Luận án Đối chiếu tên riêng nữ giới người Anh và người Việt

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ MINH THẢO ĐỐI CHIẾU TÊN RIÊNG NỮ GIỚI NGƢỜI ANH VÀ NGƢỜI VIỆT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội, 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ MINH THẢO ĐỐI CHIẾU TÊN RIÊNG NỮ GIỚI NGƢỜI ANH VÀ NGƢỜI VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu Mã số: 9222024 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Lê Quang Thiêm 2. PGS.

pdf173 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 462 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Đối chiếu tên riêng nữ giới người Anh và người Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TS. Hồ Ngọc Trung Hà Nội, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Những tƣ liệu và số liệu trong luận án là trung thực. Đề tài nghiên cứu và các kết quả chƣa đƣợc ai cơng bố. Tác giả luận án Lê Thị Minh Thảo DANH MỤC CÁC BẢNG STT Tên Bảng Trang Bảng 2.1. Chính tố trong tên nữ giới ngƣời Anh 41 Bảng 2.2. Tiền tố trong tên nữ giới ngƣời Anh 42 Bảng 2.3. Hậu tố trong tên nữ giới ngƣời Anh 42 Bảng 2.4. Mơ hình tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh 46 Bảng 2.5: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên cá nhân nữ 48 giới ngƣời Anh theo hình thức cấu tạo Bảng 2.6: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên đệm nữ giới 51 ngƣời Anh theo hình thức cấu tạo Bảng 2.7: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên họ nữ giới 55 ngƣời Anh theo hình thức cấu tạo Bảng 2.8: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên nữ giới ngƣời 66 Anh theo thành tố cấu tạo Bảng 2.9. Mơ hình tên ngƣời Việt của Trần Ngọc Thêm 67 Bảng 2.10. Mơ hình cấu trúc chính danh nữ giới ngƣời Việt 67 Bảng 2.11: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên cá nhân nữ 71 giới ngƣời Việt theo mơ hình cấu tạo Bảng 2.12: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên đệm nữ giới 73 ngƣời Việt theo mơ hình cấu tạo Bảng 2.13: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên nữ giới 86 ngƣời Việt theo thành tố cấu tạo Bảng 3.1. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến các con vật đẹp 97 và đáng yêu Bảng 3.2. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến các lồi cây, hoa 99 Bảng 3.3. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến hiện tƣợng tự 98 nhiên Bảng 3.4. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến màu sắc 99 Bảa.ng 3.5. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến vật cĩ giá trị 99 Bảb.ng 3.6. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến Kinh thánh 101 Bảng 3.7. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến nhân vật trong 102 tác phẩm nghệ thuật Bảng 3.8. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến tên họ cĩ sẵn 103 Bảng 3.9. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến tƣớc hiệu 103 Bảng 3.10. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến con số 104 Bảng 3.11. Tên họ liên quan đến tên gọi nghề nghiệp 108 Bảng 3.12. Tên họ liên quan đến tên địa danh 110 Bảng 3.13. Tên họ liên quan đến đặc điểm địa danh 110 Bảng 3.14. Tên họ đƣợc hình thành từ tên cá nhân của cha 111 thêm “s” Bảng 3.15. Tên họ đƣợc hình thành từ tên cá nhân của cha 112 thêm “son” Bảng 3.16. Tên họ đƣợc hình thành từ tên cá nhân của cha 112 DANH MỤC SƠ ĐỒ STT Tên sơ đồ Trang 1 Hình 2.1. Sơ đồ cấu tạo tổ hợp định danh nữ giới 39 ngƣời Anh và ngƣời Việt DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. R Căn tố 2. S Hậu tố 3. P Tiền tố 4. T Thành tố 5. Tr. Trang 6. Nxb Nhà xuất bản 7. A Tên cá nhân 8. B Tên đệm 9. C Tên họ MỤC LỤC 1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 1 3. Đối tƣợng, phạm vi và ngữ liệu nghiên cứu ........................................................ 2 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................ 3 5. Đĩng gĩp mới về khoa học của luận án ............................................................... 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.............................................................4 7. Bố cục của luận án ................................................................................................. 4 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN ....................................................................................... 5 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................. 5 1.1.1. Tình hình nghiên cứu tên người Anh ..................................................... 5 1.1.2. Tình hình nghiên cứu tên người Việt ................................................... 11 1.2. Cơ sở lí thuyết ............................................................................................... 18 1.2.1. Một số vấn đề lí thuyết về tên riêng ....................................................... 18 1.2.2. Vấn đề giới trong ngơn ngữ học ............................................................ 28 1.2.3. Nghiên cứu đối chiếu tên riêng nữ giới người Anh và người Việt...... 34 Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................... 37 CHƢƠNG 2. ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO TÊN NỮ GIỚI NGƢỜI ANH .VÀ NGƢỜI VIỆT ........................................................................................ 39 2.1. Đặt vấn đề ..................................................................................................... 39 2.2. Cơ sở phân tích đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt 40 2.2.1. Một số lí luận về hình vị ........................................................................ 40 2.2.2. Cơ sở phân tích các thành phần cấu tạo trong tên nữ giới người Anh và người Việt .................................................................................................... 44 Đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh ................................................. 45 2.3.1. Mơ hình chung tên nữ giới người Anh ................................................. 45 2.3.2. Các thành phần cấu tạo tên nữ giới người Anh ................................... 46 2.3.3. Các mơ hình cấu tạo tên nữ giới người Anh ........................................ 56 2.4. Đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Việt .................................................... 66 2.4.1. Mơ hình chung tên nữ giới người Việt ................................................. 66 2.4.2. Các thành phần cấu tạo tên nữ giới người Việt ................................... 67 2.4.3. Các mơ hình cấu tạo tên nữ giới người Việt ........................................ 77 2.5. Những nét tƣơng đồng và khác biệt về cấu tạo trong tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt ............................................................................................... 85 2.5.1. Những nét tương đồng về cấu tạo trong tên nữ giới người Anh và người Việt ......................................................................................................... 86 2.5.2. Những khác biệt về cấu tạo trong tên nữ giới người Anh và người Việt ........................................................................................................................... 87 Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................ 93 CHƢƠNG 3. ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ VĂN HĨA - XÃ HỘI PHẢN ÁNH QUA TÊN NỮ GIỚI NGƢỜI ANH VÀ NGƢỜI VIỆT ....... 95 3.1. Đặt vấn đề ..................................................................................................... 95 3.2. Đặc điểm nghĩa của tên nữ giới ngƣời Anh ............................................... 96 3.2.1. Đặc điểm nghĩa của tên cá nhân nữ giới người Anh ........................... 96 3.2.2. Đặc điểm nghĩa của tên đệm nữ giới người Anh ............................... 104 3.2.3. Đặc điểm nghĩa của tên họ nữ giới người Anh .................................. 105 3.3. Đặc điểm nghĩa của tên nữ giới ngƣời Việt.............................................. 112 3.3.1. Đặc điểm nghĩa của tên cá nhân nữ giới người Việt ......................... 112 3.3.2. Đặc điểm nghĩa của tên đệm nữ giới người Việt ................................ 119 3.3.3. Đặc điểm nghĩa của tên họ nữ giới người Việt .................................. 122 3.4. Những nét tƣơng đồng và khác biệt về nghĩa và văn hĩa - xã hội đƣợc phản ánh qua tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt ...................................... 123 3.4.1. Những nét tương đồng về nghĩa và văn hĩa - xã hội phản ánh qua tên nữ giới người Anh và người Việt .................................................................. 123 3.4.2. Những khác biệt về nghĩa và văn hĩa - xã hội phản ánh qua tên nữ giới người Anh và người Việt ........................................................................ 125 Tiểu kết chƣơng 3 .............................................................................................. 145 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN ...................................................... 151 MỞ ĐẦU 1. 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Trong mỗi cộng đồng, mỗi ngơn ngữ khác nhau, tên ngƣời (nhân danh) khơng chỉ đơn thuần là những kí hiệu dùng để định danh mà cịn chứa đựng những dấu ấn về lịch sử, xã hội và truyền thống văn hố đặc trƣng cho mỗi cộng đồng dân tộc đĩ. Tên nữ giới ngƣời Anh và Việt cũng vậy, vừa mang đặc trƣng của ngơn ngữ, vừa là ánh xạ phản chiếu đặc điểm văn hố - xã hội. Do đĩ, thơng qua việc nghiên cứu tên nữ giới, chúng tơi cĩ thể tìm hiểu đƣợc những đặc trƣng về ngơn ngữ và văn hĩa – xã hội thể hiện qua tên nữ giới ở mỗi quốc gia. 1.2. Tên ngƣời nĩi chung và tên nữ giới nĩi riêng chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống tên riêng. Trong mỗi ngơn ngữ, tên nữ giới cĩ những đặc điểm riêng. Xét về số lƣợng, nữ giới là lực lƣợng chiếm phân nửa dân số nhân loại. Điều đĩ cũng cĩ nghĩa là số lƣợng tên nữ giới chiếm phân nửa số lƣợng tên ngƣời trên thế giới. Với số lƣợng rất lớn nhƣ vậy, đây chính là một nguồn ngữ liệu hết sức phong phú để tìm hiểu và phân tích. Hơn nữa, việc nghiên cứu tên nữ giới gĩp phần làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu trong ngơn ngữ học xã hội về giới cũng nhƣ trong ngơn ngữ và văn hố - xã hội nĩi chung. 1.3. Theo nguồn tƣ liệu mà chúng tơi tiếp cận đƣợc, hiện vẫn cịn thiếu vắng những cơng trình nghiên cứu so sánh đối chiếu về tên ngƣời Anh và ngƣời Việt nĩi chung và đặc biệt là tên nữ giới nĩi riêng. Từ những lí do nêu trên, để giúp ngƣời Anh và ngƣời Việt, đặc biệt là ngƣời học và nghiên cứu về hai ngơn ngữ này hiểu đƣợc những đặc điểm ngơn ngữ, văn hố, xã hội hàm chứa trong tên nữ giới, chúng tơi chọn vấn đề “Đối chiếu tên riêng nữ giới người Anh và người Việt” làm đề tài luận án. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Thơng qua việc khảo sát và đối chiếu tên riêng (chính danh) nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt, mục đích của luận án là gĩp phần hệ thống những lí luận 1 về tên riêng nĩi chung, tên nữ giới nĩi riêng và làm rõ những điểm tƣơng đồng và dị biệt về cấu tạo, ý nghĩa và văn hĩa - xã hội đƣợc phản ánh qua tên nữ giới ở hai ngơn ngữ. