LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tác giả. Các tài liệu, số liệu trong luận án là trung thực, chính xác và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Vũ Thành Trung
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
10
1.1.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
10
1.2.
245 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Đảng bộ Quân đội lãnh đạo công tác tư tưởng từ năm 1960 đến năm 1968, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
23
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG (1960 - 1965)
28
2.1.
Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo công tác tư tưởng của Đảng bộ Quân đội (1960 - 1965)
28
2.2.
Chủ trương của Đảng bộ Quân đội về công tác tư tưởng (1960 - 1965)
43
2.3.
Đảng bộ Quân đội chỉ đạo công tác tư tưởng (1960 - 1965)
52
Chương 3
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI VỀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG (1965 - 1968)
76
3.1.
Tình hình mới tác động đến công tác tư tưởng trong quân đội (1965 - 1968)
76
3.2.
Chủ trương của Đảng bộ Quân đội về tăng cường công tác tư tưởng (1965 - 1968)
82
3.3.
Đảng bộ Quân đội chỉ đạo tăng cường công tác tư tưởng (1965 - 1968)
92
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
123
4.1.
Nhận xét quá trình Đảng bộ Quân đội lãnh đạo công tác tư tưởng (1960 - 1968)
123
4.2.
Kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ Quân đội lãnh đạo công tác tư tưởng (1960 - 1968)
143
KẾT LUẬN
166
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
169
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
170
PHỤ LỤC
195
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
1
Ban Chấp hành Trung ương
BCHTW
2
Chính trị quốc gia
CTQG
3
Chủ nghĩa tư bản
CNTB
4
Chủ nghĩa xã hội
CNXH
5
Công tác đảng, công tác chính trị
CTĐ, CTCT
6
Công tác tư tưởng
CTTT
7
Cục Tuyên huấn
CTH
8
Đảng bộ Quân đội
ĐBQĐ
9
Giáo dục chính trị
GDCT
10
Quân đội nhân dân
QĐND
11
Quân đội nhân dân Việt Nam
QĐNDVN
12
Quân ủy Trung ương
QUTW
13
Tổng cục Chính trị
TCCT
14
Tư bản chủ nghĩa
TBCN
15
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Công tác tư tưởng trong QĐNDVN là một bộ phận CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, CTTT là một mặt hoạt động cơ bản, giữ vị trí hàng đầu của CTĐ, CTCT trong quân đội; lĩnh vực trọng yếu để bồi đắp, xây dựng sức mạnh chính trị tinh thần, bảo đảm cho QĐNDVN không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong cuộc chiến tranh nhân dân, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Thực tiễn trong những năm 1960 - 1968 cho thấy, với tham vọng điên cuồng cùng những âm mưu, thủ đoạn thâm độc, đế quốc Mỹ đã từng bước đẩy cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đến bậc thang cao nhất của chiến tranh thông thường, với những biện pháp chiến tranh ác liệt nhất, tàn bạo nhất. Cùng lúc đó, tình hình thế giới biến động phức tạp, nhất là những bất đồng quan điểm, mâu thuẫn trong hệ thống XHCN và phong trào cộng sản quốc tế. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội; phải lấy xây dựng tư tưởng là nền tảng, là khâu quyết định nâng cao sức mạnh tinh thần, làm cơ sở nâng cao sức mạnh toàn diện của quân đội.
