựng hệ thống pháp luật về chống BPG hàng nhập khẩu của nước mình, với nội dung thường bao gồm một số các chế định cơ bản như chế định về xác định việc BPG, chế định về xác định thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu, chế định về xác định mối quan hệ nhân quả giữa việc BPG và thiệt hại vật chất, chế định về các biện pháp chống BPG cụ thể, chế định về thủ tục rà soát việc áp dụng thuế chống BPG [12, tr. 27]. Việc chống BPG sẽ được tiến hành theo một trình tự nhất định căn cứ vào pháp luật về chống BPG của nước nhập khẩu. Trong trường hợp các doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài là đối tượng bị áp dụng các biện pháp chống BPG không đồng ý với quyết định của cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, thì có thể lựa chọn hoặc sử dụng đồng thời hai biện pháp sau: Một là, tiến hành các thủ tục khiếu kiện tư pháp để yêu cầu xem xét lại quyết định đã được ban hành [12, tr. 126]. Trên thực tế, các quốc gia có thể lựa chọn và xây dựng thủ tục này theo một trong các mô hình sau đây: (i) thủ tục và thiết chế tư pháp; (ii) thủ tục và thiết chế tài phán hành chính; (iii) thủ tục và thiết chế trọng tài; và (iv) thủ tục khiếu nại hành chính. Ví dụ như, ở Hoa Kỳ, Tòa án thương mại quốc tế (The United States Court of International Trade) là cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện các quyết định hành chính về chống BPG, hoạt động giống như một tòa án hành chính chứ không phải là một tòa án tư pháp. Phán quyết của Tòa án thương mại quốc tế có hiệu lực ngay sau khi được tuyên và có thể bị kiện lên Tòa phúc thẩm Hạt Liên bang (The Court of Appeals for the Federal Circuit) để được xem xét lại. Trong khi đó ở EU, các 35 bên liên quan trong một vụ kiện chống BPG có thể khiếu kiện lên Tòa sơ thẩm Châu Âu (The Court of First Instance). Phán quyết của Tòa sơ thẩm Châu Âu có thể bị kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm lên Tòa án Công lý Châu Âu (The European Court of Justice). Phán quyết của Tòa án Công lý châu Âu là chung thẩm. Theo Điều 13 của ADA, tất cả thành viên WTO đều phải qui định các thủ tục hoặc các thiết chế nhất định trong pháp luật quốc gia để thực hiện việc xem xét lại các quyết định cuối cùng về chống BPG một khi các bên liên quan thực hiện quyền khiếu kiện tư pháp của mình. Tuy nhiên, cho dù thuộc mô hình nào thì các thiết chế giải quyết khiếu kiện chống BPG trên đây cũng phải độc lập với cơ quan có quyết định về chống BPG bị khiếu nại, nhằm bảo đảm cho việc giải quyết khiếu kiện một cách khách quan và công bằng [12, tr. 127-128]. Hai là, vận động Chính phủ của nước mình khởi kiện Chính phủ nước nhập khẩu và sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế giữa các quốc gia. Như vậy, theo pháp luật về chống BPG của một quốc gia thành viên, có hai loại tranh chấp khác nhau liên quan tới lĩnh vực chống BPG: (1) “tranh chấp về BPG” là tranh chấp giữa các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm BPG với các doanh nghiệp nội địa của nước nhập khẩu sản xuất các sản phẩm tương tự với sản phẩm nhập khẩu; (2) “tranh chấp về chống BPG” là tranh chấp giữa tư nhân (doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài) với Chính phủ (nước nhập khẩu áp dụng biện pháp chống BPG) về việc áp dụng các biện pháp chống BPG. Theo pháp luật quốc tế, tranh chấp về chống BPG được hiểu là tranh chấp giữa các quốc gia liên quan tới vấn đề áp dụng các biện pháp chống BPG. Tranh chấp về chống BPG (Anti-dumping dispute) giữa các thành viên WTO là loại tranh chấp có thể được đưa ra giải quyết theo DSM của WTO. Mặc dù đây là một trong những loại tranh chấp phổ biến nhất tại WTO nhưng bản 36 thân WTO lại không đưa ra một khái niệm chính thức nào đối với loại tranh chấp này. Trong khuôn khổ GATT 1947, cũng không có bất kì qui định nào, ngay kể cả Điều VI có đề cập tới khái niệm này. Trong ADC 1967, tại Điều 17, có nêu ra, một phần nào đó, khái niệm tương đối rộng và còn rất chung chung, đối với tranh chấp về chống BPG, đó là tranh chấp về “các vấn đề liên quan tới việc vận hành hệ thống chống BPG tại bất kì thành viên và vùng lãnh thổ hải quan nào mà có thể tác động tới hoạt động của ADC”. Đến ADC 1979, lần đầu tiên, bộ luật này đã nêu lên một khái niệm chính thức trong phần chú thích của Điều 15, theo đó, tranh chấp về chống BPG được hiểu là “những tranh chấp phát sinh giữa các Bên liên quan tới các quyền và nghĩa vụ theo Hiệp định”. Khái niệm tương đối khái quát và rộng này, sau đó, đã không còn được nêu lại trong ADA. Mặc dù WTO chưa có một khái niệm cụ thể đối với tranh chấp về chống BPG, tuy nhiên, có thể thấy, loại tranh chấp này cũng có một số đặc điểm nhất định: một là, tranh chấp về chống BPG là tranh chấp giữa các thành viên WTO, bởi vậy, trước hết, nó là một loại tranh chấp quốc tế, là “sự bất đồng về một qui phạm pháp luật hoặc sự kiện nào đó giữa các chủ thể nhất định” trong quan hệ quốc tế [23, tr. 385]. Cụ thể, đối với tranh chấp về chống BPG trong khuôn khổ WTO, đó là sự bất đồng giữa các thành viên WTO về một chính sách hoặc pháp luật không phù hợp của một thành viên hoặc liên quan tới một quyết định về việc áp dụng các biện pháp chống BPG làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của những thành viên khác theo các hiệp định của WTO; hai là, theo Điều 1.1 của DSU, các qui tắc và thủ tục của DSU “phải được áp dụng cho những tranh chấp được đưa ra theo các qui định về tham vấn và giải quyết tranh chấp của những hiệp định được liệt kê trong Phụ lục 1 của Thỏa thuận này”, và trong Phụ lục 1 đó có liệt kê GATT 1994 và ADA [35]. Như vậy, tranh chấp về chống BPG là một trong những tranh chấp có thể được giải quyết tại WTO. Dựa trên cách diễn đạt của 37 các Điều XXII, XXIII của GATT 1994 và DSU, thì có thể hiểu, những tranh chấp được giải quyết tại WTO là những tranh chấp giữa các thành viên WTO về các vấn đề pháp lý liên quan đến các quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và các cam kết trong khuôn khổ WTO. Bởi vậy, cùng với nội dung qui định tại Điều 17 của ADA, theo tác giả, có thể hiểu: Tranh chấp về chống BPG trong khuôn khổ WTO là những bất đồng giữa các thành viên WTO về các vấn đề pháp lý liên quan đến các quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực chống BPG theo