HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THANH HÀ
Đội ngũ trí thức giáo dục Đại học Việt Nam
trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2014
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THANH HÀ
Đội ngũ trí thức giáo dục Đại học Việt Nam
trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chuyờn ngành : Chủ nghĩa xó hội khoa học
Mó số : 62 22 8
209 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 312 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS ĐỖ THỊ THẠCH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Thanh Hà
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CNCS : Chủ nghĩa cộng sản
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đạị hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTQG : Chính trị quốc gia
ĐHQG : Đại học quốc gia
GS : Giáo sư
KH&CN : Khoa học và công nghệ
KHTN : Khoa học tự nhiên
KHXH&NV : Khoa học Xã hội và Nhân văn
KTTT : Kinh tế tri thức
KT-XH : Kinh tế - xã hội
LLSX : Lực lượng sản xuất
NNLCLC : Nguồn nhân lực chất lượng cao
Nxb : Nhà xuất bản
PGS : Phó Giáo sư
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TS : Tiến sĩ
TSKH : Tiến sĩ khoa học
VUSTA : Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong những vấn đề cốt lõi trong chiến lược phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Ngày nay, hầu như bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng đều nhận thức rõ chất lượng nguồn lực con người là nhân tố quyết định cho sự phát triển. Nhiều nghiên cứu hiện nay đã chỉ ra rằng, đầu tư cho nguồn nhân lực thông qua các hoạt động giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, được xem là đầu tư hiệu quả nhất, quyết định khả năng tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của mỗi quốc gia - dân tộc. Giáo dục và đào tạo, trong đó có giáo dục đại học được coi là chiến lược quan trọng hàng đầu đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, bởi nó góp phần làm tăng giá trị toàn diện của con người về các mặt: đức, trí, thể, mỹ, đặc biệt là năng lực nghề nghiệp. Giáo dục đại học không chỉ tích luỹ tri thức mà còn tạo ra tri thức mới, trang bị kỹ năng cần thiết giúp cho mỗi cá nhân phát hiện và làm giàu thêm sự hiểu biết để tự phát triển và khẳng định mình trong cuộc sống.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự phân công lao động có tính chất quốc tế diễn ra mạnh mẽ, sự cạnh tranh giữa các quốc gia càng quyết liệt hơn. Trong cuộc đấu tranh này, thực tiễn cho thấy, chỉ có phát huy tối đa NNLCLC mới có thể tận dụng triệt để những cơ hội của toàn cầu hoá nhằm phát triển đất nước.
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Quá trình này chỉ đạt được kết quả khi chúng ta kết hợp tốt sức mạnh của mọi nguồn lực, trong đó nội lực là quyết định. Do vậy, yêu cầu về NNLCLC đang đặt ra đối với hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống giáo dục đại học nói riêng, trong đó đội ngũ trí thức các nhà giáo đại học giữ vai trò trọng yếu.
Trí thức giáo dục đại học (bao gồm các nhà giáo, nhà khoa học, nhà quản lý, các chuyên gia đang trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu ở bậc đại học) là bộ phận quan trọng của đội ngũ trí thức giáo dục và đào tạo, giữ vai trò quyết định nhất trong đào tạo NNLCLC, thực hiện chuyển giao và đổi mới công nghệ, bảo tồn và phát triển những giá trị văn hoá dân tộc, tiếp thu có hiệu quả những giá trị văn hoá tiên tiến trên thế giới.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định vai trò của trí thức. Đặc biệt, gần đây, Hội nghị Trung ương 7 Khoá X, Đảng ta nhấn mạnh: "Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp lớn trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc" [46, tr.82].
Thực tế gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế đã chứng minh cho sức mạnh và đóng góp to lớn của trí thức Việt Nam vào quá trình phát triển đất nước, trong đó có đội ngũ trí thức giáo dục đại học. Bằng lao động sáng tạo của mình, trí thức giáo dục đại học đã góp phần đào tạo những lớp người lao động mới (học viên, sinh viên) hữu ích cho sự phát triển xã hội. Đó là NNLCLC trong tương lai gần, những người có năng lực làm chủ công nghệ tiên tiến, có khả năng đổi mới và hiện đại hoá công nghệ truyền thống, từng bước sáng tạo những công nghệ mới, hiện đại, phù hợp với con người, với điều kiện và môi trường Việt Nam. Trong Chiến lược phát triển KT-XH đến năm 2020, Đảng ta quán triệt ba khâu cần đột phá, trong đó: “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là NNLCLC, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng KH&CN” [49, tr.106].
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của NNLCLC trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, giáo dục đại học Việt Nam chưa đáp ứng kịp thời, đội ngũ trí thức giáo dục đại học chưa thực sự phát huy hết tính tích cực của mình; tình trạng thừa về số lượng, yếu về chất lượng, thiếu hụt đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn cao, năng lực sư phạm giỏi và phẩm chất chính trị vững vàng đang diễn ra; tình trạng mất cân đối về cơ cấu ngành nghề đào tạo, phân bố khu vực, lứa tuổi cũng đang là vấn đề cần quan tâm; đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý giáo dục đại học chưa hội tụ đủ những tiêu chí để đáp ứng kịp thời yêu cầu đổi mới của đất nước, nhất là đội ngũ chuyên gia nghiên cứu và thiết kế chính sách giáo dục đại học v.v..
Những bất cập trên của trí thức giáo dục đại học Việt Nam đã dẫn đến hệ lụy trực tiếp, đó là: một bộ phận không nhỏ NNLCLC đang được đào tạo ở các trung tâm giáo dục, đào tạo lớn của Việt Nam (học viên, sinh viên) sau khi ra trường năng lực không đáp ứng được đòi hỏi công việc. Thực tế, một lực lượng không nhỏ còn thiếu hụt nghiêm trọng về kỹ năng thực hành nghề nghiệp dẫn đến mất tự tin, hạn chế về năng lực sáng tạo so với học viên, sinh viên các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, ý thức chính trị, ý thức pháp luật, văn hóa đạo đức và lối sống của một bộ phận NNLCLC còn nhiều điều đáng phải bàn v.v..
Trước yêu cầu phát triển của đất nước, những bất cập của giáo dục bậc đại học, của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam đã tác động tiêu cực tới NNLCLC trong tương lai - những học viên, sinh viên đang trong quá trình tiếp thu và tích lũy tri thức. Do đó, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đồng thời phát huy vai trò của trí thức giáo dục đại học trong đào tạo NNLCLC là một nhu cầu cấp bách hiện nay.
Từ những lí do trên đây, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở lí luận về vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam và thực trạng của đội ngũ trong đào tạo NNLCLC, luận án đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu góp phần phát huy vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Trình bày lí luận chung về trí thức giáo dục đại học và NNLCLC ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH;
- Phân tích thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo NNLCLC, thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra hiện nay;
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu đào tạo NNLCLC thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức giáo dục đại học và NNLCLC.
- Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành như: phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử; đối chiếu và so sánh, nghiên cứu tài liệu và điều tra xã hội học...
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học (tập trung vào vai trò của đội ngũ giảng viên) trong đào tạo NNLCLC và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò đó trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu đội ngũ trí thức giáo dục đại học đang làm việc, nghiên cứu tại các trường đại học ở Việt Nam (tập trung vào đội ngũ giảng viên), từ năm 1996 đến nay.
Luận án tập trung khảo sát, điều tra (500 phiếu) tại hai trung tâm giáo dục đại học lớn nhất Việt Nam là ĐHQG Hà Nội và ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh. Lí do tác giả lấy hai trường đại học đại diện trên để khảo sát vì: ĐHQG Hà Nội là trung tâm đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng, giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội - nhân văn, giữa khoa học và công nghệ để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài và thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu trọng điểm về khoa học cơ bản, công nghệ cao và kinh tế - xã hội mũi nhọn, đại diện cho miền bắc Việt Nam; cung cấp các luận cứ, kết quả nghiên cứu KH&CN tầm cỡ quốc gia và tiếp cận chuẩn quốc tế cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu KH&CN đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao lớn nhất ở khu vực phía Nam. Là nơi đào tạo, cung cấp NNLCLC trong những lĩnh vực có ưu thế nổi trội, phát huy thế mạnh của địa bàn khu vực phía Nam và vị trí cửa ngõ Đông Nam Á. Đây là trung tâm đào tạo làm nồng cốt cùng với ĐHQG Hà Nội cho hệ thống giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong đào tạo NNLCLC thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong đào tạo NNLCLC ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp thêm căn cứ lí luận và thực tiễn trong đề xuất chính sách đào tạo, sử dụng, bồi dưỡng nhân tài của đất nước.
- Luận án là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về trí thức, nguồn nhân lực và cho những nghiên cứu quan tâm đến chủ đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Công trình nghiên cứu ở trong nước
1.1.1.1. Về trí thức
Ở Việt Nam, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, vấn đề bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người, đặc biệt nguồn lực trí tuệ - “hiền tài là nguyên khí quốc gia” là rất cần thiết, là nhiệm vụ chiến lược quan trọng đặt ra đối với toàn bộ hệ thống chính trị và nhân dân ta. Từ năm 1996 đến nay, những công trình thuộc nhóm vấn đề này được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Trong đó, đáng chú ý là một số công trình tiêu biểu sau:
Phạm Tất Dong (chủ biên), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tầng lớp trí thức. Những định hướng chính sách, thuộc chương trình KHXH.03 (Giai đoạn 1996 - 2000) [28]. Đề tài đã làm rõ những vấn đề đặt ra của đội ngũ trí thức Việt Nam với tư cách là nguồn lực quan trọng, cơ bản để đào tạo nguồn nhân lực; vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH, thực trạng đội ngũ trí thức và chính sách của Đảng đối với đội ngũ trí thức. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước có chiến lược phát triển đối với đội ngũ trí thức Việt Nam để họ xứng đáng với vai trò là lực lượng nòng cốt, bộ phận tinh túy của nguồn nhân lực.
Phan Thanh Khôi (2001), Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2 [76]. Dựa trên sự phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức, tác giả đã rút ra những bài học kinh nghiệm đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Trong bài viết, tác giả đã làm rõ vai trò quan trong của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; trong việc xây dựng luận cứ khoa học bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật; đào tạo nguồn nhân lực; góp phần vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH.
Trong số rất nhiều bài viết về trí thức, PGS.TS Phan Thanh Khôi có bài viết đánh dấu tầm quan trọng, ý nghĩa lý luận và tư tưởng sâu sắc không chỉ đối với đội ngũ trí thức Việt Nam, mà còn chỉ ra trách nhiệm cao cả đặt lên vai người trí thức trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ở nước ta. Đóng góp của đội ngũ trí thức vào chủ trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3/2008 [80]. Qua bài viết, tác giả chỉ ra vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức trong việc xây dựng luận cứ khoa học; bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật; đào tạo nguồn nhân lực; góp phần đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Những thuộc tính cơ bản của trí thức còn được tác giả Phan Thanh Khôi đề cập và phân tích trên các khía cạnh: trí thức là người lao động trí óc, phức tạp, sản xuất giá trị tinh thần là chủ yếu; nội dung lao động của trí thức mang tính sáng tạo khoa học; tri thức và học vấn của trí thức cao hơn hẳn mặt bằng dân trí; hình thức lao động của trí thức có tính đặc thù cao như: mang tính cá nhân rõ nét, hoạt động trong không gian mở, thời gian linh hoạt, đòi hỏi lý trí cao, đặc điểm tâm lý lối sống cũng có tính khác biệt: nhạy cảm nhưng dễ dị ứng, kiêu hãnh nhưng dễ tự kiêu và có những nhược điểm nhất định... trong cuốn sách "Đội ngũ trí thức Việt Nam, quan niệm, thực trạng, phát huy vai trò và xu hướng biến đổi", Tài liệu tham khảo, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008 [79].