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nhƣ trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ chủ yếu nhƣ sau: - Xây dựng hệ thống cơ sở lí thuyết cho tồn bộ nghiên cứu thơng qua điểm luận một số vấn đề lí thuyết quan trọng về danh xƣng học, tên riêng, tên ngƣời nĩi chung và tên nữ giới nĩi riêng và lí thuyết về so sánh đối chiếu. - Miêu tả, phân tích các đặc điểm cấu tạo tên riêng nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt. Từ đĩ, phân tích đối chiếu để tìm ra những nét tƣơng đồng và dị biệt về cấu tạo trong tên riêng nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt. - Miêu tả, phân tích đặc điểm ngữ nghĩa trong tên riêng nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt. Từ đĩ, phân tích đối chiếu để tìm ra những tƣơng đồng và dị biệt về nghĩa, cũng nhƣ về văn hĩa – xã hội phản ánh qua tên riêng nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt. 2. 3. Đối tƣợng và phạm vi và ngữ liệu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là tên chính danh của nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt, trong đĩ bao gồm cả phần tên họ, tên đệm và tên cá nhân. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ giới hạn ở việc phân tích tên (chính danh) của nữ giới ngƣời Anh tại Anh (England) mà khơng phải tên nữ giới ngƣời Anh trên tồn Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và Bắc Ireland. Đối với tên nữ giới ngƣời Việt, luận án cũng chỉ giới hạn phân tích tên của nữ giới ngƣời Kinh tại Việt Nam. Cách tiếp cận vấn để nghiên cứu của luận án cơ bản là nghiên cứu so sánh đối chiếu đồng đại, để tìm ra sự giống và khác nhau giữa các bình diện đƣợc đƣa vào đối chiếu. Do đĩ, dù nguồn ngữ liệu để phân tích của luận án là nguồn ngữ liệu hiện đại (từ năm 1975 đến nay) nhƣng, luận án vẫn đƣa ra các hiện tƣợng về tên riêng trong lịch sử để cĩ cơ sở phân tích và đƣa ra đƣợc cái nhìn tổng thể về tên nữ giới ngƣời Anh và Việt. Chúng tơi chọn phạm vi này bởi lẽ 2 năm 1975 là một dấu mốc về sự phát triển kinh tế, xã hội ở cả Anh và Việt Nam. 3.3. Ngữ liệu nghiên cứu Nguồn ngữ liệu đƣợc sử dụng để phân tích trong luận án đƣợc chúng tơi thu thập từ danh sách 12.879 tên nữ học viên, sinh viên ngƣời Anh của hai trƣờng đại học ở Anh là Đại học Miền Tây (University of the West of England) và Đại học Cranfied (Cranfied University). Nhờ cĩ mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa Viện Đại học Mở Hà Nội, cũng nhƣ sự giúp đỡ của Hội lƣu học sinh Việt Nam lại Anh nên chúng tơi mới cĩ đƣợc danh sách tên sinh viên ở 2 trƣờng nĩi trên. Đối với nguồn ngữ liệu tiếng Việt, chúng tơi đã thu thập đƣợc danh sách 12.936 tên nữ học viên, sinh viên ngƣời Kinh của 3 trƣờng đại học ở Việt Nam là Viện đại học Mở Hà Nội, Đại học Tây Đơ Cần Thơ và Đại học Mở bán cơng Thành phố Hồ Chí Minh. Lí do chúng tơi chọn 3 trƣờng đại học này vì các trƣờng thuộc các khu vực Bắc, Trung, Nam của Việt Nam. Nhƣ vậy, ngữ liệu thu thập đƣợc mang tính tồn diện về vùng miền của Việt Nam. Đây là những nguồn ngữ liệu đáng tin cậy do các trƣờng cung cấp. 3. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu của luận án và thực hiện các nhiệm vụ đã đặt ra, luận án áp dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp điều tra để tổng hợp nguồn ngữ liệu tên nữ học viên, sinh viên tại các trƣờng đại học ở Anh và Việt Nam; - Phương pháp miêu tả để miêu tả các đặc điểm về cấu tạo và đặc điểm ngữ nghĩa của từng thành phần định danh (tên họ, tên đệm, tên cá nhân) trong tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt; - Phương pháp so sánh đối chiếu để tìm ra điểm tƣơng đồng và dị biệt về cấu tạo, ngữ nghĩa và văn hĩa - xã hội đƣợc phản ánh qua tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt; - Phương pháp nghiên cứu liên ngành đƣợc tận dụng để thấy đƣợc mối liên hệ giữa đặc trƣng ngơn ngữ với các thuộc tính văn hĩa - xã hội đƣợc phản ánh. 3 Ngồi ra, để thực hiện luận án một cách khoa học và chính xác luận án cịn áp dụng thủ pháp thống kê định lƣợng, kết hợp với phân tích định tính, mơ hình hĩa, lập bảng biểu để đƣa ra kết quả phân tích nghiên cứu. 4. 5. Đĩng gĩp mới về khoa học của luận án Chúng tơi hi vọng luận án này sẽ giúp cho những ngƣời làm cơng tác nghiên cứu ngơn ngữ hiểu sâu hơn về đặc điểm ngơn ngữ thể hiện ở tên chính danh nữ giới ngƣời Anh và nữ giới ngƣời Việt cùng với những nét văn hố - xã hội hàm chứa trong đĩ. Đồng thời, luận án cũng sẽ giúp cho những ngƣời làm cơng tác biên - phiên dịch, giảng viên và sinh viên học tiếng Anh đƣợc mở rộng hiểu biết hơn về vấn đề này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án dự kiến sẽ cĩ những đĩng gĩp cả về lý luận và thực tiễn nhƣ sau: Về lý luận, các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ gĩp phần làm sáng tỏ những đặc trƣng của nhân danh học nữ giới cả về mặt ngơn ngữ lẫn văn hố - xã hội. Về thực tiễn, các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cĩ đĩng gĩp nhất định cho cơng tác nghiên cứu ngơn ngữ, cơng tác dạy và học ngơn ngữ và văn hố Anh, Việt của giảng viên, sinh viên, nghiên cứu viên của các viện nghiên cứu, các trƣờng đại học và những ngƣời yêu thích ngơn ngữ văn hố Anh, Việt. 7. Bố cục của luận án Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và trích dẫn, nội dung chính của luận án đƣợc cấu trúc thành ba chƣơng nhƣ sau: CHƢƠNG 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của luận án CHƢƠNG 2: Đối chiếu đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt CHƢƠNG 3: Đối chiếu đặc điểm ngữ nghĩa và văn hĩa - xã hội phản ánh qua tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt. 4 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN Ở chƣơng này, luận án tập trung vào việc tổng quan tình hình nghiên cứu tên ngƣời Anh, tên ngƣời Việt nĩi chung và tên nữ giới ngƣời Anh, tên nữ giới ngƣời Việt nĩi riêng. Chúng tơi cũng điểm luận một số vấn đề lí thuyết quan trọng về tên riêng, tên ngƣời, tên nữ giới và một số vấn đề liên quan đến so sánh đối chiếu tên nữ giới để làm tiền đề cho tồn bộ luận án. 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu tên người Anh Ở Anh, chuyên ngành khoa học nghiên cứu về tên ngƣời (nhân danh học) mới chính thức ra đời vào cuối thế kỷ XIX, là một nhánh thuộc ngành khoa học nghiên cứu về tên riêng (danh xƣng học). Tuy nhiên, nhân danh học Anh đã phát triển một cách nhanh chĩng và rộng rãi trên nhiều phƣơng diện nhƣ lịch sử học, xã hội học, triết học, văn hĩa học và ngơn ngữ học. 1.1.1.1. Lược sử nghiên cứu tên người Anh Sự ra đời của Tạp chí Nomina – Tạp chí về danh xƣng học vào năm 1977 đã đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của ngành nhân danh học ở Anh. Tạp chí là nơi cơng bố các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu đƣợc chọn lọc từ các hội thảo khoa học thƣờng niên và hội thảo quốc tế về địa danh học và nhân danh học của Anh với các tác giả nổi tiếng nhƣ: Carole Hough, Cecily Clark, Patrick Hanks, Peter McClure, P.H. Reaney, R.M. Wison, [203]. Mục lục tổng thể của 39 số đã phát hành từ năm 1977 đến nay cho thấy, các cơng trình đƣợc cơng bố trên tạp chí đã khai thác chủ đề về tên ngƣời trên nhiều bình diện, đặc biệt thiên về tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa của tên họ ngƣời Anh (surname/family name/last name) – một thành phần định danh quan trọng trong cấu trúc tên ngƣời Anh (Tên cá nhân – Tên đệm – Tên họ). Cũng thiên về tìm hiểu tên họ ngƣời Anh, cĩ nhiều tác giả đã cơng bố các cơng trình nổi bật và thu hút đƣợc giới nghiên cứu nhƣ Barber với cuốn British Family Names, Ewen với cuốn A History of Surnames of British Isles 5 hay Reaney với Origin of English Surnames [97] [127] [180]. Đây là những cuốn sách tiêu biểu cho hàng trăm cơng trình cơng bố về tên họ của ngƣời Anh. Các cuốn sách này đề cập một cách khá chi tiết các đặc điểm về nguồn gốc và lịch sử của tên họ ngƣời Anh. Các tên họ đƣợc liệt kê theo vần, kèm theo giải thích về nguồn gốc và phân tích ý nghĩa của các tên họ đĩ. Các cơng trình nghiên cứu về tên cá nhân ngƣời Anh (given name/first name) cĩ số lƣợng ít hơn và thƣờng đƣợc đề cập đến trong các cơng trình nghiên cứu chung về tên ngƣời Anh, điển hình nhƣ A Short History of English Personal Names của McClure (2016). Trong cuốn sách này, tác giả đã giải thích về nguồn gốc, sự hình thành, phát triển và phân bố của tên ngƣời Anh [165]. Ngồi ra, cuốn sách cịn giới thiệu nguồn gốc phát sinh của rất nhiều tên ngƣời Anh và đề cập khá nhiều đến thĩi quen đặt tên của ngƣời Anh. Cuốn Curiosities of Puritan Nomenclature của Bardsley cũng gây nhiều chú ý [99]. Nội dung cuốn sách này trình bày về cách đặt tên theo Kinh thánh và nguồn gốc, ý nghĩa của các tên thánh hay dùng để đặt tên của ngƣời Anh. Tuy nhiên, tên đệm (middle name) của ngƣời Anh lại là một mảng ít đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong số hàng trăm tài liệu chúng tơi tham khảo cũng nhƣ xét trong danh mục cơng trình cơng bố của các nhà nghiên cứu nổi tiếng về nhân danh học Anh, gần nhƣ khơng cĩ sự xuất hiện của các cơng trình nghiên cứu về tên đệm ngƣời Anh. Sự thiếu quan tâm của các nhà nghiên cứu trong mảng này cũng nhƣ việc khơng sử dụng tên đệm (tên 2 thành phần: tên họ và tên cá nhân) hoặc sử dụng dƣới dạng viết tắt chữ cái đầu tiên của tên đệm cho thấy tên đệm chỉ đƣợc coi là thành phần phụ trong tên ngƣời Anh. 1.1.1.2. Các vấn đề nghiên cứu tên riêng người Anh Qua tìm hiểu sơ lƣợc về lịch sử nghiên cứu tên riêng ngƣời Anh, luận án rút ra một số vấn đề sau: i. Khoa học về tên riêng (danh xưng học) ở Anh - Thứ nhất, về định lượng Theo các danh sách, tài liệu tham khảo mà luận án thu thập đƣợc thì số lƣợng các bài báo, báo cáo khoa học, sách, tài liệu về tên riêng ở Anh rất 6 phong phú. Trong đĩ, phải kể đến các tác giả Carole Hough, Cecily Clark, Patrick Hanks, Peter McClure, các tác giả đều cĩ gần 100 cơng trình cơng bố về tên riêng, đặc biệt là tên ngƣời Anh. Các cơng trình nghiên cứu về tên họ ngƣời Anh cĩ số lƣợng nhiều nhất, cịn các cơng trình nghiên cứu về tên đệm rất ít hoặc gần nhƣ chƣa thấy. Việc đề cập đến tên đệm trong các cơng trình nghiên cứu về tên ngƣời nĩi chung cũng rất hạn chế. Trong các cơng trình nghiên cứu về tên ngƣời Anh (nĩi chung), các cơng trình chuyên nghiên cứu về tên nữ giới Anh chỉ chiếm một phần nhỏ. Cĩ thể thấy số liệu này thể hiện rõ qua số lƣợng các cơng bố về nghiên cứu tên riêng (nhân danh) trong tạp chí Nomina từ năm 1977 đến nay. Trong tổng số 266 bài đƣợc liệt kê trong mục lục chỉ cĩ 02 bài nghiên cứu về tên nữ giới [203]. - Thứ hai, về định tính Các ấn phẩm về tên riêng ngƣời Anh đa dạng ở các thể loại nhƣ sách, bài báo, bài đăng kỷ yếu hội thảo, từ điển, đề tài, dự án khoa học Tiêu biểu là Tạp chí Nomina xuất bản thƣờng niên với các cơng bố về lĩnh vực danh xƣng học của các nhà khoa học nổi tiếng của Anh. Hiện nay, trong lĩnh vực nhân danh học ở Anh, cĩ một hoạt động khoa học nổi bật đĩ là việc triển khai thực hiện dự án nghiên cứu về tên họ ngƣời Anh - Family Names of the UK: A New Research Project in British Anthroponomastics (Tên họ ngƣời Anh: một dự án nghiên cứu mới về nhân danh học) thu hút đƣợc những nhà nghiên cứu hàng đầu về nhân danh học nƣớc Anh [135]. Cơng trình nghiên cứu một cách tồn diện về nguồn gốc, đặc điểm, ý nghĩa và sự phân bố của tên họ trên tồn Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và