Tài liệu Luận án Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế hàng hải từ năm 1996 đến năm 2011, ebook Luận án Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế hàng hải từ năm 1996 đến năm 2011
995 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 394 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế hàng hải từ năm 1996 đến năm 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o tính khách quan, khoa học và có
nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả Luận án
Nguyễn Thị Thơm
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 5
Chương 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HẢI
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2001 19
1.1. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế hàng hải
(1996 - 2001) 19
1.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát triển kinh tế hàng
hải (1996 - 2001) 43
Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HẢI
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011 66
2.1. Những nhân tố tác động đến phát triển kinh tế hàng hải trong
thập niên đầu của thế kỷ XXI 66
2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đẩy mạnh phát triển kinh
tế hàng hải theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế 70
Chương 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 109
3.1. Nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế hàng hải
từ năm 1996 đến năm 2011 109
3.2. Một số kinh nghiệm 135
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 166
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
APEC : Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CNTT : Công nghiệp tàu thủy
CNXH
CNH,HĐH
:
:
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
COC : Code of Conduct - Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông
DOC : Declaration on Conduct - Quy tắc ứng xử Biển Đông
DWT : Deadweight Tonnage - Tấn trọng tải
GTVT : Giao thông vận tải
HHVN : Hàng hải Việt Nam
KTHH : Kinh tế hàng hải
KT-XH : Kinh tế - xã hội
SBIC : Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam
TEU : Đơn vị chuyển đổi bằng container 20 feet (Twenty
foot equivalent units)
Vinashin : Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam
Vinalines : Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Bảng phân loại sở hữu tàu 59
Bảng 1.2: Bảng phân nhóm tuổi tàu 60
Bảng 1.3: Sản lượng vận tải biển do các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện 60
Bảng 1.4: Khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam giai
đoạn 1996 - 2000 63
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XXI được thế giới xem là "Thế kỷ của đại dương", các quốc gia
có biển rất quan tâm đến biển và coi trọng việc xây dựng chiến lược biển.
Khu vực Biển Đông, trong đó vùng biển Việt Nam, có vị trí địa kinh tế và địa
chính trị rất quan trọng. Với chiều dài bờ biển hơn 3.260km, dọc biển có
nhiều vịnh đẹp và 2.779 hòn đảo lớn nhỏ với tổng diện tích 1.636km2; có 37
cảng biển, với 216 bến cảng, 373 cầu cảng với tổng chiều dài khoảng
43.600m và gần 100 địa điểm có thể xây dựng cảng kể cả cảng trung chuyển
quốc tế [46]. Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam rộng
khoảng trên 1 triệu km2, nằm trên tuyến hàng hải quốc tế, nối liền các trung
tâm kinh tế sôi động nhất của thế giới hiện nay. Trong tương lai, kinh tế biển
sẽ là một ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam coi vùng biển, đảo
của Tổ quốc là địa bàn trọng yếu gắn với bước đường sinh tồn, phát triển của dân
tộc. Vì vậy, vấn đề khai thác và phát triển kinh tế biển, trong đó có kinh tế hàng
hải (KTHH), nhằm phát huy tiềm năng to lớn của đại dương, bảo vệ môi trường tự
nhiên và môi trường hòa bình trên biển luôn được đặt ra như một tất yếu.
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam
từng bước nhận thức sâu sắc hơn tầm quan trọng và lợi thế của biển để phát
triển kinh tế biển và các lĩnh vực liên quan đến biển. Theo đó, ngành Hàng hải
cũng đã có những đổi mới và phát triển cả về cơ cấu tổ chức, hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Vai trò của kinh tế biển, trong đó có ngành Hàng hải, ngày
càng trở nên quan trọng và được xác định là lĩnh vực mũi nhọn cần ưu tiên
đầu tư, nhằm tạo tiền đề, động lực cho các lĩnh vực khác thuộc ngành kinh tế
biển và kinh tế - xã hội (KT-XH) quốc gia phát triển.
Tuy nhiên, xét cả mặt chủ quan và khách quan, thực tế cho thấy trong việc
khai thác lợi thế từ biển còn không ít hạn chế, khó khăn và yếu kém. Quy mô kinh
tế biển và vùng ven biển của Việt Nam vẫn còn chưa tương xứng với tiềm
năng, giá trị tổng sản phẩm hàng năm còn nhỏ bé, chỉ bằng 1/20 của Trung
Quốc, 1/94 của Nhật Bản, 1/7 của Hàn Quốc và 1/260 kinh tế biển của thế
2
giới. Những năm qua, do chưa có chiến lược tổng thể nên các ngành, các địa
phương thiếu căn cứ để quy hoạch. Tính đồng bộ của các chủ trương, chính
sách ở tầm vĩ mô, nhận thức về vị trí, vai trò của biển, sự quan tâm phát triển
các lĩnh vực liên quan đến biển trong đó có KTHH của một số cấp ủy đảng,
chính quyền các cấp, các ngành, cả Trung ương và địa phương còn nhiều hạn
chế. Bên cạnh đó, những biến động về tranh chấp chủ quyền trên biển, đảo ở
Biển Đông gần đây ngày càng căng thẳng, mang tính chất nghiêm trọng, ảnh
hưởng rất lớn đến các hoạt động bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, hoạt
động kinh tế biển nói chung và KTHH nói riêng. Trước tình hình đó, Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã nhanh chóng điều chỉnh chiến lược tổng thể trong
phát triển KT-XH nói chung và kinh tế biển nói riêng, trong đó có Chiến lược
biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu: Phấn đấu đưa Việt Nam trở thành
quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, đến năm 2020 kinh tế trên biển và
ven biển đóng góp khoảng 53 - 55% tổng GDP của cả nước [65, tr.121-122].
Sau năm 2020, sẽ đưa KTHH từ vị trí thứ hai trong các ngành kinh tế biển lên
vị trí hàng đầu. Qua đó cho thấy, vị trí, vai trò quan trọng của KTHH trong
kinh tế biển và trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nước.
Nghiên cứu Đảng lãnh đạo phát triển KTHH trong những năm (1996 -
2011) nhằm khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển KTHH,
đánh giá ưu điểm, hạn chế và chỉ rõ nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế
đó, từ đó rút ra những kinh nghiệm lịch sử để vận dụng vào phát triển mạnh
hơn nữa KTHH hiện nay, thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Chiến lược
biển Việt Nam đề ra, góp phần đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về
biển là việc làm hết sức cần thiết.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn vấn đề "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo phát triển kinh tế hàng hải từ năm 1996 đến năm 2011" làm đề tài luận
án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ quá trình lãnh đạo của Đảng về phát triển KTHH
Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2011; đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng
vào phát triển KTHH trong thời kỳ mới đạt kết quả, hiệu quả cao hơn.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo phát triển KTHH từ năm
1996 đến năm 2011.
- Phân tích, luận giải làm rõ chủ trương và sự lãnh đạo của Đảng về phát
triển KTHH qua 2 giai đoạn: 1996 - 2001 và 2001 - 2011.
- Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân quá trình Đảng lãnh đạo
phát triển KTHH; trên cơ sở đó đúc rút một số kinh nghiệm để vận dụng vào
phát triển KTHH trong giai đoạn mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng phát triển
KTHH từ năm 1996 đến năm 2011.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng phát triển
KTHH từ năm 1996 đến năm 2011, nhận xét và rút ra những kinh nghiệm.
Trong khuôn khổ của luận án, nghiên cứu sinh tập trung nghiên cứu sự lãnh
đạo của Đảng trên ba lĩnh vực chủ yếu của kinh tế hàng hải: Công nghiệp
đóng tàu, vận tải biển, cảng và dịch vụ cảng biển.
- Về thời gian: Nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
phát triển KTHH từ năm 1996 (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
chuyển hướng đất nước sang thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH) đến năm 2011
(Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tổng kết 25 năm đổi mới toàn diện đất
nước trong đó có phát triển KTHH). Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu
thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sử dụng một số tư liệu có liên quan trước
năm 1996 và sau năm 2011.
- Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi cả nước, tập trung chủ yếu ở
các vùng có KTHH phát triển.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế, tập trung về phát triển
kinh tế biển, KTHH.
4
4.2. Nguồn tư liệu
- Các văn kiện, nghị quyết, chính sách, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng, Nhà
nước; các văn bản của Bộ Giao thông vận tải, cơ quan và các đơn vị hàng hải
thuộc Bộ Giao thông vận tải về phát triển kinh tế, trong đó có KTHH; các văn
bản của các địa phương về phát triển kinh tế biển, kinh tế hàng hải.
- Các sách chuyên khảo, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học, kỷ yếu, hội
thảo khoa học đã công bố có liên quan đến kinh tế biển, KTHH là nguồn tư
liệu tham khảo có giá trị giúp cho việc hoàn thành các nội dung nghiên cứu
của luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, nghiên cứu sinh
sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử, phương pháp logic và kết hợp chặt chẽ hai
phương pháp đó. Đồng thời, còn sử dụng một số phương pháp khác như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh..., nhằm làm sáng tỏ những vấn đề luận án đặt
ra phải giải quyết.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về phát triển KTHH,
qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển KTHH
trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nước.
- Rút ra những nhận xét, đánh giá kết quả Đảng lãnh đạo phát triển
KTHH; đúc kết một số kinh nghiệm lịch sử vận dụng vào giai đoạn mới.
- Luận án là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng
dạy Lịch sử Đảng ở các học viện, trường đại học, cao đẳng trong cả nước.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, danh mục công trình khoa học
của tác giả liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 3 chương, 6 tiết.
5
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Do vị trí và tầm quan trọng của KTHH trong nền kinh tế quốc dân, trong
nhiều năm qua, nhiều cơ quan lãnh đạo, quản lý, các tổ chức, các nhà khoa
học trong và ngoài nước đã quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, được phân thành các nhóm sau:
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về biển, kinh tế biển
Trong cuốn: “Chính sách, pháp luật biển của Việt Nam và Chiến lược
phát triển bền vững” của Nguyễn Bá Diến [53], tác giả giới thiệu tổng quan
chính sách, pháp luật về biển của Việt Nam và nguyên tắc phát triển bền
vững; phân tích về thực trạng và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp với mục
đích hoàn thiện chính sách về biển của Việt Nam; phân tích và luận giải về
một số hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khai thác tài nguyên biển và
lĩnh vực quản lý biển giữa nước ta với các nước trong khu vực; phân tích và
luận giải chính sách hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước trong quá trình
khai thác, sử dụng và quản lý biển, đảo, những thông tin cơ bản, toàn diện, hệ
thống chính sách và pháp luật về biển của Nhà nước Việt Nam.
Đặc biệt, tác giả đã phân tích sâu về chiến lược phát triển bền vững trong
lĩnh vực kinh tế biển, đảo. Đồng thời, đánh giá tổng quan thực trạng, nêu rõ
yêu cầu và phác thảo một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
hiện hành về quản lý biển của một số nước, trong đó có Canada và
Philippines là hai đối tác chiến lược với Việt Nam trong dự án “Những
nguyên tắc trong thực tiễn quản lý biển và đới bờ”. Hai nước này có nhiều
kinh nghiệm trong việc hoạch định và thực thi chính sách quốc gia, pháp luật
về biển.
Các tác giả Đặng Xuân Phương, Nguyễn Lê Tuấn trong cuốn “Quản lý
nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo” [108], trên cơ sở chủ
trương, chính sách pháp luật về vấn đề biển, đảo, các tác giả tập trung làm rõ
6
chức năng, nhiệm vụ, thực trạng và phương hướng, giải pháp hoàn thiện công
tác tổ chức bộ máy nhà nước về quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về
biển, hải đảo, một nội dung tương đối còn mới mẻ đối với khoa học tổ chức,
quản lý của Nhà nước ta hiện nay. Trong đó, các tác giả tập trung vào hai nội
dung chính: Thứ nhất, gồm những vấn đề cơ bản trong công tác quản lý nhà
nước tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo; thứ hai, gồm phương hướng, giải
pháp hoàn thiện một số vấn đề cụ thể trong quản lý nhà nước tổng hợp và thống
nhất về biển, hải đảo như: Hoàn thiện và vận hành thông suốt thể chế quản lý
nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo dựa trên đổi mới tư duy về
hoạch định chiến lược, chính sách biển; hoàn thiện bộ máy tổ chức và phát triển
nguồn nhân lực phục vụ quản lý nhà nước và đẩy mạnh công tác tuyên truyền về
quản lý, bảo vệ, phát triển bền vững biển, hải đảo Việt Nam hiện nay.
Nhóm tác giả Nguyễn Hồng Thao, Đỗ Minh Thái, Nguyễn Thị Như Mai,
Nguyễn Thị Hường: “Công ước Biển 1982 và Chiến lược biển của Việt Nam”
[112], góp phần làm rõ quá trình tham gia và thực hiện các quy định, yêu cầu
trong Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển quốc tế năm 1982 đối với
một số quốc gia ven biển, phân tích và đưa ra một số giải pháp cho nước ta
trong phát triển kinh tế biển. Đồng thời, tiến hành tổng hợp, đánh giá và phân
tích thực trạng quản lý biển, đảo cùng với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và các
quyền lợi trên biển. Trên cơ sở đó, cần xây dựng một chiến lược biển toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực cho phù hợp với điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển
kinh tế của Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Văn Để với cuốn: “Kinh tế biển Việt Nam: Tiềm năng,
cơ hội và thách thức” [72], đã tập trung nghiên cứu, làm rõ tình hình quản lý
và khai thác biển ở Việt Nam, đồng thời đưa ra định hướng Chiến lược biển
Việt Nam đến năm 2020 (theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ tư, khóa X). Trên cơ sở đó, cuốn sách nêu lên một
số nhiệm vụ và giải pháp để nâng cao nhận thức về vị trí và vai trò của biển
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; an ninh trên biển và hiệu lực
quản lý của Nhà nước đối với các vấn đề có liên quan đến biển.
