HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ KIM NINH
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2014
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ KIM NINH
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2014
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢN
214 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
G CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN DANH TIÊN
2. TS. HỒ XUÂN QUANG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Trần Thị Kim Ninh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7
1.1. Những công trình liên quan đến đề tài luận án 7
1.2. Những vấn đề các công trình khoa học đã đề cập và những vấn đề đặt
ra luận án cần tập trung giải quyết 23
Chương 2: CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI
SẢN VĂN HÓA CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ
NĂM 1998 ĐẾN 2005 26
2.1. Những yếu tố tác động đến công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa 26
2.2. Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa những năm 1998 - 2005 54
Chương 3: QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN
VĂN HÓA TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014 79
3.1. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa 79
3.2. Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa 89
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 117
4.1. Nhận xét 117
4.2. Một số hạn chế 134
4.3. Một số kinh nghiệm 140
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 171
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DSVH : Di sản văn hóa
UBND : Ủy ban Nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Số lượt khách đến tham quan các bảo tàng 74
Bảng 2.2: Số cuộc trưng bày triển lãm 74
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, gắn kết cộng đồng dân tộc. Di sản văn hóa (DSVH) là minh chứng về lịch
sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, giúp cho thế hệ sau hiểu sâu sắc
cội nguồn của dân tộc và truyền thống lịch sử, đặc trưng văn hóa của đất nước,
góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Vì vậy, việc giữ
gìn, bảo tồn DSVH là trách nhiệm của cộng đồng, thể hiện lòng tri ân tiền nhân,
đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Đây cũng là nguồn lực vô cùng quý báu, góp
phần xây dựng và phát triển đất nước.
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH đã có truyền thống lâu đời
và nhận được sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nước. Ngay sau Cách mạng
Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ba tháng sau (ngày 23/11/1945),
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL, ấn định nhiệm vụ cho Đông
phương Bác cổ học viện nhiệm vụ bảo tồn tất cả các cổ tích trong toàn cõi Việt
Nam. Sắc lệnh nêu rõ: “Việc bảo tồn cổ tịch là việc rất cần thiết trong công cuộc
kiến thiết nước Việt Nam” [174].
Trong giai đoạn hiện nay, nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của
việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, Đảng, Nhà nước và nhân dân
hết sức quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH dân tộc, coi
đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm không chỉ của ngành văn hóa mà
còn là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Di sản văn hóa dân tộc được Đảng xác định là “tài sản vô giá, gắn kết cộng
đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới
và giao lưu văn hóa” [44, tr.63]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm
2006), Đảng tiếp tục nhấn mạnh vấn đề bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH dân
tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa:
2
Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng,
kháng chiến, các DSVH vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị
văn hóa nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các
dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hóa, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài
hóa việc bảo vệ, phát huy các giá trị DSVH với các hoạt động phát
triển kinh tế du lịch [46, tr.91].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng khẳng định: Phát triển
sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các DSVH truyền thống,
cách mạng. Tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân
thật, sâu sắc lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái
đúng, cái đẹp, đồng thời, lên án cái xấu, cái ác. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm
túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy các giá trị
DSVH vật thể và phi vật thể của dân tộc.
Giống như các địa phương khác trên cả nước, tại Thành phố Hồ Chí Minh,
vấn đề nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH cũng được Thành ủy,
Ủy ban Nhân dân (UBND) Thành phố quan tâm chỉ đạo thực hiện.
Là một thành phố trẻ, năng động mới qua 300 tuổi, nhưng thực tế tuổi
đời của vùng đất Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh lên đến 3000 năm.
Biết bao giá trị DSVH đã được kết tinh và thăng hoa từ hàng nghìn năm
đến hàng trăm năm trước còn ẩn chứa trong lòng và hiện diện trên
mảnh đất Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh [67, tr.6].
Trong quá trình hình thành và phát triển, bên cạnh việc lưu giữ những giá
trị văn hóa cội nguồn, Thành phố đã sớm tiếp nhận và thích ứng nhanh với văn
hóa của mọi miền đất nước để hình thành nên những nét văn hóa đặc thù của
người Việt ở mảnh đất phương Nam. Hiện nay, cùng với tốc độ đô thị hóa và xu
thế giao lưu hội nhập quốc tế, trên lĩnh vực văn hóa nhiều vấn đề đặt ra cho
Thành phố những câu hỏi lớn: Làm thế nào để “xây dựng nền văn hóa tiên tiến
song vẫn giữ được bản sắc dân tộc? Làm thế nào để tiếp thu có chọn lọc tinh hoa
3
văn hóa nhân loại trước xu thế toàn cầu hóa?... Làm thế nào để giữ gìn, bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH của dân tộc?... Đó chính là định hướng, đồng thời cũng
là trách nhiệm của các ngành, các cấp và toàn xã hội.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của DSVH đối với sự phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong thời kỳ đổi mới, Đảng bộ Thành phố
lãnh đạo các cấp, các ngành bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, công tác bảo tồn, phát huy các
giá trị DSVH còn nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy, tổng kết công tác lãnh đạo,
khái quát những thành tựu, chỉ ra hạn chế và bước đầu đúc kết một số kinh
nghiệm trong quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn.
Vì vậy, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá từ năm
1998 đến năm 2014" làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố. Bước đầu đúc kết một
số kinh nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng bộ Thành phố lãnh đạo công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu quá trình hoạch định chủ trương và thực tiễn chỉ đạo
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 1998 đến năm 2014.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
4
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH gồm nhiều nội dung, luận
án chỉ tập trung nghiên cứu: công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di tích lịch sử
(DTLS) văn hóa, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH vật thể và phi vật
thể, công tác bảo tồn, bảo tàng.
- Về thời gian: Từ năm 1998 đến năm 2014. Năm 1998, Hội nghị lần thứ
năm (khóa VIII) Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Năm 2014,
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ra Nghị quyết
Về xây dựng văn hóa và phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước. Đây cũng là giai đoạn thực hiện Chương trình hành động
số 19 của Đảng bộ Thành phố về bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
- Về không gian: Nghiên cứu công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nhiệm vụ của luận án
- Phân tích các yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hồ
Chí Minh trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH của Thành phố.
- Hệ thống hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
và chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH.
- Phân tích, làm rõ chủ trương và quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh chỉ đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến
năm 2014.
- Nêu ra những nhận xét về những thành tựu, hạn chế; bước đầu đúc kết
một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cở sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở thế giới quan duy vật và phương pháp
luận biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
5
điểm của Đảng về văn hóa nói chung và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và lôgic nhằm dựng lại bức
tranh chân thực về quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
Bên cạnh đó là các phương pháp: phương pháp phân tích, tổng hợp các số
liệu, tài liệu, kết quả điều tra xã hội học để làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố
Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn
thành phố từ năm 1998 đến năm 2014. Trên cơ sở đó, khái quát hóa, tổng hợp hóa
nhằm đưa ra các nhận định khách quan, khoa học về những thành tựu, hạn chế và
tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn.
Phương pháp thống kê: thống kê, phân tích số liệu từ các Báo cáo của các
cơ quan chức năng (UBND Thành phố, Sở Văn hóa - Thể thao Thành phố Hồ Chí
Minh, Sở Du lịch, Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh...).
Ngoài ra, luận án kết hợp sử dụng phương pháp điền dã để nghiên cứu và
trình bày luận án.
5.3. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu được sử dụng gồm các văn kiện của Đảng, Nhà nước, Chính
phủ, các ban, bộ, ngành Trung ương; văn kiện của Đảng bộ, chính quyền Thành
phố về văn hóa và công tác bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH; các báo cáo của
Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Sở Văn hóa - Thể thao và Sở Du lịch), Viện
Nghiên cứu phát triển Thành phố và các công trình nghiên cứu khoa học liên quan
đến đề tài luận án.
6. Đóng góp mới của luận án
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
- Làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH (1998 - 2014); từ đó, rút ra những nhận xét, kinh
6
nghiệm qua thực tiễn lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH của
Đảng bộ Thành phố.
- Góp phần nghiên cứu lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh trên lĩnh
vực văn hóa, đặc biệt là công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp luận cứ, phục vụ công tác
tham mưu của các đơn vị chức năng trong việc đề xuất chủ trương, chính sách,
xây dựng kế hoạch, chương trình đối với công tác bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn tiếp theo, nhằm giải
quyết hài hòa các mối quan hệ: bảo tồn và phát triển; phát triển kinh tế gắn với
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, tạo động lực cho sự phát triển bền vững
của Thành phố.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy lịch sử địa phương.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã
công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu chung về văn hóa, di sản văn hóa
Ở góc độ lý luận chung về văn hóa, các tác giả nước ngoài có một số
công trình khảo luận về văn hóa như: Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin do
Acnônđốp A.I [2].
Ở phương Tây, có công trình tiêu biểu như: Thập kỷ thế giới phát triển văn
hóa của Ủy ban quốc gia về Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa
Thông tin và Thể thao ấn hành [195]; Sự va chạm của các nền văn minh của
Samuel Huntingtong [124]; Cuốn sách Nghiên cứu văn hóa - Lý thuyết và thực
hành của Chris Barker [25].
Tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam của Trường Chinh [23].
Cuốn sách đề cập đến lập trường văn hóa mác xít; về ưu, nhược điểm của nền văn
hóa Việt Nam; về mối quan hệ giữa văn hóa và xã hội; đồng thời, làm sáng tỏ nội
dung của Đề cương về văn hóa Việt Nam và khẳng định vai trò to lớn của văn hóa
trong quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước.
50 năm bảo tồn di sản văn hoá dân tộc, Kỷ yếu hội thảo khoa học thực tiễn
kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bảo tồn di sản văn hóa
dân tộc (23/11/1945 - 23/11/1995) của Lưu Trần Tiêu và các cộng sự [176]. Cuốn
sách là tập hợp những tham luận, báo cáo trình bày trong Hội thảo khoa học thực
tiễn nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh bảo tồn
DSVH dân tộc (23/11/1945 - 23/11/1995).
Phạm Minh Hạc, Phát triển văn hóa giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc
kết hợp với tinh hoa nhân loại [65]. Cuốn sách đã nêu ra một số khái niệm cơ bản
về văn hóa, văn minh; đánh giá vai trò của văn hóa, văn minh và tác phong công
nghiệp; khẳng định vai trò của văn hóa trong việc giáo dục con người Việt Nam;
8
đồng thời, nêu rõ sự cần thiết phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và
vai trò của văn hóa trong cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình".
Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc của Hoàng
Vinh [200]. Trên cơ sở những quan niệm DSVH của quốc tế và Việt Nam, tác giả
đã đưa ra một hệ thống lý luận về DSVH, đồng thời bước đầu vận dụng vào việc
nghiên cứu DSVH ở nước ta.
Những quy định pháp luật về bảo vệ di sản văn hóa do Nguyễn Thanh Bình
[18]. Cuốn sách gồm các văn bản quy định chung về lễ nghi, lễ hội, hội diễn nghệ
thuật, xây dựng nếp sống mới. Quy định về nghệ thuật dân gian, điện ảnh dân tộc,
quy định về hương ước, quy ước, làng bản, thôn, ấp, bảo vệ văn hóa các dân tộc
thiểu số. Quy định về bản quyền tác giả.
Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc của Phạm Mai Hùng [81].
Cuốn sách phân tích vai trò của hệ thống các bảo tàng Việt Nam trong việc bảo
tồn DSVH dân tộc; công tác bảo tồn các DSVH dân tộc; công tác bảo tồn của di
tích lịch sử - văn hóa cũng như các tác phẩm và hiện vật lịch sử Việt Nam; đề
xuất một số giải pháp xã hội hóa các hoạt động bảo tồn bảo tàng.
Luật tục với việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống một số
dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam của Hoàng Lương [97]. Tác giả phân tích khái niệm
chung về luật tục; vai trò của luật tục với việc bảo tồn các quan hệ xã hội và phát
huy các giá trị văn hóa, văn hóa tinh thần, bảo đảm đời sống tinh thần của một số
dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam.
Một con đường tiếp cận di sản văn hóa của Lưu Trần Tiêu, Nguyễn Quốc
Hùng và Nguyễn Hữu Toàn [178]. Cuốn sách tập hợp các bài nghiên cứu, bài viết
của các cán bộ chuyên môn trong Cục DSVH, Bộ Văn hóa - Thông tin, bàn về vấn
đề bảo vệ và phát huy các giá trị DSVH Việt Nam; xác lập cơ sở khoa học, phổ
biến các quan điểm chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thực tiễn của ngành và vấn đề
xây dựng cơ sở lý luận cho ngành khoa học mới - ngành bảo tàng học.
Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của Cục Di sản văn hóa [29]. Cuốn sách
giới thiệu một số văn bản pháp quy về bảo vệ DSVH phi vật thể. Bên cạnh đó là
9
những vấn đề lý luận về bảo vệ DSVH phi vật thể và những kinh nghiệm của
Việt Nam và quốc tế trong bảo vệ DSVH phi vật thể.
Di sản văn hóa các dân tộc Việt Nam - Những hiện vật truyền thống và
đương đại của Cục Di sản văn hóa [30]. Cuốn sách giới thiệu tập sách ảnh về
DSVH các dân tộc Việt Nam, những hiện vật truyền thống và đương đại.
Năm 2007, với tư cách một nhà nghiên cứu lâu năm về DSVH, Nguyễn Chí
Bền viết bài nghiên cứu Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta hiện nay
[14]. Bài báo đi sâu về nghiên cứu, phân tích cách thức bảo tồn văn hóa phi vật thể
giai đoạn hiện nay.