Nguyễn Đắc Hưng (2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội [65]. Cuốn sách đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của trí thức từ lịch sử đến hiện tại; phân tích thực trạng, một số vấn đề đang đặt ra đối với đội ngũ trí thức Việt Nam trong thế kỷ XXI; phương hướng phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam trong tình hình mới.
Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb CTQG, Hà Nội [136]. Thông qua việc làm rõ quan niệm về trí thức, trí thức nữ, những phẩm chất trí tuệ và các yếu tố tác động đến sự phát triển trí tuệ, tác giả đi sâu phân tích sự hình thành, đặc điểm, vai trò của nguồn lực trí thức nữ Việt Nam, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Ngô Thị Phượng (2007), Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội [120]. Công trình đã phân tích rõ khái niệm trí thức KHXH&NV; vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước; quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
Nguyễn Công Trí (2007), Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về thực hiện chính sách đối với trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5 [148]. Tác giả đã phân tích quan điểm của V.I.Lênin về thực hiện chính sách đối với trí thức trong cách mạng XHCN; những luận điểm về nhận thức và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đội ngũ trí thức.
Đỗ Thị Thạch (2008), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 6 [137]. Dựa vào việc phân tích vai trò của trí thức đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước, tác giả đã đưa ra mục tiêu phát triển đối với đội ngũ trí thức Việt Nam và một số giải pháp để thực hiện được mục tiêu này.
Lê Văn Dũng (2008), Phát huy vai trò lực lượng trí thức quân đội trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Tạp chí Cộng sản, số 794 [36]. Bài viết đã đánh giá thực trạng về số lượng, cơ cấu, chất lượng của đội ngũ trí thức quân đội nhân dân Việt Nam và vai trò của họ trong nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học quân sự phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, bài viết đã đưa ra ba phương hướng thiết thực nhằm xây dựng đội ngũ trí thức quân đội ngang tầm với đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện nghiêm túc công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức, phát huy năng lực sáng tạo của đội ngũ trong giảng dạy, nghiên cứu, ứng dụng trong khoa học quân sự nhằm xứng đáng là người trí thức Quân đội nhân dân Việt Nam “vừa hồng vừa chuyên”.
Nguyễn An Ninh (2008), Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước [106]. Tác giả đã nêu một số quan điểm mới về tiềm năng, tiềm năng của trí thức KHXH&NV; đồng thời cũng làm rõ những tiềm năng to lớn của đội ngũ này đối với sự phát triển xã hội. Từ đó, tác giả trình bày một số giải pháp nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức KHXH&NV trong giai đoạn hiện nay.
Bùi Khắc Việt, Trí thức trẻ và sinh viên (trong nhánh đề tài Đề tài KX.03- 09 (đã in sách) [159]. Công trình đề cập đến trí thức trẻ trong các trường đại học, cao đẳng và sinh viên với tư cách là nguồn lực quan trọng bổ sung cho đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nhà giáo ở các trường đại học nói riêng. Đề tài phân tích những mặt tích cực, đồng thời nêu lên một số hạn chế, bất cập, nhất là về chất lượng của đội ngũ trí thức trẻ so với yêu cầu phát triển KT-XH ở Việt Nam.
Đàm Đức Vượng, Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Mã số: KX.04.16/06-10 [162]. Bên cạnh những vấn đề cơ bản về trí thức, đề tài đi sâu làm rõ thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được quan tâm đúng mức, chưa được quy hoạch và được đào tạo bài bản, chưa có sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức, thiếu sự cộng lực để cùng thực hiện mục tiêu chung của đất nước. Từ đó, đề tài đề xuất một số giải pháp về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, góp phần quan trọng và có tính quyết định để thực hiện mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đến năm 2020.
Nguyễn Khánh Bật - Trần Thị Huyền (đồng chủ biên) 2012, Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội [10]. Cuốn sách khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Từ đó, các tác giả đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ trí thức trong giai đoạn 2010 - 2020.
Nguyễn Thị Thơm (2012), Tạo động lực và môi trường để phát huy tính sáng tạo của đội ngũ trí thức, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 11 [144]. Ngoài việc phân tích những đặc điểm cơ bản nhất của đội ngũ trí thức, tác giả đã đưa ra năm vấn đề chủ yếu nhằm tạo động lực và môi trường để phát huy tính sáng tạo của đội ngũ trí thức - lực lượng tinh túy của NNLCLC.
Nguyễn Trọng Chuẩn (2013), Trí thức và trách nhiệm xã hội, Tạp chí Cộng sản, số 853 [26]. Bài viết chia làm ba phần lớn, thứ nhất, tác giả phân tích vai trò lao động trí óc của trí thức trong lịch sử nhân loại tiến bộ; thứ hai, phân tích trách nhiệm của trí thức trong mọi thời đại; thứ ba, phân tích vai trò và trách nhiệm xã hội của trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Cuối cùng tác giả kết luận: Trí thức chỉ có thể thực hiện được trách nhiệm xã hội của mình, nếu như họ ý thức rõ được trách nhiệm đó.
1.1.1.2. Về giáo dục đại học và trí thức giáo dục đại học
Phạm Văn Thanh (2001), Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác-Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành CNXH khoa học [140]. Công trình nghiên cứu những nét cơ bản về đội ngũ trí thức khoa học Mác-Lênin trong các trường đại học; đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác-Lênin, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học và sau đại học phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Lâm Quang Thiệp xuất bản hai cuốn sách cùng tên: “Giáo dục học đại học”, Hà Nội, 1997 của Vụ Đại học - trường Cán bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo (quyển I: các tài liệu chính) [141] và “Giáo dục học đại học”, Hà Nội, 2003 của Khoa Sư phạm thuộc ĐHQG Hà Nội [142] đã giới thiệu nhiều chuyên đề bàn luận trực tiếp đến hoạt động tổ chức đào tạo, quản lý chất lượng cho giáo dục đại học. Với chuyên đề “Về hệ thống đảm bảo chất lượng cho giáo dục đại học Việt Nam”, tác giả bước đầu xây dựng quan niệm về chất lượng giáo dục đại học và thẳng thắn thừa nhận: hệ thống giáo dục đại học Việt Nam chưa “cảm nhận” hết được sự thúc ép mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, của xu thế hội nhập, quốc tế hóa giáo dục đại học, quốc tế hóa thị trường sức lao động, những đòi hỏi về nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; bản thân các trường chưa trực tiếp đứng trước thách thức “sống còn” của việc lỗ lãi, phá sản; việc thực hiện vai trò của giáo dục đại học trong chuẩn bị nguồn nhân lực cao cấp cho mọi hoạt động KT-XH chưa đạt được hiệu quả mang tính bền vững. Thực tiễn ấy đặt ra nhu cầu khách quan phải phát huy mọi nguồn lực đang trực tiếp tham gia vào giáo dục đại học, trong đó không thể không kể đến việc nâng cao chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học thông qua hệ thống quản lý và đảm bảo chất lượng mới.
Hoàng Chí Bảo (2006), Bản chất của hoạt động sáng tạo trong nghiên cứu Khoa học (tài liệu tham khảo), Hà Nội [5]. Tác giả nhấn mạnh, giáo dục đại học gắn liền giảng dạy với nghiên cứu khoa học và phục vụ sản xuất. Đội ngũ nhà giáo và các nhà khoa học có quan hệ hợp tác, gắn bó với nhau thường xuyên, lâu dài. Hình thức lao động của họ có nhiều nét tương đồng về bản chất. Đó là sự phát hiện, sự sinh thành giá trị mới thông qua những cách tân, tìm tòi hướng tiếp cận và phương pháp giảng dạy, nghiên cứu mới. Vì vậy, lao động của trí thức giáo dục đại học thể hiện rõ tính sáng tạo với những sắc thái biểu hiện phong phú, đa dạng và phức tạp của nó.
Nguyễn Đức Chính và Nguyễn Phương Nga đã thực hiện đề tài trọng điểm cấp ĐHQG Hà Nội mã số QGTĐ.02.06: Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học của giảng viên trong Đại học Quốc gia [25]. Đề tài nghiên cứu xem xét, phân tích các kinh nghiệm về đánh giá chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học của một số trường đại học trên thế giới. Trên cơ sở phân tích hiện trạng của hai hoạt động cơ bản này ở ĐHQG Hà Nội, đề tài xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên có tính đến xu thế hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học. Đây là nghiên cứu về lĩnh vực đo lường và đánh giá hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ nhà giáo do các chuyên gia và cán bộ quản lý giáo dục thực hiện nên kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc gợi mở cách tiếp cận theo hướng đánh giá tổng thể chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học cho tác giả luận án.
Hoàng Tụy (2006), Giải pháp nào cho giáo dục đại học? ( [199]. Ông cho rằng: Hiện đại hoá giáo dục đại học thực chất là cuộc cải cách toàn diện từ mục tiêu, đến nội dung, phương pháp và tổ chức, quản lý, để hướng tới một nền đại học tương đồng với thế giới theo xu thế chung đã nói ở trên. Những đặc điểm chủ yếu của xu thế đại học này là: 1. Nhấn mạnh năng lực sáng tạo trong mọi khâu đào tạo; đặc biệt coi trọng nghiên cứu khoa học; 2. Bảo đảm cho mọi công dân quyền bình đẳng về cơ hội học tập và thành công trong học vấn; đó là một xu thế tất yếu. Đây là cơ hội tốt để chúng ta có thể tranh thủ hợp tác, học hỏi kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục và công nghệ đào tạo tiên tiến, đẩy mạnh công cuộc cải cách giáo dục hướng tới các chuẩn mực quốc tế.
Phòng Phát triển con người khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới với Báo cáo “Giáo dục đại học và kỹ năng cho tăng trưởng”, tháng 6/2008 [107]. Báo cáo tập trung nghiên cứu lĩnh vực giáo dục đại học trong mối liên hệ với trị trường lao động ở Việt Nam. Rất nhiều nội dung quan trọng về chất lượng của giáo dục đại học được luận giải, khảo sát và chứng minh. Đáng chú ý là vấn đề hiệu quả đào tạo; chương trình học, phương pháp sư phạm; chất lượng đội ngũ giảng dạy; năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên; sự hài lòng của sinh viên; khả năng, mức độ cung cấp thỏa đáng các kỹ năng cần thiết của giáo dục đại học Việt Nam cho nguồn nhân lực, cho gia tăng năng suất lao động và thúc đẩy năng lực sáng tạo của người lao động trước những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao từ thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Giá trị thực tiễn của Báo cáo còn thể hiện ở những khuyến nghị đổi mới hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Kết quả nghiên cứu của Báo cáo có ý nghĩa quan trọng đối với tác giả luận án trong việc kế thừa cách tiếp cận về chất lượng giáo dục đại học thông qua những số liệu minh chứng về hiệu quả giảng dạy, nghiên cứu khoa học của đội ngũ trí thức nhà giáo đại học ở nước ta hiện nay.
Nguyễn Bá Cần (2009), Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội [20]. Tiếp cận đặc điểm của giáo dục đại học trong điều kiện kinh tế thị trường, tác giả cho rằng, sản phẩm giáo dục đại học là loại sản phẩm dịch vụ, nhưng nó không thích hợp với việc mua - bán hàng hóa. Khi so sánh với các loại dịch vụ khác thì sản phẩm dịch vụ giáo dục đại học có tính đặc thù - đó là những người công dân có ích với chính mình có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia. Những sản phẩm như vậy được gọi là loại hàng hóa có ngoại biên thuận.
Trần Khánh Đức (2009), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội [51]. Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là phát triển đội ngũ giảng dạy, nghiên cứu chuyên ngành trong các trường đại học, cuốn sách là tài liệu chuyên khảo cho giáo dục bậc đại học. Với 12 chương, tác giả đi từ lịch sử vấn đề cho tới những nội dung cụ thể về: chương trình giáo dục đại học, cách đánh giá và quản lý chất lượng trong giáo dục đại học, khoa học luận và phương pháp nghiên cứu khoa học trong giáo dục đại học... nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất lượng.
