HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN BÁ TĂNG
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2014
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN BÁ TĂNG
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2014
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 9 22 90 15
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KH
248 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 367 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
OA HỌC:
1. PGS, TS. Nguyễn Văn Sự
2. PGS, TS. Nguyễn Thắng Lợi
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tác giả. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận
án đều trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được
trích dẫn đầy đủ theo quy định và không trùng lặp với các
công trình khoa học đã công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trần Bá Tăng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7
1.1. Quan niệm về di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa 7
1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 10
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố và
những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 30
Chƣơng 2: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA (1998 - 2008) 35
2.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ thành phố
Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa 35
2.2. Đảng bộ thành phố Hà Nội chỉ đạo bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa 60
Chƣơng 3: ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO BẢO
TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
(2008 - 2014) 81
3.1. Những yếu tố mới tác động và chủ trương của Đảng bộ thành
phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa 81
3.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa 97
Chƣơng 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 120
4.1. Nhận xét quá trình Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa (1998 – 2014) 120
4.2. Những kinh nghiệm chủ yếu 139
KẾT LUẬN 156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DSVH : Di sản văn hóa
KPC : Khu phố cổ
UBND : Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Di sản văn hóa (DSVH) là những bằng chứng có ý nghĩa quan trọng,
minh chứng về lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, giúp con
người biết được cội nguồn của dân tộc mình, hiểu về truyền thống lịch sử, đặc
trưng văn hóa của đất nước, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam hiện đại. Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc trong việc bảo tồn DSVH
tại Việt Nam không chỉ là bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc mà còn gắn
liền với việc bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Di sản văn hóa Việt Nam là bộ phận DSVH của nhân loại, đây là tài
sản quý giá của con người Việt Nam, là yếu tố quan trọng làm nên bản sắc
của dân tộc Việt Nam và cũng là cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa,
DSVH. Việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy DSVH là trách nhiệm của mỗi
người, mỗi tổ chức, mỗi dân tộc để thể hiện việc "uống nước nhớ nguồn" tri
ân với tiền nhân, đây cũng là những động lực tạo ra sức mạnh tinh thần và là
cội nguồn của sức mạnh vật chất để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Di sản văn hóa còn chứa đựng những giá trị kinh tế to lớn, là nguồn lực
đối với phát triển kinh tế, nếu được khai thác, sử dụng tốt sẽ góp phần quan
trọng vào việc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Nếu DSVH bị mất đi
không đơn thuần là mất tài sản vật chất, mà là mất đi những giá trị tinh thần
lớn lao không gì bù đắp nổi, đặc biệt là khi đất nước đang rất cần phát huy tối
đa nguồn nội lực để phát triển.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, Đảng và Nhà nước
rất quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của dân tộc. DSVH
dân tộc được Đảng xác định là "tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là
cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu
văn hóa" [46, tr. 63]. Đại hội IX của Đảng (2001) chủ trương: "Bảo tồn và
phát huy các di sản văn hóa dân tộc chú trọng gìn giữ, phát huy các di sản
2
văn hóa phi vật thể, tôn tạo và quản lý tốt các di sản văn hóa vật thể, các di
tích lịch sử" [47, tr. 208]. Đại hội XI của Đảng (2011) khẳng định: "Phát triển
sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa
truyền thống, cách mạng".
Hà Nội là trung tâm hội tụ và tỏa sáng văn hóa số một của cả nước, với
sự giàu có, đa dạng về các loại hình DSVH vật thể và DSVH phi vật thể. Từ
khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
đến nay, cùng với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự giúp đỡ
của cộng đồng quốc tế, sự tham gia đầy nhiệt huyết của các nhà khoa học, đặc
biệt là sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Đảng bộ và chính quyền thành phố,
việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở Hà Nội đã có những chuyển biến và
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đã có nhiều di tích khảo cổ, di tích lịch
sử kiến trúc nghệ thuật, di tích danh lam thắng cảnh, di tích tôn giáo tín
ngưỡng, các DSVH phi vật thể như lễ hội truyền thống, văn hóa dân gian,
nghệ thuật trình diễn, bí quyết nghề cổ truyền... có giá trị tiêu biểu được khôi
phục và bảo vệ, góp phần mở rộng giao lưu và hội nhập với các nước trong
khu vực và thế giới. Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình lãnh đạo
bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của Đảng bộ Thành phố Hà Nội từ năm
1998 đến nay cũng bộc lộ những hạn chế cả trong nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn, như nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền cơ sở về
vị trí, vai trò của bảo tồn, tôn tạo, gìn giữ và phát huy giá trị DSVH chưa đầy
đủ; công tác lãnh đạo, chỉ đạo quản lý di sản còn nhiều bất cập, dẫn đến tình
trạng xâm lấn đất đai, cảnh quan di sản, làm biến dạng các DSVH, biến tướng
các lễ hội truyền thống...
Thực tiễn quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến nay với những ưu điểm và hạn chế
nêu trên rất cần được nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, trên cơ sở đó
đúc kết những kinh nghiệm để vận dụng trong thời gian tới.
3
Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, trong thời gian qua đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến Đảng bộ Thành phố Hà Nội
lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH được công bố dưới nhiều cấp độ
và phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu
một cách độc lập, có tính hệ thống về quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội
lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014, dưới
góc độ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: Đảng bộ Thành phố
Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 đến
năm 2014 làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014, trên cơ sở đó đúc kết một
số kinh nghiệm để vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội
lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
Trình bày có hệ thống chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành
phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014,
qua hai giai đoạn 1998 - 2008 và 2008 - 2014.
Nhận xét và đúc kết kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội
lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà
Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Từ năm 1998 đến năm 2014, với mốc chia chương là năm
2008: Năm 1998 là thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc", cũng là năm Thành ủy Hà Nội ra chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII; Năm 2008 là năm Hà Nội
mở rộng địa giới hành chính (sáp nhập tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh và 4 xã của
huyện Lương Sơn, Hòa Bình); Năm 2014 là thời điểm các cấp bộ đảng trên
phạm vi cả nước tiến hành tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII, trong đó có Đảng bộ Thành phố Hà Nội.
Về không gian: Nghiên cứu công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH
trên địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn 1998 - 2008 (khi Hà Nội chưa mở
rộng) và khi Thành phố Hà Nội mở rộng (giai đoạn 2008 - 2014).
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ những yếu tố tác động;
chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH (bao gồm: bảo tồn và phát huy giá trị DSVH vật thể; bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH phi vật thể); nhận xét và đúc kết kinh nghiệm từ quá trình
Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 2008
đến năm 2014.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.
4.2. Nguồn tư liệu
Các tác phẩm của Mác - Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh; các văn
kiện của Đảng và Nhà nước; các văn kiện của Đảng bộ và chính quyền Thành
phố Hà Nội có liên quan đến văn hóa, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá DSVH;
5
các chương trình, báo cáo của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (nay là Sở
Văn hóa - Thể thao); các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic,
kết hợp với phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp... để làm rõ
các nội dung của luận án. Trong đó:
Phương pháp lịch sử được sử dụng để làm rõ bối cảnh, quá trình hoạch
định chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH theo diễn tiến thời gian.
Phương pháp logic dùng để làm rõ các bước phát triển tư duy nhận thức
và chỉ đạo thực tiễn của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá
trị DSVH; rút ra những ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân và đúc kết
những kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ thành phố về bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê được sử dụng nhằm làm rõ
chủ trương và luận chứng các mặt chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về
bảo tồn và phát huy giá trị DSVH qua hai giai đoạn 1998 - 2008 và 2008 - 2014.
Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh hoạt động lãnh đạo của
Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH giữa các giai
đoạn cũng như giữa Hà Nội với các địa phương khác.
5. Đóng góp về khoa học của luận án
Góp phần hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành
phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH năm 1998 đến năm 2014.
Đưa ra những nhận xét đánh giá có cơ sở khoa học về quá trình Đảng bộ
Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH năm 1998 đến
năm 2014 trên cả hai bình diện ưu điểm, hạn chế, làm rõ nguyên nhân của ưu
điểm, hạn chế.
Đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng bộ Thành phố Hà
Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần vào việc tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (qua thực tiễn địa bàn
Thành phố Hà Nội)
Góp thêm luận cứ cho việc đổi mới chủ trương, chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kinh nghiệm được đúc kết trong luận án có thể được vận dụng
trong lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của Thành phố Hà Nội trong
thời gian tới.
Luận án là tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, hoạt động
tuyên truyền giáo dục về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH; đồng thời là tài liệu
tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng và lịch sử Đảng bộ
địa phương.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án gồm 4 chương, 9 tiết
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. QUAN NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA, BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ
TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
1.1.1. Về di sản văn hóa
Di sản văn hóa là tài sản, là báu vật của tiền nhân để lại cho thế hệ sau,
như các di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc, tín ngưỡng, các di vật, cổ vật, di
tích danh lam thắng cảnh, các tác phẩm văn học, nghệ thuật... Theo nghĩa Hán -
Việt, DSVH là tài sản văn hóa có giá trị của quá khứ còn tồn tại trong cuộc
sống hôm nay và mai sau.
Nhìn nhận một cách toàn diện, DSVH là một khái niệm có tính vận
động thay đổi theo thời gian. DSVH là sản phẩm của quá khứ nhưng đó là quá
khứ đã được lựa chọn theo nhu cầu của xã hội hiện đại, là sự lựa chọn từ dĩ
vãng những ký ức, báu vật của con người, thể hiện nhu cầu, nguyện vọng,
mong muốn của xã hội hiện đại.
Luật DSVH của Việt Nam xác định: "Di sản văn hóa bao gồm di sản
văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần vật chất có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [123].
Như vậy, DSVH có hai dạng khác nhau đó là DSVH vật thể và DSVH
phi vật thể, được con người tạo ra và cũng để đáp ứng hai loại nhu cầu cơ bản
của con người đó là nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần.
Di sản văn hóa vật thể bao gồm toàn bộ những sản phẩm do sản xuất
vật chất của con người tạo ra như các công trình kiến trúc, công cụ sản xuất
và sinh hoạt, đổ ăn và đồ mặc, các phương tiện đi lại. Điều 4, Luật DSVH
định nghĩa như sau: "Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh và di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia" [27, tr. 15-16].
8
Di sản văn hóa phi vật thể được Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật DSVH ghi rõ:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng
đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng,
không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình
thức khác [123, tr. 1].
Mối quan hệ giữa DSVH vật thể và DSVH phi vật thể là mối quan hệ
tương đối, việc phân chia ranh giới giữa DSVH vật thể và DSVH phi vật thể
là việc làm không đơn giản vì sự phức tạp của nó. Chẳng hạn, ngôi đình là
kiến trúc dân gian đặc sắc của người Việt, thuộc DSVH vật thể. Tuy nhiên,
kiến thức, kỹ năng sáng tạo, nghệ thuật trang trí, chạm khắc... của ngôi đình
lại nghiêng về văn hóa phi vật thể. Tương tự như vậy, các sản phẩm thủ công
như đồ gốm, đồ thủ công mỹ nghệ... được coi là văn hóa vật thể, còn bí quyết,
kỹ thuật tạo tác sản phẩm, kiểu dáng, nghệ thuật trang trí... trên sản phẩm lại
thuộc về văn hóa phi vật thể. Rõ ràng là giữa DSVH vật thể và DSVH phi vật
thể luôn có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, đôi khi khó phân biệt rạch
ròi. Việc phân chia văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể chỉ mang ý nghĩa
tương đối.
Sự phân biệt giữa DSVH vật thể và DSVH phi vật thể sẽ còn là chủ đề
gây nhiều tranh luận, đặc biệt khi áp dụng vào công việc bảo tồn. Liệu chúng
ta có thể bảo tồn văn hóa phi vật thể mà không tiếp cận văn hóa vật thể, hay
ngược lại, bảo tồn DSVH vật thể mà không chú ý đến các giá trị phi vật thể
xung quanh nó.