7
Tuy nhiên, cuốn sách chưa đề cập đến những hạn chế, yếu kém trong
nhận thức về vị trí, vai trò của biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
của các cấp, các ngành và nhân dân như: Quy mô kinh tế biển còn nhỏ bé; cơ
cấu ngành, nghề chưa hợp lý; mới phát triển một phần ở vùng biển quốc gia,
chưa chuẩn bị điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế; công trình hạ tầng kỹ
thuật biển còn yếu kém và chưa đồng bộ, năng lực vận tải biển còn nhỏ bé, các
tuyến đường ven biển chưa được xây dựng hoàn chỉnh và đồng bộ...
Tác giả Thế Đạt: “Nền kinh tế các vùng ven biển của Việt Nam” [71], đã
nêu bật được bức tranh toàn cảnh môi trường của phức hệ sinh thái - kinh tế
các vùng ven biển Việt Nam, từ các tỉnh, thành phố vùng biển phía Đông Bắc
Tổ quốc như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình đến
các tỉnh, thành phố vùng biển Nam Bộ như: Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng
Tàu, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau v.v Đặc biệt, tác giả
đã khái quát được đặc điểm kinh tế gắn liền với biển của các tỉnh, vùng biển
Việt Nam. Đây là một bức tranh đầy đủ nhất về tiềm năng kinh tế biển, về sự
phát triển kinh tế gắn liền với phát huy lợi thế về biển của các tỉnh, thành phố
ven biển Việt Nam. Là cơ sở quan trọng để Đảng đề ra chủ trương, đường lối
đúng đắn nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế biển ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Thanh Minh với cuốn: “Tiềm năng biển Việt Nam và
chính sách hợp tác quốc tế về biển trong thập niên đầu thế kỷ XXI” [94], tác
giả trình bày rõ vị trí, vai trò của biển và việc phân định ranh giới trên biển
giữa Việt Nam và các nước trong khu vực. Đồng thời, cũng nêu bật được tiềm
năng của biển và chính sách về biển của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh
hội nhập quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, cuốn sách chưa đề cập đến những quan
điểm, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế biển, trong đó có KTHH,
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cũng như chưa đưa ra những
giải pháp để phát triển kinh tế biển đạt được hiệu quả cao.
Tác giả Phạm Ngọc Anh với bài: “Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt
Nam trong hội nhập quốc tế” [1], tác giả phân tích và làm rõ cơ sở lý luận,
thực tiễn của Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam với những lợi thế
8
phát triển, nêu rõ quan điểm, mục tiêu về phát triển kinh tế biển. Trong bối
cảnh hội nhập quốc tế gắn liền với bảo vệ chủ quyền biển, đảo và an ninh
quốc gia, Việt Nam đang hướng tới một chiến lược mới về phát triển kinh tế
biển, xây dựng một quốc gia kinh tế biển, giàu từ biển, mạnh về biển.
Tác giả Nguyễn Đăng Đạo với bài: “Phát triển kinh tế - xã hội vùng ven
biển, hải đảo gắn với bảo vệ môi trường và an ninh quốc gia” [69], đã tập
trung phân tích và làm rõ mối quan hệ mật thiết giữa phát triển KT-XH vùng
ven biển và hải đảo gắn với bảo đảm an ninh, quốc phòng trên biển, bảo vệ và
giữ vững môi trường biển. Tác giả khẳng định, nếu không phát triển KT-XH
ở những vùng ven biển và hải đảo thì không thể góp phần đảm bảo an ninh,
quốc phòng trên các vùng biển, đảo và không thể góp phần bảo vệ chủ quyền
và gìn giữ môi trường biển.
Tác giả Phạm Đức Ngoan với bài: “Tiềm năng và vấn đề đặt ra của kinh
tế biển Việt Nam” [100], đã nêu bật được tiềm năng và thế mạnh của biển
Việt Nam là rất phong phú và đa dạng, nếu biết khai thác một cách hợp lý và
có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Tác giả
cũng chỉ ra những bất cập trong công tác quản lý, khai thác nguồn tài nguyên
biển ở Việt Nam hiện nay như: Tình trạng nhiều bộ, ngành cùng tham gia
quản lý khai thác tài nguyên biển, đảo; sự phối hợp giữa các bộ, ngành còn
thiếu chủ động, chức năng quản lý biển, đảo còn chồng chéo, dẫn đến bất cập
trong thực hiện quy hoạch cũng như khai thác, bảo vệ môi trường biển và sử
dụng tiềm năng biển, đảo của Việt Nam.
Tác giả Trương Minh Tuấn với bài: “Việt Nam với mục tiêu phát triển
kinh tế biển, đảo bền vững trong “thế kỷ của đại dương” [140], đã nêu được
cơ sở lý luận của mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam đến
năm 2020, nhằm đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề gắn với cơ cấu phong phú, hiện đại,
tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả. Đồng thời cho rằng, việc
phát triển kinh tế biển hiện nay vẫn chưa xứng tầm với các điều kiện và lợi
thế địa kinh tế và địa chính trị của Việt Nam. Tác giả đề xuất những nhóm
9
giải pháp cần được quan tâm triển khai một cách đồng bộ như kết hợp chặt
chẽ giữa phát triển KT-XH với bảo đảm quốc phòng, an ninh, hợp tác quốc tế;
chú trọng công tác quy hoạch và tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, luật
pháp về lĩnh vực biển; hình thành và phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn
phù hợp với lợi thế của các vùng biển, đảo; cần phát triển hợp lý không gian
KT-XH vùng biển và ven biển.... Từ đó, phát huy những thành tựu đã đạt,
đồng thời tổ chức triển khai thực hiện một cách đồng bộ, mạnh mẽ của các
cấp, các ngành, cổ vũ động viên, khuyến khích nhân dân nâng cao tinh thần
thi đua yêu nước, yêu biển, đảo quê hương.
Tác giả Nguyễn Đức Phương với đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 1986 đến năm 2001” [105],
tác giả hệ thống được những chủ trương của Đảng về bảo vệ chủ quyền biển,
đảo Tổ quốc từ năm 1996 đến năm 2001 và quá trình thực hiện đường lối của
Đảng vào bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc thông qua các kỳ Đại hội của
Đảng Cộng sản Việt Nam, từ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ IX. Từ
đó, rút ra những kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo bảo vệ chủ quyền
biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Cùng tác giả Nguyễn Đức Phương với đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 2001 đến năm 2011”
[107], đã góp phần hệ thống các chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về bảo vệ
chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 2001 đến năm 2011. Trong đó, tác giả
nhấn mạnh việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo là một yêu cầu khách quan đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong phát triển KT-XH
của đất nước hiện nay. Đồng thời, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong
việc tăng cường bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc kết hợp với phát triển kinh
tế biển từ năm 1996 đến năm 2011 là đúng đắn và phù hợp với yêu cầu khách
quan. Từ đó, đánh giá và rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo
bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 2001 - 2011.
Tác giả Nguyễn Thanh Minh với đề tài: “Quá trình triển khai chính sách
biển của Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2010” [97], đã nêu bật được các cơ
10
sở hình thành và nội dung chính sách biển của Việt Nam, trong đó xác định rõ
vị trí và vai trò của biển đối với sự phát triển KT-XH. Đồng thời, đưa ra được
những dữ kiện lịch sử và pháp lý để xác lập các vùng biển thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyền và tài phán của quốc gia, quá trình triển khai những nội
dung, chính sách về biển của Việt Nam hiện nay trên tất cả các lĩnh vực an
ninh, quốc phòng, kinh tế biển, hợp tác quốc tế về biển, phân định biển và bảo
vệ môi trường biển. Trên cơ sở đó, tác giả đã nêu lên một số kinh nghiệm
trong quá trình triển khai chính sách về biển của Đảng và Nhà nước hiện nay.
Tác giả Nguyễn Thị Anh với đề tài: “Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh
đạo phát triển kinh tế biển từ năm 1996 đến năm 2010” [2], đã tập trung làm
rõ những chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hải Phòng trong
phát triển kinh tế biển từ năm 1996 đến năm 2010, những kết quả đạt được
trong quá trình phát triển kinh tế biển đã giúp cho Hải Phòng vươn lên trở
thành một trong những trung tâm kinh tế biển năng động và phát triển ở vùng
đồng bằng Bắc bộ. Qua đó, tác giả cũng đưa ra một số nhận xét và đúc rút
những kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo
phát triển kinh tế biển như nhận thức đúng được vị trí, vai trò của kinh tế biển
trong phát triển KT-XH của thành phố; phát triển kinh tế biển toàn diện, phù
hợp với tiềm năng và xu thế phát triển của địa phương v.v... Những kết quả
mà thành phố Hải Phòng đạt được trong phát triển kinh tế biển sẽ là mô hình
cho các tỉnh có biển trong cả nước tham khảo và học tập.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu của các học giả trong nước, còn
có các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài. Một trong những
cuốn sách nổi tiếng thế giới được nhiều quốc gia dịch, phát hành và coi đây là
cuốn cẩm nang trong phát triển kinh tế biển của tác giả Alfred Thayer Mahan,
Phạm Nguyên Trường dịch (1890), sách: “Sức mạnh biển đối với lịch sử thời
kỳ 1660 - 1783” [136].
Mahan xuất thân là một sĩ quan hải quân dạy lịch sử tại Học viện Hải quân
Mỹ, Mahan đã nghiên cứu kỹ quá trình trở thành cường quốc của Anh, Hà Lan,
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và quá trình Anh Quốc trở thành bá chủ thế giới.
11
Mahan đã tổng kết kinh nghiệm lịch sử của các cường quốc mạnh về
biển trên thế giới và cho rằng: Sự ham muốn của loài người đối với biển là sự
ham muốn vận chuyển, tức là buôn bán. Buôn bán trong bất kỳ thời đại nào
cũng đều có thể trở nên giàu có, của cải là sự thể hiện sức mạnh của quốc gia.
Của cải có quan hệ chặt chẽ với biển cả và chính biển cả là điểm xung đột của
tất cả những quốc gia muốn trở nên giàu có và hùng mạnh.
Mahan cho rằng, các quốc gia muốn phát triển mạnh thì phải kiểm soát
biển, phải giành lấy và giữ quyền kiểm soát biển, nhất là kiểm soát các tuyến
giao thông biển huyết mạch liên quan đến lợi ích và ngoại thương của quốc
gia mình - sức mạnh biển là nhân tố chính làm cho đất nước giàu mạnh. Muốn
thế, phải có lực lượng hải quân và đội thương thuyền mạnh cùng với một số các
căn cứ địa trên biển. Cuốn sách của Mahan có ảnh hưởng lớn đến chính sách
ngoại giao của các nước và mô hình phát triển kinh tế biển của các nước này.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu trực tiếp về Biển Đông,
Hoàng Sa, Trường Sa như: “Phân tích về địa lý - chính trị cuộc xung đột và
tranh chấp biên giới Việt - Trung liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa ở biển Nam Trung Hoa” của Peaun Medes Antunes [102]; “Các
đảo tranh chấp ở vùng biển Nam Trung Hoa, Hoàng Sa - Trường Sa - Pratas -
Bãi Maccelesfield”, công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu các vấn đề châu
Á tại Hamburg; “Quần đảo Trường Sa: Liệu có còn thích hợp khi tranh cãi về
vấn đề chủ quyền”, công trình nghiên cứu của Viện nghiên cứu Khoa học pháp
lý (trường Đại học Tổng hợp Philippines); “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa: Thử phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc” của Từ
Đặng Minh Thu; “Lập trường của Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền trên
hai hòn đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế” của Đào Văn Thụy;
“Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và sự sử dụng luật pháp quốc tế trong tranh
chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa” của Michael Bennett.
Điểm chung của các công trình nghiên cứu về tình hình Biển Đông, nhất
là tình hình tranh chấp chủ quyền trên biển giữa các quốc gia trong khu vực
đều khẳng định: Biển Đông đang là “vùng biển nóng”, nơi hội tụ nhiều mâu
12
thuẫn về kinh tế, chính trị của khu vực và thế giới; tranh chấp chủ quyền trên
biển ở khu vực vừa là vấn đề của lịch sử, vừa là vấn đề của hiện tại đang diễn
ra hết sức phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường.
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về kinh nghiệm của các quốc gia
phát triển kinh tế biển trên thế giới
Trong các cuốn sách “Lịch sử kinh tế của các nước đảo trên thế giới” của tác
giả Thế Đạt [70] và “Chiến lược phát triển kinh tế ven biển Trung Quốc” của tác
giả Đoàn Văn Trường [137], về cơ bản các công trình nghiên cứu tập trung những
vấn đề sau:
Thứ nhất, khái quát quá trình xuất hiện của “tư duy biển” trong lịch sử
phát triển của loài người. Theo các tác giả, cách đây hơn 2000 năm, triết gia
cổ đại La Mã Cecero nói: “Ai kiểm soát biển thì người đó kiểm soát cả thế
giới”. Các dân tộc ở Tây và Bắc châu Âu từ cổ xưa đã đóng thuyền vượt đại
dương đi khắp nơi buôn bán, chiếm đất. Các nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Anh, Hà Lan..., tranh giành nhau làm bá chủ trên biển để thực hiện bằng
được tư tưởng của Bá tước Uon-Loi: Ai khống chế biển, người ấy khống chế
buôn bán, ai khống chế buôn bán, người ấy khống chế của cải của thế giới.
Thứ hai, khái quát được mô hình phát triển kinh tế biển và quản lý biển
của một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Liên Bang Nga, Nhật
Bản, Canada.... Xét dưới góc độ khái quát mô hình phát triển kinh tế biển của
các quốc gia, tập trung vào: Thúc đẩy các ngành nghề biển phát triển phong
phú, sôi động (đặc biệt là ngoại thương); đẩy mạnh khai thác vùng biển quốc
tế; xây dựng hệ thống quản lý toàn diện vùng biển thuộc chủ quyền biển quốc
gia; làm cho quốc gia năng động hơn trên đại dương (xây dựng lực lượng hải
quân với trang thiết bị hiện đại, đẩy mạnh phát triển khoa học biển).