Ngô Phương Thảo với bài viết Bảo vệ di sản, cuộc chiến từ những góc nhìn
[165]. Bài viết đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ DSVH hiện nay. Tác giả cho rằng:
Mỗi ngày, di sản văn hóa càng đối mặt với nhiều nguy cơ, xuất phát từ
những hệ lụy của cuộc sống hiện đại. Cũng mỗi ngày, ý thức về trách
nhiệm phải gìn giữ các giá trị văn hóa đã tồn tại với thời gian càng lan
tỏa sâu rộng trong toàn xã hội, trong mỗi cộng đồng để dẫn tới những
chương trình dự án ngày càng có hiệu quả hơn trong việc gìn giữ các
giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể [165].
Di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng Việt Nam của Dương Văn Sáu
[125]. Giáo trình đề cập đến những vấn đề chung về DSVH, hệ thống di tích lịch
sử - văn hóa Việt Nam; những đặc điểm chung liên quan, ảnh hưởng đến hệ thống
di tích lịch sử - văn hóa Việt Nam trong hoạt động du lịch; những loại hình di tích
khảo cổ, loại hình di tích lịch sử, loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật, loại hình
danh lam thắng cảnh...
Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển của Nguyễn Đình Thanh [151]. Cuốn
sách tập hợp những bài nghiên cứu giới thiệu về hoạt động bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa ở Việt Nam; mối quan hệ giữa DSVH và du lịch; một số kinh nghiệm
bảo tồn DSVH của một số quốc gia trên thế giới.
Công trình khoa học: Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập do Ngô Đức Thịnh [169]. Cuốn
10
sách đã phân tích những giá trị tiêu biểu mang đặc sắc riêng có của văn hóa truyền
thống Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị tiêu
biểu của văn hóa truyền thống Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) đổi mới và hội nhập quốc tế.
Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch (dành cho sinh viên
đại học và cao đẳng các trường văn hóa - nghệ thuật) của Lê Hồng Lý [99]. Giáo
trình cung cấp những kiến thức cơ bản về một số vấn đề liên quan đến văn hóa,
DSVH, du lịch, du lịch văn hóa và những sản phẩm du lịch văn hóa. Nội dung,
nguyên tắc, quy trình tổ chức quản lý các DSVH nhằm đẩy mạnh phát triển du lịch.
Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển, chuyên đề kiến trúc của Nguyễn Đình
Thanh [152]. Cuốn sách tập hợp các bài nghiên cứu về di sản kiến trúc, hoạt động
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các di sản này. Tiếp cận một số kinh
nghiệm bảo tồn di sản kiến trúc của một số quốc gia trên thế giới.
Quản lý di sản văn hóa, Giáo trình dùng cho sinh viên cao đẳng và đại học
ngành quản lý văn hóa của Nguyễn Kim Loan [93]. Giáo trình trình bày một số
vấn đề liên quan đến lý luận DSVH; vai trò của DSVH trong phát triển xã hội;
giới thiệu một cách hệ thống về quản lý nhà nước về DSVH, các kỹ năng nghiệp
vụ quản lý DSVH, kỹ năng khai thác các giá trị của DSVH dân tộc...
Di sản văn hóa Việt Nam - bản sắc và những vấn đề về quản lý, bảo tồn của
Nguyễn Thịnh [170]. Cuốn sách trình bày đối tượng, nội dung, nhiệm vụ, phương
pháp nghiên cứu DSVH và các khái niệm về bảo tồn phát huy giá trị, chức năng,
phân loại, quản lí, tư liệu hóa... DSVH.
Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt
Nam của Phạm Duy Đức [55]. Giáo trình phân tích khái niệm về văn hóa học,
những vấn đề về nhận thức quan điểm, đường lối văn hóa của Đảng và lý giải
những vấn đề thực tiễn đang nảy sinh trong đời sống văn hóa dân tộc.
Công trình Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh [3]. Trên cơ sở
quan điểm: “Ta muốn trở nên một nước cường thịnh, vừa về vật chất, vừa về tinh
thần thì phải giữ văn hóa cũ (di sản) làm thể (gốc, nền tảng), mà lấy văn hóa mới
làm dụng nghĩa là phải khéo điều hòa tinh tuý của văn hóa phương Đông với
11
những điều sở trường về khoa học và kỹ thuật của văn hóa phương Tây”, tác phẩm
này là một trong những công trình quan trọng nhất của học giả Đào Duy Anh.
Với quan niệm “văn hóa là sinh hoạt”, tác giả đã bao quát các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, xã hội và trí thức; do đó, tác giả đã tóm tắt, phác họa và minh
định được ở chừng mực nào đó lược sử văn hóa của người Việt như một dân
tộc, một văn hóa. Hơn thế, ông còn chỉ ra cả những biến đổi của văn hóa Việt
Nam giai đoạn Âu hóa, với sự rạn vỡ hoặc biến đổi của những giá trị cũ và sự
lên ngôi của những giá trị mới. Tác phẩm được Nhà xuất bản Thế giới tái bản
năm 2014.
Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam của Trương Quốc Bình
[17]. Cuốn sách tuyển tập và giới thiệu các bài viết của tác giả về bảo vệ và phát
huy các giá trị DSVH Việt Nam: bảo vệ và phát huy giá trị các DSVH vật thể và
phi vật thể; những kiến giải về vai trò của các bộ sưu tập hiện vật trong quá trình
chuẩn bị xây dựng và tổ chức hoạt động của các bảo tàng ở Việt Nam; sắc thái văn
hóa của các địa phương trong phát triển và du lịch cùng những kỷ niệm về những
con người và địa danh mà tác giả đã từng tiếp xúc và đi qua.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam của Nguyễn Kim Loan [94].
Cuốn sách đã làm rõ những nội dung: (1) Khái quát những vấn đề lý luận về
DSVH, như khái niệm, đặc trưng, tiêu chí phân loại DSVH; phân tích, đánh giá
vai trò của DSVH trong sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay; (2) Khảo sát và mô
tả khái quát, đánh giá hệ thống DSVH dân tộc Việt Nam để thấy rõ những giá trị
nổi bật của nó; (3) Phân tích những quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về DSVH; (4) Mô tả những kỹ năng nghiệp vụ cụ thể trong quản
lý, bảo tồn và phát huy các giá trị của DSVH.
Phát triển văn hóa - sức mạnh nội sinh của dân tộc trong điều kiện kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế do Phùng Hữu Phú [118]. Đây là công trình nghiên
cứu của tập thể các nhà khoa học, đánh giá một cách khách quan, toàn diện những
cơ sở lịch sử, lý luận và thực tiễn để khẳng định vai trò của văn hóa là sức mạnh
nội sinh quan trọng của dân tộc trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước;
12
đánh giá và nhận thức lại thành tựu và những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình
xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, CNH,
HĐH (từ năm 1996 đến năm 2015); đề xuất hoàn thiện quan điểm chỉ đạo, mục
tiêu, nhiệm vụ, những giải pháp có tầm chiến lược và tính đột phá trong việc xây
dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.
Bước sang thế kỷ XXI, đặc biệt là từ khi Luật Di sản văn hóa được Quốc
Hội thông qua năm 2001 và Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế, một số DSVH
vật thể và phi vật thể của Việt Nam được UNESCO vinh danh. Theo đó, Cục Bảo
tồn, bảo tàng được đổi thành Cục Di sản văn hóa, nhiều công trình nghiên cứu
được đăng tải trên các tạp chí, như: Tạp chí Di sản văn hóa (Cục Di sản văn hóa),
Tạp chí Thế giới di sản (Hội Di sản văn hóa), Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa của
Viện Nghiên cứu Văn hóa (Bộ Văn hóa - Thông tin).
Những công trình nghiên cứu chung về văn hóa, DSVH đã đi sâu nghiên
cứu về lý luận văn hóa, DSVH, những đặc điểm của các loại hình di sản và vấn
đề quản lý di sản trong xu thế mới; nhấn mạnh đến tính thời đại và nhu cầu của
con người trong việc khai thác, bảo tồn và phát triển bền vững các DSVH. Mặt
khác, các công trình này cũng kết hợp việc nghiên cứu di sản cùng với các môn
khoa học khác, như: Lịch sử, Nghiên cứu văn hóa, Giải trí và Du lịch, Nghệ
thuật và Địa lý Tuy nhiên, các công trình khoa học trên chưa đi sâu nghiên
cứu về quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa trên phạm vi cả nước
Tìm hiểu di sản văn hoá dân gian Hà Nội của Trần Quốc Vượng, Nguyễn
Vinh Phúc và Lê Văn Lan [203]. Cuốn sách bao gồm tổng luận về các nghề thủ
công mỹ nghệ, làng nghề, phố nghề, dòng họ văn hiến, món ăn cổ truyền, lễ hội
dân gian, văn hóa dân gian kẻ chợ của Hà Nội.
35 năm gìn giữ và phát huy vốn di sản văn hóa các dân tộc Việt Nam của
Nông Quốc Chấn, Tô Văn Đeng và Nông Viết Toại [22]. Cuốn sách khái quát
13
những nét cơ bản về lịch sử ngành bảo tàng văn hóa dân tộc Việt Nam, đúc rút
một vài kinh nghiệm về công tác bảo tàng (sưu tầm, triển lãm, trưng bày, tuyên
truyền, giáo dục khoa học...).
Một số vấn đề di sản văn hóa của Hải Phòng của Nguyễn Ngọc Thao, Lê
Thế Loan và Ngô Đăng Lợi [164]. Cuốn sách đã đề cập đến một số di chỉ khảo cổ
học tiêu biểu cho quá trình lịch sử diễn ra ở Hải Phòng; Một số di sản: đình, đền,
chùa, miếu, nhà thờ... nơi có lưu giữ và thờ phụng những danh tướng, những nhà
văn hóa có công với đất nước.
Đô thị cổ Hội An của Phạm Quang Vinh, Trần Hùng và Nguyễn Luận
[202]. Cuốn sách giới thiệu về vị trí địa lý, lịch sử, dân cư, các công trình kiến
trúc, bản sắc văn hóa, các di sản quí giá của vùng phố cổ Hội An.
Tìm trong di sản văn hóa Việt Nam Thăng Long Hà Nội do Lưu Minh Trị
[180]. Cuốn sách đã giới thiệu các DSVH tiêu biểu của Thăng Long Hà Nội, như:
múa rối, cải lương, kiến trúc... và các DTLS, danh lam thắng cảnh của các tỉnh,
thành phố.
Vũ Ngọc Khánh với tác phẩm Văn hóa lễ hội truyền thống các dân tộc Việt
Nam [86]. Cuốn sách giúp người đọc nắm bắt một cách hệ thống, toàn diện những
nghi thức, nghi lễ và nội dung của các lễ hội, các hình thái tín ngưỡng dân gian
của các dân tộc Việt Nam. Qua đó, làm rõ vai trò quan trọng của lễ hội đối với đời
sống tinh thần của cộng đồng, từ đó biết trân trọng, kế thừa phát huy những cái
hay, nét đẹp của chúng, góp phần xây dựng nền văn hóa các dân tộc Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bước đầu tìm hiểu di sản Hán Nôm ở Bình Dương của Đỗ Khắc Điệp [53].
Cuốn sách trình bày lịch sử phát triển Hán - Nôm, hiện trạng, thể loại và đặc điểm
của văn tự Hán - Nôm, một di sản văn hóa ở Bình Dương; đồng thời khẳng định
giá trị của văn tự Hán - Nôm đối với đời sống văn hóa - xã hội xưa và nay.
Cuốn sách “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể Thăng Long -
Hà Nội” của Nguyễn Chí Bền, thuộc chương trình khoa học cấp Nhà nước
KX.09 “Nghiên cứu phát huy điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và giá trị lịch sử -
14
văn hoá, phục vụ phát triển toàn diện Thủ đô” [15], là cơ sở lý luận và thực tiễn
để các nhà khoa học có những khuyến nghị về giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy
giá trị những di sản văn hoá vật thể của Thăng Long - Hà Nội. Công trình đã làm
rõ cơ sở lý luận, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH. Bên cạnh đó, cuốn sách chỉ ra kinh nghiệm thực tiễn trong việc
bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa vật thể Thăng Long - Hà Nội, tiếp thu
những quan điểm mới về quản lý di sản của một số nước trên thế giới để vận dụng
vào công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa vật thể của Thăng
Long - Hà Nội.
Công trình đã đưa ra được giá trị của DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội
từ góc tiếp cận DSVH, bao gồm di sản vật thể và phi vật thể trong thời kỳ công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; đồng thời, chỉ ra những
nguy cơ, thách thức của việc bảo tồn DSVH trong bối cảnh đô thị hóa ở Thủ đô;
vai trò của chủ thể văn hóa trong công cuộc bảo tồn DSVH Thăng Long - Hà Nội.
Các tác giả đã đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị của các DSVH vật
thể tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc khuyến nghị
của UNESCO về bảo vệ DSVH và thiên nhiên; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
của các nước trên thế giới và vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng và Nhà nước
vào sự nghiệp bảo tồn DSVH vật thể tiêu biểu của Thăng Long- Hà Nội.
Bộ sách “Văn hiến Thăng long” của Vũ Khiêu [89] là công trình đồ sộ
nghiên cứu về văn hiến Thăng long - Hà Nội. Các tác giả cho rằng, đây là những
đặc trưng của văn hoá và con người Thăng Long - Hà Nội, là sự hội tụ, chắt lọc và
nâng cao tinh hoa trí tuệ và tâm hồn của cả nước, sự tiếp biến thành tựu tinh thần
của nhân loại qua giao lưu văn hóa.
Công trình cũng phân tích chỉ rõ, Văn hiến Thăng Long không chỉ là sản
phẩm riêng của những con người sinh sống trên mảnh đất này, mà còn là sự tiếp
nối truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha trải qua hàng nghìn năm lịch
sử, thể hiện từ lối tư duy đến cung cách sinh hoạt hàng ngày, từ sự nhạy bén tiếp
15
thu một cách chọn lọc tinh vi các tinh hoa văn hóa dân tộc; từ đó, những phẩm
chất con người Việt Nam yêu nước, tinh thần vị tha, khí phách kiên cường, bất
khuất đã kết tinh lại và nổi bật lên ở Thăng Long - Hà Nội, khiến Hà Nội trở thành
đỉnh cao của văn hiến dân tộc và từ đó tỏa sáng ra trong toàn quốc trong quá khứ,
hiện tại và tương lai.
