LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết luận trình bày trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Bùi Bạch Đằng
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
5
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
11
Chương 1
YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC (1998 - 2014)
33
1.1.
Yêu cầu khách quan phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
33
1.2
224 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 444 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.
Chủ trương của Đảng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc (1998 - 2014)
46
Chương 2
ĐẢNG CHỈ ĐẠO PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC (1998 - 2014)
69
2.1.
Chỉ đạo phát huy truyền thống yêu nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
69
2.2.
Chỉ đạo phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới
86
2.3.
Chỉ đạo phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam
96
2.4.
Chỉ đạo bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc
102
Chương 3
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
114
3.1.
Nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc (1998 - 2014)
114
3.2.
Kinh nghiệm đúc kết từ quá trình Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc (1998 - 2014)
134
KẾT LUẬN
164
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
166
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
167
PHỤ LỤC
183
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Việt Nam có nền văn hóa lâu đời và đậm đà bản sắc dân tộc, giàu tinh hoa và giá trị cổ truyền. Quá trình hội nhập quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội để xây dựng và phát triển của đất nước. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với không ít những thách thức từ bên ngoài, nhất là tư tưởng, lối sống ngoại lai, nguy cơ đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước, mà một trong những nguy cơ là làm mất dần bản sắc văn hóa, phá vỡ những giá trị truyền thống của dân tộc, làm băng hoại những giá trị, truyền thống tốt đẹp làm nên tinh hoa, cốt cách và bản lĩnh của con người Việt Nam.
Đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014” được tiếp cận và nghiên cứu dưới góc độ khoa học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận án tập trung làm rõ yêu cầu khách quan, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014; trên cơ sở đó, đưa ra những đánh giá, nhận xét về hoạt động lãnh đạo của Đảng, và đúc rút một số kinh nghiệm chủ yếu.
Những vấn đề luận giải trong luận án được dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời, kế thừa có chọn lọc những nội dung và phương pháp nghiên cứu của các công trình đã được công bố có liên quan đến đề tài. Đề tài là một công trình khoa học độc lập, không có sự trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần mà loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát triển của mình trong quá trình lịch sử. Văn hóa là cội nguồn trực tiếp của sự phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của nhân loại nói chung và của từng quốc gia, dân tộc nói riêng; là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên và xã hội. Đó là trình độ nhân bản đích thực của con người, được đo bằng giá trị phổ quát: Chân, thiện, mỹ.
Bản sắc văn hóa dân tộc là phần tinh túy thấm sâu trong tâm hồn, cốt cách, bản lĩnh của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ biểu hiện ở bề ngoài mà còn ẩn sâu bên trong, là “cái hồn” của một nền văn hóa. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chẳng những làm tăng lòng tự tôn dân tộc mà còn là cách tốt nhất nhằm khơi dậy năng lực nội sinh để phát triển đất nước.
Trong các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã xây dựng nên một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập dân tộc, tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết là nền tảng cốt lõi, được vun đắp suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Sức mạnh bản sắc văn hóa đã góp phần to lớn để dân tộc Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cục diện thế giới diễn biến nhanh chóng, quan hệ quốc tế có sự điều chỉnh sâu sắc, hội nhập giữa các quốc gia, dân tộc ngày càng sâu rộng. Vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng nổi bật; ảnh hưởng của văn hóa ngày càng rộng rãi và sâu sắc. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đã trở thành chủ đề nóng hổi được quan tâm rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới, các quốc gia, dân tộc đều đề ra và thực thi chiến lược phát triển văn hóa, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Tuy nhiên, quá trình đó cũng dễ dẫn đến hệ lụy mà dân tộc này có thể bị hòa tan, hay trở thành cái bóng của dân tộc khác, tức là đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất sức mạnh tiềm tàng vốn có của chính dân tộc mình.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đòi hỏi cần phát huy khả năng và trí tuệ ở mỗi con người Việt Nam, sự đồng thuận, đoàn kết vươn lên của toàn xã hội. Bên cạnh những thời cơ và thuận lợi, đất nước cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn: Sự hoài nghi, dao động về con đường lên chủ nghĩa xã hội; tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Những thách thức đó đang làm suy giảm sức mạnh nội sinh của dân tộc trong quá trình xây dựng đất nước.
Nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014, nhằm đánh giá những thành tựu, chỉ ra những hạn chế, bất cập; làm rõ nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng xây dựng nền văn hóa và phát triển con người Việt Nam là việc làm cần thiết. Nghiên cứu đề tài này không chỉ góp phần vào việc tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn quá trình lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ đổi mới, mà còn là cơ sở để kiểm nghiệm tính đúng đắn trong chủ trương của Đảng, khắc phục những nhận thức sai lệch về vị trí, vai trò của bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo đảm nền văn hóa Việt Nam “hội nhập” mà không “hòa tan”, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014” làm luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích nghiên cứu
Luận án làm sáng rõ quá trình Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014; từ đó, đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, làm rõ yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trình bày có hệ thống chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014.
Đánh giá ưu, khuyết điểm trong hoạt động lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của Đảng từ năm 1998 đến năm 2014, chỉ rõ nguyên nhân, bước đầu rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chủ trương và quá trình Đảng chỉ đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở những nội dung cơ bản: Phát huy tinh thần yêu nước; tinh thần đoàn kết dân tộc; Phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam và di sản văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới.
Về thời gian nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm 2014. Năm 1998, là năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa VIII họp Hội nghị lần thứ năm, bàn thảo và ban hành Nghị quyết Về xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Năm 2014, là năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XI họp Hội nghị lần thứ chín, đánh giá, tổng kết, bàn thảo và ban hành Nghị quyết Về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, để bảo đảm tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận án có đề cập một số nội dung về bản sắc văn hóa dân tộc trước và sau mốc thời gian nói trên.
Về không gian nghiên cứu
Nghiên cứu phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên phạm vi quốc gia Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
* Cơ sở thực tiễn
Luận án được thực hiện trên cơ sở thực tiễn hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn hóa việt Nam, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời, dựa trên số liệu báo cáo tổng kết của Đảng, Nhà nước và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.
*Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc; ngoài ra còn sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia,...
6. Những đóng góp mới của luận án
Hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014.
Đưa ra những nhận định, đánh giá ưu, khuyết điểm trong hoạt động lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của Đảng từ năm 1998 đến năm 2014.
Đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc những năm 1998 - 2014 để có thể vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn trong giai đoạn mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp thêm luận cứ khoa học cho việc xác định hệ thống quan điểm, chủ trương và giải pháp lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
* Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và tuyên truyền, giáo dục những nội dung liên quan đến văn hóa ở các học viện, nhà trường trên phạm vi cả nước.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, tổng quan vấn đề nghiên cứu, 3 chương (8 tiết), kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài
1.1. Các công trình nghiên cứu về văn minh, văn hóa, bản sắc văn hóa
Văn hóa, bản sắc văn hóa được thể hiện một cách sinh động đời sống xã hội, đặc điểm tâm lý, giá trị truyền thống của mỗi dân tộc, có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì thế, vấn đề này luôn được tập trung nghiên cứu trên nhiều góc độ, phạm vi khác nhau.
Tác giả Carmelle begin trong bài viết: “Bảo tồn các nền văn minh của Cananda và mối quan hệ của các nhà hoạt động văn hóa trong việc bảo tồn và phổ biến văn hóa” [27], đã khái quát quá trình hình thành chính sách “đa văn hóa” và công nhận những ảnh hưởng chính trị ngày càng tăng của các dân tộc thiểu số. Với chính sách về chủ nghĩa đa văn hóa, Bộ Di sản văn hóa Canada và Văn phòng chủ nghĩa “đa văn hóa” đã tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu về văn hóa truyền thống, đặc biệt là giải pháp bảo tồn nền văn hóa phi vật chất. Trong hệ thống các giải pháp, tác giả nhấn mạnh “cần đẩy mạnh nghiên cứu văn hóa truyền thống, chú trọng công tác đào tạo và sự hỗ trợ của các nhà khảo cổ học” là giải pháp quan trọng hàng đầu.
UNESCO, “Giá trị đặc trưng của di sản văn hóa nói chung và văn hóa phi vật chất nói riêng của các dân tộc thiểu số” [163], nhận định: Di sản văn hóa của các tộc người thiểu số ở Việt Nam được hình thành từ yếu tố địa lý, kinh tế, chính trị - xã hội, được người dân tiếp nhận từ tổ tiên, được hình thành trong lịch sử, được bồi đắp một cách liên tục, kế thừa, không đứt đoạn, lớp mới hòa vào lớp cũ, bổ sung, làm phong phú, chứ không có sự đối lập. Di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số bao gồm: Ngôn ngữ, nghề nghiệp, phương thức sản xuất, trang phục truyền thống đang đối diện với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước sự xâm nhập của văn hóa phương Tây. Để giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số cần phải có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước với chính sách phù hợp, khoa học và đầu tư thích đáng, nhưng trước hết, công tác này phải do chính bản thân các dân tộc đó ý thức và thực hiện.