Tác giả Ngọc Hiền với bài: “Xây dựng hành lang kinh tế biển một trong
những mục tiêu Chiến lược biển của Trung Quốc trong tương lai” [78], đã nêu
lên những ý tưởng của Trung Quốc trong việc xây dựng một hành lang kinh tế
biển với sự tham gia của các nước ASEAN, Đông Timo, Papua Niu Ghinê và
Ôxtrâylia... (ASEAN - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á). Hành lang kinh
tế này có tầm quan trọng, được thể hiện thông qua một số lĩnh vực như: Xây
13
dựng tuyến đường thương mại du lịch Tây Thái Bình Dương giữa Bắc và
Nam bán cầu, nối liền từ Trung Quốc qua các nước ASEAN đến Châu Đại
Dương; công cuộc mở cửa của Trung Quốc được mở rộng về phía Đông
Nam, giúp quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN được cân bằng;
giúp điều hòa quyền lợi từ nguồn tài nguyên thiên nhiên trong lòng đại
dương giữa các nước một cách công bằng hơn; có vai trò trong việc hợp tác
bảo vệ môi trường và tài nguyên; các nước trong hành lang kinh tế biển cùng
nhau tìm kiếm phương thức hợp tác mới trong khu vực.
Như vậy, đối với Trung Quốc, việc xây dựng hành lang kinh tế biển như
một con đường rộng lớn để thu hút nguồn tài nguyên thiên nhiên được mở xuống
khu vực phía Đông Nam. Chính vì thế, Trung Quốc đang ra sức đẩy mạnh và
phát huy vai trò đầu tàu thể hiện bằng những bước đi, trước hết là thương thảo
sớm với các nước chủ yếu ven trục hành lang như Malaysia, Inđônêsia,
Philipines và Ôxtrâylia.... tiếp theo là tăng cường mức độ khai thác khu vực phía
Nam Biển Đông, điều tra nghiên cứu tiềm lực phát triển ở các trung tâm, các
thành phố và các khu vực dọc hành lang để đưa ra những phương án phát triển.
Tác giả Ngọc Hiền với bài: “Chiến lược kinh tế biển của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ” [79], đã nêu bật vai trò của biển trong thế kỷ XXI, đây là
những lý do để các nhà chiến lược xem thế kỷ XXI là “thế kỷ của đại dương”.
Qua đó, cho thấy các nhà chiến lược Hoa Kỳ đã nhận thức rất rõ vai trò của
biển đối với quá trình phát triển KT-XH của quốc gia mình, đồng thời đưa ra
chính sách quốc gia về biển dựa trên quan điểm chủ đạo "Thế giới hài hòa,
đại dương hài hòa". Qua chiến lược kinh tế biển của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,
sẽ giúp cho các nước có biển khai thác và phát triển tài nguyên biển tích cực
hơn. Trước tiên, các quốc gia sẽ khai thác nguồn năng lượng, sau đó là
khoáng sản, trong đó có một số kim loại và tiếp đến là các ngành nghề mang
tính truyền thống liên quan đến biển như vận tải biển, đóng tàu, đánh bắt hải
sản, du lịch biển... Ngoài ra, các ngành công nghiệp hóa chất, tận dụng nguồn
nước biển và khoa học công nghệ về biển, du lịch và dịch vụ giải trí biển... sẽ
là các ngành phát triể... hàng hải Việt Nam là vô
cùng to lớn, với tổng sản lượng hàng hóa vận chuyển có thể đạt 50 triệu
tấn/năm. Nhìn vào tương lai, hệ thống liên vận Đông Nam Á, Việt Nam cũng
có thể phát triển một số cảng chuyên dụng hoặc cảng quá cảnh cho các nước
láng giềng Trung Quốc, Lào và Mianma.
Xem xét từ góc độ của Luật Biển quốc tế, Việt Nam có lợi thế để mở
rộng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, lợi thế trong phát triển
kinh tế biển, giao thông vận tải biển (GTVT). Tuy nhiên, Việt Nam cũng gặp
những thách thức lớn, liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông, nhất là khi
Trung Quốc đưa ra những yêu sách phi lý về vùng biển rộng lớn xung quanh
Việt Nam, trái với các quy định của Luật Biển quốc tế.
Hiện nay, các nước trong khu vực đang tích cực khởi động chương trình
phát triển Tiểu vùng Mê Kông. Vì vậy, với vị trí chiến lược ở Biển Đông,
Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc phát triển KTHH như: Tăng nhanh số
lượng đội tàu biển để vận chuyển hàng hóa trong và ngoài nước; phát triển
dịch vụ vận tải biển và cho xây dựng tiếp các cảng biển có tầm cỡ quốc tế,
đặc biệt là các cảng biển nước sâu để đón các tàu có trọng tải lớn. Đồng thời,
bảo vệ vững chắc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển, góp phần
giữ vững ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển KT-
XH với bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển; có chính
sách hấp dẫn để thu hút nguồn lực cho phát triển kinh tế biển và KTHH.
1.1.3. Thực trạng phát triển kinh tế hàng hải Việt Nam trước năm 1996
- Kinh tế biển, kinh tế hàng hải trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội
đất nước
Thực tiễn cho thấy, tại các tỉnh, thành phố ven biển, với vị trí địa lý và
điều kiện tự nhiên thuận lợi, các hoạt động kinh tế gắn liền với lợi thế do tự
nhiên tạo ra luôn sôi động. Ngành KTHH phát triển (đặc biệt là vận tải biển)
đã mở ra cơ hội hội nhập thị trường quốc tế cho các mặt hàng của nhiều
29
ngành kinh tế, đồng thời mang về những nguyên liệu, sản phẩm nhập khẩu
cần thiết cho ngành công nghiệp trong nước. Thông qua hoạt động hàng hải,
giao lưu kinh tế diễn ra trên khắp các vùng, miền, quốc gia và trên thế giới.
Sự hình thành các hệ thống cảng biển, đặc biệt là các cảng biển nước sâu sẽ
thu hút đầu tư mạnh mẽ để hình thành các khu công nghiệp, khu kinh tế và đô thị
mới. Chính nhờ có hệ thống giao thông biển, cảng biển mà các trung tâm công
nghiệp lớn ở Việt Nam được hình thành và phát triển. Tất cả các cảng đều gắn
liền với các trung tâm công nghiệp như: Khu khí điện đạm Phú Mỹ, Cà Mau,
Khu lọc hóa dầu Dung Quất, Nghi Sơn, Khu kinh tế Chu Lai... Mặt khác, trong
tương lai, phát triển kinh tế biển, KTHH còn có tiềm năng to lớn cho việc phát
triển ngành công nghiệp điện (điện gió và điện nguyên tử dọc bờ biển).
Bên cạnh đó, vận tải biển cũng có tác động tích cực trong hoạt động du
lịch, hàng năm có tới hàng trăm ngàn người từ khắp nơi trên thế giới đến Việt
Nam du lịch bằng đường biển, góp phần giúp Việt Nam tiếp cận, giao lưu với
các nền văn hóa thế giới và khu vực. GTVT, trong đó có giao thông hàng hải, là
mạch máu của mọi nền kinh tế. Để kinh tế phát triển, GTVT phải đi trước một
bước. Trong suốt những năm qua, kinh tế biển, KTHH đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, thu hút lực lượng lao động lớn
không chỉ của địa phương ven biển, mà còn của các tỉnh, thành khác trong cả
nước. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ
trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp
ở các tỉnh, thành ven biển đã và đang tạo điều kiện cho sự phát triển KT-XH
của đất nước phát triển.
- Quá trình nhận thức của Đảng về kinh tế hàng hải
Ngày 5/5/1965, Bộ Giao thông vận tải ra Quyết định số 1046/QĐ giải
thể Cục Vận tải đường thuỷ được thành lập năm 1955, để thành lập Cục Vận
tải đường biển và Cục Vận tải đường sông. Từ đó, ngày 5/5 hàng năm trở
thành ngày truyền thống của Ngành.
Ngày 10/7/1965, Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) ra Quyết định
số 136/CP, chính thức thành lập Cục Vận tải đường biển, tiền thân của Cục
30
HHVN ngày nay. Với chức năng trực tiếp quản lý và điều hành các cơ sở vật
chất của ngành Hàng hải như: Hệ thống cảng biển, đội tàu biển, đại lý tàu
biển, bảo đảm hàng hải, công nghiệp sửa chữa cơ khí, xây dựng công trình
thuỷ và các trường đào tạo công nhân kỹ thuật đường biển
Sau năm 1975, Việt Nam bắt đầu tham gia Hội nghị Luật Biển quốc tế
và ngày càng quan tâm đến quá trình phát triển của Luật Biển, kể cả tham gia
soạn thảo Công ước Luật Biển mới. Đến ngày 12/5/1977, Chính phủ ra tuyên
bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng kinh tế đặc quyền và thềm lục địa.
Ngày 28/11/1978, Chính phủ ra Quyết định số 300/QĐ thành lập Tổng
Cục đường biển Việt Nam, trực thuộc Bộ Giao thông vận tải. Với mô hình
Tổng cục, ngành Đường biển Việt Nam chuyển sang thời kỳ phát triển mới.
Ngày 29/1/1980, Chính phủ ra Nghị định số 30-CP về quy chế cho tàu,
thuyền nước ngoài hoạt động trên vùng biển Việt Nam.
Ngày 12/11/1982, Chính phủ ra tuyên bố về đường cơ sở để tính chiều
rộng lãnh hải Việt Nam. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của Cục
Vận tải đường biển ở miền Nam, Cục tổ chức và chỉ đạo trực tiếp bốn công ty
vận tải biển, tương ứng với 4 đội tàu: VOSCO, VIETCOSHIP, SOVOSCO,
VITACO cùng với 8 cảng biển quốc gia và quốc tế gồm: Quảng Ninh, Hải
Phòng, Bến Thủy, Đà Nẵng, Bình Trị Thiên, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn.
Đến cuối năm 1976, ngành đã quản lý 25.096 lao động.
Ngày 4/4/1989, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ký Quyết định số
264/TCCB-LĐ về việc chuyển đổi Tổng Cục Đường biển thành Liên hiệp
HHVN trực thuộc Bộ Giao thông vận tải.
Ngày 14/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng chính thức ký Quyết định thành
lập Liên hiệp HHVN. Các đơn vị sản xuất, kinh doanh nằm trong Liên hiệp
gọi tắt là các xí nghiệp thành viên do Liên hiệp HHVN quản lý, điều hành
theo kế hoạch của Bộ Giao thông vận tải.
Tại kỳ họp thứ VII, ngày 30/6/1990, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã chính thức thông qua Bộ Luật HHVN và chính thức có
hiệu lực từ ngày 1/1/1991. Sự ra đời của Bộ luật có ý nghĩa quan trọng, từ đây
31
ngành Đường biển đã có một cơ sở pháp lý cần thiết để xác lập các mối quan
hệ kinh doanh hợp pháp, tạo ra uy tín cho ngành có thể hội nhập với thị
trường hàng hải khu vực và thế giới.
Ngày 29/6/1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 239/HĐBT về
việc thành lập Cục Hàng hải Việt Nam (Cục HHVN). Cục HHVN ra đời với
trọng trách thay mặt Nhà nước quản lý về mặt nhà nước chuyên ngành Hàng
hải trên phạm vi cả nước.
Ngày 6/5/1993, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 03/NQ-TW bàn về một số
nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt. Nghị quyết chỉ
rõ: “Vị trí và đặc điểm địa lý của nước ta, cùng với bối cảnh phức tạp trong vùng
vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi
đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và môi trường sinh thái biển,
phấn đấu trở thành một nước mạnh về biển”, việc nhấn mạnh “trở thành một nước
mạnh về kinh tế biển là mục tiêu chiến lược xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách
quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam” [11, tr.2].
Ngày 15/8/1993, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 399/TTg về việc
thực hiện Nghị quyết 03/NQ-TW của Bộ Chính trị, trong đó tiếp tục nhấn
mạnh việc thực hiện mục tiêu trở thành một nước mạnh về kinh tế biển. Nhận
thức được điều đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm đưa ra những chiến lược
để phát triển KTHH, trong đó tập trung đầu tư vào những ngành kinh tế mũi nhọn
như: Xây dựng hệ thống cảng biển, vận tải biển và đóng tàu, nhằm phấn đấu đưa
Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển.
Hơn nữa, hướng ra biển để phát triển kinh tế biển, phát triển KTHH là
một đòi hỏi bức thiết của mở cửa và hội nhập khi Việt Nam đang ở điểm xuất
phát thấp. Là một quốc gia có biển, một yếu tố mà thế giới luôn xem là “địa
lợi” cho sự phát triển KT-XH của đất nước, vậy Việt Nam cần tăng cường
hơn nữa khả năng vươn ra biển và xác định đây là động lực quan trọng để
thúc đẩy các vùng kinh tế khác trong đất liền phát triển.
Sau khi Bộ Luật HHVN ra đời và đi vào cuộc sống, đã góp phần thúc đẩy
quá trình phát triển KT-XH nói chung và KTHH nói riêng. Đồng thời, ngành
32
HHVN có điều kiện chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, tạo điều kiện
hết sức thuận lợi cho ngành có những bước phát triển vượt bậc về quy mô và
hiệu quả, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
- Kết quả phát triển một số ngành kinh tế hàng hải Việt Nam trước
năm 1996.