các hiệp định của WTO. Khi phát sinh một tranh chấp về chống BPG, các thành viên của WTO có thể tìm kiếm các giải pháp khác nhau để giải quyết loại tranh chấp này, bao gồm cả việc khởi kiện ra DSB. Tuy nhiên quan điểm của WTO là các thành viên có thể tiến hành tham vấn hoặc sử dụng những phương thức khác để giải quyết các tranh chấp về chống BPG giữa họ nhưng không phải mọi tranh chấp về chống BPG đều có thể được giải quyết tại DSB. Sau khi tham vấn không thành công, nếu bên khiếu kiện muốn đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại DSB thì DSB cũng chỉ tiến hành xem xét đối với bốn loại tranh chấp về chống BPG sau đây: (i) tranh chấp về thuế chống BPG chính thức; (ii) tranh chấp về sự chấp thuận một biện pháp cam kết giá; (iii) tranh chấp về biện pháp tạm thời; (iv) tranh chấp về sự không phù hợp trong các qui định pháp luật của một thành viên với nội dung của ADA [94],[95]. Qua những phân tích trên đây, theo tác giả, các tranh chấp về chống BPG được giải quyết tại WTO có những đặc điểm cơ bản sau đây [17, tr. 39-42]: Một là, tranh chấp về chống BPG là tranh chấp thứ phát. Hai là, về chủ thể, đây là những tranh chấp giữa các thành viên WTO. Ba là, về phạm vi các vấn đề tranh chấp được giải quyết tại DSB, bao gồm bốn vấn đề sau đây: (i) thuế chống BPG chính thức; (ii) sự chấp thuận một biện 38 pháp cam kết giá; (iii) biện pháp tạm thời; (iv) sự không phù hợp trong các qui định pháp luật của một thành viên với nội dung của ADA. Bốn là, về cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp về chống BPG, về mặt nội dung cũng như về tố tụng, sẽ tuân theo pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO. Để hiểu rõ hơn thuật ngữ “tranh chấp về chống BPG” theo pháp luật của WTO thì cũng cần phải có sự phân biệt loại tranh chấp này với hai loại tranh chấp, đó là “tranh chấp về BPG” và “tranh chấp về chống BPG”, theo pháp luật của một quốc gia thành viên. Trước hết, sự khác biệt giữa “tranh chấp về chống BPG” theo pháp luật của WTO với “tranh chấp về BPG” theo pháp luật của một quốc gia thành viên thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, về chủ thể, “tranh chấp về chống BPG” trong khuôn khổ WTO là tranh chấp giữa các Chính phủ, còn “tranh chấp về BPG” ở các quốc gia thành viên là tranh chấp giữa các doanh nghiệp. Thứ hai, về đối tượng tranh chấp. Theo qui định của WTO, đối tượng tranh chấp của các tranh chấp về chống BPG tại WTO là những quyết định về việc áp dụng các biện pháp chống BPG hoặc các chính sách và pháp luật về chống BPG hàng nhập khẩu không phù hợp của thành viên nhập khẩu. Đối tượng tranh chấp trong các vụ tranh chấp về BPG theo pháp luật của quốc gia thành viên là sự chênh lệch về giá giữa giá xuất khẩu của sản phẩm với giá trị thông thường của sản phẩm tương tự trong điều kiện thương mại thông thường. Thứ ba, về pháp luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp, đối với các tranh chấp về chống BPG giữa các thành viên WTO, thì đó là pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO; còn đối với các tranh 39 chấp về BPG giữa các doanh nghiệp, thì đó là pháp luật quốc gia (pháp luật của nước nhập khẩu tiến hành điều tra chống BPG). Thứ tư, về thời điểm phát sinh tranh chấp, thông thường, tranh chấp về chống BPG chỉ có thể phát sinh sau khi đã có một tranh chấp về BPG. Tranh chấp về chống BPG là loại tranh chấp thứ phát. Tiếp theo, sự khác biệt giữa hai loại “tranh chấp về chống BPG” theo pháp luật của WTO và theo pháp luật của quốc gia thành viên thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, về chủ thể, “tranh chấp về chống BPG” theo pháp luật của WTO là tranh chấp giữa các Chính phủ, còn “tranh chấp về chống BPG” theo pháp luật của quốc gia thành viên là tranh chấp giữa các doanh nghiệp với Chính phủ. Thứ hai, về pháp luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp, đối với “tranh chấp về chống BPG” theo pháp luật của WTO, thì đó là pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, còn đối với “tranh chấp về chống BPG” theo pháp luật của một quốc gia thành viên, thì đó là pháp luật quốc gia (pháp luật của nước nhập khẩu áp dụng các biện pháp chống BPG). Ngoài ra, trong khuôn khổ WTO, để hiểu rõ hơn “tranh chấp về chống BPG” thì cũng cần phân biệt loại tranh chấp này với hai loại tranh chấp khác trong cùng nhóm các biện pháp khắc phục thương mại, đó là “tranh chấp về chống trợ cấp” và “tranh chấp về tự vệ thương mại”. Đây là ba loại tranh chấp phổ biến nhất, chiếm khoảng hơn 50% tổng số các tranh chấp được giải quyết tại WTO tính đến hết tháng 12/2013 [80]. Các biện pháp khắc phục thương mại (Trade remedies), hay còn gọi là các biện pháp phòng vệ thương mại (Trade defence measures), là những công cụ chính sách thương mại cho phép nước nhập khẩu tiến hành các hành động chống lại hàng nhập khẩu nhằm khắc phục những thiệt hại vật chất mà hàng nhập khẩu 40 đang gây ra cho ngành công nghiệp trong nước. Nhóm biện pháp khắc phục thương mại bao gồm: các biện pháp chống BPG, các biện pháp đối kháng và các biện pháp tự vệ thương mại [50]. Theo qui định của WTO, các biện pháp khắc phục thương mại là những biện pháp được phép áp dụng riêng rẽ hoặc có thể được áp dụng đồng thời. Tuy nhiên, trên thực tế, trong một số trường hợp, một số thành viên đã và đang lạm dụng nhóm biện pháp này hoặc áp dụng chúng một cách không rõ ràng, gây cản trở cho sự phát triển của thương mại quốc tế. “Tranh chấp về chống trợ cấp” (Anti-subsidy dispute), hay còn gọi là “tranh chấp về các biện pháp đối kháng” (Countervailing-measure dispute), là một loại tranh chấp giữa các thành viên WTO trong lĩnh vực trợ cấp. Theo Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM) [33], trợ cấp là hành vi của một Chính phủ hoặc một cơ quan công quyền hành động, hoặc chi trả cho các khoản trợ cấp một cách trực tiếp, hoặc yêu cầu các công ty của họ trợ cấp cho những đối tượng nhất định (Điều 1). Hành vi trợ cấp là hành vi của Chính phủ, hoàn toàn khác với hành vi BPG là hành vi của các doanh nghiệp. WTO là một tổ chức liên chính phủ, do vậy, WTO không điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp bao gồm cả hành động BPG của họ. Vì lẽ đó, ADA không qui định về hành vi BPG của doanh nghiệp mà chỉ qui định những hành động của các Chính