HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HOÀNG VĂN KHẢI
GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN
VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HOÀNG VĂN KHẢI
GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN
VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN
176 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS Vũ Hồng Sơn
2. PGS, TS Đặng Quang Định
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Hoàng Văn Khải
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................ 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ............ 6
1.1. Những công trình nghiên cứu về lợi ích, lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội,
các nhân tố ảnh hưởng tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội ....................................................................................................... 6
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng, nguyên nhân giải quyết
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.................................................. 18
1.3. Những nghiên cứu liên quan đến giải pháp để giải quyết quan hệ giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ........................................................................ 25
1.4. Giá trị của những công trình trên và một số vấn đề luận án cần tiếp
tục giải quyết .................................................................................................... 32
Chƣơng 2. GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ
HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN .................................................................................... 35
2.1. Khái niệm, nội dung giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ................. 35
2.2. Những nhân tố tác động đến việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ............... 64
Chƣơng 3. GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ
HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY -
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA .................................................................... 77
3.1. Thực trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay .................................. 77
3.2. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ............ 115
Chƣơng 4. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ
NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY .................................................................................................................................. 124
4.1. Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội................................................ 124
4.2. Tiếp tục hoàn thiện chính sách về sở hữu, phân phối nhằm đảm bảo
công bằng và tổ chức thực hiện tốt trên thực tế để giải quyết quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ............................................................. 130
4.3. Khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng
thời thực hiện lợi ích xã hội ........................................................................... 140
4.4. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương, kết hợp thực hiện
tốt chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội .............................................. 145
KẾT LUẬN................................................................................................................................ 156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................................... 158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 159
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH : An sinh xã hội
CBXH : Công bằng xã hội
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CTSH : Chủ thể sở hữu
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
ĐTSH : Đối tượng sở hữu
HTSH : Hình thức sở hữu
KTTT : Kinh tế thị trường
KTTN : Kinh tế tư nhân
KTNN : Kinh tế nhà nước
LLSX : Lực lượng sản xuất
LIXH : Lợi ích xã hội
LICN : Lợi ích cá nhân
PLXH : Phúc lợi xã hội
TLSX : Tư liệu sản xuất
QHSX : Quan hệ sản xuất
QHSH : Quan hệ sở hữu
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Suy cho cùng, sự phát triển xã hội là kết quả của những hoạt động có ý thức
của con người “đang theo đuổi những mục đích nhất định”. Trong sự phát triển đó,
lợi ích là một trong những động lực thúc đẩy hoạt động của con người, của sự biến
đổi xã hội và là một trong những vấn đề căn bản, có ý nghĩa quyết định bản chất các
mối quan hệ trong xã hội. Đề cập tới vấn đề này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng
định: “Lợi ích là thuộc tính tất yếu của con người và nó gắn kết các thành viên xã
hội dân sự lại với nhau” [88, tr.184]. Trong quá trình tồn tại và phát triển xã hội, sự
tác động lẫn nhau giữa các chủ thể lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu sẽ hình thành
quan hệ lợi ích. Mối quan hệ giữa các lợi ích, đặc biệt giữa lợi ích cá nhân (LICN)
và lợi ích xã hội (LIXH), tạo nên những vector thúc đẩy hoạt động của con người và
sự vận động của xã hội theo những chiều hướng khác nhau, mạnh yếu khác nhau.
Tuy nhiên, quan hệ giữa các chủ thể lợi ích luôn nảy sinh vấn đề phức tạp, chứa
đựng những mâu thuẫn, nhất là giữa LICN và LIXH, bởi lợi ích luôn biến đổi theo
sự biến đổi của nhu cầu xã hội. Cho đến hiện nay, ở tất cả các cấp độ của lý luận lợi
ích nói chung, LICN và LIXH nói riêng vẫn đặt ra những vấn đề cần phải nghiên
cứu, nhất là trong bối cảnh kinh tế thị trường (KTTT) - nơi các loại lợi ích thể hiện
vai trò của mình một cách đặc thù, khác biệt so với các điều kiện xã hội khác.
Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN hiện
nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò làm động lực của lợi ích đối với
sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng khi chúng ta giải quyết được hài hòa
các quan hệ lợi ích khác nhau, đặc biệt là quan hệ giữa LICN và LIXH - quan hệ lợi
ích căn bản của xã hội, nếu không thì trái lại, mâu thuẫn, xung đột lợi ích sẽ trở
thành lực cản sự tiến bộ xã hội, có thể phá hoại nghiêm trọng những thành quả bước
đầu mà đất nước đạt được, thậm chí xuất hiện những vấn đề chính trị - xã hội phức
tạp. Ở nước ta trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây, khi chúng ta đi ngày càng đi
sâu vào nền KTTT, vấn đề lợi ích nói chung, LICN và LIXH nói riêng lại trở nên
2
phức tạp, tạo ra những vấn đề “nóng” cần phải giải quyết. Xuất hiện những biểu
hiện của sự mất cân bằng trong giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, trong nhiều
biểu hiện chính là việc đề cao quá mức LICN hoặc LIXH. Một số lực lượng xã hội
nhân danh lợi ích, để mưu cầu LICN không chính đáng, xâm phạm LIXH. Những
hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí, gây thất thoát tài sản Nhà nước, buôn lậu,
trốn thuế, hàng giả, hàng kém chất lượng, lừa đảo, lợi ích nhóm tiêu cực lũng đoạn
việc quản lý, điều hành và phân phối nói chung xảy ra với tính chất ngày càng phức
tạp, nhiều vụ việc có quy mô lớn, gây những tổn hại đến sự phát triển xã hội. Thực
chất của những hiện tượng đó chính là việc đề cao quá mức LICN, bất chấp luật
pháp, đạo đức để đạt được LICN. Song ở thái cực ngược lại, lại có những LICN
chính đáng chưa được quan tâm đúng mức, đời sống của một bộ phận nhân dân còn
nhiều khó khăn, khoảng cách giàu - nghèo có xu hướng ngày càng doãng ra; thành
phần kinh tế tư nhân chưa được tạo những điều kiện tốt nhất để phát triển, chưa phát
huy hết tiềm năng của thành phần kinh tế này... Cùng với đó, càng hội nhập quốc tế
và phát triển KTTT mạnh mẽ thì càng đặt ra vấn đề là phải làm cho cá nhân thỏa
mãn lợi ích chính đáng, đồng thời phải thúc đẩy đạt được những LIXH để vừa bảo
đảm sự phát triển, vừa giữ vững định hướng XHCN. Chính vì vậy, để thúc đẩy sự
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đòi hỏi chúng ta
phải giải quyết hài hòa quan hệ giữa LICN và LIXH. Song, để làm được điều đó,
chúng ta cần hiểu rõ bản chất, vai trò, quy luật tồn tại, phát triển của từng loại lợi
ích, nội dung, phương thức, các nhân tố tác động cũng như phân tích thực trạng,
nguyên nhân của việc việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, để từ đó có những
giải pháp tác động phù hợp trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay nhằm tạo động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội và của cả cá nhân.
Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn và lý luận nêu trên và với mong muốn
góp phần đóng góp vào việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, nghiên cứu sinh
chọn vấn đề “Giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án của mình.
3
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng, nguyên nhân và
những vấn đề đặt ra từ việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện
KTTT ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết
hài hòa quan hệ giữa LICN và LIXH góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước theo
định hướng XHCN.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận án cần thực hiện một số nhiệm vụ cụ
thể như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH
như khái niệm, nội dung, phương thức và các nhân tố tác động.
- Phân tích thực trạng, nguyên nhân của những hạn chế và những vấn đề đặt
ra từ giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam
hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa LICN
và LIXH góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện
KTTT ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, giải quyết quan hệ giữa
LICN và LIXH là vấn đề rất rộng, ở đây, luận án chỉ giới hạn nghiên cứu việc giải
quyết quan hệ giữa LICN và LIXH chủ yếu thông qua lợi ích kinh tế trong lĩnh vực
sở hữu và phân phối; chủ thể giải quyết quan hệ lợi ích này chủ yếu là Đảng, Nhà
nước, xã hội và cá nhân. Luận án cũng chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu LICN là lợi
4
ích của cá nhân cụ thể nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thân, đảm bảo sự phát triển của
mỗi cá nhân; LIXH ở đây chính là lợi ích của cả xã hội với tính cách là một dân tộc
- quốc gia.
- Về không gian: nghiên cứu quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện
KTTT ở Việt Nam.
- Về thời gian: Việc nghiên cứu được tiến hành chủ yếu trong giai đoạn từ
khi bắt đầu đổi mới đất nước (1986) cho đến nay.
4. Những đóng góp mới của luận án
- Làm rõ nội dung giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, những nhân tố tác
động tới việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt
Nam hiện nay.
- Phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của việc giải
quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án phân tích những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết quan hệ giữa
LICN và LIXH trên một số khía cạnh chủ yếu như nhận thức của các chủ thể, các
chính sách về sở hữu, các chính sách về phân phối.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH
trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay, trong đó đặc biệt là giải pháp khuyến
khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng thời thúc đẩy thực hiện
LIXH. Cùng với đó, giải pháp về tiếp tục thực hiện các chính sách đảm bảo công bằng
xã hội (CBXH) đã có nhiều công trình nói tới, song tiếp tục thực hiện và tổ chức thực
hiện trên thực tế các chính sách đảm bảo CBXH là những đóng góp mới của luận án.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cá nhân, xã hội, lợi ích, quan
hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội... Ngoài ra, luận án cũng kế thừa thành quả của
những công trình nghiên cứu trước đó về những vấn đề liên quan trực tiếp đến nội
dung của luận án.
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch s để phân tích bản chất của lợi ích, điều kiện hình thành, tồn
tại, biến đổi và tính lịch s của lợi ích, LICN, LIXH, quan hệ giữa LICN và LIXH...
Luận án s dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp thống kê, các phương pháp thu
thập và x lý số liệu, thông tin (thứ cấp)... để phân tích thực trạng việc giải quyết
quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay bằng các
dẫn liệu cụ thể.
6. Ý nghĩa của luận án
- Góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận cho Đảng, Nhà nước trong việc đề
ra các chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay.
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho
những người làm công tác quản lý xã hội xây dựng và thực hiện tốt các chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước nhằm giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH trong những điều kiện cụ thể nhất định ở nước ta hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
giảng dạy, nghiên cứu giảng dạy triết học, các ngành khoa học xã hội và nhân văn
tại các học viện, trường đại học, cao đẳng, trường chính trị tỉnh (thành phố).
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm: 04
chương, 12 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ LỢI ÍCH, LỢI ÍCH CÁ NHÂN,
LỢI ÍCH XÃ HỘI, CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI VIỆC GIẢI QUYẾT QUAN
HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về phạm trù lợi ích
Xung quanh phạm trù lợi ích nói chung, đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu trong và ngoài nước đề cập đến các khía cạnh rất đa dạng của lợi ích như: khái
niệm, bản chất, vai trò, phân loại lợi ích...