Tác giả Scar salemink trong bài viết: “Sự bảo tồn văn hóa và biểu hiện văn hóa” [122], đã tập trung phân tích văn hóa truyền thống và văn hóa toàn cầu, khả năng bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Dựa trên các công trình nghiên cứu của Eric Hobsbam và Terence Ranger (1983), sự “phát minh ra truyền thống” (invention oftradition), “tạo dựng nên truyền thống” (construction of tradition). Tác giả chỉ ra nguyên tắc, mối quan hệ giữa văn hoá và truyền thống. Vì thế, khi nghiên cứu xem xét, đánh giá nền văn hoá phải gắn với thời điểm lịch sử, cụ thể và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, đồng thời cần đặc biệt quan tâm đến sự quá độ giữa các chính sách hiện tại và tương lai có thể ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Cuốn sách của Roland Breton, Geographie des civilisation. Presses Universitaire de France. Paris 1987 [193], với cách tiếp cận theo chuỗi giá trị, thuộc tính của văn hóa, tác giả đã chỉ ra công năng, tác dụng của văn hóa đối với cuộc sống con người và quá trình tiến hóa của nhân loại, khẳng định bản sắc văn hóa là một thuộc tính cơ bản, một bộ phận quan trọng, cốt lõi của văn hóa, đi sâu phân tích luận giải sự giống và khác nhau giữa văn minh, văn hóa, bản sắc văn hóa, đồng thời phê phán những quan điểm, quan niệm đồng nhất giữa các phạm trù trên.
Tiếp cận dưới góc độ giá trị về văn hóa, bản sắc văn hóa, các tác giả: Echác Dôn, Giá trị cuộc sống và giá trị văn hóa [64]; V.Khajus Uolter, “Tự do - thị trường tự do về giá trị con người” [181]; Martin Wolf, Châu Á trong cơn lốc toàn cầu hóa: Vì một sự điều tiết ở cấp toàn cầu [101]; Samuen Hungtinhtơn, Sự va chạm của các nền văn minh [123]; Bjaznova, Toàn cầu hóa các giá trị dân tộc [26]. Điều đáng chú ý ở đây, các tác giả đã phân tích quá trình phát triển của xã hội phương Tây hiện đại dưới góc độ văn hoá, bản sắc văn hoá, chỉ ra thực trạng chênh lệch quá xa không chỉ ở các nước nghèo, chậm và đang phát triển mà còn diễn ra ở các nước phát triển. Đó là tình trạng áp bức bóc lột, bất công, phân hóa giàu nghèo, tàn phá và hủy hoại môi trường... và nhận định: “Cần tiến hành cuộc cách mạng tinh thần” trong quá trình toàn cầu hóa và “Sự va chạm của các nền văn minh” là tất yếu. Trên cơ sở đó, các học giả đề xuất một số giải pháp, trong đó nhấn mạnh: Cần xây dựng xã hội hài hòa hơn, rời khỏi “xã hội tiêu dùng” để chuyển sang “xã hội có ý nghĩa hơn”, nhưng vẫn giữ được cốt cách, bản sắc của dân tộc mình. Đó là nhu cầu văn hóa tinh thần sâu sắc, đích thực đang nảy sinh trong tâm lý xã hội của các nước phương Tây.
1.2. Các công trình nghiên cứu văn hóa truyền thống, đời sống văn hóa, văn hóa tín ngưỡng
Tác giả Lesopold cadiere, Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống người Việt [91], đã dày công nghiên cứu nguồn gốc, tín ngưỡng của người Việt (tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian, phong tục tập quán của người Việt), khẳng định: Một dân tộc đã biết tiếp nhận vô vàn yếu tố Trung Hoa, bị áp đặt hoặc thu nạp một cách tự nguyện, để dựng lên một thế giới của riêng mình, và giữ gìn bản sắc độc đáo của mình. Theo tác giả, người Việt rất thông minh, đức hạnh, kiên trì, kiên nhẫn vượt qua những khó khăn, nhọc nhằn nhưng rất lạc quan. Những phẩm chất đó góp phần tạo nên những giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Tác giả Chong Sun - mok, “The Image of Man in the Korean Tra ditional Culture” viết: “Trong tư duy truyền thống Hàn Quốc sự căng thẳng hoặc sự xung đột lợi ích được tạo ra bởi sự băng hoại của các quan hệ nhân văn” [187, tr.22]. Quan niệm này đã dẫn đến khuynh hướng không phân biệt được “cái tôi” với những người khác, giá trị văn hóa truyền thống với giá trị xã hội nhân văn.
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của xã hội công nghiệp đối với văn hóa, tác giả Kin Kyong - dong, “The Social Impack of undus - trializafion and the Task for the Future, Seoul 1979 và “Souack change and Societal Develop mennt in Korea since 1945” Seoul 1985 [189]. Dịch là “Ảnh hưởng xã hội của công nghiệp hóa và nhiệm vụ cho tương lai” và “Sự thay đổi xã hội và sự phát triển xã hội Hàn Quốc từ năm 1945”, trình bày quan điểm và những nguyên tắc quan trọng nhất của tổ chức xã hội văn hóa truyền thống Hàn Quốc. Với 7 nguyên tắc: Chủ nghĩa độc đoán cấp bậc; Chủ nghĩa tập thể; Chủ nghĩa cha truyền con nối; Chủ nghĩa nhân cách; Chủ nghĩa nghi thức đạo đức; Khung lưỡng phân của tư duy; Sự không tương xứng của lý tưởng hiện thực. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến lý tưởng đạo đức - nền tảng của sự phát triển văn hóa con người, gia đình và xã hội, yếu tố góp phần tạo dựng nên bản sắc văn hóa dân tộc.
Tác giả Suriya ratanakul trong bài viết: “Các dân tộc thiểu số, giáo dục và bản sắc văn hóa” [126], đã khái quát sự hình thành văn hóa gia đình truyền thống ở Thái Lan. Là quốc gia - Bán đảo vàng (Golden Peninsula), nằm trong vùng Đông Nam Á, là láng giềng của Campuchia, Lào và Malaysia, với 58 triệu người nói tiếng Thái và khoảng 600.000 người thuộc các dân tộc thiểu số. Quá trình hội nhập, văn hóa truyền thống, sinh hoạt cộng đồng lâu đời, phong tục tập quán, tinh thần đoàn kết và lối sống tập thể không còn gắn chặt với những quy tắc xã hội. Văn hoá của các dân tộc miền núi cũng bị tác động bởi những giá trị phát sinh từ các cơ cấu kinh tế mới do các chương trình phát triển tạo ra, sự giao lưu tiếp biến cũng làm mất dần đi những giá trị văn hoá cộng đồng, phá vỡ những giá trị truyền thống gia đình. Vì thế, tác giả đưa ra những giải pháp, trong đó: Cần đẩy mạnh giáo dục truyền thống, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa, nhất là văn hóa dân tộc thiểu số, đồng thời mở rộng giao lưu, tiếp biến có chọn lọc những tinh hóa văn hóa thế giới.
Bàn về giá trị văn hóa truyền thống, tác giả Estebant Tagannon trong bài viết: “Các cộng đồng văn hóa bản địa ở Philippin: Một cái nhìn lịch sử về việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của các cộng đồng người này” [65], phân tích sự cần thiết phải giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống, nhất là giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số và di sản văn hóa tại nước Cộng hòa Philippin. Là một quốc gia đa dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số chiếm khoảng 2,5 triệu người theo đạo Hồi, chủ yếu cư trú ở những đảo: Mindanao, Jolo, Sulu, Palawan và khoảng 5 triệu người không theo đạo Hồi, phân bố khắp các nơi, đông nhất là người Igorot ở miền Bắc Luzon. Để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, các di sản văn hóa thì chính sách và luật pháp có vai trò quyết định. Vì thế, cần đặt dưới sự bảo hộ của Nhà nước, tăng cường giáo dục khoa học kỹ thuật, văn hoá nghệ thuật, là giải pháp quan trọng hàng đầu mà tác giả đề xuất.
Luận bàn về giải pháp bảo tồn giá trị văn hóa phi vật thể, tác giả Jing Fang Shen trong bài viết: “Những bảo đảm về phương diện pháp lý và tổ chức đối với việc bảo tồn các nền văn hóa dân tộc thiểu số ở Trung Quốc” [83], khái quát những định chế tự trị được quy định trong luật pháp, bảo đảm cho sự bình đẳng của các dân tộc là vấn đề có tính nguyên tắc. Theo tác giả, những định chế đó có thể tạo ra một bối cảnh xã hội cần thiết để thể hiện những nền văn hoá khác nhau. Đồng thời, cung cấp sự bảo đảm về pháp lý và hành chính cho công tác bảo vệ di sản văn hoá, huy động những yếu tố tích cực để tạo sự phồn vinh cho các nền văn hoá khác nhau. Tác giả đề xuất những giải pháp về pháp lý cho việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá của các dân tộc thiểu số như: Sử dụng ngôn ngữ riêng của mình trong các sách giáo khoa và trong việc dạy học khi đa số học sinh thuộc thành phần dân tộc thiểu số và khi điều kiện cho phép; truyền bá và phát huy văn hoá và nghệ thuật bằng các phương tiện truyền thông (truyền thanh, phim ảnh, truyền hình, báo chí và các xuất bản phẩm); sưu tầm, dịch và xuất bản các tác phẩm văn học; bảo vệ các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, các công trình kiến trúc, các di sản văn hoá của các dân tộc thiểu số.