Bắc Ireland. Dự án cĩ sự gĩp mặt của các nhà nghiên cứu về danh xƣng học nổi tiếng nhƣ Patrick Hanks, Peter McClure, Richard Coates. ii. Các phương diện/gĩc độ nghiên cứu tên người Anh Tên ngƣời Anh vừa là đối tƣợng nghiên cứu đơn ngành, vừa là đối tƣợng nghiên cứu liên ngành. Chẳng hạn, khi tên ngƣời chỉ là đối tƣợng nghiên cứu của ngơn ngữ (đơn ngành) thì sẽ đƣợc nghiên cứu trên các lĩnh 7 vực nhƣ từ vựng, ngữ âm, ngữ pháp. Những cơng trình nổi bật trong lĩnh vực này cĩ thể kể đến nhƣ: The Grammar of the Names của John M. Anderson [96]. Cuốn sách chủ yếu trình bày về hình thái học và cú pháp của tên, trong đĩ chú trọng đến tên ngƣời. Anderson đã nhấn mạnh đến việc tìm hiểu mối quan hệ giữa cấu trúc tên ngƣời, sự phân bố của tên, ngữ nghĩa học và ngữ dụng học của tên ngƣời. Trên bình diện ngữ âm, cơng trình Elizabeth and John: Sound Patterns of Men‟s and Women Names hay Hough với cơng trình Toward an Explanation of Phonetic Differentiation in Masculine and Feminine Personal Names của nhĩm tác giả Culter, McQueen và Robinson đã nghiên cứu chuyên sâu về ngữ âm trong tên nam giới và nữ giới Anh. Các tác giả đã tìm ra những quy luật về ngữ âm học và sự khác biệt về ngữ âm trong tên nam và tên nữ giới ngƣời Anh [120] [144]. Khi tên ngƣời Anh là đối tƣợng của nghiên cứu đa ngành, ngơn ngữ học cĩ thể kết hợp với sử học để nghiên cứu, tìm hiểu về nguồn gốc của tên họ ngƣời Anh, các cơng trình tiêu biểu nhƣ: English Surnames Their Sources and Significations của Bardsley (1875), A History of British Surnames của McKinley (1990), Patterns of Migration in the Late Middle Ages: The Evidence of English Place-name Surnames của McClure (1979), The Origin of English Surnames của Reaney (1980),[98][167][160]. Ngơn ngữ học cĩ thể kết hợp với xã hội học để nghiên cứu về tên riêng và các vấn đề xã hội liên quan mà đặc biệt là việc đổi tên của nữ giới sau khi kết hơn, các cơng trình tiêu biểu nhƣ: The Distinction of Gender? Women‟s Names in the Thirteenth Century của Postles (1996), A Name of One‟s Own: Identity, Choice and Performance in Marital Relationship của Wilson (2009) hay The Making of Selfhood: Naming Decisions on Marriage của Thwaites (2013) [179] [191] [187]. Ngơn ngữ học cĩ thể kết hợp với tơn giáo để nghiên cứu các tên riêng cĩ nguồn gốc từ Kinh thánh, các cơng trình tiêu biểu nhƣ Curiosities of Puritan Nomenclature của Bardsley (1880), Names of Women of the Bible của Ieron (1998),... [99][150]. Từ gĩc độ so sánh đối chiếu, luận án tiến sĩ ngành ngơn ngữ nghiên cứu tại trƣờng Đại học Sussex Anh A Cross-cultural Approach to Personal Naming: Given Names in the Systems of 8 Vietnamese and English, Nguyễn Việt Khoa đã phân tích và so sánh các đặc điểm liên văn hĩa giữa tên cá nhân ngƣời Anh và ngƣời Việt [170]. Đây là một cơng trình nghiên cứu cơng phu, cĩ tính mới và giá trị khoa học cao. Luận án cũng là cơng trình đầu tiên về so sánh giữa tên ngƣời Anh và ngƣời Việt. Tuy nhiên, luận án mới chỉ giới hạn so sánh ở tên cá nhân (given name) mà khơng phải tồn bộ cấu trúc tên ngƣời Anh và ngƣời Việt (tên họ - tên đệm – tên cá nhân). Về cấu tạo tên ngƣời, đây là một chủ đề khơng hẳn đã thu hút đƣợc nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu nhƣ vấn đề ý nghĩa và nguồn gốc của tên. Cĩ một số ít nhà nghiên cứu về vấn đề này điển hình nhƣ John M. Anderson (2007) với The Grammar of Names, trong cuốn sách này, tác giả chủ yếu đề cập đến cấu tạo đơn âm tiết (uncompounded name / monothematic) và đa âm tiết (compounded name / dithematic) của tên ngƣời [96, tr. 88]. Cịn Nguyễn Việt Khoa (2002) cho rằng, tên ngƣời Anh là những tổ hợp định danh đƣợc cấu tạo bởi các danh tố (danh tố tên cá nhân, danh tố họ và danh tố đệm). Danh tố gồm hai loại là danh tố đơn âm tiết và đa âm tiết. Trong đĩ, danh tố đa âm tiết đƣợc chia thành hai loại là danh tố đa âm tiết một thành phần và danh tố đa âm tiết đa thành tố. Tác giả cũng đã tìm ra 12 kiểu cấu trúc với nhĩm tên đơn âm tiết và 12 kiểu cấu trúc ở nhĩm tên đa âm tiết [40, tr. 45-74]. Về ý nghĩa tên ngƣời Anh, Nguyễn Việt Khoa (2002) đã phân loại ý nghĩa các danh tố trong tổ hợp định danh tên ngƣời Anh. Cụ thể nhƣ sau: danh tố tên họ cĩ 5 kiểu phân loại (tên họ đặt theo tên cha, tên họ hình thành từ địa danh và tên họ chỉ nghề nghiệp, tên họ chỉ đặc điểm cá nhân và tên họ cĩ nguồn gốc từ tiếng Anh cổ); danh tố tên cá nhân đƣợc phân loại dựa trên các thành tố từ vựng (49 thành tố) và dựa trên đặc điểm nguồn gốc (9 đặc điểm nguồn gốc); danh tố tên đệm cĩ 4 kiểu phân loại (tên đệm là tên cá nhân thứ hai, tên đệm là tên họ thời con gái của mẹ, tên đệm là tên đệm của cha và tên đệm là tên của những ngƣời mà ngƣời đặt yêu quý) [40, tr.92-136]. 9 1.1.1.3. Tình hình nghiên cứu tên nữ giới ở Anh Tuy các cơng trình nghiên cứu về tên ngƣời Anh nĩi chung cĩ số lƣợng rất lớn và đa dạng, song các cơng trình nghiên cứu về tên riêng nữ giới thì cịn hạn chế. Trong danh mục 38 số tạp chí Nomina kể từ năm 1977 đến nay, chỉ cĩ 02 trong tổng số 266 cơng trình cơng bố về tên nữ giới ngƣời Anh nhƣ: The Name-type Maid(en)well của Hough, C. (2010) hay Naming Welsh Women của Margan, G. [145] [158]. Trƣớc đĩ phải kể đến Carter, với tƣ cách là một nhà văn, nhà thơ, bà đã cho ra đời cuốn sách Lexicon of Ladies Names: With Their Floral Emblems (1865) [106]. Cuốn sách này chủ yếu phân tích ý nghĩa của 162 tên nữ giới trong mối quan hệ với tên của 141 lồi hoa và những ý nghĩa biểu trƣng cho sắc thái, tình cảm phản ánh qua cái tên đĩ. Cuốn sách cung cấp thêm thơng tin về ngơn ngữ của hoa, từ vựng hoa và cĩ cả những bài thơ xen lẫn trong nội dung cuốn sách. Tuy nhiên, cơng trình này mới chỉ nghiên cứu tên nữ trên bình diện ngữ nghĩa, đặc biệt là ý nghĩa liên quan đến các lồi hoa mà chƣa phải là nghiên cứu cĩ tính tổng quát về tên riêng nữ giới ngƣời Anh. Cũng về chủ đề nghiên cứu tên nữ giới ngƣời Anh, Elisabeth Okasha trong Women's Names in Old English (2011) đã nghiên cứu tên riêng nữ giới trong tiếng Anh cổ [173]. Đây là một nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề tên riêng nữ giới thơng qua ngữ liệu là tên nữ trong các tài liệu tiếng Anh cổ và cũng là cơng trình nghiên cứu đầu tiên đƣa ra quan điểm hồn tồn khác so với những quan điểm đã đƣợc cơng nhận trƣớc đây rằng giới tính của mỗi cá thể đƣợc xác định một cách chính xác bởi giới ngữ pháp (grammatical gender) trong tên ngƣời đĩ. Bà phủ nhận chức năng ngữ pháp về giới trong tên ngƣời ở tiếng Anh cổ. Bà cho rằng rất khĩ phân biệt giới trong tên ngƣời ở tiếng Anh cổ. Trong khi đĩ, các nhà nghiên cứu về nhân danh học đƣơng đại cho rằng việc phân biệt giới tính nam và nữ qua tên ngƣời khơng mấy phức tạp. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu này chỉ giới hạn nghiên cứu tên nữ giới ngƣời Anh trong tiếng Anh cổ nên cũng chƣa nĩi đƣợc đầy đủ về tên riêng nữ giới ngƣời Anh. 10 Một bình diện nổi bật trong nghiên cứu tên nữ giới ngƣời Anh đĩ là bình diện ngơn ngữ học xã hội với rất nhiều cơng trình nghiên cứu về tên nữ giới và tình trạng hơn nhân. Gốc rễ của vấn đề nằm ở phong tục đổi tên nữ sau khi kết hơn ở Anh cũng nhƣ nhiều quốc gia châu Âu khác trên thế giới. Cĩ thể kể đến một số cơng trình nhƣ The Distinction of Gender? Women‟s Names in the Thirteenth Century của Postles (1996), A Name of One‟s Own: Identity, Choice and Performance in Marital Relationship của Wilson (2009) hay The Making of Selfhood: Naming Decisions on Marriage của Thwaites (2013) [179] [191] [187]. Các cơng trình đều xoay quanh vấn đề đổi tên của phụ nữ sau khi thay đổi tình trạng hơn nhân nhƣ đổi tên sau kết hơn, đổi tên sau li hơn, đổi tên sau khi chồng mất, Đây là các nghiên cứu liên ngành ngơn ngữ học, triết học, xã hội học, tâm lý họcCác nghiên cứu đã nhấn mạnh đến quyền bình đẳng của phụ nữ đặc biệt là quyền đƣợc giữ lại tên sau kết hơn. Cĩ thể khẳng định tên ngƣời Anh nĩi chung và tên nữ giới ngƣời Anh nĩi riêng là một vấn đề t...ĩa. Ơng cho rằng tên riêng là những kí hiệu thuần túy khơng cĩ nghĩa. Cĩ những tên riêng vốn cĩ nghĩa thì cái nghĩa đĩ thƣờng cũng khơng ai nghĩ đến, nĩ trở thành vơ nghĩa [50]. Trái ngƣợc với trƣờng phái này cĩ Hồng Tuệ, ơng cho rằng tên riêng khơng phải là một con số, một cái nhãn chỉ cĩ tác dụng để phân biệt, mà là một biểu trƣng [82]. Cùng lập trƣờng quan điểm tên riêng cĩ nghĩa, Bình Long cho rằng “ngồi các mặt cấu tạo, chính tả, phát âm và cách dùng khi xƣng hơ, tên riêng của các nƣớc, các dân tộc cịn đáng đƣợc tìm hiểu về mặt nghĩa” [46]. Để đƣa ra quan điểm về vấn đề này, chúng tơi xem xét tên riêng trong trƣờng hợp cụ thể - đĩ là tên ngƣời. Tên ngƣời dùng để gọi tên cho từng cá thể riêng biệt và là phƣơng tiện quan trọng trong giao tiếp để phân biệt giữa cá nhân này với cá nhân khác. Nhƣ vậy, tên ngƣời cĩ nghĩa hay khơng? Về ý nghĩa của tên ngƣời (tên chính danh), Phạm Tất Thắng (1996) cho rằng tên ngƣời là một đơn vị cĩ nghĩa, nĩ mang chức năng biểu đạt (giúp ta nhận biết đƣợc đối tƣợng) và là loại nghĩa hàm chỉ [59, tr.79]. Dựa theo đặc điểm từ vựng – ngữ nghĩa của từ, tên riêng ngƣời Việt cĩ các loại (các 25 trƣờng) nghĩa hàm chỉ sau: sự vật, hiện tƣợng tự nhiên và xã hội, con ngƣời, trạng thái tâm sinh lí của con ngƣời. Dƣơng Kỳ Đức quan niệm nghĩa của tên riêng chỉ ngƣời (nhân danh) là một loại nghĩa văn hàm, phản ánh văn hĩa của một cộng đồng ngƣời. Cụ thể, theo ơng, tên riêng cĩ nghĩa, nhƣng đấy khơng phải là nghĩa khái niệm nhƣ ở thực từ, mà là nghĩa văn hàm. Khác với nghĩa ngữ hiệu là cái biểu đạt khái niệm, cái phản ánh các đặc trƣng chung của đối tƣợng đƣợc con ngƣời nhận thức qua thực tiễn xã hội, nghĩa hàm văn là một hàm tố văn hĩa của từ, chứa đựng động hình văn hĩa, tức là chứa đựng cái cách riêng trong việc tạo ra đối tƣợng hoặc thao tác với nĩ hay trong cảm nhận của nĩ bởi một cộng đồng ngơn ngữ. Với quan niệm đĩ, nghĩa của tên riêng khơng phải chỉ là sự hàm chỉ, mà đƣợc hiểu rộng hơn, nĩ là cái hàm tích động hình văn hĩa, hàm tích cái cách cảm nhận đầy bản sắc của một cộng đồng ngƣời. Chẳng hạn, tên ngƣời Việt hàm tích tín ngƣỡng phồn thực (Bịi, Hĩm,), tín ngƣỡng sùng bái tự nhiên (Mây, Nguyệt, Tuyết, Thu, Xuân,), đề cao nơng nghiệp (Lúa, Bưởi, Chanh, Lụa, Lượt,), sùng bái ngƣời đã chết (kiêng đặt tên trùng với tên tổ tiên), tâm lí dung hợp, hịa điệu (Thảo, Thủy, Ngọc, Nơen, Lêna,) [4]. Sau khi phân tích quan điểm về nghĩa trong tên ngƣời của các nhà khoa học trong và ngồi nƣớc, chúng tơi cho rằng tên ngƣời cĩ nghĩa. Nghĩa ở đây khơng phải hiểu theo cách là tổng hợp các đặc trƣng ngữ nghĩa khái quát hĩa và phản ánh một cách cĩ chọn lọc một tập hợp các sự vật đồng nhất (nhƣ thƣờng thấy ở các thực từ), mà là thơng tin cĩ tính chất lịch sử - văn hĩa hoặc cĩ tính chất xã hội, thƣờng gắn liền với một thời đại nhất định, một cộng đồng xã hội nhất định (họ tộc, tầng lớp, cƣ dân địa phƣơng,) và phản ánh thị hiếu cũng nhƣ tập tục, thĩi quen và các sắc thái tình cảm, cảm xúc. Từ một khía cạnh khác, nếu quan niệm nghĩa của từ là một hình thức tồn tại của ý thức xã hội, phản ánh sự tri nhận theo cách riêng của mỗi cộng đồng ngƣời là chủ thể của ngơn ngữ, thì nghĩa của tên ngƣời khơng phải là nghĩa ngữ hiệu (biểu đạt khái niệm, phản ánh các đặc trƣng chung của loạt đối tƣợng giống nhau đƣợc cộng đồng ngƣời tri nhận) mà là