Nguyễn Thị Phương Mai (2009), Suy nghĩ về định hướng phát triển giáo dục đại học Việt Nam đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Cộng sản, số 805 (11/2009) [95]. Tác giả đã bàn về: Tạo sự bình đẳng hơn nữa và mở rộng cơ hội tiếp cận với giáo dục đại học trong cộng đồng. Trao quyền tự chủ thực sự cho cơ sở giáo dục đại học, đảm bảo tính đa dạng và linh hoạt trong hoạt động giáo dục đại học. Giáo dục đại học mang tính chuyên nghiệp cao kết hợp với sự tích cực của giáo dục và người học. Sự tương đồng với nền giáo dục khu vực và thế giới trong xu thế toàn cầu.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012, Nxb Giáo dục, Hà Nội [17]. Công trình nghiên cứu đi sâu phân tích thực trạng của hệ thống giáo dục đại học hiện nay, chương trình hành động của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012. Nghị quyết của Ban Cán sự Đảng bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012 đã chỉ ra hạn chế trong chất lượng giáo dục đại học và khẳng định sự cần thiết phải có giải pháp đổi mới quản lý toàn diện, có tính đột phá để nâng cao được chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Nghị quyết nhấn mạnh, phải đẩy mạnh việc đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học
Nguyễn Văn Sơn (2010), Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb CTQG, Hà Nội [125]. Cuốn sách đã làm rõ tính đặc thù của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong tầng lớp trí thức Việt Nam. Tác giả tập trung phân tích thực trạng về cơ cấu chất lượng đội ngũ trí thức giáo dục đại học theo các phương thức hoạt động chủ yếu, theo nhóm ngành khoa học lớn, theo sự phân bố vùng lãnh thổ, theo các trường và chủ thể quản lý, về trình độ, phẩm chất, năng lực của đội ngũ. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ này cơ cấu hợp lý và chất lượng cao nhằm đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (2010), Kinh nghiệm một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức, Nxb CTQG, Hà Nội [155]. Các tác giả đã phân tích chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, KH&CN với xây dựng đội ngũ trí thức của từng nước, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (tháng 7 năm 2011), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 [18]. Báo cáo đã tập trung làm rõ các nội dung quan trọng sau: Một là, hiện trạng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam với những thành tựu cơ bản, những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân của nó. Hai là, phương hướng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đến năm 2020 và những vấn đề đặt ra. Ba là, các giải pháp chủ yếu thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Bốn là, tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Trần Quốc Toản (2011), Phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế [127]. Nội dung cuốn sách đã nghiên cứu và làm rõ bản chất của giáo dục, hoạt động giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; luận giải cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn sự tác động của cơ chế thị trường đối với giáo dục - đào tạo; nghiên cứu thực trạng phát triển giáo dục - đào tạo của Việt Nam trong quá trình đổi mới ở nước ta, chuyển đổi sang cơ chế thị trường; kinh nghiệm quốc tế về phát triển giáo dục đào tạo Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, cuốn sách đề xuất hệ thống đồng bộ các định hướng, nội dung và giải pháp mới, nhận thức, tư duy mới nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và đội ngũ quản lý giáo dục ở nước ta trong điều kiện kinh tế thị trường.
Nhà xuất bản Lao động (2011) đã tổ chức sưu tầm ... Trí thức là những người sáng tạo, phổ biến và vận dụng tri thức vào đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh sự phát triển văn hóa và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ nghiên cứu về trí thức chủ yếu trong thời kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt của cách mạng vô sản mà chưa có điều kiện để nghiên cứu về trí thức trong xây dựng CNXH.
Thứ hai, quan niệm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức
Trên tinh thần kế thừa và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: Một là, hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là, hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác.
Một người học xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song, y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại, công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn, thì phải đem trí thức đó áp dụng vào thực tế [103, tr.235].
Định nghĩa của Hồ Chí Minh về trí thức nhấn mạnh đến sự cống hiến của họ đến ý nghĩa thực tế trong hoạt động của người trí thức, đem sự hiểu biết của mình để áp dụng vào thực tế, làm nên vật chất và tinh thần, góp phần xây dựng đời sống cộng đồng phát triển, không nên lý luận suông.
Tuy vậy, Người cho rằng, một người có trình độ học vấn cao chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để trở thành trí thức. Một người có trình độ học vấn cao chỉ có thể trở thành trí thức khi người đó đem tri thức của mình lao động sáng tạo, áp dụng vào thực tế, phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân. Tài phải đi đôi với đức. Đức là gốc của người cán bộ cách mạng. “ Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng” [104, tr.329]. Do vậy, người thiếu đức độ, lương tri thì dù có học vấn cao cũng chỉ là người có bằng cấp, có học hàm, học vị, là người làm việc trí óc. Họ chưa thật sự là trí thức đúng nghĩa. Nói cách khác, để trở thành người trí thức thì ta cần phải có tài và đức, đem tri thức phục vụ tốt cho nhân dân và đất nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới, để tiến hành CNH, HĐH đất nước, hướng tới xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng ta rất coi trọng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khối liên minh công- nông - trí thức.
Trong các nghị quyết trung ương thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã quan tâm và cụ thể hóa việc đào tạo, sử dụng, xây dựng và phát huy tiềm năng của giới trí thức nói chung và đội ngũ trí thức ở từng lĩnh vực cụ thể nói riêng. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 27 ngày 6-8-2009 về Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó xác định rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức hiện nay và nhấn mạnh:
Trí thức Việt Nam là lực lượng sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững [47, tr.91].
Quan điểm trên thực chất là khẳng định vai trò, tầm quan trọng và đề cao tính chất phân công lao động xã hội của đội ngũ trí thức, đồng thời yêu cầu cần quan tâm đặc biệt đến lao động của trí thức trong mối quan hệ với các lực lượng lao động khác.
Tại đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục phát triển quan điểm về trí thức theo tinh thần sử dụng và phát huy có hiệu quả tiềm năng trí tuệ của họ, Đảng ta nhấn mạnh:
Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước [49, tr.241-242].
Đảng, Nhà nước, nhân dân đã và đang quan tâm sâu sắc đến xây dựng đội ngũ trí thức và ngày càng đánh giá cao vai trò sáng tạo, phát minh, phản biện xã hội của họ trong sự nghiệp xây dựng, phát triển KT - XH, củng cố quốc phòng - an ninh, đẩy mạnh quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trên cơ sở đó, trí thức sẽ có nhiều điều kiện để đóng góp vào những thành công của sự nghiệp đổi mới.
Thứ ba, quan niệm về trí thức của một số nhà khoa học Việt Nam
Khi xem xét các thuộc tính cơ bản của trí thức, có ý kiến đã nêu "trí thức là một tầng lớp xã hội, lao động trí óc với trình độ học vấn cao, sản xuất tinh thần là chủ yếu nhằm sáng tạo, giữ gìn và truyền đạt, nhất là ứng dụng tri thức khoa học góp phần đẩy nhanh sự phát triển của xã hội" [79, tr.4]. Cùng hướng tư duy đó, có nhà khoa học khẳng định: "Trí thức là một tầng lớp xã hội, gồm những người có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn cao, bằng lao động trí tuệ sáng tạo của mình để phát kiến, truyền bá và ứng dụng những tri thức khoa học mới tiến bộ và hữu ích vào đời sống xã hội" [143, tr.10]. Hai quan niệm nêu trên vừa phân định vị trí của trí thức trong cơ cấu xã hội - giai cấp, vừa chỉ rõ vai trò của trí thức đối với sự phát triển của xã hội, đồng thời chỉ rõ tính đặc thù về phương thức lao động của trí thức so với các lực lượng xã hội khác.
Quan điểm khác chỉ đề cập đến trí thức trên lĩnh vực văn hoá - xã hội mà không thấy trí thức trên các lĩnh vực khác và cho rằng “trí thức là những người mà nghề nghiệp chính là viết văn, giảng huấn, truyền đạo, xuất hiện trên sân khấu hay nghề làm văn chương” [27, tr.15-16].
Trên cơ sở phân tích những vấn đề triết học - xã hội về trí thức, có quan điểm phân tích trí thức trong cơ cấu xã hội - giai cấp, họ là một tầng lớp xã hội đa dạng về nghề nghiệp và hoạt động. Vấn đề đặt ra đối với người trí thức, đó là "hiểu biết và sáng tạo, là năng lực làm chủ phương pháp, biết dùng phương pháp để mở rộng và nâng cao hiểu biết" [6, tr.6]. Cùng quan điểm đó, nhóm nhà khoa học khác cho rằng “trí thức là người lao động trí óc, có trình độ phát triển về trí tuệ, có hiểu biết sâu về một lĩnh vực chuyên môn, có năng lực sáng tạo, nhạy bén với cái mới" [166, tr.25]. Vì vậy, trí thức phải là người "thực học để có thực lực và thực tài", cho nên, ở người trí thức có sự phát triển cao tính tự nguyện và lòng tự trọng, lao động của người trí thức, do đó là lao động tự do.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của KH & CN, trình độ học vấn, trình độ nhận thức của con người được nâng lên, do vậy, chỉ những người đã qua đào tạo hoặc tự đào tạo đạt trình độ đại học trở lên mới có thể tiếp cận được kiểu lao động của trí thức. Việc nhận biết trí thức phải thông qua sự đánh giá tính sáng tạo trong quá trình lao động trí óc phức tạp của trí thức, trên cơ sở những giá trị của sản phẩm khoa học, bao gồm các công trình, tác phẩm, đề án Vì vậy, trên thực tế, người có bằng cấp (thậm chí nhiều bằng cấp) chưa hẳn đã là trí thức theo đúng nghĩa của phạm trù này, nếu họ thiếu yếu tố trí tuệ, sáng tạo.
Trên cơ sở tìm hiểu các công trình nghiên cứu với ba hướng tiếp cận trên, tác giả luận án nhất quán với quan điểm của Đảng về trí thức: Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội [47, tr.81-82].
Trí thức giáo dục và đào tạo là bộ phận cơ bản của trí thức Việt Nam, những người hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, có nhiệm vụ truyền bá trực tiếp tri thức khoa học, tri thức văn hóa, rèn luyện nhân cách, đạo đức cho người học, góp phần nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài nhằm tạo động lực phát triển cho xã hội.
Trí thức giáo dục đại học là một bộ phận đặc thù của đội ngũ trí thức giáo dục và đào tạo. Đó là những cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, quản lý trực tiếp trong hệ thống giáo dục bậc đại học, nhằm đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước.
Trí thức giáo dục đại học là những người trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo ở bậc học cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân. Thông qua hai cấp đào tạo là đại học (trình độ cao đẳng, đại học) và sau đại học (trình độ thạc sĩ và tiến sĩ), đội ngũ trí thức giáo dục đại học trực tiếp tham gia vào quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực trình độ cao, xây dựng đội ngũ chuyên gia, những nhà khoa học, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng lao động của xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Trí thức giáo dục đại học thực hiện đào tạo đội ngũ cán bộ, đội ngũ trí thức mới nhằm đảm bảo cho sự vận động và phát triển của đội ngũ trí thức. Đây là một trong những chức năng cơ bản của giáo dục đại học. Mục đích cao nhất của đội ngũ trí thức giáo dục đại học là đảm bảo nền tảng vững chắc để phát triển nhân lực trình độ cao, những đỉnh cao trí tuệ và xây dựng nhân cách người lao động mới nhằm tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội bền vững. Do đó, để thiết kế được chương trình, nội dung đào tạo mới, đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng phát triển tính sáng tạo, năng lực tự học, tư duy độc lập trong học tập và nghiên cứu của sinh viên, người giảng viên đại học phải có trình độ cao hơn hẳn mặt bằng đào tạo. Bởi vì, họ phải thường xuyên tiếp cận với tri thức mới, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp.