Với cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ phong tục, truyền thống, tín ngưỡng văn hóa, những qui tắc, thuộc tính bên trong của văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc, xu thế tiếp biến của các nền văn hóa, văn minh trong quá trình hội nhập quốc tế, vai trò quan trọng của văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc. Những yếu tố tác động từ các giá trị phát sinh đến văn hóa truyền thống và ảnh hưởng của nó đến bản sắc văn hóa của các dân tộc. Quá trình hội nhập quốc tế, bên cạnh những thành tựu đạt được, vấn đề đặt ra là cần phải giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một yêu cầu cấp bách, nhiệm vụ quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc.
2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu chung về văn hoá và bản sắc văn hoá Việt Nam
Xây dựng và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước, có vị trí đặc biệt quan trọng, là động lực chủ yếu và là một trong ba “trụ cột” để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Vì thế, các vấn đề về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, dưới các góc độ và trên nhiều bình diện khác nhau:
Tác giả Phùng Hữu Phú với công trình khoa học: “Định hướng phát triển văn hóa - sức mạnh nội sinh của dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” [117]. Trên cơ sở nhận xét tổng quan về tình hình xây dựng, phát triển văn hóa 1998 - 2014, tác giả đề xuất và kiến nghị cần tăng cường bồi đắp, phát huy nguồn lực nội sinh của dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn để phát triển bền vững, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỳ XXI, hình thành trong thực tiễn đời sống hệ giá trị của con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; phát huy phẩm chất, năng lực làm chủ của các thế hệ người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; xác lập hệ giá trị Việt Nam trong hệ giá trị chung của nhân loại. Mục tiêu cụ thể đến năm 2020, tầm nhìn 2030 là: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; khắc phục, tiến tới đẩy lùi các tiêu cực, tệ nạn văn hoá - xã hội; Tăng cường tiềm năng văn hóa quốc gia; tập trung phát triển nguồn lực con người; Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; cải thiện chỉ số phát triển con người (HDI) Việt Nam” [117, tr.27].
Tác giả Phạm Duy Đức trong cuốn sách: Thành tựu trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam 25 năm đổi mới (1986 - 2010) [59], đã khái quát những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 1986 - 2010. Tác giả nhận định, những tác động và chỉ ra những thành tựu phát triển văn hóa, trong đó: “Văn hóa xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện” [59, tr.34].
Nghiên cứu của Trần Ngọc Thêm, “Tổng quan những bài học lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa từ đổi mới đến nay” [135], khái quát quá trình xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới, đánh giá những thành tựu và hạn chế trong xây dựng, phát triển văn hóa trên phương diện lý luận và thực tiễn; chú trọng phát huy những giá trị đạo đức của con người Việt Nam.
Cuốn sách của tác giả Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam [67], đã trình bày những hệ thống giá trị đạo đức của con người Việt Nam, đó là sự kết tinh những phẩm chất tốt đẹp nhất mà dân tộc Việt Nam đã tạo ra trong lịch sử, có sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại. Với 11 chương, trong đó tác giả dành 8 chương luận bàn về những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam. Tác giả khẳng định: “Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Yêu nước đã trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam” [67, tr.100 - 101].
Tác giả Phan Ngọc trong cuốn sách: Bản sắc văn hóa Việt Nam [110], đã cung cấp một số khái niệm và cách tiếp cận nghiên cứu bản sắc văn hóa Việt Nam, những yêu cầu bất biến của tâm thức Việt Nam là Tổ quốc - Làng xã, Thân phận và Diện mạo với những nét tiêu biểu của văn hóa Việt Nam.
Cuốn sách của tác giả Mai Thị Quý: Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay [119], đã nhận định: Toàn cầu hoá, một mặt đem lại cho tất cả các nước, nhất là các nước chậm và đang phát triển những cơ hội lớn; mặt khác, nó cũng đặt ra những thách thức, phá vỡ những giá trị truyền thống. Việt Nam là một quốc gia có bề dày lịch sử lâu đời và đã trải qua nhiều biến động thăng trầm của lịch sử, tồn tại trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, luôn phải chống lại những kẻ ngoại xâm tàn bạo, có tiềm lực quân sự rất mạnh. Để tồn tại và phát triển, dân tộc Việt Nam luôn chủ động khơi dậy và phát huy sức mạnh nội sinh, phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc đã được hun đúc trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng chứa đựng nguy cơ đe dọa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Không ít những sản phẩm văn hoá, những tư tưởng, lối sống sùng ngoại đang có nguy cơ làm băng hoại những giá trị văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy, tác giả đề xuất giải pháp cần chú trọng giữ gìn, kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, chủ động tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Tác giả Vũ Như Khôi trong cuốn sách: Văn hóa giữ nước Việt Nam - Những giá trị đặc trưng [89], trình bày những giá trị đặc trưng nhất của văn hóa giữ nước Việt Nam. Trong hệ thống những giá trị văn hóa ấy thì lòng yêu nước là giá trị tiêu biểu nhất, chi phối và định hướng phát triển các giá trị khác. Nền tảng và biểu hiện cao nhất của lòng yêu nước là tinh thần tự tôn, tự lập tự cường. Những giá trị đặc trưng văn hóa giữ nước là cội nguồn của chiến thắng, là sức sống trường tồn của dân tộc, mang tính vĩnh hằng. Tác giả khẳng định: “Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội hiện nay là yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, yêu những thành quả chiến đấu và lao động xây dựng của các thế hệ ông cha, yêu chế độ cùng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, yêu mối tình đoàn kết, gắn bó giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ toàn thế giới” [89, tr.230].
Nghiên cứu về bảo tồn di sản văn hóa, tác giả Trần Văn Khê với công trình: “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật chất của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam” [84], trình bày dưới dạng câu hỏi, theo một trật tự lôgíc (tại sao phải bảo tồn? bảo tồn bằng cách nào? Bảo tồn cái gì?). Theo tác giả, di sản là một thành tố tối quan trọng của bản sắc văn hoá các tộc người thiểu số ở Việt Nam, có một giá trị nghệ thuật không thể phủ nhận. Nó là một kho tàng văn hóa chẳng những đối với các dân tộc thiểu số mà còn đối với Việt Nam và toàn thể nhân loại, là một đối tượng quan trọng cho các công trình nghiên cứu so sánh trong lĩnh vực âm nhạc tộc người, vũ điệu và các loại hình nghệ thuật khác. Để bảo tồn di sản văn hóa phi vật chất của các dân tộc thiểu số, tác giả đề xuất 2 cách bảo tồn (thụ động và chủ động). Bảo tồn một cách thụ động bao gồm việc ghi lại bằng các phương tiện nghe nhìn tất cả các khía cạnh của di sản văn hoá của một tộc người và gìn giữ các tư liệu đó trong các kho lưu trữ của các viện bảo tàng. Bảo tồn chủ động không những bao gồm việc sưu tầm các tài liệu về di sản văn hoá mà còn nhằm phổ biến các tác phẩm được chọn lựa vì sự lý thú hoặc độc đáo của chúng; truyền lại cho các thế hệ trẻ các tri thức và cách thực hành âm nhạc, múa hay sân khấu truyền thống; tìm kiếm các điều kiện thuận lợi để cho một số phong cách âm nhạc, sân khấu và múa, có được một vị trí trong xã hội hiện đại. Để giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa, tác giả cũng kiến nghị 5 giải pháp, trong đó “Hành động bảo tồn, truyền bá và tăng cường sinh lực cho di sản phi vật chất của các tộc người thiểu số chỉ có hiệu quả nếu họ được quyền bảo tồn tiếng mẹ đẻ, nếp sống, phong tục và tín ngưỡng của họ và nếu giáo dục ở các cấp tiểu học và trung học được quan tâm đến các nhu cầu của họ” [84, tr.85 - 88].
Công trình nghiên cứu của Tô Ngọc Thanh: “Văn hóa phi vật chất của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam: Vai trò, địa vị của nó, trách nhiệm của chúng ta và giải pháp” [129], đã nhận định: Văn hóa của các dân tộc thiểu số nói chung và văn hóa phi vật chất của họ nói riêng đang đối mặt với nguy cơ suy yếu dần do nhiều nguyên nhân như: Sự kiện chiến tranh kéo dài nhiều thập niên đã gây trở ngại cho việc thực hiện các hoạt động văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số. Mặc dù Chính phủ Việt Nam luôn luôn cổ vũ cho việc bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc thiểu số, nhưng một số cán bộ địa phương đã chấp hành chính sách này một cách miễn cưỡng. Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá tạo ra những điều không thuận lợi cho việc bảo tồn, tăng cường sinh lực và thực hiện các hoạt động văn hoá vốn bắt nguồn từ một xã hội nông nghiệp truyền thống và một chế độ cộng đồng làng xã. Khuynh hướng “vọng ngoại” không phân biệt giữa “văn minh” và “văn hoá”, khiến cho một bộ phận dân cư, cả dân tộc đa số lẫn dân tộc thiểu số, đặc biệt là thế hệ trẻ, xem ...ộc bao gồm nhiều loại hình, nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều sắc màu, nhiều mức độ và quy mô khác nhau, tạo nên giá trị to lớn là nền tảng bền vững của bản sắc dân tộc. Vì vậy, bản sắc dân tộc cũng có thể được hiểu là bản sắc văn hóa của dân tộc nếu như văn hóa được hiểu theo nghĩa: “Ở đâu có con người là ở đó có văn hóa, ở đâu có hoạt động của con người là có nhân tố văn hóa hiện diện, biểu hiện hoặc tiềm ẩn bản sắc dân tộc” [184, tr.291].
