HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TỈNH TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TỈNH TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
203 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 448 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Đảng bộ tỉnh Hưng yên lãnh đạo hoạt động của hội liên hiệp phụ nữ tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN DANH TIÊN
2. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thu Hương
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 8
1.1. Những công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án 8
1.2. Nội dung những công trình khoa học liên quan đến luận án đã
giải quyết và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 23
Chương 2: QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH TỪ NĂM 1997
ĐẾN NĂM 2005 26
2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
đối với hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh 26
2.2. Chủ trương và quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ đạo hoạt động
của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh 41
Chương 3: ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015 61
3.1. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Hưng Yên về công tác phụ nữ
và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ 61
3.2. Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ đạo hoạt động của Hội Liên hiệp
Phụ nữ tỉnh 81
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 110
4.1. Một số nhận xét 110
4.2. Một số kinh nghiệm 134
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 171
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH : Ban Chấp hành
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
LHPN : Liên hiệp Phụ nữ
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng đã lớn mạnh không ngừng về chính trị,
tư tưởng và tổ chức để có thể đảm đương xuất sắc sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng và lãnh đạo các tổ chức, đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính trị
của đất nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế, việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với các tổ chức chính trị xã hội nói chung, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) nói
riêng, trở thành vấn đề quan trọng, là một trong những trọng tâm của công tác
lãnh đạo của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội LHPN Việt Nam đã trưởng thành và lớn
mạnh, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, đại diện, bảo vệ quyền
bình đẳng, dân chủ, hợp pháp, chính đáng của phụ nữ; tham gia quản lý nhà
nước, xây dựng Đảng; đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực
hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội LHPN Việt Nam thực sự trở thành cầu nối giữa
Đảng với các tầng lớp phụ nữ, góp phần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, tích cực tham gia các hoạt động của phụ
nữ quốc tế và tranh thủ sự ủng hộ to lớn của phụ nữ Quốc tế đối với phụ nữ
Việt Nam...
Hưng Yên là một tỉnh ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, là tỉnh giàu
truyền thống văn hiến cách mạng, trên mảnh đất ‘‘địa linh nhân kiệt’’ này, đã
sản sinh ra nhiều danh nhân nổi tiếng. Chính nơi đây là quê hương của phong
trào ‘‘Nữ du kích Hoàng Ngân’’ trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm
1997, sau ngày tái lập tỉnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, cùng sự nỗ lực
của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và toàn thể nhân dân trong tỉnh,
2
Hưng Yên đã phát huy tối đa mọi nguồn lực để tạo thành sức mạnh tổng hợp
vượt qua mọi khó khăn, giành được những thành tựu quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn đầu tư trong nước, nước ngoài và hoạt động
sản xuất công nghiệp tăng vượt bậc. Kinh tế nông nghiệp từng bước chuyển
dịch theo hướng sản xuất hàng hóa và xuất khẩu; đời sống nhân dân không
ngừng được nâng lên. Hoạt động thương mại, dịch vụ ngày càng khởi sắc, tiềm
năng du lịch được chú trọng đầu tư và khai thác có hiệu quả... Góp phần vào sự
phát triển chung của tỉnh, không thể không nói đến vai trò của Hội Liên hiệp
Phụ nữ tỉnh Hưng Yên và các tầng lớp phụ nữ trong Tỉnh.
Từ sau ngày tái lập Tỉnh, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên luôn coi trọng quán
triệt, vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các
đoàn thể quần chúng, trong đó có Hội LHPN Tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ Tỉnh và Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, hoạt động của Hội
LHPN tỉnh Hưng Yên luôn được chú trọng và đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của Hội
LHPN tỉnh vẫn còn một số hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và truyền
thống của Tỉnh. Những tồn tại, hạn chế, cần được nghiên cứu, tổng kết để rút
kinh nghiệm cho hoạt động của Hội trong thời gian tiếp theo.
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo hoạt động
của Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 (là năm tái lập tỉnh) đến năm 2015 (năm
kết thúc nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII), nhằm làm rõ vai trò
to lớn của các tầng lớp phụ nữ trong xây dựng quê hương xứ nhãn, góp
phần giúp Đảng bộ Tỉnh tổng kết công tác vận động quần chúng trong tình
hình mới; từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ đối với hệ
thống chính trị trong Tỉnh nói chung, các đoàn thể chính trị xã hội và Hội
LHPN nói riêng. Qua đó, góp phần đánh giá thực trạng tổ chức, bộ máy
Hội LHPN và hoạt động của phụ nữ tỉnh Hưng Yên dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ Tỉnh từ sau khi tái lập Tỉnh (1997), trải qua các kỳ Đại hội (Đại hội
3
XIV, nhiệm kỳ 1997 - 2000; Đại hội XV, nhiệm kỳ 2000 - 2005; Đại hội XVI,
nhiệm kỳ 2005 - 2010; Đại hội XVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015); đúc kết một số
kinh nghiệm, góp phần đưa phong trào phụ nữ tỉnh Hưng Yên phát triển vững
mạnh, ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế.
Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: “Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên lãnh đạo hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh từ năm 1997
đến năm 2015” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo hoạt động của
Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015. Trên cơ sở đó, đúc kết một số kinh
nghiệm từ thực tiễn quá trình lãnh đạo Hội LHPN tỉnh của Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội LHPN tỉnh
trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích đề ra, Luận án tập trung nghiên cứu những
vấn đề:
- Làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên đối với hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
- Trình bày có hệ thống các quan điểm của Đảng và chủ trương của Đảng
bộ tỉnh Hưng Yên về công tác phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
- Phân tích, làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, chỉ đạo hoạt động
của Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015.
- Đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan về ưu điểm, hạn chế và
bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương và quá trình Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh
đạo hoạt động của Hội LHPN trên các phương diện:
- Phân tích quan điểm của Đảng và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên về công tác phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN.
- Quá trình Đảng bộ Hưng Yên chỉ đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh
trên các mặt:
+ Nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính
quyền đối với Hội LHPN.
+ Xây dựng, phát triển tổ chức Hội: Xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ
Hội và phát triển hội viên.
+ Chỉ đạo Hội LHPN tỉnh, trực tiếp là hội viên phụ nữ tham gia phát
triển kinh tế - xã hội.
+ Nâng cao chất lượng tuyên truyền, kiểm tra, giám sát và sơ kết, tổng
kết việc thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ Tỉnh về xây dựng tổ chức Hội.
+ Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước
Về thời gian: Luận án nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
lãnh đạo hoạt động Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 (là năm tái lập tỉnh) đến
năm 2015 (năm kết thúc nhiệm kỳ XVII). Tuy nhiên, để đảm bảo tính logic,
khoa học, luận án mở rộng thời gian nghiên cứu trước năm 1997 và sau
năm 2015.
Về không gian: Luận án nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Hưng Yên, gồm
thành phố Hưng Yên và các huyện: Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Khoái Châu,
Văn Giang, Phù Cừ, Tiên Lữ, Ân Thi, Kim Động.
5
4. Cơ sở lí luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về vai trò của phụ nữ và
công tác vận động phụ nữ.
4.2. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu chủ yếu sử dụng cho Luận án gồm:
Các văn kiện của Đảng, Nhà nước, Chính phủ về phụ nữ và công tác
phụ nữ; những văn kiện của Trung ương Hội LHPN Việt Nam; nghị quyết, chỉ
thị, chương trình, kế hoạch của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
tỉnh Hưng Yên; nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, báo cáo của Hội LHPN tỉnh
Hưng Yên.
Các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu.
Bên cạnh đó là các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê; so sánh; điều
tra, phỏng vấn các nhân chứng lịch sử để hoàn thành mục tiêu mà luận án đề ra.
+ Phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu trong chương 2 và
chương 3 để phân kỳ thời gian; làm rõ hoàn cảnh lịch sử; trình bày có hệ
thống chủ trương, quan điểm của Đảng và Đảng bộ tỉnh cũng như quá trình
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
+ Phương pháp logic được sử dụng trong chương 2 và chương 3 để xâu
chuỗi các sự kiện lịch sử, liên kết các nội dung đó để làm rõ sự phát triển về
nhận thức và quá trình hoàn thiện chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên về hoạt động của Hội LHPN tỉnh. Trong chương 4, phương pháp logic
được sử dụng chủ yếu để khái quát những ưu điểm, hạn chế và rút ra những
kinh nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng bộ lãnh đạo Hội LHPN tỉnh từ 1997
đến 2015.
6
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này dùng để phân
tích, tổng hợp những quan điểm, chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên về công tác phụ nữ; đồng thời phân tích, tổng hợp những hoạt
động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh đối với những hoạt động của Hội
LHPN tỉnh.
+ Phương pháp thống kê được dùng để thống kê những số liệu về các
hoạt động cụ thể của Hội LHPN tỉnh.
+ Phương pháp đối chiếu để làm rõ sự phát triển về chủ trương cũng như
sự phát triển trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đối
với các hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
+ Phương pháp điều tra phỏng vấn được dùng để đánh giá tác động của
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh đối với hoạt động của Hội LHPN
và phong trào phụ nữ Tỉnh trong giai đoạn 1997 - 2015.
5. Đóng góp mới của Luận án
Một là, tổng quan những nội dung cơ bản của những công trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài luận án, trên cơ sở đó, khái quát những kết quả đạt
được, chỉ rõ những vấn đề mà luận án tiếp tục nghiên cứu.
Hai là, làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên đối với hoạt động của Hội LHPN tỉnh trong những năm 1997-2015
trên các khía cạnh: quan điểm, chủ trương của Đảng; điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội, thực trạng hoạt động Hội LHPN tỉnh trước năm 1997.
Ba là, phân tích những quan điểm, chủ trương của Đảng và Đảng bộ
tỉnh Hưng Yên về công tác vận động phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN.
Bốn là, góp phần làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ đạo
Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015 qua 2 giai đoạn 1997-2005 và
2005-2015 trên phương diện: Xây dựng tổ chức, bộ máy cán bộ và hoạt động
của Hội LHPN tỉnh.
7
Năm là, luận án đưa ra một số nhận xét về những ưu điểm, hạn chế và
phân tích nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế; đúc kết một số kinh nghiệm
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đối với hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
Sáu là, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng
dạy lịch sử địa phương.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác
giả liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương, 8 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Phụ nữ và công tác phụ nữ là một trong những vấn đề nhận được sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu
liên quan đến vấn đề phụ nữ được công bố dưới các hình thức như: sách, bài
viết trên tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học, đề tài nghiên cứu khoa học, luận án
tiến sỹ Có thể khái quát thành những nhóm công trình chủ yếu:
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu chung về phụ nữ và vai trò của
phụ nữ
Công trình khoa học: Tiếp tục tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong
đời sống chính trị của đất nước của Nguyễn Thị Thanh Hòa [56]; Phát huy hơn
nữa vai trò của phụ nữ trong tham gia quản lý Nhà nước của Nguyễn Thị Bình
[26]; Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội, tham gia
quản lý Nhà nước và định hướng phát triển đến năm 2000 của Trương Mỹ Hoa
[49]; Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng Phụ nữ và xây dựng đội ngũ cán bộ
nữ của Nguyễn Thị Mão [126]...
Những công trình trên đã khẳng định vị trí của phụ nữ Việt Nam đối với
sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đặc biệt là vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
phụ nữ trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cuốn sách Hai mươi năm một chặng đường phát triển của phụ nữ Việt
Nam 1975 - 1995 của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [58]. Cuốn sách nêu bật
hoạt động của Hội LHPN Việt Nam từ sau ngày giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước, đến những năm tiến hành sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN). Qua đó, khẳng định những đóng góp của phụ nữ Việt
Nam trong tiến trình phát triển của đất nước, dự báo những bước đi tiếp theo để
phụ nữ Việt Nam hòa nhập, tiến vào thế kỷ XXI.