Trên thực tế, sự phân biệt hai thể loại DSVH như trên chỉ có ý nghĩa quy
ước, chúng có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, khó phân biệt rạch ròi. Cả
hai loại này sẽ mất đi nếu không được cộng đồng, cá nhân giữ gìn và phát huy.
Trên cơ sở của những quan niệm, luận giải và phân tích ở trên về DSVH có thể
9
hiểu và khái quát: DSVH là tổng hợp những tài sản văn hóa truyền thống bao
gồm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong hệ thống giá trị của nó,
được con người nhận biết, qua đó tiến hành giữ gìn và phát huy nhằm đáp ứng
những nhu cầu của con người và đòi hỏi của cuộc sống hiện tại.
1.1.2. Về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
Bảo tồn theo Từ điển tiếng Việt, do Hoàng Phê chủ biên có nghĩa là
"giữ lại không để cho mất đi" còn "phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác
dụng và tiếp tục nảy nở thêm" [119, tr. 39, 768]. Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn
sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn có của nó, không để bị thay
đổi, biến hóa hay biến thái. Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, không có
khái niệm "cải biến", "nâng cao" hoặc "phát triển". Bảo tồn mang nghĩa rộng
hơn, là hoạt động giữ gìn một cách an toàn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc
phá hoại, nói cách khác là bảo quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và hãm sự
xuống cấp của kết cấu đó. Như vậy, bảo tồn là tất cả những nỗ lực nhằm hiểu
biết về lịch sử hình thành, ý nghĩa của DSVH nhằm bảo đảm sự an toàn, phát
triển lâu dài cho DSVH và khi cần đến phải đảm bảo việc giới thiệu, trưng bày,
khôi phục và tôn tạo lại để khai thác phục vụ cho hoạt động tiến bộ của xã hội.
Phát huy, trước hết là sử dụng giá trị tinh thần của DSVH trong công
tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng tình cảm; đồng thời, khái niệm "phát huy"
cũng đã bao hàm cả các hoạt động khai thác, tuy nhiên, nếu sử dụng từ "khai
thác" thay cho "phát huy" DSVH thì sẽ bị hiểu là quá thiên về tính hiệu quả
kinh tế trong sử dụng.
Có thể nói, phát huy chính là việc khai thác, sử dụng sản phẩm một
cách có hiệu quả. Công việc này xuất phát từ nhu cầu thực tế, con người
mong muốn sản phẩm của họ tạo ra phải được nhiều người cùng biết đến hoặc
đem về những lợi ích kinh tế.
Bảo tồn và phát huy DSVH luôn gắn kết chặt chẽ, biện chứng. Đó là
hai lĩnh vực thống nhất, tương hỗ, chi phối, ảnh hưởng qua lại trong hoạt
động giữ gìn tài sản văn hóa. Bảo tồn DSVH thành công thì mới phát huy
10
được các giá trị của di sản. Phát huy cũng là một cách bảo tồn di sản tốt nhất,
lưu giữ những giá trị đó trong ý thức cộng đồng xã hội. Hoạt động bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa là hai việc khác nhau, tuy nhiên do có mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ về nội dung nên hoạt động này đôi khi được gọi một
cách ngắn gọn là hoạt động bảo tồn.
Bảo tồn không thể tách rời đổi mới và phát triển; bảo tồn không có
nghĩa là giữ nguyên hoặc khôi phục lại cả những gì không còn thích hợp nữa,
những gì đã bị đào thải. Muốn thế cần có sự chắt lọc, lựa chọn kỹ càng để
xem cái gì bảo tồn nguyên vẹn, cái gì cần phải điều chỉnh, sửa đổi cho phù
hợp với sự phát triển của xã hội hiện nay.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Từ xưa đến nay, Hà Nội được mệnh danh là "Nơi lắng hồn núi sông",
"Nơi hội tụ và lan tỏa" các giá trị văn hóa của dân tộc. Điều đó mang lại sức
hấp dẫn, cuốn hút cho các học giả, các nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước
về Hà Nội. Nghiên cứu về văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH nói
chung và của Hà Nội nói riêng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được công
bố, dưới góc nhìn của khoa học lịch sử, lịch sử Đảng, văn hóa học, quản lý
văn hóa, văn hóa dân gian, xã hội học, văn học, nghệ thuật, mỹ thuật Liên
quan trực tiếp đến luận án, có thể khái quát thành các nhóm cơ bản sau đây.
1.2.1. Các nghiên cứu chung về văn hóa, di sản văn hóa, bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc
Cuốn sách Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết
hợp với tinh hoa nhân loại (1996), của Phạm Minh Hạc [68], đã đề cập đến
một số khái niệm cơ bản về văn hóa, văn minh; vai trò của văn hóa, quá trình
phát triển của văn hóa, văn minh, đồng thời nêu ra vấn đề văn minh và tác
phong công nghiệp; vị trí vai trò của văn hóa truyền thống và bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam trong công cuộc giáo dục con người; đồng thời, phải biết
tiếp biến tinh hoa văn hóa nhân loại.
11
Cục Bảo tồn Bảo tàng, Bảo tàng Hồ Chí Minh (1996), trong Kỷ yếu hội
thảo khoa học thực tiễn kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc
lệnh bảo tồn di sản văn hóa dân tộc (23/11/1945 - 23/11/1995 [174], bao gồm
những tham luận, báo cáo của các tác giả như: Lưu Trần Tiêu, Đặng Văn Bài,
Đỗ Văn Trụ Các bài viết này đã phân tích, trình bày những thành tựu, hạn
chế về công tác nghiên cứu, lưu giữ, phục dựng, trùng tu, tôn tạo và phát huy
DSVH dân tộc trong nửa thế kỷ nhân dịp kỷ niệm 50 năm (23/11/1945 -
23/11/1995) ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bảo tồn DSVH dân tộc.
Cuốn sách Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc
(1997), của Hoàng Vinh [201], đề cập đến những vấn đề lý luận về DSVH dân
tộc; về vai trò, chức năng của DSVH đối với việc lựa chọn mô hình phát triển
văn hóa dân tộc. Tác giả đưa ra khái niệm DSVH là tổng thể những tài sản văn
hóa truyền thống trong hệ thống giá trị của nó, được chủ thể nhận biết và đưa
vào sử dụng nhằm đáp ứng những nhu cầu của hiện tại. Đồng thời, giới thiệu
một số bài học kinh nghiệm trong việc bảo tồn và phát huy DSVH tại Nhật Bản
như: Luôn coi bảo tồn và khai thác tài sản văn hóa là một vấn đề quan trọng
được quy định trong các văn bản pháp luật, chính sách. Việc bảo tồn các
DSVH được nhấn mạnh trong nhận thức của mỗi người dân và vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của di sản trong quá trình phát triển bền vững của đất nước.
Nguyễn Quang Điển và cộng sự (1999), trong cuốn Bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc [57], đã có những tìm tòi, luận giải về văn hóa,
bản sắc văn hóa, bảo tồn và phát huy văn hóa, bản sắc văn hóa và di sản văn
hóa dân tộc; vai trò của các loại hình giáo dục đối với việc bảo tồn và phát
triển văn hóa dân tộc.
Nguyễn Khoa Điềm và cộng sự (2001), trong cuốn Xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc [56], xuất phát từ sự tiếp cận
văn hóa, các yếu tố cấu thành nền văn hóa, những tiền đề lý luận và thực tiễn
hoạt động văn hóa hơn nửa thế kỷ qua do Đảng lãnh đạo, đã phản ánh rõ
những nét chính yếu về tính tiên tiến của nền văn hóa mà nhân dân ta đang
12
xây dựng, về bản sắc văn hóa dân tộc. Qua hoạt động thực tiễn và tham khảo
kinh nghiệm xử lý vấn đề văn hóa ở một số nước trên thế giới, cuốn sách ghi
nhận rõ nét về thực trạng văn hóa Việt Nam, đề xuất một số giải pháp và kiến
nghị để xây dựng nền văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Từ đó, đưa ra những định hướng chiến lược cơ bản cho sự nghiệp xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Cuốn sách Một con đường tiếp cận di sản văn hóa (2005), của Lưu
Trần Tiêu và Nguyễn Quốc Hùng [176], đã tập hợp các bài nghiên cứu, bài
viết bàn về vấn đề bảo vệ, phát huy các giá trị di sản văn hóa Việt Nam; phổ
biến các quan điểm chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thực tiễn của ngành và vấn
đề xây dựng cơ sở lý luận cho ngành khoa học mới, xác lập cơ sở khoa học
cho ngành bảo tàng học.
Nguyễn Văn Huyên và cộng sự (2006), trong cuốn sách Văn hóa mục
tiêu và động lực của sự phát triển xã hội [84], đưa ra nội dung văn hóa vừa là
mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực mạnh mẽ vươn lên của xã hội loài người
trong việc thúc đẩy quá trình phát triển xã hội, để từ đó vận dụng nguyên tắc
kết hợp giữa mục tiêu và động lực văn hóa vào quá trình xây dựng và phát
triển Việt Nam hôm nay.
Bộ Văn hóa Thông tin (2006), trong công trình Một con đường tiếp
cận di sản văn hóa [30], đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu DSVH về lý luận
và thực tiễn, trong đó tiêu biểu có các bài: "Bảo tồn, tôn tạo và xây dựng khu
di tích lịch sử - văn hóa Đường Lâm"của Phan Huy Lê; "Khảo cổ học với
công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hóa" của Vũ Quốc Hiền; "Bảo tồn di
tích, nhân tố quan trọng của phát triển bền vững" của Lê Thành Vinh; "Di
tích lịch sử và văn hóa đồng bằng sông Hồng" của Đặng văn Bài, các bài
viết có thể giúp người đọc nhận diện một số vấn đề lý luận về DSVH.
Tác giả Vũ Ngọc Khánh (2007), trong cuốn sách Văn hóa lễ hội truyền
thống các dân tộc Việt Nam, [90] đã trình bày, khắc họa giúp người đọc nắm
bắt một cách có hệ thống, toàn diện những nghi thức, nghi lễ và nội dung của
13
các lễ hội, các hình thái tín ngưỡng dân gian của các dân tộc Việt Nam. Qua
đó, có thể thấy rõ vai trò quan trọng của lễ hội đối với đời sống tinh thần của
cộng đồng để từ đó biết trân trọng, kế thừa phát huy những cái hay, nét đẹp
của chúng, góp phần xây dựng nền văn hóa các dân tộc Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc.
Nguyễn Đình Thanh và cộng sự (2008), trong cuốn sách Di sản văn hóa
bảo tồn và phát triển [138], đã tập hợp những bài nghiên cứu về mối quan hệ
giữa DSVH và du lịch; giới thiệu một số kinh nghiệm bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH của một số quốc gia trên thế giới, cũng như các hoạt động bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH ở Việt Nam.
Tác giả Phạm Duy Đức và cộng sự (2009), trong cuốn sách Phát triển
văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020 những vấn đề phương pháp luận [61],
đã phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa Việt Nam và thực trạng lãnh đạo,
quản lý văn hóa của Đảng, Nhà nước; chỉ rõ mối quan hệ giữa văn hóa và các
lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, chính trị
Phạm Duy Đức và cộng sự (2010), trong cuốn sách Thành tựu trong
xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam 25 năm đổi mới (1986- 2010) [62],
là tập hợp các bài viết có chọn lọc của các chuyên gia nghiên cứu về văn hóa.