* Quan niệm về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Thông thường khi nói đến “phát huy”, nhiều người thường không gắn với “giữ gìn” và cho rằng “giữ gìn” là bảo toàn cái gì đã có, “phát huy” là làm cho một cái gì đó tốt hơn. Thực ra, “phát huy” bao hàm cả “giữ gìn”. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là sự khơi dậy và phát huy những đặc điểm tích cực, những giá trị tốt đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là khơi dậy tinh thần yêu nước, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đoàn kết gắn bó, đồng tâm hiệp lực, phát huy nguồn lực nội sinh, làm giàu chính đáng để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước, không chấp nhận đói nghèo, lạc hậu, tạo động lực mạnh mẽ để Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời đại mới còn là sự đổi mới, chọn lọc để tiếp thu sáng tạo những tinh hoa của văn hóa nhân loại; bổ sung, hoàn thiện và làm cho những giá trị của bản sắc văn hóa Việt Nam được “tỏa sáng” lên tầm cao mới. Đồng thời, khắc phục và loại bỏ những đặc điểm tiêu cực (không còn phù hợp) trong bản sắc văn hóa, góp phần vào sự phát triển văn hóa trong khu vực và toàn thế giới.
Từ phạm vi nội dung nghiên cứu, kế thừa những công trình khoa học đã được công bố, theo tác giả luận án:
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chính là quá trình Đảng đề ra chủ trương và chỉ đạo các lực lượng có liên quan tổ chức thực hiện, nhằm khơi dậy và phát huy những đặc điểm tích cực, những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho những giá trị của bản sắc văn hóa Việt Nam được phát huy lên tầm cao mới.
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trước tiên là phát huy tinh thần yêu nước là sự khơi dậy mạnh mẽ tình yêu quê hương, đất nước của mọi người dân Việt Nam, phát huy mọi tiềm năng và lợi thế, tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc là sự khơi dậy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết, gắn bó, đồng tâm hiệp lực dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm tập hợp mọi lực lượng, mọi tổ chức, cùng chung sức, đồng lòng nỗ lực vươn lên thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam là phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót trong hệ giá trị đạo đức con người Việt Nam nhằm xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, xây dựng con người mới đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Phát huy di sản văn hóa dân tộc là sự phát huy những tài sản của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau theo hướng tích lũy ngày càng phong phú trong môi trường văn hóa. Đó là phát huy những kinh nghiệm, tri thức, phẩm chất tốt đẹp, làm cơ sở để lựa chọn giá trị văn hóa mới, tạo ra động lực tinh thần của xã hội, góp phần thúc đẩy giao lưu, tiếp biến bản sắc văn hóa.
*Vị trí, vai trò của bản sắc văn hóa dân tộc
Bản sắc văn hóa dân tộc vừa khắc họa chân dung dân tộc, vừa tạo nên nội lực quan trọng thúc đẩy dân tộc phát triển. Đánh mất “chân dung” của dân tộc, tức là từ bỏ bản thân mình, lệ thuộc vào thế giới bên ngoài. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ góp phần khẳng định nền độc lập, tự chủ đích thực của dân tộc, là điều kiện góp phần đảm bảo cho dân tộc Việt Nam hội nhập, hợp tác và phát triển.
Bản sắc văn hoá dân tộc là nội dung cốt lõi của nền văn hoá dân tộc, đảm bảo cho dân tộc trường tồn qua các biến động của lịch sử. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc sẽ góp phần khẳng định nền độc lập, tự chủ đích thực của dân tộc, là điều kiện đảm bảo để đất nước hội nhập và phát triển. Đồng thời, tăng cường củng cố, nâng cao lòng tự hào dân tộc, giúp cho thế hệ trẻ hiểu sâu sắc hơn lịch sử, truyền thống dân tộc; khơi dậy niềm tin, xây dựng bản lĩnh con người Việt Nam, trước những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường; phát huy mọi tiềm năng về thể lực, trí lực và nhân cách của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bản sắc văn hoá dân tộc được thể hiện trong các chuẩn mực xã hội, có tính ổn định bền vững, có sức mạnh to lớn đối với cộng đồng, góp phần định hướng hành động của mỗi người dân. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở, điều kiện cần thiết để khẳng định nguồn lực nội sinh. Bởi vì, nội lực văn hoá dân tộc vừa bao trùm bản sắc văn hóa, vừa bao hàm bản lĩnh văn hóa dân tộc. Đây là nền tảng chủ yếu để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và là động lực để phát triển đất nước. Vì vậy, cần phát huy bản sắc văn hóa dân tộc một cách sáng tạo, linh hoạt, phải kết tinh và nâng lên tầm cao mới những đặc điểm tích cực của dân tộc và thế giới, trên cơ sở tạo lập bước đi thích hợp, khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn nội sinh nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bản sắc văn hoá dân tộc là những đặc trưng, sắc thái riêng tiêu biểu nhất của dân tộc để phân biệt văn hoá của cộng đồng này với cộng đồng khác, dân tộc này với dân tộc khác. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã tác động mạnh mẽ, làm chuyển đổi các giá trị, chuẩn mực văn hoá và lối sống, nếp nghĩ, tầm nhìn của mỗi cá nhân và cộng đồng. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nhằm giao lưu, tiếp biến, bổ sung những tinh hoa văn hóa nhân loại, để bản sắc văn hoá Việt Nam ngày càng giàu đẹp, tạo động lực để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Thực trạng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước năm 1998 và yêu cầu của thời kỳ đổi mới
* Thực trạng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước năm 1998
Trước năm 1998, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải đối mặt với nhiều khó khăn. Sự biến động chính trị phức tạp trên thế giới, nhất là sau sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên xô đã tác động tiêu cực đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới, làm nảy sinh chủ nghĩa hoài nghi với nhiều hình thức khác nhau, tình trạng “Dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội mơ hồ, bàng quan hoặc mất cảnh giác trước những luận điệu thù địch, xuyên tạc” [42, tr.46]. Những vấn đề đó đã tác động, ảnh hưởng xấu đến tâm tư, tình cảm, lối sống và ý thức của một số người dân Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ. Các thế lực thù địch ra sức chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại bằng âm mưu “diễn biến hòa bình”, xuyên tạc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, truyền bá lối sống thực dụng, hướng Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa; phủ định chủ nghĩa xã hội và phê phán sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phản bác, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô là sự sụp đổ của học thuyết Mác - Lênin. Chúng xuyên tạc, truyền bá các quan điểm sai trái, làm rối loạn tư tưởng, khủng hoảng niềm tin, tạo ra sự chống đối nội bộ xã hội từ bên trong. Thông qua các tổ chức phi chính phủ, qua các hình thức giao lưu, hợp tác về văn hóa để thâm nhập, thu thập tin tức, làm chuyển hóa tư tưởng, chính trị của cán bộ, cài cắm, móc nối với những đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị... để thực hiện mục đích làm phai nhạt bản sắc văn hóa Việt Nam.
Phát huy những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc đã bảo đảm cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy; nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành; nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể được bảo tồn, tôn tạoTuy nhiên, tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống là đáng lo ngại:
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đọa không được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà nước [42, tr.46 - 47].
Môi trường văn hóa - xã hội bị ô nhiễm bởi sự xâm nhập của những sản phẩm phi văn hóa, văn hóa độc hại; bởi sự gia tăng tệ nạn xã hội, tình trạng tội phạm và bởi sự xô bồ, lộn xộn trong việc phục hồi thái quá đến mức mê muội những tàn tích xưa cũ và sự vồ vập đến mức sùng bái những trào lưu, xu hướng, trường phái văn hóa và lối sống xa lạ du nhập từ bên ngoài. Những tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị đã chà đạp lên tình nghĩa gia đình, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu, tham nhũng, ma túy, mại dâm, mê tín, dị đoan... khá phổ biến; nhiều hủ tục lạc hậu phát triển tràn lan, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội Đó cũng là điều nhức nhối trong xã hội mà Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ ra: “Lối sống chạy theo đồng tiền, những thị hiếu không lành mạnh, những hủ tục mê tín tăng nhanh, nhiều văn hóa phẩm độc hại lan tràn trên thị trường” [40, tr.52].
Bản sắc văn hóa được thể hiện trong di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) có bước phát triển, nhưng thiên về số lượng, thiếu tầm cao, chiều sâu và sự tỏa sáng của những giá trị sáng tạo mới, thiếu những những công trình có tầm vóc tương xứng với dân tộc văn hiến, anh hùng đang trên đường đổi mới. Mặt khác, đất nước còn nghèo, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhu cầu của nhân dân rất lớn, những điều kiện, phương tiện, vật chất bảo đảm để phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam còn hạn chế “tệ sùng bái nước ngoài, coi thường giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ [42, tr.46].
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém trên là do: Nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò bản sắc văn hóa dân tộc có mặt còn hạn chế “Trong khi tập trung sức vào nhiệm vụ kinh tế, Đảng chưa lường hết những tác động tiêu cực nói trên, từ đó chưa đặt đúng vị trí của văn hóa” [42, tr.52]. Công tác nghiên cứu, tổng kết lý luận về những giá trị truyền thống, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại về bản sắc văn hóa dân tộc còn hạn chế; nội dung, hình thức giáo dục phát huy bản sắc văn hóa trong sinh hoạt Đảng và các đoàn thể chưa phong phú; việc xử lý những thành phần thoái hóa, biến chất trong bộ máy Nhà nước chưa nghiêm. Công tác quản lý còn có những biểu hiện buông lỏng, né tránh; cơ chế, chính sách chưa phù hợp để khai thác tối đa nội lực của nhân dân; đầu tư ngân sách để đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cho cán bộ nghiên cứu, hoạt động, bảo tồn, phát huy di sản văn hóa còn thấp; còn thiếu những biện pháp cần thiết trên cả hai mặt “xây” và “chống”; chưa có chiến lược về phát triển bản sắc văn hóa cùng với các lĩnh vực khác.