Cuốn Những chặng đường đã qua của Lê Chân Phương [146]. Tác phẩm
tái hiện lại những kỷ niệm sâu sắc nhất về những chặng đường hoạt động cách
9
mạng gắn bó với đồng chí, đồng bào trong những năm kháng chiến gian khổ
với mong muốn góp phần nhỏ bé vào kho tàng đấu tranh cách mạng của phụ nữ
và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, gắn với sự nghiệp
giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu.
Công trình: Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI của Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam [60]. Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống và toàn diện vai trò
của người phụ nữ Việt Nam trong tiến trình lịch sử phát triển đất nước, từ khi
có Đảng đến những năm đầu thế kỷ XXI, công trình đã đánh giá đầy đủ, sâu
sắc hơn vai trò của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đặc biệt là trong 15 năm đổi mới (1986-2001). Khẳng định bước trưởng
thành của phụ nữ Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, gia đình,
xã hội, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của phụ nữ Việt Nam trong thiên niên
kỷ mới.
Gắn liền vấn đề phụ nữ với nghiên cứu về giới, cuốn sách: Phụ nữ, giới
và phát triển của Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng [1] đã cung cấp hệ thống
những quan điểm, phạm trù, khái niệm, phương pháp và các vấn đề cơ bản
dưới góc độ phụ nữ học. Đồng thời, các tác giả cũng phân tích các chính sách
xã hội đối với phụ nữ, làm luận cứ khoa học cho việc thực hiện nguyên tắc
công bằng xã hội và bình đẳng giới, trong điều kiện kinh tế thị trường, định
hướng XHCN ở Việt Nam.
Cuốn sách Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về bình đẳng giới
của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam [69]. Cuốn sách đã trang bị những kiến
thức, kỹ năng, nghiệp vụ công tác hội cho cán bộ Hội các cấp sử dụng, trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về bình
đẳng giới.
Cuốn sách: Sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất
nước của Dương Thị Xuân [185], đã trình bày quan điểm của Đảng và Nhà
nước vì sự tiến bộ của phụ nữ; đồng thời, nêu lên những kết quả hoạt động của
10
phụ nữ trên nhiều lĩnh vực, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Tác giả khẳng
định, phụ nữ Việt Nam không chỉ có vị trí, vai trò trong nước, mà còn có vị thế
quan trọng trên trường quốc tế.
Bài viết: Công tác tuyên truyền của Đảng nhằm nâng cao vai trò của
phụ nữ trong phát triển kinh tế tri thức của Lê Lục [125], đã phân tích vai trò
đặc biệt quan trọng của phụ nữ trong nền kinh tế tri thức. Tác giả nhấn mạnh
việc nâng cao nhận thức và vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền về vai trò
của phụ nữ trong xã hội là một trong những giải pháp then chốt để thực hiện
mục tiêu bình đẳng giới trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Cuốn sách Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hóa và sự phát
triển bền vững của Lê Thi [151], tác giả đưa ra những chuẩn mực người phụ nữ
Việt Nam thời hiện đại và nêu ra những suy nghĩ về công, dung, ngôn, hạnh từ
xưa đến nay. Những phẩm chất đó được coi như cẩm nang để phụ nữ thời kỳ
mới dựa trên tiêu trí đó để phấn đấu, rèn luyện.
Cuốn sách Gia đình Việt Nam và vai trò của phụ nữ trong giai đoạn hiện
nay của Dương Thị Minh [131], đã phân tích, làm rõ những nhân tố cơ bản tác
động đến sự biến đổi của gia đình; đặc điểm cơ bản của gia đình Việt Nam và
xu hướng biến đổi vai trò của phụ nữ; đồng thời, đưa ra các giải pháp để xây
dựng gia đình ấm no, hạnh phúc nhằm phát huy vai trò của người phụ nữ Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Ban Tổ chức Trung ương, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài:
Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị [21]. Kết
quả nghiên cứu đề tài đã góp phần làm sáng tỏ những luận cứ khoa học về việc
nâng cao vị trí, vai trò, năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ; đồng thời, đề xuất giải
pháp tăng cường sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ thống bộ
máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể nhân dân trong tình hình mới.
Cuốn sách Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và công
cuộc đổi mới đất nước của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam [66], làm rõ vai trò
của người phụ nữ Việt Nam trong tiến trình lịch sử cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam gần 80 năm (1930-2007). Đồng thời, nêu bật
11
những quan điểm thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với phụ nữ và phong trào phụ nữ; đề cao và khẳng định vai trò, vị trí
và sức mạnh to lớn của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng. Qua việc
nghiên cứu những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc và 20 năm đổi mới đất nước, công trình khẳng định sự đúng đắn trong
chủ trương và quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ; đồng thời,
nêu bật sự nỗ lực, những đóng góp to lớn của các tầng lớp phụ nữ, phong trào
phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch, Những vấn đề giới từ lịch sử đến hiện
đại [121], đã nghiên cứu vấn đề giới từ nhiều cách tiếp cận, trong các tác phẩm
kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đến vấn đề giới
trong đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; vấn đề giới
trong một số thông tin phương tiện đại chúng và trong sách giáo khoa. Đây là
một công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ đến vấn đề giới. Đó cũng chính là
căn cứ lý luận và thực tiễn về thực trạng về giới ở nước ta hiện nay.
Bài viết: Hoạt động và đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nguyễn Thị Thanh Hòa [51]. Bài viết
đã nêu bật vai trò của phụ nữ trong thời kỳ đổi mới, gắn mọi hoạt động của phụ
nữ với thi đua yêu nước, không ngừng phát huy sức mạnh, sự chủ động, sáng
tạo trên mọi lĩnh vực.
Công trình nghiên cứu: Nghiên cứu gia đình, thế giới thời kỳ đổi mới của
Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Vân Anh [132], tập trung nghiên cứu về gia đình
trong bối cảnh mới, đặc biệt đề cập đến vấn đề phụ nữ Việt Nam và việc tham
gia vào công tác chính trị, việc làm và lao động nữ thời kỳ đổi mới.
Bài viết của Nguyễn Thị Thanh Hòa, Nâng cao vị thế của phụ nữ Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [52]. Xuất phát từ
quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về vai trò của phụ
nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, tác giả khẳng định vai trò
của phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và trách nhiệm của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam. Tác giả đề nghị Bộ chính trị và Ban Bí thư tiếp tục quan
12
tâm chỉ đạo hoạt động của Hội LHPN các cấp, các ngành các đoàn thể, tạo cơ
hội cho phụ nữ phát huy khả năng của mình trong hệ thống chính trị.
Bài viết: Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay của
Phạm Hạnh Sâm [149]. Tác giả khẳng định được tham gia lãnh đạo, quản lý,
được trao quyền, cùng với việc trau dồi về phẩm chất, năng lực thực sự, người
phụ nữ sẽ thực hiện tốt vai trò đại diện cho ý trí, nguyện vọng của chính bản
thân phụ nữ. Đồng thời, phụ nữ có điều kiện thuận lợi để phát triển tiềm năng,
sức lực và trí tuệ, đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp đổi mới đất nước và cho
sự nghiệp bình đẳng giới.
Cuốn sách: Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước
và hội nhập quốc tế của Hoàng Thị Ái Nhiên [144]. Tác giả đề cập đến quan
điểm của Đảng và nhà nước về vai trò của phụ nữ; đưa ra con số thống kê cụ
thể về việc phụ nữ tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội;
khẳng định vai trò của phụ nữ trong thời kỳ đổi mới đất nước và hội nhập
quốc tế.
Bài viết: Phụ nữ Việt Nam đoàn kết, sáng tạo, bình đẳng và phát triển,
xây dựng tổ chức Hội vững mạnh của Nguyễn Thị Thanh Hòa [54]. Bài viết
khẳng định, với trên 48% lực lượng lao động xã hội, có mặt trong các ngành
nghề, lĩnh vực, các tầng lớp phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp quan
trọng vào thành tựu phát triển chung của đất nước. Xây dựng tổ chức hội vững
mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ và thực hiện bình
đẳng giới là mục tiêu, chương trình hành động của Hội LHPN.
Bài viết: Năm năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị
khóa X về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước của Nguyễn Thị Thu Hồng [120]. Bài viết đã hệ thống kết quả 5 năm thực
hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa -
xã hội.
Ngoài ra, dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau của nhiều chuyên
ngành khoa học như: Triết học, Xã hội học, Hồ Chí Minh học..., các công trình
khoa học trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh, cả trên phương diện lý luận và
13
thực tiễn về vai trò to lớn của người phụ nữ Việt Nam xưa và nay trong quá
trình đấu tranh bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Những công trình khoa học nghiên cứu chung về phụ nữ và vai trò của
phụ nữ Việt Nam đã khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ đối với sự nghiệp
cách mạng của dân tộc; làm rõ về chủ trương, đường lối công tác phụ nữ nói
chung, lãnh đạo tổ chức Hội LHPN và phong trào phụ nữ nói riêng của Đảng;
nêu rõ thực trạng hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong thời kỳ cách mạng
dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu
quả lãnh đạo của Đảng và hoạt động của Hội phụ nữ các cấp.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về tổ chức Hội phụ nữ và
phong trào phụ nữ Việt Nam
Hội LHPN Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, một thành viên
của hệ thống chính trị Việt Nam, đại diện cho các tầng lớp phụ nữ Việt Nam
(chiếm trên 50% dân số và lực lượng lao động xã hội). Trong công cuộc đổi
mới đất nước, việc đổi mới hệ thống chính trị nói chung, đổi mới hoạt động của
hệ thống chính trị nói riêng là một yêu cầu mang tính khách quan. Đây là lĩnh
vực nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Trong nhóm công trình nghiên cứu về tổ chức Hội phụ nữ và phong trào
phụ nữ Việt Nam, có các công trình nghiên cứu về đổi mới hoạt động của hệ
thống chính trị nói chung. Tiêu biểu là:
Các công trình nghiên cứu về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân gồm: Đổi mới
mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp phường trong
điều kiện kinh tế thị trường của Dương Xuân Ngọc [133]; Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội của Nguyễn Khánh Ngọc,
Phạm Ngọc Quang [134]; Về giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc
trong giai đoạn hiện nay của Đặng Đình Tân [150]; Đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể nhân dân
hiện nay của Ngô Huy Tiếp [157].
14
Các công trình nêu trên cung cấp những tri thức tổng thể, toàn diện về
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nói chung,
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nói riêng. Đây là những kiến
thức quý, làm cơ sở để tác giả có thể nghiên cứu sâu hơn về sự lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị, trong đó có Hội LHPN.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về tổ chức Hội phụ nữ và phong trào
phụ nữ Việt Nam, còn có các công trình nghiên cứu về công tác vận động phụ
nữ, đáng chú ý là:
Lịch sử Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam (1930-1976), tập I [72]; Lịch sử
Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam (1930-1976) (1976-1912), tập II của Hội Liên
Hiệp Phụ nữ Việt Nam [73]. Cuốn sách đã tổng kết, đánh giá một cách hệ
thống quá trình ra đời, trưởng thành và phát triển về tổ chức, hoạt động của Hội
LHPN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; nêu rõ
vai trò chỉ đạo tích cực, chủ động, sự sáng tạo trong vận dụng, cụ thể hóa
đường lối chủ trương của Đảng vào nhiệm vụ công tác Hội; đoàn kết, tập hợp
và vận động hội viên, phụ nữ thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của Hội trong các giai đoạn cách
mạng. Đồng thời, góp phần tôn vinh những cán bộ, hội viên, phụ nữ có nhiều
đóng góp cho đất nước, cho sự phát triển của Hội LHPN Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cuốn sách Biên niên lịch sử Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam của Hội Liên
Hiệp Phụ nữ Việt Nam [74], tập hợp các sự kiện cơ bản được chọn lọc, đối
chiếu, xác minh và hệ thống hóa nhằm qua đó thể hiện một cách toàn diện quá
trình hình thành tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; hệ thống các quan điểm, đường lối,
cảu Đảng với công tác phụ vận trong đó có Hội LHPN Việt Nam; giới thiệu
một cách sinh động hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong các giai đoạn
cách mạng.