Di sản văn hóa phi vật thể của người Thái của Nguyễn Hữu Thái [150].
Cuốn sách khái quát những nét cơ bản về người Thái, một số hình thức DSVH phi
vật thể trong vòng quay đời người, trong tín ngưỡng cổ truyền của người Thái.
Tiểu vùng văn hóa duyên hải Nam Trung bộ của Hà Nguyễn [111]. Cuốn
sách n... nguyên tắc: tiến hành điều
tra, sưu tầm, thu thập, ghi chép lại các dạng thức văn hóa, những kỹ năng, tri thức
do nghệ nhân sử dụng trong trình diễn các loại hình nghệ thuật hay chế tác sản
phẩm bằng việc ghi chép, ghi âm, ghi hình.
30
Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể cũng có nghĩa là bảo vệ người
kế thừa DSVH - những nghệ nhân dân gian. Để bảo vệ những báu vật nhân văn
sống, ngoài việc thừa nhận tài năng, nhà nước và cộng đồng cần tôn vinh, động
viên, khuyến khích kịp thời và tạo mọi điều kiện tốt nhất về vật chất và tinh thần
để họ có thể phát huy mọi khả năng trong việc bảo tồn các DSVH. Và quan trọng
hơn là để họ có ý thức trao truyền những giá trị kết tinh trong DSVH của dân tộc
cho thế hệ tương lai.
2.1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống lịch sử, văn
hóa Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.2.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên
Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở trung tâm của khu vực Nam Bộ, tiếp
giáp với nhiều vùng kinh tế - xã hội lớn của đất nước. Phía Tây Bắc giáp với
tỉnh Tây Ninh; phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình
Dương; phía Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; phía Tây và Tây Nam
giáp tỉnh Long An và Tiền Giang; phía Nam giáp biển Đông. Thành phố Hồ
Chí Minh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cận kề mật thiết với ba
vùng kinh tế - xã hội là Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ, đồng bằng
sông Cửu Long. Thành phố Hồ Chí Minh nằm trên đường giao lưu quốc tế từ
Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây; là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á lục
địa (bao gồm các nước Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar) và Đông Nam Á
hải đảo (Singgapo, Philippines, Indonesia, Malayssia, Brunei, Đông Timor); là
“cửa ngõ phía Nam của Tổ quốc” - một đầu mối giao thông quan trọng trong
vùng và toàn quốc. Nằm trên điểm hội tụ các trục giao thông đường thủy, nối
liền Đông và Tây Nam Bộ, lại là cảng biển gắn với Trung Bộ và xa hơn là Bắc
Bộ, các nước Bắc và Nam Á, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh nhờ địa thế đó
mà nhanh chóng mở rộng quy mô. Với đặc điểm này, vị trí địa lí của Thành
phố Hồ Chí Minh có tính chất mở chứ không khép kín, đã tác động rất lớn đến
quá trình phát triển kinh tế và văn hóa - xã hội của thành phố. Do đó, Thành
phố không chỉ là trung tâm kinh tế, đầu mối giao thương kinh tế, văn hóa, xã
hội với nhiều vùng, miền trong cả nước, mà còn là nơi giao lưu các nền văn hóa
của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tính phong phú, đa dạng và
31
tính chất mở của điều kiện địa lí là một trong những điều kiện góp phần để
Thành phố Hồ Chí Minh hình thành một nền văn hóa đa dạng, phong phú,
mang tính mở, linh hoạt và lan tỏa cao.
Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố có
diện tích tự nhiên lớn nhất cả nước, với tổng diện tích khoảng 2.095 km2, chiếm
0,76% diện tích cả nước. Nơi đây có sự đa dạng về tự nhiên, tạo điều kiện thuận
lợi để con người cư trú, sinh sống. Yếu tố này làm cho sự phát triển kinh tế và văn
hóa - xã hội diễn ra trên một không gian rộng, vừa đa dạng, vừa phức tạp
Với vị trí địa lí ở ngã ba sông, nơi giao lưu của nhiều luồng văn hóa khác
nhau, cũng là nơi hội tụ của dòng văn hóa truyền thống và hiện đại, Thành phố
Hồ Chí Minh đã hình thành bản sắc riêng của mình trong sự trưởng thành và
phát triển.
Là điểm giao thoa và hội tụ giữa các luồng văn hóa, Sài Gòn - Thành phố
Hồ Chí Minh còn là nơi sản sinh ra những lễ hội vừa mang nét đẹp của truyền
thống dân tộc, vừa mang đậm dấu ấn sự phát triển của một thành phố hiện đại như
Đường hoa, Đường sách... Những điều kiện tự nhiên thuận lợi đã tác động không
nhỏ đến đời sống sinh hoạt nhiều mặt, làm cho văn hóa của người dân nơi đây đa
dạng, phong phú. Đặc điểm về địa lí - tự nhiên đó đã tác động và tạo ra tính đa
dạng trong văn hóa cũng như tính đa dạng về nội dung, hình thức biểu đạt và sinh
hoạt tinh thần.
2.1.2.2. Đặc điểm dân cư
Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là nơi nhiều dân tộc cùng nhau định cư
xây dựng cuộc sống và giao lưu văn hóa. Trước khi khu vực Sài Gòn, Đồng Nai
bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư, thì người Khmer, người Chăm đã
sinh sống rải rác ở đây [26]. Trong Gia Định thành thông chí đã ghi nhận: Năm
1658, chúa Nguyễn sai tướng vào bình định Nặc Chân, “khi ấy địa cầu trấn Gia
Định là hai xứ Mô Xoài, Đồng Nai (đất trấn Biên Hòa ngày nay) đã có dân lưu tán
của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Miên, để khai khẩn ruộng đất” [56, tr.76].
Đồng hành trên con đường Nam tiến là những người dân vùng Trung Bộ, hành
trang mang theo là văn hóa biển miền Trung với tinh thần năng động, với những
con người "lên non xuống biển", cần cù, nhẫn nại, dám mạo hiểm, dám nghĩ, dám
32
làm... Đó là những tố chất tích cực giúp cộng đồng người Việt đủ sức đương đầu
với mọi khó khăn, hiểm nguy của vùng đất mới.
"Khoảng cuối thế kỷ XVI, đã xuất hiện những người Việt đầu tiên từ ven
biển tới khai phá vùng đất này" [107]. Từ khoảng đầu thế kỷ XVII, những cư dân
Việt đến định cư tại đây ngày một đông, dần hình thành những khu dân cư với
những làng xóm, ruộng vườn đông đúc. Những lưu dân Việt này vốn là sản phẩm
của nền văn minh lúa nước lâu đời, do đó, hành trang mà họ mang theo chính là
kinh nghiệm sản xuất lúa nước và nhiều ngành nghề thủ công, thương nghiệp, tổ
chức cuộc sống; ý chí và nghị lực phi thường; kĩ thuật chinh phục và khai thác các
vùng đất trũng. Đó cũng là điểm xuất phát, là lí do khiến cho sau một quá trình di
dân, thì vùng đất Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh được khai phá,
dần trở nên đông đúc, trù phú.
Trên nguyên tắc “người dân đi trước, nhà nước theo sau”, bộ phận cư dân
chủ yếu là người Việt đã đến vùng đất phủ Gia Định xưa để khai phá đất hoang,
dựng nhà, lập ruộngKhi công cuộc khai khẩn của lưu dân người Việt và một số
tộc người bản địa đã đi vào ổn định, năm 1698, chúa Nguyễn “sai Thống suất
Nguyễn Hữu Kính (Cảnh) kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ
Đồng Xoài làm huyện Phúc Long (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên (tức
Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm chủ),
dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định ngày nay) [122, tr.111]. Đánh dấu Sài Gòn -
Gia Định được hình thành với cương vị là một đơn vị hành chính thuộc quyền
quản lí của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ đó, Gia Định (nay là Thành phố Hồ
Chí Minh) chính thức thuộc về phần lãnh thổ và chịu sự quản lý hành chính của
Việt Nam và ngày càng phát triển thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội quan trọng của khu vực Nam Bộ.
Trong quá trình mở cõi về phương Nam, lưu dân người Việt đã tìm đến
vùng đất xa xôi, là Nam Bộ ngày nay, để khai phá, làm ăn. Hành trang họ mang
theo là tình cảm quê hương và những tín ngưỡng truyền thống của quê nhà.
"Những ngôi chùa đã dần mọc lên trên vùng đất mới, do chính những lưu dân khai
phá lập nên giống như những ngôi chùa làng trên quê hương cũ ở Trung Bộ và
33
Bắc Bộ, dành cho các bậc tu hành trụ trì để sớm chiều nguyện cầu sự bình an trên
vùng đất mới" [92, tr.36].
Để kết nối con người trong cộng đồng với nhau, cư dân người Việt đã lập
ra đình làng. Đây là nơi dân làng hội họp, vui chơi, tế lễ, tạo sự gắn bó cộng đồng
dân tộc. Tóm lại, họ lập đình, chùa, miếu, võ để thờ Phật, Thành hoàng và các vị
thần đã che chở, phù hộ trong cuộc mưu sinh ở vùng đất mới, “vừa lạ lẫm, xa vời,
lại vừa thu hút, vẫy gọi” [168, tr.305].
Có thể nói, tất cả hệ thống đình, chùa, lăng, miếu tọa lạc ở khắp nơi trên
vùng đất Nam Bộ đã phản ánh sự có mặt của người Việt tụ tập về đây sinh sống;
đồng thời, phản ánh tinh thần "uống nước nhớ nguồn" của lưu dân đi mở đất.
Cũng qua hệ thống đình, chùa, lăng, miếu trên đất Gia Định - Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh, có thể thấy được dòng chảy văn hóa tín ngưỡng của những
người đi mở đất phương Nam có những nét tiếp nối văn hóa dân gian của Bắc
Bộ và Trung Bộ.
Sự xuất hiện của cư dân Việt và sự xác lập về mặt pháp lý của nhà Nguyễn
đối với vùng đất Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh như trên có ý nghĩa lịch sử
và văn hóa to lớn. Nó không chỉ có ý nghĩa là một cuộc Nam tiến để mở rộng bờ
cõi đất nước, đưa miền đất ấy thành bộ phận không tách rời của nước Việt Nam;
biến vùng đất mênh mông, hoang vắng thành trung tâm mới về kinh tế, văn hóa,
mà còn là sự mở rộng và phát triển văn hóa Việt Nam, tạo nên những nét đặc sắc,
đa dạng trong thống nhất của văn hóa dân tộc tại khu vực này.
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có tính đa tộc trong cộng đồng cư
dân, với sự đa dạng về tộc người và vùng miền, đây là một trong những đặc điểm
rất nổi bật, được thể hiện suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của vùng
đất Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Đặc điểm này ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển, diện mạo của DSVH ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ những lý do lịch sử và địa lý đã khiến Sài Gòn luôn là một thành phố
đa dạng về văn hóa. Ngay từ giai đoạn thành lập, dân cư của Sài Gòn đã thuộc
nhiều dân tộc khác nhau...Thời kỳ thuộc địa rồi chiến tranh, Sài Gòn chịu ảnh
hưởng bởi nền văn hóa Âu Mỹ. Cho đến giai đoạn hiện nay, những hoạt động kinh
tế, du lịch tiếp tục tác động đến thành phố có một nền văn hóa đa dạng hơn.
34
Tư liệu khảo cứu về lược sử Thành phố cho thấy, những nhóm người đầu
tiên đến miền đất này vào khoảng đầu thế kỷ XV. Những cư dân từ phía Bắc di
chuyển vào ở khu vực Đồng Nai - Bến Nghé - Cửu Long là những người đã đến
bằng thuyền và đường bộ từ các nơi, như: Đồng bằng sông Hồng, Thanh Hóa,
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi Ngoài ra, còn
có những nhóm người vừa là lính, vừa là quan, những người lao động người Hoa,
do chống triều Mãn Thanh, hoặc bị truy nã, hoặc đời sống cùng cực chạy sang
xin cư ngụ. Trong đó, có những nhóm người được Chúa Nguyễn cho định cư ở
vùng Biên Hòa, Mỹ Tho.
Cùng với người Việt, người Hoa, trong quá trình khai phá vùng đất này
còn có một bộ phận người dân tộc thiểu số bản địa ở Nam Bộ, như Khmer,
S'tiêng, Mạ, Chăm, Châu ro Tuy nhiên, do trình độ phát triển của các dân tộc
này còn thấp nên dấu ấn để lại trong sự phát triển của Gia Định - Sài Gòn -
Thành phố Hồ Chí Minh không đậm nét. Có thể khẳng định, Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh mang tính đa dạng văn hóa, đa chủng tộc. Ở Sài Gòn, khác với
bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam, có thể nhìn thấy, bên cạnh đình chùa
Việt là chùa miếu, hội quán của người Hoa, người Khmer; thánh đường Thiên
Chúa giáo bên cạnh chùa Chà, đền Hồi giáo, đền Chăm và các lối sống và sinh
hoạt văn hóa đan xen lẫn nhau.
Tiếp theo các giai đoạn, thời kỳ lịch sử sau đó, vùng đất Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh luôn sôi động với nhiều sự kiện lịch sử nóng bỏng của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập dân tộc, xây
dựng, bảo vệ đất nước. Những lớp cư dân liên tục nối tiếp nhau đổ về, nhiều trào
lưu văn hóa “đông - tây” tràn vào, hội nhập, suốt từ thời kỳ cận đại đến nay, sự
giao thoa, tiếp biến văn hóa ấy làm cho hệ thống DSVH Sài Gòn - Thành phố Hồ
Chí Minh thêm đông hơn về số lượng, đa dạng về kiểu dáng, phong phú về kiến
trúc và trang trí mỹ thuật.