Về khái niệm, bản chất lợi ích
Năm 1997, trong cuốn sách Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội
[123] tác giả Lê Hữu Tầng đã chỉ ra bản chất và nội dung của lợi ích, đó là: “xét về
bản chất, lợi ích chính là một quan hệ - quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế
giới bên ngoài chủ thể với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái
thỏa mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu” [123, tr.35]. Các tác giả cũng phân tích mối
quan hệ biện chứng giữa một số loại lợi ích, như lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần;
lợi ích riêng và lợi ích chung; lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Đây là một công
trình tham khảo tốt cho chúng tôi khi phân tích những vấn đề lý luận về lợi ích và
vai trò của lợi ích đối với sự phát triển.
Tác giả Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn sách Lợi ích - động lực của sự phát
triển xã hội [75], năm 1999, đã lược khảo những quan điểm của các nhà khoa học
Liên Xô trước đây đã đề cập đến vấn đề lợi ích. Tác giả Nguyễn Linh Khiếu đã
phân tích những quan điểm về lợi ích của các tác giả như: K.B.Ixabêcốp,
A.S.Aizicôvích, V.I.Pripisnov, D.I.Chesnocov... Trên cơ sở lược khảo các quan điểm
của các nhà nghiên cứu Liên Xô và các nhà nghiên cứu trong nước, tác giả đã đưa ra
khái niệm “lợi ích là một sự vật hay một hiện tượng khách quan biểu hiện những mối
quan hệ tất yếu của con người và dùng để thỏa mãn những nhu cầu cấp bách của họ
trong một hoàn cảnh sinh sống nhất định” [75, tr.50]. Đây là tài liệu tham khảo tốt cho
chúng tôi để khảo cứu lịch s nghiên cứu vấn đề lợi ích, nhất là ở Liên Xô trước đây.
7
Năm 2005, tác giả Lê Thị Kim Chi trong cuốn sách Nhu cầu: động lực và định
hướng xã hội [15] đã có những phân tích cụ thể về mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích,
theo đó, tác giả khẳng định: “Lợi ích xuất hiện trong quan hệ giữa nhu cầu của con
người với môi trường xung quanh; lợi ích thể hiện mối quan hệ xã hội giữa con người
với con người nhằm thỏa mãn nhu cầu; lợi ích là cái trung gian giữa nhu cầu và hoạt
động của con người, là động lực thúc đẩy hoạt động của con người và của xã hội” [15,
tr.31]. Những phân tích của tác giả về quan hệ nhu cầu và lợi ích đã gợi mở cho chúng
tôi nghiên cứu sâu thêm về vấn đề lợi ích trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
Năm 2010, trong công trình Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay [36], tác giả Đặng Quang Định trên cơ sở tiếp cận lợi ích từ nhu cầu, đã nêu
rõ định nghĩa về lợi ích: “lợi ích là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa các chủ thể và
dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội (cá nhân, tập đoàn, giai cấp, tầng
lớp...) trong những điều kiện lịch s - xã hội nhất định” [36, tr.30]. Từ đó, tác giả
khẳng định: “về bản chất, lợi ích là cái phản ánh quan hệ của các chủ thể nhu cầu, còn
nội dung là để thỏa mãn nhu cầu của chủ thể ấy” [36, tr.30]. Chúng tôi đồng ý với
quan điểm này và coi đây là tài liệu tham khảo rất có ý nghĩa.
Năm 2012, cũng trên cơ sở tiếp cận lợi ích từ nhu cầu, song đề cập đến khía
cạnh động lực của lợi ích đối với con người, tác giả Lê Văn B u, trong công trình
Vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vùng
Nam bộ hiện nay [9] đã nêu: “Lợi ích là sự thể hiện mâu thuẫn khách quan giữa nhu
cầu và điều kiện để thỏa mãn nhu cầu. Trong khi thể hiện mâu thuẫn nói trên, lợi ích
kích thích tính tích cực, sáng tạo của con người và “thúc ép” con người phải hành
động, đấu tranh vì lợi ích của mình” [9, tr.35]. Đây là quan điểm mà chúng tôi cũng
đã có sự tham khảo trong quá trình nghiên cứu về lợi ích.
Như vậy, vấn đề khái niệm, bản chất của lợi ích cũng đã được nhiều học giả
trong và ngoài nước nghiên cứu trong những giai đoạn lịch s khác nhau, song có
thể thấy, cơ bản đều thống nhất quan hệ lợi ích là khách quan, là cái phản ánh quan
hệ nhu cầu giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội và
về bản chất, lợi ích là cái phản ánh quan hệ của các chủ thể nhu cầu, còn nội dung là
8
để thỏa mãn nhu cầu của chủ thể ấy. Đây là những công trình có giá trị tham khảo
tốt cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu.
Về vai trò của lợi ích
Nhìn chung, qua khảo cứu các công trình, đa số các tác giả đều chỉ ra tính
tích cực của lợi ích trong hoạt động của con người. Theo C.Mác và Ph.Ănghen, lợi
ích chính là động lực sâu xa nhất thúc đẩy con người hành động và mọi hành động
của con người đều có động cơ nhất định. Và kết quả ra sao phụ thuộc vào việc nhận
thức và hành động thực tiễn của họ về lợi ích.
Năm 1997, đi vào nghiên cứu vai trò lợi ích đối với sự phát triển xã hội, trong
công trình Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, [123] các tác giả đã chỉ ra vai
trò của lợi ích trong sự phát triển xã hội “Nếu lợi ích đúng là khâu trung gian chuyển hóa
những yêu cầu khách quan bên ngoài thành những động cơ tư tưởng bên trong thúc đẩy
con người ta hành động, thì có thể nói, đó chính là khâu cần được đặc biệt quan tâm
trong sợi dây chuyền dẫn tới chỗ khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực của con người và
thông qua tính tích cực ấy mà thúc đẩy quá trình phát triển xã hội” [123, tr.39]. Việc
phân tích lợi ích với vai trò là một trong những động lực của sự phát triển, cùng với
những động lực khác được đề cập trong công trình này là những gợi mở tốt cho chúng
tôi trong quá trình nghiên cứu.
Năm 2008, trong bài viết Quan điểm của Triết học Mác về lợi ích với tư cách
động lực của lịch sử [34] tác giả Đặng Quang Định đã khẳng định vai trò của lợi ích
trong sự phát triển xã hội: “việc nhận thức quan hệ xã hội mà thiếu lợi ích thì về cơ
bản, nhận thức đó vẫn chỉ mang tính trừu tượng. Khi nói về vai trò của lợi ích, triết
học Mác cho rằng, lợi ích là cái liên kết các thành viên trong xã hội, nó được đặt
trong quan hệ giữa con người với nhau làm cơ sở cho việc xác lập các quan hệ giữa
họ” và “Lợi ích thúc đẩy đời sống các dân tộc” [34, tr.76]. Mặc dù dừng lại ở góc độ
là một bài viết, song đây là công trình có nhiều gợi mở, tạo tiền đề cho chúng tôi
nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội.
Năm 2011, trong công trình Lợi ích - động lực của sự phát triển bền vững
[84] tác giả Hoàng Văn Luân đã khẳng định: Mâu thuẫn lợi ích và giải quyết mâu
thuẫn lợi ích là động lực phát triển xã hội [84, tr.93]. Trên cơ sở đó tác giả nêu ra
9
những định hướng quan hệ lợi ích vì sự phát triển xã hội, trong đó nêu khá cụ thể
các nguyên tắc và biện pháp điều chỉnh cũng như điều chỉnh một số quan hệ lợi ích
cơ bản của xã hội, đặc biệt nhấn mạnh đến việc điều chỉnh chính sách kinh tế. Đây
là công trình có nhiều giá trị đối với chúng tôi trong việc phân tích về lợi ích, cũng
như có những gợi mở để nghiên cứu về việc giải quyết các lợi ích.
Về phân loại lợi ích
Các công trình về lợi ích nêu trên đều đã đề cập về phân loại lợi ích theo
nhiều cách tiếp cận, nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, ở góc độ khái quát, theo
tác giả Đặng Quang Định trong công trình Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp
công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay [Theo 36], đã phân tích cách phân loại lợi ích của các học giả Liên
Xô được đề cập trong “Bách khoa toàn thư Liên Xô”, viết năm 1972, trên cơ sở các
nguyên tắc, tiêu chí nhất định, lợi ích phân loại như sau: dựa vào các lĩnh vực của
đời sống xã hội, chia thành lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi
ích chính trị; dựa vào phạm vi cộng đồng, chia thành LICN, lợi ích giai cấp, lợi ích
tập thể, LIXH; dựa vào xu hướng khách quan của sự phát triển xã hội, chia thành
lợi ích tiến bộ, lợi ích bảo thủ;
Ngoài ra, lợi ích còn có thể phân loại dựa trên một số căn cứ sau: dựa vào
thời gian tồn tại của lợi ích, chia thành lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; dựa vào
tầm quan trọng của lợi ích, chia thành lợi ích căn bản và lợi ích không căn bản, lợi
ích cấp bách và lợi ích không cấp bách; dựa vào tính chất và các biện pháp thực
hiện lợi ích, chia thành lợi ích chính đáng và lợi ích không chính đáng.
Đây là cách tiếp cận để phân loại lợi ích khá toàn diện, vì vậy, công trình này
là tài liệu tham khảo bổ ích cho chúng tôi trong việc phân loại lợi ích.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về khái niệm lợi ích cá nhân, lợi ích
xã hội và lợi ích kinh tế
Năm 2012, trong công trình Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển của xã
hội [40], tác giả Đặng Quang Định đã đề cập đến khái niệm LICN, LIXH và lợi ích
kinh tế. Tác giả phân tích: “Lợi ích cá nhân là tất cả những giá trị vật chất, tinh thần
mà các cá nhân thực hiện được trong những điều kiện nhất định, dùng để thoả mãn
10
nhu cầu, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân” [40, tr.13-14] và “Lợi ích
xã hội là lợi ích chung của cộng đồng người trong một xã hội nhất định, đảm bảo
cho sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung” [40, tr.17]. Tác giả cũng đã đưa ra
khái niệm lợi ích kinh tế: “lợi ích kinh tế là giá trị kinh tế mà mỗi cá nhân có được
khi tham dự vào quá trình sản xuất kinh tế, dùng để thỏa mãn nhu cầu của các cá
nhân đó” [40, tr.19]. Đây là công trình này có giá trị cung cấp cho chúng tôi những
tư liệu tổng hợp để xây dựng nên những khái niệm được s dụng trong luận án.