15
Bài viết: Làm tốt công tác vận động, quy tụ sức mạnh của các tầng lớp
phụ nữ Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Hòa [55]. Tác giả nêu bật những kết
quả của công tác Hội và phong trào phụ nữ Việt Nam những năm 2007 - 2012,
góp phần to lớn vào thành tựu chung, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của đất nước. Đồng thời, qua thực tiễn
phong trào phụ nữ và nhu cầu của hội viên, bài viết nêu rõ những dự báo về
thuận lợi, khó khăn, thách thức đối với công tác vận động phụ nữ trong giai
đoạn mới, đồng thời đề ra những định hướng lớn và giải pháp có tính đột phá
của Hội, nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Hội LHPN Việt Nam trong công
tác vận động nhằm quy tụ sức mạnh của các tầng lớp phụ nữ, góp phần vào sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Những công trình nghiên cứu trên, từng bước làm rõ sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phụ vận; khẳng định vị trí, vai trò to lớn của phụ nữ
trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; đề cập đến thực
trạng và những vấn đề cấp bách đặt ra trong công tác vận động phụ nữ thời kỳ
đổi mới; đồng thời, đề ra một số giải pháp, định hướng chỉ đạo để thực hiện tốt
hơn công tác phụ vận của Đảng trong tình hình mới.
Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam với tư
cách là một tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị của đất nước,
đóng vai trò nòng cốt trong thực hiện công tác phụ nữ của Đảng đã và đang thu
hút được sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu, trước hết là của chính tổ
chức Hội LHPN Việt Nam, có thể kể đến một số công trình:
Bài viết: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với việc xây dựng các mô hình
hoạt động của Trương Thị Khuê [122]. Bài viết đề cập đến mô hình tuyên
truyền, giáo dục, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, nhằm nâng cao kiến thức và
năng lực của phụ nữ.
Cuốn sách: Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [61], đã dày
công tra cứu, sưu tầm những quy định từ Hiến pháp và pháp luật hiện hành về
16
nhiệm vụ, quyền hạn của Hội LHPN Việt Nam, coi đó là những căn cứ pháp lý
để Hội LHPN tổ chức, hoạt động trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài khoa học: Cơ cấu cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hệ thống chính trị đổi mới của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [63], và công trình khoa học: Vị trí, vai trò, chức
năng và mô hình tổ chức của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hệ thống
chính trị của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [65], đã làm rõ những cơ sở khoa
học và thực tiễn của những vấn đề xoay quanh công tác tổ chức, cán bộ của
Hội LHPN trong hệ thống chính trị. Trên cơ sở nghiên cứu những quan điểm,
c...h hưởng sâu sắc của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều nắng và
có mùa Đông lạnh, hàng năm có hai mùa rõ rệt. Hưng Yên cũng là tỉnh có
mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, với ba hệ thống sông lớn chảy qua: Sông
Đuống, sông Hồng, sông Luộc - những đường sông chính của Hưng Yên.
Ngoài ra, còn có hệ thống sông nội địa như: sông Cửu An, sông Kẻ Sặt, sông
Hoan Ái, sông Nghĩa Trụ, sông Điện Biên, sông Kim Sơn... thuận lợi không
chỉ cho sản xuất nông nghiệp mà còn cho sự phát triển công nghiệp, sinh
hoạt và giao thông đường thuỷ.
Những yếu tố tự nhiên thuận lợi của tỉnh Hưng Yên, là tiềm năng quan
trọng để phát huy vai trò của Hội LHPN tỉnh trong việc phát triển kinh tế - xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân trong tỉnh, trong đó có các tầng lớp phụ nữ.
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Để đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong
giai đoạn mới, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc
hội, tháng 1 năm 1997, tỉnh Hưng Yên chính thức được tái lập sau 29 năm hợp
32
nhất với tỉnh Hải Dương. Khi tái lập tỉnh, Hưng Yên vẫn là tỉnh thuần nông,
công nghiệp hầu như không có gì đáng kể, kết cấu hạ tầng yếu kém, thiết bị
công nghệ lạc hậu, nhận thức của người dân về phát triển kinh tế còn hạn chế.
Năm 1997, nguồn nhân lực của tỉnh Hưng Yên khá dồi dào “dân số
1.075.517 người” [69, tr.296], trong đó, số người trong độ tuổi lao động chiếm
hơn 50%. Tỷ lệ lao động có trình độ của Hưng Yên thấp, bởi sau khi tái lập
tỉnh, đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ ở lại tỉnh công tác ít. Hiện nay, số
lao động chưa có việc làm còn nhiều đã trở thành sức ép lớn đối với Hưng
Yên trong vấn đề giải quyết việc làm. Ngoài nghề chính là trồng trọt, người
dân còn nuôi trồng thuỷ sản trồng dâu, nuôi tằm, làm các nghề thủ công và
nghề truyền thống khác. Về thành phần dân tộc, ở Hưng Yên hầu hết là người
Kinh, số đông theo đạo Phật, một số ít theo đạo Thiên Chúa, phân bố rải rác
không tập trung.
Sau khi tái lập, Hưng Yên cùng cả nước tập trung xây dựng phát triển
kinh tế. Với sự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh cùng với chính sách
cởi mở thông thoáng, tranh thủ sự hỗ trợ đầu tư nước ngoài, tình hình kinh tế -
xã hội Hưng Yên sau những năm đầu tái lập đã có nhiều khởi sắc, đổi thay từng
ngày, được đánh giá là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế tương
đối nhanh. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH.
Nông nghiệp nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ trọng giữa chăn nuôi
và trồng trọt ngày càng cân đối. Người nông dân bước đầu quan tâm đến sản
xuất hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực. Công nghiệp dịch vụ có bước phát
triển khá. Công nghiệp địa phương tuy phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng
vẫn đạt được những thành tích đáng khích lệ. Một số ngành hàng tiếp tục được
củng cố phát triển, lựa chọn mặt hàng ưu tiên và có lợi thế để đầu tư chiều sâu,
đổi mới công nghệ tạo ra những sản phẩm chất lượng cao. Khối công nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, do số dự án đi vào hoạt động tăng lên, sản
phẩm được thị trường chấp nhận và có xu thế phát triển tốt. Từ điểm xuất phát
33
thấp với nhiều khó khăn, thử thách khi mới tái lập, Hưng Yên đã nỗ lực vươn
lên, hoàn thành tương đối toàn diện những nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu đề ra.
Về kinh tế: Năm đầu tái lập tỉnh (1997), một số chỉ tiêu chủ yếu về phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. “Tổng sản
phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 14,4% so với năm 1996 (kế hoạch đề ra trên 10%).
Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ: 52% - 20% - 28%, thu
nhập bình quân đầu người 205USD” [159, tr.4].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và tinh thần quyết tâm của nhân dân
trong tỉnh, đến năm 2005, “nền kinh tế tiếp tục phát triển nhanh, khá toàn diện
và vững trắc, GDP năm sau cao hơn năm trước, bình quân tăng 12,28%/năm.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, đến năm 2005: Nông nghiệp 30,5%; Công
nghiệp, xây dựng 38%; Dịch vụ 31,5%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 550
USD” [4, tr.373].
Về văn hóa - xã hội: Năm 1997, cơ sở vật chất của ngành giáo dục vẫn
còn nghèo nàn, mạng lưới giáo dục đào tạo không đồng bộ, đội ngũ giáo viên
còn thiếu, mất cân đối, chưa đồng bộ. Phần lớn các bệnh viện xây dựng từ
những năm trước tuy được sửa chữa, nâng cấp, xây dựng nhưng chưa đáp ứng
được nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ,
thể dục, thể thao tuy được đẩy mạnh dưới nhiều hình thức song cơ sở vật chất
còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân trong tỉnh.
Đến năm 2005, công tác giáo dục - đào tạo, xây dựng nền tảng cho mọi
công dân phát triển toàn diện nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho sự nghiệp CNH, HĐH. Coi trọng cả quy mô, chất lượng và
hiệu quả ở mọi cấp học, ngành học. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
thu hút đầu tư của cả cộng đồng, các chương trình quốc gia, ngoài nước cho
giáo dục đào tạo. Cơ sở y tế các tuyến được đầu tư cải tạo và tăng cường trang
thiết bị phục vụ khám chữa bệnh, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay
nghề và y đức của đội ngũ thầy thuốc.
34
Những điều kiện kinh tế - xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
đời sống của nhân dân trong tỉnh, đồng thời cũng là nhân tố quan trọng tác
động đến hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
* Truyền thống lịch sử, văn hóa
Hưng Yên mảnh đất có truyền thống văn hiến, nhất là về cử nghiệp và
thi thư, đã sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt, các nhà văn hoá lớn. Trong 845
năm nho học, “Hưng Yên có 214 vị đỗ đại khoa còn lưu danh ở bia Văn Miếu
(thôn Xích Đằng, phường Nam Sơn thị xã Hưng Yên). Hưng Yên là tỉnh đứng
thứ 4 trong cả nước về cử nghiệp” [164, tr.58]. Trong suốt quá trình đấu tranh
lâu dài dựng nước và giữ nước, vùng đất Hưng Yên thời nào, lĩnh vực nào cũng
có những nhân tài mà sử sách còn ghi như. Từ thủa bình minh lịch sử của dân
tộc, bước phát triển của thời đại Hùng Vương từ Chử Đồng Tử - Tiên Dung -
Một thiên tình sử đẹp nhất trong kho tàng văn học Việt Nam, nói lên tiếng nói
tự do yêu đương và bình đẳng nam nữ. Trong lịch sử đấu tranh lâu dài dựng
nước và giữ nước, đất Hưng Yên đã sản sinh ra những nhân vật tài ba, lỗi lạc
trên các lĩnh vực mà sử sách còn ghi, dân ta ca tụng: Tài năng về Quân sự có
Triệu Quang Phục, Phạm Ngũ Lão, Hoàng Hoa Thám Văn tài lỗi lạc có
Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Thị Điểm Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng Về Y học có danh Y Lê Hữu Trác. Khoa học có Nguyễn Công Tiễu,
Phạm Huy Thông Sân khấu Chèo có Nguyễn Đình Nghị, Hoa Tâm Mỹ
thuật có Tô Ngọc Vân, Dương Bích Liên, Âm nhạc có Mai Văm Chung Thế
kỷ XX, trên lĩnh vực hoạt động chính trị chống đế quốc, phong kiến, giành độc
lập dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hưng Yên cũng là
quê hương của nhiều cán bộ cách mạng tiền bối, nhiều nhà chính trị có tên tuổi
như Tô Hiệu, Nguyễn Bìnhcùng bao tấm gương chiến đấu hi sinh khác đã
góp phần tô đẹp cho truyền thống quê hương, làm rạng danh Tổ quốc. Đặc biệt,
người con ưu tú của quê hương - đồng chí Nguyễn Văn Linh, một trong những
người góp phần kiến tạo đường lối đổi mới; Tổng Bí thư nhiệm kỳ đầu của thời
kỳ đổi mới đất nước (1986-1991).
35
Là quê hương có nhiều di tích lịch sử, đặc biệt là đền chùa, đồng thời,
Hưng Yên cũng là một trong những địa danh lưu giữ, bảo tồn một số di tích, di
vật được đánh giá là quý hiếm, với vẻ đẹp của thời gian và giá trị nghệ thuật
kiến trúc, điêu khắc...Tất cả cho chúng ta cái nhìn tinh tế trước vẻ đẹp của sự
kết hợp kiến trúc truyền thống và hiện đại. “Là tỉnh có mật độ di tích dầy đặc
của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với 1.210 di tích văn hoá, lịch sử, tín
ngưỡng. Trong đó 172 di tích được nhà nước xếp hạng và 32.574 cổ vật trong
các di tích. Đặc biệt là di tích Phố Hiến - trung tâm thương mại, đối ngoại sầm
uất phồn hoa bậc nhất vào thế kỷ XVI, XVII” [164, tr.49].
Trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, có nhiều đền, chùa nổi tiếng như đền thờ
Đức Tống Trân, đền thờ Đức Ngô Vương, đền Phạm Bạch Hổ, đền Đinh Điền,
đền Trần, đền Phạm Ngũ Lão, đền Chử Đồng Tử Mỗi đền, chùa là một kho
tàng mỹ thuật sống động, với rất nhiều cổ vật quý hiếm. Đó là những không
gian văn hoá truyền thống, hiện hữu nét đẹp văn hoá vật thể, phi vật thể hấp
dẫn du khách bởi sự hài hoà cảnh trí thiên nhiên và hình khối kiến trúc, nghệ
thuật chạm khắc tinh vi.
Những điều kiện lịnh sử, văn hóa của Tỉnh đã làm giàu cho đời sống tinh
thần của nhân dân, trong đó có phụ nữ Hưng Yên. Là một Tỉnh thuần nông, đời
sống nhân dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Phụ nữ vốn là người lao
động. Trải qua bao thế hệ, chị em cùng với chồng con “Một nắng hai sương”, ý
thức lao động, sự kiên trì, phẩm chất của người phụ nữ trở thành lẽ sống của
họ, vì chồng, vì con, vì gia đình, đất nước. Thế kỷ thứ nhất có các nữ tướng
Nguyệt Thai, Nguyệt Độ...; thế kỷ XI có Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan (1044 - 1117)
quê ở Như Quỳnh - Văn Lâm hiện nay, Bà đã hai lần thay thay chồng là Lý
Thánh Tông nhiếp chính. Bà cùng Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành lãnh đạo
nhân dân ta chiến thắng quân Tống xâm lược, bà là tấm gương tiêu biểu của
truyền thống “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Thời Lê Lợi chống giặc Minh thế
kỷ XV, Hưng Yên có bà Đào Thị Huệ quê Đào Đặng - Tiên Nữ học thông, biết
rộng, hát hay múa giỏi, dung nhan, tài hoa, có công giết giặc.
36
Dưới chế độ cũ, phụ nữ Hưng Yên khổ cực trăm bề, luôn phải đối phó
với thiên tai, địch họa... quanh năm lao động vất vả mà vẫn đói rách. Chế độ
phong kiến thống trị lâu đời, lễ giáo khắc nghiệt, cùng sự đàn áp, bóc lột, của
bọn đế quốc xâm lược đã trói buộc họ trong tăm tối, dốt nát. Chính vì lẽ đó, khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo, giải phóng dân tộc, giải phóng phụ
nữ thoát khỏi cuộc đời nô lệ, lầm than. Chị em đã quyết tâm đi theo Đảng, cùng
chồng con tham gia đấu tranh đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập, tự
do cho tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
Sau năm 1997, với điều kiện mới của Tỉnh đã tác động trực tiếp đến
đời sống phụ nữ Hưng Yên. Phát huy truyền thống, cần cù, bước vào thời kỳ
mới, các tầng lớp phụ nữ trong Tỉnh đảm đang làm kinh tế gia đình, tích cực
học tập nâng cao hiểu biết, áp dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, tích
cực tham gia công tác xã hội, nuôi con khỏe, dạy con ngoan, xây dựng gia
đình hạnh phúc.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống lịch sử - văn hóa
đem lại một số thuận lợi, đồng thời cũng hàm chứa những khó khăn, thách
thức, ảnh hưởng đến phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN tỉnh
Hưng Yên.
* Về thuận lợi
Một là: Là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng châu thổ sông Hồng, tiếp
giáp với Thủ đô Hà Nội, có hệ thống giao thông thuận lợi đến các trung tâm
lớn của đất nước là Hà Nội, Hải Phòng, tỉnh Hưng Yên có điều kiện mở rộng
giao lưu kinh tế, văn hóa - xã hội, đặc biệt là phát triển các ngành thương mại,
dịch vụ và tiếp thu các thành tựu khoa học - kỹ thuật, nét văn hóa của các thành
phố lớn... Những điều kiện đó, tạo điều kiện cho nhân dân trong Tỉnh, trong đó
có tầng lớp phụ nữ, mở mang phát triển các ngành kinh tế nhất là các nông sản
hàng hóa và các sản phẩm của nghề thủ công nghiệp để cung cấp cho thị
trường rộng lớn.
Hai là: Là địa phương có điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi, với diện
tích đất nông nghiệp dồi dào, hệ thống sông ngòi phong phú, tạo kiều kiện để
37
tăng gia sản xuất, đặc biệt là trồng lúa, các cây ăn quả và chăn nuôi gia súc, gia
cầm. Với đất đai trù phú, thổ nhưỡng tương đối thuận lợi, cho phép các tầng
lớp nhân dân tăng cường thâm canh, tăng năng xuất cây trồng, vật nuôi, đảm
bảo phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, góp phần
đảm bảo đời sống vật chất cho các tầng lớp nhân dân, trong đó có phụ nữ.
Ba là: Với truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, đặc biệt là tinh thần yêu
quê hương, đất nước và truyền thống cần cù trong lao động sản xuất. Bước vào
thời kỳ đổi mới, với đường lối và chủ trương đúng đúng đắn của Trung ương
Đảng và Đảng bộ Tỉnh, các tầng lớp nhân dân, nhất là phụ nữ, hăng hái sản
xuất, tiếp thu các thành tựu khoa học - kỹ thuật, để phát triển kinh tế nông
nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ để từng bước
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, góp phần xây dựng quê hương ngày
càng giàu mạnh.
* Khó khăn
Thứ nhất, là tỉnh có diện tích đất nông nghiệp tương đối rộng, song nhiều
vùng thuộc vùng chiêm trũng, chua, phèn, gây ảnh hưởng đến canh tác nông
nghiệp, đặc biệt là trồng lúa. Vì thế, so với nhiều địa phương thuộc vùng châu
thổ sông Hồng năng suất lúa và cây trồng ở Hưng Yên chưa cao. Bên cạnh đó,
nhiều địa phương, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nhất là hệ thống
đường giao thông còn lạc hậu, gây khó khăn cho các ngành công nghiệp, đặc
biệt là hình thành các khu công nghiệp tập trung. Vì thế, gây cản trở cho việc
chuyển đổi nghề nghiệp của nhân dân, trong đó có các tầng lớp phụ nữ.
Thứ hai, do điều kiện kinh tế - xã hội còn hạn chế, nên đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp phụ nữ nông thôn còn khó
khăn, vì thế họ phải tập trung lao động, sản xuất để từng bước nâng cao đời
sống vật chất cho gia đình, ít có điều kiện tham gia các hoạt động xã hội. Điều
đó ảnh hưởng đến công tác vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia công tác
Hội và các phong trào phụ nữ.
38
Thứ ba, đại đa số phụ nữ Hưng Yên là nông dân sống ở các vùng nông
thôn, trình độ dân trí còn thấp nên khả năng tiếp thu khoa học - kỹ thuật, công
nghệ còn hạn chế. Điều đó ảnh hưởng đến việc nâng cao năng suất lao động,
tiền lương và thu nhập cho phụ nữ. Bên cạnh đó, việc dạy nghề, đối với
những ngành nghề đòi hỏi kỹ năng, chuyên môn cao đối với phụ nữ còn hạn
chế nên phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với các công việc có thu nhập cao. Vì thế,
đại bộ phận phụ nữ ở Hưng Yên có thu nhập thấp, do vậy, họ phải thường
xuyên bươn trải để kiếm sống. Đó là cản trở lớn trong việc tập hợp cán bộ,
hội viên phụ nữ tham gia các phong trào phụ nữ và các hoạt động của Hội
LHPN tỉnh.
Thứ tư, với đặc thù của một tỉnh mới tái lập, công tác Hội LPHN của
tỉnh cũng còn nhiều bất cập như: số Hội viên chưa ổn định “245.870 hội viên
năm 1997” [77, tr.11], so với dân số Hưng Yên năm 1997 là 1.075.517 người,
thì số hội viên chưa đông đảo. Xã hội chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường làm nhiều chị em mải làm kinh tế không quan tâm nhiều
đến tổ chức Hội. Trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ Hội vẫn còn nhiều hạn
chế (nhất là ở cấp cơ sở), chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác Hội
“Cán bộ tỉnh Hội, huyện Hội thường xuyên xuống cơ sở để trực tiếp làm công
tác vận động phụ nữ, đặc biệt quan tâm giúp đỡ những cơ sở khó khăn” [87,
tr.298]; việc tham mưu, chỉ đạo, điều hành tổ chức hoạt động của Hội còn
nhiều lúng túng. Hoạt động của Hội chưa đáp ứng kịp thời những vấn đề đặt ra
với một số đối tượng phụ nữ như lao động nữ trong khu công nghiệp, khu chế
xuất; nữ thanh niên; phụ nữ cao tuổi; nữ doanh nhân. Việc giám sát thực hiện
luật pháp chính sách, công tác phản biện xã hội ở nhiều địa phương còn chưa
hiệu quả...
Thực tế đó, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh phải đề ra những chủ trương, giải pháp
cụ thể, phù hợp, khoa học trong lãnh đạo công tác phụ nữ của Tỉnh nói chung
và lãnh đạo xây dựng, phát triển tổ chức hội và phong trào thi đua của Hội
39
LHPN tỉnh nói riêng đạt hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của tỉnh trong điều kiện
mới, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH.
2.1.3. Hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên trước
năm 1997
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đề ra đường lối đổi mới toàn
diện, trước hết là đổi mới về kinh tế, nhằm phát huy tinh thần tự lực tự cường,
đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, đi lên CNXH. Trước yêu cầu của công cuộc
đổi mới, nhiệm vụ chung của phong trào phụ nữ được Trung ương Hội LHPN
Việt Nam chỉ rõ: “Đoàn kết, tập hợp các tầng lớp phụ nữ, giáo dục, động viên
chị em tích cực tham gia phong trào người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ tổ
quốc” [87, tr.266].
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Hải Hưng (Hải Dương sáp nhập
cùng tỉnh Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng từ năm 1968) và sự chỉ đạo của
Trung ương Hội LHPN Việt Nam, trước năm 1997, phong trào phụ nữ và công
tác Hội Phụ nữ trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã có nhiều khởi sắc.
Thực hiện cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, Hội
vận động chị em có điều kiện giúp chị em khó khăn về giống vốn, công lao
động, kinh nghiệm sản xuất, hướng dẫn chị em nâng cao nhận thức về làm kinh
tế gia đình, sử dụng vốn có hiệu quả. Kết quả của phong trào, tăng thêm một
khối lượng đáng kể về lương thực, thực phẩm, góp phần vào thắng lợi các
chương trình, mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh, “năm 1989 sản lượng lương
thực đạt 98,5 vạn tấn, chăn nuôi tăng 15,7%, đời sống nhân dân nói chung và
phụ nữ nói riêng được cải thiện và ổn định hơn, trình độ dân trí và đời sống
tinh thần được nâng lên” [87, tr.274].
Cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, phù hợp với
tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp phụ nữ, nhất là phụ nữ nghèo. Từ việc
tương trợ giúp nhau làm kinh tế gia đình, đã nêu cao truyền thống “lá lành đùm
lá rách”, tăng thêm tình đoàn kết, thương yêu đùm bọc, sống với nhau trong
“nghĩa xóm tình làng”, trên cơ sở đó tổ chức Hội được củng cố. Qua việc thực
40
hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động đem lại hiệu quả thiết thực, đã
động viên thu hút được đông đảo chị em tham gia, góp phần xây dựng phong
trào phụ nữ ngày càng vững mạnh.