Trí thức giáo dục đại học đại biểu cho hầu hết các ngành khoa học hiện có của quốc gia. Theo quan điểm của UNESCO và căn cứ thực tiễn Việt Nam, đội ngũ trí thức giáo dục đại học tham gia vào khoảng 600 ngành khoa học chuyên sâu, có thể phân thành ba nhóm ngành khoa học lớn: KHTN, KHKT&CN, KHXH&NV. Hiện nay với hơn 400 trường đại học và cao đẳng, Việt Nam có đội ngũ trí thức nhà giáo ở tất cả các nhóm ngành và ngành khoa học chuyên sâu, kể cả những khoa học mũi nhọn, như điện tử, tin học, viễn thông, công nghệ sinh học, vật liệu mới, hóa dầu
Đối tượng tác động chủ yếu của trí thức giáo dục đại học là những sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Trong luận án, tác giả quan niệm đây là nguồn nhân lực chất lượng cao hiện tại và tương lai. Trong họ, tuyệt đại bộ phận là thanh niên - lực lượng trẻ khoẻ, rất năng động và nhiệt tình, có khả năng tiếp cận tri thức mới, nhanh nhạy trước đời sống hiện thực.
Nhiệm vụ của trí thức giáo dục đại học là bằng lao động sáng tạo của mình, bằng phẩm chất và năng lực của nhà giáo, tác động vào các đối tượng là học viên, sinh viên nhằm đào tạo ra những người lao động có trình độ cao, có phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về NNLCLC cho đất nước.
Sản phẩm lao động sáng tạo của người trí thức giáo dục đại học là nhân cách, năng lực và phẩm chất, là trí tuệ của những học viên, sinh viên - những trí thức trẻ trong tương lai. Sự phát triển của KH&CN ngày càng làm tăng hàm lượng “chất xám”, hàm lượng “trí tuệ” trong một đơn vị sản phẩm, trong cả hoạt động xã hội và hoạt động giáo dục. Trí thức giáo dục đại học phải sử dụng một cách có hiệu quả những thành tựu KH&CN mới vào hoạt động nghề nghiệp, tác động tới người học nhằm khơi dậy tiềm năng cá nhân, năng lực tự học, tự nghiên cứu, từng bước đưa họ vào môi trường hoạt động khoa học, hoạt động lao động sản xuất, hoạt động xã hội, bắt kịp với tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại.
Lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức giáo dục đại học liên quan trực tiếp đến con người, đến việc khai thác và phát huy năng lực nội sinh của từng cá nhân trong việc tiếp thu tri thức, tiếp cận chân lý và khả năng tự học, tự nghiên cứu cũng như trong việc xây dựng và phát triển nhân cách cá nhân Do đó, kết quả của lao động của trí thức nhà giáo đại học không chỉ dựa vào trình độ của họ một cách đơn giản thông qua bằng cấp mà còn thông qua những giá trị khoa học của bài giảng (lượng thông tin, phương pháp tiếp cận, sự nhận thức, tiếp thu của học viên, sinh viên), giá trị của những phát minh khoa học và chất lượng sản phẩm mà họ tạo ra. Hơn nữa, phải sau vài năm, thậm chí hàng chục năm sau, những phát minh khoa học (nhất là khoa học cơ bản, khoa học giáo dục), chất lượng “sản phẩm” mới có kết quả.
Với tư cách là lực lượng chủ đạo trong đào tạo ở bậc đại học, ở Việt Nam, đội ngũ trí thức giáo dục đại học tham gia thực hiện các mục tiêu mà Luật Giáo dục đại học (năm 2012) đã quy định:
Thứ nhất, đào tạo trình độ cao đẳng để sinh viên có kiến thức chuyên môn cơ bản, kỹ năng thực hành thành thạo, hiểu biết được tác động của các nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội trong thực tiễn và có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc ngành được đào tạo;
Thứ hai, đào tạo trình độ đại học để sinh viên có kiến thức chuyên môn toàn diện, nắm vững nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội, có kỹ năng thực hành cơ bản, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc ngành được đào tạo;
Thứ ba, đào tạo trình độ thạc sĩ để học viên có kiến thức khoa học nền tảng, có kỹ năng chuyên sâu cho nghiên cứu về một lĩnh vực khoa học hoặc hoạt động nghề nghiệp hiệu quả, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo;
Thứ tư, đào tạo trình độ tiến sĩ để nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và ứng dụng, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, phát triển tri thức mới, phát hiện nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội và giải quyết những vấn đề mới về khoa học, công nghệ, hướng dẫn nghiên cứu khoa học và hoạt động chuyên môn.
Tóm lại, theo tác giả, trí thức giáo dục đại học là đội ngũ trí thức làm công tác giáo dục và đào tạo ở bậc đại học, tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trình độ cao, nhằm giúp người học nắm vững kiến thức chuyên môn, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, có khả năng phát hiện, giải quyết vấn đề một cách độc lập.
2.1.1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam
Đặc điểm hình thành và phát triển của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam
Đánh dấu mốc son lịch sử về sự ra đời của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam, tháng 3 năm 1075 khoá thi Nho học đầu tiên nước ta được tổ chức (gọi là khoá thi tuyển Minh kinh bác học và Nho học tam trường). Ông Lê Văn Thịnh người làng Đông Cửu, huyện Gia Lương (nay là xã Đông Cửu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), là người đỗ đầu bảng khoá thi này. Ông được coi là bậc khai khoa của các nhà khoa bảng nước ta. Từ khoa thi đầu tiên năm Ất Mão (1075) đến khoa thi cuối cùng năm Kỷ Mùi (1919), các triều đại đã tổ chức được 187 khoa thi, lấy được 2.898 người đậu tiến sĩ và hàng chục người đậu cử nhân. Điều đó đã chứng tỏ truyền thống khoa bảng của nền giáo dục Việt Nam.
Triều Nguyễn là triều đại cuối cùng duy trì các khoa thi Nho học. Khi thực dân Pháp xâm lược, cùng với chính sách khai thác thuộc địa về kinh tế, chúng còn đồng hoá dân tộc ta về văn hoá. Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân, chỉ thành lập một số trường đại học, cao đẳng, hạn chế mở rộng qui mô giáo dục để đào tạo một số lượng ít ỏi trí thức Việt Nam tuyệt đối trung thành và phục vụ đắc lực cho Pháp. Toàn quyền Merlin cho rằng 9/10 học sinh ở nông thôn Việt Nam không có năng lực học hết bậc sơ học.
Trước Cách mạng tháng Tám (năm 1945), ở Việt Nam chủ yếu chỉ có trường sơ học (tiểu học) không hoàn chỉnh. Ở bậc đại học, thực dân Pháp chỉ mở một trường cho cả Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) bao gồm 3 khoa: Luật, Y dược và Khoa học. Trong lĩnh vực Y dược, trung bình mỗi năm ra trường 10 - 15 bác sĩ, 3 - 5 dược sĩ đại học, ngoài ra có thêm khoảng 10 nữ hộ sinh. Về sau, chính phủ bảo hộ mở thêm một số trường cao đẳng (mỹ thuật, công chính, thú y), số lượng không quá 800 học sinh vào năm cao nhất. Về nghiên cứu khoa học, nhà nước bảo hộ Pháp chỉ mở Viện Pasteur để nghiên cứu các bệnh nhiệt đới (ở Hà Nội, Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn). Ngoài ra ở Việt Nam không có cơ quan nghiên cứu độc lập nào khác [113, tr.106].
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức, đào tạo cán bộ có trình độ cao. Ngày khai giảng đầu tiên, Việt Nam đã có 3 trường đại học: Y dược, Văn khoa và Xã hội. Đầu những năm 1950, nhà nước cho mở trường Sư phạm cao cấp và trường Khoa học cơ bản ở Nam Ninh (Trung Quốc) để hình thành dần đội ngũ cán bộ cốt cán cho các lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học. Bước đầu chúng ta đã tập hợp được đội ngũ giảng viên đại học là người Việt Nam. Phần lớn trong số đó là những trí thức yêu nước, nhiệt tình và có uy tín khoa học như, Tạ Quang Bửu, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Ngụy Như Kon Tum Đây là những trí thức góp phần đặt những viên gạch đầu tiên cho nền giáo dục đại học Việt Nam.
Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam độc lập là thực hiện giảng dạy bằng tiếng Việt ở tất cả các bậc học, trong đó có bậc đại học. Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục, ngay từ sớm, trong chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương đã khẳng định: “Hết thảy con cái các nhà lao động phải được học tập cho đến 16 tuổi bằng tiếng mẹ đẻ” [113, tr.106].
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc 9 năm kháng chiến vô cùng gian khổ, giải phóng được một nửa đất nước. Ba trung tâm đại học được chuyển từ vùng kháng chiến về Hà Nội. Năm 1956 - 1957 có 4 trường đại học được thành lập (Đại học Tổng hợp, Đại học Bách khoa, Đại học Nông - Lâm, Đại học Kinh tế kế hoạch). Giai đoạn đầu, các trung tâm đại học chỉ đào tạo 10 ngành, đến năm 1965 các trường đại học đã đào tạo được gần 200 ngành; từ việc không có trung tâm nghiên cứu khoa học, đến năm 1965 có 16 trung tâm [113, tr.106].
Trong giai đoạn 1965 - 1975, số trường đại học, cao đẳng tăng từ 23 trường năm 1965 lên 57 trường năm 1975, số viện nghiên cứu tương ứng là 16 và 39, có tới hàng trăm ngành học, với đội ngũ giảng viên khoảng 8.400 người, trong đó 8.9% có trình độ tiến sĩ. Lực lượng này phần lớn được trưởng thành qua khói lửa đấu tranh cách mạng của dân tộc để bảo vệ và xây dựng đất nước. Một số trong họ có trình độ chuyên môn cao, nhất là những người được đào tạo cơ bản ở nước ngoài (chủ yếu ở Liên Xô và Đông Âu trước đây). Ở miền Nam, đến năm học 1974 - 1975 có 4 viện Đại học công lập, 4 viện Đại học cộng đồng công lập đào tạo 2 năm, 4 viện đại học tư, với khoảng 1.300 giáo chức [29, tr.193].
Đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam vẫn theo mô hình của Liên Xô trước đây với các cơ sở chuyên môn hoá cao và chỉ tập trung vào một số ngành học. Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN, đổi mới và thay đổi căn bản nền giáo dục đại học. Từ đó, nền đại học mới, đa dạng, đáp ứng được nhiều loại nhu cầu của xã hội và người học, động viên được nhiều nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước, tạo điều kiện phát triển quy mô giáo dục đại học cả về số lượng và chất lượng.
Hiện nay, theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước có 421 trường đại học, cao đẳng, trong đó có 2 đại học quốc gia: ĐHQG Hà Nội và ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, 8 trường đại học vùng, 22 trường đại học, cao đẳng quân sự, 6 trường đại học và học viện công an, 104 trường đại học và học viện dân sự do Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ ngành quản lý; 21 trường đại học địa phương do các tình, thành quản lý; 56 trường đại học dân lập và tư thục và 185 trường cao đẳng, cùng với đó là lực lượng trí thức nhà giáo lớn mạnh 61.674 cán bộ, giảng viên (năm 2013) [167].
Giáo dục đại học đã bước sang giai đoạn phát triển mới trên phạm vi cả nước và thu được những thành tựu to lớn. Ý nghĩa của những thành tựu ấy rất lớn, chứng tỏ sự đúng đắn của Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, và được phát triển thêm một bước trong Đại hội lần thứ IX của Đảng: Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Gần đây nhất, Đảng ta đã ra Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”.