Năm 2012, tác giả Lê Văn B u, trong công trình Vấn đề lợi ích trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vùng Nam bộ hiện nay [9] đã
khẳng định: “lợi ích cá nhân là lợi ích của những con người cá thể, riêng rẽ”; “lợi
ích toàn xã hội là lợi ích chung của các thành phần (cá nhân và các tập thể) trong xã
hội” [9, tr.44-45]. Tác giả cũng phân tích quan hệ giữa các loại lợi ích, trong đó
khẳng định “lợi ích riêng bao giờ cũng là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất thúc
đẩy hoạt động của cá nhân”, “lợi ích chung trong trường hợp này lại là điều kiện
đóng vai trò định hướng trong việc thực hiện lợi ích riêng” [9, tr.42-45]. Chúng tôi
tham khảo ở tài liệu này những phân tích lý luận gắn với việc giải quyết các mâu
thuẫn lợi ích cụ thể.
Vấn đề lợi ích kinh tế cũng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu từ những
năm 80 của thế kỷ trước, phải kể đến như:
Năm 1982, trong cuốn sách Bàn về các lợi ích kinh tế [132], các tác giả Đào
Duy Tùng, Lê Xuân Tùng, Vũ Hữu Ngoạn đã phân tích và đưa ra quan niệm về
lợi ích kinh tế: “lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ kinh tế,
quan hệ giữa người với người trong sản xuất” [132, tr.9]. Ở điểm khác các tác giả
phân tích “Lợi ích kinh tế của xã hội là lợi ích của nhân dân lao động trên phạm vi
cả nước, lợi ích của tất cả các tập đoàn, các thành viên của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Lợi ích kinh tế của xã hội nảy sinh trên cơ sở nhân dân lao động làm chủ tập thể về
tư liệu sản xuất, về lao động, đất đai, về tài nguyên thiên nhiên” [132, tr.11]. Cùng
với đó, các tác giả cho rằng: “lợi ích của cá nhân người lao động biểu hiện trước hết
ở tiền lương, tiền thưởng trong các xí nghiệp quốc doanh, ở thu nhập của các xã
viên trong các đơn vị kinh tế tập thể, ở các khoản phụ cấp xã hội về học hành, bảo
vệ sức khỏe, nghỉ ngơi, v.v..” [132, tr.13].
11
Năm 1988, tác giả Nguyễn Duy Hùng trong công trình Bàn về sự hình thành và
kết hợp các lợi ích kinh tế trong nông nghiệp tập thể ở nước ta hiện nay, [60] đã cho
rằng: “lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, có tính vật chất, có ý nghĩa thiết
thực đối với hoạt động và phát triển của chủ thể. Song chưa đủ: lợi ích kinh tế còn đảm
bảo duy trì các mối quan hệ giữa các chủ thể” [60, tr.12] và “lợi ích cá nhân là điểm
xuất phát và là động lực mạnh mẽ nhất cho mọi hoạt động” [60, tr.18].
Đi vào phân tích lợi ích kinh tế trong điều kiện hiện nay, năm 2013, tác giả Đỗ
Huy Hà trong công trình Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô thị hóa
ở nước ta hiện nay [48] khẳng định: “lợi ích kinh tế là những quan hệ kinh tế phản
ánh những nhu cầu, động cơ khách quan về sự hoạt động của các chủ thể khi tham gia
vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định” [48,
tr.10]. Công trình cũng đã khẳng định thực chất, nội dung, phân tích thực trạng của
việc giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay và
đề xuất quan điểm, giải pháp giải quyết tốt quan hệ này. Đây là công trình có nhiều
gợi mở ý tưởng cho tác giả trong việc giải quyết các nội dung cụ thể của giải quyết
quan hệ lợi ích trong đời sống xã hội.
Có thể nói, đây là những công trình hết sức quan trọng, có ý nghĩa đối với
việc nghiên cứu của tác giả; các khái niệm về vấn đề về LICN, LIXH, lợi ích kinh tế
đã được đề cập ở những bối cảnh lịch s khác nhau. Về cơ bản, tác giả kế thừa và
thống nhất với các quan điểm trên đây về định nghĩa LICN, LIXH, lợi ích kinh tế.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về quan hệ và giải quyết quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội
Đề cập tới quan hệ và vai trò của quan hệ giữa LICN và LIXH, năm 2001,
trong công trình Quan hệ cá nhân - xã hội trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với
vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay [74], tác
giả Phạm Huy Kỳ cho rằng: “do mỗi con người cụ thể có những nhu cầu riêng, lợi
ích riêng, không ai giống ai, có thể phù hợp hay không phù hợp, thậm chí đối lập
với LIXH, nên việc giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội có vai
trò và ý nghĩa to lớn. Nó đóng vai trò là cơ sở, động lực cho sự phát triển quan hệ
12
cá nhân - xã hội, và cũng có thể làm triệt tiêu sự phát triển đó, nếu giải quyết không
đúng qui luật của quan hệ lợi ích” [74, tr.21] và “Mối quan hệ biện chứng giữa cá
nhân và xã hội chỉ có thể được thực hiện đúng đắn khi quan hệ lợi ích giữa cá nhân và
xã hội được giải quyết một cách hài hòa” [74, tr.22].
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu trước đó, năm 2002,
tác giả Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn sách Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích
[76], đã phân tích quan hệ giữa các lợi ích trong sự phát triển xã hội, tác giả cũng đã
chỉ ra: “Quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung thực chất là các quan hệ cơ bản
của một cá nhân hay một nhóm xã hội với cả cộng đồng” [76, tr.98] và “Mối quan hệ
giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, hay còn gọi là lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có
ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển xã hội” [76, tr.102]. Do vậy, tác giả đã dành
sự quan tâm đến việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH nói riêng và các quan
hệ lợi ích nói chung.
Nói về LICN và LIXH trong điều kiện KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, trong đề tài Quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay [106] (năm 2013) các tác giả khẳng định: “thực chất
của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho
mỗi... đang
đặt ra khá lôgic. Trong phần phân tích về quan hệ sở hữu, tác giả đã phân tích những
biến đổi về từng khía cạnh cụ thể: Đối tượng sở hữu, chủ thể sở hữu, hình thức sở
hữu; còn ở quan hệ phân phối đó là: chủ thể phân phối, khách thể phân phối, hình
thức phân phối. Chúng tôi đã kế thừa ở công trình này những đánh giá về biến đổi
quan hệ sản xuất để đánh giá về thực trạng giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH
thông qua yếu tố sở hữu, phân phối.
Có thể nói, các công trình nêu trên đã có những đề cập đến thực trạng giải
quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trên nhiều phương diện từ chủ thể, cách thức,
các kết quả (tích cực và tiêu cực). Tuy các nội dung liên quan đến luận án được đề
cập ở nhiều công trình khác nhau, cả trực tiếp và gián tiếp, có những nội dung
chúng tôi chỉ tìm thấy những đề cập hạn chế, song từ những nội dung đa dạng như
vậy đã giúp chúng tôi có những nhìn nhận đánh giá đa chiều, chân thực về giải
quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện hiện nay. Qua đó, chúng tôi
nhận thấy đây là những tư liệu tốt để s dụng trong nghiên cứu đề tài.
1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT
QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI
26
Trong các công trình nghiên cứu trên, cùng với việc phân tích cơ sở lý luận,
thực trạng cũng đã phần nào đề cập đến những giải pháp cụ thể giải quyết quan hệ lợi
ích giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay. Đây đều là
những công trình có giá trị tham khảo tốt cho chúng tôi trong việc gợi mở các giải
pháp được đề xuất trong luận án.
Ở góc độ khái quát, đề cập tới tổng thể các quan điểm, giải pháp giải quyết
quan hệ cá nhân và xã hội, trong công trình Quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay [106], các tác giả đã đề xuất một số
quan điểm và giải pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ quan hệ giữa
cá nhân và xã hội trong điều kiện KTTT và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng ở
nước ta hiện nay, trong đó khẳng định: Cần xây dựng chế độ sở hữu phù hợp để giải
quyết hài hòa quan hệ giữa LICN và LIXH; phát triển cá nhân và xã hội không thể
tách rời việc xây dựng môi trường dân chủ, công bằng, văn minh... Các tác giả đã đề
xuất các giải pháp cụ thể như: 1- Xây dựng nguyên tắc phù hợp để giải quyết hài hòa
quan hệ giữa LICN và LIXH; 2- Chống chủ nghĩa cá nhân để phát triển cá nhân và xã
hội; 3- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi để điều chỉnh hài
hòa quan hệ lợi ích giữa cá nhân, tập thể và xã hội; 4- Phát triển giáo dục đào tạo
nâng cao nhận thức về trách nhiệm của cá nhân và xã hội; 5- Nâng cao ý thức trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên góp phần định hướng, giải quyết quan hệ giữa cá nhân
và xã hội. Những quan điểm và giải pháp nêu ra trong công trình này cho chúng tôi
chất liệu để đề cập tới các giải pháp cụ thể trong giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH được nêu ra trong luận án.
Quan điểm về sự kết hợp các lợi ích trong giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH cũng được tác giả Võ Khánh Vinh đề cập tới trong công trình Lợi ích xã hội
và pháp luật [145]. Tác giả cũng đã nêu quan điểm có tính xu hướng của việc giải
quyết các lợi ích: “Cùng với việc phát triển xã hội, sự hòa hợp các lợi ích sẽ phát
triển, sự thống nhất của các lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân cũng sẽ phát triển.
Cùng với sự phát triển, xã hội sẽ nhận về mình trách nhiệm lớn hơn trong việc làm
thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân” [145, tr.74]. Đây là công trình nghiên cứu
27
nghiêng về khía cạnh pháp luật, song những phân tích, lập luận của tác giả về LIXH
rất có ý nghĩa đối với chúng tôi trong quá trình nghiên cứu.
Đi vào những khía cạnh cụ thể của giải pháp giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay, như về khía cạnh nâng cao nhận
thức của các chủ thể, trong bài viết Quan điểm của Đảng về giải quyết vấn đề lợi ích
tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới [35], tác giả Đặng
Quang Định đã phân tích các quan điểm của Đảng ta qua các kỳ Đại hội từ đổi mới
đến nay khi khẳng định để giải quyết hài quan hệ giữa LICN và LIXH ở nước ta
trong điều kiện hiện nay cần thống nhất trong nhận thức của các chủ thể một số vấn
đề đó là: “thực hiện hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và xã hội” [35, tr.268],
quan tâm và “bảo vệ lợi ích của người lao động” [35, tr.459]; “thực hiện kết hợp
hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội” [35, tr.635].
Tác giả Hồ Bá Thâm trong công trình Bàn về mâu thuẫn xung đột lợi ích hiện
nay [127], đã nêu một số định hướng về yêu cầu, mục tiêu trong quá trình nhận thức
giải quyết xung đột lợi ích hiện nay, đó là: 1- Chủ động nhận thức, giải quyết mâu
thuẫn xung đột mới tạo nên sự ổn định của sự phát triển; 2- Giải quyết mâu thuẫn
không nên chỉ hiểu là xóa bỏ một mặt đối lập, mà có thể tạo nên sự cân bằng mới,
hay đổi mới của cả hai mặt đối lập, chuyển hóa cả hai mặt ấy lên trình độ cao hơn
(tức là theo hướng “hai bên cùng có lợi”, “cùng thắng”; 3- Giải quyết các mâu thuẫn
lợi ích vì sự phát triển hài hòa, phát triển bền vững.