Hiện nay, khi Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành trung tâm
kinh tế - xã hội ở phía Nam, thì hàng năm vẫn còn nhiều lao động từ khắp các
tỉnh, thành cả nước về tìm kiếm cơ hội làm ăn, lao động, sản xuất; hàng vạn học
sinh, sinh viên của cả nước về Thành phố học tập; đông đảo kiều bào về nước
35
tham quan hoặc định cư, làm ăn. Như vậy, theo xu hướng chung của sự vận động,
dân cư ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh tăng theo thời gian và có sự hội tụ
phong phú của cư dân từ tất cả các vùng miền trong cả nước.
Bên cạnh cơ cấu vùng, miền, dân cư Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh còn
có đặc điểm là địa phương nhiều thành phần dân tộc nhất cả nước. Dân tộc Kinh
chiếm khoảng 89%, còn lại các dân tộc khác, như: người Hoa (10%); người Khmer
(0,15%); người Chăm (0,07%); người Tày, Nùng, Mường, Gia Rai, Êđê, Cơ Ho,
H'mông, Dao, Ba Na Cơ cấu thành phần dân tộc tại Thành phố Hồ Chí Minh là
cao hơn nhiều so với các tỉnh, thành khác thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Ở Tây Ninh có 27 thành phần dân tộc, ở Bình Dương là 28, Bà Rịa - Vũng Tàu là
35, Bình Phước là 41, Đồng Nai 43 và Thành phố Hồ Chí Minh là l46 [9, tr.43].
Ngoài đặc điểm vùng, miền, đa dân tộc, yếu tố dân cư tại Gia Định - Sài
Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từng là thủ phủ của thực dân, đế quốc khi đến xâm
lược. Khi người Pháp xâm lược Việt Nam, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc
địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành đô thị
quan trọng nhất Việt Nam. Năm 1860, khi cảng Sài Gòn chính thức mở cửa thì tàu
bè các nước ra vào buôn bán, thương vụ mỗi ngày một tăng, nhất là tàu buôn từ
châu Âu tới. Thời Mỹ - Diệm, Sài Gòn tiếp tục là Thủ đô của Việt Nam Cộng hòa,
yếu tố dân cư tại đây có thêm sự hiện diện của rất nhiều quan chức, lính Mỹ xâm
lược, các nhà tư bản Mỹ và châu Âu đến đầu tư và làm ăn. Sau ngày miền Nam
được giải phóng (năm 1975), đặc biệt là thời kì đổi mới, CNH, HĐH đất nước và
hội nhập quốc tế (năm 1986 đến nay), Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục thu hút rất
nhiều người nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh, sinh sống, học tập và tham quan
du lịch. Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh dần hình thành những khu người
nước ngoài sinh sống ở một số quận, như: quận 1, quận 2, quận Tân Bình Ngoài
ra, khách vãng lai, gồm cả người trong nước và nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí
Minh ước tính mỗi ngày khoảng hơn một triệu người.
Với đặc trưng văn hóa đô thị gắn với nếp sống thị dân, văn hóa Thành phố
Hồ Chí Minh thể hiện rõ tính hội tụ và tính lan tỏa. Hội tụ là sự đa dạng về văn
hóa, tín ngưỡng, phong tục tập quán của người dân của những vùng, miền khác
nhau về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh “an cư lập nghiệp”. Hiện nay, Thành
36
phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn của cả nước, có thành phần cư dân đa dạng, có
nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống, hiện có 51 dân tộc thiểu số với 437.532
người, chiếm 6,1% dân số thành phố [154].
Sự bổ sung về thành phần tộc người diễn ra trong quá trình đô thị hóa ngày
một phát triển làm cho cấu trúc và sự phân bố cư trú tộc người có nhiều biến đổi
và những hình thái cộng cư mang nhiều nét mới. Trong số các thành phần tộc
người cư trú trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, bốn tộc người: Việt,
Hoa, Chăm, Khmer vẫn duy trì được những khu vực cư trú tộc người (có tính
cộng đồng) của mình; số còn lại thường là những nhóm gia đình, gia đình hoặc
những thành viên có tính cá nhân. Hiện trạng phân bổ cư trú tộc người tại Thành
phố Hồ Chí Minh cho thấy, người Việt phân bố cư trú rộng khắp các địa bàn trên
toàn thành phố. Người Hoa phân bố cư trú trên địa bàn các quận: 1,5, 6, 8, 10, Tân
Bình. Người Chăm phân bố cư trú thành 16 khu vực thuộc địa bàn các quận: 8, 11,
4, 3, 5, 6, 10, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Thủ Đức. Người Khmer phân bố cư trú rải
rác trên địa bàn các quận 3, 5, 6, Tân Bình và huyện Bình Chánh, trong đó, tập
trung tương đối đông đúc tại miếu Candaransi (thuộc quận 3) và miếu Bodhi Vong
(thuộc quận Tân Bình). Số còn lại phân bố cư trú tản mạn trên khắp các quận,
huyện trên địa bàn Thành phố. Những địa bàn có quá trình đô thị hoá diễn ra
mạnh hơn trong những năm gần đây là những địa bàn có cấu trúc tộc người phức
tạp hơn, như quận 11, quận Tân Bình [26].
Sự biến đổi về dân số, cấu trúc cả dân cư đa tộc, phân bố cư trú tộc người
diễn ra đồng thời với quá trình phát triển đô thị hoá, trong bối cảnh có nhiều biến
động lịch sử, có nhiều giao lưu kinh tế và giao lưu chính trị đã tác động đến mối
quan hệ của quá trình giao lưu văn hóa tộc người ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh trong thế kỉ XX, làm cho các mối quan hệ ấy thêm phong phú, đa dạng và
phức tạp. Sự vận động, phát triển của các quan hệ tiếp xúc, trao đổi, đấu tranh, bảo
vệ trong quá trình giao lưu văn hoá, diễn ra dưới nhiều hình thái và mang nhiều
màu sắc, phản ánh tính năng nhằm thích nghi và không ngừng thúc đẩy chính quá
trình giao lưu đó để giải quyết nhu cầu giữ gìn bản sắc và tiếp thu - hội nhập.
Đặc điểm dân cư như trên đã ảnh hưởng lớn đến sự vận động, phát triển của
đời sống văn hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Sự hội tụ một cách đa dạng
37
của dân cư, tất yếu dẫn đến một bức tranh văn hóa “đa sắc màu”, là cơ sở dẫn đến
sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các vùng, miền trong nước, như Bắc Bộ, Trung
Bộ, Tây Nguyên, văn hóa sông nước Nam Bộ; các nền văn hóa thế giới, như văn
hóa Trung Hoa, Ấn Độ, văn hóa châu Âu, châu MỹCó thể nói, sự hội tụ dân cư
và văn hóa ở Sài Gòn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra ở diện rộng và
rất đa dạng. Đây là yếu tố góp phần hình thành nên tính mở, tính tiên phong và
năng động, sáng tạo trong việc tiếp nhận cái mới, thể nghiệm cái mới trên nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nghiên cứu lịch sử Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh cho phép phác
thảo được chân dung của Sài Gòn - thành phố ngã ba đường, vùng đất mang
nhiều nét văn hóa đa chủng tộc, với lịch sử hình thành được đánh dấu bằng các
đợt nhập cư từ nhiều địa phương trong cả nước, thậm chí từ các nước khác
trong khu vực, góp phần hình thành nên một cộng đồng đa dạng. Chính vì vậy,
một trong những đặc trưng của văn hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là
sự đa dạng, tính linh hoạt, năng động. Bản thân Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh là một thể thống nhất, nhưng là một sự kết hợp nhiều thành tố nhỏ hơn,
không một nơi nào ở trên đất nước Việt Nam có cái thuộc tính quan trọng:
thuộc tính mở, cấu tạo theo dạng “môđum”, có thể linh hoạt dung nạp các yếu
tố, "biến chúng thành mình mà vẫn không ràng buộc ai đánh mất mình". Chính
đặc điểm này là điều kiện thúc đẩy sự hội nhập để cùng phát triển của Thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
2.1.2.3. Đặc điểm kinh tế
Xuất phát từ vị trí, điều kiện tự nhiên và phong phú nên sự phát triển kinh
tế hàng hóa, kinh tế thị trường ở Thành phố Hồ Chí Minh được hình thành và phát
triển sớm. Địa hình bằng phẳng, đất đai phì nhiều, rộng lớn, khí hậu ôn hòa rất
thích hợp cho sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng lúa nước ở diện tích lớn với
năng suất cao tại khu vực Nam Bộ và khu vực Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ
Chí Minh. Sông, rạch nhiều, dòng chảy hiền hòa rất thích hợp cho giao thông
đường thủy, thông thương buôn bán trao đổi hàng hóa. Vị trí địa lí đắc địa, nằm ở
38
nơi giao lưu quốc tế từ Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây; là tâm điểm của khu vực
Đông Nam Á nên thúc đẩy thương mại ở Thành phố Hồ Chí Minh phát triển,
không chỉ trong nước mà còn mở rộng ra thế giới.
Sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp xây dựng Sài Gòn thành một
trung tâm kinh tế lớn của xứ Nam Kỳ. Cùng với sự quy hoạch và xây dựng Sài
Gòn thành một thành phố kiểu phương Tây, thực dân Pháp còn đẩy mạnh việc xây
dựng cơ sở hạ tầng, nhà máy để phục vụ khai thác kinh tế thuộc địa. Quá trình này
khiến cho kinh tế Sài Gòn chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của nền hàng hóa tư bản
phương Tây. Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn thành lập phòng thương mại, đặt trụ
sở tại Sài Gòn để điều hành thương mại tại Nam Kỳ nhằm biến Nam Kỳ thành thị
trường tiêu thụ hàng hóa của các nhà máy ở chính quốc.
Giai đoạn 1954 - 1975, dưới chế độ cai trị của Mỹ và chính quyền thuộc
địa, Sài Gòn tiếp tục là trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa tại miền Nam, nhất
là lĩnh vực công nghiệp và thương mại. Từ năm 1954 đến năm 1975, Mỹ đổ vào
miền Nam 23,6 tỷ đô la, trong đó viện trợ kinh tế là 7,6 tỷ [83, tr.175]. Dưới tác
động của viện trợ Mỹ, kinh tế Sài Gòn phát triển khá nhanh theo hướng kinh tế
hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Nhiều nhà máy được xây dựng có thể sản xuất nhiều
mặt hàng cho thị trường trong nước. Một số ngành công nghiệp phục vụ nhu cầu
chiến tranh phát triển rất nhanh, làm thay đổi hẳn lĩnh vực kinh tế công nghiệp
miền Nam. Phần lớn các ngành công nghiệp có nhà máy đặt tại Sài Gòn, “70%
trong tổng số 12.000 cơ sở công nghiệp của toàn miền Nam tập trung tại vùng Sài
Gòn - Gia Định - Biên Hòa” [113, tr.118].
Xuất phát từ điều kiện địa lý - tự nhiên và kinh tế - xã hội khá thuận lợi, do
đó, hội nhập kinh tế quốc tế ở Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra sâu rộng, quy mô
lớn và tốc độ cao, với nhiều hình thức liên kết với các tổ chức kinh tế ở các nước
trong khu vực và trên thế giới. Kinh tế và văn hóa có mối liên hệ biện chứng với
nhau, nên những đặc điểm kinh tế như trên, tất yếu ảnh hưởng đến sự hình thành
và biến đổi đời sống văn hóa của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Kinh tế Sài
Gòn phát triển trong mối giao lưu kinh tế đa chiều, vì thế, văn hóa cũng rất đa
39
dạng, tiếp xúc được với nhiều cái mới, tạo nên tính tiên phong trong biến đổi đời
sống văn hóa - xã hội.
2.1.2.4. Đặc điểm chính trị - xã hội và truyền thống lịch sử
Một là, ảnh hưởng của chế độ phong kiến đối với các di sản văn hóa ở
Thành phố Hồ Chí Minh không đậm nét như các vùng, miền khác trong cả nước
Do đặc điểm lịch sử, nhất là quá trình khai phá vùng đất Sài Gòn - Gia
Định - Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra muộn, trong khi chế độ phong kiến Việt
Nam đang bước vào giai đoạn thoái trào, do đó, ảnh hưởng của chế độ phong kiến
đối với vùng đất này không đậm nét như những trung tâm kinh tế - văn hóa khác,
nhất là so với Hoa Lư, Thăng Long - Hà Nội hay Phú Xuân - Huế.
Vùng đất Nam Bộ, trong đó có Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, sau quá
trình khai phá, ít nhiều có sự ảnh hưởng của chế độ phong kiến, xã hội cũng có sự
phân hóa giai cấp, nhưng quan hệ giai cấp chưa đủ khốc liệt như những vùng,
miền khác của cả nước. Quá trình khai phá vùng đất mới cũng dẫn đến sự xuất
hiện của giới điền chủ, song họ chưa hoàn thành quá trình tập trung ruộng đất,
chưa thực sự có sự cấu kết với quan lại chúa Nguyễn để hình thành giai cấp địa
chủ. Nông dân ở Gia Định bị bóc lột, nhưng chưa đủ độ gay gắt để hình thành các
phong trào đấu tranh chống lại giới điền chủ.
Thời chúa Nguyễn, sinh hoạt văn hóa của vùng đất phía Nam không được
chú ý. Từ khi khai hoang lập ấp, Sài Gòn gồm đa số là lưu dân, nông dân nghèo
khổ, “đủ tinh thần thực tiễn, nhưng thiếu chữ, đủ đạo đức làm dân, làm người mà
không thuộc kinh truyện” [60, tr.246]. Vì vậy, ảnh hưởng của nho giáo đối với
vùng đất này là không đậm nét.