phủ được tiến hành nhằm chống lại việc BPG. Với lĩnh vực trợ cấp thì khác, Chính phủ thành viên của WTO có thể đóng một trong hai vai trò: là nước cung cấp trợ cấp hoặc là nước hành động để chống lại việc trợ cấp của một nước khác. Do đó, Hiệp định SCM qui định cả hai nội dung: trợ cấp, bao gồm cả trợ cấp bị cấm và trợ cấp có thể bị đối kháng [61], và các hành vi chống lại trợ cấp. Như vậy, trong khuôn khổ WTO, bên cạnh thuật ngữ “tranh chấp về chống trợ cấp", còn có cả thuật ngữ “tranh chấp về trợ cấp" (Subsidy dispute). “Tranh chấp về trợ cấp” theo pháp luật của WTO là tranh chấp giữa các thành viên WTO, 41 theo đó, thay vì sử dụng biện pháp đối kháng với hàng nhập khẩu có trợ cấp, thành viên nhập khẩu có thể khởi kiện ra DSB để yêu cầu thành viên cung cấp trợ cấp xóa bỏ trợ cấp hoặc loại bỏ những tác động tiêu cực của trợ cấp. Bị đơn trong các vụ tranh chấp về trợ cấp tại WTO là thành viên cung cấp trợ cấp, trong khi đó, bị đơn trong các vụ tranh chấp về chống trợ cấp tại WTO là thành viên sử dụng các biện pháp đối kháng để chống lại hàng nhập khẩu có trợ cấp. Theo qui định của WTO [37], tự vệ thương mại là hành động phản ứng của nước nhập khẩu trước tình trạng số lượng hàng nhập khẩu tăng đáng kể và đột biến. Nước nhập khẩu có thể sử dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu hoặc hạn chế số lượng để tự vệ. Tự vệ thương mại là một công cụ bảo hộ hợp pháp có sức mạnh “ghê gớm” nhưng nó lại không phải là một biện pháp “miễn phí”. Nước xuất khẩu (hoặc các nước xuất khẩu) có thể đòi bồi thường thông qua tham vấn khi nước nhập khẩu sử dụng biện pháp tự vệ thương mại [61]. Nếu nước xuất khẩu hàng hóa nhận thấy có sự vi phạm của nước nhập khẩu trong việc sử dụng biện pháp tự vệ thương mại hoặc nếu việc sử dụng biện pháp tự vệ thương mại của nước nhập khẩu ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì họ có thể khởi kiện ra DSB. Về tố tụng, điểm chung trong việc giải quyết tranh chấp về chống BPG, các tranh chấp về chống trợ cấp và các tranh chấp về tự vệ thương mại là phải tuân theo qui định của DSU, được khẳng định tại các Điều 17 của ADA, Điều 30 của Hiệp định SCM và Điều 14 của SA. Tuy nhiên, bên cạnh những nguyên tắc và thủ tục chung đó, việc giải quyết tranh chấp về chống BPG và tranh chấp về chống trợ cấp tuân theo những nguyên tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp được nêu trong Tuyên bố tại Hội nghị Bộ trưởng ở Marrakesh về giải quyết tranh chấp theo Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 hoặc Phụ lục V của Hiệp định về trợ cấp và biện pháp đối kháng [55]. 42 Ngoài ra, việc giải quyết hai loại tranh chấp nói trên còn phải tuân theo những qui định cụ thể được liệt kê trong Phụ lục 2 của DSU, theo đó, cụ thể là Điều 17.4 đến 17.7 của ADA đối với các tranh chấp về chống BPG; Điều 4.2 đến 4.12, Điều 6.6, từ Điều 7.2 đến 7.10, Điều 8.5, chú thích cuối trang 35, Điều 24.4 và Điều 27.7 của Hiệp định SCM đối với tranh chấp về chống trợ cấp. Về luật nội dung, pháp luật của WTO, bao gồm các hiệp định có liên quan và các loại nguồn khác, sẽ được áp dụng để giải quyết từng loại tranh chấp này. Về các hiệp định của WTO có liên quan, ngoài qui định chung là Điều VI của GATT 1994, việc giải quyết tranh chấp về chống BPG sẽ căn cứ vào ADA, còn việc giải quyết các tranh chấp về thuế đối kháng sẽ căn cứ vào Hiệp định SCM. Đối với các tranh chấp về tự vệ thương mại, việc giải quyết tranh chấp sẽ căn cứ vào Điều XIX của GATT 1994 và SA. 2.2.2. Quan niệm hiện hành của WTO về pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá WTO có một hệ thống pháp luật riêng nhằm cung cấp một khuôn khổ pháp lý thống nhất cho việc thi hành và giám sát các hiệp định cũng như tiến hành việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình áp dụng và giải thích những hiệp định này. Pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp tại WTO thực sự là một hệ thống phức tạp với nhiều qui định đan xen lẫn nhau. Việc xác định các loại nguồn của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp tại WTO, cơ bản cũng được dựa trên cách xác định nguồn luật áp dụng truyền thống của Điều 38(1) của Qui chế Tòa án Công lý Quốc tế và có tính tới cả những đặc thù của WTO. Mặc dù vẫn còn có những quan điểm khác nhau trong những nghiên cứu của các học giả trên thế giới về số lượng, tên gọi, vị trí, vai trò đối với từng loại nguồn [41, tr. 50],[44, tr. 53],[84, tr. 563-564], nhưng nhìn chung, các loại nguồn của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết 43 tranh chấp tại WTO bao gồm: các hiệp định của WTO, tập quán quốc tế; các nguyên tắc pháp luật chung; thực tiễn của GATT 1947 và các báo cáo về giải quyết tranh chấp của các Ban hội thẩm GATT; thực tiễn của WTO và các báo cáo về giải quyết tranh chấp của các Ban hội thẩm và AB; các văn bản được ban hành bởi các cơ quan WTO và các hiệp định mới được ra đời trong khuôn khổ WTO; các hiệp định quốc tế khác; và các học thuyết của các học giả có uy tín [41, tr. 50],[44, tr. 42]. “Các hiệp định của WTO” vẫn là loại nguồn cơ bản nhất, chứa đựng các qui phạm qui định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể cho các thành viên WTO. Tất cả các phân tích pháp lý, trước hết, “phải được bắt đầu từ chính nội dung của các hiệp định này” [98]. Tuy nhiên, việc đặt “các hiệp định của WTO” lên vị trí hàng đầu không có nghĩa là phủ nhận giá trị của các loại nguồn khác, bởi tất cả các loại nguồn nói trên đều là các loại nguồn cơ bản được áp dụng trong DSM của WTO [84, tr. 562-563]. Cụ thể, trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, việc giải quyết tranh chấp về nội dung trước hết sẽ căn cứ vào các qui định của WTO, cụ thể là Điều VI của GATT 1994 và ADA, cùng với các loại nguồn khác như tập quán quốc tế; các nguyên tắc pháp luật chung; thực tiễn của WTO và các báo cáo về giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm và AB; thực tiễn của GATT 1947 và các báo cáo về giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm; các tài liệu được ban hành bởi các cơ quan WTO; các hiệp định quốc tế khác; và các học thuyết của các học giả có uy tín. Trong khi đó, về tố tụng, việc giải quyết tranh chấp về chống BPG sẽ tuân theo DSU cùng với những qui tắc và thủ tục đặc biệt, bổ sung cho DSU được ghi