Nhìn chung, thực trạng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trước năm 1998 còn nhiều bất cập, yếu kém về nhận thức, qui mô, trình độ tổ chức quản lý, sức cạnh tranh. Đòi hỏi phải có sự đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kỳ mới.
* Yêu cầu phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới
Bước vào giai đoạn 1998 - 2014, vấn đề phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng chịu nhiều tác động từ những biến đổi của tình hình thế giới và khu vực. Trước hết, cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc vẫn diễn ra gay gắt và phức tạp. Trên lĩnh vực văn hóa, bản sắc văn hóa, đây là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa văn hóa truyền thống với văn hóa hiện đại, giữa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của từng dân tộc với xu hướng phát triển văn hóa của nhân loại. Đấu tranh giữa xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với các luồng văn hóa phản động, lạc hậu, lai căng. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một nguyên tắc trong thời kỳ hội nhập và phát triển đất nước. Đồng thời, còn là điều kiện cơ bản để “tiếp biến” văn hóa, giúp cho dân tộc thích ứng được với những cái mới và “dân tộc hóa” cái mới để biến nó thành tài sản của dân tộc, mang hồn của dân tộc.
Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã lôi cuốn nhiều nước tham gia, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa gia tăng sức ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hoá vừa đem lại những cơ hội lớn, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở củng cố ý thức tự tôn dân tộc và là nền tảng cho sự phát triển đất nước bền vững. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, tự chủ trên mọi phương diện. Muốn vậy, cần kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Ông Mahathir Mohamad khẳng định: “Rõ ràng công cuộc toàn cầu hoá và thế giới không biên giới có những mặt tốt và những mặt xấu. Chúng không phải là phương thuốc thập toàn chữa tất cả các căn bệnh kinh tế. Chúng có thể làm cho người nghèo giàu lên nhưng chúng cũng có thể bần cùng hoá, thậm chí hủy hoại nền kinh tế của các quốc gia và khu vực” [100, tr.120]. Theo đó: “Chúng ta phải thận trọng để không đổ đứa bé đi cùng với chậu nước bẩn... Chúng ta không được quay lưng lại với mặt tốt của toàn cầu hoá, cũng như không được ôm chầm lấy mặt xấu của nó” [100, tr.33]. Những khuyết tật của toàn cầu hoá không phải ở tính “sinh lợi” của nó mà chủ yếu ở tính thiếu công bằng và bình đẳng trong sự sinh lợi và hưởng lợi, ở những suy giảm lý tưởng nhân văn, nhân đạo của con người. Những khuyết tật của toàn cầu hoá cũng đã châm ngòi cho những cuộc đấu tranh phản đối toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên thế giới. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa không đánh mất những giá trị truyền thống dân tộc, kế thừa, phát huy và đổi mới những giá trị đó, biến chúng thành sức mạnh đưa đất nước lên một tầm cao mới, đủ sức nắm bắt cơ hội do chính quá trình toàn cầu hóa mạng lại.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, đang hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn. Cộng đồng ASEAN tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu, ngày càng khẳng định vai trò trung tâm trong một cấu trúc khu vực đang định hình và phải đối phó với những thách thức mới, cũng tạo ra sự cạnh tranh trực tiếp, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam.
Thực tiễn trên vừa tạo ra cơ hội, thời cơ mới; đồng thời, cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức, trong đó hiện hữu nhất là nguy cơ các giá trị truyền thống của dân tộc bị băng hoại, bản sắc văn hóa phong phú và lâu đời của dân tộc bị phai mờ trong cơn lốc của hội nhập. Bên cạnh đó, những thách thức khó khăn của đất nước còn rất lớn, gay gắt và phức tạp do những yếu kém bên trong của nền kinh tế - xã hội. Tiềm năng để phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chưa được huy động triệt để, nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp trong khi nhu cầu rất lớn. Bộ máy quản lý di sản văn hóa còn bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém.
Xuất phát từ thực tiễn trên, nếu cứ phát huy bản sắc văn hóa dân tộc theo truyền thống và cách làm cũ, Việt Nam sẽ bị tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới trên tất cả các lĩnh vực. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần chủ động hội nhập quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nhằm tận dụng thành công những thuận lợi và thời cơ lớn để Việt Nam hội nhập và phát triển.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đóng vai trò là một nguồn nội lực to lớn, góp phần thúc đẩy Việt Nam hội nhập, phát triển và khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Toàn cầu hóa tạo ra hệ thống quan hệ quốc tế đan xen, làm gia tăng tính tùy thuộc vào nhau giữa các dân tộc. Chính trong môi trường liên kết, hợp tác đó, là điều kiện để nước ta phát huy truyền thống đoàn kết, tập hợp sức mạnh của mình cho mục tiêu phát triển đất nước Việt Nam hùng cường. Áp lực cạnh tranh và xu thế toàn cầu hóa, tư duy của con người Việt Nam trở nên linh hoạt hơn, năng động hơn trong các lĩnh vực. Với chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, Việt Nam đã và đang hợp tác thành công với những nước trước đây từng xâm lược Việt Nam. Điều đó đã khẳng định lòng nhân ái, khoan dung của con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong lĩnh vực phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đây là cơ hội lớn để xem xét, đánh giá vai trò của bản sắc văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng và phát huy bản sắc văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh tế và xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị.
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một động lực chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để chuyển giao vốn, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ, chuyển giao kỹ năng, kinh nghiệm tổ chức và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa, thúc đẩy quá trình dân chủ hóa về thông tin toàn cầu, kích thích năng lực sáng tạo để phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để mở rộng xuất, nhập khẩu văn hóa phẩm, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, góp phần nâng cao trình độ dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân, giới thiệu các thành tựu di sản văn hóa Việt Nam đến bạn bè quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế tác động vào tinh thần dân tộc, ý thức cộng đồng, kích thích tinh thần dân tộc phát triển, thúc đẩy tinh thần cạnh tranh để nâng cao vị thế bản sắc văn hóa Việt Nam trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và văn hóa phi truyền thống đến truyền thống và con người Việt Nam.
Để thực hiện được mục tiêu phát triển của thời kỳ mới, đòi hỏi Việt Nam cần phải phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những giá trị phổ quát của nhân loại, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
1.2. Chủ trương của Đảng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc (1998 - 2014)
1.2.1. Phương hướng, mục tiêu
Bản sắc dân tộc gắn liền với văn hóa và thường được biểu hiện thông qua văn hóa. Vì vậy, từ phương hướng chung về phát triển văn hóa; trên cơ sở kết quả bước đầu sau 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996). Phương hướng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trọng tâm là phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết là:
Phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” [42, tr.54 - 55].
Phương hướng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới, được thể hiện tập trung trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998), Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó, Đảng xác định rõ hơn nội hàm của khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc, bao gồm các lĩnh vực chủ yếu của đời sống tinh thần của xã hội là tư tưởng, đạo đức, lối sống, xây dựng con người và môi trường văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ; văn học - nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa với nước ngoài, thể chế văn hóa; di sản văn hóa... Trong đó, phát huy nhân tố con người với tư tưởng, đạo đức, lối sống chuẩn mực là vấn đề đặc biệt quan trọng trong bản sắc văn hóa.
Bản sắc văn hóa dân tộc là biểu hiện sống động của cốt cách dân tộc qua thăng trầm của lịch sử. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng chính là giữ gìn, phát huy cốt cách dân tộc. Cốt cách dân tộc được coi là “chất”, là “bộ gien” của mỗi dân tộc và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chính là bảo vệ, giữ gìn và phát huy bộ gien quý đó. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là để khẳng định sự độc lập, tự chủ của dân tộc về mọi mặt, đồng thời cũng tạo niềm tin và là cơ sở vững chắc cho các quan hệ hợp tác quốc tế. Đó là nền tảng tinh thần cho dân tộc Việt Nam vững bước đi lên. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh, không quan tâm giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII nhấn mạnh: “Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển” [42, tr.55].
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập sẽ góp phần phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Kết hợp phát triển kinh tế với phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đòi hỏi việc xác định mỗi chính sách kinh tế trong đó đều có mục tiêu hướng tới nhằm xây dựng giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam.