Sau 10 năm tiến hành đổi mới đất nước, cùng với xu thế toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã dần nhận thức được
tầm quan trọng và vị trí chiến lược của biển trong tiến trình phát triển KT-XH
của đất nước, đặc biệt là phát triển KTHH với 3 lĩnh vực chủ chốt: Công
nghiệp đóng tàu, vận tải biển, cảng và dịch vụ cảng biển, bước đầu đã đạt
được những kết quả quan trọng sau:
Ngành công nghiệp đóng tàu: Cùng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế, ngành đóng tàu Việt Nam đã từng bước hội nhập sâu rộng
thông qua việc đầu tư, đóng mới nhiều tàu có trọng tải lớn, chuyên dùng đạt
chất lượng cao và từng bước nội địa hóa các trang thiết bị cho đóng tàu vươn
xa để phục vụ trong nước và thế giới. Đồng thời, trình độ, năng lực đóng tàu
đã có tiến bộ vượt bậc, hiện đại hoá một bước theo hướng tập trung quy mô
lớn, bước đầu có phân công chuyên môn hoá, vươn ra đóng tàu cỡ lớn,
chuyên dùng đạt chất lượng cao trong đó có tàu chở khách từ 100 - 200 chỗ
ngồi, tàu hút bùn 1.000 - 2.500m3, tàu công trình, tàu tuần tra cao tốc, với
chất lượng ngày càng cao.
Việt Nam đã dần nâng cao được tỷ lệ nội địa hoá, giảm dần nhập khẩu
vật tư thiết bị phục vụ cho ngành đối với các sản phẩm phụ trợ như sơn, đúc,
que hàn, khí công nghiệp, tấm thép cỡ lớn ghép sànĐồng thời, phát triển
các ngành công nghiệp hỗ trợ như thép, cơ khí, điện tử hoá chất, đang trong
giai đoạn đầu tư phát triển. Tính đến trước năm 1996, tổng số lao động làm
việc trong ngành đóng tàu khoảng 20.000 người (riêng Tổng Công ty Công
nghiệp tàu thủy Việt Nam (CNTT) có khoảng 8.500 người).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành công nghiệp đóng
tàu vẫn còn một số yếu kém như sau:
33
Còn dựa khá nhiều vào chính sách hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, kể cả
việc đầu tư và cơ chế cấp vốn. Các dự án đóng tàu biển lớn còn trông chờ vào
kế hoạch của Nhà nước. Nhiều vùng, tỉnh, thành phố có lợi thế về biển, ven biển,
nhưng trình độ, quy mô phát triển chưa tương xứng với lợi thế tiềm năng.
Chưa xây dựng được chiến lược cụ thể cho từng doanh nghiệp, từng
ngành hàng gắn với chiến lược thị trường rõ ràng và đầy đủ; thiếu vắng doanh
nghiệp, cơ sở đóng tàu mạnh, quản lý hiện đại, đủ sức làm đầu tàu phát triển,
đi đầu trong xu thế cạnh tranh hội nhập.
Cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ công nghiệp của ngành vẫn còn ở
mức thấp, phần lớn các doanh nghiệp đang trong giai đoạn đầu tư và phát triển,
nên năng lực sản xuất chưa được nâng cao, chu kỳ sản xuất còn dài, sức cạnh
tranh còn hạn chế. Mức độ, tốc độ đầu tư thiết bị, công nghệ theo hướng
CNH,HĐH chậm, công nghệ thiết bị và quản lý còn lạc hậu, chưa đáp ứng được
yêu cầu, chưa thực hiện được đi tắt đón đầu trong đổi mới công nghệ ngành đóng
tàu. Các thiết bị máy chuyên dùng và cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, già cỗi,
xuống cấp, hao mòn hữu hình tới 46 - 48%, công nghệ phần lớn rất lạc hậu.
Cơ chế phối kết hợp giữa các ngành hàng cung cấp vật tư thiết bị với
doanh nghiệp đóng tàu còn lỏng lẻo. Phối kết hợp giữa đóng tàu với yêu cầu
đảm bảo an ninh, quốc phòng chưa tốt. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh còn thấp. Chưa có chính sách hợp lý để khuyến khích đóng tàu trong
nước. Đồng thời, các cơ chế, chính sách chưa thực sự hấp dẫn công nhân bậc
cao, cán bộ quản lý giỏi để xây dựng cơ sở vật chất phục vụ đóng tàu.
Ngành vận tải biển: Từ khi Bộ Luật HHVN ra đời và Chỉ thị 399/TTg
của Thủ tướng Chính phủ (năm 1993) về phát triển kinh tế biển, Chính phủ đã
quan tâm chỉ đạo để nâng thị phần vận chuyển của đội tàu biển Việt Nam.
Đặc biệt, một loạt các hiệp định hàng hải với các nước được ký kết, ngành
vận tải biển đã đạt được những kết quả quan trọng như:
Phát triển nhanh đội tàu và tham gia tích cực vào vận tải hàng hóa. Theo
số liệu thống kê của Cục HHVN năm 1996, tính đến hết tháng 10/1996, Việt
Nam đã xây dựng được đội tàu biển quốc gia gồm 408 chiếc với tổng trọng tải
34
hơn 732.000 DWT (Tấn trọng tải), gấp 2 lần số lượng tàu và 3 lần về trọng tải
so với 1986), bình quân tăng 20% về số lượng và 25% về trọng tải/năm.
Trong đó, tàu container có 10 chiếc, trọng tải gần 100.000 DWT; tàu dầu có
40 chiếc, trọng tải gần 450.000 DWT và một số loại tàu khác với số lượng
hơn 300 chiếc. Nòng cốt của đội tàu biển quốc gia là đội tàu của Tổng Công
ty HHVN - Vinalines, với số lượng gần 100 chiếc, chiếm hơn 20% tổng trọng
tải của đội tàu quốc gia. Không chỉ tăng năng lực vận tải (tính đến tháng
10/1996, sản lượng vận tải đạt 25 triệu tấn, tăng gấp 7 lần so với năm 1986),
mà còn có sự thay đổi cơ bản về cơ cấu, chất lượng đội tàu, tạo thêm thị
trường và trực tiếp tham gia thị trường khu vực, khách hàng nước ngoài đã sử
dụng phần lớn năng lực đội tàu của Vinalines.
Về cơ chế, chính sách: Ngành đã xây dựng các đề án và quy chế hoạt
động theo từng lĩnh vực, đồng thời thực hiện nghiêm túc chủ trương, chính
sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhờ đó trong lĩnh vực vận tải đã
thu hút được khá nhiều chủ tàu thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh tham gia. Đến đầu năm 1995, ngoài quốc doanh có 142 chủ tàu, phân
ra ở 3 khu vực: Miền Bắc, 80 chủ tàu; miền Trung, 22 chủ tàu; miền Nam, 40
chủ tàu, trong đó có không ít chủ tàu là tư nhân. Đội ngũ này đã góp phần
đáng kể vào việc huy động vốn để phát triển đội tàu và tham gia chia sẻ thị
trường vận tải biển, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá của nền kinh tế.
Tuy nhiên, ngành vận tải biển vẫn còn một số hạn chế, bất cập như:
Cơ cấu đội tàu chưa cân đối, còn thiếu nhiều tàu chuyên dùng như tàu
chở container, tàu chở dầu, tàu chở hàng rời. Tuổi bình quân của đội tàu viễn
dương cao từ 15 - 17 tuổi, chi phí quản lý khai thác cao, trong khi đó các
doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn về tài chính, khó vay vốn để đẩy mạnh
đổi mới đội tàu và thiết bị trên tàu.
Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách cụ thể, đặc biệt là cơ chế tài
chính và tổ chức đồng bộ thực hiện các chính sách về vận tải biển, cơ chế
cung cấp vật tư, thiết bị chuyên dùng, chính sách lương, thưởng Vì thế, thị
phần vận chuyển và tốc độ tăng vận tải hàng hoá của đội tàu biển Việt Nam
35
chưa tăng đáng kể (năm 1995 chỉ vận chuyển được 14 - 15% tổng khối lượng
hàng hoá xuất, nhập khẩu bằng đường biển), hàng hoá xuất, nhập khẩu của
Việt Nam vẫn bị các đội tàu của nước khác cạnh tranh mạnh.
Còn thiếu cơ chế chính sách thiết thực hỗ trợ, khuyến khích phát triển
đội tàu biển quốc gia, nhất là chưa có chính sách khuyến khích thuê tàu trong
nước, mà chủ yếu thuê tàu nước ngoài, như tàu có độ tuổi ít để phục vụ cho
ngành vận tải biển.
Công tác quản lý nhà nước, nhất là quản lý đảm bảo an toàn phương tiện
vận tải biển chưa thật bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nên sự cạnh
tranh còn thiếu lành mạnh, nhất là đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận
tải biển tư nhân.
Về nguồn nhân lực: Cơ cấu đội ngũ thuỷ thủ, thuyền viên hiện còn mất
cân đối lớn, thiếu nhiều thuỷ thủ, thuyền viên giỏi làm việc trên các tàu biển
hiện đại, chuyên dùng, nhất là các tàu chở dầu thô và các tàu container cỡ lớn.
Đội ngũ cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát
triển của ngành vận tải biển, đặc biệt về trình độ ngoại ngữ, luật thương mại
và luật hàng hải quốc tế
Cảng và dịch vụ cảng biển: Trước năm 1996, hệ thống cảng biển Việt
Nam đã có bước phát triển quan trọng, như: Quy mô cảng ngày càng tăng,
nếu cuối năm 1990, Việt Nam chỉ có hơn 70 cầu cảng, với 16.000 mét cầu
bến, 7 khu chuyển tải, thì đến năm 1995 đã xây dựng được hơn 90 cầu cảng,
với 24.000 mét cầu bến và 10 khu chuyển tải. Hệ thống cảng biển này hiện do
nhiều thành phần quản lý, trong đó có 8 cảng do Trung ương quản lý, quân
đội 4 cảng và 21 cảng quản lý dưới hình thức liên doanh.
Khối lượng hàng hoá thông qua cảng tăng, năm 1990 đạt 30 triệu tấn,
năm 1995 là 34 triệu tấn, tốc độ tăng bình quân 5%/năm. Đã có các cảng
mang tầm cỡ khu vực như: Hải Phòng, Cẩm Phả, Tân Cảng, Sài Gòn có công
suất gần 10 triệu tấn/năm. Bước đầu hiện đại hoá phương tiện xếp dỡ, quy
hoạch và sắp xếp lại kho bãi, xây dựng và nâng cấp thêm các cầu cảng nên
năng lực xếp, dỡ được nâng cao, giải phóng tàu nhanh. Một số cảng được
36
nâng cấp và mở rộng như Hải Phòng, Cái Lân, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha
Trang, Sài Gòn, Cần Thơ. So với quốc tế, nhìn chung quy mô cảng còn nhỏ,
nhưng thời gian qua, hệ thống cảng biển đã đảm nhiệm thông qua hầu hết
lượng hàng ngoại thương của Việt Nam và hỗ trợ một phần việc trung chuyển
hàng hoá xuất, nhập khẩu của Lào, góp phần đưa nước ta từng bước tiếp cận
và hội nhập với khu vực và thế giới. Hơn 95% khối lượng hàng xuất, nhập
khẩu được vận chuyển qua hệ thống cảng biển.
Trong phát triển cảng biển, đã có một số nhân tố mới năng động trong việc
chủ động vay vốn đầu tư, phát triển mở rộng sản xuất như: Cảng Hải Phòng, Đà
Nẵng, Sài Gòn; các cảng đầu tư bằng vốn ngân sách đã triển khai cho doanh
nghiệp thuê khai thác (cảng Cái Lân, Vũng Áng) nhằm thu hồi vốn nhà nước,
tránh được tình trạng chỉ giao vốn, không rõ thời hạn thu hồi như trước đây.
Tuy nhiên, cảng biển Việt Nam chủ yếu có quy mô nhỏ. Trong tổng số
126 cảng biển ở các vùng, miền thì chỉ có 4 cảng (than Cẩm Phả, Hải Phòng,
Sài Gòn, Tân Cảng) có công suất gần 10 triệu tấn/năm, còn lại đều là cảng
quy mô nhỏ, khả năng neo đậu được tàu 3.000 tấn trở xuống. Thiết bị còn lạc
hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Các chỉ tiêu hàng năm thông qua
cảng trên đầu người rất thấp so với các nước trong khu vực (chỉ bằng 1/140
của Singapore, 1/7 của Malaysia và 1/5 của Thái Lan). Năng suất xếp, dỡ bình
quân chỉ đạt mức trung bình thấp so với các nước trong khu vực (khoảng
2.500 - 3.000 tấn/mét/năm).
Tổ chức thực hiện quy hoạch cảng chậm, chưa có tầm nhìn về phát
triển cảng, việc cập nhật, điều chỉnh bổ sung quy hoạch chưa được kịp thời.
Nhiều cảng biển xuống cấp chưa được cải tạo nâng cấp. Một số cảng còn
thiếu bến container, kho tàng thiếu hoặc hư hỏng, trang thiết bị xếp, dỡ quá
cũ và lạc hậu; thiếu thiết bị xếp, dỡ chuyên dùng để bốc dỡ hàng container
nên năng suất xếp, dỡ rất thấp, kéo dài thời gian giải phóng tàu. Các hành
lang vận tải nối đến cảng chưa được nâng cấp, cải tạo, xây dựng kịp thời
nên thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu đưa vào rút hàng, đặc biệt là
hàng container.