nghĩa văn hàm (chứa đựng các cách riêng 26 trong việc tri nhận một con ngƣời riêng biệt, nhƣ một cá nhân biệt lập, cụ thể). Nhƣ vậy, nghĩa của tên nữ giới đƣợc phân tích trong luận án khơng phải là nghĩa của thực từ mà là nghĩa biểu trƣng theo cách phân tầng nghĩa của Lê Quang Thiêm. Ơng cho rằng “Khởi nguyên nội dung tên riêng khơng nĩi gì về cái đƣợc gọi tên. Một bộ phận tên riêng thể hiện ƣớc muốn, hi vọng cĩ tính văn hĩa – xã hội đƣợc gửi gắm của chủ đặt tên trở thành nội dung nghĩa” [76, tr.125]. Ý nghĩa này do ngƣời đặt tên lựa chọn và mang trong đĩ một ƣớc vọng của ngƣời đặt tên. Khi một ngƣời cĩ tên là Rosy (tên nữ giới ngƣời Anh) hay Hồng (tên nữ giới ngƣời Việt) khơng cĩ nghĩa ngƣời đƣợc đặt tên đĩ là một bơng hồng mà cái tên đĩ gợi lên ý nghĩa về một lồi hoa đẹp, cĩ thể mang trong tên đĩ là ƣớc vọng, mong muốn của ơng bà, cha mẹ về một ngƣời con gái đẹp tựa nhƣ hoa. Quan điểm này cĩ nhiều nét tƣơng đồng với Nguyễn Văn Khang “Nghĩa của tên riêng khơng hồn tồn độc lập với nghĩa từ vựng của những từ ngữ dùng làm tên riêng mà nghĩa của tên riêng đƣợc xây dựng trên cơ sở nghĩa hay là đƣợc gợi ra từ nghĩa của từ” [39, tr.40]. Cũng về vấn đề này nhƣng dƣới gĩc nhìn của ngơn ngữ học tri nhận, Trần Văn Cơ cho rằng nghĩa biểu trƣng là kết quả của quá trình con ngƣời sử dụng ngơn ngữ để biểu tƣợng hĩa. Trong quá trình tri nhận thế giới khách quan, ngồi khái niệm là trung tâm của bức tranh khoa học về thế giới, con ngƣời cịn tạo ra một thế giới nữa, nằm giữa thế giới khách quan và con ngƣời, đĩ là thế giới trung chuyển. Thế giới này bao gồm những cảm nhận và tƣởng tƣợng của con ngƣời. Để tạo ra thế giới trung chuyển này, con ngƣời phải thực hiện việc biểu trƣng hĩa, làm cho khách thể trong thế giới khách quan cĩ đƣợc những thuộc tính của chủ thể, cịn chủ thể cĩ đƣợc những thuộc tính của khách thể [7, tr. 112-119]. Chẳng hạn các vị thần thánh nhƣ Ngọc Hồng, Bồ Tát, ơng Địa, cơ tiên, mụ phù thủy, đều cĩ hình hài nhƣ con ngƣời và họ cũng vui buồn, nổi giận,nhƣ con ngƣời. Cịn những ngƣời con gái thì cũng mảnh mai, yếu đuối nhƣ cây liễu, cây đào (phận liễu yếu đào tơ) và họ cƣời tƣơi tắn nhƣ bơng hoa nở, ăn nĩi nhỏ nhẹ nhƣ tiếng ngọc va nhau 27 (hoa cƣời ngọc thốt đoan trang). Trong lĩnh vực tên riêng ở Việt Nam, để biểu trƣng hĩa cho ƣớc vọng về con cái mình, muốn chúng sau này cĩ đức tính tốt, họ đặt tên con là Hạnh, Thảo,, muốn con mang vẻ cao quý, cao sang, họ đặt tên Châu, Ngọc,, muốn chúng cĩ dung nhan khả ái, họ đặt tên Lệ, Mỹ, Diễm, 1.2.2. Vấn đề giới trong ngơn ngữ học Tên nữ giới là đối tƣợng của ngơn ngữ học và đƣợc nghiên cứu trong một chuyên ngành riêng biệt đĩ là mơn tên riêng hay Nhân danh học (Anthroponomastics). Tên nữ giới chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống tên riêng, chính vì thế trong “Từ loại danh từ trong Tiếng Việt hiện đại”, Nguyễn Tài Cẩn (1975) đã xem tên ngƣời (trong đĩ cĩ tên nữ giới) là “mảng quan trọng nhất” trong tên riêng Việt Nam [2]. Nhƣ vậy, về tổng thể, tên nữ giới là một bộ phận của Nhân danh học. Tên nữ giới trong hệ thống tên riêng của mỗi ngơn ngữ khơng chỉ thể hiện đặc trƣng của ngơn ngữ đĩ mà cịn thể hiện những khía cạnh văn hố xã hội đƣợc phản ánh thơng qua nĩ. Tên nữ giới thuộc loại tên riêng, là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống từ vựng của ngơn ngữ học. Tên nữ giới thuộc hệ thống tên ngƣời, do đĩ tên nữ giới cũng gồm các bộ phận nhƣ âm, hình, nghĩa...mà các bộ phận này đều cĩ liên quan tới ngữ âm học, từ vựng học, ngữ nghĩa học, phƣơng ngơn học, tu từ học...thuộc phạm vi của ngành ngơn ngữ học. Khi nghiên cứu nhân danh học, các nhà nghiên cứu cĩ thể tìm hiểu đƣợc những vấn đề liên quan nhƣ lịch sử, kết cấu, quá trình phát triển hay diễn biến của ngơn ngữ, thực tiễn của ngơn ngữ... những vấn đề đƣợc nêu trên đều là những vấn đề đang đƣợc nghiên cứu trong phạm vi ngơn ngữ học. Trong hệ thống ngơn ngữ, tên nữ giới thuộc lớp từ vựng tên riêng. Trong tên riêng chỉ ngƣời (thuộc bộ mơn nhân danh học) cĩ nhiều loại tên khác nhau nhƣ pháp danh, hiệu danh, nghệ danh, biệt danh, bút danh, bí danh, tên hiệu, tên tự, tên thụy, tên tục, tên chínhNhững tên gọi khác nhau này khơng chỉ mang theo nhiều ý nghĩa lịch sử, truyền thống, văn hĩa của cả cộng đồng nĩi chung mà nĩ cịn phản ánh đặc điểm tâm lý, tính thẩm mỹ của mỗi cá nhân. 28 Các loại tên này giúp ta xác định tƣơng đối rạch rịi các giai đoạn lịch sử khác nhau, thành phần xã hội khác nhau, tơn giáo khác nhau Nếu xét ngơn ngữ học là một chỉnh thể thì tên nữ giới là một bộ phận, nhƣng bộ phận khơng hồn tồn nằm trong chỉnh thể vì bộ phận đĩ cịn bị ảnh hƣởng bởi nhiều yếu tố khác nhƣ lịch sử, truyền thống văn hĩa, xã hội. Do đĩ, khi nghiên cứu về tên nữ giới, khơng chỉ nghiên cứu về phƣơng diện từ vựng nĩi chung mà cần phải đặt trong mối quan hệ với các ngành khoa học xã hội khác. Điều này cĩ thể thấy khi nghiên cứu về cấu tạo của tên nữ giới, tuy khơng phải là đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của ngơn ngữ học xã hội hay sử học nhƣng những thay đổi trong cấu tạo của tên nữ giới trong những giai đoạn lịch sử và xã hội khác nhau lại phản ánh những đặc trƣng văn hĩa, lịch sử, xã hội ở những giai đoạn đĩ. Ví dụ, ở Việt Nam vào thế kỷ 18, 19 khi tiếng Hán cĩ những ảnh hƣởng mạnh mẽ trong xã hội, cĩ nhiều văn tự chính thức viết bằng chữ Hán nên đa phần tên nữ giới thời kỳ đĩ xuất phát là những từ Hán – Việt. Đến cuối thể kỷ 19, chữ quốc ngữ xuất hiện, tên thuần Việt đƣợc sử dụng nhiều hơn. Hay trƣớc năm 1975, ngƣời Việt cĩ xu thế đặt tên cĩ phân biệt giới tính rõ ràng qua cách đặt tên đệm cho nam là Văn và nữ là Thị. Theo Dƣơng Xuân Đống (2002) hai chữ này đƣợc sử dụng rộng rãi trong việc làm tên đệm trong tên ngƣời Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Văn nghĩa là người cĩ học, nhà nho. Thị cĩ nghĩa là đàn bà [11, tr.23]. Tuy nhiên, cách phân biệt giới tính thơng qua tên gọi này khơng cịn đƣợc ngƣời thời nay ƣa chuộng lắm. Do đĩ, ngƣời Việt nay cĩ khuynh hƣớng chọn những tên đệm khác mang tính thẩm mỹ cao hơn và cĩ sự kết hợp ý nghĩa sâu sắc hơn với tên họ và tên cá nhân. Cịn ở Anh, tỉ lệ đổi tên họ theo họ chồng sau khi kết hơn của phụ nữ Anh cũng thay đổi theo xu hƣớng ngày càng giảm đi do phong trào nữ quyền địi hỏi quyền bình đẳng cho phụ nữ nổi lên mạnh mẽ ở các nƣớc châu Âu. Nhƣ vậy, khi nghiên cứu về tên ngƣời khơng chỉ nghiên cứu về mặt ngơn ngữ học mà phải đặt đối tƣợng nghiên cứu trong tƣơng quan với các ngành khoa học khác. 29 1.2.2.1. Mối liên hệ giữa ngơn ngữ và giới Tác giả Nguyễn Văn Khang (1996) đã phân biệt hai gĩc độ chính để nhìn vấn đề giới trong giao tiếp ngơn ngữ, đĩ là: Ngơn ngữ nĩi về mỗi giới và ngơn ngữ của mỗi giới. Tuy nhiên, phần ngơn ngữ về mỗi giới, tác giả mới chỉ dừng lại ở một nhận xét duy nhất là những từ nhất định chỉ dùng cho giới này hoặc giới kia mà thơi. Ở phần ngơn ngữ của mỗi giới thì tác giả đã chỉ ra rằng: “sự diễn đạt, cách sử dụng ngơn ngữ khác nhau của hai giới để biểu thị cùng một vấn đề, cùng một nội dung giao tiếp” [34]. Tác giả Nguyễn Văn Khang cũng đã đề cập đến những vấn đề ngơn ngữ cĩ liên quan đến giới, đặc biệt tác giả nhấn mạnh về “sự phân biệt đối xử về giới tính thể hiện trong ngơn ngữ”. Theo tác giả thì 04 biểu hiện của sự phân biệt đối xử về giới đĩ là: - Sự biểu hiện ở mặt cấu tạo từ: hàng loạt từ đƣợc cấu tạo cĩ yếu tố “man/ đàn ơng” đã phản ánh vị thế xã hội nam quyền trong tiếng Anh. - Dùng đại từ he/his để thay cho she/her trong tiếng Anh. - Sự phân biệt đối xử về giới thể hiện trong sự giao tiếp ngơn ngữ: nhƣ việc sử dụng thiếu cân xứng các danh hiệu nhƣ Mr, Mrs, Miss, quan niệm khơng cân bằng về những tập hợp từ nhƣ unwed mother (mẹ ngồi giá thú) và unwed father (cha ngồi giá thú)trong tiếng Anh. - Việc đánh giá về lời nĩi của từng giới: cách nhìn nhận khác nhau về lời nĩi của từng giới [35]. Nhƣ vậy, giữa ngơn ngữ và giới cĩ sự quan hệ mật thiết với nhau. Xã hội đã phân ra giới nam và giới nữ. Ngơn ngữ cũng nhƣ vậy, cũng phân định rõ ngơn ngữ dành cho nam giới và ngơn ngữ dành cho nữ giới. Tên ngƣời là một bộ phận của ngơn ngữ. Dù khơng cĩ những qui định nghiêm ngặt nhƣng phần lớn rất dễ nhận biết đâu là tên của nam giới và đâu là tên của nữ giới trừ một số trƣờng hợp đặc biệt. 1.2.2.2. Tên nữ giới trong ngơn ngữ học xã hội Xã hội học là ngành khoa học đề cập tới các chủ thể xã hội, các quá trình xã hội. Trong đĩ, ngơn ngữ cũng là một hiện tƣợng xã hội. Sự biến đổi của ngơn ngữ chịu sự ảnh hƣởng của các nguyên nhân về kinh tế, văn hĩa, xã hội 30 cũng nhƣ những ảnh hƣởng của tơn giáo, phong tục, tập quán của xã hội đĩ. So với tên chung thì tên riêng và đặc biệt là tên nữ giới cĩ lẽ phản ánh một cách khá rõ nét những biến động của các yếu tố xã hội. Việc đặt tên ngƣời cũng giống các hiện tƣợng ngơn ngữ học khác đều chịu những ảnh hƣởng khơng nhỏ của đặc trƣng giai cấp. Trong cuốn Ngơn ngữ học xã hội – Những vấn đề cơ bản, Nguyễn Văn Khang đã chỉ ra rằng: “bản thân ngơn ngữ khơng cĩ tính giai cấp, nhƣng những giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau cĩ ảnh hƣởng tới việc sử dụng ngơn ngữ và làm cho ngơn ngữ trong sử dụng vừa phản ánh vừa mang tính đặc thù giai cấp hoặc đặc thù của tầng lớp xã hội nào đĩ. Đây chính là nguyên nhân nảy sinh ra sự phân tầng xã hội trong sử dụng ngơn ngữ”[35]. Nhƣ vậy, tên ngƣời mà cụ thể ở đây là tên nữ giới đều chịu những ảnh hƣởng của các yếu tố xã hội nhƣ nghề nghiệp, trình độ văn hĩa, kinh tế, mơi trƣờng sống. Theo khảo sát của Vũ Thị Kim Thoa (2005), tên đệm Thị trong cấu trúc tên của nữ nơng dân chiếm 97,75 %, trong đĩ tên đệm này chỉ chiếm 77% ở nữ cơng nhân và giảm xuống cịn 53 % ở tên của nữ trí thức. Đối với tên cá nhân, số lƣợng tên đơn của nữ nơng dân chiếm 99,6 %, nữ cơng nhân chiếm 89,2% và nữ trí thức chiếm 62,9 % [79, tr.66]. 1.2.2.3. Tên nữ giới và vấn đề giới Trong hệ thống tên riêng chính danh của các ngơn ngữ, tên riêng của nữ giới cũng đĩng vai trị rất quan trọng. Theo tác giả Nguyễn Văn Khang “Phƣơng ngữ giới tính là một biểu hiện của sự phân chia hai nửa đàn ơng và đàn bà trong xã hội. Là cơng cụ quan trọng bậc nhất của con ngƣời, ngơn ngữ khơng chỉ cĩ chức năng phản ánh thực tại xã hội mà cịn cĩ chức năng củng cố và duy trì tồn tại xã hội” [38, tr.245]. Do đĩ, việc nghiên cứu tên nữ giới gĩp phần làm phong phú thêm khía cạnh nào đĩ trong ngơn ngữ học xã hội về giới. Trần Xuân Điệp đã cho rằng: “Ngồi chức năng đánh dấu giới, tên riêng của con trai và con gái thƣờng phản ánh những đặc điểm rập khuơn về tính nam và tính nữ phổ biến trong một nền văn hĩa hay một xã hội nhất định. Chẳng hạn những em trai thƣờng đƣợc đặt những tên cĩ nghĩa liên tƣởng tới những khái niệm nhƣ: sức mạnh, quyền lực, lịng can đảm trong khi đĩ tên 31 của các em gái thƣờng phản ánh sự uyển chuyển, sắc đẹp (đặc điểm cơ thể, lồi hoa đẹp, đồ trang sức), tính kiên nhẫn, niềm hy vọng, sự phục tùng (đức tính)” [9, tr.91]. Nhƣ vậy, tên của nam giới thƣờng gắn với những từ cĩ ý nghĩa biểu trƣng cho sự mạnh mẽ, thành cơng nhƣ: Hùng, Cường, Dũng, Thắng, ChiếnTrong khi đĩ, tên của nữ giới thƣờng gắn với những từ cĩ nghĩa biểu trƣng cho sắc đẹp, sự tao nhã nhƣ Hiền, Hoa, Hạnh, Dung, Lan, Tuyết... Tuy nhiên, ngồi những từ ngữ miêu tả vẻ đẹp để dùng đặt tên cho nữ thì cũng cĩ những từ ngữ biểu thị sự yếu ớt, kém cỏi nhƣ Mẹt, Thị Mẹt, Tẹt, Đĩ, Một nét tiêu biểu trong việc phân biệt giới tính trong tên ngƣời Việt Nam đĩ là tên đệm Văn dùng cho nam giới và tên đệm Thị dùng cho nữ giới. Theo Huard & Durand (1992), Thị vốn đƣợc dùng để đặt tên nữ giới vì đĩ là lời ƣớc nguyện mong cĩ đơng con nhiều cháu, cịn Văn đƣợc dùng cho nam giới diễn tả mong ƣớc đỗ đạt cao [148]. Về vấn đề tên đệm cho từng giới, Trần Xuân Điệp cho rằng: Văn và Thị cĩ thể đƣợc xem là dấu hiệu về tính kì thị giới tính trong tên truyền thống của ngƣời Việt (). Sở dĩ Văn và Thị cĩ ý nghĩa kỳ thị giới là do xã hội truyền thống của Việt Nam vốn mang nặng tính phụ hệ nên quan niệm phụ nữ chỉ cĩ bổn phận sinh con đẻ cái, cịn quyền đƣợc học hành đỗ đạt cao phải thuộc về nam giới” [9, tr. 95]. 