Trong phương hướng phát huy những giá trị của bản sắc văn hóa, Đảng cũng chỉ rõ, động lực phát triển kinh tế là từ trong cội nguồn và sức mạnh của bản sắc văn hóa, không chạy theo mục tiêu kinh tế đơn thuần với bất cứ giá nào. Mặt khác, mỗi chính sách phát triển những giá trị của bản sắc văn hóa đều phải dựa trên cơ sở và khả năng kinh tế nhất định và phù hợp với thực lực kinh tế của đất nước. Để phát huy những giá trị của bản sắc văn hóa, Đảng, Nhà nước phải tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, nhằm tạo điều kiện vật chất để phát huy những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi chúng ta không thể thực hiện các mục tiêu phát triển văn hóa - xã hội nếu tách rời với các khả năng kinh tế, không xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cũng không phải cứ có tăng trưởng kinh tế là tự nó giải quyết được các vấn đề văn hóa - xã hội. Trong nhiều trường hợp, chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế, không có quan điểm đúng đắn về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thì thành quả tăng trưởng kinh tế cũng chệch khỏi các mục tiêu văn hóa - xã hội. Do vậy, cần lựa chọn mức độ, hình thức và biện pháp phù hợp để phát huy những giá trị của bản sắc văn hóa trong từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của tăng trưởng kinh tế.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ ngày càng nhanh và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, thì nguồn tài nguyên con người ngày càng trở nên quý giá hơn. Do đó, đầu tư để phát huy những giá trị của bản sắc văn hóa thực chất là đầu tư cho phát triển nguồn tài nguyên con người với tiềm năng vô hạn của nó. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không có quan điểm đúng đắn để phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp, sẽ có nguy cơ đẩy xã hội đi đến phân cực thái quá, giữa người giàu và người nghèo, giữa nông thôn và thành thị, giữa vùng thuận lợi và vùng khó khăn... cùng nhiều tệ nạn xã hội sẽ xuất hiện, giá trị truyền thống bị mai một,... Những biểu hiện ấy nếu để tích tụ lâu ngày sẽ không chỉ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, mà còn đe dọa đến sự ổn định chính trị. Do đó, Đảng và Nhà nước cần quan tâm để đề ra phương hướng, chủ trương khoa học và cụ thể nhằm giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Trên cơ sở Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII (1998), Nghị quyết Đại hội IX (2001), bổ sung phương hướng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là: “Động viên toàn dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội... Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo tồn và tôn tạo các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể làm nền tảng cho sự giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng, giữa các vùng cả nước và giao lưu văn hóa bên ngoài” [43, tr.296]. Đồng thời, Nghị quyết cũng nhấn mạnh: “Nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ với bạn bè trên thế giới; rèn luyện bản lĩnh, nắm vững thời cơ, khắc phục nguy cơ, bảo đảm ổn định và phát triển đất nước” [43, tr.345].
Như vậy, phương hướng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được Đảng ngày càng nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn, được thể hiện ở sự gắn kết giữa phát huy bản sắc văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, là sự phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp và truyền thống của dân tộc trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mà nội dung cốt lõi là phát huy những giá trị đạo đức, chuẩn mực của con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X (2006), của Đảng tiếp tục bổ sung phương hướng xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới là:
Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam” [46, tr.106].
Với mục tiêu đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7 - 7,5%, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD, giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động, tuổi thọ trung bình 2015 đạt 74 tuổi. Giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội XI (2011) của Đảng tiếp tục bổ sung phương hướng xây dựng và phát huy những giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam là:
Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính [51, tr.76 -77].
Xây dựng nguồn lực con người - động lực trực tiếp cho sự phát triển đất nước. Vì con người là chủ thể chân chính sáng tạo ra những giá trị văn hóa; đồng thời, là sản phẩm của môi trường văn hóa. Trước những tác động đa chiều của kinh tế thị trường và hội nhập, những cơ hội và thách thức, trước cả thăng hoa và cám dỗ, những chuẩn mực giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc được chứa đựng trong nội hàm bản sắc văn hóa dân tộc đã trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách. Kế thừa truyền thống cách mạng, phát huy truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những giá trị của bản sắc văn hóa góp phần tích cực xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, thể chất, năng lực, tính sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Vì vậy, cần chú trọng khơi dậy những đặc điểm tích cực, giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội nhằm hướng tới:
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội... Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc [51, tr.38].
Cùng với việc phát huy tinh thần yêu nước, đại đoàn kết dân tộc và những giá trị đạo đức chuẩn mực của con người Việt Nam, Đảng luôn chú trọng lãnh đạo phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Bản sắc văn hóa một phần được thể hiện thông qua các di sản văn hóa. Đại hội IX (2001) của Đảng xác định: “Chú trọng giữ gìn, phát triển các di sản văn hóa phi vật thể, tôn tạo và quản lý tốt các di sản văn hóa vật thể, các di tích lịch sử; nâng cấp các bảo tàng. Phát triển mạng lưới thư viện, hiện đại hóa công tác thư viện, lưu trữ. Xây dựng các nhóm công trình văn hóa, các khu vui chơi công cộng” [43, tr.208]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương, khóa IX (2004) xác định mục tiêu phát huy di sản văn hóa là: “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số” [17, tr.65].
Đại hội X (2006) của Đảng xác định:
Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hóa, nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và ph...iệt Nam, góp phần nâng cao ý thức bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong nhân dân.
Điều 12
Di sản văn hóa Việt Nam được sử dụng nhằm mục đích:
1. Phát huy giá trị di sản văn hóa vì lợi ích của toàn xã hội;
2. Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam;
3. Góp phần sáng tạo những giá trị văn hóa mới, làm giàu kho tàng di sản văn hóa Việt Nam và mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế.
Điều 13
Nghiêm cấm các hành vi sau đây:
1. Chiếm đoạt, làm sai lệch di sản văn hóa;
2. Hủy hoại hoặc gây nguy cơ hủy hoại di sản văn hóa;
3. Đào bới trái phép địa điểm khảo cổ; xây dựng trái phép; lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh;
4. Mua bán, trao đổi và vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài.
5. Lợi dụng việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa để thực hiện những hành vi trái pháp luật.
CHƯƠNG II
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI DI SẢN VĂN HÓA
Điều 14
Tổ chức, cá nhân có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
1. Sở hữu hợp pháp di sản văn hóa;
2. Tham quan, nghiên cứu di sản văn hóa;
3. Tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
4. Thông báo kịp thời địa điểm phát hiện di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do mình tìm được cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi gần nhất;
5. Ngăn chặn hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành vi phá hoại, chiếm đoạt, sử dụng trái phép di sản văn hóa.
Điều 15
Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu di sản văn hóa có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
1. Thực hiện các quy định tại Điều 14 của Luật này;
2. Thực hiện các biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; thông báo kịp thời cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp di sản văn hóa có nguy cơ bị làm sai lệch giá trị, bị hủy hoại, bị mất;
3. Gửi sưu tập di sản văn hóa phi vật thể, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia vào bảo tàng nhà nước hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp không đủ điều kiện và khả năng bảo vệ và phát huy giá trị;
4. Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham quan, du lịch, nghiên cứu di sản văn hóa;
5. Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 16
Tổ chức, cá nhân quản lý trực tiếp di sản văn hóa có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
1. Bảo vệ, giữ gìn di sản văn hóa;
2. Thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm hại di sản văn hóa;
3. Thông báo kịp thời cho chủ sở hữu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi gần nhất khi di sản văn hóa bị mất hoặc có nguy cơ bị hủy hoại;
4. Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham quan, du lịch, nghiên cứu di sản văn hóa;
5. Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG III
BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
Điều 17
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và làm giàu kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Điều 18
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh) chỉ đạo việc tổ chức lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể ở địa phương để bảo vệ và phát huy giá trị.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin quy định thủ tục lập hồ sơ khoa học về các di sản văn hóa phi vật thể.
Điều 19
Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của Việt Nam là Di sản văn hóa thế giới, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.
Hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Hội đồng di sản văn hóa quốc gia.
Điều 20
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, ngăn chặn nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc thất truyền.
Điều 21
Nhà nước có chính sách và tạo điều kiện để bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc ở Việt Nam. Mọi tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Điều 22
Nhà nước và xã hội bảo vệ, phát huy những thuần phong mỹ tục trong lối sống, nếp sống của dân tộc; bài trừ những hủ tục có hại đến đời sống văn hóa của nhân dân.
Điều 23
Nhà nước có chính sách khuyến khích việc sưu tầm, biên soạn, dịch thuật, thống kê, phân loại và lưu giữ các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian của cộng đồng các dân tộc Việt Nam để lưu truyền trong nước và giao lưu văn hóa với nước ngoài.
Điều 24
Nhà nước có chính sách khuyến khích việc duy trì, phục hồi và phát triển các nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu; nghiên cứu và ứng dụng những tri thức về y, dược học cổ truyền; duy trì và phát huy giá trị văn hóa ẩm thực, giá trị về trang phục truyền thống dân tộc và các tri thức dân gian khác.
Điều 25
Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hóa của các lễ hội truyền thống; bài trừ các hủ tục và chống các biểu hiện tiêu cực, thương mại hóa trong tổ chức và hoạt động lễ hội. Việc tổ chức lễ hội truyền thống phải theo quy định của pháp luật.
Điều 26
Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt.
Điều 27
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài được tiến hành nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam sau khi có sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
CHƯƠNG IV
BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
Mục 1
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA, DANH LAM THẮNG CẢNH
Điều 28
1. Di tích lịch sử - văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:
a) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước;
b) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân của đất nước;
c) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến;
d) Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ;
đ) Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.
2. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí sau đây:
a) Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu;
b) Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất.
Điều 29
Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (sau đây gọi là di tích) được chia thành:
1. Di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương;
2. Di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia;
3. Di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia.
Điều 30
1. Thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích được quy định như sau:
a) Chủ tịch ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh;
b) Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định xếp hạng di tích quốc gia;
c) Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc xem xét đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thế giới.