Cuộc vận động “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh
dưỡng, trẻ em bỏ học”. Các cấp Hội đã nhận thức sâu sắc ý nghĩa tầm quan
trọng của 2 cuộc vận động liên quan, gắn bó mật thiết với nhau, đáp ứng
nguyện vọng của phụ nữ, trẻ em, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội
và thực hiện chiến lược “con người” của Đảng và Nhà nước. Nhờ hoạt động
tích cực của các cấp Hội, “toàn tỉnh có 21.990 trẻ em bị suy dinh dưỡng, đã có
2.374 cháu trở lại sức khỏe bình thường. Vận động giúp đỡ vật chất được
2.419 cháu trở lại trường học trong tổng số 8.081 cháu học sinh cấp I bỏ học”
[87, tr.278].
Thực hiện công tác hậu phương quân đội, và các hoạt động văn hóa - xã
hội, hội vận động chị em tích cực tham gia thực hiện công tác hậu phương quân
đội, vận động phụ nữ chăm sóc bố mẹ liệt sĩ không nơi lương tựa, đỡ đầu con
liệt sĩ, nuôi dưỡng thương binh nặngVận động chị em có đủ điều kiện tham
gia dân quân tự vệ, động viên chồng, con thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự. Để
thực hiện bảo vệ quyền lợi cho cho phụ nữ bằng pháp luật, Hội phụ nữ tích cực
can thiệp, đề xuất với các ngành tư pháp, tuyên truyền luật pháp giúp chị em
thực hiện tốt
Trong điều kiện chuyển đổi cơ chế, tình hình xã hội có nhiều biến động,
phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội phụ nữ trên địa bàn Hưng Yên còn
những khó khăn và hạn chế nhiều mặt, chưa theo kịp với yêu cầu của thời kỳ
mới. Một số cấp Hội tuy có chuyển biến về nhận thức nhưng hoạt động còn
lúng túng, dàn trải. Năng lực, trình độ của cán bộ Hội còn chưa đáp ứng được
yêu cầu, một bộ phận cán bộ Hội nhận thức chưa đầy đủ về yêu cầu công tác
vận động phụ nữ trong tình hình mới, thiếu kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi
mới, làm việc theo lối hành chính, chưa thực sự nhiệt tình, tâm huyết với công
tác Hội, sự nghiệp bình đẳng giới; nội dung sinh hoạt chưa phù hợp với tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng phụ nữ.
41
Điều đó thể hiện qua một số điểm hạn chế trong kết quả hoạt động của
Hội Phụ nữ thuộc địa bàn Hưng Yên từ 1992 - 1996: Tỷ lệ tập hợp thu hút hội
viên tham gia sinh hoạt mới đạt 65.08%, chưa tập hợp được đông đảo đối
tượng nữ thanh niên, phụ nữ cao tuổi, phụ nữ làm việc trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, nữ doanh nhân, phụ nữ tiểu thương. Trong chỉ đạo chưa
quan tâm đúng mức đến tổng kết, kiểm tra đánh giá rút kinh nghiệm. Một số
cơ sở Hội chậm đổi mới, thiếu chủ động, nội dung hoạt động chưa thiết thực,
chưa đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của đông đảo phụ nữ. Đội ngũ cán
bộ nữ chủ chốt các cấp giảm, trình độ năng lực đội ngũ cán bộ Hội, cán bộ nữ
công cơ sở nhìn chung thấp so với yêu cầu trong thời kỳ CNH, HĐH. Trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chính trị, xã hội của phụ nữ còn thấp
so với nam giới; diện lao động nông nghiệp hầu như không được đào tạo.
Điều kiện làm việc, đời sống sức khoẻ của lao động nữ chưa được cải thiện,
thu nhập không ổn định. Trong công tác phối hợp liên ngành, mặc dù Hội có
nhiều cố gắng, song ở một số việc, một số cơ sở sự phối hợp chưa đồng bộ,
hiệu quả chưa cao. Còn một bộ phận phụ nữ tự ti, thụ động, thiếu nghị lực và
ý chí phấn đấu vươn lên.
2.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN CHỈ
ĐẠO HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
Sau khi tái lập Tỉnh (1997), Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã chỉ đạo các cấp
ủy Đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị nhanh chóng bắt tay vào sắp
xếp, kiện toàn lại tổ chức, ổn định tình hình tư tưởng, đẩy mạnh mọi hoạt động,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Việc Đảng bộ Tỉnh quan tâm thích đáng đến
công tác kiện toàn tổ chức, cán bộ của các cơ quan, đoàn thể trong tỉnh nói
chung, Hội LHPN tỉnh nói riêng là một điều kiện cần thiết và quan trọng, tạo
đà cho quá trình ổn định và từng bước phát triển của tổ chức Hội và phong trào
phụ nữ của một tỉnh mới được tái lập.
42
Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIV (11-1997), trên cơ sở xác định rõ
những hạn chế của tỉnh mới tái lập và những yếu kém trong hoạt động của hệ
thống chính trị nói chung và Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể nói riêng, Đại
hội chỉ rõ: “Hiệu lực quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp có nơi, có lúc
còn bộc lộ nhiều yếu kém. Thủ tục hành chính rườm rà, một bộ phận công chức
còn sách nhiễu, phiền hà dân, bệnh quan liêu cửa quyền...” [158, tr.14], “ Sự
lãnh đạo của cấp ủy, hoạt động của các đoàn thể chưa ngang tầm với sự tin cậy
và đòi hỏi của cán bộ đảng viên và nhân dân của tỉnh giàu truyền thống vừa
được tái lập, một số cấp ủy viên chưa sát dân và hiểu cơ sở” [158, tr.15],
Trên cơ sở phân tích sâu sắc thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị của
tỉnh, Đại hội xác định:
Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Các đoàn thể cần tập hợp rộng rãi
đối tượng hội viên dưới nhiều hình thức tổ chức đa dạng, thực hiện
tốt chức năng giáo dục, vận động quần chúng thực hiện thắng lợi
những nhiệm vụ cụ thể, chăm lo lợi ích thiết thực cho hội viên. Mỗi
đoàn thể cần có phong trào đặc trưng phù hợp, đại diện cho tầng lớp
mình tham gia công việc của Nhà nước. Hướng mạnh về cơ sở để
phát triển tổ chức, củng cố sinh hoạt, đào tạo cán bộ, khắc phục bệnh
quan liêu hành chính trong hoạt động của các đoàn thể [158, tr.33].
Để thực hiện Nghị quyết Đại hội, ngay trong năm 1997, Tỉnh ủy Hưng
Yên ban hành Chương trình hành động, trong đó nêu rõ “Đổi mới phương
thức hoạt động của các đoàn thể quần chúng để gắn hoạt động thực tiễn cơ sở”
[159, tr.4].
Nhằm cụ thể hóa những quan điểm trên, tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 8B (khóa VI) năm 1990, Nghị quyết 04-NQ/TW (1993) và Chỉ thị
số 37-CT/TW (khóa VII) năm 1994, Đảng bộ Tỉnh ban hành một số văn bản
chỉ đạo công tác vận động phụ nữ. Sau khi Ban vì sự tiến bộ của Phụ nữ tỉnh
Hưng Yên được kiện toàn (1998), Tỉnh ủy Hưng Yên tổ chức Hội nghị Ban
Chấp hành mở rộng triển khai thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW (1998) của Bộ
43
Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động
của các hội quần chúng”. Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho ý kiến chỉ đạo hoạt động
của các hội quần chúng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên,
hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương.
Nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị,
Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ XV (2000), nêu rõ giải pháp nhằm phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân: Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, tiếp tục phát triển tổ
chức, kết nạp thêm hội viên, đoàn viên, không ngừng đổi mới nội dung phương
thức hoạt động, công tác hướng về cơ sở, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội và lợi ích thiết thực của hội viên, đoàn viên, đẩy mạnh các phong trào thi
đua yêu nước nước: “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân
cư”; “Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước”; “Giữ gìn phát huy bản chất
tryền thống bộ đội cụ Hồ”; “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần
kiệm xây dựng đất nước”; “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”; “công nhân viên
chức lao động thực hiện chương trình phục vụ nông nghiệp, lao động sáng tạo,
thi đua 2 giỏi”... Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các thành viên đã tích cực tham gia
vào hoạt động chính trị xã hội. Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X, bầu cử Hội
đồng nhân dân các cấp, xây dựng thực hiện quy chế dân chủ, giải quyết những
vấn đề nổi cộm ở cơ sở, cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng
củng cố chính quyền [160, tr.19].
Nghị quyết Đại hội chỉ rõ, phải quan tâm đến phụ nữ nghèo, cổ động phụ
nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, để đời sống chị em được đảm bảo. Để
thực hiện được chủ trương đó, Hội LHPN tỉnh đã giải quyết tốt nguồn vốn vay
và xây dựng các mô hình phát triển kinh tế ở các địa phương. Đồng thời, “
Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, khắc phục tình trạng hành chính hóa, quan liêu; hướng về cơ sở,
nâng cao chất lượng hiệu quả công tác vận động quần chúng...” [160, tr.51-52].
44
Như vậy, trong 2 nhiệm kỳ, Đảng bộ Tỉnh đã quan tâm chỉ đạo sát sao Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, trong đó có Hội LHPN tỉnh.
Quan điểm đó tiếp tục được Tỉnh ủy khẳng định trong Báo cáo tổng kết
việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8B (khóa VI) năm 1990; Về đổi mới
công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân và các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị về công tác dân vận, mặt
trận, dân tộc và tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tổ chức xã hội cần tiếp tục nắm
chắc vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của mình để xây dựng nội
dung chương trình công tác nhằm phục vụ đắc lực nhiệm vụ chính trị
của tỉnh, của từng địa phương, đơn vị. Thông qua hoạt động thực tiễn
củng cố tổ chức, xây dựng con người mới, coi trọng chất lượng hiệu
quả, khắc phục tệ phô trương, hình thức, không ngừng phát triển
nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên và tổ chức cơ sở của đoàn
của hội [161, tr.22].
Thực hiện Chỉ thị thị số 42-CT/TW (1998) của Bộ Chính trị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các hội quần
chúng”, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2005) nhấn mạnh:
... Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong việc
tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước... tiếp tục đổi mới phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể theo phương
châm hướng về cơ sở, vì cơ sở, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, chống
quan liêu hình thức. Từng đoàn thể cần phát động và duy trì tốt các
phong trào quần chúng mang sắc thái riêng của mình vừa thiết thực
với đoàn viên, hội viên, có tác dụng xây dựng tổ chức đoàn thể vững
mạnh phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ... [162, tr.52].
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
(khóa X) Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
45
của hệ thống chính trị, Tỉnh ủy Hưng Yên ban hành Kế hoạch số 43 và Kế
hoạch số 51 KH/TU, chỉ rõ: “Ban Thường vụ cấp ủy cho ý kiến định hướng
công tác lớn trong từng thời gian về chương trình, nội dung hoạt động hàng
năm của Mặt trận Tổ quốc và cá đoàn thể chính trị - xã hội, phát huy tính chủ
động, sáng tạo, các hình thức tổ chức hoạt động, sự gắn bó với nhân dân, tăng
cường công tác dân vận khắc phục tình trạng hành chính hóa hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” [167, tr.3]. Từ thực tiễn
thực hiện chủ trương của Đảng bộ Tỉnh, Về tiếp tục đổi mới phương thứclãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, “...Các cấp ủy chính
quyền, đoàn thể cán bộ, đảng viên đã nắm được mục tiêu, quan điểm chỉ đạo,
nhiệm vụ và giải pháp, để nâng cao chất lượng hoạt động của Hội phụ nữ các
cấp” [168, tr.3]. Tỉnh ủy chủ trương: “...Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của cấp ủy đối với hệ thống chính trị của địa phương, nhằm giữ vững và tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền, hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” [168, tr.3]
Trên cơ sở đó, Báo cáo Kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh, khóa XV và kết quả thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng
trình Đại hội XVI (2005), Đảng bộ tỉnh nhấn mạnh: “... Tăng cường sự lãnh đạo
đối với công tác cựu chiến binh, phụ nữ, thanh niên...” [162, tr.76].