nhận trong ADA (từ Điều 17.4 đến 17.7) và các qui tắc tố tụng khác có liên quan của WTO. Khi tiến hành giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, về luật tố tụng, cũng cần lưu ý một số vấn đề sau đây: 44 Thứ nhất là, về mối quan hệ giữa Điều 17 của ADA với Điều XXII và Điều XXIII của GATT 1994. Nếu Điều 17 của ADA qui định về vấn đề giải quyết tranh trấp trong khuôn khổ ADA, thì Điều XXII và Điều XXIII của GATT 1994 qui định những căn cứ pháp lý chung cho các khiếu kiện và giải quyết tranh chấp liên quan tới các điều khoản của GATT 1994, bao gồm cả Điều VI. Như vậy, Điều 17 sẽ xác lập căn cứ cụ thể cho các khiếu kiện và giải quyết tranh chấp liên quan tới ADA [94]. Thứ hai là, về mối quan hệ giữa Điều 17 của ADA với DSU, trong Báo cáo của AB vụ Goatêmala - Xi măng I (DS60), đã nêu rõ: “Hiệp định về chống BPG là một hiệp định đã được liệt kê trong Phụ lục 1 của DSU; do đó, các qui tắc và thủ tục của DSU, áp dụng cho các tranh chấp [về chống BPG] phải tuân theo các qui định về tham vấn và giải quyết tranh chấp được ghi nhận tại Điều 17 của hiệp định đó [ADA]...” [94]. Tuy nhiên, cần lưu ý, Điều 17 của ADA không thay thế các qui định của DSU [94],[96],[102],[103]. Các thủ tục đặc biệt và bổ sung qui định từ Điều 17.4 đến Điều 17.7, được liệt kê trong Phụ lục 2 của DSU, sẽ chỉ có giá trị ưu tiên hơn so với các qui định của DSU trong trường hợp giữa chúng có sự khác biệt [94]. 2.3. Nội dung những vấn đề chung của pháp luật quốc tế áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá tại WTO 2.3.1. DSM của WTO – Nền tảng pháp luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá tại WTO DSM của WTO là tổng hợp các yếu tố làm cơ sở, đường hướng cho việc giải quyết tranh chấp tại WTO [13, tr. 24-25],[21, tr. 17-18]. DSM của WTO được cấu thành bởi các yếu tố cơ bản: hệ thống các nguyên tắc, hệ thống cơ quan tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp và hệ thống luật lệ về phương pháp, qui trình, thủ tục giải quyết tranh chấp và bảo đảm thi hành quyết của DSB. 45 Trong khuôn khổ WTO, các tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và các tranh chấp về chống BPG nói riêng trong khuôn khổ WTO sẽ được giải quyết trên cơ sở một hệ thống những nguyên tắc cơ bản, trong đó, nguyên tắc đồng thuận phủ quyết là một điểm khác biệt căn bản trong DSM của WTO so với GATT, sử dụng nguyên tắc đồng thuận [14, tr. 266-267]. Để tiến hành giải quyết các tranh chấp phát sinh, WTO có một hệ thống các thiết chế liên quan tớ...iệp ở Việt Nam; giữa các bộ, ngành trong nước và giữa các cơ quan trong nước với phái đoàn Việt Nam ở Giơnevơ; - Cần kết hợp việc xử lý các khía cạnh pháp lý với các biện pháp hỗ trợ khác, từ việc vận động hành lang tới sự liên kết chặt chẽ với các bên cùng khiếu kiện, đồng thời tiến hành đấu tranh trên mặt trận dư luận để thu hút sự ủng hộ đối với Việt Nam; - Cần kết hợp việc huy động nguồn nhân lực ở trong nước và tranh thủ những nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài, trong đó bao gồm cả sự tư vấn và trợ giúp của ACWL. Khi tham gia vào việc giải quyết tranh chấp tại WTO về chống BPG, dù Việt Nam tham gia với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hay bên thứ ba, thì Việt Nam cũng cần tiến hành các giải pháp sau đây: - Tham gia chủ động và tích cực hơn nữa vào DSM của WTO cũng như tận dụng tối đa chế độ đối xử đặc biệt và khác biệt mà WTO dành cho các nước đang phát triển; - Tự trang bị kiến thức một cách đầy đủ trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp về chống BPG tại WTO, chủ động và tích cực học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác; - Tích cực phát huy vai trò, sự chủ động và sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, các hiệp hội và các cơ quan Nhà nước có liên quan; - Thiết lập một cơ chế hợp tác hiệu quả giữa các bộ, ngành trong nước và giữa các cơ quan trong nước với phái đoàn Việt Nam ở Giơnevơ; 149 - Xây dựng chiến lược đào tạo, phát triển đội ngũ nhân lực và đưa các chuyên gia của Việt Nam tham gia sâu vào hoạt động của các cơ quan của WTO, tham gia vào Ban hội thẩm và AB; - Tranh thủ một cách hợp lý sự ủng hộ của các thành viên khác; - Sử dụng hiệu quả hơn sự tư vấn và trợ giúp của ACWL. Trong trường hợp tham gia với tư cách là nguyên đơn thì Việt Nam cần tiến hành một số giải pháp cụ thể sau đây: - Cần xác định đúng phạm vi và thời điểm khởi kiện, lựa chọn đúng và trúng vấn đề; - Chú trọng và sử dụng việc tham vấn một cách có hiệu quả hơn; - Chuẩn bị tích cực và trọng tâm cho việc giải quyết tranh chấp tại giai đoạn hội thẩm, từ bước chuẩn bị đơn yêu cầu thành lập Ban hội thẩm cho đến toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp tại giai đoạn hội thẩm; - Chuẩn bị từ trước và tính tới khả năng chủ động kháng cáo, khi cần, và khả năng báo cáo của Ban hội thẩm bị kháng cáo để có thể theo đuổi vụ kiện cho tới khi giành được chiến thắng cuối cùng; - Chủ động xây dựng phương án kiểm soát việc thực thi quyết định của DSB đối với bên thua kiện, bao gồm cả khả năng áp dụng các biện pháp trả đũa, trong trường hợp Việt Nam giành được chiến thắng; - Tích cực chuẩn bị cả về tài chính, nhân lực cho một chặng đường dài theo đuổi vụ kiện, chủ động trong các phần trình bày và tranh luận tại các cuộc họp của Ban hội thẩm, phân tích, nhận định được các tình huống và dự đoán được các yêu cầu, đề xuất của bị đơn để có thể đưa ra giải pháp ứng phó phù hợp, nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho Việt Nam. Trong trường hợp Việt Nam tham gia với tư cách bị đơn thì Việt Nam cần tiến hành các giải pháp cụ thể sau đây: 150 (1) Phòng tránh các tranh chấp về chống BPG: - Thường xuyên tiến hành các hoạt động rà soát quá trình thực thi ADA và pháp luật về chống BPG hàng nhập khẩu của Việt Nam theo định kỳ hoặc đột xuất để đảm bảo sự phù hợp của pháp luật Việt Nam với các qui định của ADA; - Tích cực tham gia vào quá trình hoàn thiện pháp luật và DSM của WTO, bao gồm cả những vấn đề liên quan tới việc giải quyết tranh chấp về chống BPG; - Mạnh dạn sử dụng trên thực tế công cụ chống BPG đối với hàng nhập khẩu từ nước ngoài một cách chủ động. (2) Khi bị kiện ra WTO: - Sẵn sàng tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp trong trường hợp bị kiện; - Tận dụng các