37
Tiến trình đầu tư phát triển xây dựng cảng còn chậm và dàn trải, chưa
có cảng nước sâu đủ đáp ứng cho các tàu có trọng tải lớn cập cảng, gây tăng
chi phí vận chuyển, ảnh hưởng tới tiến trình hội nhập và khả năng cạnh tranh
về vận tải biển của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Việc tổ chức sắp xếp, quản lý hệ thống cảng biển còn phân tán, manh
mún, với nhiều đầu mối, chồng chéo, đã xuất hiện sự cạnh tranh không lành
mạnh như giảm giá cước xếp dỡ làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia. Tình
trạng thiếu sự phối hợp đồng bộ trong quy hoạch giữa Trung ương và địa
phương, giữa các ngành với nhau còn phổ biến, gây lãng phí. Các địa phương,
các ngành xây dựng cảng nhỏ chuyên dùng quá nhiều, không cân đối về địa
lý, làm cho vốn đầu tư xây dựng cảng bị phân tán, việc xây dựng bị kéo dài,
hiệu quả phát huy đồng vốn thấp. Vẫn còn những cảng hoặc cụm cảng lớn,
chưa có sự đầu tư đồng bộ cho hệ thống đường ra, vào cảng, làm ảnh hưởng
đến việc đưa hàng vào hoặc rút hàng ra khỏi cảng.
Công tác phân loại, phân cấp và xác định rõ vai trò, vị trí của các cảng
biển trong hệ thống cảng biển Việt Nam chưa được tiến hành bài bản. Vì vậy,
đã xuất hiện hiện tượng cạnh tranh không tích cực giữa các cảng trong khu
vực, dẫn đến sự kìm hãm phát triển của toàn bộ hệ thống cảng biển. Công
nghệ quản lý cảng lạc hậu, còn ở trình độ thấp, chưa đáp ứng nhu cầu phát
triển mới trong nền kinh tế thị trường.
Có thể nói, phần lớn các cảng Việt Nam có quá trình hoạt động quen với
cơ chế bao cấp, nên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường các cảng đã không
bắt kịp đòi hỏi của kinh tế ấy. Tâm lý chờ đợi, trông chờ vào vốn của Nhà
nước, thiếu chủ động vay vốn để đầu tư, đổi mới công nghệ còn tồn tại dai
dẳng. Sự phối hợp giữa các cảng, ngay cả các cảng biển thuộc Trung ương
quản lý chưa được triển khai.
Xu thế phát triển của ngành Hàng hải thế giới chưa được cập nhật kịp
thời, nên trong khi đội tàu biển thế giới có xu hướng tăng trọng tải thì Việt
Nam lại tiếp tục đầu tư cho các cảng nằm sâu trong nội địa, giao thông đi lại
khó khăn như cảng Hải Phòng, Sài Gòn. Do đó, không đủ khả năng tiếp nhận
những tàu lớn, trong khi chưa đầu tư thoả đáng cho cảng nước sâu.
38
Đầu tư của khu vực tư nhân và nước ngoài vào khu vực cảng biển chưa
đáng kể do chưa có chính sách thông thoáng, nên chưa thực sự có sức thu hút
lớn đối với tư nhân đầu tư vào cảng biển.
+ Nguyên nhân của thành tựu:
Thứ nhất, công cuộc đổi mới đã được sự quan tâm nhiều hơn của Đảng,
Nhà nước, các bộ, ngành và các địa phương nhất là những địa phương có
biển. Bộ Luật HHVN ra đời (năm 1990) và sau đó là các Chỉ thị của Đảng và
Chính phủ (năm 1993) về phát triển kinh tế biển đã tạo ra những tiền đề quan
trọng trong đổi mới hoạt động của KTHH. KTHH đã có sự khởi sắc và đóng góp
đáng kể vào tiến trình phát triển KT-XH của các địa phương có biển và đất nước.
Thứ hai, biển Việt Nam được coi là cầu nối và là con đường thông
thương với các nước trong khu vực và thế giới. Ngoài ra, biển còn đem lại cho
Việt Nam rất nhiều nguồn lợi để phục vụ cho phát triển KT-XH. Nhận thức được
điều đó, Đảng và Nhà nước đã bắt đầu chú trọng đến phát triển kinh tế biển, coi
kinh tế biển là ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, các địa phương có biển và ven biển đã biết phát huy lợi thế biển, đảo
trong sự phát triển KT-XH, tạo điều kiện cho bà con ngư dân vay vốn để đóng
mới tàu thuyền phục vụ cho việc đánh bắt xa bờ và chăm lo tới các vấn đề an sinh
xã hội khác, từ đó giúp bà con yên tâm bám biển và bảo vệ vùng trời, vùng biển
của Tổ quốc.
Thứ tư, bước đầu quan tâm đầu tư lớn cho các ngành thuộc KTHH như
công nghiệp đóng tàu, vận tải biển, cảng biển và các dịch vụ sau cảng. Trong
10 năm đầu đổi mới, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống cảng biển
trong đó có các cảng biển nước sâu nằm ở các trung tâm kinh tế lớn như: Hải
Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh; các nhà
máy đóng tàu được hình thành và đi vào hoạt động có hiệu quả, tạo cho việc
xuất, nhập khẩu hàng hóa được thuận lợi; các khâu dịch vụ, vận chuyển hàng
hóa tại các hệ thống cảng biển được tăng cường.
Thứ năm, triển khai phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ven biển. Do
xác định kinh tế biển sẽ là ngành kinh tế mũi nhọn trong tương lai, 28 tỉnh,
39
thành phố có biển trong cả nước đã tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế biển
với những chiến lược cụ thể và với mũi nhọn là công nghiệp đóng tàu, vận tải
biển, cảng biển, du lịch biển, khai thác và chế biến hải sản, xây dựng kinh tế
đảo, nâng cao trình độ dân trí cho bà con vùng biển và ven biển nhằm đáp ứng
cho sự nghiệp phát triển kinh tế của địa phương.
Thứ sáu, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển ngành Hàng
hải thông qua hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp
trực thuộc Bộ Giao thông vận tải như: Trường Đại học Hàng hải - Hải Phòng,
Đại học GTVT Thành phố Hồ Chí Minh, ba trường Cao đẳng Hàng hải và
một số cơ sở huấn luyện, thuyền viên của các công ty xuất khẩu lao động
thuộc ngành Hàng hải, với mục tiêu đào tạo được lượng sĩ quan hàng hải,
thủy thủ, thợ máy và các chức danh khác có ít nhất trình độ trung cấp để đáp
ứng yêu cầu phát triển của ngành.
+ Nguyên nhân của hạn chế:
Một là, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế
biển, KTHH còn mang tính cục bộ, dàn trải, một số tỉnh sát biển đua nhau làm
cảng biển. Động lực “vươn ra biển lớn” thật sự chưa rõ ràng, bị chi phối bởi
tư duy lợi ích dự án cục bộ thay vì một mục tiêu đua tranh phát triển lành
mạnh và có tầm nhìn chiến lược.
Hai là, chủ trương chung về phát triển KTHH nhìn chung còn chưa có tính
chiến lược và thiếu tính cụ thể, dẫn đến tổ chức thực hiện gặp nhiều lúng túng,
đặc biệt thiếu định hướng phát triển với những lĩnh vực mang tính đột phá.
Ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao và đội ngũ công nhân lành nghề
phục vụ cho ngành Hàng hải vẫn chưa đáp ứng đủ, tay nghề và trình độ tiếng
Anh còn yếu. Các cơ sở đào tạo còn lúng túng và thiếu thốn nhiều mặt, nên
chưa tạo ra được những sản phẩm đáp ứng yêu cầu của Ngành.
Bốn là, tư duy “làm ruộng trên cạn” vẫn còn, tức là tư duy phát triển
truyền thống, coi khai thác tài nguyên thô, dựa vào trình độ kỹ thuật, công
nghệ thấp và những năng lực hạn chế là cách thức chủ đạo của quá trình tăng
40
trưởng và phát triển kinh tế. Việc đầu tư để phát triển các ngành có liên quan
đến hàng hải còn thấp so với yêu cầu phát triển nhanh.
Năm là, khu vực Biển Đông đang có sự tranh chấp gay gắt, nên việc hợp tác
quốc tế để phát triển ở khu vực này còn gặp một số khó khăn. Việc giải quyết các
tranh chấp có liên quan đến biển, những vi phạm trong quá trình sử dụng và khai
thác tài nguyên biển chưa có các quy định cụ thể và còn nhiều bất cập.
1.1.4. Yêu cầu mới về phát triển kinh tế hàng hải trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1996 - 2001)
- Thế giới có những biến đổi nhanh chóng, phức tạp đã tác động đến
phát triển kinh tế hàng hải
Thứ nhất, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN)
ở Đông Âu đã tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh tế, chính trị thế giới. Làm
cho chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng tạm thời; một số
Đảng Cộng sản mất quyền lãnh đạo, chế độ XHCN sụp đổ. Tình hình đó đã
ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc
gia, mà trước hết là sự củng cố và lớn mạnh của khối thị trường chung châu
Âu, cùng đó là sự xuất hiện và lưu hành của đồng tiền chung châu Âu (Euro);
sự phát triển nhanh chóng của các khối kinh tế khác, tại các khu vực khác
nhau trên các châu lục, như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á với tổng số
thành viên từ 6 lên 10 thành viên (năm 1999) cùng với rất nhiều các hoạt
động khác nhau nhằm củng cố sự lớn mạnh của các nước trong khu vực.
Thứ ba, sự phát triển kinh tế khá mạnh mẽ của khu vực Đông Nam Á,
Đông Bắc Á với sự xuất hiện của các nước công nghiệp mới (NICs) gồm:
Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, đã biến khu vực này thành khu
vực có mức tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới trong những năm 80,
đầu những năm 90 của thế kỷ XX.
Thứ tư, nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột
vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua
vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, đặc biệt là
41
những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển, đảo và các tài nguyên thiên nhiên,
tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp.
Thứ năm, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu,
trước hết là sức ép về dân số tăng nhanh, cộng với nguồn tài nguyên đang
ngày càng cạn kiệt đã trở thành một thách thức ngày càng lớn đối với nhân
loại. Nhìn ra biển bằng một tư duy kinh tế mới đang là sự lựa chọn của nhiều
nước trong vài thập kỷ gần đây.
An ninh lương thực cũng là một vấn đề mang tính toàn cầu. Trong số
những giải pháp cho vấn đề lương thực, biển và đại dương đang được trông
đợi cho một lối thoát hiện thực nhất trong tương lai.
Trước xu thế phát triển nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới, đòi
hỏi tất cả các quốc gia cần phải liên kết với nhau trong việc phát triển kinh tế,
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế về vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản
lý, đồng thời tham gia tích cực vào hội nhập quốc tế như đẩy mạnh buôn bán,
gia nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế, tham gia các diễn đàn, các định chế
quốc tế một cách có chọn lọc với lộ trình, bước đi thích hợp. Điều đó luôn thúc
đẩy ngành Hàng hải phát triển xứng tầm với vị thế của từng nước.
- Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phát triển
kinh tế hàng hải
Từ năm 1996, sau 10 năm tiến hành đổi mới, đất nước Việt Nam đã có
nhiều thay đổi, trong đó có ngành Hàng hải. Đứng trước trào lưu hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới đang nổi lên như một tất yếu khách quan, Việt
Nam không thể đứng ngoài quá trình phát triển đó. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), quyết định chuyển nền kinh tế sang thời
kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH, xác định rõ hơn hướng phát triển của kinh tế đất
nước: “Xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ
kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu" [61, tr.82].
Với lợi thế là một nước có biển, đang phát triển nhưng còn nghèo, đòi
hỏi Việt Nam không thể không tính tới một chiến lược phát triển mạnh kinh tế
ra phía biển và vùng ven biển, từ đó khẩn trương tập trung lực lượng hướng
sự phát triển ra biển.
42
Trong khoảng 10 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã chú trọng khai
thác các tiềm năng và thế mạnh sẵn có của mình trong đó có tiềm năng
biển, sử dụng tiềm năng biển nhằm phục vụ tích cực cho c...ry.
156. Hai Tran, Stephen Cahoon, Shu-Ling Chen (2011), “A quality
management Framewort for Seaport in their Supply chains in the
21st Century”, The Asian Journal of Shipping and Logistics, Vol 27,
No 3, 2011, p363-386.
157. Mun Wai Ho và Kim Hin (David) Ho (2006), “Risk Management in
large Physical Infrastructure Investments: The Context of Seaport
Infrastructure Development and Invesment”, International Journal
of Maritime Economics 8, p140-168 (IJME).
158. Sibel Bayar, Aydin, Alkan (2011), “The impact of Seaport investments
on regional economics and developments”, International Journal of
Business and Management, No2, Vol 3.
159. Vinamarine (2008), Draft Plan for Port Administration & Management
in Vietnam.