Thấm nhuần tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, dưới ánh sáng đường lối của Đảng, ĐBQĐ đã nỗ lực, sáng tạo, chủ động triển khai CTTT một cách sâu rộng, liên tục, mạnh mẽ cả về nội dung, hình thức, phương pháp và lực lượng tham gia. Theo đó, CTTT đã xây dựng, củng cố và giữ vững niềm tin vững chắc của toàn quân vào sự lãnh đạo của Đảng, ý chí quyết tâm chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà; củng cố, bồi dưỡng, phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, để QĐNDVN luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, trở thành pháo đài vững chắc về tư tưởng của Đảng, Nhà nước và nhân dân, từ đó cùng toàn Đảng, toàn dân đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công là cơ bản, quá trình ĐBQĐ lãnh đạo CTTT thời kỳ này không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, dẫn tới hiệu quả CTTT có lúc chưa cao. Thực tiễn quá trình lãnh đạo CTTT của ĐBQĐ trong những năm 1960 - 1968 rất phong phú, đa dạng, để lại nhiều kinh nghiệm quý báu, cần được nghiên cứu, tổng kết để đánh giá đầy đủ hơn và kế thừa, vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
Ngày nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc, trong đó thực hiện “phi chính trị hóa quân đội” được coi là ưu tiên hàng đầu. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đòi hỏi sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân, sự đồng thuận trong nhân dân. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh tương lai với vũ khí công nghệ cao là chủ yếu và phương hướng xây dựng QĐNDVN cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại... thì vai trò của CTTT trong quân đội càng trở nên quan trọng. Vì vậy, việc nghiên cứu, tổng kết quá trình ĐBQĐ lãnh đạo CTTT trong những năm 1960 - 1968 để rút ra những kinh nghiệm vận dụng vào giai đoạn hiện nay là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề, đã hơn bốn mươi năm kể từ khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đã có rất nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về CTTT nói chung, CTTT của ĐBQĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng, được đề cập dưới nhiều cấp độ và phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách độc lập, có tính hệ thống về quá trình ĐBQĐ lãnh đạo CTTT từ năm 1960 đến năm 1968, dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Đảng bộ Quân đội lãnh đạo công tác tư tưởng từ năm 1960 đến năm 1968” làm Luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình ĐBQĐ lãnh đạo CTTT từ năm 1960 đến năm 1968, từ đó đúc kết những kinh nghiệm để phục vụ cho lãnh đạo CTTT trong quân đội hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
Làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của ĐBQĐ về CTTT (1960 - 1968).
Trình bày có hệ thống và phân tích, làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của ĐBQĐ về CTTT từ năm 1960 đến năm 1968.
Nhận xét, đánh giá ưu điểm, hạn chế quá trình ĐBQĐ lãnh đạo CTTT (1960 - 1968).
Đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình ĐBQĐ lãnh đạo CTTT (1960 - 1968).
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động lãnh đạo CTTT của ĐBQĐ trong những năm 1960 - 1968.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: CTTT trong quân đội có phạm vi rất rộng. Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương của ĐBQĐ về CTTT từ năm 1960 đến năm 1968 và sự chỉ đạo của ĐBQĐ trên 4 mặt công tác cơ bản: (1) GDCT; (2) Tuyên truyền, cổ động, thi đua; (3) Văn hóa, văn nghệ; (4) Báo chí, xuất bản.
Về thời gian: Luận án chọn mốc thời gian nghiên cứu bắt đầu từ tháng 7-1960 (thời điểm ĐBQĐ tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất, đề ra chủ trương, phương hướng lãnh đạo các mặt công tác của quân đội đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1960 - 1965, trong đó có lĩnh vực CTTT). Mốc kết thúc là tháng 12-1968 (khi quân và dân Việt Nam đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ).
Tuy nhiên, để đảm bảo tính hệ thống và có sự so sánh đánh giá đầy đủ hơn, luận án đề cập đến một số nội dung liên quan đến CTTT trong quân đội trước và sau khoảng thời gian nói trên.
Về không gian: Trên lãnh thổ Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về CTTT nói chung và CTTT trong quân đội nói riêng.
Cơ sở thực tiễn
Luận án dựa trên thực tiễn sự lãnh đạo của ĐBQĐ đối với CTTT được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch công tác; các báo cáo tổng kết của ĐBQĐ và các đơn vị trong toàn quân về CTTT trong những năm 1960 - 1968.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, ngoài ra còn sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, để làm rõ các nội dung của luận án.