Đồng thời, với sự phát triển về số lượng, việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cũng được chú ý. Thông qua hợp tác quốc tế về đào tạo đại học và sau đại học (trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học chúng ta đã cử cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài, mời các chuyên gia giỏi sang giúp đỡ), cùng với sự nỗ lực của từng cá nhân và tập thể nhà giáo, trình độ của đội ngũ giảng viên đã được nâng lên. Hàng trăm ngàn giáo trình giảng dạy, tài liệu nghiên cứu khoa học đã được biên soạn và ứng dụng. Đặc biệt, công tác nghiên cứu khoa học đã bắt đầu trở thành phong trào của cả thầy và trò trong các trường đại học. Đó chính là nội lực quan trọng để nâng cao năng lực giảng dạy, nghiên cứu của các nhà giáo - nhà khoa học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Có thể nói, cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức giáo dục đại học cũng lớn mạnh không ngừng. Điều đó không chỉ được biểu hiện ở sự phát triển số lượng trường đại học, ở số người đang phục vụ công tác đào tạo bậc đại học, số lượng chức danh nhà giáo, mà còn được thể hiện ở năng lực giảng dạy, nghiên cứu, và phẩm chất chính trị, đạo đức của trí thức giáo dục đại học trong việc đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, suốt đời của nhân dân, đáp ứng yêu cầu chuẩn bị nguồn nhân lực trình độ cao cho sự phát triển quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử.
Những đặc điểm cơ bản của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam
Thứ nhất, trí thức giáo dục đại học vừa là nhà giáo, vừa là nhà khoa học, đại biểu cho hầu hết các ngành khoa học hiện có của quốc gia
Trí thức giáo dục đại học hội đủ cả năng lực, phẩm chất của nhà giáo, nhà khoa học. Với hai nhiệm vụ song hành là giảng dạy và nghiên cứu khoa học, trí thức giáo dục đại học tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài và tạo ra đội ngũ trí thức Việt Nam mới. Đây là lực lượng nòng cốt vừa thực hiện nghiên cứu cơ bản, vừa nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục đại học, góp phần định hướng và phát triển KT-XH của quốc gia.
Khác với giáo dục phổ thông, giáo dục đại học là bậc học cao xét cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp. Giáo dục phổ thông dạy cho học sinh còn ở tuổi vị thành niên những kiến thức phổ thông cơ bản về thế giới, về con người. Giáo dục đại học với đối tượng tác động là sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh - những người cần được bổ sung, trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng thực hành nghề nghiệp ở trình độ cao để trở thành nguồn lực lao động chất lượng cao. Người học ở bậc đại học với mục tiêu học để biết, để sáng tạo, học để làm việc, học để chung sống, hòa nhập cộng đồng và học để làm người, do vậy, đội ngũ trí thức giáo dục đại học phải luôn là tấm gương sáng về đạo đức, tự học và sáng tạo cho những trí thức trẻ tương lai.
Trí thức giáo dục đại học tham gia ở hầu hết các ngành khoa học hiện có ở Việt Nam (KHXH&NH, KHTN, KHKT&CN); đội ngũ trí thức giáo dục đại học đào tạo nguồn nhân lực mới, trình độ cao, nắm vững kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Điều đó được thể hiện: trí thức giáo dục đại học chủ động trong việc hình nguồn nhân lực trình độ cao cho các môn khoa học, ngành học có tính chất đi trước, “đón đầu”, định hướng cho sự phát triển. Vì vậy, đây là đội ngũ luôn phải tiên phong, “đi trước một bước” so với trí thức ở các lĩnh vực khoa học khác. Việc xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức giáo dục đại học, nhất là nhà giáo, nhà khoa học trình độ cao ở các chuyên ngành trong các trường đại học có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của các khoa học cũng như sự phát triển nguồn nhân lực trình độ cao của đất nước. Đó thực sự là những “máy cái” để tạo ra trí thức mới, những nhà khoa học trong tương lai.
Tiềm năng của đội ngũ trí thức giáo dục đại học rất lớn. Tỷ lệ những người có trình độ trên đại học cao hơn nhiều so với các bộ phận khác của đội ngũ trí thức cả nước Hầu hết các đại biểu ưu tú, những chuyên gia giỏi, cán bộ đầu đàn trong các ngành khoa học trong nước đều là những người đang tham gia giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh ở các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu có chức năng đào tạo, hoặc đã từng là giảng viên hiện đang công tác ở lĩnh vực khác nhưng vẫn tham gia giảng dạy ở bậc đại học, sau đại học.
Đặc điểm này cho thấy vai trò chủ chốt của trí thức giáo dục đại học trong đào tạo trí thức Việt Nam, đào tạo NNLCLC, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Số lượng và chất lượng của NNLCLC phụ thuộc phần lớn vào kết quả của nền giáo dục quốc dân mà trực tiếp là đội ngũ trí thức giáo dục đại học.
Thứ hai, trí thức giáo dục đại học là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức và lối sống trong sáng
Đây là tiêu chuẩn, đặc thù của đội ngũ trí thức giáo dục đại học. Phẩm chất nhà giáo đại học được Hồ Chí Minh đánh giá rất cao. Hai mặt đức và tài được Người xem xét trong mối quan hệ thống nhất biện chứng. “có chuyên môn mà không có chính trị giỏi thì dù học giỏi đến mấy trẻ con cũng hỏng”. Trong khi rất coi trọng chuyên môn, Hồ Chí Minh rất coi trọng chính trị, “có tài mà không có đức là hỏng, có đức mà chỉ i tờ thì dạy thế nào?” [103, tr.492].
Người trí thức giáo dục đại học phải thể hiện mình vừa với tư cách là người trí thức phục vụ cách mạng, vừa với tư cách người chiến sỹ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, khoa học - kỹ thuật và văn hóa. Vì vậy, lí tưởng chính trị, khoa học và nghề nghiệp là những điều quan trọng căn bản, làm nên nhân cách người thầy.
Nhiệm vụ của người trí thức giáo dục đại học là bằng lao động sáng tạo của mình (thông qua hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của bản thân), bằng phẩm chất và năng lực nhà giáo để tác động vào đối tượng (là sinh viên, học viên cao học, học viên nghiên cứu sinh - tuyệt đại bộ phận là thanh niên, lực lượng trẻ khỏe, rất năng động và nhiệt tình, có khả năng tiếp cận tri thức mới, nhanh nhạy trước đời sống hiện thực), nhằm tạo ra những người lao động sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng ngày càng tăng về NNLCLC cho Việt Nam.
Điều quan trọng là trí thức giáo dục đại học không chỉ có nhận thức chính trị đúng, mà còn phải có khả năng xử lí tình huống chính trị. Giáo dục đại học là lĩnh vực hoạt động đặc biệt, bởi vì đối tượng tác động chính là học viên, sinh viên, những người có trình độ học vấn, trình độ nhận thức và độ nhạy cảm nhất định về những vấn đề chính trị - xã hội. Để định hướng đúng đắn cho các hoạt động chính trị của người học, huy động sức mạnh của lực lượng này trong việc thực hiện đường lối, chính sách Đảng, thực hiện mục tiêu chính trị của nhà trường, người trí thức nhà giáo phải có bản lĩnh chính trị vững vàng và là tấm gương sáng cho học viên, sinh viên noi theo và người đời kính trọng.
Hoạt động giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng là một bộ phận trong đường lối chính trị của Đảng, của Nhà nước nhằm đưa đất nước từng bước lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức: “trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc”. Tại Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương khóa X, Đảng ta khẳng định: “Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển” [46, tr.81]. Với sự đóng góp to lớn trong nhiều ngành nghề, trí thức giáo dục đại học với tính chất lao động trí tuệ, sáng tạo, trang bị tri thức, thông tin, trong đó có đường lối, chiến lược của Đảng và Nhà nước có tác động trực tiếp và ảnh hưởng sâu sắc nhất đến NNLCLC.
Trong công cuộc đổi mới, đội ngũ trí thức giáo dục đại học đã đóng góp tích cực vào xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước ta. Hơn nữa, trí thức giáo dục đại học trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, tạo ra sản phẩm nhân lực chất lượng cao, phát huy tiềm năng sáng tạo khoa học để tiếp cận với trình độ phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Có thể nói, sự nghiệp “trồng người” là rất lâu dài, khó khăn và quan trọng. Trọng tâm là vấn đề xây dựng và hoàn thiện con người thông qua hoạt động giáo dục đạo đức và nhân cách. Trí thức giáo dục đại học là lực lượng có tính quyết định đến thành công của tiến bộ xã hội.
Phẩm chất chính trị, đạo đức của trí thức nhà giáo quyết định quan trọng đến chất lượng dạy học, tạo uy tín cho môi trường giáo dục đại học. Đạo đức nhà giáo được quy định trong Luật Giáo dục, ban hành kèm theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong chương II (những quy định cụ thể - phẩm chất chính trị, Điều 3): Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật; không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lí luận chính trị để vận dụng vào hoạt động giảng dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Đây là những quy định, tiêu chí để trí thức giáo dục đại học xây dựng và nâng cao cho mình bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối...n ninh ở các trường không chuyên
Giáo sư và giảng viên cao cấp
360
500
Phó giáo sư và giảng viên chính
320
460
Giảng viên
280
420
Nguồn: Quy định chế độ làm việc đối với giảng viên ban hành kèm theo
Quyết định số 64/2008/QĐ-BGD&ĐT, ngày 18/11/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Phụ lục 12
Thống kê các trường Đại học ở Việt Nam phân theo vùng kinh tế
(tính đến 31.05.2012)
TT
Vùng miền
Tổng số
Đại học
Công lập
NCL
Tổng
204
149
55
1
Miền Núi phía Bắc
13
12
1
2
Đồng bằng sông Hồng
89
68
21
3
Bắc Trung Bộ
17
15
2
4
Duyên hải Nam Trung Bộ
19
12
7
5
Tây Nguyên
3
2
1
6
Đồng Nam Bộ
50
32
18
7
Đồng bằng sông Cửu Long
13
8
5
Nguồn: [198]
Phụ lục 13
Số lượng bài báo tạp chí chuyên ngành quốc tế, số trích dẫn
trung bình một bài báo và vai trò đóng góp của tác giả bài báo
của Việt Nam và Thái Lan (Năm 2004)
Tên các đại học
Số bài
TB trích dẫn
Tác giả dẫn đầu trong nước
Tác giả dẫn đầu ngoài nước
Số bài
Trích dẫn TB
Số bài
Trích dẫn TB
ĐHBK Hà Nội
13
6,7
4
2,5
9
8,6
ĐHQG Hà Nội
28
6,9
7
5,3
21
7,4
ĐHQG TP. HCM
26
4,2
19
4,1
7
4,4
ĐH Chulalongkorn
416
9,4
295
7,1
121
15,3
ĐH Mahidol
465
11
320
8,3
145
16,9
Nguồn tư liệu gốc: ISIKOWLEDGE
Phụ lục 14
Số ấn phẩm khoa học trên các tập san quốc tế
của một số quốc gia năm 2011
Nước
Năm 2011
(tính đến tháng 11)
Việt Nam
1.028
Thái Lan
4.244
Malaixia
5.363
Inđônêxia
865
Philippin
719
Xingapo
7.296
Lào
87
Campuchia
103
Mianma
37
Hàn Quốc
32.446
Úc
30.3936
Pháp
44.836
Nhật
54.537
Trung Quốc
112.829
Mỹ
265.159
Nguồn: [198]
Phụ lục 15
Số lượng các bằng sáng chế được cấp USPTO cấp cho các nước Đông Á
Nền kinh tế
1992
2000
2008
Nhật Bản
23.151
32.922
36.679
Xingapo
35
242
450
Đài Loan (Trung Quốc)
1.252
5.806
7.779
Hàn Quốc
580
3.472
8.731
Malaixia
11
47
168
Thái Lan
2
30
40
Trung Quốc
41
163
1.874
Inđônêxia
9
14
19
Philippin
7
12
22
Việt Nam
0
0
0
Nguồn: Số liệu của USPTO [dẫn theo 108].