quyền mà bị đơn được tiến hành trong trình tự giải quyết tranh chấp tại WTO; kéo dài tối đa thời hạn giải quyết tranh chấp, nếu cần, đồng thời, tranh thủ thời gian để thương lượng, nếu không được, thì gây sức ép hoặc nhanh chóng hoàn thành vụ điều tra chống BPG đang được tiến hành trong nước; - Chuẩn bị phương án thực thi quyết định của DSB một cách hợp lý nhất trong trường hợp Việt Nam thua kiện. Trong trường hợp tham gia với tư cách là bên thứ ba trong một vụ tranh chấp tại WTO về chống BPG, Việt Nam cần tham gia với một thái độ nghiêm túc, tích cực, coi đó là một trải nghiệm thực sự như các bên tranh chấp. Việt Nam cần thành lập các nhóm chuyên gia và/hoặc luật sư, kể cả các luật sư của các hãng luật tư trong nước, để đại diện cho Việt Nam và có chiến lược tham gia một cách hiệu quả. Đồng thời, cần thực hiện tốt công tác báo cáo, cập nhật thông tin về các đối tác và rút ra những bài học và kinh nghiệm sau từng vụ tranh chấp về chống BPG mà Việt Nam tham gia với tư cách bên thứ ba./. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 1. Nguyễn Thị Thu Hiền (2011), Nhận diện đặc điểm pháp lí cơ bản của tranh chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO, Tạp chí Luật học, số 8/2011, tr. 38-43 và tr.24. 2. Nguyễn Thị Thu Hiền (2012), Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá của WTO, Đặc san Tạp chí Luật học về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, số 10/2012, tr. 24-30. 3. Nguyễn Thị Thu Hiền (2013), Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO – nhìn từ góc độ so sánh với việc giải quyết tranh chấp về bán phá giá, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6 (302)/2013, tr. 61-67. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. TIẾNG VIỆT I. VĂN KIỆN ĐẢNG VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT 1. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP của Chính phủ ngày 27/02/2007 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW. 2. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nghị định số 95/2012/NĐ-CP qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công thương, ban hành ngày 12/11/2012 và có hiệu lực từ ngày 26/12/2012. 3. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nghị định số 74/2012/NĐ-CP qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Chính phủ, ban hành ngày 29/09/2012 và có hiệu lực từ ngày 19/11/2012. 4. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nghị định số 16/2013/NĐ-CP về rà soát, hệ thống hóa văn bản qui phạm pháp luật, ban hành ngày 06/02/2013 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2013. 5. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nghị định số 22/2013/NĐ-CP qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, ban hành ngày 13/03/2013 và có hiệu lực từ ngày 01/05/2013. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới; 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/04/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. 9. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Quyết định số 37/2002/QĐ-TTg ngày 14/03/2002 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW. 10. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Quyết định số 51/2009/QĐ-TTg qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Phái đoàn đại diện thường trực nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới và các Tổ chức quốc tế khác tại Giơnevơ, ban hành ngày 08/04/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/06/2009. 11. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 09/11/2012 về một số biện pháp triển khai chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. II. LUẬN ÁN VÀ LUẬN VĂN 12. Vũ Thị Phương Lan (2011), Pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Hà Nội. 13. Bùi Anh Thủy (2008), Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của WTO, Luận án Tiến sĩ luật học, Hà Nội. III. SÁCH, BÁO VÀ TẠP CHÍ 14. Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên Giai đoạn II (EU-VIETNAM MUTRAP II) (2007), Vị trí, vai trò và cơ chế hoạt động của Tổ chức thương mại thế giới trong hệ thống thương mại đa phương, Hà Nội. 15. Nguyễn Linh Giang (2008), Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3), tr. 46-51. 16. Nguyễn Thị Thu Hiền (2009), Những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển trong cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của WTO mà Luật sư cần lưu ý, Tạp chí Nghề luật, (3), tr. 63-66. 17. Nguyễn Thị Thu Hiền (2011), Nhận diện đặc điểm pháp lí cơ bản của tranh chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO, Tạp chí Luật học, (8), tr. 38-43 và tr. 24. 18. Nguyễn Thị Thu Hiền (2012), Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá của WTO, Đặc san Tạp chí Luật học về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, tr. 24-30. 19. Nguyễn Thị Thu Hiền (2013), Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO – nhìn từ góc độ so sánh với việc giải quyết tranh chấp về bán phá giá, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6), tr. 61- 67. 20. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2010), Tranh chấp về chống bán phá giá trong WTO, Hà Nội. 21. Nguyễn Vĩnh Thanh, Lê Thị Hà (2006), Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức thương mại thế giới”, NXB Lao động Xã hội. 22. Nguyễn Vĩnh Thanh, Phạm Thanh Hà (2006), “Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và gợi ý cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi & Trung Đông, (8), tr. 25-38. 23. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật Quốc tế, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 24. Nguyễn Thanh Tú (2012), Cơ quan đầu mối và cơ chế phối kết hợp trong giải quyết tranh chấp thương mại trong WTO: kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (10), tr. 75 – 85. 25. Trịnh Hải Yến (2008), Sự đối xử đặc biệt và khác biệt của WTO dành cho các nước đang phát triển và những đề xuất sửa đổi Hiệp định về chống bán phá giá hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (11), tr. 75 – 83. 26. Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2006), Sổ tay về hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO, Hà Nội. IV. CÁC TÀI LIỆU TỪ NHỮNG TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ 27. Hội đồng Tư vấn về Phòng vệ Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam tại WTO – Các biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh. cua-viet-nam-tai-wto-cac-bien-phap-chong-ban-pha-gia-doi--0, truy cập ngày 31/12/2013. 28. kien-cbpg-doi-voi-hang-hoa-nuoc-ngoai-tai-thi-truong-, truy cập ngày 31/12/2013. 29. ispForm.aspx?ID=1, truy cập ngày 31/12/2013. 30. =1&governmentId=2856&organizationTypeId=11&committeeId=693, truy cập ngày 31/12/2013. 31. pha-gia-dau-tien-tai-Viet-Nam-De-tu-ve-hay-doc-quyen/29183.tctc, truy cập ngày 31/12/2013. 32. Nguyễn Tiến Vinh, Một số vấn đề nhìn từ góc độ tố tụng trong vụ kiện đầu tiên của Việt nam tại WTO. te/mot-so-van-111e-nhin-tu-goc-111o-to-tung-trong-vu-kien-111au- tien-cua-viet-nam-tai-wto, truy cập ngày 31/12/2013. B. TIẾNG ANH I. VĂN BẢN PHÁP LUẬT 33. The Agreement on Subsidies and Countervailing Measures of the WTO. 34. The Anti-dumping Agreement of the WTO. 35. The Dispute Settlement Understanding of the WTO. 36. The General Agreement on Tariffs and Trade 1994 of the WTO. 37. The Safeguards Agreement of the WTO. II. SÁCH, BÁO VÀ TẠP CHÍ 38. James P. Durling, Matthew R. Nicely (2002), Understanding the WTO Anti- Dumping Agreement: Negotiating History and Subsequent Interpretation, Cameron May Ltd. 39. Marcia Don Harpaz (2010), Sense and Sensibilities of China and WTO Dispute Settlement, The Hebrew University of Jerusalem, Faculty of Law, International Law Forum, Research Paper No.02-10. 40. J.G. Merrills (2011), International Dispute Settlement, 5th ed., Cambridge University Press. 41. David Palmeter, Petros C. Mavroidis (2004), Dispute settlement in the World Trade Organization: Practice and procedure, 2nd ed., Cambridge University Press. 42. James Headen Pfitzer, Sheila Sabune (2009), Burden of Proof in WTO Dispute Settlement: Contemplating Preponderance of the Evidence, International Centre for Trade and Sustainable Development (ICTSD), Issue Paper No.9. 43. Terence P. Stewart (1993), The GATT Uruguay Round: A negotiating history (1986-1992), Volume II: Commentary, Deventer: Kluwer Law and Taxation Publishers. 44. Peter Van den Bossche (2008), The Law and Policy of the World Trade Organization: Text, Cases and Materials, 2nd ed., Cambridge University Press. 45. Edwin A. Vermulst, Folkert Graafsma (2002), WTO disputes: anti-dumping, subsidies and safeguards, Cameron May Ltd. 46. Guohua Yang (2005), WTO Dispute Settlement Understanding: A Detailed Interpretation, edited by Bryan Mercurio & Yongjie Li, Kluwer Law International. 47. Rufus Yerxa, Bruce Wilson (2005), Key issues in WTO dispute settlement: the first ten years, ed., New York: Cambridge University Press. III. CÁC TÀI LIỆU TỪ NHỮNG TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ 48. Fabien Besson, Racem Mehdi,“Is WTO Dispute Settlement System Biased Against Developing Countries? An Empirical Analysis”. conference/ecomod2004/199.pdf, truy cập ngày 31/12/2013. 49. Chad P. Bown, China's WTO entry: Antidumping, Safeguards, and Dispute Settlement. truy cập ngày 31/12/2013. 50. Department for Foreign Affairs and Trade of Australia, Trade Remedies. truy cập ngày 31/12/2013., truy cập ngày 31/12/2013. 51. Marcia Don Harpaz, China and the WTO: New Kid in the Developing Bloc? 025119103086072097006058033028058068073000065002070087075 017092057052021031061034047018111001010089112007033042087 084101114119116067097094085020015026003020012087115107021 115084&EXT=pdf, truy cập ngày 31/12/2013. 52. truy cập ngày 31/12/2013. 53. truy cập ngày 31/12/2013. 54. truy cập ngày 31/12/2013. 55. e.htm#fnt875, truy cập ngày 31/12/2013. 56. truy cập ngày 31/12/2013. 57. truy cập ngày 31/12/2013. 58. truy cập ngày 31/12/213. 59. truy cập ngày 31/12/2013. 60. truy cập ngày 31/12/2013. 61. truy cập ngày 31/12/2013. 62. truy cập ngày 31/12/2013. 63. truy cập ngày 31/12/2013. 64. tổng hợp số liệu từ mục “Statistics on anti-dumping”, truy cập ngày 31/12/2013. 65. truy cập ngày 31/12/2013. 66. truy cập ngày 31/12/2013. 67. ng, truy cập ngày 31/12/2013. 68. truy cập ngày 31/12/2013. 69. truy cập ngày 31/12/2013. 70. truy cập ngày 31/12/2013. 71. truy cập ngày 31/12/2013. 72. truy cập ngày 31/12/2013. 73. truy cập ngày 31/12/2013. 74. truy cập ngày 31/12/2013. 75. truy cập ngày 31/12/2013. 76. truy cập ngày 31/12/2013. 77. _e.htm, truy cập ngày 31/12/2013. 78. m?id=A6#selected_agreement, truy cập ngày 31/12/2013. 79. truy cập ngày 31/12/2013. 80. truy cập ngày 31/12/2013. 81. Wenhua JI, Cui HUANG, China’s Experience in Dealing with WTO Dispute Settlement: A Chinese Perspective. truy cập ngày 31/12/2013. 82. Vivian C. Jones, WTO: Antidumping Issues in the Doha Development Agenda. truy cập ngày 31/12/2013. 83. Michael O. Moore, Antidumping Reform in the Doha Round: A Pessimistic Appraisal. truy cập ngày 31/12/2013. 84. Joost Pauwelyn, The role of Public International Law in the WTO: How far can we go?. truy cập ngày 31/12/2013. 85. Gregory C. Shaffer, Developing Country Use of the WTO Dispute Settlement System: Why it Matters, the Barriers Posed, and its Impact on Bargaining. truy cập ngày 31/12/2013. 86. Gregory C. Shaffer, Ricardo Meléndez-Ortiz, Dispute Settlement at the WTO: The Developing country experience. truy cập ngày 31/12/2013. 87. Simi T.B, India at Dispute Settlement Understanding. India_at_Dispute_Settlement_Understanding.pdf, truy cập ngày 31/12/2013. 88. The People’s Republic of China, Improving the Special and Differential Provisions in the Dispute Settlement Understanding, TN/DS/W/29, 22 January 2003. f, truy cập ngày 31/12/2013. 89. United Nations Conference on Trade and Development, Dispute Settlement – World Trade Organization, section 3.6 “Anti-dumping measures”. truy cập ngày 31/12/2013. 90. United Nations Conference on Trade and Development, Training module on the WTO Agreement on Anti-dumping. truy cập ngày 31/12/2013. 91. Mickey J. Wheatley, The WTO Dispute Settlement Understanding from a Developing Country Perspective: The Example of Thailand. No1/2%5B6%5D.pdf, truy cập ngày 31/12/2013. 