Hai là, các di sản văn hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh chịu sự tác
động bởi quá trình xâm lược và chính sách nô dịch của chủ nghĩa thực dân cũ và
mới trong thế kỷ XIX
Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định năm 1859, người Pháp gấp rút
quy hoạch Sài Gòn thành một đô thị lớn nhằm phục vụ cho mục đích khai thác
thuộc địa. Trong suốt thời kỳ thực dân Pháp cai trị Việt Nam, Sài Gòn trở thành
trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Vì thế, “Sài Gòn thay đổi mau
chóng thành “Hòn ngọc Viễn Đông”, cũng mau chóng trở thành vòi bạch tuộc của
40
thực dân Pháp vơ vét tài nguyên, sản vật của Việt Nam. Và cũng sớm trở thành
một trung tâm bị bóc lột, đầu độc và sa đọa” [113, tr.68].
Văn hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh còn chịu sự tác động rất lớn
bởi chính sách “đồng hóa” văn hóa của thực dân Pháp. Cùng với chính sách “chia
để trị” thì chính sách “đồng hóa" văn hóa núp dưới hình thức “khai hóa văn minh”
là một chính sách hết sức cơ bản và thâm độc của thực dân Pháp.
Để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, chính quyền thực dân Pháp
đã cho xây dựng những công trình, như: Dinh Xã Tây - UBND Thành phố Hồ Chí
Minh; Nhà thờ; chợ Bến Thành tạo ra một khu đô thị mới, ảnh hưởng bởi kiến
trúc phương Tây... Sài Gòn được mệnh danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông” không
phải vì nhiều tòa nhà cao tầng, hay những lâu đài tráng lệ, mà vì bố cục hài hòa,
cảnh quan mang tính nghệ thuật cao. Trong di sản kiến trúc đô thị ở Thành phố Hồ
Chí Minh, in đậm dấu ấn kiến trúc đô thị theo phong cách phương Tây hiện đại.
Sài Gòn rõ ràng mang dấu ấn Pháp, nhưng “Sài Gòn chưa bao giờ là nước Pháp.
Nếu nó mang dấu ấn của các nhà kiến trúc Pháp thì ngược lại, chính các nhà kiến
trúc cũng mang nặng dấu ấn của Sài Gòn” [116, tr.4].
Trong ý tưởng quy hoạch ban đầu, các kiến trúc sư Pháp đã nhiệt đới hóa,
bản địa hóa được kiến trúc Pháp để tạo ra những kiến trúc mang phong cách Pháp
- Việt. Kiến trúc Pháp ở Sài Gòn đã trở thành một quỹ di sản kiến trúc mang ý
nghĩa lịch sử, kết hợp hài hòa các thành phần kiến trúc và cảnh quan đô thị truyền
thống, tạo nên nét hấp dẫn riêng cho nơi đây. Nét đặc trưng giao thoa đó tập trung
chủ yếu vào các công thị, hành chính, như: Tòa nhà UBND Thành phố, Tòa án,
Nhà hát lớn, Ngân hàng.
Sau giải phóng, người dân Thành phố vẫn lưu giữ những nét đẹp này của
văn hóa phương Tây để tạo nên nét riêng của mình trong đời sống đô thị nhộn
nhịp. Hiện nay, để lưu giữ được “cái hồn Sài Gòn”, trong quá trình bảo tồn cần
giữ lại không gian sống mang bản sắc Sài Gòn, thể hiện chiều sâu ký ức về văn
hóa, như: “Sài Gòn ký ức” giới hạn bởi các con phố bao quang tòa nhà UBND và
Bưu điện Thành phố; “Sài Gòn sông nước” với đường Tôn Đức Thắng, Bến Bạch
Đằng, quảng trường Mê Linh; “Sài Gòn kẻ chợ” với khu Công viên 23/9 kết hợp
với không gian chợ Bến Thành. Giữ được phần “hồn cốt”, bản sắc riêng có của
41
một đô thị thương cảng ngã ba sông sẽ là động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh.
Giai đoạn 1954 - 1975, Sài Gòn tiếp tục chịu sự cai trị của chế độ Mỹ -
ngụy, là thủ phủ của chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Sự thống trị của đế quốc Mỹ và
chính quyền tay sai tại miền Nam và Sài Gòn kéo dài hơn 20 năm. Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Thành phố Hồ Chí Minh với đặc điểm là trung
tâm đô thị ở miền Nam, một địa bàn chiến lược quan trọng, là điểm quyết chiến
chiến lược. Đứng trước thử thách nguy hiểm này, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh tiếp tục trở thành nơi đối đầu giữa truyền thống yêu nước của dân tộc và sự
tàn bạo của chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh trở
thành trung tâm của phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, từ đấu tranh
chính trị đến đấu tranh vũ trang, nhằm chống lại sự thống trị của đế quốc Mỹ.
Những phong trào yêu nước ấy đã làm cho Sài Gòn trở thành “biểu tượng văn
hóa” tiêu biểu của dân tộc với những danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”, “đất thép
Củ Chi”trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ở thế kỉ
XX. Lịch sử đấu tranh oai hùng của Đảng bộ và nhân dân đã tạo nên những
DSVH gắn với lịch sử phát triển của Thành phố hơn 300 năm: Địa đạo Củ Chi, 18
thôn Vườn Trầu, Bến Nhà Rồng, Khám lớn Chí Hòa
Địa đạo Củ Chi là minh chứng “sống” cho ý chí kiên cường, trí thông minh
và là niềm tự hào của người dân Việt Nam. Ngày nay, địa đạo Củ Chi trở thành
điểm đến của du khách trong và ngoài nước, là địa danh nổi tiếng được thế giới
nhắc đến.
Không mang dáng vẻ kỳ vĩ của những kỳ quan tồn tại hàng bao thế kỷ
như Kim Tự Tháp, vườn treo Babylon, Angkor Wat nhưng địa đạo
Củ Chi là một công trình ngầm vĩ đại với trên 200km tỏa rộng như
mạng nhện dưới lòng đất. Trong chiến tranh, hàng ngàn người con đã hi
sinh, hàng vạn ngôi nhà bị đốt phá, san phẳng, nhưng vượt lên trên tất
cả những mất mát đó, Củ Chi vẫn hiên ngang đứng vững, góp phần hết
sức quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc. Nơi đây quả là một kỳ quan mang tầm vóc chiến tranh độc đáo,
vừa mang chiều sân thăm thẳm của lòng căm thù và ý chí kiên cường,
42
bất khuất, vừa có ý nghĩa như biểu tượng rực rỡ của Chủ nghĩa anh
hùng dân tộc Việt Nam [21].
Với giá trị và tầm vóc chiến công được đúc kết bằng xương máu, công sức
của hàng vạn chiến sĩ, đồng bào, khu căn cứ địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa -
Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử -
Văn hóa quốc gia. Đến với Củ Chi là đến với sự bình dị, sự bình dị ấy lấp lánh
trong những trang lịch sử, nơi này đã đi vào lịch sử đấu tranh anh hùng của nhân
dân Việt Nam như một huyền thoại của thế kỉ XX.
Bến Nhà Rồng trở thành địa chỉ thiêng liêng, nơi người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước, mang lại
độc lập, tự do cho dân tộc. Ngày nay, bến Nhà Rồng đã có nhiều thay đổi theo thời
gian. Sài Gòn năm xưa nay là thành phố mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã trở
thành trung tâm kinh tế lớn của đất nước, năng động và không ngừng phát triển.
Với giá trị lịch sử gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, bến Nhà Rồng đã trở thành biểu tượng của Thành phố và là niềm tự hào của
nhân dân cả nước.
Ba là, các giá trị DSVH Thành phố Hồ Chí Minh là kết quả của sự định
hướng bởi đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có đường
lối văn hóa
Trong hơn 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Sài
Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là chiến trường tấn công địch trên tất cả các mặt
trận, là trung tâm đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang... Trong đó, phong trào
đấu tranh bảo vệ văn hóa dân tộc được quần chúng nhân dân hưởng ứng sôi
nổi, như: phong trào văn hóa, văn nghệ của học sinh, sinh viên thành phố với
phong trào Hát sử ca, Kháng chiến ca, Hát cho đồng bào tôi nghe. Khi đất nước
được hòa bình, thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội
(CNXH), đường lối của Đảng về văn hóa tiếp tục được quan tâm, coi trọng và
phát triển.
Trên vùng đất nổi tiếng của Địa đạo Củ Chi năm xưa đánh Mỹ và ngay
giữa lòng “Tam giác sắt” một thời rền vang bom đạn, Đảng bộ và nhân dân Thành
43
phố Hồ Chí Minh đã tạo dựng nên công trình: Đền Tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược.
Đền xây dựng để tưởng nhớ công ơn to lớn của đồng bào, chiến sĩ đã chiến đấu,
hy sinh trên vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong hai cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược Pháp và Mỹ. Là một công trình dành riêng cho Thành phố
Hồ Chí Minh, cho những thế hệ mai sau nhớ mãi, tri ân và tự hào. Được sự đồng ý ...Đ
ngày 07 tháng 01
năm 1993
Ban Quí tế
22 Đình Phú Nhuận 18 Mai văn Ngọc,
phường 10
Số 3774 -
QĐ/VHTT ngày 29
tháng 01 năm 1997
Ban Quí tế
23 Lăng Trương Tấn
Bửu
41 Nguyễn Thị
Huỳnh, phường 8
Số 101/2004/QĐ -
BVHTT ngày 15
tháng 12 năm 2004
Bà Võ Thị Tám
177
Quận Tân Bình
24 Chùa Giác Lâm 118 Lạc Long
Quân, phường 10
Số 1288-VH/QĐ
ngày 16 tháng 11
năm 1988
Hòa thương Thích
Huệ Trung
Quận Thủ Đức
25 Đình Trường Thọ Tổ 5, khu phố 8,
phường Trường
Thọ
Số 39/2002/QĐ-
BVHTT ngày 30
tháng 12 năm 2002
Ban Quí tế
26 Đình Xuân Hiệp Phường Linh
Xuân
Số 101/2004/QĐ-
BVHTT ngày 15
tháng 12 năm 2004
Ban Quí tế
3. DI TÍCH KHẢO CỔ: 02
Quận 8
01 Lò gốm cổ Hưng Lợi Phường 16 Số 722/QĐ-
BVHTT ngày 25
tháng 4 năm 1998
UBND phường
16, Phòng VHTT-
TDTT quận 8
Huyện Cần Giờ
02 Giồng Cá Vồ Xã Long Hòa Số 2000/QĐ-
BVHTT ngày 13
tháng 4 năm 2000
Trung tâm Văn
hóa huyện Cần
Giờ
II. DI TÍCH CẤP THÀNH PHỐ: 13
01 Đình Xuân Hòa Số 129 Lý Chính
Thắng, phường 7,
quận 3
Số 137/2003/QĐ-
UB ngày 05 tháng 8
năm 2003
Ban Quí tế
02 Láng Le - Bàu Cò Ấp 1, xã Tân
Nhật, huyện Bình
Chánh
Số 138/2003/QĐ-
UB ngày 05 tháng 8
năm 2003
Trung tâm Văn hóa
huyện Bình Chánh
03 14 - Cách Mạng
Tháng Tám, phường
Bến Thành, quận 1
(Trụ sở Liên đoàn Lao
động TP Hồ Chí
Minh)
14 - Cách Mạng
Tháng Tám,
phường Bến
Thành, quận 1
Số 138/2003/QĐ-
UB ngày 05 tháng 8
năm 2003
Liên đoàn Lao
động Thành phố
Hồ Chí Minh
04 Nhà cổ dân dụng
truyền thống của ông
Vương Hồng Sển
9/1 Nguyễn Thiện
Thuận, phường
14, quận Bình
Thạnh
Số 140/2003/QĐ-
UB ngày 05 tháng 8
năm 2003
178
05 Đình Tân Túc Âp 2, xã Tân Túc,
huyện Bình Chánh
Số 325/2003/QĐ-
UB ngày 31 tháng
12 năm 2003
Ban Quí tế
06 Đình Tân Thới Tứ Ấp Tân Thới Tứ,
xã Thới Tam
Thôn, huyện Hóc
Môn
Số 326/2003/QĐ-
UB ngày 31 tháng
12 năm 2003
07 Đền thờ ông Phan
Công Hớn
Ấp Tây Bắc Lân,
xã Bà Điểm,
huyện Hóc Môn
Số 327/2003/QĐ-
UB ngày 31 tháng
12 năm 2003
08 Đình Thần Linh Tây Khu phố 2,
phường Linh Tây,
quận Thủ Đức
Số 328/2003/QĐ-
UB ngày 31 tháng
12 năm 2003
09 Đình An Nhơn 72/999 Lê Đức
Thọ, phường 17,
quận Gò Vấp
Số 20/2005/QĐ-UB
ngày 01 tháng 02
năm 2005
Ban Quí tế
10 Đình Bình Trường Ấp 1, xã Bình
Chánh, huyện
Bình Chánh
Số 21/2005/QĐ-UB
ngày 01 tháng 02
năm 2005
Ban Quí tế
11
Kho bom Phú Thọ Công viên Tân
Phước, đường
Nguyễn Thị Nhỏ,
phường 9, quận
Tân Bình
Số 22/2005/QĐ-UB
ngày 01 tháng 02
năm 2005
12 Đình Tân Thới Nhì 2 Lý Nam Đế, thị
trấn Hóc Môn,
huyện Hóc Môn
Số 23/2005/QĐ-UB
ngày 01 tháng 02
năm 2005
13 Chùa Thiên Phước 37/217 Khu phố 8,
phường Trường
Thọ, quận Thủ
Đức
Số 24/2005/QĐ-UB
ngày 01 tháng 02
năm 2005
Nguồn: Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh,
Báo cáo các hoạt động văn hóa - thông tin Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2001 - 2005, số 1427/BC-SVHTT, ngày 25-2-2006 [134]
179
Phụ lục 2
SỐ LIỆU 15 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 5
KHÓA VIII LĨNH VỰC DI SẢN (1998 - 2013)
TT Chỉ tiêu
Năm
1998
Năm
2000
Năm
2005
Năm
2010
Năm
2012
1 Hoạt động Bảo tàng
- Số Bảo tàng công lập 11 11 11 11 11
- Số Bảo tàng công lập
thuộc Sở
07 07 07 07 07
- Số cuộc trưng bày, triển lãm 35 59 67 163 214
- Số lượt người tham quan
bảo tàng (công lập)
630.372 1.095.087 1.684.366 2.335.170 2.787.746
- Số hiện vật được sưu tập 5.753 4.771 4.043 4.366 15.615
- Tổng số hiện vật 184.044 496.360
- Số bảo tàng tư nhân 01
2 Hoạt động quản lý di tích (tính đến thời điểm báo cáo)
- Tổng số di tích được công nhận 45 45 76 125 144
+ Cấp quốc gia 45 54 54 58
+ Cấp Thành phố 22 71 86
Phân loại theo tính chất
+ Số di tích kiến trúc nghệ thuật 20 38 68 80
+ Số di tích lịch sử 23 36 54 61
+ Số di tích khảo cổ 02 02 02 02
- Số di tích đã tu bổ, tôn tạo 36
- Số lượng văn hóa phi vật thể
truyền thống được bảo tồn
4
Nguồn: Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh(2013), Báo cáo kết quả 15 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, số 160-BC/TU, ngày 12/7/2013 [160]
180
Phụ lục 3
DANH SÁCH
CÁC CÔNG TRÌNH, ĐỊA ĐIỂM ĐÃ ĐƯỢC QUYẾT ĐỊNH XẾP HẠNG DI
TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (ĐẾN THÁNG 6/2016)
167 di tích đã quyết định xếp hạng:
- 02 di tích quốc gia đặc biệt (di tích lịch sử);
- 55 di tích quốc gia (02 - khảo cổ học, 30 - kiến trúc nghệ thuật, 23 - lịch sử);
- 110 di tích cấp thành phố (65 - kiến trúc nghệ thuật, 45 - lịch sử).