Phương pháp lịch sử được sử dụng nhằm phân kỳ thời gian, làm rõ bối cảnh lịch sử, quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo của ĐBQĐ về CTTT theo diễn tiến thời gian.
Phương pháp logic để làm rõ bước phát triển tư duy trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của ĐBQĐ về CTTT trên cơ sở xâu chuỗi các sự kiện lịch sử và liên kết nội dung của các văn bản có tính chất lãnh đạo, chỉ đạo của ĐBQĐ; khái quát các luận điểm trong luận án; đánh giá những ưu điểm, hạn chế và đúc kết những kinh nghiệm từ thực tiễn quá trình lãnh đạo của ĐBQĐ về CTTT từ năm 1960 đến năm 1968.
Phương pháp so sánh được sử dụng trong luận án nhằm so sánh sự lãnh đạo của ĐBQĐ về CTTT giữa hai giai đoạn 1960 - 1965 và 1965 - 1968; so sánh kết quả lãnh đạo CTTT trong quân đội với cả nước.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê được sử dụng nhằm khảo cứu các công trình ở chương 1, làm rõ chủ trương và luận chứng các mặt chỉ đạo của ĐBQĐ về CTTT qua hai giai đoạn 1960 - 1965 và 1965 - 1968.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án cung cấp một số tư liệu mới và hệ thống hóa tư liệu về quá trình ĐBQĐ lãnh đạo CTTT từ năm 1960 đến năm 1968.
Góp phần tái hiện một cách có hệ thống, phân tích, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của ĐBQĐ về CTTT từ năm 1960 đến năm 1968.
Đưa ra những nhận xét, đánh giá có cơ sở khoa học về quá trình lãnh đạo CTTT của ĐBQĐ trong những năm 1960 - 1968.
Những kinh nghiệm được đúc kết trong luận án có thể tham khảo, vận dụng trong lãnh đạo CTTT của quân đội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần tổng kết hoạt động lãnh đạo của ĐBQĐ về CTTT từ năm 1960 đến năm 1968.
Góp phần khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là ĐBQĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Kết quả nghiên cứu của luận án góp thêm luận cứ cho việc hoạch định chủ trương, giải pháp lãnh đạo CTTT của Đảng nói chung, của ĐBQĐ nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn
Luận án là tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam ở các học viện, nhà trường, cơ quan nghiên cứu trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 04 chương (10 tiết), kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Các công trình của tác giả nước ngoài
1.1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản ở một số nước
X.I.Xunitrencô (1982), Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô [231]. Tác phẩm chỉ rõ: “Bộ phận cấu thành hết sức quan trọng trong hoạt động của Đảng là công tác tư tưởng, mà mục đích cao nhất của nó là biện giải về mặt lý luận đường lối của Đảng, xây dựng con người phát triển toàn diện và có đời sống tinh thần phong phú, không ngừng nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp của họ, phát triển tính tích cực sáng tạo của quần chúng” [231, tr.11]. Hoạt động CTTT của Đảng Cộng sản Liên Xô tuân thủ theo những nguyên tắc tính đảng; tính khoa học; tính trung thực; sự thống nhất của lý luận và thực tiễn; kết hợp CTTT và công tác tổ chức; quan điểm đồng bộ, tính hệ thống, tính nhất quán và tính liên tục; tính nhạy bén và tính chất tiến công; tính thuyết phục, tính dễ hiểu và tính rõ ràng. Trong đó, “nguyên tắc tính đảng là nguyên tắc nền tảng của công tác tư tưởng” [231, tr.18]. Hình thức hoạt động CTTT gồm: Công tác GDCT tư tưởng, tuyên truyền và cổ động. Nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo CTTT, theo tác giả phải nâng cao hiệu quả của các mặt công tác này.