92. World Trade Organization, Ministerial Declaration, WT/MIN(01)/DEC/1, adopted on 14 November 2001. m, truy cập ngày 31/12/2013. IV. CÁC BÁO CÁO CỦA BAN HỘI THẨM VÀ AB 93. Báo cáo của AB, vụ EC – Khăn trải giường cotton, WT/DS141/AB/R. 94. Báo cáo của AB, vụ Goatêmala – Xi măng I, WT/DS60/AB/R. 95. Báo cáo của AB, vụ Hoa Kỳ - Đạo luật về chống bán phá giá năm 1916, WT/DS136/AB/R, WT/DS162/AB/R. 96. Báo cáo của AB, vụ Hoa Kỳ - Thép cuộn cán nóng, WT/DS184/AB/R. 97. Báo cáo của AB, vụ Mêxicô – Thuế chống bán phá giá đối với thịt bò và gạo, WT/DS295/AB/R. 98. Báo cáo của AB, vụ Nhật Bản – Thuế đánh vào sản phẩm rượu, WT/DS8/AB/R, WT/DS10/AB/R, WT/DS11/AB/R. 99. Báo cáo của AB, vụ Thái Lan – Sắt, thép phi hợp kim dạng góc, khối, cắt và rầm chữ H, WT/DS122/AB/R. 100. Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ EC – Khăn trải giường cotton, WT/DS141/R. 101. Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ EC – Ưu đãi về thuế (DS246), WT/DS246/R. 102. Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ Hoa Kỳ - Đạo luật về chống bán phá giá năm 1916 (EC), WT/DS136/R. 103. Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ Hoa Kỳ - Đạo luật về chống bán phá giá năm 1916 (Nhật Bản), WT/DS162/R. 104. Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ Hoa Kỳ – Tôm (Việt Nam), WT/DS404/R. 105. Báo cáo của Ban hội thẩm, vụ Mêxicô – Sirô ngô, WT/DS132/R và bản đính chính. PHỤ LỤC SỐ 1 Danh mục các tranh chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ GATT (Từ năm 1948 đến hết năm 1994) STT Tên tranh chấp Nguyên đơn Bị đơn Loại báo cáo Mã BISD Số hiệu văn bản Ngày ban hành Ngày thông qua Trích dẫn đầy đủ 1. EEC – Khăn trải giường Braxin EEC Báo cáo của Ban hội thẩm 42S/17 ADP/137 04/7/1995 30/10/1995 Báo cáo của Ban hội thẩm GATT, EEC – Áp dụng thuế chống bán phá giá đối với khăn trải giường nhập khẩu từ Bra-xin, ADP/137, thông qua ngày 30/10/1995, BISD 42S/17 2. EC – Băng ghi âm Nhật Bản EC Báo cáo của Ban hội ADP/136 28/4/1995 Báo cáo của Ban hội thẩm GATT, EC – Áp dụng thuế chống bán phá giá đối với băng ghi âm xuất xứ từ Nhật Bản, thẩm ADP/136, 28/4/1995, chưa được thông qua 3. Hoa Kỳ – Thép tấm của Thụy Điển Thụy Điển Hoa Kỳ Báo cáo của Ban hội thẩm ADP/117 24/2/1994 Báo cáo của Ban hội thẩm GATT, Hoa Kỳ – Áp dụng thuế chống bán phá giá đối với thép tấm cuộn nhập khẩu từ Thụy Điển, ADP/117 và Corr. 1, 24/2/1994, chưa được thông qua 4. Hàn Quốc – Hạt nhựa Hoa Kỳ Hàn Quốc Báo cáo của Ban hội thẩm 40S/205 ADP/92 02/4/1993 27/4/1993 Báo cáo của Ban hội thẩm GATT, Hàn Quốc – Áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hạt nhựa chính phẩm dạng nguyên sinh (hạt nhựa polyacetal) nhập khẩu từ Hoa Kỳ, ADP/92 và Corr.1, thông qua ngày 27 April 1993, BISD 40S/205 5. Hoa Kỳ – Thuế chống bán phá giá đối với cá hồi Na-uy Nauy Hoa Kỳ Báo cáo của Ban hội thẩm 41S/229 ADP/87 30/11/1992 27/4/1994 Báo cáo của Ban hội thẩm GATT - Áp dụng thuế chống bán phá giá đối với cá hồi At-lan-tíc tươi và ướp lạnh nhập khẩu từ Na-uy, ADP/87, thông qua ngày 27/4/1994, BISD 41S/229 6. Hoa Kỳ – Xi măng Mêxicô Hoa Kỳ Báo cáo của Ban hội thẩm ADP/82 07/9/1992 Báo cáo của Ban hội thẩm GATT, Hoa Kỳ – Áp dụng thuế chống bán phá giá đối với xi măng poóc-lăng xám và xi măng clinker nhập khẩu từ Mê-xi-cô, ADP/82, 7/9/1992, chưa được thông qua 7. Hoa Kỳ – Thép của Thụy Điển Thụy Điển Hoa Kỳ Báo cáo của Ban hội thẩm ADP/47 20/8/1990 Báo cáo của Ban hội thẩm GATT, Hoa Kỳ – Áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các sản phẩm thép ống không gỉ nhập khẩu từ Thụy Điển, ADP/47, 20/8/1990, chưa được thông qua 8. Thụy Điển – Thuế chống bán phá giá Italia Thụy Điển Báo cáo của Ban hội thẩm 3S/81 L/328 23/2/1955 26/2/1955 Báo cáo của Ban hội thẩm GATT, Các qui định về thuế chống bán phá giá của Thụy Điển, L/328, thông qua ngày 26/02/1955, BISD 3S/81 Nguồn: World Trade Lawi i Thông tin được tổng hợp từ: truy cập ngày 31/12/2013 PHỤ LỤC SỐ 2 Thống kê danh sách và tình hình tham gia vào các vụ tranh chấp về chống bán phá giá của các thành viên WTO trong khuôn khổ WTO (Từ ngày 1/1/1995 đến hết ngày 31/12/2013) STT Tên thành viên Nguyên đơn Bị đơn Tổng cộng 1. Hoa Kỳ 7 47 54 2. EU 14 11 25 3. Mêxicô 11 6 17 4. Trung Quốc 7 7 14 5. Ấn Độ 9 3 12 6. Braxin 8 2 10 7. Áchentina 6 4 10 8. Hàn Quốc 7 1 8 9. Canađa 6 1 7 10. Nhật Bản 6 0 6 11. Thái Lan 4 1 5 12. Nam Phi 0 4 4 13. Inđônêxia 4 0 4 14. Êcuađo 1 2 3 15. Goatêmala 1 2 3 16. Thổ Nhĩ Kỳ 2 1 3 17. Ai Cập 0 2 2 18. Triniđát và Tôbagô 0 2 2 19. Pêru 1 1 2 20. Ôxtrâylia 1 1 2 21. Cốtta Rica 2 0 2 22. Việt Nam 2 0 2 23. Pakíttăng 1 1 2 24. Chilê 0 1 1 25. Philíppin 0 1 1 26. Vênêxuêla 0 1 1 27. Ba Lan 1 0 1 28. Bănglađét 1 0 1 29. Đài Loan 1 0 1 30. Nauy 1 0 1 31. Thụy Sĩ 1 0 1 32. Liên bang Nga 1 0 1 Tổng số: 102 vụ Nguồn: World Trade Organizationii ii Số liệu được thống kê từ: truy cập ngày 31/12/2013. PHỤ LỤC SỐ 3 Thống kê các vụ tranh chấp đang được giải quyết tại giai đoạn tham vấn (Từ ngày 1/1/1995 đến hết ngày 31/12/2013) STT Mã vụ tranh chấp Bên khiếu kiện Bên bị khiếu kiện Thời điểm gửi yêu cầu tham vấn 1. DS49 Mêxicô Hoa Kỳ 01/07/1996 2. DS63 EC Hoa Kỳ 28/11/1996 3. DS101 Hoa Kỳ Mêxicô 04/09/1997 4. DS140 Ấn Độ EC 03/08/1998 5. DS157 EC Áchentina 14/01/1999 6. DS168 Ấn Độ Nam Phi 01/04/1999 7. DS182 Mêxicô Êcuađo 05/10/1999 8. DS185 Cốtta Rica Triniđát và Tôbagô 18/11/1999 9. DS187 Cốtta Rica Triniđát và Tôbagô 17/01/2000 10. DS191 Mêxicô Êcuađo 15/03/2000 11. DS203 Mêxicô Hoa Kỳ 10/07/2000 12. DS208 Braxin Thổ Nhĩ Kỳ 09/10/2000 13. DS215 Hàn Quốc Philíppin 15/12/2000 14. DS216 Braxin Mêxicô 20/12/ 2000 15. DS225 EC Hoa Kỳ 05/02/2001 16. DS229 Ấn Độ Braxin 09/04/2001 17. DS239 Braxin Hoa Kỳ 18/09/2001 18. DS262 EC Hoa Kỳ 25/07/2002 19. DS272 Áchentina Pêru 21/10/2002 20. DS288 Thổ Nhĩ Kỳ Nam Phi 09/04/2003 21. DS304 EC Ấn Độ 08/12/2003 22. DS310 Canađa Hoa Kỳ 08/04/2004 23. DS318 Đài Loan, Trung Quốc Ấn Độ 28/10/2004 24. DS319 EC Hoa Kỳ 05/11/2004 25. DS324 Thái Lan Hoa Kỳ 09/12/2004 26. DS325 Mêxicô Hoa Kỳ 05/01/2005 27. DS338 Hoa Kỳ Canađa 17/03/2006 28. DS346 Áchentina Hoa Kỳ 20/06/2006 29. DS368 Trung Quốc Hoa Kỳ 14/09/2007 30. DS385 Ấn Độ EC 04/12/2008 31. DS393 Áchentina Chilê 14/05/2009 32. DS407 EC Trung Quốc 07/05/2010 33. DS410 Pêru Áchentina 19/05/2010 34. DS424 EU Hoa Kỳ 01/04/2011 35. DS439 Braxin Nam Phi 21/06/2012 36. DS470 Inđônêxia Pakíttăng 27/11/2013 37. DS471 Trung Quốc Hoa Kỳ 03/12/2013 38. DS473 Áchentina EU 