Như vậy, trong những những năm (1997-2005), Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
đã đề ra những chủ trương về công tác phụ nữ và lãnh đạo hoạt động của Hội
LHPN, được thể hiện tập trung ở một số nội dung cơ bản sau:
Một là, khắc phục những hạn chế của các cấp ủy đảng, chính quyền đối
với việc lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN và phong trào phụ nữ, trên cơ sở đó
tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đối với tổ chức hội các cấp.
Hai là, từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các cấp
Hội nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội phụ nữ các cấp và
phong trào phụ nữ trong toàn tỉnh, góp phần huy động năng lực, trí lực của các
tầng lớp phụ nữ vào sự nghiệp đổi mới.
46
Ba là, chú trọng xâ...Yên.
183. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2014), Kế hoạch số 118 KH-BCĐ, ngày
14/1/2014 về việc thực hiện Đề án Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi, dạy
con tốt năm 2014, Hưng Yên.
184. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2015), Chương trình hành động số 01-
CTr/TU ngày 15/12/2015, về thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020, Hưng Yên.
170
185. Văn phòng Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (1997), Ảnh tư liệu của
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hưng Yên.
186. Văn phòng Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2001), Ảnh tư liệu của
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hưng Yên.
187. Văn phòng Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Ảnh tư liệu của
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hưng Yên.
188. Văn phòng Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2015), Ảnh tư liệu của
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hưng Yên.
189. Dương Thị Xuân (2002), Sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc
đổi mới đất nước, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
171
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH HƯNG YÊN
Phụ lục 3
MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TRONG CÔNG TÁC HỘI VÀ
PHONG TRÀO PHỤ NỮ TỈNH HƯNG YÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2015
3.1. So sánh kết quả thực hiện phong trào thi đua”Phụ nữ tích cực học
tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” qua 3 kỳ Đại hội đại
biểu Phụ nữ tỉnh Hưng Yên lần thứ XII;XIII, XIV.
TT Nội dung 2001 - 2006 2006 - 2011 2011-2016
1
- Hội viên, phụ nữ đăng ký
- Tỷ lệ/Tổng số hội viên,
phụ nữ(%)
292.786
99.8%
165.547
82.0%
233.627
96.9%
2
- Hội viên phụ nữ đạt 3 tiêu
chuẩn của phong trào
- Tỷ lệ/Tổng số hội viên,
phụ nữ(%)
206.323
71.3%
126.643
76.5%
202.395
86.6%
Nguồn: [83]; [94]; [107]
3.2. So sánh kết quả phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế của
Hội LHPN tỉnh Hưng Yên qua 3 kỳ Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Hưng
Yên lần thứ XIII, XIV, XV (1997 - 2016)
TT Nội dung 1997- 2001 2001 - 2006 2006- 2011 2011-2016
1
Số phụ nữ giúp (giúp vốn,
cây trồng, con giống, vật
tư, ngày công)
66.817 64.824 47.491 54.95
2 Số lượt phụ nữ được giúp 136.797 113.249 93.755 61.061
3
Tổng giá trị giúp quy đổi
bằng tiền (triệu đồng)
8.739.815.000 70.151.748 86.226.3700 136.591.000.000
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
3.3. So sánh kết quả hoạt động tín chấp cho Hội viên; phụ nữ vay vốn của
Hội LHPN tỉnh Hưng Yên qua 3 kỳ Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Hưng
Yên lần thứ: XII, XIII, XIV, XV (1997 - 2016)
TT Nội dung 1997-2001 2001-2006 2006-2011 2011-2016
1
Tổng số vốn huy động
(triệu đồng)
79.877.648 757.484.000 662.981.000 938.865.000
2
Số lượt hộ phụ nữ vay
vốn
8248.95 303.148 43.515 42.437
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
Phục lục 4
BỘ MÁY TỔ CHỨC CÁN BỘ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH HƯNG YÊN
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2016
4.1. So sánh trình độ đội ngũ cán bộ của Hội LHPN các cấp tỉnh Hưng
Yên qua các năm 1997, 2006, 2011, 2016
4.1.1. Trình độ đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp tỉnh
TT Nội dung 1997 2006 2011 2016
Tổng số cán bộ Hội chuyên trách 6 16 23 24
NCS 0 0 1 0
Th.S 0 0 5 6
ĐH 4 10 18 14
CĐ 3 3 3 2
TC 2 3 1 2
1
Chuyên môn
SC 3 0 0 0
CC, CN 1 2 6 8
TC 3 2 2 2 2 Lý luận chính trị
SC 2 12 15 16
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
4.1.2. Trình độ đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp huyện
TT Nội dung 1997 2006 2011 2016
Tổng số cán bộ Hội chuyên trách 27 46 46 47
NCS 0 0 0 0
Th.S 0 1 5 11
ĐH 7 38 41 36
CĐ 4 3 0 0
TC 6 5 0 0
1
Chuyên môn
SC 6 3 0 0
CC, CN 0 4 7 13
TC 12 17 26 25 2 Lý luận chính trị
SC 5 25 13 9
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
4.1.3. Trình độ đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở
TT Nội dung 1997 2006 2011 2016
Tổng số cán bộ Hội chuyên trách 160 104 161 161
NCS 0 0 0 0
TS 0 0 0 0
ĐH 0 15 22 61
CĐ 2 23 1 7
TC 56 77 94 87
1
Chuyên môn
SC 67 19 5 0
CC, CN 0 0 0 3
TC 0 33 118 123 2 Lý luận chính trị
SC 109 96 42 34
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
4.2. So sánh tỷ lệ thu hút tập hợp hội viên của Hội LHPN tỉnh Hưng Yên
qua các nhiệm kỳ: 1997 - 2001, 2001 - 2006, 2006 - 2011,2011-2016.
TT Nội dung 1997-2001 2001- 2006 2006-2011 2011-2016
1 Tổng số phụ nữ từ 18 tuổi
trở lên
241.846 266.788 294.500 317.870
2 Tổng số phụ nữ tham gia tổ
chức Hội (hội viên)
172.561 201.758 245.627 259.816
3 Tỷ lệ 71,3% 75,6% 83,4% 81,74%
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
4.3. So sánh kết quả bình xét, xếp loại tổ chức Hội cấp cơ sở qua các năm
1997, 2006, 2011, 2016.
Năm Tổng số cơ sở Số cơ sở vững mạnh Số cơ sở khá
Số cơ sở
trung bình
1997 160 68/41,8% 76/47,5% 17/10,6%
2006 161 134/83,2% 27/16,8% 0
2011 161 136/84,5% 23/143% 2/1,3%
2016 161 146/90,7% 15/9,3% 0
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
Phụ lục 5
PHỤ LỤC VỀ NHỮNG BÀI PHỎNG VẤN CÁC ĐỒNG CHÍ
NGUYÊN CHỦ TỊCH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH HƯNG YÊN
QUA CÁC NHIỆM KỲ XI, XII, XIII, XIV GIAI ĐOẠN (1997-2015)
MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TỈNH HƯNG YÊN DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
GIAI ĐOẠN (1997-2006)
Doãn Thị Thanh Hoa
Nguyên Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Hưng Yên
giai đoạn (1997-2006)
Năm 1997 tỉnh Hưng Yên được tái lập, Hội LHPN tỉnh Hưng Yên là tổ
chức chính trị đầu tiên của tỉnh tiến hành đại hội. Ban Thường vụ Hội LHPN
tỉnh khóa XI (1997-2001), khóa XII (2001-2006), đã bám sát sự chỉ đạo của
Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng, tham mưu với Ban Thường vụ Tỉnh ủy
và đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam, thể hiện ở các nghị quyết,
chỉ thị quan trọng của Trung ương, của Tỉnh ủy, đảng đoàn, đoàn Chủ tịch
Trung ương Hội LHPN Việt Nam trên lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,
trước tình hình thế giới, khu vực, nhất là những thời cơ, thách thức ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta, trong đó có Hưng Yên.
Trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, nhất là sau 20 năm đổi mới, tuy
những năm đầu tái lập tỉnh còn có những khó khăn về đội ngũ cán bộ Hội
nhất là cấp tỉnh chỉ có 6 đồng chí, cơ sở vật chất phục vụ công tác còn thiếu
thốn. Song với tinh thần yêu quê hương, gắn bó với tổ chức Hội, BCH Hội
LHPN tỉnh Hưng Yên, đoàn kết, thống nhất khắc phục mọi khó khăn, tập
trung chỉ đạo, hướng dẫn, vận động, hội viên và các tầng lớp phụ nữ trong
tỉnh thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không
ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đa dạng hóa các loại hình
tập hợp các hội viên vào tổ chức Hội; đồng thời tập trung chỉ đạo những nội
dung liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ của Hội LHPN; chăm lo
quyền, nghiã vụ, lợi ích hợp pháp của hội viên. Từ đó, tính thiết thực và hiệu
quả của công tác phụ nữ nhiệm kỳ XI, XII ngày càng rõ nét. Hội còn làm tốt
chức năng phản biện xã hội, giám sát việc thực hiện đường lối chủ trương của
Đảng, Nhà nước đến quyền lợi người dân trong đó có phụ nữ.
Kết quả công tác Hội và phong trào phụ nữ Hưng Yên giai đoạn (1997-
2006), được đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam và BTV Tỉnh ủy
đánh giá cao, được nhận cờ, bằng khen và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Với những thành quả trên Hội LHPN tỉnh Hưng Yên, đã góp phần tích cực
cùng Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh tham gia phát triển kinh tế - xã hội,
tham gia giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền làm chủ của nhân dân.
Trong hai nhiệm kỳ Đại hội Phụ nữ tỉnh (1997-2001), (2001-2006), với
cương vị là chủ tịch Hội, tôi rất tâm đắc với một số hoạt động của Hội LHPN
Hưng Yên dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, với đặc điểm riêng của địa phương
đã có những kết quả đáng khích lệ.
Một là, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ chính trị, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới (Chỉ thị 14, Chỉ thị 37,
Nghị quyết 04); Đảng đoàn, BTV Hội LHPN tỉnh tham mưu với BTV tỉnh
ủy và đoàn chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam, Đề án số 01- ĐA/DĐ
ngày 15- 9-2003 Về “Đào tạo bồi dưỡng cán bộ Hội LHPN các cấp từ nay
đến 2006”, BTV Tỉnh ủy nhất trí, ra thông báo số 405-TB/TU ngày 30-9-2003
về ý kiến của Thường trực Tỉnh ủy về việc thực hiện Đề án 01“Đào tạo bồi
dưỡng cán bộ Hội LHPN các cấp từ nay đến 2006”; Căn cứ vào thực trạng
cán bộ Hội phụ nữ các cấp hầu hết là chắp vá, không được bồi dưỡng kiến
thức lý luận chính trị và chuyên môn phụ vận, hầu hết cán bộ cơ sở không có
quy hoạch cán bộ Hội dẫn đến mỗi lần Đại hội thiếu cán bộ, ảnh hưởng trực
tiếp đến tổ chức Hội và phong trào phụ nữ. Đảng đoàn Hội LHPN tỉnh đã
phối hợp với BTV Tỉnh ủy thực hiện Đề án 01 trong vòng 18 tháng; giảng
viên Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh và Học viện Phụ nữ trực tiếp truyền
đạt, khóa đào tạo được 90 học viên tốt nghiệp ra trường có 2 bằng, trung cấp
Chính trị và trung cấp Phụ vận, giúp cấp ủy cơ sở có căn cứ xấp sếp bố trí đội
ngũ cán bộ Hội đáp ứng yêu cầu công tác.
Hai là, tổng kết 40 năm phong trào 3 đảm đang chống Mỹ cứu nước,
khẳng định vai trò của phụ nữ ngoài việc chăm lo cuộc sống gia đình, nếu
được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức họ sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ xã hội giao.