Cùng với đó, trong bài viết Quản trị xung đột lợi ích - Các lý thuyết và vấn đề
đặt ra ở Việt Nam hiện nay [85] tác giả Hoàng Văn Luân sau khi nêu quan điểm của
một số học giả nước ngoài như F.W.Taylor, Mary Packer Follet về vấn đề xung đột
lợi ích đã phân tích những xung đột lợi ích ở Việt Nam và khẳng định vấn đề có tính
nhận thức rằng giữa các lợi ích khác nhau trong xã hội luôn có xu hướng xung đột với
nhau, đó là một tất yếu khách quan và phổ biến. Từ đó, tác giả khẳng định: “mục tiêu
của quản trị xung đột lợi ích ở Việt Nam hiện nay không chỉ là tạo ra sự cân bằng
giữa các lợi ích và nhóm lợi ích mà còn tạo ra sự cân bằng năng động trong quản trị
xung đột lợi ích mới có thể tạo ra động lực cho sự phát triển” [85, tr.79].
28
Đề cập tới các giải pháp giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH thông qua
sở hữu, phân phối, thực hiện tốt ASXH và PLXH nhiều công trình đã đề cập tới,
tiêu biểu như:
Trong công trình Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội - động lực phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam [50], tác giả Phạm Thị
Hằng luận giải, phân tích, đề xuất một số quan điểm giải quyết hài hòa giữa LICN, lợi
ích tập thể và LIXH: 1- Kết hợp hài hòa LICN, lợi ích tập thể, LIXH, 2- Trong mọi
lĩnh vực, mọi hoạt động đều coi trọng giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, kết
hợp hài hòa các lợi ích; có nghĩa là vừa chú ý đúng mức đến LICN, vừa phải quan
tâm đến lợi ích tập thể, quyền lợi của cơ quan, đơn vị; đồng thời tính đến và đảm bảo
lợi ích chung của xã hội, dân tộc - quốc gia. 3- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính
sách kinh tế - xã hội, nhất là về sở hữu của Nhà nước theo tinh thần kết hợp hài hòa
ba lợi ích của: cá nhân, tập thể và xã hội. Chúng tôi đã kế thừa được nhiều ý tưởng từ
bài viết này để kế thừa trong việc triển khai các quan điểm, giải pháp được nêu ra
trong luận án.
Trong công trình Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội [40] của tác
giả Đặng Quang Định đã nêu một số những nguyên tắc trong giải quyết vấn đề lợi
ích nói chung và vấn đề lợi ích cá nhân và xã hội nói riêng, đó là: cần tránh thái độ
“tả” khuynh và hữu khuynh, cần phải tiến hành thận trọng, từng bước trên cơ sở
nắm rõ xu hướng vận động của các lợi ích và thái độ của các cá nhân, các giai cấp,
các tầng lớp, các nhóm gắn liền với lợi ích đó. Tác giả cũng đã đề cập tới giải pháp
trong giải quyết quan hệ lợi ích đó là: cần xây dựng hệ thống pháp luật, cơ chế đồng
bộ tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các vấn đề lợi ích cho phù hợp với sự phát
triển của cá nhân và xã hội.
Năm 2015, trong bài viết Thực hiện công bằng xã hội đối với các hình thức
sở hữu vì sự phát triển con người ở nước ta hiện nay [119] của Trần Văn Rón và
Lương Đình Hải đã chỉ ra những bất cập trong việc xác định cơ cấu, hình thức sở
hữu, thành phần kinh tế ở Việt Nam từ khi đổi mới. Đặc biệt, các tác giả tập trung
phân tích vấn đề đảm bảo công bằng xã hội đối với các khu vực, thành phần kinh tế
hiện nay. Theo các tác giả, nhà nước không nên xác định và không nên s dụng tư
29
tưởng chủ đạo mà nên quán triệt và thực hiện các nguyên tắc đảm bảo công bằng,
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh của tất cả các loại hình doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần, khu vực kinh tế, khuyến khích s dụng có hiệu quả các
nguồn lực phát triển theo đúng quy định của pháp luật. Đây là những đánh giá quan
trọng và chúng tôi có thể s dụng để phân tích thực trạng, những vấn đề đặt ra trong
đánh giá việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH thông qua yếu tố sở hữu.
Cùng với đó, nhằm giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH một cách hiệu quả,
một số công trình đã đề cập tới một trong những giải pháp quan trọng là khuyến
khích, tạo tính năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân. Như trong cuốn sách Về động
lực của sự phát triển kinh tế xã hội [123] tác giả Lê Hữu Tầng (chủ biên) đã phân
tích một số nội dung có tính chất định hướng trong vấn đề s dụng đúng đắn tính
tích cực của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể đó là: tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan; chủ động định hướng hoạt động của con người
trên cơ sở nhận thức các nhu cầu; kích thích tính tích cực của người lao động một
cách hợp lý trên cơ sở kết hợp đúng đắn các loại lợi ích. Tác giả khẳng định: “quan
tâm đầy đủ đến mọi lợi ích cá nhân, trước hết là lợi ích kinh tế, nhưng đồng thời
cũng không quên các lợi ích khác, tìm ra cơ chế x lý chúng một cách thỏa đáng phải
được coi là một trong những biện pháp cực kỳ quan trọng để kích thích tính tích cực
của người lao động và hướng tính tích cực đó vào thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội” [123, tr.228]. Công trình cũng đã gợi mở cho chúng tôi những tham khảo cho
việc tìm ra xu hướng, cách thức giải quyết quan hệ lợi ích trong xã hội.
Đi vào gợi mở một số giải pháp giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH ở
một số khía cạnh, lĩnh vực cụ thể đã được một số công trình gần đây đề cập tới như:
Năm 2008, trong bài viết Tạo sự hài hòa về lợi ích giữa công nhân và doanh
nhân ở Việt Nam hiện nay [21] tác giả Vũ Tiến Dũng đã đề cập đến một vấn đề
mang tính thời sự và đang là mối quan tâm của người lao động hiện nay, đó là quan
hệ lợi ích giữa công nhân và doanh nhân ở Việt Nam hiện nay, theo đó, vấn đề này
đang được giải quyết theo hướng tích cực, tuy nhiên, cũng còn nhiều hạn chế. Trên
cơ sở đó, bài viết đã đề xuất, luận chứng một số giải pháp cần thiết nhằm góp phần
cải thiện và tạo ra sự hài hòa trong quan hệ lợi ích giữa công nhân và doanh nhân
30
như: Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện môi trường sản xuất kinh doanh, tạo thêm
nhiều chính sách thuận lợi kích thích đầu tư; quản lý tốt việc chấp hành pháp luật của
các doanh nghiệp tư nhân; xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc để phân chia lợi nhuận
hợp lý trong các đơn vị sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh công tác biểu dương đối với
những doanh nhân có thành tích trong sản xuất kinh doanh, giải quyết tốt quan hệ lợi
ích với người lao động và với xã hội; từng bước thực hiện công bằng xã hội nói
chung, sự hài hòa trong quan hệ giữa công nhân với doanh nhân nói riêng.
Năm 2012, tác giả Lê Văn B u, trong công trình Vấn đề lợi ích trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vùng Nam bộ hiện nay [9] đã xác
định một số vấn đề lợi ích cấp bách cần tập trung giải quyết và đưa ra các giải pháp
để giải quyết các lợi ích trước mắt ở Nam bộ hiện nay nhằm tạo động lực phát triển
kinh tế - xã hội ở Nam bộ. Đó là: 1- Đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế với thực hiện
công bằng, tiến bộ xã hội và phát triển bền vững, chống tham nhũng và lãng phí, tập
trung nguồn lực, nâng cao đời sống, thu nhập của nhân dân; 2- Nâng cao chất lượng
và hiệu quả s dụng nguồn nhân lực vùng Nam bộ; 3- Huy động các nguồn lực để
bảo vệ và duy trì môi trường sống của con người.
Năm 2013, tác giả Trần Thanh Giang, trong Vấn đề lợi ích kinh tế của người
nông dân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay [47] đã nêu các
quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo lợi ích của người nông dân trong điều kiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và quá trình đô thị hóa như hiện nay.
Trên cơ sở đó, tác giả đã nêu ra các giải pháp chủ yếu để giải quyết các lợi ích cụ
thể của người nông dân trong quá trình CNH, HĐH đó là: 1- Hoàn thiện hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách kịp thời, phù hợp và thực hiện hiệu quả công tác quy
hoạch về xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân theo hướng hiện đại;
2- Tăng cường các giải pháp hỗ trợ nông dân; 3- Tăng cường các nguồn vốn đầu tư
cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; 4- Thực hiện mục tiêu quốc gia về xây dựng
nông thôn mới gắn với bảo vệ lợi ích kinh tế cho người nông dân; 5- Phát triển toàn
diện kinh tế - xã hội nông thôn; 6- Đẩy mạnh dân chủ hóa, phát huy tính chủ động,
sáng tạo của người nông dân trong xây dựng nông thôn mới.
Mặc dù đây là những công trình nghiên cứu việc giải quyết lợi ích cụ thể của
một số đối tượng nhất định, song những giải pháp này đã giúp cho chúng tôi có
31
những tư liệu thực tế để nghiên cứu, đề xuất các quan điểm, giải pháp được nêu ra
trong luận án.
Ở khía cạnh cụ thể khác, đã có nhiều công trình đề cập tới giải pháp để khắc
phục những hạn chế, tiêu cực phát sinh trong quá trình giải quyết quan hệ giữa
LICN và LIXH như: lợi ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân... tiêu biểu như:
Công trình “Lợi ích nhóm - Thực trạng và giải pháp” [86] của tác giả Lê
Quốc Lý (chủ biên), nhóm tác giả cho rằng, giải quyết vấn đề lợi ích nhóm không
thể chỉ bằng biện pháp hành chính, mà phải từ chiến lược phát triển và từ quản lý -
tổ chức thực hiện. Giải pháp có tính quyết định là xây dựng và thực hiện thể chế
kiểm kê, kiểm soát của xã hội, thể chế công khai, minh bạch, nhất là về tài sản và
thu nhập; phải s dụng tổng hợp các giải pháp, phải gắn kết chặt chẽ các biện pháp
chống tham nhũng, và sự tác động của các “nhóm lợi ích”: Đảng lãnh đạo toàn diện
về mọi mặt, để các “nhóm lợi ích” không thể lũng đoạn cần có một hệ thống luật
pháp, chính sách và cơ chế ra quyết định công bằng, minh bạch dựa trên cơ chế đối
thoại, tương tác cần thiết giữa các nhóm lợi ích liên quan trong quá trình phát triển
thông qua đối thoại và phản biện... Công trình này còn đưa ra cách thức hạn chế và
hóa giải nhóm lợi ích trong điều kiện hiện nay.