Phụ lục 16
Đánh giá thực trạng về số lượng ĐNTTgiáo dục đại học
trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật
Đơn vị: %
TT
Cơ cấu đội ngũ TT
Đủ
Thừa
Thiếu
Không biết
1
Đội ngũ các nhà khoa học
17,9
9,1
56,7
16,3
2
Đội ngũ quản lý
15,6
30
34,2
20,2
3
Đội ngũ giảng dạy
13,7
12,8
68,8
14,7
4
Đội ngũ nghiên cứu
5,1
11,6
65,3
17,9
5
Đội ngũ thực hành
10,7
4
64
21,4
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 17
Đánh giá thực trạng về số lượng đội ngũ trí thức giáo dục đại học
trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn
TT
Cơ cấu đội ngũ TT
Đủ
Thừa
Thiếu
Không biết
1
Đội ngũ các nhà khoa học
17,9
44,9
36,7
0,5
2
Đội ngũ quản lý
11,9
54,7
33
0,5
3
Đội ngũ giảng dạy
24
42,8
32,8
0,5
4
Đội ngũ nghiên cứu
19,3
47,2
33
0,5
5
Đội ngũ thực hành
10,5
49,1
39,5
0,9
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 18
Trình độ lí luận chính trị của lượng đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Phụ lục 19
Điều kiện về phẩm chất đạo đức của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Đơn vị: %
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 20
Số lần thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học các cấp
của trí thức giáo dục đại học trong 5 năm gần đây
Đơn vị: %
Cấp
Số lần thực hiện đề tài
Tổng
1
2
3
4
5
6
7
8
Trường
58
27,5
8,5
1
4
1
100
Đại học
78,9
14
7
100
Cấp bộ
84,2
10,5
5,3
100
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 21
Mục đích nghiên cứu khoa học của trí thức giáo dục đại học
Đơn vị: %
1. Hoàn thành nhiệm vụ
2. Nâng cao chuyên môn
3. Hoàn thiện chuẩn mực chức danh
4. Thu nhập
5. Trau dồi kỹ năng
6. Đóng góp nâng cao chất lượng NCKH
7. Nêu gương
8. Khác
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 22
Mức độ sử dụng ngoại ngữ của trí thức giáo dục đại học
Đơn vị: %
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 23
Yếu tố cản trở đến việc nâng cao trình độ chuyên môn
của nữ trí thức giáo dục đại học
Đơn vị: %
1.Tuổi tác; 2. Kinh tế; 3. Thiên chức; 4. Nội trợ, gia đình;
5. An phận; 6. Tác động từ chồng; 7. Dư luận xã hội; 8. Cơ quan
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 24
Yếu tố cản trở đến việc nâng cao trình độ chuyên môn
của nam trí thức giáo dục đại học
Đơn vị: %
1. Tuổi tác; 2. Kinh tế; 3. Nặng gánh gia đình; 4. Tác động từ bạn bè;
5. Tác động từ người vợ; 6. Tác động từ cơ quan chủ quản; 7. Khác
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 25
Quan niệm về vai trò của người giảng viên đại học
80.0
60.0
40.0
20.0
0.0
Kiến thức
Phương pháp
Kĩ
năng
Khuyến khích
Định hướng
Làm gương
71.5
75.3
27.2
50.5
64.6
43.2
Đơn vị: %
1. Truyền đạt kiến thức 4. Khuyến khích, gợi mở
2. Trang bị phương pháp, kỹ năng 5. Định hướng kỹ năng nghiên cứu KH
3. Trang bị kĩ năng sống 6. Làm gương đạo đức, nhân cách
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 26
Đánh giá vai trò của trí thức giáo dục đại học
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Đơn vị: %
1.
Lực lượng nòng cốt và đi đầu trong việc thực hiện chiến lược phát triển KT-XH
2.
Chủ thể chủ yếu phát triển khoa học kỹ thuật/công nghệ mới, hướng tới xây dựng kinh tế tri thức
3.
Tấm gương trong phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh
4.
Góp phần quan trọng trong việc ổn định chính trị, an ninh - quốc phòng, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới
5.
Góp phần xác lập cơ sở khoa học và thẩm định tính đúng đắn của đường lối chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước
6.
Góp phần chủ yếu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cao cho xã hội
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 27
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
Đơn vị %
1. Trình độ chuyên môn của Giảng viên
2. Đội ngũ chuyên gia đầu đàn về ngành quan trọng
3. Trình độ ngoại ngữ, tin học của Giảng viên
4. Chính sách Giáo dục đại học của Nhà nước.
5. Tính cân bằng về cơ cấu
6. Đời sống vật chất, tinh thần của đội ngũ GV
7. Lý tưởng nghề nghiệp, đạo đức của GV
8. Sự coi trọng, tôn vinh nghề giáo của xã hội
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 28
Vai trò của trí thức giáo dục đại học trong đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao hiện nay
Đơn vị: %
TT
Vai trò của giảng viên.
Đồng ý
Không
đồng ý
1
Trang bị chuyên môn để ra trường làm việc
59.1
40.9
2
Trang bị phẩm chất đạo đức
54.6
45.4
3
Trang bị lý tưởng, niềm tin vào cuộc sống
70.1
29.9
4
Trang bị kỹ năng sống
64.6
35.4
5
Trang bị tư duy, phương pháp và kỹ năng hoạt động thực tiễn
42
58
6
Thầy dạy chữ, dạy nghề và dạy làm người
74.4
25.6
7
Tất cả các phương án trên.
78.5
21.5
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 29
Đánh giá của trí thức giáo dục đại học về cơ chế chính sách cụ thể
của các trường đại học chủ quản
Đơn vị: % ý kiến
Chính sách
Mức độ
Rất tốt
Tốt
Không tốt
Bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ giảng viên.
60,3
30,1
9,6
Sử dụng đội ngũ giảng viên có năng lực, chuyên môn cao
78,5
18,4
3.1
Ưu tiên, khuyến khích CB, GV đi học tập, bồi dưỡng chuyên môn trong và ngoài nước
19,7
60,2
20,1
Đãi ngộ “hiền tài” về tiền lương, điều kiện ăn ở, làm việc
5,7
20
74,3
Xây dựng môi trường dân chủ hoá
27,4
50,8
22,2
Đổi mới cơ chế quản lí giáo dục
15,5
25,7
58,8
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 30
Đánh giá của trí thức giáo dục đại học về chất lượng tuyển dụng cán bộ, giảng viên vào làm việc tại trường Đại học hiện nay
TT
Các tiêu chí tuyển dụng
Rất tốt
Tốt
Chưa tốt
Không biết
1
Tuyển dụng người lao động có năng lực thực sự
20,7
59,1
13,1
7,1
2
Đảm bảo tính công bằng giữa các ứng viên
30
47,9
20
3,1
3
Đáp ứng đủ số lượng nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu đào tạo của Nhà trường
70,4
20
5,7
3,6
4
Công khai, minh bạch trong việc tuyển dụng
45,1
50,3
3,9
0,6
5
Trẻ hoá đội ngũ cán bộ giảng dạy chất lượng cao
70,1
20
8,5
1,4
5
Khác (ghi rõ)
0
0
0
0
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 31
Kiến nghị của trí thức giáo dục đại học đối với Nhà nước nhằm
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức bậc đại học ở nước ta hiện nay
Đơn vị: % ý kiến
TT
Giải pháp
Đồng ý
Không
đồng ý
1
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
62,4
37,6
2
Phát triển kinh tế tri thức
87,0
13,0
3
Phát triển giáo dục, đào tạo
88,5
11,5
4
Phát triển khoa học và công nghệ
86,7
13,3
5
Phát triển đội ngũ nhà giáo
86,3
13,7
6
Tập trung cho giáo dục bậc đại học
75,6
24,4
7
Tập trung cho giáo dục nghề
70,8
29,2
8
Tập trung cho giáo dục bậc phổ thông
75,1
24,9
9
Tập trung cho đào tạo đội ngũ giáo viên các cấp
83,5
16,5
10
Đổi mới chính sách đãi ngộ hiền, tài phù hợp
84,4
15,6
11
Ý kiến khác..
0
0
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 32
Đánh giá của sinh viên, học viên về năng lực
của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Đơn vị: %
Năng lực của TTgiáo dục đại học
Mức độ
Rất hài lòng
Hài lòng
Không hài lòng
Chuyên môn
28,2
68,1
13,7
Phương pháp, kỹ năng nghề nghiệp
20,1
50,2
29,7
Nhân cách nhà giáo
80,7
17,7
1,6
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 33
Đánh giá của sinh viên, học viên về vai trò
của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Đơn vị: %
Vai trò của
TT giáo dục đại học
Mức độ
Rất hài lòng
Hài lòng
Không hài lòng
Trang bị tri thức chuyên môn
14,8
62,4
22,8
Trang bị phương pháp, kỹ năng nghề nghiệp
7,9
55,7
36,4
Bồi dưỡng lý tưởng, nhân cách
77,2
20,1
2,7
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 34
Đánh giá của người sử dụng lao động về chất lượng người lao động
sau khi tốt nghiệp đại học
Đơn vị: %
TT
Tiêu chí đánh giá
Mức độ được đánh giá
Rất tốt
Tốt
Trung bình
Chưa tốt
Năng lực chuyên môn, nghề nghiệp
1
Năng lực chuyên môn
10,1
35,3
40,9
13,7
2
Năng lực sáng tạo
5,7
15,2
60,8
19,3
3
Năng lực vận dụng thực tiễn
8,8
11,7
70,3
8,2
4
Năng lực nghiên cứu
3,7
9,8
69,2
18
5
Năng lực làm việc độc lập
16,1
40,2
33,7
10
6
Năng lực thích ứng chuyên môn
19,2
36
28,1
16,7
7
Năng lực tổ chức thực hiện
3.1
9,2
30,7
67
Kỹ năng của người lao động
1
Kỹ năng làm việc độc lập
12,3
20,5
37,1
30,1
2
Kỹ năng làm việc theo nhóm
20,5
40,6
21,3
17,3
3
Kỹ năng nghiên cứu khoa học
14,2
28
39,1
18,7
4
Kỹ năng lập kế hoạch
14,1
19,3
26,5
40,1
5
Kỹ năng thích ứng môi trường
20,6
40,1
30
9,3
Phẩm chất chính trị, đạo đức
1
Có ý thức về đạo đức nghề nghiệp
20,4
31,2
37,2
11,2
2
Có tính kỷ luật lao động
8,9
28,3
30
36,8
3
Có lòng yêu nghề
15,5
37,1
41
21,4
4
Năng động, chủ động
18
20,7
31,7
38,6
5
Có lý tưởng sống
10,3
20,7
30
39
Nguồn: Kết quả điều tra
Phụ lục 35
Lực lượng lao động phân theo trình độ học vấn, giai đoạn 2005 - 2010
Năm
Tổng số
Chưa biết chữ
Chưa tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp THCS
Tốt nghiệp THPT
2005
100,00
4,04
13,08
29,08
32,57
21,23
2006
100,00
3,01
14,08
32,80
25,85
23,46
2007
100,00
3,66
12,79
28,72
31,15
23,59
2008
100,00
4,01
12,01
28,34
32,08
23,56
2010
100,00
4,60
13,70
27,60
28,50
25,60
Nguồn: Số liệu thống kê lao động - việc làm - thất nghiệp (2010)
của Tổng cục thống kê
Phụ lục 36
Một số tiêu chí trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
TT
Một số tiêu chí
Năm 2010
Năm 2015
Năm 2020
1
Tỷ lệ lao động qua đào tạo (%)
40
55
70
2
Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề (%)
25
40
55
3
Số sinh viên Đại học - Cao đẳng trên
1000 dân (SV).
200
300
400
4
Số trường đại học xuất sắc trình độ
quốc tế (trường).