1.2.2.4. Chức năng của tên nữ giới Cũng nhƣ tên riêng của nam giới, tên riêng của nữ giới cũng mang đầy đủ những chức năng của tên riêng chỉ ngƣời. Tác giả Đỗ Hữu Châu (1981) cho rằng tên riêng cĩ chức năng xƣng hơ [5]. Tác giả Đào Tiến Thi thì cho rằng tên riêng cĩ chức năng duy trì bản sắc văn hĩa [72, tr.21-23]. Cịn theo Trần Ngọc Thêm, họ và tên ngƣời Việt Nam cĩ 5 chức năng: (1) Chức năng phân biệt: đây là chức năng chính, chủ đạo. Bởi vì tên gọi nĩi chung xuất hiện là do nhu cầu phân biệt. (2) Chức năng phân biệt giới (phân biệt nam, nữ): Sự phân biệt này mạnh hay yếu tùy thuộc vào những đặc trƣng về ngơn ngữ, tập quán của mỗi dân tộc. 32 (3) Chức năng thẩm mỹ: là chức năng tồn tại trong tên gọi của mọi dân tộc. Việc đặt tên ngƣời cũng thể hiện những thị hiếu riêng. (4) Chức năng bảo vệ: chọn tên để tránh những tai họa hay để đƣợc thần linh phù hộ. (5) Chức năng xã hội: trong xã hội cũ giữa các tầng lớp vua quan với dân thƣờng cĩ sự phân biệt rõ rệt [68, tr.12-13]. Trong khi đĩ, Lê Trung Hoa (2002) thì cho rằng tên riêng chỉ cĩ 2 chức năng đĩ là: chức năng phân biệt và chức năng thẩm mỹ. (1) Chức năng phân biệt để phân biệt ngƣời này với ngƣời khác. Riêng tên chính và tên đệm cĩ chức năng phân biệt giới tính. (2) Chức năng thẩm mỹ: tên đệm, tên chính, bút danh, nghệ danh, pháp danhcĩ chức năng thẩm mỹ rất rõ vì thƣờng đƣợc lựa chọn rất kỹ về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa [27, tr.19]. Tuy nhiên, chúng tơi cho rằng trong năm chức năng của tên ngƣời theo cách phân tích của Trần Ngọc Thêm thì chức năng phân biệt (1) và chức năng phân biệt giới (2) cĩ phần trùng lặp, khơng cần thiết phải tách riêng. Xét ở khía cạnh nào đĩ thì chức năng xã hội (5) đã bao hàm chức năng bảo vệ (4). Cịn theo cách phân tích của Lê Trung Hoa chỉ cĩ 2 chức năng, theo chúng tơi việc phân tích hai chức năng nhƣ vậy chƣa đủ khái quát hết các chức năng của tên riêng chỉ ngƣời nĩi chung và tên riêng nữ giới nĩi riêng. Do đĩ, chúng tơi cho rằng tên nữ giới cĩ 3 chức năng nhƣ sau: i. Chức năng phân biệt: để phân biệt ngƣời nữ này với ngƣời nữ khác, ví dụ: Sam, Louisa, Anne, (trong tiếng Anh) hay Hà, Phương, Thu, (trong tiếng Việt); hay phân biệt giới tính nam và nữ ở tên đệm và tên cá nhân ở tên ngƣời Việt là tên đệm Văn dành cho nam giới và tên đệm Thị dành cho nữ giới. Ngồi tên đệm Thị, qua khảo sát, chúng tơi thấy cịn những tên đệm khác cũng dành riêng cho nữ nhƣ Thùy, Thúy, Diễm ii. Chức năng thẩm mỹ: khi đặt tên con gái, bố mẹ thƣờng chọn những từ hay, mang nghĩa biểu trƣng thể hiện sự đẹp đẽ, tốt lành hay đức tính tốt đẹp với mong ƣớc con gái lớn lên cĩ cái tên hay, tên đẹp gắn suốt cuộc đời nhƣ: 33 Lily, Rosy, Julie,(trong tiếng Anh) và Hoa, Tuyết, Diễm, (trong tiếng Việt). iii. Chức năng xã hội: mỗi giai đoạn lịch sử xã hội khác nhau cĩ những cách đặt tên khác nhau mang theo những định kiến xã hội khác nhau, ví dụ: trong xã hội phong kiến, tên nữ chịu ảnh hƣởng của tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ nên cĩ tên xấu nhƣ Hĩm, Đẹt, Mẹt; Chức năng xã hội cịn thể hiện ở tên của những tầng lớp, giai cấp xã hội và vùng miền khác nhau nhƣ tên nữ ở vùng nơng thơn, con của nơng dân ít học thì thƣờng dùng từ thuần Việt đặt tên nhƣ Lúa, Dâu, Mì, Bưởi, cịn ở những gia đình cĩ học ở thành thị thì thƣờng dùng những từ Hán Việt mang ý nghĩa tƣợng trƣng cho cái đẹp nhƣ: Nguyễn Xuân Lan, Phan Thu Thủy, Lê Bạch Tuyết; Chức năng xã hội cịn thể hiện ở xu hƣớng đặt tên, chọn tên cho hợp tuổi, hợp số mệnh với hi vọng cái tên mang lại những điều tốt đẹp cho tƣơng lai. 1.2.3. Nghiên cứu đối chiếu tên riêng nữ giới người Anh và người Việt Phạm vi của ngơn ngữ học đối chiếu là rất rộng, bao quát nhiều ngơn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, việc đối chiếu thƣờng đƣợc thực hiện với từng cặp ngơn ngữ để thấy đƣợc những tƣơng đồng và dị biệt của mỗi ngơn ngữ thuộc dân tộc tƣơng ứng. Theo Lê Quang Thiêm, “Nghiên cứu đối chiếu giúp ta xác định cái giống nhau và khác nhau của các ngơn ngữ về mặt cấu trúc, hoạt động và sự phát triển của chúng” [77, tr. 41]. Cũng theo ơng “những nghiên cứu theo loại này mang tính chất xuyên ngữ và liên/xuyên văn hĩa, nghĩa là việc nghiên cứu bao giờ cũng liên đới với hai ngơn ngữ, đồng thời hai nền văn hĩa. Vốn bản thân sự tồn tại của ngơn ngữ ở dạng tĩnh (hệ thống cấu trúc) hay dạng động (hành vi ngơn ngữ trong hành chức, trong hoạt động) bao giờ cũng bị chế định bởi thuộc tính ngơn ngữ và văn hĩa” [77]. Vì vậy, việc tìm ra những tƣơng đồng và dị biệt phải xuất phát từ các đặc trƣng của ngơn ngữ rồi mới đến các đặc trƣng về văn hĩa – xã hội. Trong luận án, việc đối chiếu tên riêng nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt cũng đi theo logic này. Để tiến hành đối chiếu hai ngơn ngữ, điều cần thiết là phải xác lập cơ sở đối chiếu và phạm vi đối chiếu. Thực chất, xác lập cơ sở đối chiếu là xác định đối tƣợng nghiên cứu cụ thể, định rõ các đặc điểm đối tƣợng và định 34 hƣớng các hoạt động, các bƣớc nghiên cứu nhất định. Những điểm giống nhau, khác nhau của đối tƣợng khảo sát đƣợc coi là những cơ sở để đối chiếu. Việc xác lập phạm vi đối chiếu cũng là một khâu rất quan trọng trong quá trình đối chiếu. Việc chọn ngơn ngữ đối chiếu cĩ hai khả năng chính đĩ là: (i) Lấy một ngơn ngữ làm cơ sở, đây chính là đối tƣợng cần phân tích và làm rõ. Ngơn ngữ cịn lại đƣợc coi là phƣơng tiện, là điều kiện để làm rõ các đặc điểm của ngơn ngữ cơ sở, (ii) Cả hai ngơn ngữ đều đƣợc chú ý nhƣ nhau. Trong luận án, chúng tơi sử dụng khả năng thứ nhất đĩ là lấy tên nữ giới ngƣời Anh là cơ sở và tên nữ giới ngƣời Việt là phƣơng tiện để đối chiếu. Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu của luận án cơ bản là nghiên cứu so sánh đối chiếu đồng đại, để tìm ra sự giống và khác nhau giữa các bình diện đƣợc đƣa vào đối chiếu. Với cách tiếp cận này, Hồng Phê đã cho rằng “Đồng đại là trạng thái ngơn ngữ ở một thời điểm nhất định trong quá trình phát triển của nĩ đƣợc ý thức nhƣ là một hệ thống các yếu tố cùng tồn tại đồng thời, cĩ liên quan với nhau và chế định lẫn nhau. Trạng thái này đƣợc chia tách ra là theo quy ƣớc nhƣ một phƣơng pháp nghiên cứu, trong đĩ, ngơn ngữ ở tại một điểm nào trong tiến trình phát triển của nĩ, đƣợc giả định nhƣ ngơn ngữ ở trạng thái tĩnh, khơng cĩ những biến đổi nội tại trong bản thân nĩ” [51]. Nhƣ đã nĩi ở Phần mở đầu, chúng tơi phân tích tên (chính danh) của nữ giới ngƣời Anh tại Anh (England) mà khơng phải tên ngƣời Anh trên tồn Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và Bắc Ireland. Luận án chỉ giới hạn nhƣ vậy vì nƣớc Anh là một quốc gia rộng lớn và đơng dân nhất thuộc Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và Bắc Ireland với dân số chiếm hơn 84% tổng số dân và chiếm phần lớn diện tích của quốc đảo Anh. Đối với tên nữ giới ngƣời Việt, chúng tơi phân tích tên (chính danh) của nữ giới ngƣời Kinh tại Việt Nam. Lí do là vì dân tộc Kinh là dân tộc chiếm đa số, khoảng 86,2% tổng dân số của Việt Nam. Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu của luận án cơ bản là nghiên cứu so sánh đối chiếu đồng đại. Do đĩ, nguồn ngữ liệu để phân tích của luận án là nguồn ngữ liệu hiện đại (học viên, sinh viên cĩ năm sinh từ năm 1975 đến nay). Chúng tơi chọn phạm vi thời gian này bởi lẽ năm 1975 là một dấu mốc về sự phát triển kinh tế xã hội ở cả Anh và Việt Nam. Ở Anh từ thập niên 70, nền 35 kinh tế đã bắt đầu cĩ sự dịch chuyển lớn. Cơ cấu kinh tế của nƣớc Anh dần rút khỏi ngành cơng nghiệp chế tạo và gia tăng cơng nghiệp dịch vụ. Nhƣ một phần của Vƣơng quốc Anh, nƣớc Anh đã gia nhập một thị trƣờng chung đƣợc gọi là Cộng đồng Kinh tế châu Âu và phát triển thành Liên minh châu Âu. Về chính trị, giai đoạn này quản lí hành chính ở Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và bắc Ireland đổi theo hƣớng chuyển giao quyền lãnh đạo tại Scotland và Bắc Ireland cịn Anh và Wales tiếp tục tồn tại nhƣ một thực thể pháp lý thuộc Vƣơng quốc Anh. Sự duy trì về quản lí hành chính đã dẫn tới một sự nhấn mạnh về bản sắc và lịng yêu nƣớc riêng biệt của ngƣời Anh đối với Vƣơng quốc Anh [202]. Cịn ở Việt Nam, năm 1975 là một dấu son chĩi lọi trong lịch sử dân tộc. Khi đĩ, miền Nam đƣợc giải phĩng, đất nƣớc hồn tồn thống nhất. Cũng từ mốc lịch sử này, nền kinh tế xã hội Việt Nam bắt đầu bƣớc vào giai đoạn phát triển mới. Sự thay đổi trong nền kinh tế, xã hội cĩ ảnh hƣởng sâu sắc và cũng đƣợc thể hiện rõ nét qua những những thay đổi trong ngơn ngữ và văn hĩa ở cả Anh và Việt Nam. Đồng đại là một khái niệm rộng, xét về thời gian cĩ thể hàng thế kỷ cũng cĩ thể chỉ là vài chục năm. Theo quan điểm của Lê Quang Thiêm, “ranh giới đồng đại và lịch đại trong ngơn ngữ học chỉ là một đƣờng ranh giới tƣơng đối. Trong bản thân ngơn ngữ, đồng đại và lịch đại tồn tại khơng tách rời nhau, đĩ là hai mặt của một quá trình, hai pha kế tiếp nhau: diễn biến, tồn tại” [74, tr.46]. Cũng cĩ những quan điểm tƣơng tự nhƣ vậy, Nguyễn Thiện Giáp cho rằng “cần phân biệt đồng đại và lịch đại, nhƣng việc nghiên cứu trạng thái hiện đại của ngơn ngữ khơng thể tách rời hồn tồn với việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của tồn hệ thống cũng nhƣ các yếu tố riêng biệt của nĩ. Cả hình thức lẫn ý nghĩa của từ đều là cơ sở nghiên cứu từ vựng của một ngơn ngữ hiện đại” [18, tr 44]. Nhƣ vậy, mặc dù phân tích nguồn ngữ liệu hiện đại (nữ học viên, sinh viên cĩ năm sinh từ 1975 trở lại đây) nhƣng luận án vẫn đƣa ra các hiện tƣợng về tên riêng trong lịch sử để cĩ cơ sở phân tích và đƣa ra cái nhìn tổng thể về tên nữ giới ngƣời Anh và Việt. Trong một giai đoạn nhất định, cĩ thể nhận thấy những biến động, thay đổi trong mối quan hệ giữa nhân danh với lịch sử, văn hĩa, xã hội và cả những 36 thay đổi trong chính nội hàm của nhân danh. Những thay đổi đĩ vẫn là biến đổi trong phạm vi đồng đại mà khơng phải là biến động trong so sánh lịch sử. Luận án sẽ triệt để sử dụng so sánh đồng đại này trong phân tích văn hĩa - xã hội. Tiểu kết chƣơng 1 Trong chƣơng 1, luận án đã trình bày về tình hình nghiên cứu tên ngƣời Anh và tên ngƣời Việt nĩi chung cũng nhƣ tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt nĩi riêng. Ngồi ra, trên cơ sở phân tích quan điểm về tên riêng và tên ngƣời của các nhà nghiên cứu trong và ngồi nƣớc, luận án đã trình bày một cái nhìn tổng quan những vấn đề lí luận về tên ngƣời và nghiên cứu đối chiếu tên nữ giới để làm cơ sở và khung lí thuyết cho việc nghiên cứu tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt. 1. Thơng qua việc tổng quan tình hình nghiên cứu tên ngƣời Anh và tên ngƣời Việt cho thấy: ở Anh, tên ngƣời đƣợc nghiên cứu trong bộ mơn Nhân danh học thuộc Danh xƣng học. Vấn đề nghiên cứu về tên ngƣời phát triển một cách nhanh chĩng và rộng rãi trên nhiều bình diện nhƣ lịch sử học, xã hội học, văn hĩa học và ngơn ngữ học, Trên bình diện ngơn ngữ học, các nhà khoa học nghiên cứu về tên ngƣời Anh ở các khía cạnh nhƣ ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp và nguồn gốc từ nguyên,Cịn ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu về tên ngƣời đã đƣợc quan tâm nhiều hơn song vẫn cịn hạn chế. Trên bình diện ngơn ngữ học, các nhà khoa học nghiên cứu về tên ngƣời Việt ở các khía cạnh nhƣ chính tả, ngữ nghĩa, cấu tạo,... Tuy nhiên, ở cả Anh và Việt Nam, những cơng trình nghiên cứu một cách chuyên sâu và tồn diện về tên nữ giới cịn rất hạn chế, đặc biệt, cịn thiếu vắng những nghiên cứu đối chiếu tên nữ giới giữa các cộng đồng văn hĩa. 2. Trong việc tìm hiểu cơ sở lí luận chung về tên ngƣời, trƣớc hết luận án đã trình bày các quan điểm khác nhau về tên riêng của các nhà khoa học ở Việt Nam và trên thế giới và xác định quan điểm của luận án về tên riêng là một loại đơn vị từ vựng dùng để gọi tên một cá thể đơn nhất, để phân biệt giữa cá thể này với cá thể khác. Ngồi ra, luận án cịn phân biệt giữa tên riêng và tên chung ở tiếng Anh và tiếng Việt. 37 3. Về vấn đề nghĩa của tên ngƣời, luận án xác định tên ngƣời cĩ nghĩa. Nghĩa đƣợc nĩi đến ở đây khơng phải là nghĩa của thực từ mà là nghĩa biểu trƣng. 