2. Trong trường hợp di tích đã được xếp hạng mà sau đó có đủ căn cứ xác định là không đủ tiêu chuẩn hoặc bị hủy hoại không có khả năng phục hồi thì người có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích nào có quyền ra quyết định hủy bỏ xếp hạng đối với di tích đó.
Điều 31
Thủ tục xếp hạng di tích được quy định như sau:
1. Chủ tịch ủy ban Nhân dân cấp tỉnh lập hồ sơ di tích trình Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định xếp hạng di tích quốc gia;
2. Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin lập hồ sơ di tích trình Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; lập hồ sơ di tích tiêu biểu của Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc xem xét đưa vào Danh mục di sản thế giới. Hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Hội đồng di sản văn hóa quốc gia.
Điều 32
1. Các khu vực bảo vệ di tích bao gồm:
a) Khu vực bảo vệ I gồm di tích và vùng được xác định là yếu tố gốc cấu thành di tích, phải được bảo vệ nguyên trạng;
b) Khu vực bảo vệ II là vùng bao quanh khu vực bảo vệ I của di tích, có thể xây dựng những công trình phục vụ cho việc phát huy giá trị di tích nhưng không làm ảnh hưởng tới kiến trúc, cảnh quan thiên nhiên và môi trường - sinh thái của di tích.
Trong trường hợp không xác định được khu vực bảo vệ II thì việc xác định chỉ có khu vực bảo vệ I đối với di tích cấp tỉnh do Chủ tịch ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quyết định, đối với di tích quốc gia do Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định, đối với di tích quốc gia đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
2. Việc xây dựng các công trình ở khu vực bảo vệ II quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đối với di tích quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt phải có sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin, đối với di tích cấp tỉnh phải có sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch ủy ban Nhân dân cấp tỉnh.
3. Các khu vực bảo vệ quy định tại khoản 1 Điều này được xác định trên bản đồ địa chính, kèm theo biên bản khoanh vùng bảo vệ và phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận trong hồ sơ di tích.
Điều 33
1. Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc được giao quản lý, sử dụng di tích có trách nhiệm bảo vệ di tích đó; trong trường hợp phát hiện di tích bị lấn chiếm, hủy hoại hoặc có nguy cơ bị hủy hoại phải kịp thời có biện pháp ngăn chặn và thông báo cho cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp, ủy ban Nhân dân địa phương hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin nơi gần nhất.
2. Ủy ban Nhân dân địa phương hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin khi nhận được thông báo về di tích bị hủy hoại hoặc có nguy cơ bị hủy hoại phải kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ và báo cáo ngay với cơ quan cấp trên trực tiếp.
3. Bộ Văn hóa - Thông tin khi nhận được thông báo về di tích bị hủy hoại hoặc có nguy cơ bị hủy hoại phải kịp thời chỉ đạo và hướng dẫn cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương, chủ sở hữu di tích áp dụng ngay các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ; đối với di tích quốc gia đặc biệt phải báo cáo với Thủ tướng Chính phủ.
Điều 34
Việc bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích phải được xây dựng thành dự án trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và phải bảo đảm giữ gìn tối đa những yếu tố nguyên gốc của di tích. Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành quy chế về bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích.
Điều 35
Thẩm quyền phê duyệt dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích được thực hiện theo Luật này và các quy định của pháp luật về xây dựng. Khi phê duyệt dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin.
Điều 36
1. Khi phê duyệt dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài các khu vực bảo vệ di tích quy định tại Điều 32 của Luật này mà xét thấy có khả năng ảnh hưởng xấu đến cảnh quan thiên nhiên và môi trường - sinh thái của di tích thì phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin.
2. Trong trường hợp chủ đầu tư dự án cải tạo, xây dựng công trình quy định tại khoản 1 Điều này có đề nghị thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin có trách nhiệm cung cấp tài liệu liên quan và những yêu cầu cụ thể về bảo vệ di tích để chủ đầu tư lựa chọn các giải pháp thích hợp bảo đảm cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích.
Điều 37
1. Chủ đầu tư dự án cải tạo, xây dựng công trình ở nơi có ảnh hưởng tới di tích có trách nhiệm phối hợp và tạo điều kiện để cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin giám sát quá trình cải tạo, xây dựng công trình đó.
2. Trong quá trình cải tạo, xây dựng công trình mà thấy có khả năng có di tích hoặc di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thì chủ dự án phải tạm ngừng thi công và thông báo kịp thời cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin. Khi nhận được thông báo, cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin phải có biện pháp xử lý kịp thời để bảo đảm tiến độ xây dựng. Trường hợp xét thấy cần đình chỉ xây dựng công trình tại địa điểm đó để bảo vệ nguyên trạng di tích thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin phải báo cáo lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền quyết định.
3. Trong trường hợp cần tổ chức thăm dò, khai quật khảo cổ thì kinh phí thăm dò, khai quật do Chính phủ quy định.
Điều 38
Việc thăm dò, khai quật khảo cổ chỉ được tiến hành sau khi có giấy phép của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.
Trong trường hợp địa điểm khảo cổ đang bị hủy hoại hoặc có nguy cơ bị hủy hoại thì Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin cấp giấy phép khai quật khẩn cấp.
Điều 39
1. Tổ chức có chức năng nghiên cứu khảo cổ muốn tiến hành thăm dò, khai quật khảo cổ phải gửi hồ sơ xin phép thăm dò, khai quật khảo cổ đến Bộ Văn hóa - Thông tin.
2. Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin có trách nhiệm cấp giấy phép thăm dò, khai quật khảo cổ trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi nhận được hồ sơ xin phép thăm dò, khai quật khảo cổ; trường hợp không cấp giấy phép phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
3. Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành quy chế về thăm dò, khai quật khảo cổ.
Điều 40
1. Người chủ trì cuộc thăm dò, khai quật khảo cổ phải có các điều kiện sau đây:
a) Có bằng cử nhân chuyên ngành khảo cổ học hoặc bằng cử nhân chuyên ngành khác có liên quan đến khảo cổ học;
b) Có ít nhất 5 năm trực tiếp làm công tác khảo cổ;
c) Được tổ chức xin phép thăm dò, khai quật khảo cổ đề nghị bằng văn bản với Bộ Văn hóa - Thông tin.
Trong trường hợp cần thay đổi người chủ trì thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.
2. Tổ chức có chức năng nghiên cứu khảo cổ của Việt Nam được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành thăm dò, khai quật khảo cổ tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Mục 2
DI VẬT, CỔ VẬT, BẢO VẬT QUỐC GIA
Điều 41
1. Mọi di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thu được trong quá trình thăm dò, khai quật khảo cổ và do tổ chức, cá nhân phát hiện, giao nộp phải được tạm nhập vào kho bảo quản của bảo tàng cấp tỉnh nơi phát hiện. Bảo tàng cấp tỉnh có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và báo cáo Bộ Văn hóa - Thông tin.
2. Căn cứ vào giá trị và yêu cầu bảo quản di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia quy định tại khoản 1 Điều này, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định giao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đó cho bảo tàng nhà nước có chức năng thích hợp.
3. Tổ chức, cá nhân phát hiện, giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được bồi hoàn chi phí phát hiện, bảo quản và được thưởng một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
Điều 42
1. Bảo vật quốc gia được bảo vệ và bảo quản theo chế độ đặc biệt. Nhà nước dành ngân sách thích đáng để mua bảo vật quốc gia.
2. Bảo vật quốc gia phải được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đăng ký di vật, cổ vật thuộc sở hữu của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin. Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đã đăng ký được Nhà nước thẩm định miễn phí, hướng dẫn nghiệp vụ bảo quản và tạo điều kiện để phát huy giá trị. Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin quy định cụ thể thủ tục đăng ký di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
3. Khi thay đổi chủ sở hữu bảo vật quốc gia ở trong nước thì chủ sở hữu cũ phải thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin nơi đăng ký bảo vật quốc gia về họ, tên và địa chỉ của chủ sở hữu mới của bảo vật quốc gia đó trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thay đổi chủ sở hữu.
Điều 43
1. Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu toàn dân, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội phải được quản lý trong các bảo tàng và không được mua bán, tặng cho; di vật, cổ vật thuộc các hình thức sở hữu khác được mua bán, trao đổi, tặng cho và để thừa kế ở trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; bảo vật quốc gia thuộc các hình thức sở hữu khác chỉ được mua bán, trao đổi, tặng cho và để thừa kế ở trong nước theo quy định của pháp luật. Việc mang di vật, cổ vật ra nước ngoài phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin.
2. Việc mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được thực hiện theo giá thỏa thuận hoặc tổ chức đấu giá. Nhà nước được ưu tiên mua di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Điều 44
Việc đưa di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài để trưng bày, triển lãm, nghiên cứu hoặc bảo quản phải bảo đảm các điều kiện sau đây:
1. Có sự bảo hiểm từ phía tiếp nhận di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia;
2. Có quyết định của Thủ tướng Chính phủ cho phép đưa bảo vật quốc gia ra nước ngoài; quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin cho phép đưa di vật, cổ vật ra nước ngoài.
Điều 45
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải báo cáo Bộ Văn hóa - Thông tin về những di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia tịch thu được do tìm kiếm, mua bán, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu trái phép để Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định việc giao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đó cho cơ quan có chức năng thích hợp.