19/12/2013 39. DS474 Liên bang Nga EU 23/12/2013 Nguồn: World Trade Organizationiii iii Số liệu được thống kê từ: truy cập ngày 31/12/2013. PHỤ LỤC SỐ 4 Thống kê các vụ tranh chấp về chống bán phá giá đang được giải quyết tại giai đoạn hội thẩm (Từ ngày 1/1/1995 đến hết ngày 31/12/2013) STT Mã vụ tranh chấp Bên khiếu kiện Bên bị khiếu kiện Thời điểm I. Đã thông qua yêu cầu thành lập Ban hội thẩm nhưng chưa chọn được thành phần Ban hội thẩm (thời điểm thông qua yêu cầu thành lập Ban hội thẩm): 02 vụ 1. DS420 Hàn Quốc Hoa Kỳ 22/02/2012 2. DS442 Inđônêxia EU 25/06/2013 II. Ban hội thẩm đã được thành lập (thời điểm thành lập): 06 vụ 3. DS429 Việt Nam Hoa Kỳ 12/07/2013 4. DS440 Hoa Kỳ Trung Quốc 11/02/2013 5. DS449 Trung Quốc Hoa Kỳ 04/03/2013 6. DS454 Nhật Bản Trung Quốc 29/07/2013 7. DS460 EU Trung Quốc 30/08/2013 8. DS464 Hàn Quốc Hoa Kỳ 29/08/2013 III. Báo cáo của Ban hội thẩm đã được ban hành (thời điểm ban hành): 01 vụ 9. DS427 Hoa Kỳ Trung Quốc 02/08/2013 IV. Báo cáo của Ban hội thẩm đang bị kháng cáo: 0 vụ V. Báo cáo của Ban hội thẩm được thông qua mà không yêu cầu phải tiến hành bất kỳ một hành động nào tiếp theo (thời điểm thông qua Báo cáo): 01 vụ 10. DS221 Canađa Hoa Kỳ 30/08/2012 VI. Báo cáo của Ban hội thẩm được thông qua với khuyến nghị về việc phải làm cho các biện pháp đã được áp dụng trở nên phù hợp (thời điểm thông qua Báo cáo): 05 vụ 11. DS241 Braxin Áchentina 19/05/2003 12. DS337 Nauy EC 08/01/2008 13. DS382 Braxin Hoa Kỳ 17/06/2011 14. DS404 Việt Nam Hoa Kỳ 02/09/2011 15. DS425 EU Trung Quốc 24/04/2013 VI. Thẩm quyền của Ban hội thẩm bị chấm dứt: 01 vụ 16. DS355 Áchentina Braxin 05/02/2009 Nguồn: World Trade Organizationiv iv Số liệu được thống kê từ: truy cập ngày 31/12/2013. PHỤ LỤC SỐ 5 Thống kê các vụ tranh chấp về chống bán phá giá đã được giải quyết tại giai đoạn kháng cáo và phúc thẩm (Từ ngày 1/1/1995 đến hết ngày 31/12/2013) STT Mã vụ tranh chấp Nguyên đơn Bị đơn Thời điểm I. Báo cáo của AB được ban hành (thời điểm ban hành Báo cáo): 0 vụ II. Báo cáo của AB được thông qua mà không yêu cầu phải tiến hành bất kỳ một hành động nào tiếp theo (thời điểm thông qua Báo cáo): 02 vụ 1. DS60 Mêxicô Goatêmalav 25/11/1998 2. DS244 Nhật Bản Hoa Kỳ 09/01/2004 III. Báo cáo của AB được thông qua với khuyến nghị về việc phải làm cho các biện pháp đã được áp dụng trở nên phù hợp (thời điểm thông qua Báo cáo): 06 vụ 3. DS184 Nhật Bản Hoa Kỳ 23/08/2001 4. DS294 EU Hoa Kỳ 09/05/2006 5. DS295 Hoa Kỳ Mêxicô 20/12/2005 6. DS322 Nhật Bản Hoa Kỳ 23/01/2007 7. DS350 EU Hoa Kỳ 19/02/2009 8. DS414 Hoa Kỳ Trung Quốc 16/11/2012 Nguồn: World Trade Organizationvi v Các quốc gia/vùng lãnh thổ có tên in chữ đậm và nghiêng là bên có yêu cầu kháng cáo đối với Báo cáo của Ban hội thẩm. vi Số liệu được thống kê từ: truy cập ngày 31/12/2013. PHỤ LỤC SỐ 6 Thống kê các vụ tranh chấp về chống bán phá giá đang ở giai đoạn thực thi quyết định của DSB (Từ ngày 1/1/1995 đến hết ngày 30/11/2013) STT Mã vụ tranh chấp Nguyên đơn Bị đơn Ghi chú I. Bị đơn thông báo về việc thực thi: 1. DS122 Ba Lan Thái Lan 2. DS136 EC Hoa Kỳ 3. DS156 Mêxicô Goatêmala 4. DS162 Nhật Bản Hoa Kỳ 5. DS179 Hàn Quốc Hoa Kỳ 6. DS189 EC Áchentina 7. DS206 Ấn Độ Hoa Kỳ 8. DS211 Thổ Nhĩ Kỳ Ai Cập 9. DS219 Braxin EU 10. DS331 Goatêmala Mêxicô 11. DS335 Êcuađo Hoa Kỳ 12. DS343 Thái Lan Hoa Kỳ 13. DS345 Ấn Độ Hoa Kỳ 14. DS379 Trung Quốc Hoa Kỳ 15. DS383 Thái Lan Hoa Kỳ 16. DS397 Trung Quốc EU 17. DS402 Hàn Quốc Hoa Kỳ 18. DS405 Trung Quốc EU 19. DS422 Trung Quốc Hoa Kỳ II. Thông báo về một giải pháp được chấp nhận bởi các bên tranh chấp liên quan tới việc thực thi: 20. DS99 Hàn Quốc Hoa Kỳ 21. DS264 Canađa Hoa Kỳ 22. DS277 Canađa Hoa Kỳ III. Thủ tục xem xét về sự phù hợp của hành động đã được thực hiện bởi bên thua kiện đang được tiến hành: 0 vụ IV. Kết thúc thủ tục xem xét về sự phù hợp của hành động đã được thực hiện bởi bên thua kiện và kết luận là không có sự không phù hợp của hành động đó: 23. DS132 Hoa Kỳ Mêxicô 24. DS141 Ấn Độ EC 25. DS312 Inđônêxia Hàn Quốc V. Kết thúc thủ tục xem xét về sự phù hợp của hành động đã được thực hiện bởi bên thua kiện và kết luận là có sự không phù hợp của hành động đó: 0 vụ VI. Đệ trình yêu cầu được trả đũa: 26. DS268 Áchentina Hoa Kỳ VII. Thông qua việc cho phép trả đũa: 27. DS217 Ôxtrâylia, Braxin, Chilê, EC, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan Hoa Kỳ 28. DS234 Canađa, Mêxicô Hoa Kỳ VIII. Thẩm quyền của Ban hội thẩm thực thi bị chấm dứt 29. DS282 Mêxicô Hoa Kỳ Ngày 05/07/2007, Mêxicô đã yêu cầu Ban hội thẩm thực thi (Compliance panel) tạm dừng công việc cho tới khi có thông báo tiếp theo. Mêxicô giành quyền yêu cầu Ban hội thẩm này tiếp tục công việc vào bất kỳ thời điểm nào. Cũng trong ngày hôm đó, Ban hội thẩm đã thông báo tới DSB họ đồng ý với yêu cầu của Mêxicô. Nguồn: World Trade Organizationvii vii Số liệu được thống kê từ: truy cập ngày 30/11/2013. PHỤ LỤC SỐ 7 Thống kê các vụ tranh chấp về chống bán phá giá được chấm dứt hoặc được giải quyết bằng một thỏa thuận giữa các bên tranh chấp (Từ 1/1/1995 đến hết ngày 31/12/2013) STT Mã vụ tranh chấp Nguyên đơn Bị đơn Thời điểm gửi yêu cầu tham vấn Thời điểm thông báoviii 1. DS23 Mêxicô Vênêxuêla 05/12/1995 06/05/1997 2. DS89 Hàn Quốc Hoa Kỳ 10/07/1997 15/09/1998 3. DS119 Thụy Sĩ Úc 20/02/1998 13/05/1998 4. DS247 Canađa Hoa Kỳ 06/03/2002 12/10/2006 5. DS281 Mêxicô Hoa Kỳ 31/01/2003 16/05/2007 6. DS306 Bănglađét Ấn Độ 28/01/2004 20/02/2006 7. DS313 Ấn Độ EC 05/07/2004 22/10/2004 8. DS327 Pakíttăng Ai Cập 21/02/2005 27/03/2006 9. DS344 Mêxicô Hoa Kỳ 26/05/2006 08/04/2013 10. DS374 Inđônêxia Nam Phi 09/05/2008 20/11/2008 Nguồn: World Trade Organizationix viii Thông báo chấm dứt hoặc đạt được một thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp giữa các bên tranh chấp. ix Số liệu được thống kê từ: truy cập ngày 31/12/2013.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_giai_quyet_tranh_chap_ve_chong_ban_pha_gia_trong_khu.pdf
  • pdfNguyen Thi Thu Hien-HLU-Thong tin tom tat-Tieng Anh-28 Mar 2014.pdf
  • pdfNguyen Thi Thu Hien-HLU-Thong tin tom tat-Tieng Viet-28 Mar 2014.pdf
  • pdfNguyen Thi Thu Hien-HLU-Tom tat LA-Tieng Viet-28 Mar 2014.pdf
  • pdfNguyen Thi Thu Hien-Tom tat Luan an-Tieng Anh-28 Mar 2014.pdf
Tài liệu liên quan