166
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
DANH MỤC CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CHÍNH LIÊN
QUAN ĐẾN QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ CÁC VÙNG BIỂN VIỆT NAM
(Tài liệu phục vụ công tác soạn thảo Dự án luật các vùng biển Việt Nam)
Stt Năm ban hành Tên văn bản Ghi chú
I. VĂN BẢN CỦA QUỐC HỘI
Hiến pháp 1992 Luật
1 30-6-1990 Bộ luật Hàng hải Việt Nam
2 06-7-0993 Luật Dầu khí
3 20-5-1998 Luật Tài nguyên nước
4 27-12-1993 Luật Bảo vệ môi trường
5 17-6-2003 Luật Biên giới quốc gia
6 26-11-2003 Luật Thuỷ sản
7 23-6-1994 Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Công ước
biển 1982
II. VĂN BẢN CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
8 25-4-1989 Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản
9 21-12-1990 Pháp lệnh hải quân
10 06-7-1995 Pháp lệnh về xử phạt vi phạm hành chính
11 28-3-1997 Pháp lệnh bộ đội biên phòng
12 28-7-1998 Pháp lệnh về tài nguyên khoáng sản
13 28-3-1998 Pháp lệnh lực lượng cảnh sát biển Việt Nam
III. VĂN BẢN CỦA CHÍNH PHỦ (từ 1980-1992 là Hội đồng Bộ trưởng)
1. Tuyên bố
14 12-5-1977 Tuyên bố của Chính phủ về lãnh hải, vùng tiếp
giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
15 12-11-1982 Tuyên bố của Chính phủ về đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam
2. Nghị định
16 29-1-1980 Nghị định số 30/CP về quy chế cho tàu thuyền
nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
17 05-8-1991 Nghị định số 242/HĐBT ban hành quy định về
việc các bên nước ngoài và phương tiện nước
ngoài vào nghiên cứu khoa học ở các vùng biển
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
18 25-2-1994 Nghị định số 13/CP ban hành Quy chế quản lý
167
hoạt động hàng hải tại cảng biển và các khu vực
hàng hải ở Việt Nam
19 26-4-1996 Nghị định số 26/CP quy định xử phạt hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
20 17-6-2003 Nghị định số 70/CP quy định xử phạt hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản
Thay cho NĐ
48/CP ngày
12-8-1996
21 01-10-1996 Nghị định số 55/CP hoạt động của tàu quân sự
nước ngoài vào thăm nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
22 23-4-1997 Nghị định số 35/CP về quy định xử phạt hành
chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về khai
thác khoáng sản
23 10-6-1998 Nghị định số 39/1998/NĐ-CP về xử lý tài sản
chìm đắm ở biển
24 13-7-1998 Nghị định số 49/NĐ-CP về quản lý hoạt động
nghề cá của người và phương tiện nước ngoài
trong các vùng biển Việt Nam
Thay cho
NĐ
437/HĐBT
25 21-7-1998 Nghị định số 53/1998/NĐ-CP về tổ chức và
hoạt động của lực lượng cảnh sát biển Việt
Nam
26 21-7-1998 Nghị định số 54/1998/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 16/CP về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
27 15-9-1999 Nghị định số 72/1998/NĐ-CP về đảm bảo an
toàn cho người và phương tiện nghề cá hoạt
động trên biển
28 04-9-1999 Nghị định số 92/1999/NĐ-CP về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải
29 09-6-1999 Nghị định số 36/1999/NĐ-CP về thẩm quyền
xử phạt hành chính trên vùng lãnh hải, vùng
tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
30 30-5-2001 Nghị định số 23/2001/NĐ-CP ngày 30/5/2001
về sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế
đăng ký tàu biển và thuyền viên ban hành kèm
theo Nghị định số 91/1998/CP ngày 23 tháng 8
năm 1997 của Chính phủ
31 30-5-2001 Nghị định số 24/2001/NĐ-CP ngày 30/5/2001
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế
quản lý hoạt động hàng hải tại cảng biển và các
khu vực hàng hải ở Việt Nam ban hành kèm
theo Nghị định số 13/CP ngày 25 tháng 2 năm
1994 của Chính phủ
168
32 24-7-2001 Nghị định số 41/2001/NĐ-CP ngày 24/7/2001
ban hành Quy chế phối hợp thực hiện quản lý
Nhà nước về hoạt động của lực lượng cảnh sát
biển và việc phối hợp hoạt động giữa các lực
lượng trên các vùng biển và thềm lục địa của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
33 24-8-2001 Nghị định số 57/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001
về điều kiện kinh doanh vận tải biển
34 Dự thảo Nghị định về Quy chế khu vực biên
giới biển
3. Quyết định của Chính phủ
35 11-12-1986 Quyết định số 13/HĐBT về tăng cường bảo vệ
chủ quyền và an ninh các cửa biển và thềm lục
địa Việt Nam
36 28-12-1992 Quyết định số 223/TTg về việc ban hành Quy
chế tổ chức và hoạt động đăng kiểm tàu biển
Việt Nam
37 28-12-1992 Quyết định số 204/TTg về việc ban hành Quy
chế tổ chức và hoạt động thanh tra an toàn hàng
hải Việt Nam
38 23-10-1996 Quyết định số 780/TTg thành lập Uỷ ban Quốc
gia về tìm kiếm, cứu nạn trên không và trên biển
39 9-10-2002 Quyết định số 133/2002/QĐ-TTg ngày
9/10/2002, ban hành Quy chế phối hợp giữa lực
lượng Công an, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát
biển và Hải quan trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm về ma tuý tại địa bàn biên giới, cửa
khẩu và trên biển
40 21-7-2003 Quyết định số 149/2003/QĐ-TTg ngày
30/5/2001, về một số chính sách và cơ chế
khuyến khích phát triển đội tàu biển Việt Nam
4. Chỉ thị của Chủ tịch HĐBT (Thủ tưởng Chính phủ)
41 29/3/1980 Chỉ thị số 85/TTg về việc xử lý tàu nước ngoài
xâm phạm vùng biển Việt Nam
42 25-2-1993 Chỉ thị số 73/TTg về một số công tác cần làm
ngay để bảo vệ môi trường
43 09-8-1995 Chỉ thị số 445/TTg về việc tổ chức triển khai
thi hành pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính
44 28-10-1995 Chỉ thị số 701/TTg về đấu tranh chống buôn lậu
trên biển
45 18-1-1997 Chỉ thị số 39/TTg về việc đảm bảo an toàn cho
người và phương tiện hành nghề trên biển
169
5. Thông tư
46 19-12-1980 Thông tư số 60/TTg hướng dẫn việc tổ chức
thực hiện Bản quy chế cho tàu thuyền nước
ngoài hoạt động trên các vùng biển của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
47 21-10-2002 Thông tư liên tịch số 156/2002/TTLT-BQP-
BGTVT ngày 21/10/2002, hướng dẫn việc phối
hợp thực hiện quản lý Nhà nước giữa Bộ Quốc
phòng và Bộ Giao thông vận tải về hoạt động
của lực lượng cảnh sát biển với các lực lượng
có liên quan thuộc Bộ Giao thông vận tải trên
các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
6. Văn bản của một số Bộ, Ngành có liên quan
48 06-8-1991 Quyết định số 1533/QĐ-VT về ban hành quy
tắc phòng ngừa va chạm tàu thuyền trên biển Bộ GTVT
49 08-9-1994 Quyết định số 1438/QĐ-PC về trình tự và thủ
tục xác nhận việc trình “kháng nghị hàng hải” ở
Việt Nam
Bộ GTVT
50 17-5-1995 Quyết định số 2788/QĐ-PC quy định về tàu
biển nước ngoài vận chuyển hàng hoá, hành
khách và hành lý giữa các cảng biển Việt Nam
Bộ GTVT
51 02-10-1996 Quyết định số 2628/QĐ-TCCB về việc thành
lập “Trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn
hàng hải Việt Nam”
Bộ GTVT
52 02-7-1982 Thông tư số 99/PC về hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 330/CP ngày 9/7/1981 Bộ GTVT
53 08-3-1987 Chỉ thị số 04/CT-VP của Bộ trưởng Bộ Thuỷ
sản về công tác phòng chống bão lụt, lũ. Giảm
nhẹ thiên tai và đảm bảo an toàn cho người và
phương tiện nghề cá hoạt động trên biển
Bộ Thuỷ
sản
54 12-11-1996 Công văn số 2592/MTG của Bộ KHCN và MT
về việc kiểm soát ô nhiễm từ các phương tiện
giao thông thuỷ
Bộ
KHCN&
MT
55 05-9-1990 Quyết định số 333/CNNG-KHKT về việc ban
hành Quy chế bảo vệ môi trường trong các hoạt
động dầu khí biển
Bộ
KHCN&
MT
7. Hiệp định hàng hải giữa Việt Nam và nước ngoài
1 22-11-1979
1999
Việt Nam - Thái Lan
Sửa đổi, bổ sung
2 03-1-0983 Việt Nam - Cu Ba
3 12-11-1983 Việt Nam - Hunggary
4 25-10-1991 Việt Nam - Inđônêxia
170
5 27-1-1992 Việt Nam - Philipphin
6 31-3-1992 Việt Nam - Malaixia
7 16-4-1992 Việt Nam - Singapore
8 20-7-1992 Việt Nam - Ucraina
9 8-3-1992 Việt Nam - Trung Quốc
10 27-5-1993 Việt Nam - Liên Bang Nga
11 29-6-1993 Việt Nam - CHLB Đức
12 01-9-1994 Việt Nam - Rumani
13 6-12-1995 Việt Nam - Ba Lan
14 12-4-1995 Việt Nam - Hàn Quốc
IV. CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ, THOẢ THUẬN, HIỆP ĐỊNH LIÊN QUAN
ĐẾN HOẠT ĐỘNG HÀNG HẢI VIỆT NAM ĐÃ KÝ KẾT HOẶC THAM GIA
Ngày ký Tên Công ước
1 18-12-1990 Công ước về gia nhập Tổ chức Hàng hải thế
giới (IMO - Convention 48)
2 18-12-1980 Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng trên
biển năm 1974 (SOLAS 74)
3 18-12-1980 Công ước quốc tế về tiêu chuẩn huấn luyện, cấp
chứng chỉ và trực ca cho thuyền viên năm 1978 và
Nghị định thư bổ sung năm 1985 (STCW 78/95)
4 18-12-1990 Công ước quốc tế về phòng ngừa ô nhiễm dầu
từ tàu biển năm 1973 và Nghị định thư bổ sung
năm 1978 (MARPOL 73/78)
5 18-12-1990 Công ước quốc tế về phòng ngừa va chạm trên
biển năm 1972 (COLRREG 72)
6 18-12-1990 Công ước quốc tế về nạn khô năm 1966 (LL66)
7 18-12-1990 Công ước quốc tế đo dung tích tàu biển năm
1969 (TONNAGE 69)
8 12-10-1992 Nghị định thư bổ sung năm 1978 của SOLAS 74
9 1999 Công ước quốc tế về thông tin toàn cầu (INMAST)
10 1975 Biên bản ghi nhớ về kiểm tra của quốc gia có
cảng biển trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương (TOKYO-MOU)
11 1998 Hiệp định ASEAN về tìm kiếm cứu nạn trên biển
12 Hiệp định khung ASEAN về tạo điều kiện
thuận lợi cho hàng hoá quá cảnh
13 Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ năm 1995
và hai Nghị định thư thực hiện Hiệp định năm
1997 và 1998
Nguồn: Ban Biên giới hải đảo - Bộ Ngoại giao [6].
171
Phụ lục 2
CÁC HIỆP ĐỊNH SONG PHƯƠNG VỀ HÀNG HẢI
TT Hiệp định Ngày ký Ngày phê chuẩn Nơi ký
2 Việt Nam - Cu Ba 13/10/1983 Hà Nội
3 Việt Nam - Hungari 12/11/1983 Hà Nội
4 Việt Nam - Indonesia 25/10/1991 07/12/1992 Jakata
5 Việt Nam - Philippines 27/02/1992 19/01/1993 Manila
6 Việt Nam - Trung Quốc 18/03/1992 09/06/1994 Bắc Kinh
7 Việt Nam - Malaysia 31/03/1992 23/11/1992 Hà Nội
8 Việt Nam - Singapore 16/04/1992 Singapore
9 Việt Nam - Ucraine 20/07/1992 25/06/1993 Kiev
10 Việt Nam - Liên Bang Nga 25/07/1993 04/04/1994 Hà Nội
11 Việt Nam - CHLB Đức 29/06/1993 09/06/1994 Born
12 Việt Nam - Rumani 01/09/1994 Bucaret
13 Việt Nam - Hàn Quốc 12/04/1995 Seoul
14 Việt Nam - Ba Lan 06/12/1995 Hà Nội
15 Việt Nam - Pháp 23/05/2000 Paris
16 Việt Nam - Triều Tiên 03/05/2002 24/07/2002 Bình Nhưỡng
17 Việt Nam - Iran 21/10/2002 Tehran
Nguồn: Ban Tổ chức - Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam [130].