Xuất phát từ sự tiếp cận văn hóa, những yếu tố cấu thành nền văn hóa, những
tiền đề lý luận và thực tiễn hoạt động văn hóa do Đảng lãnh đạo, nội dung
cuốn sách phản ánh thực trạng văn hóa Việt Nam qua 25 năm đổi mới, chỉ ra
những thành tựu quan trọng, đồng thời vạch ra những mặt yếu kém, hạn chế,
qua đó kiến nghị và đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm tiếp theo hướng
tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tác giả Phạm Thanh Hà (2011), trong cuốn Giữ gìn bản sắc dân tộc
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay [67], đã khẳng định, vấn đề
bản sắc dân tộc và việc giữ gìn bản sắc dân tộc là mối quan tâm của nhiều
quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Vì một trong những thách thức mà toàn
14
cầu hóa đặt ra đối với sự phát triển của các nước là sự nhạt nhòa, mai một bản
sắc dân tộc. Trước tình hình đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải có những phương
thức xử lý để không những đưa đất nước phát triển đi lên, hội nhập cùng thế
giới và phát huy được sức mạnh vốn có của mình, đưa bản sắc dân tộc thành
động lực nội sinh thúc đẩy dân tộc phát triển. Trong cuốn sách, tác giả khẳng
định: "Dân tộc Việt Nam phải giữ gìn bản sắc dân tộc một cách sáng tạo,
linh hoạt; phải kết tinh lại và nâng lên tầm cao mới mọi đặc điểm tích cực của
dân tộc và những đặc điểm tích cực mới của thế giới" [67, tr. 69].
Cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng, phát triển văn
hóa Việt Nam (2011), của Nguyễn Thị Hương và cộng sự [86], đã giới thiệu kết
quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam
trong quá trình đổi mới, hội nhập dưới sự lãnh đạo của Đảng trên quan điểm là
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Tác giả Nguyễn Danh Tiên (2012), trong cuốn sách Đảng lãnh đạo xây
dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới [171], đã khái quát quá trình
Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa từ năm 1986 đến nay. Công
trình phân tích vai trò, vị trí của văn hóa, Đảng ta đã từng bước đổi mới tư
duy lý luận và đường lối văn hóa. Quá trình không ngừng bổ sung và phát
triển đường lối văn hóa của Đảng từ Nghị quyết Đại hội VI đến Nghị quyết
Đại hội XI, trong đó, Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII là bước đột phá, đánh
dấu bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng về văn hóa khi đề ra
được một chiến lược văn hóa phù hợp với công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Trên cơ sở đó, Đảng tập trung lãnh đạo xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc một cách toàn diện, trong
đó chú trọng: xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống; xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở; gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; phát triển văn học,
nghệ thuật và hệ thống thông tin đại chúng. Quá trình lãnh đạo xây dựng và
phát triển văn hóa của Đảng đã mang lại nhiều thành tựu cho sự phát triển bền
15
vững của đất nước, đồng thời, cũng thu nhận được một số kinh nghiệm quý báu.
Điều đó đã, đang và sẽ tạo tiền đề cho sự nghiệp chấn hưng nền văn hóa dân tộc
trong thế kỷ mới, trong đó sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố bảo đảm cho sự
thành công của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Cuốn sách Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam (2014),
của tác giả Trương Quốc Bình [24], đã giới thiệu các bài nghiên cứu về bảo
vệ và phát huy giá trị DSVH vật thể và phi vật thể của Việt Nam; những sắc
thái văn hóa các địa phương trong phát triển và du lịch và những kỷ niệm về
những con người và địa danh các vùng miền văn hóa; những nhìn nhận, đánh
giá vị trí, vai trò của các bộ sưu tập hiện vật đối với quá trình hoạt động tổ
chức trưng bày của các bảo tàng ở Việt Nam.
Bùi Bạch Đằng (2014), với đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014, là luận án tiến
sĩ [55], đã trình bày khái quát cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc; đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời, kế
thừa làm rõ yêu cầu khách quan, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát
huy bản sắc vă...Phan Đăng
Nhật đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian [112], đã nghiên cứu, giới thiệu hát
xẩm là nét đặc thù của hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian thủ đô mới được
30
phục hồi, rất cần được quan tâm, lưu giữ và phát huy để phục vụ cộng đồng
trong và ngoài nước. Điều này cũng theo đúng quy luật hình thành và phát
triển văn hóa phi vật thể Hà Nội, được công chúng Hà Nội đón nhận, cổ vũ.
Nguyễn Danh Tiên (2014), với bài "Bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống Hà Nội trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế",
đăng trên Tạp chí Cộng sản [172], đã nêu rõ việc bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống Hà Nội cần chú ý đến các vấn đề: Nâng cao vai trò
lãnh đạo và tinh thần trách nhiệm của các cấp ủy đảng và của từng đảng viên
đối với sự nghiệp phát triển văn hóa Thủ đô, cũng như trong việc bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của Hà Nội. Hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp quy về văn hóa, đồng thời, không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và
quản lý văn hóa. Chú trọng bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, tín ngưỡng
của Thủ đô đi đôi với không ngừng tiếp biến văn hóa toàn nhân loại. Tăng
cường xã hội hóa các hoạt động văn hóa và tăng cường đầu tư cơ sở vật chất -
kỹ thuật và xây dựng đội ngũ cán bộ văn hóa đáp ứng yêu cầu.
Những công trình khoa học nghiên cứu về văn hóa, DSVH cũng như
công tác bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH Hà Nội đã đề cập đến những vấn
đề lý luận chung về DSVH; mô tả đậm nét những di tích lịch sử, di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể của Hà Nội; nêu thực trạng bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH; đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ
CÔNG BỐ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố
Về tư liệu
Các công trình nghiên cứu về DSVH, bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH khá phong phú về thể loại, bao gồm sách, báo, tạp chí, đề tài và kỷ
yếu hội thảo khoa học, thể hiện rõ sự quan tâm của các tổ chức, cá nhân
các nhà khoa học trong và ngoài nước. Tuy nhiên, đa số những công trình
nêu trên do đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác nhau nên chưa có điều
31
kiện tập hợp, hệ thống hóa tư liệu có liên quan đến hoạt động lãnh đạo của
Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH, nhất là
trong thời kỳ từ năm 1998 đến năm 2014.
Về cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu nêu trên được tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau như văn hóa học, lịch sử văn hóa, quản lý văn hóa, bảo tồn bảo
tàng, du lịch và sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phân tích,
tổng hợp, so sánh, lịch sử, lôgic, v.v... Sự đa dạng trong cách tiếp cận và
phương pháp nghiên cứu đã cung cấp cho nghiên cứu sinh "phông" kiến thức
khá đầy đủ về văn hóa, về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH; giúp nghiên
cứu sinh có cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu đa diện hơn với sự phân tích, luận
giải bảo tồn và phát huy giá trị DSVH trong mối quan hệ biện chứng và tác động
tương hỗ với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy vậy, hầu hết các công trình
nghiên cứu được luận giải dưới góc độ văn hóa học, lịch sử văn hóa, quản lý văn
hóa, bảo tồn bảo tàng, du lịch... Một số công trình có đề cập đến đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn hóa, về bảo tồn và phát huy giá
trị DSVH, song còn ít và chưa có tính hệ thống.
Về nội dung: Điểm lại những công trình nghiên cứu nêu trên, có thể rút
ra một số kết quả sau:
Một là, các học giả, nhà nghiên cứu đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập
đến vấn đề văn hóa, DSVH, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về bảo tồn và phát huy DSVH, thực trạng bảo tồn phát huy giá trị
DSVH, công tác bảo tồn phát huy, những ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân
và bài học kinh nghiệm, những vấn đề đặt ra trong việc bảo tồn và phát huy
DSVH dân tộc nói chung và Hà Nội nói riêng dưới nhiều góc độ lý luận và
thực tiễn khác nhau.
Hai là, có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu làm rõ tầm quan trọng của
văn hoá, DSVH trong đời sống xã hội; đi sâu nghiên cứu lý luận văn hóa, khái
niệm văn hóa, DSVH, những đặc điểm của các loại hình di sản và vấn đề quản
lý di sản trong xu thế mới, nhấn mạnh đến tính thời đại và nhu cầu của con
32
người trong việc khai thác, bảo tồn và phát triển bền vững các DSVH nói
chung và DSVH Hà Nội nói riêng.
Ba là, các công trình dù tiếp cận văn hóa, DSVH theo nhiều cách khác
nhau, nhưng đều khẳng định quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển; nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
Như vậy, các công trình khoa học được đề cập dưới các góc độ tiếp cận
khác nhau những đều là những kết quả đáng trân trọng. Do đối tượng và phạm
vi nghiên cứu khác nhau nên hầu hết các công trình nghiên cứu bảo tồn, giữ
gìn và phát huy giá trị DSVH thuần túy dưới góc độ văn hóa học, lịch sử văn
hóa, quản lý văn hóa, bảo tồn bảo tàng, du lịch mà chưa đề cập nhiều đến
sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về văn hóa, DSVH và mối quan
hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của Hà Nội với tác động của kinh tế
thị trường, giữa giữ gìn với phát triển. Có thể khẳng định rằng, cho đến nay,
chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên biệt về sự lãnh
đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội đối với bảo tồn và phát huy giá trị DSVH
từ năm 1998 đến năm 2014.
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học đi trước, việc bổ sung vào khoảng trống các vấn đề nghiên cứu còn bỏ ngỏ
để hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH ở Hà Nội là hướng phát triển nghiên cứu tiếp theo.
1.3.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Một là, các yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hà Nội
về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014. Để làm sáng tỏ
vấn đề này, nghiên cứu sinh tập trung phân tích làm rõ các yếu tố tác động đó là vị
trí địa lý, điều kiện tự nhiên, truyền thống văn hóa của Hà Nội; quan điểm chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH;
33
thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị DSVH Hà Nội trước năm 1998. Hệ thống
hóa, làm rõ chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá
trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
Hai là, quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội chỉ đạo bảo tồn và phát huy
các giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014, qua hai giai đoạn 1998 -
2008 và 2008 - 2014, trên hai lĩnh vực:
- Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH vật thể (bao gồm bảo tồn và phát huy
giá trị di tích lịch sử (di tích lưu niệm sự kiện, di tích lưu niệm danh nhân); di tích
kiến trúc nghệ thuật; di tích khảo cổ; danh lam thắng cảnh)
- Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể (bao gồm bảo tồn và
phát huy giá trị lễ hội truyền thống, nghệ thuật trình diễn dân gian, tập quán
xã hội và tín ngưỡng, nghề thủ công truyền thống, tri thức dân gian).
Ba là, ưu điểm và hạn chế trong quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội
lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm
2014. Để có được những nhận xét bảo đảm tính khách quan, trung thực về
quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH từ năm 1998 đến năm 2014, nghiên cứu sinh dựa chắc vào kết quả
nghiên cứu đã trình bày ở hai chương mô tả lịch sử, đồng thời bám sát các văn
kiện, nghị quyết của Trung ương và Thành phố Hà Nội, đối chiếu so sánh với
các địa phương khác, từ đó làm rõ ưu điểm, hạn chế trong hoạch định chủ
trương, trong chỉ đạo thực hiện cũng như những kết quả đạt được trong thực
tiễn về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
Bốn là, những kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội
lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014. Từ
thực tiễn quá trình hoạch định chủ trương, chỉ đạo tổ chức thực hiện và những
kết quả đạt được trong thực tiễn, nghiên cứu sinh đúc kết những kinh nghiệm,
phân tích làm rõ nội dung từng kinh nghiệm, đề xuất những vấn đề cần vận
dụng trong thời gian tới.
34
Tiểu kết chƣơng 1
Hà Nội là cái tên có sức cuốn hút và hấp dẫn lớn đối với các học giả,
các nhà nghiên cứu, bởi nơi đây là trung tâm hội tụ và tỏa sáng văn hóa của
đất nước. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH nói chung và của Hà Nội nói riêng đã công bố dưới các góc
nhìn khác nhau như: Khoa học lịch sử, lịch sử Đảng, văn hóa học, quản lý văn
hóa, văn hóa dân gian, xã hội học, văn học, nghệ thuật, mỹ thuật được tác
giả trình bày tại chương này. Có thể khái quát thành các nhóm cơ bản như:
Nghiên cứu chung về văn hóa, DSVH, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH dân
tộc; nghiên cứu về DSVH, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở các địa
phương trên cả nước và nghiên cứu về DSVH, bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH Hà Nội.