Xắcxavắt Xuânthêpphimmason (2003), Công tác tư tưởng của Đảng Nhân dân cách mạng Lào hiện nay [230]. Theo tác giả, CTTT của Đảng Nhân dân cách mạng Lào là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nhằm tác động có định hướng lên trạng thái và quá trình vận động của tư tưởng theo các quy luật riêng của nó để phát triển tiềm năng sáng tạo của tư tưởng nhằm góp phần xây dựng con người mới và xã hội mới, mà vấn đề cơ bản là xác lập thế giới quan, hệ tư tưởng và lập trường của giai cấp công nhân [230, tr.18]. Kết cấu nội dung tư tưởng gồm 3 bộ phận: Công tác nghiên cứu lý luận; công tác tuyên truyền; công tác cổ động. CTTT được thực hiện theo các nguyên tắc tính đảng, tính khoa học và tính thực tiễn. Để tăng cường CTTT, theo tác giả phải tiến hành nhiều nội dung, biện pháp, trong đó chú trọng tăng cường sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2005), Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ đổi mới [5]. Cuốn sách chỉ rõ: Công tác chính trị tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc có vai trò là công tác sống còn của công tác kinh tế và của các công tác khác; là khâu trung tâm để đoàn kết toàn Đảng, toàn dân thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước; là ưu thế chính trị quan trọng của Đảng Cộng sản Trung Quốc và của Nhà nước XHCN. Mục đích nhằm hướng tới 5 trọng điểm là: Xây dựng lý luận; hướng dẫn dư luận; giáo dục tư tưởng; hát vang giai điệu chính; xây dựng đội ngũ. Nội dung công tác chính trị tư tưởng được xác định: Lấy giáo dục niềm tin vào lý tưởng làm cốt lõi. Giáo dục các mặt lý luận cơ bản, đường lối cơ bản, cương lĩnh cơ bản của Đảng, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa tập thể và CNXH. Giáo dục tư tưởng quan trọng về “ba đại diện” và “ba chú trọng” cho toàn thể cán bộ, đảng viên; giáo dục tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, “người giàu rồi phải giàu hơn nữa”; giáo dục chính sách tình thế; giáo dục pháp chế dân chủ; giáo dục lý luận về chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần, giáo dục tri thức khoa học, tinh thần khoa học và phương pháp khoa học. Nguyên tắc, phương châm là lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình làm tư tưởng chỉ đạo. Về phương thức, phương pháp gồm: Tổ chức giáo dục; hướng dẫn dư luận; tổ chức hoạt động; nêu gương điển hình; giáo dục thông qua sản phẩm và hoạt động văn hóa; thông qua việc xây dựng, kiện toàn các quy tắc, điều lệ, chế độ để đưa ra quan niệm tư tưởng, tiêu chuẩn đạo đức.
1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng trong quân đội ở một số nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo
A.A.Episép (1974), Tóm tắt lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô từ 1918 - 1973 [65]. Theo tác giả, việc GDCT, tinh thần cho quân nhân được tiến hành theo nguyên tắc và hoạt động tư tưởng, tổ chức của Đảng, hướng vào giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa quốc tế vô sản, XHCN. Quá trình tổ chức tuyên truyền, nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng Cộng sản, phải kiên quyết đấu tranh với tư tưởng tư sản; xây dựng con người mới XHCN trong lực lượng vũ trang. Trách nhiệm đó trước hết thuộc về “các cơ quan chính trị, cán bộ chỉ huy, các tổ chức đảng và đoàn tiến hành đấu tranh chống tư tưởng tư sản; vạch trần vũ khí chính trị - tư tưởng chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc - chủ nghĩa chống cộng, đạo đức tư sản, giáo dục các chiến sĩ Xô - Viết phẩm chất của người xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, của người bảo vệ Tổ quốc Xô - Viết” [65, tr.25]. Hình thức cơ bản của CTTT là giảng dạy chính trị. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn khác nhau nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức GDCT tư tưởng sẽ có những thay đổi phù hợp.