172
Phụ lục 3
DANH SÁCH 138 HUYỆN, THỊ CÓ BIỂN
TRONG BÁO CÁO CHIẾN LƯỢC BIỂN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
I Vùng biển và ven biển phía Bắc (từ Móng Cái - Ninh Bình):
gồm 23 huyện thuộc 5 tỉnh, thành phố
(1) Quảng Ninh
1 1- TP Hạ Long
2 2- TX Cẩm Phả
3 3- Hoành Bồ
4 4- Yên Hưng
5 5- Tiên Yên
6 6- Quảng Hà
7 7- Hải Ninh (bao gồm Thị xã Móng Cái)
8 8- Vân Đồn (Huyện đảo)
9 9- Cô Tô (Huyện đảo)
(2) Hải Phòng
10 1- TP Hải Phòng
11 2- TX Đồ Sơn
12 3- Thuỷ Nguyên
13 4- Kiến Thuỵ
14 5- An Hải
15 6- Tiên Lãng
16 7- Cát Hải (Huyện đảo)
17 8- Bạch Long Vĩ (Huyện đảo)
(3) Thái Bình
18 1- Tiền Hải
19 2- Thái Thuỵ
(4) Nam Định
20 1- Nghĩa Hưng
21 2- Giao Thuỷ
22 3- Hải Hậu
(5) Ninh Bình
23 1- Kim Sơn
II Vùng biển và ven biển phía Bắc Trung bộ, Duyên hải Trung Bộ
(từ Thanh Hoá - Bình Thuận): gồm 73 huyện thuộc 14 tỉnh, thành
(6) Thanh Hoá
24 1- TP Thanh Hoá
25 2- TX Sầm Sơn
173
26 3- Quảng Xương
27 4- Hậu Lộc
28 5- Hoằng Hoá
29 6- Tĩnh Gia
(7) Nghệ An
30 1- TX Cửa Lò
31 2- Quỳnh Lưu
32 3- Diễn Châu
33 4- Nghi Lộc
(8) Hà Tĩnh
34 1- Nghi Xuân
35 2- Thạch Hà
36 3- Cẩm Xuyên
37 4- Kỳ Anh
(9) Quảng Bình
38 1- TX Đồng Hới
39 2- Bố Trạch
40 3- Quảng Trạch
41 4- Quảng Ninh
42 5- Lệ Thuỷ
(10) Quảng Trị
43 1- TX Đồng Hới
44 2- Vĩnh Linh
45 3- Gio Linh
46 4- Triệu Phong
47 5- Hải Lăng
48 6- Cồn Cỏ (Huyện đảo)
(11) Thừa Thiên Huế
49 1- TP Huế
50 2- Phong Điền
51 3- Quảng Điền
52 4- Hương Thuỷ
53 5- Phú Lộc
54 6- Phú Vang
55 7- Hương Trà
(12) Quảng Nam
56 1- TX Tam Kỳ
57 2- TX Hội An
58 3- Điện Bàn
174
59 4- Thăng Bình
60 5- Núi Thành
61 6- Duy Xuyên
(13) TP. Đà Nẵng
62 1- TP Đà Nẵng
63 2- Hội An
64 3- Hoàng Sa (Huyện đảo)
(14) Quảng Ngãi
65 1- TX Quảng Ngãi
66 2- Bình Sơn
67 3- Tư Nghĩa
68 4- Sơn Tịnh
69 5- Mộ Đức
70 6- Đức Phổ
71 7- Lý Sơn (Huyện đảo)
(15) Bình Định
72 1- TP Quy Nhơn
73 2- Hoài Nhơn
74 3- Phù Cát
75 4- Phù Mỹ
76 5- Tuy Phước
(16) Phú Yên
77 1- TX Tuy Hoà
78 2- Sông Cầu
79 3- Tuy An
80 4- Tuy Hoà
(17) Khánh Hoà
81 1- TP Nha Trang
82 2- Ninh Hoà
83 3- Vạn Ninh
84 4- Cam Ranh
85 5- Trường Sa (Huyện đảo)
(18) Ninh Thuận
86 1- TX Phan Rang
87 2- Ninh Sơn
88 3- Ninh Hải
89 4- Ninh Phước
(19) Bình Thuận
90 1- TX Phan Thiết
175
91 2- Tuy Phong
92 3- Bắc Bình
93 4- Hàm Tân
94 5- Hàm Thuận Bắc
95 6- Hàm Thuận Nam
96 7- Phú Quý (Huyện đảo)
III Vùng biển và ven biển Đông Nam Bộ (Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành
phố Hồ Chí Minh): gồm 9 huyện thuộc 2 tỉnh, thành phố
(20) Bà Rịa - Vũng Tàu
97 1- TP Vũng Tàu
98 2- TX Bà Rịa
99 3- Long Cát
100 4- Xuyên Mộc
101 5- Châu Đức
102 6- Tân Thành
103 7- Côn Đảo (Huyện đảo)
(21) TP. Hồ Chí Minh
104 1- TP. Hồ Chí Minh
105 2- Cần Giờ
IV Vùng biển và ven biển Tây Nam Bộ (từ Tiền Giang - Cà Mau - Hà
Tiên) gồm 33 huyện thuộc 7 tỉnh, thành phố
(22) Tiền Giang
106 1- TX Gò Công
107 2- Gò Công Đông
108 3- Gò Công Tây
109 4- Châu Thành
(23) Bến Tre
110 1- TX Bến Tre
111 2- Bình Đại
112 3- Ba Tri
113 4- Thanh Phú
114 5- Châu Thành
(24) Sóc Trăng
115 1- TX Sóc Trăng
116 2- Long Phú
117 3- Vĩnh Châu
(25) Trà Vinh
118 1- TX Trà Vinh
119 2- Cầu Ngang
120 3- Châu Thành
176
121 4- Duyên Hải
(26) Bạc Liêu
122 1- TX Bạc Liêu
123 2- Vĩnh Lợi
124 3- Giá Rai
(27) Cà Mau
125 1- TX Cà Mau
126 2- Đầm Rơi
127 3- Ngọc Hiển
128 4- Cái Nước
129 5- Trần Văn Thời
130 6- U Minh
(28) Kiên Giang
131 1- TX Rạch Giá
132 2- TX Hà Tiên
133 3- An Minh
134 4- An Biên
135 5- Châu Thành
136 6- Hòn Đất
137 7- Kiên Hải (Huyện đảo)
138 8- Phú Quốc (Huyện đảo)
Nguồn: Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 - Vụ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ GTVT [152]
177
Phụ lục 4: Mô hình tổ chức Cục Hàng hải Việt Nam
(Theo Quyết định số 269/2003/QĐ-TTg ngày 22/12/2003 của Thủ trướng Chính phủ)
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam [45].
Đảm bảo ATHH
CTy TTin điện tử
hàng hải
Hoa tiêu KVIII (Q/Ninh)
Hoa tiêu M/Trung
Chi cục Hàng hải
Các ban chức năng
TT phối hợp tìm
kiếm cứu nạn
Cảng vụ Hàng hải
Chi cục Sài Gòn
Cảng biển
Công ty hoa tiêu
Chi cục Hải Phòng
HKĐTTT
TCKT Pháp chế
Thanh tra
QHQT
Vận tải
TTATHH
TCCB-LĐ
TTTKCN
KHKT VF đại diện IMO
Kiên Giang
Mỹ Tho
Mỹ Thới
Hải Phòng
Nha Trang
Sài Gòn
Thanh Hóa
Quy Nhơn
Cần Thơ
Nghệ Tĩnh
Thuận An
Đồng Nai
Đồng Tháp
Đà Nẵng
Năm Cao
V/Tàu
Q/Ninh
Nghệ Tĩnh Quy Nhơn Nha Trang
Hoa tiêu KVI (Sài Gòn)
Hoa tiêu KVII (H/Phòng)
Hoa tiêu Sông Hậu
Trường TCHH
CTy TVXD công
trình Hàng hải
CQ đăng ký tàu
biển thuyền viên
Ban QL dự án
Trường TC Hàng hải I
Trường TC Hàng hải II
Ban Quản lý dự án I
Ban Quản lý dự án II
Ban Quản lý dự án III
Khu vực Hải Phòng
Khu vực Đà Nẵng
Khu vực Sài Gòn
Tạp chí Hàng hải
178
Phụ lục 5
Giá đóng mới tàu qua các năm
Giá đóng mới (triệu USD) Loại tàu 1993 1994 1995 1996 1997 1998
1. Tàu hai boong
Cỡ tàu 20.000 DWT 12,5 15,5 18,4 19,5 17,7 16,0
2. Tàu hàng rời
Cỡ Capesize 15,5 ÷ 170.000 DWT 32,0 36,2 45,2 42,5 42,0 37,0
Cỡ Panamax 50 ÷ 80.000 DWT 22,0 20,7 26,5 23,5 25,8 24,2
Cỡ tàu Handymax 40 ÷ 45.000 DWT 18,8 20,6 25,3 21,3 21,5 21,0
Cỡ tàu Handysize 25 ÷ 30.000 DWT 13,0 16,0 19,0 16,9 17,1 16,5
3. Tàu dầu
Cỡ VLCC 280.000 DWT 42,0 44,2 45,8 68,4 85,0 76,5
Cỡ Suezmax 140.000 DWT 53,5 47,5
Cỡ Aframax 95.000 DWT 42,3 37,5
Cỡ Handy 40.000 DWT 32,0 29,0
Cỡ Product 35.000 DWT 16,8 19,6 23,1 27,5 28 26,1
Nguồn: Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam [129].
Phụ lục 6
Các tàu đóng mới được bàn giao từ năm 2003 - 2011 của Vinashin
Đơn vị tính: chiếc
Năm
Số lượng
(chiếc)
DWT TEU HP
Giá bán
(USD)
Xuất khẩu Trong nước
2003 9 27,800 0 2,820 32.586.624 32.586.624
2004 16 64,890 1,016 0 93.686.624 24.200.000 69.486.624
2005 12 85,850 1,016 10,000 100.700.000 13.200.000 87.500.000
2006 24 128,500 1,784 20,750 152.786.555 30.810.336 121.976.220
2007 24 254,700 0 37,000 196.847.493 106.070.472 90.777.021
2008 31 275,800 0 69,000 227.026.307 150.907.653 76.118.654
2009 17 251,800 0 12,000 184.612.486 112.873.048 71.739.438
2010 34 426,145 700 80,000 497.865.874 227.210.983 270.654.892
2011 34 148,730 260 65,000 447.301.776 181.382.643 265.919.132
Nguồn: Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam [129].
179
Phụ lục 7a
Bảng phân loại tàu
Stt Loại tàu Số lượng (chiếc) Tổng trọng tải (DWT)
1 Tàu chở dầu 7 92.093
2 Tàu Container 9 6.109 (Teu)
3 Tàu hàng khô 60 501.705
4 Tàu khác 9 63.059
Nguồn: Cục HHVN, Cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên [49].
Phụ lục 7b
Tuổi bình quân của đội tàu biển Việt Nam so với đội tàu thế giới, đội tàu
các nước phát triển và đang phát triển (2001-2010)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tuổi BQ của đội
tàu TG
13.9 12.6 12.5 12.3 12.2 12 11.8 13.97 13.35 12.59
Tuổi BQ của đội
tàu các nước
phát triển
13.3 11.7 10.9 10.5 10.3 9.9 9.7 11.56 11.02 10.78
Tuổi BQ của đội
tàu các nước đang
phát triển
14.2 13.5 13.1 13.1 13 12.4 12.3 14.56 14.01 13.11
Tuổi BQ của đội
tàu Việt Nam
19.8 18.5 17.5 16 16 15 14.5 12.8 11.8 11.8
Nguồn: [76].
180
Phụ lục 8
Sự phát triển kết cấu hạ tầng hàng hải và hệ thống
cảng biển của Việt Nam
TT Tên số liệu 1995 2000
1 Tổng số cầu cảng (tính theo chủ thể cảng) 89 107
2 Tổng số khu chuyển tải hàng hóa 10 13
3 Tổng số luồng hàng hải (số lượng/chiều dài-km) 19/567 32/772
4 Tổng số cảng xuất dầu thô ngoài khơi 4 7
5 Sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển (triệu tấn) 34,808 83,043
6 Tổng số đèn biển các loại 5034,8027 65
7 Tổng số đài thông tin duyên hải 13 19
Nguồn: Cục HHVN, Trung tâm thống kê thông tin [48].
Phụ lục 9
Khối lượng các loại hàng hóa và hành khách qua hệ thống
cảng biển Việt Nam
Loại hàng 1998 1999 2000
Container (TEU) 799.665 1.022.328 1.147.572
Hàng lỏng (tấn) 21.889.442 26.813.396 28.640.459
Hàng khô (tấn) 23.123.193 28.024.658 32.994.325
Hàng quá cảnh (tấn) 4.038.619 6.473.041 9.091.585
Hành khách (lượt) 47.683 119.875 199.786
Nguồn: Cục HHVN, Trung tâm thống kê thông tin [48].
181
Phụ lục 10
Khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam
Đơn vị tính: triệu tấn
Lượng hàng thông qua
TT Năm Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Nội địa
Quá
cảng
Tổng
Tỷ lệ tăng
trưởng (%/năm)
1 2001 35,9 25,4 20,1 9,6 91,0 9,2
2 2002 34,5 35,0 22,7 10,1 102,3 12,4
3 2003 37,9 39,9 25,9 10,6 114,3 11,7
4 2004 47,1 41,3 29,0 10,3 127,7 11,7
5 2005 51,2 45,8 28,9 12,6 138,5 8,5
6 2006 57,6 49,1 33,1 14,7 154,5 11,6
7 2007 62,5 58,6 42,9 17,1 181,1 17,2
8 2008 63,7 72,1 42,8 17,7 196,6 8,5
9 2019 75 88,3 48 24 235,3 19,68
10 2010 81,4 95,2 53 25 254,6 8,20
11 2011 95 105 61 28,2 289,2 13,51
Nguồn: [49].
182
Phụ lục 11
Mô hình tổ chức Cục Hàng hải Việt Nam (theo Quyết định số
26/2009/QĐ-TTg ngày 20/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ)
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam [45].
CỤC TRƯỞNG
CÁC PHÓ
CỤC TRƯỞNG
P. TC-CB
P. Kế hoạch-Tài
chính
P. AT-A.ninh
HH
P.KHCN& MT
Văn phòng
P.Vận tải
&DVHH
P.HTác QT
P.ĐKTBTV
P.QLKC hạ tầng
cảng
P. T.Tra HH
P.Công trình HH
P. Pháp chế
VP IMO
Chi cục HHVN
tại tp.HP, tp.HCM
TT phối hợp TKCN
HHVN
Các Ban QL dự án
HH II, III
TT Thông tin an
ninh HH
Tạp chí HHVN
Trường Cao đẳng
HH I
Trường CĐ nghề HH
tp.HCM
25 Cảng vụ HH
Thanh Hóa
B.Thuận
Nam Định
Thái Bình
Hải Phòng
Quảng Ninh Nghệ An QuảngNam
Hà Tĩnh Đà Nẵng
Q.Bình
Quảng Trị
T.T Huế
Q.Ngãi
Nha Trang
Quy Nhơn Mỹ Tho
Đồng Nai
TP.HCM
Vũng Tàu
Cần Thơ
Đồng Tháp
An Giang
Kiên Giang
Cà Mau
183
Phụ lục 12
Mô hình tổ chức Tổng cục Hàng hải Việt Nam
(Đề án trình Thủ tướng Chính phủ 10/2011)
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam [45].