Điều 46
Việc làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia phải bảo đảm các điều kiện sau:
1. Có mục đích rõ ràng;
2. Có bản gốc để đối chiếu;
3. Có dấu hiệu riêng để phân biệt với bản gốc;
4. Có sự đồng ý của chủ sở hữu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia;
5. Có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa - thông tin.
CHƯƠNG V
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA
Mục 1
NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA
Điều 54
Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa bao gồm:
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa;
3. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa;
4. Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hóa;
5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
6. Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
7. Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa.
Điều 55
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa.
2. Bộ Văn hóa - Thông tin chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về di sản văn hóa.
3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm quản lý nhà nước về di sản văn hóa theo phân công của Chính phủ.
Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Văn hóa - Thông tin để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa.
4. Ủy ban Nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Điều 56
Hội đồng di sản văn hóa quốc gia là hội đồng tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về di sản văn hóa.
Thủ tướng Chính phủ quy định tổ chức và hoạt động của Hội đồng di sản văn hóa quốc gia.
Mục 2
NGUỒN LỰC CHO CÁC HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
Điều 57
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các hội về văn học và nghệ thuật, khoa học và công nghệ tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nhà nước khuyến khích việc xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Điều 58
Nguồn tài chính để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa bao gồm:
1. Ngân sách nhà nước;
2. Các khoản thu từ hoạt động sử dụng và phát huy giá trị di sản văn hóa;
3. Tài trợ và đóng góp của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.
Điều 59
Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt, bảo tàng quốc gia, bảo vật quốc gia, di tích lịch sử cách mạng và di sản văn hóa phi vật thể có giá trị tiêu biểu.
Điều 60
Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc được giao quản lý, sử dụng di tích, sưu tập, bảo tàng được thu phí tham quan và lệ phí sử dụng di tích, sưu tập, bảo tàng theo quy định của pháp luật.
Điều 61
1. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đóng góp, tài trợ cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
2. Việc đóng góp, tài trợ cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa được xem xét ghi nhận bằng các hình thức thích hợp.
Điều 62
Nguồn tài chính dành cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Mục 3
HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ DI SẢN VĂN HÓA
Điều 63
Nhà nước có chính sách và biện pháp đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; góp phần phát huy giá trị di sản văn hóa thế giới, tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
Điều 64
Nhà nước khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Điều 65
Nội dung hợp tác quốc tế về di sản văn hóa bao gồm:
1. Xây dựng và thực hiện chương trình, dự án hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
2. Tham gia các tổ chức và điều ước quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
3. Nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ hiện đại trong lĩnh vực bảo quản, tu bổ di tích, xây dựng bảo tàng, khai quật khảo cổ;
4. Trao đổi các cuộc triển lãm về di sản văn hóa;
5. Hợp tác trong việc bảo hộ di sản văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài;
6. Đào tạo, bồi dưỡng, trao đổi thông tin và kinh nghiệm trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Mục 4
THANH TRA VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO VỀ DI SẢN VĂN HÓA
Điều 66
Thanh tra Nhà nước về văn hóa - thông tin thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về di sản văn hóa, có nhiệm vụ:
1. Thanh tra việc chấp hành pháp luật về di sản văn hóa;
2. Thanh tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
3. Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền đối với các hành vi vi phạm pháp luật về di sản văn hóa;
4. Tiếp nhận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về di sản văn hóa;
5. Kiến nghị các biện pháp để bảo đảm thi hành pháp luật về di sản văn hóa.
Điều 67
Đối tượng thanh tra có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
1. Yêu cầu đoàn thanh tra xuất trình quyết định thanh tra, thanh tra viên xuất trình thẻ thanh tra viên và thực hiện đúng pháp luật về thanh tra;
2. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quyết định thanh tra, hành vi của thanh tra viên và kết luận thanh tra khi thấy có căn cứ cho là không đúng pháp luật;
3. Yêu cầu bồi thường thiệt hại do các biện pháp xử lý không đúng pháp luật của đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên gây ra;
4. Thực hiện yêu cầu của đoàn thanh tra, thanh tra viên, tạo điều kiện để thanh tra thực hiện nhiệm vụ; chấp hành các quyết định xử lý của đoàn thanh tra, thanh tra viên theo quy định của pháp luật.
Điều 68
1. Tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc thi hành pháp luật về di sản văn hóa.
2. Cá nhân có quyền tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về di sản văn hóa với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
3. Thẩm quyền, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và khởi kiện được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Chương VI
KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 69
Tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Điều 70
Người nào phát hiện được di sản văn hóa mà không tự giác khai báo, cố tình chiếm đoạt hoặc có hành vi gây hư hại, hủy hoại thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật; di sản văn hóa đó bị Nhà nước thu hồi.
Điều 71
Người nào vi phạm các quy định của pháp luật về di sản văn hóa thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 72
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của pháp luật về di sản văn hóa thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Phụ lục 15:
18 DI SẢN VIỆT NAM ĐƯỢC UNESCO VINH DANH
Di sản thiên nhiên thế giới (2)
1. Vịnh Hạ Long
Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) được UNESCO liên tiếp công nhận vào năm 1994 với tiêu chuẩn giá trị ngoại hạng về mặt thẩm mĩ, và năm 2000 theo tiêu chuẩn về giá trị địa chất, địa mạo.
2. Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
Năm 2003, vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chuẩn về giá trị địa chất, địa mạo.
Di sản văn hóa vật thể của thế giới (5)
3. Quần thể di tích Cố đô Huế
UNESCO đã vinh danh quần thể di tích Cố đô Huế là di sản văn hóa thế giới, một điển hình nổi bật của kinh đô phong kiến phương Đông vào năm 1993.
4. Phố Cổ Hội An
Được UNESCO công nhận năm 1999, phố Cổ Hội An là sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ tại một thương cảng quốc tế và Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống được bảo tồn một cách hoàn hảo.
5. Thánh địa Mỹ Sơn
Là bằng chứng duy nhất của một nền văn mình châu Á đã biến mất, thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO chính thức vinh danh năm 1999.
6. Hoàng thành Thăng Long
Khu quần thể kiến trúc đỉnh cao, mang nhiều giá trị nhân văn này được chính thức nằm trong danh sách Di sản văn hóa thế giới năm 2010.
7. Thành nhà Hồ
Ngày 27/6/2011, UNESCO đã đưa di tích Thành nhà Hồ (Thanh Hóa) vào danh mục di sản văn hóa Thế giới. “Kỹ thuật xây dựng các bức tường thành bằng đá lớn, kỳ vĩ, đặc sắc chỉ có ở thành nhà Hồ. Đây được xem như một hiện tượng đột biến vô tiền khoáng hậu trong lịch sử xây dựng kiến trúc thành quách tại Việt Nam và trong khu vực”.
Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới (8)
8. Nhã nhạc cung đình Huế
Năm 2003, nhã nhạc cung đình Huế, còn gọi là Âm nhạc cung đình Việt Nam, được UNESCO công nhận là Kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Đây là một loại hình âm nhạc mang tính bác học của các triều đại quân chủ trong xã hội Việt Nam suốt hơn 10 thế kỷ, nhằm tạo sự trang trọng cho các cuộc tế, lễ của cung đình như Tế Giao, Tế miếu, Lễ Đại triều, Thường triều...
9. Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên
Di sản này được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại vào ngày 15/11/2005.
10. Dân ca quan họ
Quan họ Kinh Bắc được Hội đồng chuyên môn của UNESCO đánh giá cao về giá trị văn hóa, đặc biệt về tập quán xã hội, nghệ thuật trình diễn, kỹ thuật hát, phong cách ứng xử văn hóa, bài bản, ngôn từ, trang phục, và được chính thức công nhận năm 2009.
11. Ca trù
Ngày 1/10/2009, ca trù được công nhận là di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản văn hóa thế giới có vùng ảnh hưởng lớn nhất ở Việt Nam, có phạm vi tới 15 tỉnh, thành ở phía Bắc.
12. Hội Gióng
Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, năm 2010 được công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện cho nhân loại.
13. Hát xoan
Ngày 24/11/2011, hát xoan (Phú Thọ) của Việt Nam được UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.
14. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Ngày 6/12/2012, UNESCO công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại với những yếu tố thuộc đời sống tâm linh của người Việt Nam đã tồn tại từ hàng nghìn năm nay, thể hiện nền tảng tinh thần đại đoàn kết dân tộc và gắn kết cộng đồng.
15. Đờn ca tài tử Nam Bộ
Với các tiêu chí: Được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác; liên tục được tái tạo thông qua trao đổi văn hóa, thể hiện sự hòa hợp văn hóa và tôn trọng văn hóa riêng của các cộng đồng, dân tộc, UNESCO chính thức vinh danh đờn ca tài tử Nam Bộ là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại năm 2013.
Di sản tư liệu thế giới (3)
16. Mộc bản triều Nguyễn
Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới đầu tiên tại Việt Nam được UNESCO công nhận ngày 31/7/2009. Mộc bản triều Nguyễn gồm 34.618 tấm, là những văn bản chữ Hán-Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra các sách tại Việt Nam vào thế kỷ 19, 20.
17. Bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Với giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt, đầu tháng 3/2010, 82 tấm bia tiến sĩ của các khoa thi dưới triều Lê - Mạc (1442-1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới.
18. Mộc bản Kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa Vĩnh Nghiêm được mệnh danh là “Đại danh lam cổ tự”, một trung tâm Phật giáo lớn nhất của thời Trần, nơi có những văn bản Hán tự được UNESCO công nhận năm 2012.