BTV Hội LHPN tỉnh đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam, thực
hiện các chương trình, đề án do các tổ chức quốc tế tài trợ, với mục tiêu nâng
cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội như dự an Opal của
Newzeland; những điều cần cho sự sống của Unicef; dự án tín dụng Việt - Bỉ;
dự án cây thuốc nam Việt Nam - Úc; dự án kế hoạch hóa gia đình Việt Nam -
Trung Quốc
Thông qua các dự án các tổ chức quốc tế đầu tư cho ta vốn vay, tập
huấn cách quản lý vốn vay, biết cách chi tiêu hoạt hoạt động tín dụng, biết
hoạch toán vươn lên thoát nghèo. Có thời điểm Hội LHPN tỉnh quản lý hàng
trăm tỷ đồng, nhưng thất thoát ít nhất và rủi ro không đáng kể. Hội viên phụ
nữ được vay là phụ nữ nghèo có hoàn cảnh khó khăn, thiếu vốn sản xuất, từ
đó có nhiều bộ phận phụ nữ trưởng thành từ hội viên thoát nghèo thành cán
bộ Hội cấp cơ sở.
Từ việc phụ nữ làm chủ được kinh tế, và biết cách làm giàu, sẽ giữ
được hạnh phúc gia đình trong cơ chế thị trường, nghệ thuật làm vợ, làm mẹ
được trao đổi, giúp gia đình ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Hưng Yên, ngày 5 tháng 6 năm 2017
Doãn Thị Thanh Hoa
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH HƯNG YÊN VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH
GIAI ĐOẠN (2006-2010)
Nguyễn Thi Thảnh
Nguyên Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Hưng Yên
giai đoạn (2006-2010)
Với vai trò là Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Hưng Yên giai đoạn (2006-2010)
tôi có một số nhận xét như sau:
Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hưng Yên là một tổ chức chính trị đại diện
cho quyền lợi của phụ nữ tỉnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên và
Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam giai đoạn (2006-2010), Hội LHPN tỉnh đã có
những nội dung hoạt động cơ bản sau:
-Trên cơ sở những chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy đã ban hành những
chỉ thị, nghị quyết để lãnh đạo Hội LHPN tỉnh và công tác nữ: BCH Trung
ương Hội LHPN Việt Nam đã bám sát các nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết
Đại hội X, để chỉ đạo các tỉnh. Nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách
mạng mới, ngày 27-4-2007 Bộ Chính trị (khóa X) ra Nghị quyết số 11-
NQ/TW về Công tác Phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đây là văn kiện thể hiện đầy đủ những quan điểm sâu sắc, đúng đắn
của Đảng đối với công tác phụ nữ trong thời kỳ mới; xác định những nhiệm
vụ, giải pháp, yêu cầu cụ thể, bức thiết đối với các cấp ủy Đảng, chính
quyền, các ban, ngành, đoàn thể và cả xã hội trong thực hiện công tác phụ
nữ. Đối với tổ chức Hội LHPN, sự quan tâm sâu sắc của Đảng được để thể
hiện thông qua những yêu cầu, nhiệm vụ được Nghị quyết đề cập riêng... Đó
là động lực và định hướng quan trọng, giúp các cấp Hội Phụ nữ cả nước thực
hiện tốt hơn nữa vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ.
Quán triệt Nghị quyết số 11-NQ/TW (2007) của Bộ Chính trị, và quan
điểm của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2005), Tỉnh ủy ra Kế hoạch số
44-KH/TU về Nghiên cứu, quán triệt thực Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ
Chính trị Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Tiếp đó, Tỉnh ủy Hưng Yên ban hành Chương trình hành động số 11-
CTr/TU (2007): Về thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa
X) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đánh giá về công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ tỉnh Hưng Yên những
năm đầu thế kỷ XX, Chương trình khẳng định:Thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, phát huy truyền thống phụ nữ Hưng Yên, công tác
phụ nữ và phong trào phụ nữ tỉnh có tiến bộ, đạt được nhiều thành tích trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng tiến bộ, hạnh phúc, góp phần quan trọng phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của tỉnh. Nhận thức xã hội về
bình đẳng giới được nâng lên, phụ nữ được tôn trọng và bình đẳng hơn, địa vị
của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội được khẳng định các cấp hội
phụ nữ có nhiều sáng tạo trong đổi mới nội dumg, phương thức hoạt động, góp
phần thực hiện có hiệu quả chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về
công tác phụ nữ.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ chính trị (khóa
X) Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Tỉnh ủy đã tổng kết 5 năm thục hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW đánh giá
một cách khách quan nhất kết quả hoạt động của Hội LHPN tỉnh Hưng Yên
trong quá trình thực hiện Nghị quyết sô 11, và Chương trình hành động của
Tỉnh Ủy.
-Thành tích nổi bật trong hoạt động của Hội LHPN tỉnh: Sau khi tái lập
tỉnh, Hội LHPN tỉnh là đoàn thể chính trị - xã hội đầu tiên hoàn thành đại hội
nhiệm kỳ, với nhiều khó khăn nhất là về con người. Dưới sự lãnh đạo sát sao
của tỉnh ủy, sự cố gắng của lãnh đạo Hội, mỗi năm, mỗi đại hội, phong trào phụ
nữ và hoạt động của Hội LHPN tỉnh có bước phát triển rõ nét:
Công tác tổ chức cấn bộ từng bước vững trắc, tổ chức Hội được kiện
toàn đến chi, tổ phụ nữ, hội viên tiếp tục phát triển, hoạt động ở cơ sở nề nếp
thuận lợi. Cán bộ Hội các cấp đạt chuẩn trở lên về chuyên môn và trình độ
chính trị. Cơ quan tỉnh Hội 90% cán bộ có trình độ đại học, trong đó có 4
thạc sĩ.
Phong trào thi đua “ phụ nữ tích cực hộc tâp, lao động sáng tạo xây dựng
gia đình hạnh phúc” lan tỏa, gắn kết với các phong trào thi đua yêu nước trên
mọi lĩnh vực, phụ nữ đã phấn đấu vươn lênđóng góp xứng đáng vào sự phat
triển của ngành, nghề và sự phát triển của kinh tế - xã hội từng địa phương và
của tỉnh.
Các hoạt động của hội phụ nữ đã tham gia có hiệu quả trong thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của tỉnh như: dồn điền đổi ruộng, thay đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi, phát triển công nghiệp đồng thời các hoạt động Hội ngày
càng sâu sát, thiết thực đáp ứng nhu cầu tiến bộ, phát triển của phụ nữ. Hỗ
trwoj phụ nũ tham gia phát triển kinh tế và xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, đã nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài
xã hội tạo nên sự gắn bó cộng đồng ớ cơ sở.
-Những hoạt động của Hội LHPN tỉnh mà tôi tâm đắc nhất trong nhiệm
kỳ là chủ tịch Hội: “ phụ nữ tích cực hộc tâp, lao động sáng tạo xây dựng gia
đình hạnh phúc”, là mục tiêu phấn đấu và cũng chỉ ra những nhiệm vụ của các
cấp Hội trong tỉnh và mỗi phụ nữ Hưng Yên. Nghị quyết Đại hội Phụ nữ toàn
quốc lần thứ X đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm trong công tác Hội. Chỉ đạo ở địa
phương Hưng Yên tôi tâm đắc nhất 2 nhiệm vụ: hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh
tế, tạo việc làm tăng thu nhập và hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, tuy hai mà một đồng hành, thúc đẩy nhau như kinh tế
và xã hội. Hỗ chợ phụ nữ phát triển kinh tế, trước hết bằng cung cấp cho chị
em kiến thức phù hợp, khoa học - kỹ thuật trong chăn nuôi, trồng trọt, kinh
doanh. Những năm ấy phụ nữ đã tiếp cận kiến thức khởi sự doanh nghiệp: cách
đầu tư, quản lý doanh nghiệp, tín chấp với ngân hàng tạo điều kiện vay vốn, có
những chương trình tín dụng vi mô có hiệu quả - Đề án tín dụng Việt _Bỉ, quỹ
tình thương. Đi đến xã nào cũng có những tâm gương phụ nữ làm kinh tế giỏi.
Phụ nữ biết làm kinh tế, làm kinh tế giỏi là điều kiện cần để xây dựng gai đình
no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Phần nhiều phụ nữ còn thiếu kiến thức
xã hội, gia đình, kỹ năng sống. Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ X
đã đề cập vấn đề “ Kỹ năng sông cho phụ nữ và trẻ em gái” tôi thấy rất kịp
thời. Nhiệm vụ này rất quan trọng, nội dung phong phú, thiết thực.
-Những hạn chế về sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên trong việc
lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh là chưa có văn bản riêng lãnh đạo Hội
LHPN tỉnh, mà chỉ có văn bản triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo của
Trung ương Đảng, chính phủ.
Hưng Yên, ngày 6 tháng 8 năm 2017
Nguyễn Thị Thảnh
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH HƯNG YÊN ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHỤ NỮ VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH GIAI ĐOẠN (2010-2015)
Hoàng Thị Minh Nga
Nguyên Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Hưng Yên
giai đoạn (2010-2015)
Trong quá trình lãnh đạo Hội LHPN tỉnh Hưng Yên giai đoạn (2010-
2015), tôi có một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, Về những văn bản của Trung ương lãnh đạo công tác phụ nữ.
- Quyết định 290-QĐ/TW ngày 25/02/2010 của Bộ Chính trị (khóa X),
Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, trong đó
quy định trách nhiệm lãnh đạo của Đảng, các cơ qun, tổ chức Đảng - Điều 7;
trách nhiệm của chính quyền các cấp (điều 16) đối với Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân trong đó có Hội LHPN.
- Kết luận số 80 - KL/TW ngày 29/7/2010 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chỉ thị 07-CT/TW ngày 23/11/1996 của Bộ Chính trị (khóa
VIII) về “ Tăng cường công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong
các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần tư nhân”
- Kết luận số 153-KL/BDVTW ngày 11/4/2012 của Ban Dân vận Trung
Ương v/v Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị
(khóa X) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
- Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 22/12/2010 về lãnh đạo Đại hội đại biểu
phụ nữ các cấp.
- Kết luận số 55-KL/TW ngày 18/01/2013 của ban Bí thư về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về công
tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành
“ Quy chế giám sát phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam & các
đoàn thể chính trị - xã hội”
- Quy định số 218 - QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị, ban hành
Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và
nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
- Thông báo số 196- TB/TW ngày 16/3/2015 vế kết luận của Ban bí thư
về Đề án “ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới&
vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới”.
- Quyết định 228- QĐ/TW ngày 01/01/2015 của Ban Bí thư quy định về
chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế của các cơ quan chuyên trách
tham mưu, giúp việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội
cấp tỉnh, cấp huyện.
- Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 9/9/2015 của Ban Bí thư về lãnh đạo Đại hội
đại biểu phụ nữ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XII.
Thứ hai, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo công tác phụ nữ & hoạt động
của Hội LHPN tỉnh.
Căn cứ các văn bản của Trung ương và tham mưu của hội LHPN tỉnh;
căn cứ tình hình kinh tế - xã hội và công tác Hội, phong trào phụ nữ tỉnh Hưng
Yên. Ban Thường vụ tỉnh ủy đã ban hành các văn bản lãnh đạo công tác phụ nữ
& hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
-Quyết định số 1115-QĐ/TU của Ban Thường vụ tỉnh ủy về ban hành
quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị tỉnh Hưng Yên.
- Chỉ thị số 06-CT/TU ngày 25 tháng 02 năm 2011 của Ban Thường vụ tỉnh
ủy V/v lãnh đạo, tổ chức Đại hội đại biểu phụ nữ các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015.
- Kế hoạch tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của
Bộ Chính trị (khóa X) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước của Ban Thường vụ tỉnh ủy.
- Đề án về tăng cường xây dựng Đảng và đoàn thể trong doanh nghiệp
(thực hiện Kết luận số 80 ngày 29/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương)
- Kế hoạch số 88 KH/TU ngày 21/4/2014 của Ban Thường vụ tỉnh ủy về
tổ chức, quán triệt, triển khai, thực hiện quyết định số 217, số 218 ngày
12/12/2013 của Bộ Chính trị.