KHỐI CÁC CẢNG VỤ
HÀNG HẢI
KHỐI CÁC ĐƠN VỊ SỰ
NGHIỆP
Cảng vụ Hàng hải
Quảng Ninh
Cảng vụ Hàng hải
Nam Định
Cảng vụ Hàng hải
Thái Bình
Cảng vụ Hàng hải
Thanh Hóa
Cảng vụ Hàng hải
Nghệ An
Cảng vụ Hàng hải
Đồng Nai
Cảng vụ Hàng hải
Nha Trang
Cảng vụ Hàng hải
Mỹ Tho
Cảng vụ Hàng hải
Vũng Tàu
Cảng vụ Hàng hải
Bình Thuận
Cảng vụ Hàng hải
Quy Nhơn
Cảng vụ Hàng hải Hà
Tĩnh
Cảng vụ Hàng hải
Quảng Bình
Cảng vụ Hàng hải
Cần Thơ
Cảng vụ Hàng hải An
Giang
Cảng vụ Hàng hải
Đồng Tháp
Cảng vụ Hàng hải
Quảng Trị
Cảng vụ Hàng hải
Thừa Thiên Huế
Cảng vụ Hàng hải Đà
Nẵng
Cảng vụ Hàng hải
Quảng Ngãi
Cảng vụ Hàng hải
Quảng Nam
Cảng vụ Hàng hải
Kiên Giang
Cảng vụ Hàng hải Cà
Mau
Trung tâm PHTK
cứu nạn HHVN
Tạp chí
Hàng hải VN
Trường Cao đẳng HH
Hải Phòng
Trường CĐ nghề HH
TP.HCM
Trung tâm NC ứng
dụng TBKHCN HH
Trung tâm sát hạch
Th.viên, hoa tiêu HH
Trung tâm công nghệ
thông tin
TỔNG CỤC HÀNG HẢI
VIỆT NAM
CÁC CỤC THUỘC TỔNG CỤC
(gồm 03 Cục: Cục BĐAT-ANHH, Cục HHHP và
Cục Hàng hải TP.HCM)
KHỐI CƠ QUAN THAM MƯU
(gồm 10 vụ, Thanh tra HH, Văn phòng và
Văn phòng IMO)
184
Phụ lục 13
Danh mục các loại tàu biển đóng được tại Việt Nam năm 2001
TT Loại tàu Quy cách
Số lượng sản xuất
trong năm 2001
1 Tàu hàng bách hóa Trọng tải đến 6.500 tấn 03
2 Tàu chở dầu thành phẩm Trọng tải đến 3.500 tấn
3 Tàu khách Đến 300 chỗ ngồi
4 Tàu chuyên dụng tốc độ cao Đến 32 hải lý/h
5 Tàu nghiên cứu biển V54 980 cv x 2
6 Tàu hút bùn Đến 500m3/h
7 Tàu hút không tự hành Công suất đến 4170 cv và
năng suất đến 3000m3/h
8 Tàu cá vỏ gỗ các loại Công suất đến 300 cv, chiều
dài 24m
9 Tàu cá vỏ sắt Chiều dài đến 27m
10 Tàu cá vỏ composite Chiều dài đến 27m
11 Tàu dịch vụ nghề cá Đến 600 cv
12 Tàu kiểm ngư Đến 500 cv
13 Tàu kéo biển Đến 5000 cv
14 Sà lan biển các loại Đến 3000 cv
15 Ụ nổi Sức nâng 8.500 tấn
Nguồn: [129].
185
Phụ lục 14
Sản lượng vận tải biển Việt Nam qua các năm
2002, 2004, 2006, 2008, 2010
TT Chỉ tiêu
Đ/vị
tính
2002 2004 2006 2008 2010
SLVTB Tấn 23.707.304 36.982.088 49.480.000 69.284.522 88.919.900
VT nước
ngoài
Tấn 14.501.142 22.979.146 36.300.000 43.3989.626 62.449.000
1
VT trong
nước
Tấn 9.206.162 14.002.942 13.180.000 21.894.896 26.479.900
2 Hàng
thông
qua cảng
Tấn 103.129.467 127.771.588 154.497.732 196.579.572 259.144.580
3 Hành
khách
Lượt 228,209 120,343 233,416 511,229 359,899
4 Lượt tàu
ra, vào
cảng
Lượt 54,062 74,527 62,291 98,593 119,744
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam [49].
186
Phụ lục 15
Thị phần và sản lượng vận tải biển của đội tàu biển Việt Nam
(2001 - 2010)
Năm
Thị phần vận
tải hàng XNK
(%)
Tổng sản lượng
VTB (tấn)
Sản lượng VTB
quốc tế (tấn)
Tỷ
trọng
Tăng trưởng
SLVTBQT
qua các năm
2001 12,5% 19.359.159 13.498.930 70% 3,0%
2002 14,4% 23.707.304 14.501.142 61% 7,4%
2003 16% 29.728.038 17.367.394 58% 19,8%
2004 19,6% 36.982.088 22.979.146 62% 32,3%
2005 20,1% 42.603.365 26.471.976 62% 15,2%
2006 21,9% 49.480.000 36.300.000 73% 37,1%
2007 21,0% 61.350.000 44.286.000 72% 22,0%
2008 21,4% 69.284.522 47.389.626 68% 7,0%
2009 21,0% 81.056.074 53.235.103 66% 12,3%
2010 23,0% 96.000.000 66.000.000 69% 5,7%
BQ 18,7% 51.430.871 34.798.193 67% 15%
Nguồn: [49].
187
Phụ lục 16
Quy mô đội tàu của các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam
về số lượng và trọng tải (2001 - 2011)
Năm Số tàu
Tốc độ tăng
trưởng (%)
Tổng trọng
tải (DWT)
Tốc độ tăng
trưởng (%)
Trọng tải BQ
(DWT)
2001 631 1.745.434 2.766
2002 802 27,10% 2.121.069 21,52% 2.645
2003 925 15,34% 2.653.802 25,12% 2.645
2004 1.007 8,86% 2.822.748 8,63% 2.863
2005 1.084 7,65% 3.117.065 8,13% 2.876
2006 1.107 2,12% 3.447.474 10,60% 3.114
2007 1.199 8,31% 4.384.880 27,19% 3.657
2008 1.445 20,52% 5.579.524 27,24% 3.861
2009 1.598 10,59% 6.218.937 11,46% 3.892
2010 1.636 2,38% 7.182.775 15,50% 4.390
2011 1.691 3,36% 7.467.269 3,96% 4.416
Nguồn: [49].
188
Phụ lục 17
Bản đồ quy hoạch chi tiết 6 nhóm cảng biển Việt Nam năm 2008
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam [48].
189
Phụ lục 18
Bản đồ tổng thể hệ thống cảng biển Việt Nam
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam [48].
190
Phụ lục 19
Khối lượng hàng hóa thông qua khu vực cảng Hải Phòng
Đơn vị: triệu tấn
Tên
cảng
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Hải
Phòng
9,575 11,32 11,81 13,84 14,51 16,15 24,3 29,1 32,57 38,49 43
Khu vực
cảng HP
8,575 10,35 10,518 10,500 10,511 11,151 24,965 29,291 33,394 38,411 43,057
Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hải Phòng [51].
Phụ lục 20
Khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển khu vực Quảng Ninh
Đơn vị tính: nghìn tấn
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012
K/lượng 35.494.223 35.317.542 38.138.010 42.127.806 50.380.790 49.083.495
Nguồn: Cục Thống kê thành phố Hải Phòng [76].
Phụ lục 21
Khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển khu vực Đà Nẵng
Đơn vị tính: nghìn tấn
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012
K/lượng 3.766.992 3.734.196 4.513.551 4.183.825 4.713.530 4.859.214
Nguồn: [76].
Phụ lục 22
Khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển khu vực TP. Hồ Chí Minh
Đơn vị tính: nghìn tấn
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012
K/lượng 60.334.784 64.568.111 76.508.804 69.170.301 68.548.482 71.578.258
Nguồn: [76].
191
Phụ lục 23
Khối lượng hàng container thông qua cảng biển Việt Nam
giai đoạn 2001 - 2011
Đơn vị tính: Tấn
Năm Cả nước
Tốc độ tăng
hàng năm
Miền Bắc Tỷ trọng
Miền
Trung
Tỷ
trọng
Miền
Nam
Tỷ
trọng
2001 49,058 10,4% 15,276 31,1% 5,062 10,3% 28,720 58,5%
2002 56,238 14,6% 18,464 32,8% 7,175 12,8% 30,599 54,4%
2003 63,879 13,6% 21,040 32,9% 8,700 13,6% 34,211 53,6%
2004 74,618 16,8% 25,580 34,3% 10,760 14,4% 38,278 51,3%
2005 85,314 14,3% 30,563 35,8% 10,754 12,6% 43,997 51,6%
2006 102,566 20,2% 38,544 37,6% 12,435 12,1% 51,275 50.0%
2007 133,799 30,5% 46,877 35,0% 15,099 11,3% 71,823 53,7%
2008 143,612 7,3% 59,655 41,5% 15,035 10,5% 68,922 48%
2009 172,128 19,9% 63,752 37,0% 14,994 8,7% 93,382 54,3%
2010 152,341 -11,5% 55,780 36,6% 16,761 11,0% 79,800 52,4%
2011 157,140 3,2% 63,069 40,1% 19,318 12,3% 74,753 47,6%
Nguồn: [76].
192
Phụ lục 24
Khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam
giai đoạn 2000 - 2011
Lượng hàng thông qua (triệu tấn)
TT
Năm Xuất
khẩu Nhập khẩu Nội địa Quá cảnh Tổng
Tỷ lệ tăng
trưởng
(%/năm)
1 2000 33,6 22,4 18,8 8,5 83,2
2 2001 35,9 25,4 20,1 9,6 91,0 9,2
3 2002 34,5 35,0 22,7 10,1 102,3 12,4
4 2003 37,9 39,9 25,9 10,6 114,3 11,7
5 2004 47,1 41,3 29,0 10,3 127,7 11,7
6 2005 51,2 45,8 28,9 12,6 138,5 8,5
7 2006 57,6 49,1 33,1 14,7 154,5 11,6
8 2007 62,5 58,6 42,9 17,1 181,1 17,2
9 2008 63,7 72,4 42,8 17,7 196,6 8,5
10 2009 75 88,3 48 24 235,3 19,68
11 2010 81,4 95,2 53 25 254,6 8,20
12 2011 95 105 61 28,2 289,2 13,51
Nguồn: [76].
193
Phụ lục 25
Hệ số khai thác cảng biển năm 2010 - 2011
Nhóm cảng biển Tên cảng biển và bến cảng Hệ số khai thác cảng
- Cảng Hải Phòng (Hoàng Diệu, Chùa Vẽ) 119
- Cảng Đoạn Xá 146
- Bến cảng Đình Vũ 81,3%
- Bến cảng tổng hợp Cái Lân 55%
- Cảng than Cẩm Phả 206%
- Cảng Mũi Chùa 1,3%
- Cảng Diêm Điền
Nhóm I
(nhóm cảng biển phía
Bắc)
- Cảng Hải Thịnh
- Cảng Nghi Sơn 103%
- Cảng Lệ Môn 56,8%
- Cảng Cửa Lò 42%
- Cảng Bến Thủy
- Cảng Vũng Áng 51,7%
Nhóm II
(nhóm cảng biển Bắc
Trung bộ)
- Cảng Xuân Hải 25%
- Cảng Quảng Bình
Bến Hòn La 29%
Bến tổng hợp Sông Gianh 66%
Bến dầu Sông Gianh 40%
- Cảng Quảng Trị
Bến Cửa Việt 16%
Bến xăng dầu Cửa Việt
- Cảng Thừa Thiên - Huế
Bến tổng hợp Thuận An 10%
Bến xăng dầu Thuận An 3%
Bến tổng hợp Chân Mây 57%
Bến xăng dầu Chân Mây
- Cảng Đà Nẵng 89%
Bến Liên Chiểu 53%
Bến Tiên Sa 65%
Bến Sông Hàn
- Cảng Kỳ Hà - Quảng Nam
Bến Kỳ Hà 75%
Bến Tam Điệp
- Cảng Dung Quất
Bến Gemandept Dung Quất 5,25%
Nhóm III
(nhóm cảng biển Trung Trung
bộ)
Bến dầu sản phẩm 10,8%
194
Bến nhập dầu thô
Bến khu công nghiệp
Bến Sa Kỳ 35%
- Cảng Quy Nhơn
Bến tổng hợp Quy Nhơn 91,7%
Bến tổng hợp Thị Nại 53,4%
Bến xăng dầu Quy Nhơn 20%
- Cảng Vũng Rô
Bến tổng hợp Vũng Rô 87,4%
Bến xăng dầu Vũng Rô
- Cảng Vân Phong đang x/dựng
- Cảng Nha Trang - Ba Ngòi
Bến Nhà Trang 162%
Bến xăng dầu Mũi Cụt
Bến tổng hợp Ba Ngòi 98,1%
- Cảng Cà Ná - Dốc Hầm
Bến Ninh Chữ 91,4%
Bến Cà Ná 11%
- Cảng Kê Gà
Nhóm IV
(nhóm cảng biển Nam
Trung bộ)
Bến Phú Quý 49%
- Cảng Thành phố Hồ Chí Minh 257%
- Cảng Bà Rịa - Vũng Tàu 65,47%
Nhóm V
(nhóm cảng biển TP. Hồ
Chí Minh - Đồng Nai -
Bà Rịa - Vũng Tàu) - Cảng Đồng Nai và cảng Bình Dương
23,8%
- Cảng trên sông Tiền
Cảng Đồng Tháp 30%
Cảng Mỹ Tho 32%
Cảng Vĩnh Long 42,5%
Cảng Bến Tre chưa h/động
- Cảng trên sông Hậu (nếu tính cả lượng
cát xuất khẩu)
Cảng Mỹ Thới 297%
Cảng Hoàng Diệu - Cần Thơ 301%
Cảng Cái Cui 173%
Cảng Trà Nóc 1.102%
Cảng Bình Minh 83%
- Cảng khu vực bán đảo Cà Mau và ven
biển Vịnh Thái Lan
Cảng Hòn Chông Đã hư hỏng nặng
Nhóm VI
(nhóm cảng biển Đồng
bằng song Cửu Long)
Cảng Năm Căn 14%
Nguồn: [153].