Các học giả, nhà nghiên cứu đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn
đề văn hóa, DSVH, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
về việc bảo tồn và phát huy DSVH, thực trạng bảo tồn phát huy giá trị di sản
văn hóa, công tác bảo tồn phát huy, những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và
kinh nghiệm, những vấn đề đặt ra trong việc bảo tồn và phát huy DSVH dân
tộc nói chung và Hà Nội nói riêng dưới nhiều góc độ lý luận và thực tiễn.
Các công trình, bài viết với cánh tiếp cận khác nhau đã đạt được những
kết quả đáng trân trọng về nghiên cứu bảo tồn, giữ gìn và phát huy giá trị
DSVH dưới góc độ văn hóa học, lịch sử văn hóa, quản lý văn hóa, bảo tồn
bảo tàng, du lịch Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu kết quả nghiên cứu của các
nhà khoa học đi trước, luận án này nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng
bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến
năm 2014, đúc kết những kinh nghiệm để vận dụng trong thời gian tới.
35
Chƣơng 2
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO
CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA (1998 - 2008)
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
2.1.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành
phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Thành phố Hà Nội
* Điều kiện tự nhiên
Về vị trí địa lý: Thành phố Hà Nội nằm ở trung tâm vùng tam giác châu
thổ đồng bằng sông Hồng, định tại vị trí 20°53’ đến 21°23’ vĩ độ Bắc và từ
105°44’ đến 106°02’ kinh độ Đông. Trước khi mở rộng địa giới hành chính
năm 2008, Hà Nội có 09 quận nội thành gồm: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà
Trưng, Đống Đa, Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Long Biên, Hoàng Mai và
05 huyện ngoại thành gồm: Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh
Trì. Diện tích của Hà Nội là 920,97 km2.
Khí hậu Hà Nội khá tiêu biểu cho kiểu khí hậu Bắc bộ với đặc điểm của
khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, mưa ít.
Hà Nội có đủ bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nhiệt độ không khí trung bình
năm của Hà Nội là 24°C.
Hà Nội có chế độ thủy văn chia ra làm 2 mùa rõ rệt, mùa lũ trùng với
mùa mưa, kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10; mùa cạn thường kéo dài hơn mùa
mưa, tới 7 tháng, từ tháng 11 đến tháng 5.
Về sông ngòi, hồ đầm: Hà Nội, thuộc hai hệ thống sông chính là sông
Hồng và sông Thái Bình. Ngoài ra còn có các hệ thống sông Tô Lịch, sông
Kim Ngưu, song Nhuệ, sông Lừ, sông Sét. Hà Nội có nhiều hồ đầm tự nhiên
vừa tạo môi trường cảnh quan sinh thái đẹp cho thành phố vừa để làm nơi tiêu
36
nước khi có mưa, làm nơi dự trữ nước tưới cho cây xanh thành phố. Nhiều hồ
lớn như hồ Tây có diện tích lớn nhất, hơn 500 ha. Hồ Gươm nằm ở trung tâm
thành phố, khu vực sầm uất nhất, luôn giữ một vị trí đặc biệt đối với Hà Nội,
ngoài ra còn có những hồ nổi tiếng khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Bảy
mẫu, Ba mẫu, Thủ Lệ, Văn Chương, Giảng Võ, Ngọc Khánh...
Địa hình Hà Nội khá đa dạng, làm phong phú cảnh quan tự nhiên, tạo
những nét độc đáo. Phía Tây Hà Nội và vùng phụ cận là dãy núi Ba Vì; phía
Bắc Hà Nội là vùng đồi núi Sóc Sơn; khoảng cách dài nhất từ phía Bắc xuống
phía Nam thành phố trên 50 km, chỗ rộng nhất từ Tây sang Đông 30 km.
Về địa giới hành chính, trải qua nhiều thời kì lịch sử, Thủ đô Hà Nội đã
có nhiều tên gọi khác nhau. Năm 1010, nhà Lý đổi tên thành Đại La là thành
Thăng Long, đến thời nhà Lê đổi tên là thành Đông Đô, và chính thức mang tên
Hà Nội từ triều Nguyễn đến nay. Sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành
công, Hà Nội chính thức được chọn là Thủ đô. Sau 9 năm kháng chiến, ngày
10/10/1954 Thủ đô hoàn toàn giải phóng, với diện tích tự nhiên là 152,2 km2;
dân số 530 nghìn người. Từ đó đến trước năm 2008, để phù hợp với sự phát
triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn của đất nước, Hà Nội đã trải qua 3 lần
điều chỉnh lớn về địa giới hành chính:
Lần thứ nhất: Năm 1961, Quốc hội khóa II quyết định điều chỉnh địa
giới hành chính Hà Nội. Theo đó, địa giới Hà Nội sau khi mở rộng có diện
tích 586,2 km2 gồm 4 khu nội thành và 4 huyện ngoại thành.
Lần thứ hai: Năm 1978, Quốc hội khóa VI quyết định mở rộng địa giới
hành chính, nâng diện tích lên 2,123 km2, gồm 4 khu nội thành và 12 huyện
thị xã ngoại thành.
Lần thứ ba: Năm 1991, Quốc hội khóa VIII quyết định điều chỉnh thu
hẹp địa giới hành chính Thành phố Hà Nội. Theo đó diện tích Hà Nội còn
921,8 km2, gồm 4 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành.
Với vai trò và vị trí là Thủ đô của Việt Nam, là trái tim của cả nước, cư
quan đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa
37
học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, Hà Nội ngày càng phát triển, tiêu
biểu cho văn hóa và truyền thống dân tộc Việt Nam.
* Về lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người
Khái lược về lịch sử Hà Nội: Trước khi Lý Công Uẩn định đô (năm
1010), vùng đất Hà Nội đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài mà nổi bật là
tính chất trung tâm của châu thổ Bắc Bộ, hội đủ các yếu tố để phát triển thành
trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế của cả khu vực và đất nước.
Triều đại Nhà Lý (1009-1225), đã xây dựng Thăng Long - Hà Nội trở
thành một trung tâm chính trị - hành chính, trung tâm kinh tế - văn hóa số một
của quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt. Vai trò trung tâm Thăng Long đã phát
huy mạnh mẽ ảnh hưởng ra bên ngoài trong việc chống ngoại xâm và bảo vệ
độc lập dân tộc.
Bước sang thời nhà Trần (1226-1400), thời kỳ nhà Lê Sơ từ năm 1428,
thời kỳ nhà Mạc từ năm 1527, đến thời kỳ Nam - Bắc triều (1532-1592), cũng
như thời kỳ vua Lê - chúa Trịnh (1592-1786) Thăng Long - Đông Đô - Đông
Kinh - Hà Nội luôn là trung tâm để xây dựng chính quyền trung ương, là quốc
đô của đất nước, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao tại
kinh đô nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
Năm 1831, nhà Nguyễn cho thành lập tỉnh Hà Nội, năm 1888 thực dân
Pháp cho thành lập TP. Hà Nội. Năm 1902 thực dân Pháp quyết định chọn Hà
Nội để xây dựng trở thành Thủ đô của Liên bang Đông Dương.
Năm 1945, sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9 tại Hà
Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, kể từ năm đó đến nay
Hà Nội tiếp tục được chọn làm Thủ đô và là trung tâm của đất nước.
Tóm lại, dù trải qua không ít thăng trầm, vùng đất Hà Nội ngày nay từ
rất sớm đã được lựa chọn làm vị trí trung tâm đất nước. Cho đến hết thời
trung đại, ngay cả khi Thăng Long - Hà Nội trở thành "cố đô", thì vai trò
trung tâm của đô thị này vẫn được khẳng định.
38
Về dân cư: Kể từ khi Thăng Long trở thành kinh đô của đất nước, thì
cũng là nơi cư dân tập trung sinh sống và làm việc, buôn bán bao gồm: Vua
quan, quý tộc, quan lại, binh lính, thương nhân - chủ hiệu, những người sản
xuất nhỏ, kiêm buôn bán nhỏ từ các làng nông thôn phụ cận đến Thăng Long -
Hà Nội trong các ngày phiên chợ để mua bán, trao đổi, sau đó lại trở về làng
quê của mình. Các thợ thủ công chủ yếu có nguồn gốc một phần là dân của
một số làng ven đô, một số lớn khác là từ các làng quê chuyên làm nghề thủ
công thuộc các vùng lân cận đã di cư lên hành nghề tại Thăng Long - Hà Nội.
Khi mang nghề chuyên của mình lên Thăng Long - Hà Nội, họ mở cửa hiệu
sinh nhai lập nên các phố chuyên nghề và chuyên mặt hàng buôn bán, phần
lớn bao gồm những thợ thủ công cùng một làng quê gốc. Tại phố phường nơi
họ sinh sống, tinh thần đoàn kết cộng đồng của những người cùng một làng
quê gốc cũng được các thợ thủ công - thương nhân gắn bó với nhau, họ cùng
nhau chung tiền đóng góp xây dựng nhiều đình chùa, miếu mạo thờ thành
hoàng làng quê gốc hoặc ông tổ nghề, duy trì việc thờ cúng, như đối với tổ
các nghề thêu, lọng, đúc đồng, sơn, đồ gỗ, thuộc da.
Về kinh tế: Hà Nội là nơi tập trung các khu công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, các làng nghề; trung tâm thương mại, triển lãm, du lịch, dịch vụ lớn
của cả nước và là nơi có kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại của Việt Nam.
Trong mối quan hệ kinh tế vùng, với vị trí trung tâm, Hà Nội vừa tạo nên lực
hút, vừa có tác động lan tỏa đến đời sống kinh tế xã hội của các tỉnh phía Bắc,
đặc biệt là vùng Thủ đô. Đồng thời, Hà Nội có vai trò đặc biệt quan trọng
trong sự phát triển kinh tế của các tỉnh phía Bắc và quốc gia.
Về phát triển kinh tế, trong những năm cuối của thế thế kỷ XX và thập
niên đầu của thế kỷ XXI, Hà Nội có bước tăng trưởng với tốc độ nhanh, trung
bình hằng năm khoảng trên dưới 10%. Năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
11,0% so với năm 2009; cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm, thủy sản 6,1%;
khu vực công nghiệp - xây dựng 41,4%; khu vực dịch vụ 52,5%; GDP bình quân
đầu người đạt khoảng 38 triệu đồng, tương ứng khoảng 2.000 USD [197, tr. 14].
39
Sự tăng trưởng kinh tế liên tục với với tốc độ nhanh, cùng với thu nhập
bình quân đầu người tăng do kinh tế phát triển của Hà Nội đã tạo điều kiện cải
thiện rất lớn đời sống vật chất và tinh thần của người dân Hà Nội. Điều đó
cũng thu hút thêm nhiều lao động ở các tỉnh khác đến sinh sống ở Hà Nội đã
thúc đẩy gia tăng nhu cầu về các lĩnh vực của đời sống trong đó nhu cầu về
văn hóa của người dân
Về văn hóa, di sản văn hóa: Hà Nội tập trung những tinh hoa văn hóa
của miền Bắc và cả nước, với vị trí kinh đô khiến thành phố này trở thành nơi
quy tụ của những nhân vật ưu tú, những thương nhân, những nghệ nhân,
những thợ thủ công lành nghề. Những danh nhân, nhân vật nổi tiếng của Việt
Nam phần đông xuất thân từ những vùng đất khác, nhưng kinh đô Thăng
Long thường là nơi họ xây dựng nên sự nghiệp. Môi trường cạnh tranh của
đất kinh thành khiến những thương nhân, thợ thủ công trụ vững lại Hà Nội
phải là những người xuất sắc, tài năng. Khi những người dân tứ xứ về định cư
tại Thăng Long, các phong tục tập quán mà họ mang theo cũng dần thay đổi,
tạo nên nét văn hóa của Hà Nội.