Bài viết Chống chủ nghĩa cá nhân trong phát triển con người Việt Nam
[105] của tác giả Trần Văn Phòng và Huỳnh Thị Thu Năm đã đề cập tới những giải
pháp nhằm chống chủ nghĩa cá nhân trong phát triển con người ở nước ta hiện nay:
1) Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục tác hại của con người cá nhân, lối sống cá
nhân; 2) Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật; 3) Toàn Đảng, toàn dân chăm lo
xây dựng con người mới có nhân cách trong sáng; 4) Tạo lập môi trường kinh tế, văn
hóa, xã hội lành mạnh cho việc xây dựng con người mới sống có văn hóa, nghĩa tình,
trách nhiệm; 5) Đẩy mạnh tự rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân trong Đảng và trong toàn xã hội. Chúng tôi kế thừa ở công trình này
và các công trình nêu trên để góp phần đề xuất các giải pháp liên quan đến hạn chế tác
động của lợi ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân trong điều kiện KTTT.
Đề cập đến việc phát triển cá nhân với vai trò là một chủ thể quan trọng trong
việc giải quyết quan hệ lợi ích có rất nhiều công trình đề cập, tiêu biểu như: Bài viết
Phát triển toàn diện chất lượng con người để nâng cao trách nhiệm cá nhân trong
32
điều kiện kinh tế thị trường [110] của tác giả Lê Văn Quang. Bài viết đã luận chứng
rằng, phát triển toàn diện chất lượng con người là một đòi hỏi cấp bách, một điều
kiện cần thiết để nâng cao trách nhiệm cá nhân trong phát triển KTTT định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Theo đó, cần: 1) Bồi dưỡng và nâng cao trí tuệ
con người; 2) Đẩy mạnh giáo dục và tự giáo dục các phẩm chất chân - thiện - mỹ; 3)
Hoàn thiện định hướng chính trị, pháp luật và chính sách trong phát triển KTTT định
hướng xã hội chủ nghĩa; 4) Xây dựng các quan hệ hợp tác với các tổ chức của Liên
hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ. Cùng chủ đề này còn có bài viết Xây dựng
con người phát triển toàn diện trong quan điểm phát triển bền vững của Đảng Cộng
sản Việt Nam [121], tác giả Nguyễn Văn Sơn đã phân tích về chiến lược phát triển
con người toàn diện ở nước ta hiện nay: đó là con người phát triển toàn diện về trí
tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật...
Những phân tích nêu ra trong các bài viết này là những tham khảo có tính gợi mở
cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu về giải pháp đối với các chủ thể lợi ích,
trong đó có chủ thể cá nhân.
Như vậy, có thể nói, các công trình nêu trên đã đề cập đến nhiều góc độ, nội
dung về các quan điểm và giải pháp giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH. Đây
đều là những công trình có giá trị tham khảo tốt, góp phần định hướng cho chúng
tôi trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên
biệt, toàn diện nào đề cập tới nội dung này, do vậy nhiều nội dung về quan điểm,
giải pháp giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH cụ thể vẫn là những khoảng trống
mà chúng tôi phải tiếp tục nghiên cứu.
1.4. GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG CÔNG TRÌNH TRÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT
1.4.1. Giá trị của những công trình nghiên cứu nêu trên
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã khái quát khá hệ thống những vấn
đề lý luận cơ bản về lợi ích, phân loại, vị trí, vai trò của lợi ích, về LICN, LIXH,
về cá nhân và xã hội, về KTTT định hướng XHCN và ảnh hưởng của nó tới các
quan hệ xã hội hiện nay.
Thứ hai, các công trình cũng đã bước đầu phân tích về quan hệ giữa LICN và
LIXH; các công trình cũng đã có những thống nhất khi khẳng định: động lực của
33
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hệ thống các quá trình đó là: kết hợp hài
hòa LICN, tập thể và toàn dân; việc giải quyết các mâu thuẫn lợi ích có thể bằng
cách thông qua tạo lập cơ chế mới để kết hợp hài hòa các lợi ích đối lập, chứ không
phải bằng các biện pháp hành chính để triệt tiêu lợi ích nào đó.
Thứ ba, các công trình trên đây, ở góc độ nhất định đã có những đánh giá
về thực trạng giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trên phương diện tổng
quát, thông qua quan hệ giữa cá nhân và xã hội, cũng như các khía cạnh cụ thể
như các mâu thuẫn cụ thể trong một số lĩnh vực, đặc biệt là mâu thuẫn về lợi ích
kinh tế (liên quan đến đất đai, thu nhập, việc làm) trong điều kiện KTTT chưa
hoàn thiện, trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế...
Thứ tư, các công trình trên cũng đã đưa ra các gợi mở về các giải pháp để giải
quyết quan hệ giữa LICN và LIXH một cách hài hòa, trong đó phần nhiều đề cập qua
việc giải quyết hài hòa quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Các công trình này cũng đã đi
vào phân tích, đề xuất giải pháp ở những góc độ khá cụ thể như: thực hiện đa dạng
trong sở hữu, thực hiện phân phối hợp lý, thực hiện ASXH, PLXH; đảm bảo hài hòa
của các chủ thể như nông dân, công nhân trong quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa...
1.4.2. Một số vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị đã đạt được đó thì các công trình nêu trên
cũng có những mặt chưa được làm rõ, chúng tôi mong sẽ bổ sung, làm sâu sắc thêm
ở công trình của mình những nội dung sau:
Thứ nhất, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về LICN, những biểu hiện
phức tạp của LICN không chính đáng (lợi ích nhóm xấu, nhân danh lợi ích khác
để tư lợi cá nhân) và những biểu hiện đa dạng, yêu cầu của thực hiện LIXH trong
điều kiện hiện nay. Cùng với đó, luận án phân tích nội dung và phương thức giải
quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay ở
lĩnh vực sở hữu và phân phối (lợi ích kinh tế) thông qua các chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Trong các công trình nghiên cứu nêu trên
mặc dù đã đề cập đến quan hệ giữa các loại lợi ích khác nhau trong xã hội, song
chưa có những nghiên cứu chuyên biệt đề cập tới nội dung cụ thể và phương
thức giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH, nhất là trong điều kiện KTTT ở
Việt Nam hiện nay.
34
Thứ hai, trong các công trình nêu trên, đã đề cập phần nào tới tác động
của các nhân tố đến lợi ích nói chung, song cũng khá tản mạn, chưa hệ thống. Do
vậy, chúng tôi tổng hợp và phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc giải quyết
quan hệ giữa LICN và LIXH nhất là trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay.
Đó là các nhân tố như KTTT và hội nhập quốc tế; đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước; nhận thức của xã hội và các chủ thể lợi ích và yếu tố văn
hóa, lối sống của xã hội. Các nhân tố này tác động mạnh mẽ tới việc giải quyết
quan hệ giữa LICN và LIXH ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, luận án phân tích những kết quả đạt được và hạn chế trong việc
giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay
dựa trên các nội dung căn bản đã được xác định trong phần lý luận đó là giải
quyết tốt LICN chính đáng là cơ sở, điều kiện để giải quyết LIXH và giải quyết
đúng đắn LIXH góp phần thúc đẩy LICN chính đáng. Cùng với đó luận án phân
tích những nguyên nhân và vấn đề đặt ra trong việc giải quyết quan hệ giữa
LICN và LIXH ở nước ta hiện nay đó là: nhận thức của các chủ thể lợi ích, các
chính sách liên quan đến sở hữu, các chính sách liên quan đến phân phối.
Thứ tư, các giải pháp tổng thể liên quan đến việc thúc đẩy lợi ích nói
chung hay giải pháp giải quyết các vấn đề lợi ích cụ thể liên quan đến đất đai,
thu nhập đã được đề cập khá nhiều trong các công trình đã được tổng quan.
Tuy nhiên, luận án sẽ tập trung phân tích các giải pháp giải quyết hài hòa quan
hệ giữa LICN và LIXH ở lĩnh vực sở hữu và phân phối. Theo đó, luận án sẽ phân
tích các giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa LICN và LIXH
trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay đó là: 1- Nâng cao nhận thức của các
chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội; 2- Tiếp tục thực hiện và tổ chức thực hiện trên thực tế các chính sách đảm
bảo công bằng xã hội; 3- Khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của
mình đồng thời thúc đẩy thực hiện LIXH; 4- Đa dạng hóa các hình thức phân
phối, thực hiện tốt chính sách ASXH, PLXH đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa
LICN và LIXH.
35
Chƣơng 2
GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH
XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
2.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ
NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.1. Khái niệm lợi ích, lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội
2.1.1.1. Lợi ích
Thứ nhất, về khái niệm, bản chất của lợi ích
Cuộc sống của cá nhân và xã hội là quá trình hoạt động và thỏa mãn các nhu
cầu và sáng tạo ra những nhu cầu mới. Nhu cầu biểu hiện ra như là nguồn gốc và
động lực kích thích hoạt động của con người, từ đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Thực chất, nhu cầu là sự phản ánh những điều kiện vật chất của xã hội, nó được nảy
sinh và thoả mãn trên những điều kiện vật chất ấy. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng
Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, nhu cầu đóng vai trò rất quan trọng trong
hoạt động của mỗi con người, nó vừa đóng vai trò thúc đẩy hành vi lịch s đầu tiên,
vừa đóng vai trò duy trì nói giống, lại vừa quy định hê thống những mối liên hệ vật
chất giữa người với người, quyết định sự biến đổi của lịch s .
Theo tác giả Lê Thị Kim Chi: “Nhu cầu là những trạng thái thiếu hụt và những
đòi hỏi cần được đáp ứng của chủ thể (con người và xã hội) để tồn tại và phát triển”
[15, tr.29]. Nhu cầu của con người rất đa dạng, phong phú, được xem xét ở nhiều
góc độ khác nhau: 1- Khi xem xét con người với tư cách là thể thống nhất giữa cái
sinh học và cái xã hội, thì nhu cầu được phân thành những nhu cầu có liên quan tới
việc bảo đảm hoạt động sống cho con người hay những nhu cầu sinh học (ăn, ở,
mặc, duy trì nòi giống...), và những nhu cầu có liên quan tới các quá trình xã hội
hay những nhu cầu xã hội (nhu cầu lao động, các nhu cầu tinh thần, nhu cầu giáo
dục, y tế...). 2- Ở góc độ của nền sản xuất vật chất chúng ta có thể có các nhu cầu
sản xuất và nhu cầu tiêu dùng. 3- Ở góc độ khái quát, có thể chia thành nhu cầu vật
chất (không khí, nước, ăn, ở, mặc, đi lại...) và nhu cầu tinh thần (tự do, đạo đức,
giao tiếp, học tập...).
36
Tuy nhiên, đối tượng thỏa mãn nhu cầu có hạn, do vậy không phải khi nào
nhu cầu của các cá nhân cũng được thỏa mãn đầy đủ, trực tiếp. Khi đó, các chủ thể
có cùng nhu cầu giống nhau có nguy cơ không thể thoả mãn được nhu cầu của
mình. Để có được đối tượng thoả mãn nhu cầu, các chủ thể tham gia vào các quan
hệ xã hội để tìm kiếm phương tiện, điều kiện thực hiện đối tượng thỏa mãn nhu cầu.