-
-
>4
5
Nhân lực có trình độ cao trong các lĩnh vực đột phá (người)
Quản lý nhà nước, hoạch định chính sách và lật quốc tế
15000
18000
20000
Giảng viên đại học, cao đẳng
77500
100000
160000
Khoa học - công nghệ
40000
60000
100000
Y tế, chăm sóc sức khỏe
60000
70000
80000
Tài chính - ngân hàng
70000
100000
120000
Công nghệ thông tin
180000
350000
550000
Nguồn: Số liệu thống kê lao động - việc làm - thất nghiệp (2010)
của Tổng cục thống kê
Phụ lục 37
Hiện trạng phát triển nhân lực việt nam theo cấp bậc đào tạo
ĐVT: Nghìn người
2000
2005
2010
Tốc độ tăng
bình quân/năm
2001-
2010
2001-
2005
2006-
2010
Tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân
37.600
42.800
48.900
2,7%
2,6%
2,7%
Tổng số nhân lực qua đào tạo
6.000
11.200
20.100
12,9%
13,3%
12,4%
% so với tổng số lao động đang làm việc
16,0
26,2
40,0
Trong đó:
1/ Hệ đào tạo nghề
2.620
6.700
14.260
18,5
20,7
163
% so với tổng số nhân lực qua đào tạo
43,7
59,8
70,6
- Sơ cấp và không bằng
1.460
5.130
11.730
23,2
28,6
18,0
% so với tổng số nhân lực qua đào tạo
24,3
45,8
58,4
- Trung cấp nghề
1.160
1.570
2.350
7,3
6,2
8,4
% so với tổng số nhân lực qua đào tạo
19,3
14,0
11,7
- Cao đẳng nghề
-
-
180
-
-
-
% so với tổng số nhân lực qua đào tạo
-
-
0,9
-
-
-
2/ Hệ giáo dục và đào tạo
3.376
4.541
5.882
% so với tổng số nhân lực qua đào tạo
563
40,5
29,3
- Trung cấp chuyên nghiệp
1.870
2.100
2.200
1,6
2,3
0,9
% so với tổng số nhân lực qua đào tạo
31,2
18,8
10,9
- Cao đẳng
460
660
910
7,1
7,5
6,6
% so với tổng số nhân lực qua đào tạo
7,7
5,9
4,5
- Đại học
1.010
1.710
2.640
10,1
11,1
9,1
% so với tổng số nhân lực qua đào tạo
16,8
15,3
13,1
- Trên đại học
36
71
132
13,9
14,5
13,2
% so với tổng số nhân lực qua đào tạo
0,6
0,6
0,7
3/ Tỷ lệ lao động được đào tạo theo trình độ chung cả hai hệ
- Trung cấp
3.030
3.670
4.550
4,1
3,9
4,4
% so với tổng số nhân lực qua đào tạo
50,5
32,8
22,6
- Cao đẳng
460
660
1.090
9,0
7,5
10,6
% so với tổng số nhân lực qua đào tạo
7,7
5,9
5,4
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê (GSO),
Số liệu của Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
Phụ lục 38
Lao động qua đào tạo chia theo theo nhóm ngành
ĐVT: Nghìn người
Nhóm ngành
2000
2005
2010
Tổng số lao động đang làm việc trong nền KTQD
37.600
48.200
48.900
Tổng sổ lao động qua đào tạo của các ngành
6.000
11.200
20.100
Trong đó số lao động qua đào tạo của các ngành:
I. Nông, lâm, ngư nghiệp
380
900
3.800
% so với tổng lao động Nông, lâm, ngư nghiệp
1,6
3,6
15,3
% so với tổng số lao động qua đào tạo của cả nền kinh tế
6,3
8,0
18,9
II. Công nghiệp - xây dựng
2.200
4.900
7.443
% so với tổng lao động công nghiệp và xây dựng
44,9
62,8
68,3
% so với tổng lao động qua đào tạo của cả nền kinh tế
37,7
43,8
37,0
Công nghiệp
1.400
4.300
6.200
% so với tổng lao động công nghiệp
35,9
74,1
75,6
% so với tổng lao động qua đào tạo của cả nền kinh tế
23,3
38,4
31,0
Xây dựng
163
577
1.243
% so với tổng lao động xây dựng
16,3
27,9
46,0
% so với tổng lao động qua đào tạo của cả nền kinh tế
2,7
5,0
6,2
III. Dịch vụ
3.300
5.200
8.800
% so với tổng lao động dịch vụ
40,2
49,1
67,2
% so với tổng lao động qua đào tạo của cả nền kinh tế
55,0
46,4
43,8
Nguồn: Niên giám thống kê các năm 2000, 2005, 2009, số liệu của Tổng cục Thống kê
cập nhật phục vụ Báo cáo Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020.
PHIẾU ĐIỀU TRA
VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đã và đang đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển và đào tạo nguồn nhân lực hiện nay của xã hội. Với mong muốn tìm hiểu vai trò của đội ngũ này, NCS Nguyễn Thị Thanh Hà đã lựa chọn đề tài: Vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay để nghiên cứu.
Để góp phần thực hiện tốt đề tài luận án, NCS kính mong nhận được sự cộng tác và ủng hộ nhiệt tình của các Thầy, Cô giáo và cán bộ quản lý trong trường đại học. Ý kiến của Thầy/ Cô sẽ đóng góp và đặt cơ sở quan trọng cho việc thực hiện thành công luận án của NCS.
Xin quý Thầy/ Cô cho biết ý kiến của mình thông qua việc trả lời các câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn. Tất cả thông tin về ý kiến của quý Thầy/ Cô chỉ nhằm mục đích nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn quý Thầy/ Cô.
A. THÔNG TIN CHUNG
1. Năm sinh:
2. Giới tính: 1. Nam □ 2. Nữ □
3. Đơn vị công tác...............................................................................................................
4. Học hàm, học vị:
Cử nhân/Kỹ sư
□
Thạc sĩ
□
Tiến sĩ
□
Tiến sĩ khoa học
□
Phó GS
□
GS
□
5. Lĩnh vực phụ trách
5.1. Công tác quản lý: (Thầy/ Cô là lãnh đạo quản lý cấp ?)
Cấp trường
□
Cấp phòng, Cấp Khoa
□
Cấp vụ, viện
□
Cấp bộ môn
□
5.2. Lĩnh vực (ngành) giảng dạy của Thầy cô:
Khoa học tự nhiên
□
Khoa học xã hội & nhân văn
□
Khoa học kỹ thuật
□
Khác
□
5.3. Thâm niên công tác trong ngành giáo dục của Thầy/ Cô
Dưới 10 năm
□
Từ 11 - 20 năm
□
Từ 21 - 30 năm
□
Trên 30 năm
□
6. Trình độ Lí luận chính trị của Thầy/ Cô hiện nay là:
Cử nhân chính trị
□
Cao cấp
□
Trung cấp
□
Sơ cấp
□
7. Mức độ sử dụng ngoại ngữ của Thầy/ Cô hiện nay như thế nào?
(Đánh dấu (x) vào ô mức độ)
Mức độ sử dụng
Các ngoại ngữ
thành thạo(1)
chưa thành thạo(2)
không sử dụng(3)
1. Tiếng Anh
2. Tiếng Pháp
3. Tiếng Nga
4.Tiếng Trung Quốc
5.Ngoại ngữ khác (ghi rõ)
B. NỘI DUNG
1. Theo Thầy /Cô trong trường đại học Giảng viên là: (Chọn x tối đa 4 phương án)
1
Là người truyền đạt, cung cấp kiến thức cho người học
□
2
Là người trang bị phương pháp và kỹ năng tác nghiệp chuyên môn cho người học
□
3
Là người trang bị kỹ năng sống cho người học
□
4
Là người khuyến khích, gợi mở và tạo điều kiện thuận lợi cho người học
□
5
Là người định hướng, trang bị phương pháp, kỹ năng NCKH cho người học
□
6
Là tấm gương về tự học, về phẩm chất đạo đức, nhân cách cho người học
□
7
Khác(ghi rõ)
2. Theo Thầy/ Cô giảng viên đại học cần có điều kiện gì về phẩm chất đạo đức?
(đánh thứ tự (x) bên cạnh từ 1 đến 4, trong đó 1 là ưu tỉên nhất)
TT
Nội dung / Thứ tự ưu tiên
1
2
3
4
1
Nêu gương (trình độ, phẩm chất, đạo đức)
2
Tự phê bình và dám đấu tranh
3
Đoàn kết
4
Liêm khiết
5
Khác(ghi rõ)..........
3. Xin cho biết quan niệm của Thầy /Cô về người giảng viền chất lượng cao
(Đánh thứ tự ưu tiên (x) vào ô từ 1 đến 5, trong đó 1 là ưu tiên nhất)
TT
Nội dung / Thứ tự ưu tiên
1
2
3
4
5
1
Tốt nghiệp sau đại học có học hàm (GS, PGS)
2
Tốt nghiệp đại học
3
Có kỹ năng thực hành chuyên môn giỏi
4
Có khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao
5
Có nhận thức đúng; thái độ đúng, kỹ năng sống tốt
6
Được đào tạo qua thời gian dài
7
Tạo ra sản phẩm lao động chất lượng cao
8
Khả năng NCKH
9
Khác
4. Trong 05 năm gần đây Thầy/ Cô thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp như thế nào?
1
Cấp trường (cấp cơ sở)
□
số lần..
2
Cấp Đại học (cấp đại học vùng)
□
số lần.
3
Cấp nhà nước (cấp Bộ)
□
số lầ̀n..
4
Khác (Ghi rõ)
□
số lầ̀n..
5. Mục đích nghiên cứu khoa học của Thầy /Cô đặt ra là:
(Chọn (x) tối đa 4 phương án)
1
Nhằm thực hiện đạt chuẩn theo nhiệm vụ
□
2
Nhằm nâng cao trình độ chuyên môn
□
3
Nhằm hoàn thiện các tiểu chuẩn cho việc phong chức danh
khoa học và chức danh nhà giáo
□
4
Nhằm nâng cao thu nhập (mục đích kinh tế)
□
5
Nhằm trau dồi kỹ năng nghiên cứu khoa học
□
6
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và chất lượng
nghiên cứu khoa học của nhà trường
□
7
Làm tấm gương cho người học
□
8
Khác (ghi cụ thể)
6. Thời gian tới, Thầy/Cô có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao kiến thức nào sau đây:
(Đánh dấu (x) phương án chọn)
1
Nâng cao trình độ chuyên môn
□
2
Nâng cao kiến thức ngoại ngữ, tin học
□
3
Nâng cao kiến thức lí luận chính trị
□
4
Nâng cao kiến thức phương pháp giảng dạy
□
5
Nâng cao kiến thức khác (ghi rõ)