TT Tên di tích
Địa chỉ,
điện thoại/fax, e-mail
Quyết định
xếp hạng
Tổ chức, cá nhân
là chủ sở hữu
hoặc trực tiếp
quản lý
1. DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT: 02
1 Di tích lịch sử Dinh
Độc Lập - Nơi ghi
dấu thắng lợi hoàn
toàn cuộc kháng
chiến chống Mỹ
cứu nước, giải
phóng miền Nam,
thống nhất đất
nước.
135 Nam Kỳ Khởi
Nghĩa Phường Bến
Thành.
Số 1272/QĐ-TTg
12/08/2009
(Quyết định đặc
cách: Quyết định
số 77A/VHQĐ
25/6/1976).
Cục Hành chính
quản trị II - Văn
phòng Chính phủ
2 Di tích lịch sử Địa
đạo Củ Chi
Xã Phú Mỹ Hưng, xã
Phạm Văn Cội, xã
Nhuận Đức, huyện
Củ Chi
Số 2367/QĐ-TTg
ngày 23/12/2015
Khu di tích lịch sử
địa đạo Củ Chi
2. DI TÍCH QUỐC GIA: 55
2.1. DI TÍCH KHẢO CỔ HỌC: 02
HUYỆN CẦN GIỜ
3 Giồng Cá Vồ Xã Long Hòa Số 2000/QĐ -
BVHTT
13/4/2000
UBND huyện,
Trung tâm Văn hoá
huyện Cần Giờ
181
QUẬN 8
4 Lò gốm cổ Hưng
Lợi
Phường 16 Số 722/QĐ-
BVHTT
25/4/1998
UBND phường 16,
Phòng VH&TT
quận 8
2.2. DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT: 30
QUẬN 1
5 Điện Ngọc Hoàng 73 Mai Thị
Lựu Phường Đa
Kao
Số 2754/QĐ -
BT 15/10/1994
Đại đức Thích Minh
Thông
6 Miếu Thiên Hậu
(Quảng Triệu hội
quán)
122 Bến Chương
Dương Phường
Nguyễn Thái Bình
Số 722 /QĐ -
BVHTT
25/4/1998
Ban Quản trị
7 Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí
Minh
131 Nam Kỳ Khởi
Nghĩa, Phường Bến
Nghé
Số 1208/QĐ-
BVHTTDL
Ngày 29/3/2012
Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí
Minh
8 Bảo tàng Lịch sử
Thành phố Hồ Chí
Minh
02 Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Phường Bến
Nghé
Số 1207/QĐ-
BVHTTDL
Ngày 29/3/2012
Bảo tàng Lịch sử
Thành phố Hồ Chí
Minh
9 Bảo tàng Thành
phố Hồ Chí Minh
65 Lý Tự Trọng,
Phường Bến Nghé
Số 1206/QĐ-
BVHTTDL
Ngày 29/3/2012
Bảo tàng Thành phố
Hồ Chí Minh
10 Nhà hát Thành phố
Hồ Chí Minh
07 Công Trường Lam
Sơn, Phường Bến
Nghé
Số 1209/QĐ-
BVHTTDL
Ngày 29/3/2012
Trung tâm Tổ chức
Biểu diễn và Điện
ảnh Thành phố
QUẬN 10
11 Đình Chí Hoà 475 Cách Mạng
Tháng 8 Phường 13
Số 1460 -
QĐ/VH
28/6/1996
Ban Quản lý di tích
đình Chí Hòa (Thành
lập theo quyết định
số 1407/QĐ-UBND
ngày 21/1/2011 của
UBND quận 10).
182
QUẬN 11
12 Chùa Giác Viên 161/35/20 Lạc Long
Quân Phường 2
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản lý di tích
chùa Giác Viên và
Phụng Sơn tự (theo
Quyết định 926/QĐ-
UBND-NV ngày
21/9/2012 của
UBND Quận 11).
13 Chùa Phụng Sơn 1408 đường Ba
Tháng Hai Phường 3
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Ban Quản lý di tích
chùa Giác Viên và
Phụng Sơn tự
QUẬN 5
14 Đình Minh Hương
Gia Thạnh
380 Trần Hưng
Đạo Phường 11
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản trị
15 Hà Chương Hội
quán
802 Nguyễn
Trãi Phường 14
Số 52/2001/QĐ-
BVHTT
28/12/2001
Ban Quản trị
16 Hội quán Nghĩa
An (Miếu Quan Đế
hay Chùa Ông)
676 Nguyễn
Trãi Phường 11
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản trị
17 Hội quán Nghĩa
Nhuận
27 Phan Văn
Khoẻ Phường 13
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản trị
18 Hội quán Ôn Lăng 12 Lão Tử Phường
11
Số 39/2002/QĐ-
BVHTT
30/12/2002
Ban Quản trị
19 Hội quán Tuệ
Thành (Chùa Bà)
710 Nguyễn
Trãi Phường 11
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản trị
20 Miếu Nhị Phủ
(Chùa Ông Bổn)
264 Hải Thượng Lãn
Ông Phường 16
Số 722 /QĐ -
BVHTT
25/4/1998
Ban Quản tri
21 Nhà thờ tổ thợ bạc
(Lệ Châu hội quán)
586 Trần Hưng
Đạo Phường 14
Số
1811/1998/QĐ -
BVHTT
31/8/1998
Ban Quản trị
22 Quỳnh Phủ Hội
quán
276 Trần Hưng Đạo
Phường 14
Số 52/2001/QĐ-
BVHTT
28/12/2001
Ban Quản trị
183
QUẬN 9
23 Chùa Hội Sơn 1A1 Nguyễn
Xiển Phường Long
Bình
Số 43-VH/QĐ
7/1/1993
Thượng tọa Thích
Thiện Hảo
24 Chùa Phước
Tường
13/32 Lã Xuân
Oai, Phường Tăng
Nhơn Phú A
Số 43-VH/QĐ
7/1/1993
Đại đức Thích Nhật
Ấn
QUẬN BÌNH THẠNH
25 Đình Bình Hòa 15/77 Chu Văn
An Phường 13
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản lý (thành
lập theo Quyết định
số 2618/QĐ-UBND
ngày 13/4/2010 của
UBND Quận Bình
Thạnh).
26 Lăng Lê Văn
Duyệt
1 Vũ Tùng Phường
13
ĐT: 38412517 -
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Ban quản lý di tích
Lăng Lê Văn Duyệt
(thành lập theo
Quyết định số
344/QĐ-UBND ngày
10/1/2011 của
UBND quận Bình
Thạnh)
QUẬN GÒ VẤP
27 Chùa sắc tứ
Trường Thọ
53/524 Phan Văn Trị
Phường 7
Số 06/2000/QĐ-
BVHTT
13/4/2000
Hòa thượng Thích
Tâm Giác
28 Đình Thông Tây
Hội
107/1 Nguyễn Văn
Lượng Phường 11
Số
2009/1998/QĐ-
BVHTT
26/9/1998
Ban Quí tế
QUẬN PHÚ NHUẬN
29 Đình Phú Nhuận 18 Mai Văn
Ngọc Phường 10
Số 3744 -
QĐ/VHTT
29/1/1997
Ban Quí tế
184
30 Lăng Trương Tấn
Bửu
41 Nguyễn Thị
Huỳnh Phường 8
Số
101/2004/QĐ-
BVHTT
15/12/2004
Ban Quản lý (thành
lập theo Quyết định
số 523/QĐ-UBND
ngày 16/6/2006 của
UBND Quận Phú
Nhuận).
31 Lăng Võ Di Nguy 19 Cô
Giang Phường 2
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quí tế
QUẬN TÂN BÌNH
32 Chùa Giác Lâm 118 Lạc Long
Quân Phường 10
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Đại đức Thích Từ
Tánh
QUẬN THỦ ĐỨC
33 Đình Trường Thọ Tổ 5 Phường
Trường Thọ
Số 39/2002/QĐ-
BVHTT
30/12/2002
Ban Quý tế
34 Đình Xuân Hiệp Phường Linh Xuân Số
101/2004/QĐ-
BVHTT
15/12/2004
Ban Quý tế
2.3. DI TÍCH LỊCH SỬ: 23
HUYỆN CẦN GIỜ
35 Căn cứ Rừng Sác Xã Long Hòa Số
101/2004/QĐ-
BVHTT
15/12/2004
Khu di tích lịch sử
địa đạo Củ Chi (nhận
bàn giao quản lý từ
Công ty Du lịch Sinh
thái Cần Giờ, từ
tháng 12/2012).
HUYỆN HÓC MÔN
36 Dinh Quận Hóc
Môn
1 Lý Nam Đế Thị
trấn Hóc Môn
Số 2015 -
QĐ/BT
16/11/1993
Trung tâm Văn hoá
huyện Hóc Môn
185
37 Ngã Ba Giồng Xã Xuân Thới
Thượng
Số 39/2002/QĐ-
BVHTT
30/12/2002
Ban Quản lý khu
tưởng niệm Liệt sĩ
Ngã Ba Giồng (trực
thuộc UBND huyện
Hóc Môn), thành lập
theo QĐ của UBND
TP. Hồ Chí Minh.
QUẬN 1
38 Địa điểm lưu niệm
Chủ tịch Tôn Đức
Thắng tại khu vực
Ba Son, gồm: Ụ tàu
nhỏ và triền nề
Phường Bến Nghé,
Quận 1
Quyết định về
việc điều chỉnh
tên gọi và khoanh
vùng bảo vệ di
tích quốc gia, số
1269/QĐ-
BVHTTDL, ngày
30/3/2016 của Bộ
Văn hóa, Thể
thao và Du lịch.
(Quyết định công
nhận di tích quốc
gia số 1034 -
VHQĐ, ngày
12/8/1993 của Bộ
Văn hóa:
Địa điểm lưu
niệm Chủ tịch
Tôn Đức Thắng
Số 323 đường 12
- Xí nghiệp Liên
hiệp Ba
Son Phường Bến
Nghé)
Tổng Công ty Ba
Son
39 Nơi thành lập An
Nam Cộng sản
Đảng năm 1929
phòng 1 lầu 2 số
1 Nguyễn Trung
Trực Phường Bến
Thành
Số 1288 -
VHQĐ
16/11/1988
Sở hữu tư nhân
186
40 Nơi thành lập Kỳ
bộ Việt Nam Thanh
niên đồng chí Hội
phòng 5 số 88 lê
lợi Phường Bến
Thành
Số 1288 -
VHQĐ
16/11/1988
Sở hữu tư nhân
41 Tòa đại sứ quán
Mỹ
04 Lê Duẩn Phường
Bến Nghé
Số 77A/VHQĐ
25/6/1976
Nay là Tổng Lãnh sự
quán Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ tai Tp.