Nhưng có vấn đề còn đặc biệt hơn thế là giá trị DSVH phi vật thể
Thăng Long - Hà Nội - chứa đựng trong nó nhiều nét đặc trưng văn hóa riêng
biệt, cái làm nên lối sống, nếp sống, cốt cách người Hà Nội bình dị mà tao
nhã, uyên bác mà khiêm nhường, dũng cảm mà nhân hậu, dễ gần mà không
xuồng xã. Thời chiến tranh khốc liệt có người nước ngoài đã gọi Hà Nội là
lương tri, phẩm giá con người. Trong truyền thống cũng lưu truyền niềm tự
hào về cốt cách thanh lịch đặc trưng của người Hà Nội: "Chẳng thơm cũng
thể hoa nhài, Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An". Những nét văn
hóa nền nã thường được thể hiện qua ngôn ngữ, trang phục, truyền thống ẩm
thực, những thú vui giải trí... So với nhiều những vùng quê khác, người dân
Hà Nội khéo léo và tinh tế, trong ứng xử hàng ngày, phong cách của người Hà
Nội xưa vẫn được xem như chuẩn mực của sự thanh tao và lịch lãm. Điểm cốt
lõi của bản sắc văn hóa Thăng Long - Hà Nội không chỉ biểu hiện ở các giá trị
40
văn hóa rất phong phú và đa dạng, mà còn ở chỗ hội tụ các tinh hoa để tạo
dựng nên nhân cách con người Thủ đô. Cư dân tứ xứ hội tụ về Hà Nội đem
theo những phong tục lề thói địa phương, rồi được chắt lọc, nâng cao, chau
chuốt trong khung cảnh văn hóa kinh kỳ, tạo thành nếp sống "Hào khí Thăng
Long", "Người Tràng An", "Hà Nội thanh lịch". Trong số những tính cách tạo
nên nét thanh lịch của người Hà Nội phải kể đến các đặc trưng riêng như hài
hòa, hiếu học, chuyên cần, hào hoa và sáng tạo. Chính từ đó mà tạo nên mặt
bằng dân trí cao, có nhiều người thành tài.
Hà Nội cũng tập trung nhiều lễ hội truyền thống, trong số các lễ hội ở
Hà Nội, có một số mang tính chất tiêu biểu cho cả nước như lễ hội Đống Đa,
Cổ Loa, Đền Sóc, Đền Đồng Nhân... Nhiều lễ hội thể hiện nét riêng của vùng
đất kinh kỳ, chẳng hạn, chỉ Thăng Long - Hà Nội mới có "tứ trấn", hội "tứ bất
tử" tôn vinh 4 vị thần linh và các hội làng khoa bảng... Trong kho tàng DSVH
phi vật thể đó có nghệ thuật ca trù và lễ hội Gióng mang tầm cỡ DSVH phi
vật thể đại diện của nhân loại.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội nêu trên vừa tạo ra thuận
lợi, vừa đặt ra những khó khăn đối với quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội
lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.
Về thuận lợi: Với thế của Thủ đô, Hà Nội luôn được sự quan tâm, giúp
đỡ to lớn của Đảng, Nhà nước, nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế về sức
người, sức của trong việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH. Hà Nội là nơi thu
hút được nhiều tài năng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ mọi
vùng miền trong cả nước. Hà Nội là nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa cả
trong và ngoài nước.
Về khó khăn: Sự đa dạng về thành phần cư dân, nhiều tập tục lạc hậu
đã gắn liền với thói quen sinh hoạt, hành xử trong đời sống hàng ngày không
dễ thay đổi, hòa nhập với lối sống mới đã hạn chế đến hiệu quả và làm
chậm quá trình xây dựng "Người Hà Nội thanh lịch, văn minh". Là cơ quan
đầu não về chính trị, trung tâm văn hóa lớn nhất của cả nước, trong quá trình
41
hội nhập, Hà Nội cũng chịu nhiều tác động bất lợi về những ảnh hưởng xấu
của những luồng văn hóa và tư tưởng tiêu cực, gây ảnh hưởng xấu đến việc
xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, giàu bản sắc. Sự suy thoái về kinh tế
những năm cuối thế kỷ XX, những khó khăn trong đời sống, sự tha hóa về tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và trong một bộ
phận cư dân, tình trạng tham nhũng nặng nề gây nhức nhối trong công luận,
làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với chính quyền thành phố.
2.1.1.2. Hệ thống di sản văn hóa ở Hà Nội và công tác bảo tồn, phát
huy giá trị di sản văn hóa ở Hà Nội trước năm 1998.
Về hệ thống di sản văn hóa ở Hà Nội trước năm 1998
Thăng Long xưa, Hà Nội ngày nay là vùng đất địa linh nhân kiệt, hội tụ
và lan tỏa văn hóa của mọi miền đất nước, nơi lưu giữ một kho tàng DSVH đa
dạng và phong phú. Nơi đây được mệnh danh là thành phố di sản với gần hai
nghìn DSVH vật thể, trong đó phải kể đến những di sản nổi tiếng như:
Hoàng thành Thăng Long là quần thể công trình kiến trúc đồ sộ được
xây dựng nối tiếp nhau qua các giai đoạn lịch sử bởi các triều đại phong kiến
và trở thành di tích lịch sử và khảo cổ quan trọng bậc nhất trong hệ thống các
di tích Việt Nam, với các giá trị nổi bật như: Minh chứng duy nhất về truyền
thống văn hóa lâu đời của người Việt ở vùng châu thổ sông Hồng qua các thời
kỳ lịch sử; là nơi tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, nhiều học
thuyết, tư tưởng có giá trị toàn cầu của văn minh nhân loại để tạo dựng nên
những nét độc đáo, sáng tạo của một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của
quốc gia và quan hệ với thế giới.
Khu quần thể di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại đây đang lưu giữ, bảo
tồn và phát huy, chăm sóc ao cá, giàn cây leo, vườn cây ăn quả, ô tô, ngôi nhà
năm 1954, đặc biệt là nhà sàn lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu tượng
cho lối sống giản dị, khiêm tốn, mềm mỏng và sự dâng hiến cho Tổ quốc và
nhân dân. Cả khu vực đầy gió, nắng và những bông hoa thơm ngát từ những
42
khu vườn xung quanh đã đón hàng triệu du khách trong nước và quốc tế về đây
để học tập và ngưỡng mộ phẩm chất cao quý và tư tưởng của người Anh hùng
giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một quần thể kiến trúc di tích lịch sử
văn hóa hàng đầu của Thủ đô và cả nước, nằm trên phố Quốc Tử Giám,
quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử
Giám bao gồm: Hồ Văn, vườn Giám và Nội tự. Khu nội tự tôn nghiêm, được
ngăn cách với vườn Giám và bên ngoài bằng tường gạch vồ, được chia làm 5
lớp có các cửa thông nhau, một cửa chính giữa có kiến trúc chủ thể là: Văn
Miếu môn, Đại Trung môn, Khuê Văn Các, Đại Thành môn, khu điện thờ,
cổng Thái Học và khu Thái Học. Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết
Nho giáo và Chu Văn An; Quốc Tử Giám được mệnh danh là Trường Đại
học đầu tiên của Việt Nam. Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một khu di tích
lịch sử mang ý nghĩa biểu trưng cho tiến trình phát triển văn hóa - giáo dục
của Việt Nam.
Cổ Loa là một quần thể di tích kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ độc đáo
trải trên địa bàn rộng lớn tại xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng, huyện Đông
Anh, Hà Nội. Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ đánh giá là "tòa thành cổ
nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong
lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ". Kết quả khảo cổ cũng phản
ánh quá trình phát triển liên tục của dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ đồ
đồng, đồ đá và đồ sắt mà đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn của nền văn minh
sông Hồng thời kỳ tiền sử của dân tộc Việt Nam. Cùng với tòa thành cổ là
những công trình tưởng niệm, công trình mang chức năng tôn giáo, tín
ngưỡng, vừa mang giá trị lịch sử văn hóa, giá trị nghệ thuật được chạm khắc
tạo hình, trang trí trên nhiều chất liệu có giá trị thẩm mỹ cao.
Khu danh thắng Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn thuộc địa bàn quận
Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Hồ Hoàn Kiếm có nghĩa là hồ trả gươm, xuất
43
hiện từ một truyền thuyết thời vua Lê Thái Tổ. Mặt hồ là tấm gương soi bóng
la đà những cây cổ thụ, rặng liễu thướt tha bóng rủ, những mái đền, chùa cổ
kính, tháp cũ rêu phong, các toà nhà mới cao tầng vươn lên trời xanh. Đền
Ngọc Sơn tọa lạc trên đảo Ngọc trong hồ, có kiến trúc độc đáo, thể hiện rõ nét
sự hòa hợp về cảnh quan, tôn giáo và văn hiến, trong Đền có các câu đối,
hoành phi và vật bài trí vô cùng linh thiêng. Cùng với Đền Ngọc Sơn còn có
nhiều công trình kiến trúc độc đáo, nổi tiếng khác của Thăng Long xưa như:
Nghi Môn, Tháp Bút - Đài Nghiên, cầu Thê Húc, cổng Đắc Nguyệt, khu
tưởng niệm vua Lê
Đình Chèm là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam, có niên đại
cách đây hơn 2.000 năm, đình được lập để thờ Lý Ông Trọng (Đức Thánh
Chèm), nay thuộc Phường Thụy Phương quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Đây là
công trình có kiến trúc nội công ngoại quốc, chắc chắn và công phu; nghệ
thuật chạm khắc độc đáo, bên ngoài có tứ linh long, ly, quy, phượng quay ra
bốn hướng, trong đình, các cột, mái được chạm trổ tinh vi với hình rồng cuốn
thủy, rồng mây, tứ linh, cá hóa rồng, hoa lá, vân mây sóng nước mang đậm
nét nghệ thuật kiến trúc thời Hậu Lê. Hậu cung có án thờ, sập thờ, long ngai,
bài vị, khám thờ. Đình còn giữ được các đạo sắc phong, văn tế, các bia đá,
chuông đồng, nhiều câu đối, hoành phi, lư hương, tượng thờ sơn son thếp
vàng có giá trị nghệ thuật cao.
Gò Đống Đa nằm trên phố Tây Sơn, tên phố được đặt theo tên nghĩa
quân Tây Sơn, thuộc phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội. Đây là
một khu di tích lịch sử có giá trị nổi bật với điểm đặc biệt không phải là chùa,
đình mà chỉ là một cái gò nổi lên giữa khu dân cư đông đúc. Gò Đống Đa là
chiến trường xưa, nơi diễn ra trận đánh thần tốc của Hoàn Đế Quang Trung
chống quân xâm lược Mãn Thanh. Năm 1989, nhân kỷ niệm 200 năm chiến
thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, công viên văn hóa Đống Đa được thành lập trên
cơ sở khu vực gò Đống Đa và cụm di tích. Đây là công trình kiến trúc mang
44
tính lịch sử văn hóa nhằm ghi nhớ công ơn của người Anh hùng áo vải Quang
Trung - Nguyễn Huệ.