7. Theo Thầy / Cô, yếu tố nào cản trở tới việc nâng cao trình độ chuyên môn?
Đối với nữ
1
Yếu tố tuổi tác
□
2
Yếu tố kinh tế
□
3
Việc thực hiện các thiên chức
□
4
Công việc nội trợ gia đình
□
5
Tư tưởng “an phận”
□
6
Tác động từ phía người chồng
□
7
Tác động từ phía dư luận xã hội
□
8
Tác động từ cơ quan chủ quản
□
9
Khác (ghi rõ)
Đối với nam
1
Yếu tố tuổi tác
□
2
Yếu tố kinh tế
□
3
Nặng gánh gia đình
□
4
Tác động xấu từ bạn bè và môi trường sống
□
6
Tác động từ phía người vợ
□
7
Tác động từ cơ quan chủ quản
□
8
Khác (ghi rõ)
8. Thầy/ Cô đánh giá thế nào về thực trạng đội ngũ trí thức bậc đại học ở nước ta hiên nay? (Mỗi hàng ngang chọn (x) một phương án)
8.1. Lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật
* Về số lượng
TT
Cơ cấu đội ngũ TT
Đủ
Thừa
Thiểu
Không biết
1
Đội ngũ các nhà khoa học
2
Đội ngũ quản lý
3
Đội ngũ giảng dạy
4
Đội ngũ nghiên cứu
5
Đội ngũ thực hành
6
Ý kiến khác
* Về chất lượng
TT
Cơ cấu đội ngũ TT
Mạnh
Yếu
Không biết
1
Đội ngũ các nhà khoa học
2
Đội ngũ quản lý
3
Đội ngũ giảng dạy
4
Đội ngũ nghiên cứu
5
Đội ngũ thực hành
6
Ý kiến khác
8.2. Lĩnh vực khoa học xã hội, nhân văn, văn hóa, nghệ thuật
* Về số lượng
TT
Cơ cấu đội ngũ TT
Đủ
Thừa
Thiểu
Không biết
1
Đội ngũ các nhà khoa học
2
Đội ngũ quản lý
3
Đội ngũ giảng dạy
4
Đội ngũ nghiên cứu
5
Đội ngũ thực hành
6
Ý kiến khác
* Về chất lượng
TT
Cơ cấu đội ngũ TT
Mạnh
Yếu
Không biết
1
Đội ngũ các nhà khoa học
2
Đội ngũ quản lý
3
Đội ngũ giảng dạy
4
Đội ngũ nghiên cứu
5
Đội ngũ thực hành
6
Ý kiến khác
9. Theo Thầy/Cô những đối tượng nào dưới đây gọi là “nguồn nhân lực chất lượng cao” ở Việt Nam hiện nay?(Mỗi hàng ngang chọn 1 x)
TT
Đối tượng
Đồng ý
Không đồng ý
1
Đội ngũ trí thức
2
Đội ngũ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
3
Đội ngũ các nhà khoa học đầu đàn
4
Đội ngũ các nhà giáo, quản lý từ cấp Đại học trở lên
5
Đội ngũ các nhà giáo, quản lý từ cấp Cao đẳng trở lên
6
Đội ngũ các doanh nhân
7
Đội ngũ công nhân lành nghề
8
Đội ngũ nghệ nhân
9
Ý kiến khác
10. Xin Thầy/Cô đánh giá giảng viên trường mình hiện nay có những điểm mạnh, điểm yếu nào trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
(Chọn (x) mỗi điểm tối đa 4 phương án)
10.1. Điểm mạnh
1. Trình độ chuyên môn cao
□
2. Trình độ ngoại ngữ thành thạo
□
3. Có phương pháp giảng dạy tích cực
□
4. Phẩm chất, đạo đức trong sáng
□
5. Bản lĩnh chính trị vững vàng
□
6. Điểm mạnh khác (ghi rõ
□
10.2. Điểm yếu
1. Hạn chế về trình độ chuyên môn
□
2. Hạn chế về ngoại ngữ, tin học
□
3.Tỷ lệ học hàm, học vị thấp
□
4. nặng về phương pháp giảng dạy truyền thống
□
6. Lo kinh tế
□
7.Hạn chế trong phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp
□
8. Điểm yếu khác (ghi rõ)
10.3. Để khắc phục những điểm yếu trên, theo Thầy/ Cô cần có biện pháp nào?
(Chọn (x) 4 biện pháp tiêu biểu)
1. Nâng cao nhận thức của đội ngũ nhà giáo về vị trí, vai trò của giáo dục đại học trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
□
2. Mỗi thầy cô giáo chủ động trau dồi, bồi dưỡng chuyên môn, tích cực đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy theo sự phát triển của xã hội
□
3. Xây dựng các giải pháp nhằm thực hiện tốt giảng dạy và nghiên cứu khoa học
□
4. Nắm bắt được nhu cầu của người học
□
5. Nắm bắt được yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao đối với mỗi ngành, nghề
□
6. Kết nối chặt chẽ mối quan hệ Nhà trường - Thầy cô giáo - Sinh viên - Xã hội
□
7. Thực hiện đoàn kết rộng rãi, khiêm tốn học hỏi và tích cực chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm giữa đội ngũ trí thức Giáo dục đại học của các trường khi có điều kiện
□
8. Khác (ghi rõ)
11. Xin cho biết quan điểm của Thầy/Cô về vai trò của đội ngũ trí thức bậc đại học ở nước ta hiện nay? (Mỗi hàng ngang chỉ chọn 1 x)
TT
Vai trò
Đồng ý
Không
đồng ý
1
Là lực lượng nòng cốt và đi đầu trong việc thực hiện chiến lược phát triển KT-XH
2
Là chủ thể chủ yếu phát triển khoa học kỹ thuật/công nghệ mới, hướng tới xây dựng kinh tế tri thức
3
Là tấm gương đi đầu trong phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh
4
Góp phần quan trọng trong việc ổn định chính trị, an ninh - quốc phòng, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới
5
Góp phần xác lập cơ sở khoa học và thẩm định tính đúng đắn của đường lối chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước
6
Góp phần chủ yếu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cao cho xã hội
7
Ý kiến khác
12. Nhận thức của Thầy/ Cô về vai trò của đội ngũ trí thức (nhà giáo) Đại học trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao? (Chọn (x) tối đa 4 phương án)
1
Trang bị chuyên môn để ra trường làm việc
□
2
Trang bị phẩm chất đạo đức
□
3
Trang bị lý tưởng, niềm tin vào cuộc sống
□
4
Trang bị kỹ năng sống
□
5
Trang bị tư duy, phương pháp và kỹ năng hoạt động thực tiễn
□
6
Thầy dạy chữ, dạy nghề và dạy làm người
□
7
Tất cả các phương án trên
□
8
Khác (ghi rõ)
13. Theo Thầy/ Cô yếu tố nào sau đây có ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các trường đại học hiện nay ?(Chọn (x) tối đa5 phương án)
1
Trình độ chuyên môn của Giảng viên
□
2
Đội ngũ chuyên gia đầu đàn về ngành quan trọng
□
3
Trình độ ngoại ngữ, tin học của Giảng viên
□
4
Chính sách Giáo dục đại học của Nhà nước
□
5
Tính cân bằng về cơ cấu (Vùng miền, Giới tính, Lĩnh vực khoa học)
□
6
Đời sống vật chất, tinh thần của đội ngũ GV
□
7
Lý tưởng nghề nghiệp, đạo đức của GV
□
8
9
Sự coi trọng, tôn vinh nghề giáo của xã hội
Ý kiến khác(ghi rõ)
□
14.Theo Thầy/ Cô, có mâu thuẫn nào trong phát triển đội ngũ nhà giáo ở các trường đại học với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao (NNL CLC) hiện nay không?
(Chọn (x) tối đa 4 phương án)
1
Nặng về số lượng, xem nhẹ các tiêu chuẩn khác.
□
2
Mâu thuẫn giữa đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng của nguồn nhân lực và sự bất cập về năng lực đội ngũ nhà giáo.
□
3
Mâu thuẫn giữa đòi hỏi ngày càng cao trong đào tạo NNL CLC với sự đãi ngộ rất hạn chế (thấp) đối với nhà giáo (vật chất, tinh thần).
□
4
Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao trong đào tạo NNL CLC với trách nhiệm còn hạn chế của đội ngũ nhà giáo (đức, tài).
□
5
Mâu thuẫn giữa yêu cầu chất lượng cao của đội ngũ nhà giáo với bất cập trong công tác tuyển dụng (không minh bạch, “con ông, cháu cha”)
□
6
Mẫu thuẫn giữa nhu cầu nâng cao toàn diện về phẩm chất, năng lực của đội ngũ giảng viên với khả năng đáp ứng về nhu cầu bồi dưỡng, mở rộng quan hệ hợp tác và chế độ đãi ngộ thoả đáng
□
7
Mâu thuẫn khác (ghi rõ)
15. Theo Thầy (Cô), điều gì khiến người giảng viên sẵn sàng chia sẻ trách nhiệm với nhà trường? (Chọn (x) tối đa 4 phương án)
1
Được độc lập, tự chủ trong công việc
□
2
Có thu nhập cao
□
3
Tập thể cán bộ, giảng viên đoàn kết
□
4
Người giảng viên có điều kiện thuận lợi phát triển nghề nghiệp chuyên môn
□
5
Có môi trường làm việc mô phạm, chuyên nghiệp, hiện đại
□
6
Nhà trường quan tâm đến mọi mặt đời sống của người lao động.
□
7
Tất cả phương án trên
□
8
Khác: (Ghi rõ)
16. Nhận xét/đánh giá của Thầy, Cô về chế độ đãi ngộ (lương, thưởng) hiện hành của Nhà nước đối với đội ngũ giảng viên(Chọn (x) 1 phương án)
1. Hợp lý
□
2. Chưa hợp lý
□
3. Không rõ/khó trả lời
□
16.1. Nếu “hợp lý” thì vì sao ? (Chọn (x) tối đa 3 phương án)
1
Phù hợp với nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”
□
2
Tất cả mọi người đều được hưởng thành quả lao động chung của tập thể
□
3
Khuyến khích được người tài giỏi nỗ lực cống hiến, sáng tạo
□
4
Các chế độ đãi ngộ của Bộ, Trường với người lao động (công khai, minh bạch)
□
5
Vì thu nhập đủ đảm bảo cuộc sống và có tích luỹ
□
6
Khác (ghi rõ).
16.2. Nếu chưa hợp lý thì vì sao ? (Chọn tối đa 2 phương án)
1
Tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập giữa cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học trực tiếp và cán bộ quản lý, lực lượng gián tiếp
□
2
Lương/thưởng chưa gắn chặt với trách nhiệm và hiệu quả lao động của mỗi người
□
3
Không tạo được động lực để người lao động tích cực làm việc và sáng tạo
□
4
Khác (Ghi rõ)
16.3. Cơ chế chính sách cụ thể của trường mình đối với Thầy (Cô) ở mức độ nào sau đây? (Chọn (x) vào ô mức độ)
Chính sách
Mức độ
Rất tốt
Tốt
Không tốt
Bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ giảng viên.
Sử dụng đội ngũ giảng viên có năng lực, chuyên môn cao
Ưu tiên, khuyến khích CB, GV đi học tập, bồi dưỡng chuyên môn trong và ngoài nước
Đãi ngộ “hiền tài” về tiền lương, điều kiện ăn ở, làm việc.
Xây dựng môi trường dân chủ hoá
Đổi mới cơ chế quản lí giáo dục
17. Xin Thầy/ Cô đánh giá chất lượng tuyển dụng Cán bộ, giảng viên vào làm việc tại trường Đại học hiện nay? (Mỗi hàng ngang chọn 1(x))
TT
Các tiêu chí tuyển dụng
Rất tốt
Tốt
Chưa tốt
Không biết
1
Tuyển dụng người lao động có năng lực thực sự
2
Đảm bảo tính công bằng giữa các ứng viên
3
Đáp ứng đủ số lượng nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu đào tạo của Nhà trường
4
Công khai, minh bạch trong việc tuyển dụng
5
Trẻ hoá đội ngũ cán bộ giảng dạy chất lượng cao
5
Khác (ghi rõ)
18. Theo Thầy / Cô, Nhà nước cần phải làm gì để phát huy (nâng cao) đội ngũ trí thức bậc đại học ở nước ta hiện nay ?(Mỗi hàng ngang chọn (x) một phương án)
TT
Giải pháp
Đồng ý
Không
đồng ý
1
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
2
Phát triển kinh tế tri thức
3
Phát triển giáo dục, đào tạo
4
Phát triển khoa học và công nghệ
5
Phát triển đội ngũ nhà giáo
6
Tập trung cho giáo dục bậc đại học
7
Tập trung cho giáo dục nghề
8
Tập trung cho giáo dục bậc phổ thông
9
Tập trung cho đào tạo đội ngũ giáo viên các cấp
10
Đổi mới chính sách đãi ngộ hiền, tài phù hợp
11
Ý kiến khác..
19. Thầy/ Cô có kiến nghị gì đối với Nhà nước để nâng cao chất lượng của đội ngũ tri thức bậc đại học hiện nay ở nước ta? (Chọn (x) tối đa 4 phương án)
1
Tăng lương
□
2
Trả thù lao xứng đáng cho sản phẩm khoa học
□
3
Vinh danh các nhà giáo xứng đáng về tinh thần, vật chất
□
4
Hàng năm có cơ chế sàng lọc về chất lượng đội ngũ trí thức
□
5
Thường xuyên đào tạo, đào tạo lại kiến thức
□
6
Chú trọng nâng cao trình độ ngoại ngũ, tin học
□
7
Ý kiến khác.
□
Xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô giáo !