4. Một số vấn đề liên quan đến tên nữ giới đƣợc luận án làm sáng tỏ nhƣ vị trí, vai trị và chức năng của tên nữ giới. Tên nữ giới cĩ vai trị quan trọng và cĩ mối quan hệ mật thiết với ngơn ngữ, đặc biệt là ngơn ngữ học xã hội. Tên nữ giới phản ánh đặc trƣng của ngơn ngữ và cộng đồng xã hội sử dụng ngơn ngữ đĩ. Tên ngƣời, cụ thể là tên nữ giới đƣợc luận án xác định cĩ 3 chức năng là chức năng phân biệt, chức năng thẩm mĩ và chức năng xã hội. 5. Luận án thực hiện nghiên cứu đối chiếu đồng đại, lấy tiếng Anh là ngơn ngữ cơ sở. Từ định hƣớng nhƣ vậy nên nguồn ngữ liệu của luận án chỉ giới hạn tên nữ ngƣời Anh và ngƣời Việt trong giai đoạn hiện nay. 38 5. CHƢƠNG 2 ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO TÊN NỮ GIỚI NGƢỜI ANH VÀ NGƢỜI VIỆT 2.1. Đặt vấn đề Tên nữ giới trong tiếng Anh và tiếng Việt cũng nhƣ nhiều ngơn ngữ khác trên thế giới nằm trong phạm vi của hệ thống từ vựng. Tên nữ giới cũng nhƣ từ và các đơn vị tƣơng đƣơng với từ đƣợc xem là đơn vị định danh. Tuy nhiên, tên nữ giới cĩ cấu tạo phức tạp hơn nhiều so với các phƣơng thức cấu tạo từ và các đơn vị tƣơng đƣơng với từ trong hệ thống từ vựng. Tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt do các thành phần định danh riêng biệt (tên họ, tên đệm, tên chính danh) kết hợp với nhau tạo thành một tổ hợp để gọi tên cho nữ giới. Tổ hợp này đƣợc luận án luận án xác định là tổ hợp định danh, tổ hợp gồm ba thành phần định danh. Trong cả tiếng Anh và tiếng Việt, ba thành phần này đƣợc gọi bằng các tên khác nhau, ví dụ: tên họ đƣợc gọi bằng surname hay last name trong tiếng Anh hay tên họ, họ trong tiếng Việt; tên đệm đƣợc gọi bằng middle name trong tiếng Anh hay tên lĩt, chữ lĩt, tên đệm, đệm trong tiếng Việt; tên cá nhân đƣợc gọi bằng given name, first name trong tiếng Anh hay tên chính, tên cá nhân trong tiếng Việt. Luận án thống nhất sử dụng tên cá nhân, tên đệm và tên họ cho ba thành phần định danh của tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt. Hình 2.1: Sơ đồ cấu tạo tổ hợp định danh nữ giới người Anh và người Việt Tổ hợp định danh Thành phần định danh Tên cá Tên họ Tên đệm nhân Ở chƣơng 2, luận án tiến hành miêu tả lần lƣợt đặc điểm cấu tạo của tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt thơng qua việc mơ hình hĩa 39 cấu tạo và phân tích cấu trúc của tên nữ giới ngƣời Anh và tên nữ giới ngƣời Việt. Để c... tên đơn và tên phức. Trong đĩ, đa số các thành phần trong tên nữ giới ngƣời Anh là tên phức cịn tên ngƣời Việt là tên đơn. Luận án đã xây dựng mơ hình tên nữ giới ngƣời Anh gồm ba thành phần nêu trên và theo trật tự sau: [tên cá nhân – tên đệm – tên họ]. Mơ hình tên nữ giới ngƣời Việt thì theo trật tự ngƣợc lại: [tên họ – tên đệm – tên cá nhân]. Qua khảo sát và phân tích ngữ liệu, luận án đã đƣa ra 24 mơ hình tên nữ giới ngƣời Anh và 21 mơ hình tên nữ giới ngƣời Việt. Các số liệu khảo sát cho thấy mơ hình cĩ tên cá nhân phức, tên đệm zero và tên họ phức và là phổ biến nhất ở tên nữ giới ngƣời Anh cịn ở tên nữ giới ngƣời Việt thì mơ hình cĩ tên họ, tên đệm và tên cá nhân đơn là phổ biến nhất (mơ hình cĩ tên họ đơn chiếm 95,28 %, mơ hình cĩ tên cá nhân đơn chiếm 69,5 %). 147 Nguồn gốc của sự khác biệt trong cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt là do tiếng Anh và tiếng Việt cĩ đặc điểm cấu tạo khác nhau vì tiếng Anh (ngơn ngữ biến hình: inflection) và tiếng Việt (ngơn ngữ đơn lập: isolation) thuộc hai loại hình (typology) ngơn ngữ khác nhau. Tiếng Anh chịu ảnh hƣởng của nhiều ngơn ngữ châu Âu nhƣ Đức, Pháp, Hi Lạp.cịn tiếng Việt chịu ảnh hƣởng của tiếng Hán. Cĩ sự khác biệt này ở tên nữ giới cả hai nƣớc do ảnh hƣởng của lịch sử - xã hội. 3. Quan điểm của luận án là tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều cĩ nghĩa. Qua khảo sát, luận án đã chỉ các thành phần trong tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt cĩ liên quan đến các lớp nghĩa nhƣ sau: + Tên cá nhân: Các lớp nghĩa trong tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt tƣơng đối giống nhau. Phạm vi nghĩa của tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt rất rộng, cĩ liên quan đến các hiện tƣợng thiên nhiên, văn hĩa xã hội và đặc biệt là con ngƣời. Tuy nhiên, ở tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh cĩ những nét đặc trƣng riêng khác với tên cá nhân nữ giới ngƣời Việt, tiêu biểu là lớp tên cĩ nghĩa liên quan đến tên các vị thánh hay tên liên quan đến Kinh thánh nhƣ thánh Patrick, Bridget, Columba là những thánh phù hộ cho vùng đất Ireland. Lớp tên cĩ nghĩa này ở Việt Nam khơng đƣợc sử dụng nhƣ tên chính danh mà chỉ sử dụng trong cộng đồng tơn giáo. + Tên đệm: tên đệm trong tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh là hình thức lặp lại của những tên cá nhân hoặc tên họ đã cĩ sẵn và thể hiện ý nghĩa về tinh thần. Đa phần các tên đệm cĩ liên quan đến tên ngƣời đƣợc yêu thƣơng, quí trọng trong gia đình, thể hiện lịng kính trọng và tinh thần gia tộc. So với tên đệm nữ giới ngƣời Anh, tên đệm nữ giới ngƣời Việt đa dạng, mang giá trị khu biệt giới nữ và cĩ giá trị thẩm mĩ cao hơn. Ngồi một số tên chuyên biệt dành riêng để chỉ giới tính nữ nhƣ Thị, Diệu, Nữ tên đệm của nữ giới ngƣời Việt rất phong phú. Tên đệm nữ giới ngƣời Việt cũng mang những lớp ý nghĩa giống nhƣ tên cá nhân nhƣ liên quan đến thiên nhiên cây cỏ, hoa lá (Lan, Chi,Hoa, Cúc.) hay liên quan đến con ngƣời nhƣ những phẩm chất tốt đẹp 148 của nữ giới, đặc điểm hình thể và tâm hồn, phẩm cách tốt đẹp của nữ giới (Hạnh, Mỹ, Duyên.). Đa phần tên đệm kết hợp với tên cá nhân để tạo ra một tên gọi mang tính thẩm mĩ và cĩ ý nghĩa sâu xa. + Tên họ: Ở Anh và Việt Nam, về cơ bản, tên họ của nam và nữ là chung tập hợp. Dựa vào đặc điểm từ vựng, ngữ nghĩa và nguồn gốc của tên họ, cĩ thể thấy nghĩa biểu trƣng của tên họ ngƣời Anh thƣờng biểu hiện những mối quan hệ trong gia đình, dịng tộc (tên họ theo tên cá nhân của cha); đặc điểm nơi sống (tên họ theo tên đất, hoặc đặc điểm nơi ở); nghề nghiệp sinh sống (tên họ theo nghề nghiệp, chức danh). Khác với tên họ ngƣời Anh, tên họ ngƣời Việt cĩ số lƣợng tƣơng đối hạn chế. Mặc dù chƣa cĩ những con số thống kê mang tính chính xác cao nhƣng đa số các nhà nghiên cứu đã thống kê số lƣợng tên họ ngƣời Việt khơng quá 500 họ. Về nguồn gốc, tên họ ngƣời Việt chƣa đƣợc xác định rõ ràng, do đĩ, rất khĩ cĩ cơ sở để tìm hiểu nghĩa của tên họ ngƣời Việt. Do chƣa cĩ cơ sở để tìm hiểu đƣợc ý nghĩa của tên họ ngƣời Việt nên chúng tơi cũng đồng ý với quan điểm của các nhà nghiên cứu trƣớc về việc tên họ ngƣời Việt khơng mang nghĩa biểu trƣng. 4. Những nét khác biệt về văn hĩa - xã hội thể hiện qua tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đƣợc luận án phân tích trên ba phƣơng diện: vấn đề kị húy; vấn đề đặt và đổi tên; vấn đề giới và kì thị giới. Vấn đề kị húy ở tên ngƣời Anh gần nhƣ khơng tồn tại trong khi đĩ ở tên ngƣời Việt lại là một đặc trƣng nổi bật. Trong khi ngƣời Việt kiêng khơng đặt tên trùng với tên thánh, thần, ngƣời bề trên, thì ngƣời Anh chủ yếu đặt tên theo tên thánh và tên ngƣời họ hàng, cha mẹ để tỏ lịng kính trọng. Vấn đề đặt và đổi tên ở Anh rất đơn giản, cịn ở Việt Nam lại rất phức tạp, bị giới hạn bởi những qui định của nhà nƣớc. Sự khác biệt này cũng thể hiện thơng qua quan điểm về tên ngƣời ở từng quốc gia. Anh coi tên ngƣời nhƣ nhãn mác gắn cho mỗi cá nhân để phân biệt ngƣời này với ngƣời khác. Việt Nam lại coi trọng cái tên, coi nhƣ một tài sản gắn với họ suốt cả cuộc đời. 149 Tên ngƣời Anh và ngƣời Việt đều thể hiện vấn đề giới và kì thị giới. Song, mỗi quốc gia lại cĩ đặc điểm riêng. Đặc điểm về giới trong tên nữ giới ngƣời Anh nằm ở tên cá nhân cịn ở tên nữ giới ngƣời Việt đặc điểm này lại nằm ở tên đệm hoặc tổ hợp tên đệm gắn với tên cá nhân. Sự kì thị giới thể hiện nhiều nhất ở việc đổi tên của nữ giới sau khi kết hơn nhƣng ở Anh và ở Việt Nam cĩ những khác biệt. Ở Anh, phụ nữ đổi tên họ sau khi kết hơn và việc đổi tên này đƣợc cơng nhận về pháp lý. Ở Việt Nam, phụ nữ đổi tên cá nhân (tên dùng chủ yếu trong giao tiếp) sau khi kết hơn. Tên sau khi đổi dù khơng cĩ giá trị pháp lý nhƣng cĩ ảnh hƣởng lâu dài và ngƣời phụ nữ gần nhƣ bị mất hồn tồn tên gọi trƣớc khi lấy chồng. Tất nhiên, hiện tƣợng xã hội này đã dần phai nhạt đi ở cả hai cộng đồng, song vẫn cịn khơng ít ảnh hƣởng đến xã hội hiện tại. 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN A. Tiếng Việt 1. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hĩa sử cương, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp. 2. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội. 3. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tái bản lần thứ 4. 4. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 5. Đỗ Hữu Châu (1993), Đại cương ngơn ngữ học tập II, Nxb Giáo dục. 6. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hồng Trọng Phiến (1997), Cơ sở ngơn ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, tr.213–219. 7. Trần Văn Cơ (2007), Ngơn ngữ học tri nhận (ghi chép và suy nghĩ), Nxb khoa học xã hội, tr.112-119. 8. Lý Tống Địch (2003), Những điều lý thú xung quanh vấn đề họ tên, Nxb Văn hĩa thơng tin. 9. Trần Xuân Điệp (2002), Sự kì thị giới tính trong ngơn ngữ qua cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 96. 10. Trần Xuân Điệp (2003), “Sự kì thị giới tính trong ngơn ngữ và “làn sĩng” thứ nhất của phong trào nữ quyền ở Phƣơng Tây”, Tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống, Số 8, tr.21-23. 11. Dƣơng Xuân Đống (2002), “Từ thị trong họ tên ngƣời phụ nữ Việt Nam”, Tạp chí Ngơn ngữ và đời sống, Số 6, tr. 23-24. 12. Dƣơng Kỳ Đức (1996), Trường nghĩa của một thực từ, Ngữ học trẻ 96, tr.155-158. 13. Dƣơng kỳ Đức (1997), Nghĩa văn hàm của thực từ, Ngữ học trẻ 97, tr.198-200. 