Quan hệ này có thể hợp tác, thống nhất hoặc mâu thuẫn, đấu tranh với các chủ thể
khác trong xã hội. Khi đối tượng thoả mãn nhu cầu của các chủ thể đó trở thành cái
phản ánh quan hệ - quan hệ giữa các chủ thể nhu cầu với nhau, nhưng nó không thể
mang lại sự thoả mãn trực tiếp cho các chủ thể nhu cầu, khi đó nó trở thành lợi ích.
Như vậy, trong quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích, thì lợi ích là những sản
phẩm, những đối tượng thỏa mãn một phần nhu cầu của chủ thể, lợi ích là cái mang
quan hệ - quan hệ giữa các chủ thể nhu cầu. Lợi ích gắn liền với nhu cầu và chỉ
được xác định trong quan hệ với nhu cầu của một chủ thể nhất định và để thỏa mãn
nhu cầu của chủ thể đó. Và, “xét về mặt bản chất, lợi ích chính là một quan hệ -
quan hệ giữa sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài chủ thể với nhu cầu của chủ
thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thỏa mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu”
[123, tr.35]. Lợi ích chỉ xuất hiện khi nó được đặt trong quan hệ giữa các chủ thể có
cùng đối tượng thỏa mãn nhu cầu. Lợi ích nảy sinh từ nhu cầu, do vậy, nhu cầu và
lợi ích có quan hệ mật thiết với nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Lợi ích chỉ
xuất hiện khi việc thỏa mãn nhu cầu bị cản trở hoặc không thể thực hiện một cách
trực tiếp. Sự khác biệt giữa nhu cầu và lợi ích là ở chỗ, nhu cầu xuất hiện trong mối
quan hệ giữa con người với môi trường bên ngoài, còn lợi ích xuất hiện trong mối
quan hệ giữa con người với con người trong quá trình thỏa mãn nhu cầu. Do đó, lợi
ích luôn biểu hiện ra như là quan hệ xã hội.
Tóm lại, lợi ích là tất cả những gì chủ thể (cá nhân, tập thể, toàn xã hội) có
thể chiếm hữu hoặc cần phải có (cần sở hữu). Lợi ích là đối tượng thỏa mãn nhu
cầu. Về khái niệm lợi ích, chúng tôi thống nhất với định nghĩa của tác giả Đặng
Quang Định, theo đó, lợi ích là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa các chủ thể và
dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội (cá nhân, tập đoàn, giai cấp, tầng
lớp...) trong những điều kiện lịch s - xã hội nhất định [40, tr.12].
37
Thứ hai, về vai trò của lợi ích
Lợi ích có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác - Lênin, từ rất sớm, đã nhận ra vai trò quan trọng của lợi ích. Tháng
4 năm 1842, trong bài viết Những cuộc tranh luận về tự do báo chí và về việc công
bố các biên bản của hội nghị các đẳng cấp, C.Mác từng viết rằng, “tất cả cái gì mà
con người đấu tranh để giành lấy, đều dính liền với lợi ích của họ” [87, tr.109]. Ở
điểm khác, C.Mác cho rằng, lợi ích là cái liên kết các thành viên trong xã hội, nó
được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau làm cơ sở cho việc xác lập các quan
hệ giữa họ. Với tư cách là sự vật hay hiện tượng khách quan thể hiện mối quan hệ của
con người trong đời sống xã hội, và dùng để thỏa mãn nhu cầu cấp bách của họ, lợi
ích chính là cái giúp con người thỏa mãn nhu cầu của mình. Chính vì vậy, việc
giành, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp bao giờ cũng là động lực mạnh mẽ nhất,
trực tiếp nhất thôi thúc con người ta hoạt động. Lợi ích chính là nhân tố quan trọng
nhất trong chuỗi quy định nhân quả dẫn dắt sự hoạt động của con người: Nhu cầu -
lợi ích - mục đích - hoạt động.
Với tính cách là lợi ích cụ thể của một con người cụ thể, lợi ích là động cơ
thúc đẩy hay “động cơ tư tưởng”, là nguyên nhân của những trạng thái căng thẳng
thôi thúc chủ thể hoạt động thực hiện lợi ích đó để thỏa mãn nhu cầu. Động cơ đó
nằm trong mâu thuẫn giữa nhu cầu và điều kiện khách quan, mà trong khuôn khổ
những điều kiện ấy nhu cầu này không thể thực hiện được. Chính những mâu thuẫn
này là những lực lượng thúc đẩy tính tích cực của con người, góp phần định hướng
hoạt động của con người. Dưới góc độ này, giành và giữ lợi ích là nguồn gốc của sự
vận động, phát triển xã hội. Với tính cách là mâu thuẫn, thì lợi ích và quá trình giải
quyết mâu thuẫn giữa các lợi ích của các chủ thể khác nhau là động lực của sự phát
triển và “chính lợi ích là cái liên kết các thành viên của xã hội” và “những con người
độc lập chỉ liên hệ với người khác thông qua cái nút là lợi ích” [88, tr.182-183].
Thứ ba, về phân loại lợi ích
Lợi ích xuất hiện và tồn tại trong mọi mặt của đời sống xã hội. Đời sống xã
hội vô cùng phong phú và đa dạng; do vậy, các quan hệ giữa chúng cũng vô cùng
phong phú và đa dạng. Dựa trên những căn cứ khác nhau, các nhà nghiên cứu đã
38
chia lợi ích thành nhiều loại khác nhau: dựa vào các lĩnh vực của đời sống xã hội:
chia thành lợi ích kinh tế, lợi ích văn hoá, lợi ích chính trị.... khái quát hơn là lợi ích
vật chất và lợi ích tinh thần; dựa vào phạm vi hoạt động của chủ thể: chia thành
LICN, lợi ích tập thể, lợi ích giai cấp, lợi ích toàn xã hội, lợi ích quốc gia, lợi ích
nhân loại... khái quát hơn là lợi ích riêng và lợi ích chung; dựa vào thời gian tồn tại
của lợi ích: chia thành lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài;... thuẫn
lợi ích kinh tế giữa cá nhân và xã hội, nhất là trên lĩnh vực sở hữu, phân phối.
Những mâu thuẫn vốn có của các quan hệ lợi ích dưới những tác động từ những mặt
trái của KTTT nó trở nên ngày càng phức tạp, đặc biệt là mâu thuẫn giữa LICN và
LIXH. Quan hệ giữa LICN và LIXH luôn chứa đựng những mâu thuẫn, việc giải
quyết quan hệ lợi ích này không phải theo nghĩa triệt tiêu mâu thuẫn, mà đó là tạo ra
một trạng thái hài hòa, cân bằng năng động, tránh những thái cực cực đoan trong
nhận thức và hành động thực tiễn.
Thực chất của việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là quá trình tác động vào việc nhận thức và
thực hiện lợi ích của cá nhân và xã hội, tạo ra sự hài hòa, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Nội dung của giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH bao
gồm: Thứ nhất, giải quyết tốt lợi ích cá nhân chính đáng tạo cơ sở, điều kiện để giải
quyết lợi ích xã hội; Thứ hai, giải quyết tốt lợi ích xã hội sẽ tạo tiền đề để lợi ích cá
nhân chính đáng được thực hiện; Thứ ba, nếu giải quyết không đúng đắn quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội sẽ triệt tiêu cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Chủ thể chủ yếu của việc giải quyết quan hệ lợi ích này chính là Đảng, Nhà nước,
cá nhân. Phương thức tác động tới việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH
157
chính là thông qua các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về
các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là về sở hữu và phân phối. Thông qua các
phương thức này, chủ thể Đảng, Nhà nước tác động tạo môi trường, điều kiện,
phương tiện để cá nhân và xã hội thực hiện được lợi ích trên các lĩnh vực chủ yếu
như sở hữu, phân phối; mặt khác, cũng thông qua đó khắc phục những vấn đề mất
cân bằng trong quan hệ lợi ích, giải quyết các mâu thuẫn phát sinh nhằm đảm bảo
sự hài hòa giữa các chủ thể lợi ích nhằm đạt được sự phát triển nhất định. Tuy
nhiên, quá trình giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH chịu tác động rất lớn từ
nhiều nhân tố trong xã hội, nhất là từ nhận thức của các chủ thể cũng như những tác
động từ quá trình phát triển nền KTTT và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ sự thay đổi nhận thức đến hành động của các chủ thể lợi ích, từ
khi đổi mới đến nay, việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH đã đạt được
những kết quả nhất định. Qua hơn 30 năm đổi mới, đời sống của nhân dân có nhiều
thay đổi theo hướng ngày càng tính cực, sự cân bằng về cơ hội phát triển đã được
tạo lập những bước căn bản, đất nước đạt được nhiều mục tiêu phát triển tiến bộ.
Tuy nhiên, những hạn chế trong việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH đang
tạo ra những lực cản đối với sự phát triển của xã hội, xuất hiện những sự thiên lệch
trong giải quyết quan hệ lợi ích, cũng như việc đề cao LICN không chính đáng gây
những mâu thuẫn lợi ích có thể tạo ra những xung đột lợi ích phức tạp. Chính những
điều đó đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết đó là những mâu thuẫn ngay
trong chính nhận thức của các chủ thể lợi ích, cho đến hệ thống chính sách chủ yếu
trên lĩnh vực sở hữu và phân phối tác động tới việc giải quyết quan hệ giữa LICN và
LIXH còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất...
Chính vì vậy, để tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được của quá trình
đổi mới, tạo những động lực đột phá mới cho quá trình phát triển ở giai đoạn tiếp
theo, đòi hỏi các chủ thể lợi ích cần tiếp tục có những nhận thức và hành động tích
cực, giải quyết các mâu thuẫn trong quan hệ giữa LICN và LIXH - quan hệ lợi ích
căn bản của xã hội. Việc giải quyết các mâu thuẫn này một cách hài hòa cần xác
định các quan điểm rõ ràng, có tính định hướng cho sự phát triển, đặc biệt cần kết
hợp các lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội và “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên
trên hết”, phù hợp với lợi ích của nhân loại tiến bộ. Trên cơ sở đó thực hiện đồng bộ
các giải pháp thông qua các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước
về sở hữu, phân phối nhằm hướng tới sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể, nhằm mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
158
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Hoàng Văn Khải (2016), “Phát triển cá nhân - cơ hội và thách thức trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
Thông tin Khoa học chính trị, Số 2 (3).
2. Hoàng Văn Khải (2016), “Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển cá nhân
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt lý
luận, Số 5 (138).
3. Hoàng Văn Khải (2016), “Về quan điểm đánh giá sự phát triển cá nhân trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học, (21).
4. Hoàng Văn Khải (2016), “Ảnh hưởng của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đến phát triển cá nhân ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa
học chính trị, (7).