A.A.Episép (1978), Một số vấn đề công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô [66]. Trong chương IV: CTTT của các cơ quan chính trị trong Quân đội và Hải quân, tác giả khẳng định: CTTT có vị trí, vai trò to lớn trong xây dựng quân đội kiểu mới, đặc biệt khi nhiệm vụ của xã hội càng phức tạp, càng quan trọng thì yêu cầu đối với sự trưởng thành về tinh thần, sự rèn luyện về chính trị và giai cấp của mọi người càng phải cao. “Điều đó đạt được trước hết bằng biện pháp tư tưởng, bằng việc lĩnh hội những tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và bằng sự phấn đấu tích cực, thiết thực để thực hiện những tư tưởng đó” [66, tr.270]. Nội dung GDCT cho quân nhân là giáo dục về “thế giới quan khoa học và niềm tin cộng sản chủ nghĩa là điểm trung tâm của công tác tư tưởng” [66, tr.287]. Hình thức giáo dục thông qua các buổi lên lớp chính trị, thực tiễn lao động, thực tiễn hoạt động quân sự, báo chí, tham quan, kể truyện truyền thống... Phương pháp đối với sĩ quan chủ yếu thông qua con đường tự học. Đánh giá chất lượng giáo dục được thông qua hành động, hành vi và việc làm hàng ngày, biểu hiện ở “tình cảm yêu mến đơn vị mình và qua đó, yêu mến toàn thể Hồng quân, khi người chiến sĩ đó tự hào rằng mình là chiến sĩ Hồng quân, phấn khởi vui mừng trước những thắng lợi của Hồng quân và đau buồn trước những thất bại của Hồng quân” [66, tr.294-295].
V.Mikhailốp (1979), V.I.Lênin Đảng Cộng sản Liên Xô bàn về công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang [80]. Tác giả cho rằng bên cạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục cho mọi người, cũng cần quan tâm đúng mức đến giáo dục riêng, “nếu không dựa vào các nguyên tắc này thì không thể hy vọng vào thắng lợi to lớn trong công tác giáo dục chính trị cho mọi người” [80, tr.9]. Về công tác tuyên truyền, cổ động trong Hồng quân, tác giả nhận định: “Thắng lợi của Hồng quân đạt được chủ yếu là nhờ công tác tuyên truyền tích cực chủ nghĩa cộng sản; công tác cổ động chính trị và văn hóa - giáo dục trong quần chúng Hồng quân” [80, tr.8]. Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, cổ động cần nắm chắc và vận dụng linh hoạt các nguyên tắc: Tính ứng biến, tính cụ thể, tính linh hoạt của các biện pháp và tính dễ hiểu của nó. Lực lượng làm công tác cổ động là mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng trong đơn vị, trước hết và chủ yếu là đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặt dưới sự tổ chức, hướng dẫn của cán bộ lãnh đạo các cấp.
Trung tâm Thông tin Khoa học - Công nghệ - Môi trường Bộ Quốc phòng (1998), Xây dựng văn minh tinh thần với Quân đội Trung Quốc [226]. Nội dung xây dựng văn minh tinh thần của Quân đội Trung Quốc lấy trọng tâm là hình thành phát triển đạo đức XHCN, chú trọng “xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan, giá trị quan đúng đắn” [226, tr.27], xây dựng lòng tin vào lý tưởng CNXH và chủ nghĩa cộng sản cho bộ đội. Nâng cao chất lượng tuyên truyền lý luận, đường lối, chính sách, quyết sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc và QUTW, những thành tựu và điển hình tiên tiến trong công cuộc xây dựng quân đội. “Kiên trì nguyên tắc tính Đảng” [226, tr.27] của công tác tuyên truyền.
Khămphong Saynhaphôn (2006), Nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ ở Học viện Quốc phòng Cayxỏn Phômvihản Quân đội nhân dân Lào hiện nay [127]. Theo tác giả, có 4 yếu tố cấu thành bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ ở Học viện Quốc phòng, trong đó hệ thống tri thức là yếu tố cơ bản. Do đó, cần nâng cao chất lượng công tác GDCT tư tưởng cho đội ngũ cán bộ. Nội dung GDCT tư tưởng phải toàn diện, nhưng cốt lõi là chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhiệm vụ của quân đội, nhiệm vụ của dân tộc, truyền thống của Đảng. Về hình thức giáo dục, bên cạnh những hình thức truyền thống đã phát huy hiệu quả tốt như lên lớp, giới thiệu các chuyên đề, tự nghiên cứu cần mở rộng các hình thức, biện pháp khác như tổ chức các diễn đàn, hội thảo khoa học.