Hồ Chí Minh
42 Trụ sở báo Dân
Chúng
Số 43 đường Lê Thị
Hồng Gấm Phường
Nguyễn Thái Bình
Số 1288 - VHQĐ
16/11/1988
Sở hữu tư nhân
QUẬN 10
43 Cơ sở in ấn của
Hội Ủng hộ Vệ
quốc đoàn
122/351 Ngô Gia
Tự Phường 9
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Trung tâm Văn hoá
quận 10
44 Hầm bí mật chứa
vũ khí thời kháng
chiến chống Mỹ
183/4 Ba Tháng
Hai Phường 11
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Gia đình ông Đỗ
Mạnh Hồng
QUẬN 3
45 Cơ sở Ban Tuyên
huấn Xứ ủy Nam
Bộ
51/10/14 Cao
Thắng Phường 3
số 1288 -
VH/QD
16/11/1988
Ủy ban Nhân dân
quận 3 (được giao
trách nhiệm trực tiếp
quản lý theo văn bản
số 2037/UBND-VX
ngày 11/5/2009 của
UBND Thành phố)
46 Cơ sở giấu vũ khí
của Biệt động
Thành đánh dinh
Độc Lập
287/70 Nguyễn Đình
Chiểu Phường 5
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Trung tâm Văn hóa
Quận 3
47 Sở Chỉ huy tiền
phương Phân khu 6
trong chiến dịch
Mậu Thân 1968
7 Lý Chính
Thắng Phường 7
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Gia đình ông Ngô
Toại
187
QUẬN 5
48 Khu trại giam bệnh
viện Chợ Quán -
nơi đồng chí Trần
Phú hy sinh
190 Bến Hàm
Tử Phường 1
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Trung tâm Văn hoá
Quận 5
49 Nơi đồng chí
Nguyễn Tất Thành
ở trước khi ra đi tìm
đường cứu nước
5 Châu Văn
Liêm Phường 14
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Trung tâm Văn hoá
Quận 5
QUẬN 6
50 Hầm bí mật in tài
liệu Ban Tuyên
huấn Hoa vận thời
kỳ chống Mỹ cứu
nước
341/10 Gia
Phú Phường 1
Số
2009/1998/QĐ -
BVHTT
26/9/1998
Ban Dân tộc Thành
phố
QUẬN 8
51 Đình Bình Đông Cù lao Bà
Tàng Phường 7
Số 2890 -
VH/QĐ
27/9/1997
Ban Quí tế
QUẬN 9
52 Bót Dây Thép Đường Lê Văn
Việt, Phường Tăng
Nhơn Phú A
Số 57 - VH/QĐ
18/1/1993
Phòng Văn hóa và
Thông tin Quận 9
53 Đình Phong Phú Đường đình Phong
Phú, khu phố
3, Phường Tăng
Nhơn Phú B
Số 57 - VH/QĐ
18/1/1993
Ban Quí tế
QUẬN GÒ VẤP
54 Tịnh xá Ngọc
Phương
498/1 Lê Quang
Định Phường 1
Số 2754/QĐ -
BT 15/10/1994
Thích nữ Ngoạt Liên
188
QUẬN PHÚ NHUẬN
55 Trụ sở Phái đoàn
liên lạc của Bộ
Tổng tư lệnh Quân
đội Nhân dân Việt
Nam cạnh Phân ban
Quốc tế giám sát và
kiểm soát đình
chiến tại Sài Gòn
(1955-1958)
87 A Trần Kế
Xương Phường 7
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Khu di tích lịch sử
địa đạo Củ Chi
QUẬN TÂN BÌNH
56 Mộ Phan Châu
Trinh
9 Phan Thúc
Duyện Phường 4
Số 3211 -
QĐ/BT
12/12/1994
Bà Lê Thị Sáu (Tư
Sương)
QUẬN TÂN PHÚ
57 Địa đạo Phú Thọ
Hòa
Đường Phú Thọ
Hòa Phường 1
Số 1460 -
QĐ/VH
28/6/1996
Trung tâm Văn hoá
Quận Tân Phú
3. DI TÍCH CẤP THÀNH PHỐ: 110
3.1. DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT: 65
HUYỆN BÌNH CHÁNH
58 Đình Bình Trường Ấp 1, Xã Bình
Chánh
Số 21/2005/QĐ-
UB 1/2/2005
Ban Quản lý (thành
lập theo Quyết định
số 1695/QĐ-UBND
ngày 22/3/2006 của
UBND Huyện Bình
Chánh)
59 Đình Phú Lạc số E7/717 ấp 5, xã
Phong Phú
Số 3267/QĐ-
UBND
20/8/2007
Ban Quí tế
60 Nhà cổ dân dụng,
Thành phố Hồ Chí
Minh
số 107A/4 ấp 1, xã
An Phú Tây, huyện
Bình Chánh
số 1520/QĐ-
UBND
28/3/2014
189
HUYỆN CỦ CHI
61 Chùa Linh Sơn ấp Phú Lợi Xã Phú
Hòa Đông
4347/QĐ-
UBND
13/10/2008
Ban Trị sự
62 Đình Xóm Huế Xã Tân An Hội Quyết định số
5511/QĐ-UBND
30/11/2006
Ban Quí tế
HUYỆN CẦN GIỜ
63 Đình Cần Thạnh Lê Văn Thương Thị
trấn Cần Thạnh
Số 4837/QĐ-
UBND
27/10/2006
Ban Quí tế
64 Lăng Ông Thủy
Tướng
Khu phố Hưng
Thạnh, thị trấn Cần
Thạnh
ĐT: 38740283;
0909320909
Số 4966/QĐ-
UBND
27/09/2012
Hội Vạn Lạch
HUYỆN HÓC MÔN
65 Đình Tân Thới Nhì 2 Lý Nam Đế Thị
trấn Hóc Môn
Số 23/2005/QĐ-
UB 1/2/2005
Ban Quí tế
66 Đình Tân Thới Tứ Ấp Tân Thới Tứ Xã
Thới Tam Thôn
Số
326/2003/QĐ-UB
31/12/2003
Ban Quí tế
67 Đình Tân Thới
Nhứt
Đường Phan Văn
Hớn, xã Bà Điểm
Số 1521/QĐ-
UBND
28/3/2014
Ban Quí tế
HUYỆN NHÀ BÈ
68 Đình Phú Xuân Đường Huỳnh Tấn
Phát, tổ 16, khu phố
5, thị trấn Nhà Bè
Số 2232/QĐ-
UBND
02/5/2012
QUẬN 1
69 Đình Nam Chơn 29 Trần Quang Khải
Phường Tân Định,
Quận 1
Số 4841/QĐ-
UBND
27/10/2006
Ban Quản trị
190
70 Đình Nhơn Hòa 27-29 Cô
Giang Phường Cầu
Ông Lãnh, Quận 1
4346/QĐ-
UBND
13/10/2008
Ban Quí tế
71 Khách sạn
Continental
132 - 134 đường
Đồng Khởi, phường
Bến Nghé, Quận 1
2210/QĐ-UBND
28/04/2012
Tổng công ty Du lịch
Sài Gòn TNHH Một
thành viên
(Saigontourist)
72 Bảo tàng Mỹ thuật
Thành phố Hồ Chí
Minh
97 - 97A đường Phó
Đức Chính và 54
đường Nguyễn Thái
Bình, phường
Nguyễn Thái Bình,
Quận 1
2212/QĐ-UBND
28/04/2012
Bảo tàng Mỹ thuật
Thành phố Hồ Chí
Minh
73 Cầu Mống Đường Võ Văn Kiệt,
Phường Nguyễn Thái
Bình, Quận 1 và
đường Bến Vân Đồn,
Phường 12, Quận 4
Số 1518/QĐ-
UBND
28/3/2014
Khu Quản lý giao
thông đô thị số 1
74 Mộ cổ họ Lâm Số 55C đường
Nguyễn Thị Minh
Khai, phường Bến
Thành
Số 1760/QĐ-
UBND
10/4/2014
75 Đền thờ Hùng
Vương
Số 02 đường Nguyễn
Bỉnh Khiêm, phường
Bến Nghé, Quận 1
Số 3083/QĐ-
UBND
25/6/2015
Bảo tàng Lịch sử -
Thành phố Hồ Chí
Minh
76 Bệnh viện Nhi đồng
2
Số 14 đường Lý Tự
Trọng, phường Bến
Nghé, Quận 1
Số 2438/QĐ-
UBND ngày
16/5/2016
QUẬN 3
77 Đình Xuân Hòa 129 Lý Chính
Thắng Phường 7
Số
137/2003/QĐ-UB
5/8/2003
Ban Quí tế
78 Miếu Thánh Mẫu 284 Nguyễn thị
Minh Khai Phường
5
Số 4836/QĐ-
UBND
27/10/2006
Ban Quản trị
191
79 Đình Phú Thạnh 199 Cách Mạng Tháng
Tám Phường 4
1768/QĐ-UBND
27/04/2009
Ban Quí tế
80 Trường THPT
Nguyễn Thị Minh
Khai
275 đường Điện Biên
Phủ, phường 7
2211/QĐ-UBND
28/04/2012
Trường THPT
Nguyễn Thị Minh
Khai
81 Thủy Đài số 01 Công trường
Quốc tế, Phường 6
Số 1519/QĐ-
UBND
82 Viện Pasteur Số 167 đường
Pasteur, Phường 8,
Quận 3
Số 3087/QĐ-
UBND
25/5/2015
83 Trường THPT
Marie Curie
Số 159 đường Nam
Kỳ Khởi Nghĩa,
Phường 7, Quận 3
Số 3088/QĐ-
UBND
25/5/2015
84 Trường Trung học
Lê Quý Đôn
Số 110 đường
Nguyễn Thị Minh
Khai, Phường 6,
Quận 3
Số 2439/QĐ-
UBND ngày
16/5/2016
QUẬN 4
85 Đình Khánh Hội 71-73 Nguyễn Tất
Thành Phường 13
Số 4842/QĐ-
UBND
27/10/2006
Ban Quí tế
86 Đình Vĩnh Hội 240 Bến Vân
Đồn Phường 5
Số
118/2005/QĐ-
UBND
12/7/2005
Ban Quí tế
87 Bảo tàng Hồ Chí
minh - Chi nhánh
Thành phố Hồ Chí
Minh
1 đường Nguyễn Tất
Thành, Phường 12
2671/QĐ-UBND
31/5/2011
Bảo tàng Hồ Chí
minh - Chi nhánh
Thành phố Hồ Chí
Minh
88 Nhà cổ đô thị 236 Bến Vân
Đồn Phường 5
Số 3949/QĐ-
UBND
18/8/2011
Trung tâm Văn hóa
Quận 4
192
QUẬN 5
89 Hội quán Tam Sơn Số 118 đường Triệu
Quang Phục, Phường
11, Quận 5
Số 3084/QĐ-
UBND
25/5/2015
90 Trường THPT
chuyên Lê Hồng
Phong
Số 235 đường
Nguyễn Văn Cừ,
Phường 4, Quận 5
Số 3089/QĐ-
UBND
25/5/2015
91 Trường THCS
Hồng Bàng
Số 132 đường Hồng
Bàng, Phường 12,
Quận 5
Số 3090/QĐ-
UBND
25/5/2015
QUẬN 6
92 Đình Bình Tiên 122 đường Minh
Phụng, phường 6
3038/QĐ-UBND
20/6/2009
Ban Quí tế
93 Chùa Giác Hải Số 1017/3 đường
Hồng Bàng, Phường
12, Quận 6
3085/QĐ-UBND
25/5/2016
QUẬN 7
94 Đình Tân Quy
Đông
đường Lê Văn
Lương, KP 1, phường
Tân Phong
3132/QĐ-UBND
25/6/2009
Ban Quí tế
QUẬN 5
95 Đình Tân Kiểng 718 Trần Hưng Đạo
Phường 2
Số 4838/QĐ-
UBND 27/10/2006
Ban Quí tế
96 Hội quán Phước An 184 Hồng
Bàng Phường 12
1767/QĐ-UBND
27/04/2009
Ban Quí tế
97 Từ đường họ Lý 292 Hải Thượng Lãn
Ông Phường 14
ĐT: 38567132
1769/QĐ-
UBND 27/04/2009
Bà Nguyễn Thị Thủy
98 Từ đường Phước
Kiến
314 đường Nguyễn
Trãi, phường 8
3037/QĐ-UBND
20/6/2009
Bệnh viện Nguyễn
Trãi, Ban Quản trị
hội quán Ôn Lăng,
Ban Quản trị Hội
quán Miếu Nhị Phủ.