5. Hoàng Văn Khải (2018), “Giải pháp phát triển cá nhân trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (4).
6. Hoàng Văn Khải (2019), “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải
quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường”,
Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị, số 1 (14).
7. Hoàng Văn Khải (2019), “Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc
giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở Việt Nam hiện nay”,
Tạp chí Giáo chức Việt Nam, (149).
8. Hoàng Văn Khải (2019), “Cơ hội và thách thức của biến đổi khí hậu với giải
quyết vấn đề lao động, việc làm vùng Tây Nam bộ hiện nay - Từ góc nhìn lợi
ích của người nông dân”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Vấn đề lao động, việc làm
ở nông thôn vùng Tây Nam bộ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, Học viện
Chính trị khu vực IV - Đề tài KHCN-TNB.ĐT14-19/x20
9. Hoàng Văn Khải - Trần Văn Thắng (2019), “Giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (12).
10. Hoàng Văn Khải (2019), “Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích - động lực quan
trọng để thực hiện tư tưởng đại đoàn kết theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Tạp chí Cộng sản, (931).
159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Adam Fforde và Stefan de Vylder (1997), Từ kế hoạch đên thị trường - sự
chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Vũ Đình Bách (chủ biên) (2008), Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Đức Bách (1988), Quan hệ lợi ích kinh tế của xã hội, của tập thể và
cá nhân người lao động trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Học viện Nguyễn
Ái Quốc, Hà Nội.
4. Báo Lao động (2018), GDP năm 2018 tăng 7,08% - cao nhất trong 7 năm
qua, tại trang: https://laodong.vn/kinh-te/gdp-nam-2018-tang-708-cao-nhat-
trong-7-nam-qua-649077.ldo, [truy cập ngày 29/12/2018].
5. Ban Kinh tế Trung ương (2016), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30
năm đổi mới về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Ban Nội chính Trung ương (2018), Cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng -
5 năm nhìn lại, Trang thông tin điện t tổng hợp Ban Nội chính Trung ương,
tại trang:
nhung/201808/cuoc-dau-tranh-phong-chong-tham-nhung-5-nam-nhin-lai-
304366/, [truy cập ngày 21/8/2018].
7. Lương Bằng, Dự án ngàn tỷ đắp chiếu: Tượng đài lãng phí, Báo Điện t
Vietnamnet, tại trang https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/dau-tu/du-an-ngan-
ty-dap-chieu-tuong-dai-lang-phi-333066.html, [truy cập ngày 30/9/2019].
8. Phạm Thị Thanh Bình (2017), Kinh tế tư nhân: Động lực quan trọng trong
phát triển kinh tế Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện t , tại trang
Traodoi/2017/48688/Kinh-te-tu-nhan-Dong-luc-quan-trong-trong-phat-trien-
kinh.aspx, [truy cập ngày 30/12/2017].
160
9. Lê Văn B u (2012), Vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở vùng Nam bộ hiện nay, Luận án tiến sỹ triết học, Học viện
Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Chu Văn Cấp (1984), Lợi ích kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(những hình thức kết hợp và phát triển chúng trong lĩnh vực kinh tế xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam), Luận án Phó tiến sĩ Kinh tế, Học viện Nguyễn Ái Quốc,
Hà Nội.
11. Nguyễn Cúc, Kim Văn Chính (chủ biên) (2006), Sở hữu nhà nước và doanh
nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Lương Minh Cừ, Vũ Văn Thư (2011), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở
Việt Nam hiện nay: Một số nhận thức về lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
13. Vũ Hùng Cường (2016), Kinh tế tư nhân - Một động lực cơ bản cho phát
triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Vương Đình Cường (1992), Lợi ích kinh tế nông dân ở nước ta hiện nay, Luận
án Phó tiến sĩ Kinh tế, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
15. Lê Thị Kim Chi (2005), Nhu cầu: động lực và định hướng xã hội, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
16. Lê Thị Chiên (2014), “Hoàn thiện chính sách phân phối vì mục tiêu công
bằng”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3).
17. Nguyễn Văn Chiều (2014), Chính sách an sinh xã hội và vai trò của Nhà nước
trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
18. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), “Đổi mới quan niệm về chế độ sở hữu và ý
nghĩa chiến lược của sự đổi mới đó đối với sự phát triển của Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Triết học, (12), tr.20-24.
19. Nguyễn Trọng Chuẩn (2013), ''Lợi ích và đạo đức trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (4).
161
20. Trần Kim Chung, Tô Ngọc Phan (2018), Vai trò của kinh tế tư nhân trong
phát triển kinh tế Việt Nam, Tạp chí Tài chính, tại trang
dong-luc-cua-kinh-te-tu-nhan-trong-phat-trien-kinh-te-viet-nam-134872.html,
[truy cập ngày 15/02/2018].
21. Vũ Tiến Dũng (2008), “Tạo sự hài hòa về lợi ích giữa công nhân và doanh
nhân ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học (3).
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khóa VI về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII, Hà Nội, tại trang [truy cập ngày
23/2/2017].
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thời kỳ
đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thời kỳ
đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Hội nghị Trung ương 6 khóa X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2016), Báo cáo tổng
kết một số vấn đề lý luận, thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 khóa XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
162
33. Đặng Quang Định (2006), “Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò,
động lực của nhu cầu, lợi ích trong sự phát triển xã hội của”, Tạp chí Khoa
học xã hội, (11).
34. Đặng Quang Định (2008), “Quan điểm của Triết học Mác về lợi ích với tư
cách động lực của lịch s ”, Tạp chí Triết học, (8).
35. Đặng Quang Định (2009), “Quan điểm của Đảng về giải quyết vấn đề lợi ích
tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Lịch sử
Đảng, (2).
36. Đặng Quang Định (2010), Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công nhân,
nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay, Luận án Tiến sỹ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
37. Đặng Quang Định (2010), Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông dân
và trí thức ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đặng Quang Định (2011), “Vấn đề lợi ích trong quan điểm chính trị của chủ
nghĩa Mác - Lênin”, Tạp chí Khoa học Chính trị, (5).
39. Đặng Quang Định (2011), “Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ở nước ta hiện
nay”, Tạp chí Triết học, (7).
40. Đặng Quang Định (2012), Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Phạm Thị Đoạt (2014), Phát triển con người toàn diện - Từ học thuyết Mác
đến tư tưởng Hồ hí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
công cuộc đổi mới, Luận án Tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.
42. Phạm Văn Đức (2002), “Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội
trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (1).
43. Phạm Văn Đức (2005), “Đổi mới sở hữu ở Việt Nam: Một số cơ sở lý luận”,
Tạp chí Triết học, (2).
44. F.A.Hayek (2016), Chủ nghĩa cá nhân và trật tự kinh tế, Nxb Tri thức, Hà Nội.
45. Nguyễn Đình Gấm (2004), ''Giải quyết đúng đắn, hài hòa các quan hệ lợi ích
163
động lực to lớn của sự phát triển kinh tế xã hội'', Nghiên cứu con người, (1).
46. Linh Giang (1988), “Một số ý kiến xung quanh vấn đề lợi ích” (Tổng thuật tài
liệu), Tạp chí Triết học, (1).
47. Trần Thanh Giang (2013), Vấn đề lợi ích kinh tế của người nông dân trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, Luận án Tiến sỹ Triết học,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội.
48. Đỗ Huy Hà (2013), Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô thị
hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Ngọc Hà, Trần Thị Bích Huệ (2015), “Một số mâu thuẫn về lợi ích
giữa các nhóm xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (2).
50. Phạm Thị Hằng (2011), “Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội - động lực phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí
Nguồn nhân lực, (01).
51. Hernando de Soto (2016), Bí ẩn của vốn - Vì sao chủ nghĩa tư bản thành công
ở phương Tây và thất bại ở mọi nơi khác, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Hòa Hiền (2019), Nghị quyết 10-NQ/TW: Tạo động lực phát triển kinh tế tư
nhân, Báo điện tử Đảng ộng sản Việt Nam, tại trang
song/tu-nghi-quyet-den-cuoc-song/nghi-quyet-10nqtw-tao-dong-luc-phat-
trien-kinh-te-tu-nhan-521904.html, [truy cập ngày 13/5/2019].
53. Đoàn Đức Hiếu (1996), “Cá nhân và sự phát triển của cá nhân trước những yêu
cầu và trong điều kiện hiện nay ở nước ta”, Tạp chí Triết học, (3).
54. Đoàn Đức Hiếu (1998), “Về cơ chế đánh giá cá nhân trong sự phát triển con
người”, Tạp chí Triết học, (2).
55. Đoàn Đức Hiếu (1996), “Khắc phục chủ nghĩa cá nhân để phát triển nhân cách
của cá nhân”, Tạp chí Triết học, (6).
56. Nguyễn Đình Hòa (2009), “Nâng cáo trách nhiệm xã hội của cá nhân trong
điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, (7).
57. Nguyễn Đình Hòa (2019), “Đối x công bằng - điều kiện cơ bản để kinh tế tư
nhân phát huy vai trò một động lực quan trọng”, Tạp chí Triết học, (11).
164
58. Vũ Ngọc Hoàng (2015), “Lợi ích nhóm” và “Chủ nghĩa tư bản thân hữu” -
cảnh báo nguy cơ”, Tạp chí Cộng sản điện tử, tại trang
ich-nhom-va-Chu-nghia-tu-ban-than-huu-canh.aspx, [truy cập ngày
02/6/2015].
59. Trần Thị Bích Huệ (2015), Mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm xã hội trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ
Triết học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
60. Nguyễn Duy Hùng (1988) Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế
trong nông nghiệp tập thể ở nước ta hiện nay, Luận án Phó Tiến sỹ Khoa học
Kinh tế, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
61. Lê Ngọc Hùng, (2017) “Chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam - Thực trạng và
một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5).
62. Lê Ngọc Hùng và Nguyễn Ngọc Anh (2017), “Chính sách an sinh xã hội ở
Việt Nam - Thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5).
63. Nguyễn Tấn Hùng và Lê Hữu Ái (2008), “Thực hiện công bằng xã hội ở Việt
Nam hiện nay: mâu thuẫn và phương pháp giải quyết”, Tạp chí Triết học, (4).
64. Đoàn Thế Hùng, Nguyễn Tuấn Anh (2019), “Giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải
pháp”, Tạp chí Triết học, (10).
65. Trần Đắc Hiến (2008), Vấn đề mâu thuẫn xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
66. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Những giải pháp đột phá
nhằm thực hiện sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng,
Đề tài khoa học cấp nhà nước, Hà Nội.
67. Nguyễn Văn Huyên (2012), “Chủ nghĩa cá nhân - nguy cơ của một đảng cầm
quyền và hướng khắc phục”, Tạp chí Lý luận chính trị, (12).