Đền Hai Bà Trưng (đền Đồng Nhân) thờ Hai Bà Trưng và 6 vị nữ
tướng thân tín của Hai bà. Đền bảo lưu nhiều di vật quý như đạo sắc phong,
tượng thờ, bia đá cổ, bộ kiệu, cửa võng, hoành phi, câu đối sơn son thếp
vàng. Chùa Viên Minh, tên chữ là "Viên Minh Tự", tên Nôm là chùa Đồng
Nhân, trong chùa còn bảo lưu nhiều di vật có giá trị lịch sử, nghệ thuật, thẩm
mỹ. Đình Đồng Nhân thờ thần Cao Sơn Đại Vương, Quốc Vương Thiên Tử,
thần Đô Hồ Đại Vương và các vị thủy thần ven sông. Đình hiện còn 17 đạo
sắc phong, 2 pho tượng Phỗng, bia đá cổ, hạc thờ, khám thờ, cửa võng, có giá
trị lịch sử, nghệ thuật, thẩm mỹ...
Ngoài những DSVH vật thể trên đây, Hà Nội cũng là nơi lưu giữ một
kho tàng DSVH phi vật thể rất đa dạng và phong phú, với hơn một nghìn di
sản, được phân chia thành các nhóm như nhóm tập quán dân gian, lễ hội, tri
thức dân gian, hay nhóm các làng nghề thủ công rất nổi tiếng... Tuy nhiên, cái
tạo nên nét đặc trưng riêng mà không thể tìm thấy ở nơi khác đó là truyền
thống và cốt cách hào hoa, thanh lịch, tinh tế của người Hà Nội: “Chẳng thơm
cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”, “Nhất cao là
núi Ba Vì/ Nhất lịch, nhất sắc kinh kỳ Thăng Long”, là cái làm nên lối sống,
nếp sống, cốt cách người Hà Nội, không quá khi nói Hà Nội là lương tri,
phẩm giá con người. Lối sống cung đình phép tắc giao hòa với lối sống thị
dân ở trung tâm của đất nước được dung nạp tinh hoa các vùng, miền và trải
qua nghìn năm mài, sàng, lọc... rồi hội tụ, bồi lắng lại tạo ra văn hóa Hà Nội
có chất ...bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
162. Thị ủy Sơn Tây (2012), Nghị quyết của Ban tường vụ Thị ủy về tăng cường
lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý, bỏa tồn và phát huy giá trị di tích Làng
cổ Đường Lâm giai đoạn 2012-2020, ngày 14/12/2012, Sơn Tây.
163. Ngô Đức Thịnh (2007), "Bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể", Tạp
chí Cộng sản, (15/135).
164. Ngô Đức Thọ (2010), Văn bia Tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng
Long, NXB Hà Nội, Hà Nội.
165. Tổng kết một số vấn đề lý luận thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-
2016) (2015), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
166. Lê Văn Thuyên (1998), "Một số giải pháp bảo tồn di tích lịch sử văn hóa
và danh lam thắng cảnh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa",
Tạp chí Huế xưa và nay, (28).
167. Đỗ Thị Minh Thúy (Chủ biên) (2001), Xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc: Thành tựu và kinh nghiệm, NXB
Văn hóa Thông tin Hà Nội.
168. Nguyễn Thị Bích Thủy (2015), Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền
thống ở Hà Nội hiện nay (qua trường hợp làng Triều Khúc và Thiết
Úng), Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
174
169. Đàm Hoàng Thụ (1996), Nghiên cứu vấn đề bảo tồn di sản văn hoá nghệ
thuật trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ lịch sử văn hóa và nghệ
thuật, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.
170. Đàm Hoàng Thụ (1998), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật
ở nước ta hiện nay, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
171. Nguyễn Danh Tiên (2012), Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn
hóa trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
172. Nguyễn Danh Tiên (2014), "Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống Hà Nội trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế",
Tạp chí Cộng sản, (11).
173. Lưu Trần Tiêu (1991), "Di tích- bản thông điệp của các thế hệ", Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, (97).
174. Lưu Trần Tiêu và cộng sự (1996), "50 năm bảo tồn di sản văn hóa dân
tộc", Kỷ yếu Hội thảo khoa học thực tiễn kỷ niệm 50 năm Ngày Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bảo tồn di sản văn hóa dân tộc (23-11-1945 -
23-11-1995), Cục Bảo tồn Bảo tàng, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
175. Lưu Trần Tiêu (2002), "Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Viêt Nam",
Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, tr. 25-30.
176. Lưu Trần Tiêu, Nguyễn Quốc Hùng (2005), Một con đường tiếp cận di
sản văn hoá, NXB Thế giới, Hà Nội,
177. Trần Quốc Trị (1993), Các văn hoá trước hoà bình và hoà bình ở Bắc
Đông Dương, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
178. Lưu Minh Trị (Chủ biên) (2002), Tìm trong di sản văn hóa Việt Nam
Thăng Long Hà Nội, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
179. Lưu Minh Trị (Chủ biên) (2010), Hà Nội - Danh thắng và di tích, tập 2,
NXB Hà Nội, Hà Nội.
180. Lưu Minh Trị và cộng sự (2016), Hà Nội - Di tích cách mạng kháng
chiến và lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Hà Nội, Hà Nội.
175
181. Hoàng Trinh (1996), Vấn đề văn hóa và phát triển, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
182. Võ Quang Trọng (Chủ biên) (2010), Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể ở Thăng Long - Hà Nội, NXB Hà Nội, Hà Nội.
183. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia (2002), Tính đa dạng
của văn hóa Việt Nam: Những tiếp cận về sự bảo tồn, Công ty in và
thương mại Thái Hà xuất bản, Hà Nội.
184. Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám
(2012; 2013; 2014; 2015), Báo cáo công tác năm 2012; 2013; 2014;
2015, Hà Nội.
185. Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế (2003), Huế di sản và cuộc sống, Huế.
186. Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế (2013), Công cuộc bảo tồn di sản thế
giới ở Thừa Thiên Huế, Công ty cổ phần in Thuận Phát xuất bản, Huế.
187. Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội (2014), Khu trung tâm
Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội, di sản văn hoá thế giới, NXB Hà Nội,
Hà Nội.
188. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III (2011), Sưu tập Sắc lệnh của Chính phủ
Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945, Hà Nôi.
189. Phạm Ngọc Trung (Chủ biên) (2012), Giáo trình Lý luận văn hóa,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
190. Chu Quang Trứ (1996), Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn
giáo ở Việt Nam, NXB Thuận hóa, Huế.
191. Từ điển Triết học (1986), NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
192. UNESCO (1993), "Hội nghị tư vấn quốc tế về các di sản văn hóa phi vật
chất", Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (6/114).
193. UNESCO (1995), "Bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể
(Quan điểm của UNESCO và một số kinh nghiệm quốc tế)", Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật, (3/129).
176
194. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2006), Kế hoạch triển khai thực
hiện Chương trình số 08-CT/TU ngày 04/8/2006 của Thành ủy Hà Nội
về "Phát triển văn hoá, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh,
thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội", Hà Nội.
195. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2010), Báo cáo tổng kết các hoạt động
kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, ngày 08/11/2010, Hà Nội.
196. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2011), Báo cáo kết quả thực hiện
Chương trình 08-CT/TU về phát triển văn hoá, xây dựng người Hà Nội
thanh lịch, văn minh, thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội
giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.
197. UBND Thành phố Hà Nội (2011), Kế hoạch thực hiện Chương trình
“Phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thủ
đô, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh giai đoạn 2011 - 2015”
của Thành ủy Hà Nội, Hà Nội.
198. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo tổng hợp dự án quy
hoạch phát triển văn hóa Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm
2030, Hà Nội.
199. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2013), Báo cáo kết quả thực hiện
Luật di sản văn hóa giai đoạn 2010 - 2012 của Thành phố Hà Nội, Hà Nội.
200. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội: Báo cáo trả lời chất vấn đại biểu
HĐND Thành phố tại kỳ họp thứ 13 Hội đồng nhan dân Thành phố Hà
Nội khóa XIV ngày 07/7/2015, Hà Nội.
201. Hoàng Văn Vân (2018), Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo bảo tồn và phát
huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng từ năm 1996 đến năm 2015,
Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng.
202. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn
hoá dân tộc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
177
203. Trần Quốc Vượng, Nguyễn Vinh Phúc và Lê Văn Lan (Đồng chủ biên),
(1994), Tìm hiểu di sản văn hóa dân gian Hà Nội, NXB Hà Nội, Hà
Nội.
204. Trần Quốc Vượng, Vũ Tuân Sán (2004), Hà Nội nghìn xưa, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
205. Trần Quốc Vượng (2006), Thăng Long - Hà Nội tìm tòi và suy ngẫm,
NXB Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
206. Trần Quốc Vượng (2010), Văn hóa Hà Nội, tìm tòi và suy ngẫm, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
207. Trần Thị Hồng Yến, Thạch Thiết Hà (2007), "Bảo vệ di sản văn hoá
truyền thống ở các làng xã được chuyển thành phường tại thủ đô Hà Nội
hiện nay", Tạp chí Dân tộc học, (6).
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Nguồn: https://hanoi.ban-do.net/p/thanh-pho.html.
Phụ lục 2
BẢN ĐỒ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
Nguồn: UBND Thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo tổng hợp dự án quy hoạch
phát triển văn hóa Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Hà Nội.
Phụ lục 3
BẢN ĐỒ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Nguồn:
san-van-hoa-phi-vat/
Phụ lục 4
Phụ lục 5
Phụ lục 3
Phụ lục 3
Phụ lục 8
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ DI SẢN QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
HOÀNG THÀNH THĂNG LONG - HÀ NỘI
Hoàng thành Thăng Long là quần thể công trình kiến trúc đồ sộ được xây
dựng nối tiếp nhau qua các giai đoạn lịch sử bởi các triều đại phong kiến và trở
thành di tích lịch sử và khảo cổ quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt
Nam. Với các giá trị nổi bật như: Minh chứng duy nhất về truyền thống văn hóa lâu
đời của người Việt ở vùng châu thổ sông Hồng qua các thời kỳ lịch sử; là nơi tiếp
nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, nhiều học thuyết, tư tưởng có giá trị
toàn cầu của văn minh nhân loại để tạo dựng nên những nét độc đáo, sáng tạo của
một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của quốc gia và quan hệ với thế giới.
Ngày 12/8/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1272/QĐ-TTg,
xếp hạng Di tích lịch sử và khảo cổ Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà
Nội (quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội) là di tích Quốc gia đặc biệt.
Ngày 31/7/2010, UNESCO đã công nhận khu di tích trung tâm Hoàng thành
Thăng Long - Hà Nội là di sản văn hóa thế giới.
Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội
Nguồn:
KHU DI TÍCH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TẠI PHỦ CHỦ TỊCH
Khu quần thể di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch đã trở thành khu
tưởng niệm quan trọng của Chủ tich Hồ Chí Minh. Tại đây đang lưu giữ, bảo tồn và
phát huy, chăm sóc ao cá, giàn cây leo, vườn cây ăn quả, ô tô, ngôi nhà năm 1954,
đặc biệt là nhà sàn lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu tượng cho lối sống giản
dị, khiêm tốn, mềm mỏng và sự dâng hiến cho Tổ quốc và nhân dân. Cả khu vực
đầy gió, nắng và những bông hoa thơm ngát từ những khu vườn xung quanh đã đón
hàng triệu du khách trong nước và quốc tế về đây để học tập và ngưỡng mộ phẩm
chất cao quý và tư tưởng của người Anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn
hóa thế giới.
Ngày 12/8/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1272/QĐ - TTg
xếp hạng Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch (quận Ba Đình,
Thành phố Hà Nội) là Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt.
Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
Nguồn: https://www.bqllang.gov.vn/cum-di-tich-lich-su-van-hoa-ba-dinh/khu-
di-tich-chu-tich-ho-chi-minh-tai-phu-chu-tich.html
VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM
Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một quần thể kiến trúc di tích lịch sử văn hóa
hàng đầu của Thủ đô và cả nước, nằm trên phố Quốc Tử Giám, quận Đống Đa,
Thành phố Hà Nội. Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám bao gồm: Hồ
Văn, vườn Giám và Nội tự. Khu nội tự tôn nghiêm, được ngăn cách với vườn Giám
và bên ngoài bằng tường gạch vồ, được chia làm 5 lớp có các cửa thông nhau, một
cửa chính giữa có kiến trúc chủ thể là: Văn Miếu môn, Đại Trung môn, Khuê Văn
Các, Đại Thành môn, khu điện thờ, cổng Thái Học và khu Thái Học.
Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết Nho giáo và Chu Văn An; Quốc
Tử Giám được mệnh danh là Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam. Văn Miếu -
Quốc Tử Giám là một khu di tích lịch sử mang ý nghĩa biểu trưng cho tiến trình
phát triển văn hóa - giáo dục của Việt Nam. Ngày 10/05/2012, Thủ tướng Chính
phủ đã ký Quyết định số 548/QĐ-TTg xếp hạng Văn Miếu - Quốc Tử Giám là Di
tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt.
Khuê Văn Các trong quần thể Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Nguồn:
CỔ LOA
Cổ Loa là một quần thể di tích kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ độc đáo trải
trên địa bàn rộng lớn tại xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng, huyện Đông Anh, Hà
Nội. Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô
lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng
thành lũy của người Việt cổ". Kết quả khảo cổ cũng phản ánh quá trình phát triển
liên tục của dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ đồ đồng, đồ đá và đồ sắt mà đỉnh cao
là văn hóa Đông Sơn của nền văn minh sông Hồng thời kỳ tiền sử của dân tộc Việt
Nam. Cùng với tòa thành cổ là những công trình tưởng niệm, công trình mang chức
năng tôn giáo, tín ngưỡng, vừa mang giá trị lịch sử văn hóa, giá trị nghệ thuật được
chạm khắc tạo hình, trang trí trên nhiều chất liệu có giá trị thẩm mỹ cao.
Ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1419/QĐ-TTg
xếp hạng Cổ Loa là Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ quốc gia đặc biệt
Khu Cổ Loa, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội
Nguồn:
tich-quoc-gia-dac-biet/2063,
ĐỀN HAI BÀ TRƢNG
Đền Hai Bà Trưng còn gọi là đền Hạ Lôi, thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh,
huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội. Đền thờ hai vị liệt nữ - anh hùng dân tộc là
Trưng Trắc và Trưng Nhị - những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đánh đổ ách
thống trị của nhà Đông Hán vào năm 40 - 43 (sau Công nguyên), giành lại nền độc
lập, tự chủ dân tộc. Đồng thời, Đền còn thờ các vị anh hùng dân tộc đã đi theo Hai
Bà có công đánh giặc, dẹp yên bờ cõi. Đền hiện bảo lưu nhiều di vật quý như đạo
sắc phong, tượng thờ, hạc thờ, khám thờ, bia đá cổ, bộ kiệu, cửa võng, hoành phi,
câu đối sơn son thếp vàng, cổ vật, di vật có giá trị lịch sử, nghệ thuật, thẩm mỹ.
Ngày 09/12/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2383/QĐ-TTg
xếp hạng Đền Hai Bà Trưng (huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội) là Di tích lịch sử
quốc gia đặc biệt.
Đền Hai Bà Trưng, thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội.
Nguồn:https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/di-tich-quoc-gia-dac-
biet-cua-viet-nam-tai-ha-noi.html
ĐỀN HÁT MÔN
Đền Hát Môn ở xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội. Đền thờ
hai vị nữ anh hùng dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị, đã lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa đánh đổ ách thống trị của giặc Đông Hán vào năm 40 - 43 giành độc lập cho
dân tộc.
Di tích Đền Hát Môn là một quần thể kiến trúc nghệ thuật độc đáo được xây
dựng ở phía Bắc làng cổ, trên một khu đất có thế "long chầu hổ phục", phía trước là
gò con rùa và sông Hát chảy từ bên hữu sang bên tả. Tương truyền, nơi đây là nơi
Hai Bà đã gieo mình xuống dòng sông Hát để bảo toàn tiết hạnh của người con gái,
đền Hát Môn được khởi dựng sau khi Hai Bà Trưng hoá sinh vào cõi bất diệt.
Di tích đền Hát Môn, xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội đã
được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt
tại Quyết định số 2383/QĐ-TTg, ngày 09/12/2013.
Đền Hát Môn xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội
Nguồn: Kim Giang, https://hanoi.qdnd.vn/van-hoa-the-thao/den-hat-mon-di-
tich-quoc-gia-dac-biet-cua-thu-do-472654
ĐỀN PHÙ ĐỔNG
Đền Phù Đổng hay còn gọi là đền Gióng thờ Thánh Gióng - Phù Đổng
Thiên Vương, nằm ở xã Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội mang vẻ đẹp kiến trúc cổ xưa
cùng truyền thuyết về lịch sử chói lọi của dân tộc. Đền còn giữ được nhiều bộ phận
kiến trúc của thời Lê như: Tam quan, bái đường, hậu cung, nhà thủy đình, tượng
Thánh Gióng, đôi rồng đá, đôi sư tử đá, cỗ ngai thờ từ thời Lê, bia ký, đôi chim sứ
cổ Đặc biệt trong đền còn lưu giữ được nhiều đạo sắc phong của các triều đại
phong kiến, nhiều hoành phi câu đối có giá trị về văn hóa, lịch sử và nghệ thuật.
Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Phù Đổng (huyện Gia Lâm, Thành phố
Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di quốc gia đặc biệt theo Quyết
định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013.
Đền Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội
Nguồn:
HỒ HOÀN KIẾM VÀ ĐỀN NGỌC SƠN
Khu danh thắng Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn thuộc địa bàn quận Hoàn
Kiếm, Thành phố Hà Nội. Hồ Hoàn Kiếm có nghĩa là hồ trả gươm, xuất hiện từ một
truyền thuyết thời vua Lê Thái Tổ. Mặt hồ là tấm gương soi bóng la đà những cây
cổ thụ, rặng liễu thướt tha bóng rủ, những mái đền, chùa cổ kính, tháp cũ rêu phong,
các toà nhà mới cao tầng vươn lên trời xanh.
Đền Ngọc Sơn tọa lạc trên đảo Ngọc trong hồ, có kiến trúc độc đáo, thể hiện
rõ nét sự hòa hợp về cảnh quan, tôn giáo và văn hiến, trong Đền có các câu đối,
hoành phi và vật bài trí vô cùng linh thiêng. Cùng với Đền Ngọc Sơn còn có nhiều
công trình kiến trúc độc đáo, nổi tiếng khác của Thăng Long xưa như: Nghi Môn,
Tháp Bút - Đài Nghiên, cầu Thê Húc, cổng Đắc Nguyệt, khu tưởng niệm vua Lê
Ngày 09/12/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2383/QĐ-TTg
xếp hạng Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn là Di tích lịch sử và danh lam thắng
cảnh quốc gia đặc biệt.
Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn
Nguồn: https://sodulich.hanoi.gov.vn/kham-pha-trai-nghiem/du-lich-di-san-di-
tich/den-ngoc-son-va-khu-vuc-ho-hoan-kiem.html
ĐÌNH TÂY ĐẰNG
Đình Tây Đằng ở thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội, là một
trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam. Ngôi đình thờ Đức Thánh Tản Viên Đệ
Nhất Phúc Thần. Đình Tây Đằng là một tác phẩm nghệ thuật kiến trúc văn hóa,
chạm khắc tài hoa, sống động đặc biệt độc đáo với, đầy ắp các di vật quý giá cả về
văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của ông cha. Đây như một bảo tàng nghệ thuật của
thế kỷ 16 và là DSVH kiến trúc độc nhất vô nhị của tổ tiên ban tặng cho các thế hệ
con cháu muôn đời sau. Công trình cổ kính này được tôn vinh là "đệ nhất đình
Đoài" xét cả về niên đại, nghệ thuật kiến trúc và sức hút đối với du khách gần xa.
Đình Tây Đằng được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc
biệt (đợt 4) theo Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09-12-2013.
Đình Tây Đằng, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.
Nguồn: https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/dinh-tay-dang-mot-
di-san-van-hoa-kien-truc-vinh-tuyet.html
CHÙA THẦY
Chùa Thầy còn gọi là chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự thuộc xã Sài Sơn,
huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội. Quần thể di tích chùa Thầy có giá trị đặc biệt
về lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, thể hiện qua không gian cảnh quan, kiến
trúc, nghệ thuật chạm khắc và hệ thống tượng pháp độc đáo Đây là nơi lưu dấu
tích của thiền sư Từ Đạo Hạnh và những câu chuyện mang sắc màu của tín ngưỡng
dân gian, Đạo giáo, Phật giáo thể hiện sự dung hội tôn giáo, tín ngưỡng. Chùa Thầy
cũng ghi dấu mốc son của lịch sử trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
từng là nơi hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, đồng chí Phan Trọng Tuệ, Xuân
Thủy, Lê Quang Đạo, Xứ ủy Bắc Kỳ và Cơ quan Báo Cứu quốc.
Ngày 3/12/2014, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 2408/QĐ-TTg xếp
hạng Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách (huyện Quốc
Oai, Thành phố Hà Nội) là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt.
Chùa Thầy, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội
Nguồn:
chua-thay/
ĐỀN SÓC
Quần thể di tích Đền Sóc (còn gọi là Đền Gióng Sóc Sơn) trải từ chân núi lên
đến đỉnh núi Vệ Linh (còn gọi là núi Sóc), nằm trong địa bàn thôn Vệ Linh, xã Phù
Linh, huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội. Đền thờ đức Thánh Gióng, một trong tứ
bất tử của tín ngưỡng văn hóa dân gian Việt Nam. Quần thể di tích gắn với lễ hội
Gióng được UNESCO công nhận là Di sản thế giới phi vật thể nhân loại năm 2010 -
là một tài nguyên vô cùng quí giá. Đền Sóc không chỉ là quần thể di tích linh thiêng
thờ vị thánh của dân tộc, mà còn là một khu du lịch văn hóa, tâm linh đặc biệt của
Thủ đô và cả nước.
Ngày 31/12/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2408/QĐ-TTg
xếp hạng Đền Sóc (huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội) là Di tích kiến trúc nghệ
thuật Quốc gia đặc biệt.
Đền Thượng trong Khu Di tích ền Sóc
Nguồn:
CHÙA TÂY PHƢƠNG
Chùa Tây Phương có tên chữ "Sùng Phúc tự" là ngôi chùa nằm trên địa phận
xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Chùa Tây Phương là một công
trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo vào hạng nhất trong các ngôi chùa ở Việt Nam,
với sự kết hợp giữa phong cách kiến trúc truyền thống, không gian sinh cảnh tự
nhiên, cùng với giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật của bộ tượng Phật độc nhất vô nhị
trong chùa, xứng đáng để Tây Phương là "đệ nhất cổ tự". Chính vì lẽ đó, Ngày
31/12/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2408/QĐ-TTg xếp hạng
Chùa Tây Phương là Di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia đặc biệt.
Chùa Tây Phương, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
Nguồn: https://giacngo.vn/tuvien/chuavntrongnuoc/ ảnh: Võ Văn Tường.
CHÙA HƢƠNG
Chùa Hương là cách nói trong dân gian, trên thực tế chùa Hương hay Hương
Sơn là cả một quần thể di tích danh thắng, văn hóa, tôn giáo, với nhiều ngôi chùa
thờ Phật, đền thờ thần, các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp, bao quanh là non
nước hùng vĩ và hoang sơ, cảnh đẹp nên thơ, huyền diệu của khung cảnh hữu tình
nơi đây ngỡ như đang lạc vào thế giới tiên cảnh, đã tạo nên vẻ đẹp hoàn hảo cho
"Nam Thiên đệ nhất động". Trung tâm chùa Hương nằm ở xã Hương Sơn, huyện
Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Chùa Hương là một di tích nổi tiếng và là ngôi chùa
thiêng liêng bậc nhất tại Việt Nam.