14. Dƣơng Kỳ Đức (1998), Văn hĩa trong tên người Việt, Ngữ học trẻ 98, tr.143-145. 15. Dƣơng Kỳ Đức (2016), “Mạng danh tiếng Việt: một tiếp cận ngơn ngữ - văn hĩa”, Tạp chí khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội, Số 20, tr.18-23. 151 16. Dƣơng Kỳ Đức (2017), “Một cách phân loại tên riêng”, Tạp chí khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội, Số 28, tr.15-23. 17. Phạm Hồng Gia (1999), “Về số phận của các họ ghép và họ kép của ngƣời Việt”, Tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống, Số 1, tr. 33-34. 18. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Từ vựng học tiếng Việt (tái bản lần thứ 7), Nxb Giáo dục. 19. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 20. Nguyễn Thiện Giáp (2014), “Ba cách xác định từ và hình vị tiếng Việt”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Số 4, tr.1-7. 21. Phạm Ngọc Hàm (2002), “Văn hĩa trong họ tên của ngƣời Trung Hoa”, Tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống, Số 10, tr.28-30. 22. Phạm Ngọc Hàm (2008), Từ vựng xưng hơ trong tiếng Hán – so sánh với tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 23. Lê Anh Hiền (1972), “Bàn về qui tắc viết hoa tên riêng chỉ ngƣời và chỉ đất trong tiếng Việt”, Tạp chí Ngơn ngữ , Số 3. 24. Diệp Đình Hoa (1986), Từ làng Nguyễn hay Nguyên Xá đến nhận xét dân tộc – ngơn ngữ học, Hội nghị Đơng Phƣơng học IV. TP Hồ Chí Minh. 25. Quan Hi Hoa (2002), Cách đặt tên cho con, Nxb Văn hĩa thơng tin. 26. Tơn Nguyệt Hoa (2005), Tên hay kèm điều tốt, Nxb Văn hĩa dân tộc. 27. Lê Trung Hoa (1992, 2002), Họ và tên người Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, tr.9-24. 28. Lê Trung Hoa (1992), Cách đặt tên chính của người Việt (Kinh), Tiếng Việt và các ngơn ngữ dân tộc phía Nam, Nxb Khoa học xã hội. 29. Lê Trung Hoa (2013), Nhân danh học Việt Nam, Nxb Trẻ. 30. Vƣơng Đình Hịa (2005), Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa của tên chính danh người Nhật (cĩ đối chiếu với tên người Việt), Luận văn thạc sĩ, Thƣ viện trƣờng Đại học KHXH&NV. 31. Nguyễn Quốc Hồn (2010), Luật so sánh, Nxb Cơng an nhân dân. 32. Nguyễn Quang Hồng (2000), “Từ đối chiếu ngơn ngữ đến đối chiếu văn hĩa”, Tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống, Số 4, tr.11-16. 33. Trần Đình Hƣợu (1994), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hĩa. 152 34. Nguyễn Văn Khang (1996), “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngơn ngữ”, Ứng xử ngơn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt, Nxb Văn hĩa thơng tin, tr. 176-186. 35. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngơn ngữ học xã hội – Những vấn đề cơ bản, Nxb Khoa học xã hội. 36. Nguyễn Văn Khang (2004), “Xã hội học ngơn ngữ về giới: kỳ thị và kế hoạch hố ngơn ngữ chống kỳ thị đối với nữ giới trong sử dụng ngơn ngữ”, Xã hội học, Số 2, tr 86. 37. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 38. Nguyễn Văn Khang (2014), Ngơn ngữ học xã hội, Nxb Giáo dục. 39. Nguyễn Văn Khang (2016), Từ Hán Việt với tên chính người Việt, Đề tài NCKH cấp Viện, Viện ngơn ngữ học. 40. Nguyễn Việt Khoa (2002), Khảo sát đặc điểm Cấu trúc- Ngữ nghĩa của tên người Anh, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội. 41. Nguyễn Khơi (2006), Các dân tộc ở Việt Nam. Cách dùng họ và đặt tên, Nxb Văn hĩa Dân tộc Hà Nội. 42. Phạm Hữu Khƣơng (2015), “Đơi nét về đặc điểm họ tên của ngƣời Trung Quốc và ngƣời Việt Nam”, Tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống, Số 7, tr.72-74. 43. Thái Văn Kiểm (1963), “Cách đặt tên trong Hồng phái Nguyễn Tộc”, Tạp chí Phổ thơng, Số 63, Sài Gịn. 44. Mơng Lâm (2010), Đặc điểm tên người Hán hiện nay (Đối chiếu với tên người Việt), Thƣ viện Đại học KHXH&NV. 45. Cao Từ Linh (2013), Việt danh học – Khoa học đặt tên của người Việt, Nxb Bách khoa Hà Nội. 46. Bình Long (1989), “Nghĩa trong tên ngƣời Việt”, Tạp chí Ngơn ngữ (số phụ), tr.25-26. 47. Nguyễn Huy Minh (1993), “Về qui tắc viết hoa tên ngƣời, tên đất”, Tạp chí Ngơn ngữ, Số 2. 48. Hứa Ngân (2003), Đổi mới trong cách đặt tên, Nxb Hải Phịng. 49. Vũ Đức Nghiệu (2011), Lược khảo lịch sử từ vựng tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam. 50. Hồng Phê (1979), “Vấn đề cải tiến và chuẩn hĩa chính tả”, Tạp chí Ngơn ngữ, Số 3-4. 51. Hồng Phê (2008), Tuyển tập ngơn ngữ học, Nxb Đà Nẵng. 153 52. Hồng Phê (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa. 53. Saussure, F. de (2005), Giáo trình ngữ học đại cương, Cao Xuân Hạo dịch, Nxb Khoa học Xã hội. 54. Vị Nghĩa Thƣ Sinh (2002), “Lại bàn về tên ngƣời và cách gọi tên”, Tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống, Số 11, tr 22-24. 55. Hà Sơn (2009), Những điều kiếng kị khi đặt tên, Nxb Hà Nội. 56. Nguyễn Văn Thạc (1979), “Những cơ sở để xây dựng quy tắc viết hoa”, Tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống. 57. Nguyễn Kim Thản (1975), “Vài nét về tên ngƣời Việt”, Tạp chí dân tộc học, Số 4, tr. 68-80. 58. Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế (1997), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hĩa, tái bản lần thứ 4. 59. Phạm Tất Thắng (1996), Đặc điểm của lớp tên riêng chỉ người trong tiếng Việt, Luận án PTS, Thƣ viện Viện ngơn ngữ học. 60. Phạm Tất Thắng (1998), “Về ý nghĩa của tên riêng”, Kỉ yếu Hội nghị khoa học, Viện Ngơn ngữ học, tr. 259-263. 61. Phạm Tất Thắng (1998), Vài nhận xét về yếu tố “Đệm” trong tên gọi người Việt, trong “Tiếng Việt và các ngơn ngữ Đơng Nam Á”, Nxb Khoa học xã hội, tr.184-190. 62. Phạm Tất Thắng (2003), “Các kiểu cấu trúc tên chính của ngƣời Việt,” Tạp chí Ngơn ngữ, Số 11, tr.41-47. 63. Phạm Tất Thắng (2005), Danh xƣng học và tên riêng ngƣời Việt, Đề tài cấp Viện, Viện Ngơn ngữ học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam. 64. Phạm Tất Thắng (2011), “Về vị trí của tên riêng trong hệ thống danh từ tiếng Việt”, Tạp chí từ điển và Bách khoa thư, Số 6. 65. Phạm Tất Thắng (2014), “Khơng gian tên riêng trong tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học Viện ĐH Mở Hà Nội, Số 6, tr 11-16. 66. Phạm Tất Thắng (2015), “Tình hình nghiên cứu tên riêng chỉ ngƣời trong Việt ngữ học”, Tạp chí Ngơn ngữ, Số 8-9, tr. 66-76. 67. Phạm Tất Thắng (2016), Tên riêng là một loại đơn vị từ vựng, Hội thảo Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, Hà Nội. 68. Trần Ngọc Thêm (1976), “Về lịch sử hiện tại và tƣơng lai của tên riêng ngƣời Việt”, Tạp chí Dân tộc học, Số 3, tr.11-21. 154 69. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hĩa Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh. 70. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hĩa Việt Nam, Nxb Giáo dục. 71. Đào Tiến Thi (2002), “Bàn tiếp về tên ngƣời”, Tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống, Số 11, tr 25-29. 72. Đào Tiến Thi (2002), “Tên riêng khơng chỉ của riêng ai”, Tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống, Số 3, tr 21-23. 73. Đào Tiến Thi (2005), “Viết tên riêng nƣớc ngồi trong sách báo và sách giáo khoa hiện nay”, Tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống, Số 1+2, tr 86-91. 74. Lê Quang Thiêm (1987), “Về vấn đề nghiên cứu đối chiếu các ngơn ngữ”, Tạp chí Khoa học Xã hội, Đại học Tổng hợp Hà Nội, Số 6. 75. Lê Quang Thiêm (2006), “Về các tầng nghĩa và kiểu nghĩa chức năng từ vựng”, Tạp chí Ngơn ngữ, Số 1. 76. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục. 77. Lê Quang Thiêm (2008), Nghiên cứu đối chiếu các ngơn ngữ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 78. Lê Quang Thiêm (2014), Sự phát triển ngữ nghĩa từ vựng tiếng Việt 1945- 2005, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 79. Vũ Thị Kim Thoa (2005), Những đặc trưng xã hội – ngơn ngữ học của tên riêng chỉ người trong tiếng Việt, Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn. 80. Trịnh Huy Tiến (1961), “Các loại nhân danh Việt Nam”, Tạp chí Văn hĩa, Nguyệt san số 61-62. 81. Nguyễn Thế Truyền (2000), Những nét khác biệt giữa tên nam giới và tên nữ giới người Việt, Ngữ học trẻ, tr 333. 82. Hồng Tuệ (1996), Nghĩa trong tên riêng của người, Nxb Giáo dục. 83. Nguyễn Bạt Tụy (1954), Tên người Việt Nam, Kỷ yếu hội khuyến học Nam Việt, tr. 55. 84. Hồ Hữu Tƣờng (1967), “Sự cần thiết của khoa nhân danh học ở Việt Nam”, Tạp chí Bách Khoa, Số 247. 85. Hồ Hữu Tƣờng (1967), “Phục hồi họ Việt”, Tạp chí Bách Khoa, Số 249. 86. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên) (2003), Cơ sở văn hĩa Việt Nam (tái bản lần 5), Nxb Giáo dục. 155 87. Giáo trình luật so sánh (2009), Đại học Luật Hà Nội, Nxb Cơng an Nhân dân. 88. Đại Việt sử ký tồn thư (2013), In theo bản in của Nxb Khoa học xã hội năm 1971-1972, Nxb Thời đại, tr.79. 89. Hồng Việt Trung kỳ hộ luật (1947), Nhà in Viễn Đệ, Huế, tr.63. 90. Bộ Luật dân sự Việt Nam (2015), số 91/2015/QH13, Quốc hội. 91. Luật hộ tịch (2014), số 60/2014/QH13, Quốc hội. 92. Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch. 93. Dự thảo về qui tắc viết hoa (1972), Viện Ngơn ngữ học. 94. Từ điển Hán Việt hiện đại (2009), Nhà xuất bản khoa học xã hội. B. Tiếng Anh 95. Alford, R.D. (1988), Naming and identity: A cross-cultural Study of Personal Naming Practices, New Haven, Conn: HRAF Press. 96. Anderson, J.M. (2007), The Grammar of Names, Oxford University Press. 97. Barber, H.R. (1903), British Family Names, Gale Research Company. 98. Bardsley, C.W. (1875), English surnames their sources and significations, Chatto&Winduss Piccadilly. 99. Bardsley, C.W. (1880), Curiosities of Puritan nomenclature, William Clowers and Sons, Limited, London & Beccles. 100. Baugh, A.C. & Thomas, C. (2002), A history of the English language, Routledge. 101. Blackburn, S. (2008), The Oxford Dictionary of Philosophy, Oxford University Press. 102. Bloomfied, L. (1984), Language, University of Chicago press. 103. Bruck, G.V. & Bodenhorn, B. (2006), The anthropology of names and naming, Cambridge. 104. Booth, A.J. (1869) Robert Owen, the Founder of Socialism in England, Trübner & co Publisher. 105. Bussmann, H. (1998), Routledge Dictionary of Language and Linguistics, Taylor & Francis publicsher. 106. Cater, S.C. (1865), Lexicon of ladies names: with their floral emblems, G. W. Cotrell publicsher. 156 107. Chalker, S. & Weiner, E.S.C. (1998), The Oxford Dictionary of English Grammar, Oxford University Press. 108. Cheshire, J. & Trudgill, P. (Eds.), (1998), The sociolinguistics reader, vol. 2: Gender and discourse, London: Arnold. 109. Coates, J. (1986), Women, men and language: A sociolinguistic account of gender differences in language, London: Longman. 110. Coates, R. A. (2000), “Singuilar definite expressions with unique denotatum and limits of properhood”, Linguistics, Vol 6, No 33, pp. 1161- 1174. 111. Coates, R. A. (2006), “Properhood”, Language, Vol 8, No 2, pp. 356- 382. 112. Clark, C. (1982), “The early personal names of King's Lynn: an essay in socio-cultural history, part I: baptismal names”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 6, pp. 51-73. 113. Clark, C. (1985), “The early personal names of King's Lynn: an essay in socio-cultural history, part II: by-names”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 7, pp. 65-91. 114. Clark, C. (1991,1992), “Personal-Name Studies: Bringing them to a wider audience”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 15, pp. 21-35. 