68. Nguyễn Thị Huyền (2019), “Về sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Triết học, (7).
165
69. Đinh Thế Huynh (2016), Ba mươi năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Nguyễn Thị Lan Hương (2016), Thực hiện công bằng xã hội đối với các thành
phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
71. Đỗ Thiên Kính (2015), “Xu hướng bất bình đẳng về mức sống ở Việt Nam và khu
vực nông thôn trong giai đoạn 1992-2012”, Tạp chí Nghiên cứu on người, (5).
72. Klaus Schwab (2018), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
73. Kornai Jasnos (2002), on đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
74. Phạm Huy Kỳ (2001), Quan hệ cá nhân - xã hội trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
75. Nguyễn Linh Khiếu (1999), Lợi ích - động lực phát triển xã hội, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
76. Nguyễn Linh Khiếu (2002), Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
77. Nguyễn Linh Khiếu (2015), Thực trạng, xu hướng và giải pháp phòng, chống
“lợi ích nhóm”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Trần Thị Lan (2012), Quan hệ lợi ích trong thu hồi đất của nông dân để xây
dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới của Hà Nội, Luận án Tiến sĩ
Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
79. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
80. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
81. Kiều Linh (2018), “Việt Nam vào top 3 thế giới về tốc độ tăng trưởng người
siêu giàu”, VnEconomy, tại trang
the-gioi-ve-toc-do-tang-truong-nguoi-sieu-giau-20180907133709311.htm,
[truy cập ngày 07/9/2018].
166
82. Đỗ Long (2000), Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
83. Đỗ Long (2002), Tính cộng đồng, tính cá nhân và cái tôi” của người Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Hoàng Văn Luân (2011), Lợi ích - động lực phát triển xã hội bền vững, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Hoàng Văn Luân (2014), “Quản trị xung đột lợi ích - Các lý thuyết và vấn đề
đặt ra ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6).
86. Lê Quốc Lý (2014), Lợi ích nhóm - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
87. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Minxin Pei (2018), Tư bản thân hữu Trung Quốc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
95. Nguyễn Công Nghiệp (2006), Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Tom G.Palmer (Chủ biên) (2012), Thị trường và đạo đức, Nxb Tri thức, Hà Nội.
97. Nguyễn Văn Phúc (2012), “Lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội: từ góc nhìn lịch
s đạo đức học”, Tạp chí Triết học, (4).
98. Vũ Văn Phúc (2014), “Những đặc trưng của kinh tế thị trường và nhận thức
của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Lý
luận chính trị, (3).
99. Vũ Văn Phúc (2012), An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
100. Quốc Phong (2018), Tham nhũng trong khu vực công tại Việt Nam vẫn nghiêm
trọng?, Báo VOV điện t , tại trang https://vov.vn/chinh-tri/tham-nhung-trong-
167
khu-vuc-cong-tai-viet-nam-van-nghiem-trong-732685.vov, [truy cập ngày
24/02/2018].
101. Đặng Phong (2014), Phá rào” trong đêm trước đổi mới, Nxb Tri thức, Hà Nội.
102. Đặng Phong (2014), Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989, Nxb Tri thức, Hà Nội.
103. Trần Văn Phòng (2013), “Phát triển giáo dục để phát triển cá nhân con người
Việt Nam trong quan hệ hài hòa với xã hội”, Tạp chí Khoa học chính trị, (2).
104. Trần Văn Phòng (2013), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý có
hiệu quả của Nhà nước trong giải quyết mối quan hệ với cá nhân và xã hội”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (2).
105. Trần Văn Phòng, Huỳnh Thị Thu Năm (2013), “Chống chủ nghĩa cá nhân
trong phát triển con người Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5).
106. Trần Văn Phòng (2013), Quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
107. Trần Văn Phòng (2017), “Giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ở nước
ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1).
108. Phạm Ngọc Quang (1989), “Đổi mới nhận thức về mâu thuẫn. Vấn đề mâu
thuẫn trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta”, Tạp chí Triết học, (2).
109. Phạm Ngọc Quang (2008), “Những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình nhận thức
và vận dụng triết học Mác - Lênin về con đường và động lực lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3).
110. Lê Văn Quang (2009), “Phát triển toàn diện chất lượng con người để nâng cao
trách nhiệm cá nhân trong điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, (4).
111. Dương Văn Quảng, Vũ Dương Huân (2002), Từ điển Thuật ngữ Ngoại giao
Việt - Anh - Pháp, Nxb Thế giới, Hà Nội.
112. Bùi Thanh Quất (2003), “Toàn cầu hóa - một cách tiếp cận mới”, Tạp chí
ộng sản, (27).
113. Lương Xuân Quỳ (2015), Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam
trong bối cảnh mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Nguyễn Duy Quý (2008), “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Triết học, (3).
168
115. Nguyễn Quỳnh (2016), Doanh nghiệp Nhà nước đang ôm” khối tài sản trên
3 triệu tỷ đồng, Báo VOV điện t , tại trang https://vov.vn/kinh-te/doanh-
nghiep/doanh-nghiep-nha-nuoc-dang-om-khoi-tai-san-tren-3-trieu-ty-dong-
562919.vov, [truy cập ngày 24/10/2016].
116. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp năm
2013, Hà Nội.
117. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đất đai
năm 2013, Hà Nội.
118. Phạm Thái Quốc (2015), Sở hữu trong nền kinh tế thị trường hiện đại: Lý
luận, thực tiễn thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam, Nxb Lao động - xã hội,
Hà Nội.
119. Trần Văn Rón, Lương Đình Hải (2015), “Thực hiện công bằng xã hội đối với
các hình thức sở hữu vì sự phát triển con người người ở nước ta hiện nay”,
Tạp chí Nghiên cứu con người (3).
120. Phan Xuân Sơn (2014), Lý thuyết xung đột xã hội và quản lý, giải tỏa xung đột
xã hội ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
121. Nguyễn Văn Sơn (2015), “Xây dựng con người phát triển toàn diện trong quan
điểm phát triển trong quan điểm phát triển bền vững của Đảng Cộng sản Việt
Nam”, Tạp chí Triết học, (10).
122. Vũ Thanh Sơn (2014), Phân phối bình đẳng các nguồn lực kinh tế - Tiếp cận lý
luận và thực tế ở một số quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
123. Lê Hữu Tầng (1997), Về động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
124. Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Hữu Đạt (2004), Một số vấn đề về sở hữu ở nước
ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Hà Huy Thành (2000), Những tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường
ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
126. Hồ Bá Thâm (2011), Mâu thuẫn, xung đột lợi ích nhóm - Thực trạng, xu
hướng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
127. Hồ Bá Thâm (2011), Bàn về mâu thuẫn, xung đột lợi ích hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
169
128. Mạch Quang Thắng (2017), “Nhận diện để ngăn chặn, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, xây dựng Đảng trong sạch”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (10).
129. Mạch Quang Thắng (2017), “Nhận diện để ngăn chặn, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, xây dựng Đảng trong sạch”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (10).
130. Lê Thi (2009), “Mối quan hệ giữa trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm nhà
nước trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết
học, (3).
131. Trần Thị Tuyết (2009), “Trách nhiệm xã hội của cá nhân và yêu cầu nâng cao
trách nhiệm này ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học (4).
132. Tập thể tác giả (1982), Bàn về các lợi ích kinh tế, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
133. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê năm 2015, Nxb Thống kê, Hà Nội.
134. Tổng cục Thống kê (2016), Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm
2014, Nxb Thống kê, Hà Nội.
135. Tổng cục Thống kê (2019), Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế - xã hội quý
IV và năm 2019, tại trang http:// https://www.gso.gov.vn, [truy cập ngày
27/12/2019].
136. Trần Nam Tiến (2013), “Lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, (10).
137. Trần Hữu Tiến (2015), Lợi ích dân tộc, Tạp chí Lý luận chính trị điện t , tại
trang
ich-dan-toc.html, [truy cập ngày 24/8/2018].
138. Nguyễn Kế Tuấn (2010), Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
139. Mai Hữu Thực (2004), Vai trò của Nhà nước trong phân phối thu nhập ở nước
ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
140. Nguyễn Thị Bích Thủy (2006), “Kết hợp các loại lợi ích trong phát triển kinh
tế - xã hội hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4).
141. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (2012), Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012: Từ bất ổn
đến con đường tái cơ cấu, Nxb Tri thức, Hà Nội.
142. Viện Triết học - Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2013), Lợi ích
170
nhóm và nhóm lợi ích: một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế, thuộc Đề
tài KX.02.05/11-15.
143. Viện Triết học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Một số vấn đề
triết học trong Văn kiện Đại hội XII, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
144. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Chương trình phát triển Liên Hiệp quốc
(2016), Tăng trưởng vì mọi người - Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm
2015 về tăng trưởng bao trùm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
145. Võ Khánh Vinh (2003), Lợi ích xã hội và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
146. Lê Thị Vinh (2017), Biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986
đến nay: Thực trạng và những vấn đề đặt ra, Luận án tiến sỹ Triết học,
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội.
147. Lê Xuân Vũ (1992), Chủ nghĩa xã hội và cá nhân, Nxb Sự thật, Hà Nội.
148. Nguyễn Thị Xuân (2018), Nâng cao hiệu lực quan lý an toàn thực phẩm trên
cơ sở pháp luật, Tạp chí Tòa án Nhân dân điện t , tại trang
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nang-cao-hieu-luc-quan-ly-an-toan-
thuc-pham-tren-co-so-phap-luat-2, [truy cập ngày 29/11/2018].
Tài liệu tiếng nƣớc ngoài
149. Harry C., Triandis và Michele J. Gelfand (2012), "A theory of individualism
and collectivism" trong P. A. M. Van Lange, A. W. Kruglanski và E. T.
Higgins, Handbook of theories of social psychology, Nxb. Sage Publications
Ltd, Thousand Oaks, California, tr. 498-520.
150. Felix E Oppenheim (1975), "II. Self-Interest and Public Interest", Tạp chí
Political Theory Quyển 3, số 3, tr. 259-276.
151. Liu Fang (2014); Quan điểm của Mác về quan hệ giữa lợi ích các nhân và lợi ích
tập thể, Tạp chí Đại học Sư phạm Sơn Đông, Tế Nam, Trung Quốc, (4).
152. Tang Shan Qing (2014), Phân tích mối quan hệ giữa lợi ích công cộng và lợi
ích Nhà nước từ góc độ quản lý công, Tạp chí Học viện Văn hóa ông nghiệp
Tứ Xuyên, Trung Quốc, (Tập 3).
171
153. Tang Shan Qing (2016), Mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích công cộng và lợi
ích cá nhân, Tạp chí khoa học xã hội (Trung Quốc), (2).
154. Xiao Xin Xi, Han Cheng Guang (2012), Phân tích khoa học về xác định lợi ích
công cộng với các sản phẩm công cộng, Tạp chí Học viện Giáo dục Hà Nam
(Trung Quốc), (1), Tập 31.
155. Zhuo Cheng Xia (2011), Nghiên cứu về mối quan hệ giữa lợi ích nhà nước và
lợi ích công, Viện khoa học xã hội Sơn Đông, Sơn Đông, Tế Nam, Trung
Quốc, (5).