Ngày 25/12/2017, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 2082/QĐ-TTg xếp
hạng Quần thể Hương Sơn (chùa Hương) là Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh
quốc gia đặc biệt (đợt 8).
Chùa Thiên Trù trong quần thể chùa Hương
Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Chùa_Hương; ảnh: https://tourdulich.org.vn.
ĐÌNH CHÈM
Đình Chèm là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam, có niên đại cách
đây hơn 2.000 năm, đình được lập để thờ Lý Ông Trọng (Đức Thánh Chèm), nay
thuộc Phường Thụy Phương quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Đây là công trình có kiến trúc nội công ngoại quốc, chắc chắn và công phu;
nghệ thuật chạm khắc độc đáo, bên ngoài có tứ linh long, ly, quy, phượng quay ra
bốn hướng, trong đình, các cột, mái được chạm trổ tinh vi với hình rồng cuốn thủy,
rồng mây, tứ linh, cá hóa rồng, hoa lá, vân mây sóng nước mang đậm nét nghệ thuật
kiến trúc thời Hậu Lê. Hậu cung có án thờ, sập thờ, long ngai, bài vị, khám thờ.
Đình còn giữ được các đạo sắc phong, văn tế, các bia đá, chuông đồng, nhiều câu
đối, hoành phi, lư hương, tượng thờ sơn son thếp vàng có giá trị nghệ thuật cao.
Ngày 25/12/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2082/QĐ-TTg
xếp hạng Di tích Đình Chèm là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt.
Đình Chèm, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
Nguồn:
ĐÌNH TƢỜNG PHIÊU
Đình Tường Phiêu thuộc xã Tích Giang, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà
Nội. Đình Tường Phiêu là nơi được dân lập nên để thờ Đức Tản Viên Sơn thánh -
một trong tứ bất tử được người Việt tôn thờ, phụng sự. Đình là một công trình
kiến trúc cổ kính nổi tiếng xứ Đoài, có bố cục độc đáo với duy nhất một đơn
nguyên kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao, tiêu biểu nhất là tòa Đại đình. Nghệ thuật
chạm khắc trong đình Tường Phiêu mang đậm phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê,
các di vật trong đình hiện còn bảo tồn và lưu trữ một khối lượng hiện vật phong phú
như ngai thờ, bài vị, bát bửu, cửa võng, hoành phi câu đối mang giá trị văn hóa,
nghệ thuật thế kỷ XVII, XVIII và các sắc phong của các triều đại phong kiến.
Ngày 24/12/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1820/QĐ-TTg
xếp hạng Đình Tường Phiêu là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt.
Đình Tường Phiêu, huyện Phúc Thọ Thành phố Hà Nội
Nguồn:
bang-di-tich-quoc-gia-dac-biet_249519.html
ĐÌNH SO
Đình So là đình của làng So sở hữu chung của xã Tân Hòa và Cộng Hòa,
huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội, đây là một ngôi đình đẹp có hạng của vùng đất
cổ xứ Đoài. Đình được xây dựng để thờ Tam vị Đại Vương có công giúp Đinh Bộ
Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Theo các nhà nghiên cứu, Đình So có kiến trúc vừa hài
hòa với cảnh sắc thiên nhiên, vừa mang đầy đủ yếu tố truyền thống của ngôi đình cổ
Việt Nam, các họa tiết trang trí và chạm khắc vẫn còn giữ được nguyên vẹn, đẹp và
tinh xảo. Đình hiện còn lưu giữ được 40 đạo sắc phong thần từ các triều đại phong
kiến và nhiều hoành phi, câu đối cổ có giá trị lịch sử và nghệ thuật.
Ngày 24/12/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1820/QĐ-TTg
xếp hạng Đình So (huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội) là Di tích kiến trúc nghệ
thuật quốc gia đặc biệt năm 2018.
Đình So, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội
Nguồn: https://mapio.net/pic/p-48688710/
GÕ ĐỐNG ĐA
Gò Đống Đa nằm trên phố Tây Sơn, tên phố được đặt theo tên nghĩa quân
Tây Sơn, thuộc phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội. Đây là một khu di
tích lịch sử có giá trị nổi bật với điểm đặc biệt không phải là chùa, đình mà chỉ là
một cái gò nổi lên giữa khu dân cư đông đúc. Gò Đống Đa là chiến trường xưa, nơi
diễn ra trận đánh thần tốc của Hoàn Đế Quang Trung chống quân xâm lược Mãn
Thanh. Năm 1989, nhân kỷ niệm 200 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, công
viên văn hóa Đống Đa được thành lập trên cơ sở khu vực gò Đống Đa và cụm di
tích. Đây là công trình kiến trúc mang tính lịch sử văn hóa nhằm ghi nhớ công ơn
của người Anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Ngày 24/12/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1820/QĐ-TTg
xếp hạng Gò Đống Đa là Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
Miếu Trung Liệt trong Khu di tích Gò Đống Đa
Nguồn:
ĐÌNH ĐẠI PHÙNG
Đình Đại Phùng thuộc xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà
Nội. Đình được xây dựng để thờ Vũ Hùng, một vị tướng đã có công dẹp giặc loạn
đời vua Trần Nghệ Tông. Đình hiện tại có dấu ấn của kiến trúc nghệ thuật thời Lê,
thế kỷ XVII; Đình có quy mô gồm Tiền tế và Đại đình; Đình bao gồm hai phần Đại
bái và Hậu cung và nằm trong tổng thể các ngôi đình xứ Đoài nổi tiếng, tuy không
to lớn, bề thế nhưng lại có những mảng chạm khắc dân gian rất đặc sắc, tiêu biểu
cho đình xứ Đoài. Về nghệ thuật chạm khắc, trang trí ở đình được tập trung thể hiện
ở các đầu dư, cốn, kẻ, cửa võng và bộ vì nóc. Hiện nay trong Đình còn còn bảo tồn
và lưu trữ được một khối lượng hiện vật, di vật phong phú như ngai thờ, bài vị, cửa
võng, hoành phi câu đối mang giá trị văn hóa, nghệ thuật thế kỷ XVII, XVIII và
các sắc phong của các triều đại phong kiến.
Ngày 31/12/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1954/QĐ-TTg
xếp hạng Đình Đại Phùng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt.
Đình Đại Phùng huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội
Nguồn:
ĐỀN - CHÙA - ĐÌNH HAI BÀ TRƢNG
Đền Hai Bà Trưng (đền Đồng Nhân) thờ Hai Bà Trưng và 6 vị nữ tướng thân
tín của Hai bà. Đền bảo lưu nhiều di vật quý như đạo sắc phong, tượng thờ, bia đá
cổ, bộ kiệu, cửa võng, hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng. Chùa Viên Minh, tên
chữ là "Viên Minh Tự", tên Nôm là chùa Đồng Nhân, trong chùa còn bảo lưu nhiều
di vật có giá trị lịch sử, nghệ thuật, thẩm mỹ. Đình Đồng Nhân thờ thần Cao Sơn
Đại Vương, Quốc Vương Thiên Tử, thần Đô Hồ Đại Vương và các vị thủy thần ven
sông. Đình hiện còn 17 đạo sắc phong, 2 pho tượng Phỗng, bia đá cổ, hạc thờ, khám
thờ, cửa võng, có giá trị lịch sử, nghệ thuật, thẩm mỹ.
Ngày 31/12/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1954/QĐ-TTg
xếp hạng Đền - Chùa - Đình Hai Bà Trưng là Di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia
đặc biệt.
Đền Hai Bà Trưng, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Nguồn: Nhật Hạ trong
nay/822136/quan-the-di-tich-den-hai-ba-trung-duoc-cong-nhan-la-di-tich-cap-
quoc-gia-dac-biet
Phụ lục 9
MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG
CỦA DSVH PHI VẬT THỂ ĐƢỢC UNESCO GHI DANH
CA TRÙ HÀ NỘI
Ca trù có nhiều tên gọi, tuỳ từng địa phương, từng thời điểm mà hát ca trù
còn gọi là hát ả đào, hát cửa đình, hát cửa quyền, hát cô đầu, hát nhà tơ, hát nhà trò
và hát ca công là loại hình diễn xướng bằng âm giai nhạc thính phòng rất thịnh hành
tại khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam Ca trù thịnh hành từ thế kỷ thứ
15, từng là loại ca trong cung đình và được giới quý tốc và trí thức rất yêu thích.
Đây là một loại hình nghệ thuật độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng âm
nhạc Việt Nam, là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm
nhạc gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng,
triết lý sống của người Việt.
Năm 2009, Ca trù đã được UNESCO ghi danh vào danh sách di sản văn hóa
phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.
Hát ca trù ở CLB Ca trù Bích Câu, Cát Linh, Đống Đa, Hà Nội
Nguồn: https://catrubichcau.com/catru/gioi-thieu/
LỄ HỘI GIÓNG
Hội Gióng là một lễ hội truyền thống được tổ chức ở nhiều nơi tại Hà Nội để
tưởng niệm và ca ngợi chiến công của người anh hùng truyền thuyết Thánh Gióng,
một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Có 2 hội Gióng tiêu biểu ở
Hà Nội là hội Gióng Sóc Sơn ở đền Sóc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn và hội Gióng
Phù Đổng ở đền Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm đã được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa phi vật thể nhân loại năm 2010.
Hội Gióng ở đền Sóc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội
Hội Gióng ở đền Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Nguồn:
NGHI LỄ VÀ TRÕ CHƠI KÉO CO
Nghi lễ và trò chơi kéo co được thực hành rộng rãi trong văn hóa trồng lúa ở
Đông và Đông Nam Á, với mong ước mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu hay
những tiên đoán liên quan đến sự thành công hay thất bại của nỗ lực trồng cấy.
Ở Việt Nam, kéo co được biết đến như trò chơi dân gian truyền thống, môn
thể thao mang tính đồng đội, thường có mặt trong lễ hội, sự kiện sinh hoạt cộng
đồng lôi kéo nhiều người tham gia. Nghi lễ và trò chơi này thường được thực hành
ở vùng trung du, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ với trung tâm là các tỉnh
Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Thành phố Hà Nội. Đây là vùng đất tụ cư lâu đời của
người Việt và là cái nôi của nền văn minh lúa nước.
Tháng 12/2015, UNESCO đã ghi danh môn kéo co trong đó có nghi lễ và trò
chơi kéo co của phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội là Di sản văn hóa phi
vật thể đại diện nhân loại.
Lễ, hội kéo co tại Thạch Bàn, Long Biên, Hà Hội,
Nguồn: Ngọc Thành, vnexpress.net.
THỰC HÀNH TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU
Tín ngưỡng thờ Mẫu và thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người
Việt có lịch sử lâu đời, đây là nhu cầu trong đời sống tâm linh của người Việt; mang
lại cho con người sức mạnh, niềm tin hướng đến cuộc sống thực tại với ước vọng
sức khỏe, tài lộc, may mắn Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự kết hợp một
cách nghệ thuật các yếu tố văn hóa dân gian như trang phục, âm nhạc, hát chầu văn,
múa, diễn xướng dân gian trong lên đồng và lễ hội. Hầu đồng là nghi lễ tiêu biểu
trong thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu, yêu cầu phải được thực hành trong không
gian thờ tự như đền, phủ, điện đảm bảo tính trang nghiêm từ của những người
thực hành nghi lễ cũng như sự trân trọng của những người đến dự.
Ngày 01/12/2016, thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt
được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại.
Trình diễn nghi thức thờ Mẫu, hát chầu văn tại Liên hoan phim quốc tế Hà Nội
Nguồn: https://www.nhandan.com.vn/vanhoa/item/31433202-unesco-cong-
nhan-thuc-hanh-tin-nguong-tho-mau-cua-nguoi-viet-la-di-san-van-hoa-phi-
vat-the.html