- Thông báo ý kiến số 1043 ngày 24/01/2013 của Ban Thường vụ tỉnh ủy
về “Thực hiện đề án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ Hội LHPN
cơ sở giai đoạn 2013-2017”
- Ủy ban nhân tỉnh ban hành kế hoạch thực hiện đề án kiểm tra thực hiện
Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ (năm 2008, 2012, 2014).
Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận 55 của Ban Thường vụ.
- Chỉ thị số 01 ngày 11/12/2015 của Ban Thường vụ tỉnh ủy về lãnh đạo
Đại hội phụ nữ các cấp tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2016- 2021.
- Thông báo của Ban Thường vụ tỉnh ủy phê duyệt Đề án kiện toàn tổ
chức bộ máy cán bộ của cơ quan Hội phụ nữ tỉnh.
Ủy ban nhân tỉnh ra quy chế phối hợp giữa UBND tỉnh & Hội LHPN tỉnh.
Thứ ba, Những hoạt động của Hội LHPN tỉnh HƯng Yên giai đoạn
(2010-2015) mà tôi tâm đắc nhất:
Một là, Hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ phụ nữ nâng cao trình độ nhận thức.
- Công tác tuyên truyền giáo dục, hỗ trợ phụ nữ nâng cao trình đọ, nhận
thức luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của tỉnh, địa phương, hướng vào những vấn
đề phụ nữ quan tâm như truyền thống lịch sử, kiến thức pháp luật, nhất là những
vấn đề liên quan đến phụ nữ trẻ em, đất đai, hôn nhân gia đình, kiến thức về gia
đình (nuôi dạy con, chăm sóc sức khỏe, phòng chống tệ nạn xã hội); những
phẩm chất đạo đức người phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
- Hình thức tuyên truyền giáo dục ngày càng đổi mới, đa dạng (tuyên
truyền miệng, sân khấu hóa, hội thi hội diễn, sáng tác, tọa đàm, sinh hoạt câu
lạc bộ) thu hút sự tham gia của các đối tượng phụ nữ, khi triển khi đề an 343
“Tuyên truyền giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ”
- Giúp phụ nữ thêm tự tin, năng động, khẳng định vai trò, vị thế của
mình trước xã hội, trong gia đình, biết xử lý tình huống một cách chủ động.
Hai là, Hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, gia đình hạnh phúc.
- Giúp phụ nữ thêm kiến thức về phát triển kinh tế gia đình, nâng cao thu
nhập để có điều kiện cải thiện, nâng cao chất lượng của các thành viên trong
gia đình; chăm lo việc học hành của con cái; thiết thực tham gia chương trình
kinh tế - xã hội của địa phương.
- Giúp phụ nữ nghèo, thoát nghèo, tham gia xây dựng nông thôn mới, đô
thị văn minh.
- Hỗ trợ phụ nữ kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc sống gia đình, chăm sóc
sức khỏe sinh sản, phòng chống tệ nạn xã hội.
(Các hoạt động trên được thực hiện: hàng năm các cấp Hội phối hợp các
ngành chuyên môn (Khoa học công nghệ, Nông nghiệp phát triển nông thôn),
tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao khoa học công nghệ thông qua đề án “
Chuyển giao khoa học công nghệ cho phụ nữ” và các chương trình phối hợp
giữa Hội phụ nữ, sở Khoa học công nghệ, sở Nông nghiệp
-Phát động các đợt thi đua “Hướng về phụ nữ và trẻ em nghèo”; làm theo
bác thực hành tiết kiệm, giúp nhau giảm nghèo bền vững (Phụ nữ toàn tỉnh góp
được gần 3 tỷ đồng, hỗ trợ xây mới, sửa chữa 87 gian nhà “mái ấm tình
thương”; tăng 110 con bê sinh sản cho phụ nữ hoàn cảnh khó khăn, 130 suất
học bổng cho trẻ em nghèo vượt khó; bảo hộ hàng tháng từ 50.000đ - 2000.000
một tháng cho 254 phụ nữ và trẻ em nghèo)
- Thực hiện đề án “giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt”, tổ chức 33
lớp tập huấn cho 2592 báo cáo viên, tuyên truyền viên của Hội để tuyên truyền,
hướng dẫn hội viên phụ nữ, cung cấp tờ rơi, đĩa CD kiến thức nuôi dạy con,
giáo dục trẻ vị thành viên (trên 20 ngàn ông bố,57 ngàn bà mẹ con dưới 16
tuổi, gần 40 ngàn trẻ vị thành niên)
- Thực hiện đề án “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc” cuộc
vận động xây dựng gia đình “5 không 3 sạch”; tổ chức các lớp tập huấn chuyên
đề, các cuộc tọa đàm, hội thi “ngày hội gia đình hạnh phúc”
- Khai thác các nguồn vốn cho hội viên vay đẻ phát triển kinh tế (Tổng
dư nợ các cấp Hội tham gia quản lý 1546 tỷ đồng; trên 50.000 hộ vay; vận
động phụ nữ giúp nhau vốn, giống, cây con, ngày công lao động, phương tiện
sản xuất giá trị 100 tỷ động, giúp hơn 12 ngàn hộ phụ nữ thoát nghèo)
- Hỗ trợ phụ nữ sản xuất, kinh doanh, khởi nghiệp (các hoạt động quảng
bá, giới thiệu sản phẩm, gặp mặt nữ chủ doanh nghiệp, thành lập Câu lạc bộ nữ
chủ doanh nghiệp ở các địa phương)
- Xây dựng 98 mô hình tọa việc làm cho phụ nữ sau đào tạo nghề (Hội
LHPN tỉnh & các huyện thành phố), 4 mô hình kinh doanh tập thể (1 hợp tác, 3
tổ hợp tác).
- Ba là, Hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội LHPN cơ sở.
Đội ngũ cán bộ Hội LHPN cơ sở (xã, phường, thị trấn, chi, tổ, Hội), là
những người trực tiếp triển khai, để tổ chức thực hiện các nghị quyết, chương
trình, kế hoạch hoạt động của hội cấp trên; là nhân tố quyết định chất lượng tổ
chức cơ sở Hội, hiệu quả các hoạt động Hội.
(Được thực hiện qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hàng năm do Hội
LHPN tỉnh, huyện, thành phố tổ chức các lớp bồi dưỡng do Hội LPHN tỉnh
phối hợp với trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tổ chức hàng năm)
Thực hiện đề án “Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ Hội
viên cơ sở”
Cử cán bộ Hội tỉnh, huyện trực tiếp hướng dẫn cán bộ cơ sở theo phương
thức “cầm tay chỉ việc”, nội dung theo yêu cầu cần giúp; xây dựng mô hình
“chi hội phụ nữ tiêu biểu” (133 chi hội); giới thiệu, đề xuất với cấp ủy cử cán
bộ Hội đi học các lớp nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị..
Thứ tư, đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong quá trình công tác phụ
nữ & hoạt động của Hội LHPN tỉnh Hưng Yên giai đoạn (2010-2015) của
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên.
* Ưu điểm:
- Đã có sự quan tâm lãnh đạo công tác đoàn thể trong đó có Hội LHPN,
cụ thể:
+ Định kỳ 6 tháng yêu cầu Hội LHPN tỉnh đăng ký nội dung cần báo
cáo, xin ý kiến lãnh đạo của Thường trực, Ban Thường vụ tỉnh ủy để bố trí
nghe và có ý kiến lãnh đạo bằng văn bản gửi Đảng bộ các huyện, thành phố,
đảnh bộ khối Doanh nghiệp để tổ chức thực hiện.
+ Các chủ trương, văn bản chỉ đạo của Trung ương về công tác phụ nữ &
hoạt động của Hội LHPN đã được Ban Thường vụ tỉnh ủy cụ thể hóa bằng các
chỉ thị, chương trình hành động, các kế hoạch triển khai, tổ chức thực hiện và
chỉ đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh phối hợp với Hội LHPN tỉnh
triển khai thực hiện, tạo điều kiện để Hội LHPN tỉnh hoạt động, ban hành văn
bản quy định rõ kinh phí tổ chức đại hội phụ nữ các cấp, kinh phí đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cơ sở (phó chủ tịch Hội LHPN xã, phường, thị trấn, chi hội
trưởng phụ nữ), và các mức kinh phí cho hoạt động của các đoàn thể thôn
+ Giao cho Ban Dân vận Tỉnh ủy giúp Ban Thường vụ tỉnh ủy theo dõi
nắm tình hình thực tế các chỉ thị, nghị quyết của Đảng liên quan đến công tác
phụ nữ và tình hình hoạt động của Hội LHPN tỉnh để đánh giá trong các kỳ họp
giao ban giữa Thường trực tỉnh ủy với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể (6
tháng/kỳ) để Ban Thường vụ cho ý kiến lãnh đạo.
+ Đã từng bước quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ
nữ vào các chức danh lãnh đạo đảng, chính quyền. Mặc dù tỷ lệ nữ tham gia
cấp ủy nhiệm kỳ 2010-2015 chưa đạt so với yêu cầu của Nghị quyết 17 (cấp
Trung ương và hầu hết các tỉnh, thành phố chưa đạt), song cũng đã tăng so với
nhiệm kỳ 2005-2010.
Nữ cấp ủy: Cấp tỉnh: 7/55=12,7% tăng 0,5%;
Cấp huyện, Tp: 7/444=16% tăng 0,6%
Cấp cơ sở: 793/4450=17,8% tăng 17,8%
Nữ đại biể quốc hôi khóa XIII: 3/7=42,86 tăng 14,26%
Nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp:
Cấp tỉnh: 12/53=22,64% giảm 2,36%
Cấp huyện, Tp: 99/332=29,82& tăng 2,92%
Cấp cơ sở: 1072/4112=26,07% tăng 0,52%
Có 3/10 huyện, tp chủ tịch UBND huyện là nữ Cấp tỉnh trong nhiệm kỳ
luân chuyển công tác đối với 2 đ/c nữ ủy viên và BCH Đảng bộ tỉnh, sau luân
chuyển nay 2 đ/c là ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
+ Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức các hội nghị triển khai, quán triệt
tổ chức sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác phụ nữ, về
công tác dân vận trong đó có nội dung liên quan đến công tác phụ nữ, hoạt
động của Hội LHPN.
+ Tỉnh ủy đã tiến hành một số cuộc kiểm tra cấp ủy, địa phương, sở,
ngành trong thực hiện Nghị quyết số 11 của bộ Chính trị về công tác phụ nữ, và
một số chỉ thị, nghị quyết khác.
+ Hội đồng nhân dân tỉnh đã có nhiều cuộc giám sát việc thực hiện chính
sách liên quan đến lao động nữ, kinh phí hoạt động của các đoàn thể cơ sở
trong đó có hội HLPN tỉnh, cán bộ Hội.
+ Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Ban Vì sự tiến bộ cảu phụ nữ ban hành
Chương trình hành động Vì sự tiến bộ của phụ nữ hưng Yên.
* Hạn chế:
- Công tác kiểm tra đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết số 11 của Bộ
chính trị chưa thường xuyên, nên ở một số địa phương, cơ sở, ngành, hàng năm
chưa cụ thể hóa (thể chế hóa chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy về công tác phụ nữ
thành mục tiêu nhiệm vụ để thực hiện).
- Chưa chú trọng công tác luân chuyển lãnh đạo nữ từ khối Đảng, đoàn
thể sang khối chính quyền, và ngược lại.
- Công tác phát triển đảng viên nữ ở nông thôn và khu vực doanh nghiệp
còn hạn chế.
Hưng Yên, ngày 8 tháng 5 năm 2018
Hoàng Thị Minh Nga
Phục lục 6
CÁC PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ
CỦA NHÀ NƯỚC KHEN THƯỞNG HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TỈNH HƯNG YÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2015
TT Danh hiệu Năm khen
1 Huân chương độc lập hạng Ba 2006
2 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ 2011
3 Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ 2014
Nguồn: [119]
Phục lục 7
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TỈNH HƯNG YÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2015
Nguồn: [185]
Nguồn: [186]
Nguồn: [187]
Nguồn: [188]