193
QUẬN 8
99 Chùa Sắc tứ Huệ
Lâm
154 Tùng Thiện
Vương Phường 11
186/2005/QĐ-
UBND
12/10/2005
Ban trị sự
100 Đình Hưng Phú 617/19 Bến Ba
Đình Phường 9
Số
187/2005/QĐ-
UBND
12/10/2005
Ban Quí tế
101 Đình Vĩnh Hội 46 Đinh Hòa, Phường
13
4345/QĐ-
UBND
13/10/2008
Ban Quí tế
102 Đình Phong Phú 46 Phong
Phú, Phường 12
1766/QĐ-
UBND
27/04/2009
Ban Quí tế
QUẬN 9
103 Đình Tăng Phú 236 Khu phố
3 Phường Tăng Nhơn
Phú A
4840/QĐ-
UBND
27/10/2006
Ban Quí tế
104 Chùa Bửu Sơn 341 đường Nguyễn
Văn Tăng, phường
Long Thạnh Mỹ
2209/QĐ-UBND
28/04/2012
105 Mộ ông Nghị viên
địa hạt Đặng Tân
Xuân
(trong khuôn viên
Học viện Chính trị -
Hành chính khu
vực II)
Số 99 đường Man
Thiện, phường Hiệp
Phú, Quận 9
Số 3134/QĐ-
UBND
26/6/2015
QUẬN BÌNH THẠNH
106 Chùa Sắc tứ Tập
Phước
Số 233, đường Phan
Văn Trị, Phường 11
Số
188/2005/QĐ-
UBND
12/10/2005
Hòa thượng Thích
Thiện Bảo
194
107 Chùa Văn Thánh số 115/9 đường Ngô
Tất Tố Phường 22
Số 3262/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban trị sự
108 Đình Bình Quới
Tây
đường Xô Viết Nghệ
Tĩnh, Khu phố
3 Phường 28
Số 3263/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban Quí tế
109 Nhà cổ dân dụng
truyền thống của
ông Vương Hồng
Sển
9/1 Nguyễn Thiện
Thuật Phường 14
Số
140/2003/QĐ-UB
5/8/2003
QUẬN GÒ VẤP
110 Đình An Nhơn 72/999 Lê Đức
Thọ Phường 17
Số 20/2005/QĐ-
UB 1/2/2005
Ban Quản trị
111 Hội quán Quần
Tân
số 2 Lý Thường Kiệt
Phường 7
Số 5512/QĐ-
UBND
30/11/2006
Ban Quản trị
112 Chùa An Lạc 73/16 Nguyễn Thái
Sơn Phường 4
Số 1765/QĐ-
UBND
27/04/2009
Ban trị sự
113 Miếu Thất phủ
Thiên Hậu
128 đường Nguyễn
Thái Sơn, phường 4
3130/QĐ-UBND
25/6/2009
Ban Quản trị
114 Miếu Nổi Phường 5, quận Gò
Vấp
Số 1761/QĐ-
UBND
10/4/2014
QUẬN PHÚ NHUẬN
115 Chùa Phú Long số 58 đường Huỳnh
Văn Bánh Phường
15
3265/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban trị sự
QUẬN TÂN BÌNH
116 Miếu Tân Kỳ, Miếu
Ông Bổn
1A/13, tổ 13, KP 2
đường Trường Chinh,
phường 14
3039/QĐ-UBND
20/6/2009
Ban Quí tế
195
QUẬN TÂN PHÚ
117 Mộ ông Lý Tường
Quang và bà
Nguyễn Thị Lâu
Đường Nguyễn Sơn,
phường Phú Thọ Hoà
(ĐT: 0903663780)
3131/QĐ-UBND
25/6/2009
Ông Lý Thanh Liêm
QUẬN THỦ ĐỨC
118 Chùa Thiên Phước 37/217 KP
8 Phường Trường
Thọ
Số 24/2005/QĐ-
UB 1/2/2005
Ban Trị sự
119 Đình Thần Linh
Tây
KP 2 Phường Linh
Tây
Số
328/2003/QĐ-UB
31/12/2003
Ban Quí tế
120 Mộ Tiền hiền Tạ
Dương Minh
số 10 đường số
10 khu phố 4 Phường
Linh Chiểu
3266/QĐ-
UBND
27/7/2007
UBND phường Linh
Chiểu
121 Đình Bình Thọ đường số 2, KP 7,
phường Trường Thọ
3036/QĐ-UBND
20/6/2009
Ban Quí tế
122 Chùa Sùng Đức 50 đường số 3, KP 6,
phường Trường Thọ
3040/QĐ-UBND
20/6/2009
Ban Trị sự
3.2. DI TÍCH LỊCH SỬ: 45
HUYỆN BÌNH CHÁNH
123 Đình Tân Túc Ấp 2 Thị Trấn Tân
Túc
Số
325/2003/QĐ-UB
31/12/2003
Ban Quí tế
124 Khu di tích dân
công hỏa tuyến
Vĩnh Lộc Mậu thân
1968
Ấp 4 Xã Vĩnh Lộc
A
Số
119/2005/QĐ-
UBND
12/7/2005
Ban Quản lý (thành
lập theo Quyết định
số 3345/QĐ-UBND
ngày 14/6/2006 của
UBND Huyện Bình
Chánh).
125 Láng Le - Bàu Cò Xã Tân Nhựt Số
138/2003/QĐ-UB
5/8/2003
Ban Quản lý (hoạt
động theo Quy chế
ban hành kèm theo
Quyết định
5547/QĐ-UBND
ngày 26/9/2012 của
UBND Huyện Bình
Chánh).
196
126 Rạch Già ấp 6, Xã Hưng
Long
4344/QĐ-
UBND
13/10/2008
Tổ quản lý khu di
tích xã Hưng Long
(công nhận theo
quyết định số
2117/QĐ-UB ngày
01/9/2004 của
UBND huyện Bình
Chánh)
HUYỆN CẦN GIỜ
127 Đình Dương Văn
Hạnh
đường Đương Văn
Hạnh, tổ 37, ấp Lý
Thái Bửu, xã Lý
Nhơn
3129/QĐ-UBND
25/6/2009
Ban Quí tế
128 Đình Bình Khánh
và Mộ Tiền hiền
Trần Quang Đạo
ấp Bình An - Bình
Phước, xã Bình
Khánh
2231/QĐ-UBND
02/5/2012
Ban Quản trị (thành
lập theo Quyết định
795/QĐ-UBND ngày
28/9/2012 của
UBND huyện Cần
Giờ)
HUYỆN CỦ CHI
129 Đình Cây Sộp ấp Cây Sộp, Xã Tân
An Hội
Số 5513/QĐ-
UBND
30/11/2006
Ban Quí tế
HUYỆN HÓC MÔN
130 Chùa Thiên Quang số 53/3 ấp Mỹ
Huề Xã Trung
Chánh
Số 3268/QĐ-
UBND
20/8/2007
Ban trị sự
131 Đền thờ ông Phan
Công Hớn
Ấp Tây Bắc Lân Xã
Bà Điểm
Số
327/2003/QĐ-UB
31/12/2003
Dòng tộc ông Phan
Công Hớn
132 Nơi họp Hội nghị
Xứ ủy Nam kỳ
tháng 9/1940
20 Trần Văn Mười,
ấp Xuân Thới Đông
3, xã Xuân Thới
Đông.
Số 5167/QĐ-
UBND
19/11/2010
197
QUẬN 1
133 Nhà số 14 Cách
Mạng Tháng Tám,
phường Bến Thành,
quận 1, TP. Hồ Chí
Minh
14 Cách Mạng
Tháng Tám Phường
Bến Thành
Số
139/2003/QĐ-UB
5/8/2003
Liên đoàn Lao động
Thành phố Hồ Chí
Minh
134 Quán Nhan Hương số 02 đường Nguyễn
Bỉnh Khiêm, phường
Bến Nghé
số 1515/QĐ-
UBND
28/3/2014
135 Cột cờ Thủ Ngữ Bến Bạch Đằng,
Phường Nguyễn Thái
Bình, Quận 1
Số 2440/QĐ-
UBND ngày
16/5/2016
QUẬN 10
136 Chùa Ấn Quang 243 Sư Vạn
Hạnh Phường 9
Số
120/2005/QĐ-
UBND
12/7/2005
Ban Trị sự Thành hội
Phật giáo
137 Chùa Từ Nghiêm 415-417 đường Bà
Hạt, phường 4
3128/QĐ-UBND
25/6/2009
QUẬN 12
138 Chùa Khánh An -
Cơ sở cách mạng
trong thời kỳ kháng
chiến chống thực
dân Pháp
số 1055/3D Quốc lộ
1A khu phố
3, Phường An Phú
Đông
Số 3269/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban Trị sự
139 Chùa Tường
Quang - Trụ sở Hội
Phật giáo cứu quốc
tỉnh Gia Định, cơ
sở của Tỉnh ủy Gia
Định, Chi bộ xã An
Phú Đông
số 518/5C đường
Vườn Lài, Khu phố
2, Phường An Phú
Đông
Số 3271/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban Trị sự
140 Đình Hanh Phú -
Kho lương thực của
Ban Tiếp tế tỉnh
Gia Định ở Căn cứ
An Phú Đông
đường Vườn Lài,
Khu phố 2, Phường
An Phú Đông
Số 3270/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban Quí tế
198
141 Miếu Cây Quéo Tổ 33, Khu phố 2,
Phường Trung Mỹ
Tây
Số 5514/QĐ-
UBND
30/11/2006
Ban Quí tế
142 Đền thờ Nguyễn
Ánh Thủ
Tổ 60, khu phố 5,
phường Tân thới
Nhất
Số 3948/QĐ-
UBND
18/8/2011
Ông Lê Phùng Thuận
143 Đình Tân Hội Khu phố 3, phường
Tân Hưng Thuận
số 1517/QĐ-
UBND
QUẬN 2
144 Căn cứ vùng bưng
6 xã
Khu Đồng Miếu khu
phố 3 Phường An
Phú
4302/QĐ-UBND
10/10/2008
145 Đình An Phú Khu phố 3 P. An
Phú
Số 5515/QĐ-
UBND
30/11/2006
Ban Quí tế
QUẬN 3
146 Chùa Xá Lợi 89 Bà Huyện Thanh
Quan Phường 7
Số
116/2005/QĐ-
UBND
12/7/2005
Ban trị sự
QUẬN 5
147 Chùa Thiên Tôn 117/3/2 đường An
Bình, phường 6
Số 696/QĐ-
UBND
17/02/2011
Ban trị sự
QUẬN 6
148 Cơ sở bí mật của
Thành ủy Sài Gòn -
Gia Định
91 Phạm Văn Chí
Phường 1 Quận 6
4377/QĐ-
UBND
15/10/2008
Ban Dân tộc Thành
phố
149 Mộ và đền thờ ông
Phạm Văn Chí
703 Phạm Văn
Chí Phường 7 Quận
6
4301/QĐ-
UBND
13/10/2008
Ban Quí tế đình Bình
Hoà
QUẬN 7
150 Gò Ô Môi Khu phố 1 Phường
Phú Thuận Quận 7
Số 4839/QĐ-
UBND
27/10/2006
UBND quận 7
199
151 Chùa Long Hoa số 1250/41 đường
Huỳnh Tấn Phát,
phường Phú Mỹ
Số 1761/QĐ-
UBND
10/4/2014
Hòa thượng Thích
Viên Giác - Trụ trì
QUẬN 8
152 Chùa Thiên Phước Số 1581 đường Phạm
Thế Hiển, phường 6.
Số 1763/QĐ-
UBND 27/4/2009
Ban trị sự
153 Chùa Pháp Quang -
cơ sở cách mạng
của liên quận 7-8
trong giai đoạn
1963-1975
71 đường Liên tỉnh
số 5 Phường 5 Quận
8
Số 1764/QĐ-
UBND 27/4/2009
Ban Trị sự
QUẬN 9
154 Căn cứ vùng bưng
6 xã
Phường Tăng Nhơn
Phú B và Phường
Phú Hữu Quận 9
4303/QĐ-
UBND
13/10/2008
155 Chùa Bửu Thạnh Số 50 D Nguyễn Duy
Trinh, Phường Long
Trường Quận 9
Số 5513/QĐ-
UBND
30/11/2006
Ban trị sự
QUẬN BÌNH THẠNH
156 Đình Cầu Sơn 218/1 Xô Viết Nghệ
Tĩnh Phường
26 Quận Bình Thạnh
Số
117/2005/QĐ-
UBND
12/7/2005
Ban Quản lý di tích
QUẬN BÌNH TÂN
157 Chùa Long Thạnh 1756 Tỉnh lộ 10
Phường Tân
Tạo Quận Bình Tân
Số
185/2005/QĐ-
UBND
12/10/2005
Thượng tọa Thích
Nhựt Ấn
158 Đình Tân Khai Khu phố 6, đường
Đình Tân Khai,
phường Bình Trị
Đông
Số 2230/QĐ-
UBND 02/5/2012
Ban Quí tế
QUẬN GÒ VẤP
159 Đình Hanh Thông
Số 125 đường
Nguyễn Thái Sơn,
Phường 7
Số 1516/QĐ-
UBND
28/3/2014
200
QUẬN PHÚ NHUẬN
160 Chùa Từ Vân số 62 đường Phan
Xích Long Phường
1 Quận Phú Nhuận
Số 3264/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ni sư Thích nữ Như
Nhàn
161 Chùa Quán Thế Âm Số 90 đường Thích
Quảng Đức, Phường
5, Quận Phú Nhuận
Số 3086/QĐ-
UBND
25/5/2015
QUẬN TÂN BÌNH
162 Kho bom Phú Thọ Công viên Tân
Phước, đường
Nguyễn Thị
Nhỏ Phường 9
Số 22/2005/QĐ-
UB 01/02/2005
Ban QL Công viên
Tân Phước - Công ty
Công ích & Dịch vụ
đô thị Tân Bình
QUẬN TÂN PHÚ
163 Mộ ông Nguyễn
Quý Anh và bà Lý
Thu Liên
Khu phố 1 đường
Thoại Ngọc Hầu,
phường Phú Thọ Hòa
Số 697/QĐ-
UBND
17/02/2011
Bà Nguyễn Thị Bích
Lan (trú tại số 59/7A
Phạm Viết Chánh, P
Nguyễn Cư Trinh, Q
1 - ĐT: 0909372266)
164 Đình Phú Thạnh 111 Trần Quang Cơ,
khu phố 5, phường
Phú Thạnh
Số 3947/QĐ-
UBND
18/8/2011
Ban Quản trị
165 Đình Tân Hòa Tây 17/14 đường Lương
Minh Nguyệt,
phường Tân Thới
Hòa
Số 2719/QĐ-
UBND
28/5/2013
Ban Quí tế
166 Đình Hòa Thạnh 396 đường Lũy Bán
Bích, phường Hòa
Thạnh
Số 2720/QĐ-
UBND
28/5/2013
Ban Quí tế
QUẬN THỦ ĐỨC
167 Chùa Châu Hưng 37 đường Cây Keo,
Khu phố 1, phường
Tam Phú.
Số 3946/QĐ-
UBND
18/8/2011
Hòa thượng Thích
Tắc Lãnh
Nguồn: [147]
201
Phụ lục 4
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguồn: Thành phố Hồ Chí Minh (2016), "Bản đồ hành chính
Thành phố Hồ Chí Minh", tại trang [163].
202
Phụ lục 5
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ VẺ ĐẸP SÀI GÒN XƯA VÀ NAY [90]
Chợ Bến Thành xưa
... và hiện tại
203
Dinh Thống đốc Nam kỳ được xây dựng 1870 - 1973
Nay là Hội trường Thống nhất
204
Nhà thờ Ðức Bà còn gọi là nhà thờ Chánh tòa Sài gòn được xây dựng 1863 - 1865
Nhà thờ Đức Bà hiện nay
205
Nhà hát thành phố được xây dựng từ năm 1898 đến 1900
Nhà hát Thành phố hiện nay
206
Bến Nhà Rồng xưa
Bến Nhà Rồng hiện tại.
207
Dinh Xã Tây được xây dựng 1898 - 1909.
hiện là trụ sở UBND TP.HCM
208
Ngày 11/11/1860, "sở Dây thép" Sài Gòn (tức Bưu điện Sài Gòn) được thành lập
ngày nay, Bưu điện thành phố luôn là địa chỉ thu hút khách du lịch
trong và ngoài nước