115. Colman, A.M. (2008), A Dictionary of Psychology, Oxford University Press. 116. Courtenay, J. N. B. (1972), A Baudouin de Courtenay anthology: the beginnings of structural linguistics, Indiana University Press. 117. Crook, A. (2014), “Influences on personal names in early modern Scotland”, Scottish Place-Name News, Vol 36, pp. 7-8. 118. Crystal, D. (2003), A dictionary of Linguistics and Phonetics, Blackwell Publishing. 119. Crystal, D. (2008), The Cambridge Encyclopedia of English Languge, 2nd edition, Blackwell Publishing. 120. Culter, A. & Macqueen, J. & Robinson, K. (1990), “Elizabeth and John: Sound pattern of Men and Women‟s names‟”, Journal of linguistics, Vol 26, pp. 471-482. 157 121. Driscoll, B.C. (1932), The Book of Feminine Names: Women's Names and Their Meanings, Frigidaire corporation publishers, digitized in 2008. 122. Dunkling L. (1977), First name first, London: J.M.Dent. 123. Dunkling, L. (1995), Guinness book of name, Guinness World Records Limited, 7th Revised edition edition (1 Aug. 1995), pp. 123. 124. Edwards, D. (2005), The Handbook of Language and Social Interaction, Lawrence Erlbaum Associates, pp. 257–273. 125. Eckert, P. (1989), The whole woman: Sex and gender differences in variation, Language Variation and Change 1, pp. 245-267. 126. Eckert, P. & McConnell-Ginet, S. (2003), Language and gender, Cambridge: Cambridge University Press. 127. Ewen, C.L‟E (1931), A history of surnames of the British isles: A concise account of their origin, evolution, etymology, and legal status, K. Paul, Trench, Trubner & co., ltd. 128. Felecan, O. (2012), Name and naming: Synchronic and Diachronic perspectives, Cambridge scholars publishing. 129. Forster, K. (1977), “English family-names from places in England”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 1, pp.23-27. 130. Fudge, C. (1977), Cornish Names for Cornish Homes, Truran Publications. 131. Growther, K. & Jonathan, K. (1999), Guide to British and American Culture, Oxford University Press. 132. Guppy.H.B. (2005), Homes of Family Names in Great Britain, Clearfield. 133. Hanks, P. & Hodges, F. (1990), A dictionary of First names, Oxford University Press. 134. Hanks, P. (2010), “Some methodological considerations in approaching the study of family names”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 33, pp.169–171. 135. Hanks, P. & McClure, P. & Coates, R. (2011), Family names of the UK: a new research project in British anthroponomastics, 24th International Congress of Onomastic Sciences, Barcelona, Spain. 158 136. Hanks, P., Coates, R.& McClure, P. (2011) Methods for studying the origins and history of family names in Britain: philology meets statistics in a multicultural context, International symposium in Uppsala, Uppsala, Sweden. 137. Hanks, P. & Muhr, K. (2012), Exchanging Names: Surnames and Population Movement in Britain and Ireland, Society for Name Studies in Britain and Ireland 2012 Conference, Athenry, Galway. 138. Hanks, P. and Coates, R. (2012), Onomastic lexicography: A description of the project Family Names of the United Kingdom, 15th EURALEX International Congress, Oslo, Norway. 139. Hanks, P. & McClure, P. & Coates, R. (2016), The Oxford Dictionary of Family Names in Britain and Ireland, Oxford University Press. 140. Hanks, P. & H. Parkin (2016), Family Names. In Carole Hough The Oxford Handbook of Names and Naming. Oxford: Oxford University Press, pp. 214-236. 141. Hey, D. (2000), Family Names and Family History, Hambledon, London. 142. Hofstede, Geert (2011), Dimensionalizing Cultures: The Hofstede Model in Context. International Association of Cross-Cultural Psychology, Cultures and Organizations. 143. Holmes, J. & Meyerhoff, M. (1999), The Community of practice: Theories and methodologies in language and gender research, Language in Society, vol 28, pp.173-183. 144. Hough, C. (2000), “Toward an Explanation of Phonetic differentiation in Masculine and Feminine Personal Names”, Journal of linguistics, Vol 36, pp. 131-148. 145. Hough, C. (2010), “The name-type Maid(en)well”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 33, pp. 27-44. 146. Hough, C. (2015), “The Scottish Maidenwells”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 38, pp. 1-16. 147. Hough, C. (2016), The Oxford handbook of names and naming, Oxford University press. 148. Huard, P. & Durand, M. (1992), Vietnam civilization and culture, Ecole Francaise d‟Extreme-Orient, Paris. 159 149. Huddleston, R.D. (1998), English grammar: An outline, Cambridge University Press. 150. Ieron, J.A. (1998), Names of Women of the Bible, Moody Publishers. 151. Kinney, A.F. (1973), Titled Elizabethans: A directory of Elizabethan state and church officers and knights, with peers of England, Scotland, and Ireland, 1558-1603, Archon Books publicsher. 152. Kripke, S.A. (1972), Naming and Necessity, Oxford: Reidel. 153. Lakoff, R. (1975), Language and woman's place, New York: Harper & Row. 154. Lasker, G.W. (1983), The frequency of surname in English and Wales, Human biology, pp. 55. 155. Le, T.M.Thao (2007), A cultural approach to personal names in English, Chinese and Vietnamese, Bachelor thesis, Hanoi Open University, Vietnam. 156. Le, T.M.Thao (2013), A Cultural Study on English and Vietnamese Personal Names, Master thesis, Hanoi Open University, Vietnam. 157. Maltz, D. N. & Borker, R. A. (1982), A cultural approach to male female miscommunication, Language and Social Identity, Cambridge: Cambridge University Press, pp. 196-216. 158. Margan, G. (1995), “Naming Welsh women”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 18, pp. 119-140. 159. Matthews, P.H. (2007), The Concise Oxford Dictionary of Linguistics, Oxford University Press. 160. McClure, P. (1979), Patterns of migration in the late Middle Ages: the evidence of English place-name surnames, Economic History Review. 2nd series 32, pp.167-82. 161. McClure, P. (1981), “Nicknames and petnames: linguistic forms and social contexts”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 5, pp. 63-77. 162. McClure, P. (2010), Middle English occupational bynames as lexical evidence: a study of names in the Nottingham borough court rolls 1303-1455. Part 1, Methodology Transactions of the Philological Society. 108(2), pp.164- 77. 160 163. McClure, P. (2013), “Explaining English surnames: linguistic ambiguity and the importance of context Part I”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, ,Vol 36, pp. 1-33. 164. McClure, P. (2014), “Explaining English surnames: linguistic ambiguity and the importance of context Part II”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland,. Vol 37, pp.109-141. 165. McClure, P. (2016), A short history of English personal names, Oxford. 166. McConnell-Ginet, S.(2003), Language and Gender, Cambridge University Press, pp.69-97. 167. McKinley, R. (1990), A History of British Surnames, London: Longman. 168. Morgan, P. (1990-1991), “Locative surnames in Wales: a preliminary list”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 14, pp. 7-25. 169. Musman, R. (1987), Background to English speaking countries, 1st edition, Macmillan Education. 170. Nguyen, V.Khoa (2010), A cross-cultural approach to personal naming: given names in the systems of Vietnamese and English, PhD thesis, University of Sussex. 171. Nicolaisen, W.F.H. (1991,1992), “Pictish place-names as Scottish surnames: origins, dissemination and current status”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 15, pp. 7-21. 172. Nystrưm, S. (2016), „Names and meaning‟, in Carole Hough, ed., The Oxford Handbook of Names and Naming. Oxford: Oxford University Press, pp.39–51. 173. Okasha, E. (2011), Women's names in Old English, Taylor & Francis Group. 174. O‟Barr, W. & Bowman, A. (1980), Women‟s language' or 'powerless language', Women and languages in Literature and Society, pp. 93-110, New York: Praeger. 175. Parkin, D. H. (2013), “Surname typology and the problem of inconsistent classification” , Names: A Journal of Onomastics, 61 (4). pp. 200-211. 176. Phillip, T. & Weller, S.T.D. (1964), Rituale Romanum (Roman Ritual), Chicago: The Bruce Publishing Company. 161 177. Pickering, D. (2004), Dictionary of First Names, 2nd edition, Penguin Books publishing. 178. Pulgram, E. (1954), Theory of names, London-New York. 179. Postles, D. (1996), “The distinction of Gender? Women‟s names in the thirteenth century”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 19, pp.79-91. 180. Reaney, P.H. (1980), The origin of English Surnames, Routledge publicsher. 181. Reaney, P.H. & Wilson, R.M. (1991), A dictionary of English surnames, U.S.A.: Routledge. 182. Reaney, P.H. (2005). A Dictionary of English Surnames, Taylor & Francis. 183. Reitan, E.A.(2003), The Thatcher Revolution, Rowman & Littlefield. 184. Sjưblom, P. (2006), “A cognitive approach to the semantics of proper nouns”, Onoma, Vol 41, pp. 63–82. 185. Talbot, M. M. (1998), Language and Gender: an introduction, Cambridge: Polity. 186. Titford, J. (2002), Searching for Surnames, Countryside Books. 187. Thwaites, R. (2013), The making of selfhood: naming decisions on marriage, Families, Relationships and Societies, Volume 2, Number 3, Policy Press, pp. 425-439. 188. Van L.W. & Mark V. de V. (2016), „Names and grammar‟ in Carole Hough, ed., The Oxford Handbook of Names and Naming, Oxford University Press, pp.17–38. 189. Wardhaugh, R. (2010), An introduction to sociolinguistics (6th ed.), Oxford, UK: Wiley-Blackwell. 190. Weekley, E. (1939), Jack and Jill: a study in our Christian names, 1st edition, London: Muray. 191. Wilson, R. (2009), A name of one‟s own: Identity, Choice and Performance in Marital Relationship, PhD. Thesis, London school of Economics & Political Science. 192. Wilson, K.M.and Margolis, N. (eds.) (2004), Women in the Middle Ages: An Encyclopedia, Greenwood Press: Westport, USA, pp. 758-761. C. Tiếng Trung Quốc 162 193. 李葆嘉、唐志超(2001), 现代汉语规范词典, 吉林大学出版社. 194. 商务印书馆编辑部编 (2009),辞源, 商务印书馆. D. Tiếng Pháp 195. Haudricourt, André-Georges (1954), De L‟origine Des Tons En Vietnamien, Journal Asiatique 242, pp. 69–82. E. Tài liệu online 196. Nguyễn Văn Khang (2003), Thuật ngữ và tên riêng tiếng nước ngồi, 197. Mill, J.S., A System of Logic: Ratiocinative and Inductive, 3rd, London: John W. Parker, West Strand, 198. Peter, M. (2011), Personal names and the development of English OED Online, names-and-the-development-of-english/ 199. Peter, M, 2011. Surnames as sources in the OED Online, sources-in-the-oed/ 200. Pitcher, B.J. & Mesoudi, A. & McElligott, A.G. (2013), Sex-Biased Sound Symbolism in English-Language First Names, 201. Sidhu, D.M. & Pexman, P.M. (2015), What‟s in a Name? Sound Symbolism and Gender in First Names, https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4446333/ Địa chỉ các website 202. https://vi.wikipedia.org/wiki/Anh 203. 204. 205. rometers/Eurobarometer_N41._PUBLIC_OPINION_IN_THE_EUROPEAN_ UNION_July_1994.pdf 206. 207. https://www.behindthename.com/info/names 163 164

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_doi_chieu_ten_rieng_nu_gioi_nguoi_anh_va_nguoi_viet.pdf
  • pdfTrichyeu_LeThiMinhThao.pdf
Tài liệu liên quan