Thimsảo Đuôngchămpa (2014), Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị ở các trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Lào hiện nay [64]. Tác giả quan niệm công tác GDCT là một bộ phận quan trọng trong CTTT của QĐND Lào, “có vai trò đặc biệt quan trọng góp phần xây dựng trận địa chính trị, tư tưởng vững chắc ở các trung đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Lào” [64, tr.77]. Nội dung, hình thức GDCT rất phong phú, đa dạng, song cần coi trọng giáo dục truyền thống, phổ biến giáo dục pháp luật, giáo dục thông qua hoạt động của phong trào thi đua, các cuộc vận động... Biện pháp nâng cao chất lượng GDCT, theo tác giả trước hết cấp ủy, cán bộ các cấp cần tăng cường quán triệt, nắm vững nội dung, yêu cầu GDCT, đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện.
1.1.2. Các công trình của tác giả trong nước
1.1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và bài học [2]. Nội dung tác phẩm đã đánh giá ưu điểm, hạn chế quá trình lãnh đạo kháng chiến của Đảng, đúc kết 8 bài học kinh nghiệm trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Qua những bài học đó, tác phẩm đã đề cập đến vai trò của CTTT, khẳng định muốn đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, trước hết phải có quyết tâm chiến đấu rất cao và kiên trì quyết tâm đó trong mọi hoàn cảnh, dựa trên lòng yêu nước nồng nàn - một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc. Quyết tâm đó phải được hướng dẫn bằng một đường lối chính trị đúng đắn sáng tạo, độc lập, tự chủ và phải được tuyên truyền phổ biến rộng rãi, quán triệt sâu sắc trong nhân dân, biến nó thành sức mạnh vật chất, thành các phong trào quần chúng mạnh mẽ.
Trần Trọng Tân (1995), Góp phần đổi mới công tác lý luận - tư tưởng [129]. Theo tác giả, mục đích CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam là “nhằm xây dựng cho con người có tư tưởng đúng để hành động đúng” [129, tr.278]. Vì vậy, CTTT cần hướng vào “xây dựng Đảng về mặt tư tưởng, xây dựng hình thái ý thức xã hội cho chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng cho con người sống trong xã hội mới có tư tưởng xã hội chủ nghĩa” [129, tr.278]. Thực hiện những nội dung chủ yếu CTTT của Đảng, theo tác giả: Công tác lý luận, cần mở rộng việc giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Công tác tuyên truyền, cần chú ý trước hết là tuyên truyền phổ biến các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Công tác cổ động cần làm cho người ta hăng hái thực hiện các chủ trương của Đảng và tìm mọi cách khơi dậy thành phong trào hành động cách mạng sâu rộng. Phương châm tiến hành CTTT mà người làm CTTT cần nắm vững đó là: Bám sát cuộc sống, phát huy tự do tư tưởng, đấu tranh tư tưởng theo phương pháp thuyết phục, giữ thế chủ động tiến công.
Đào Duy Tùng (1999), Một số vấn đề về công tác tư tưởng [227]. Tác giả cho rằng CTTT là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng. CTTT gồm nhiều bộ phận: “Công tác lý luận, công tác tuyên truyền, công tác cổ động” [227, tr.8]. Vai trò CTTT “là vũ khí sắc bén trong toàn bộ quá trình hoạt động của Đảng. Nó đóng vai trò to lớn trong việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức” [227, tr.13]. Tác giả rút ra 6 bài học kinh nghiệm, phương châm chỉ đạo CTTT. Theo tác giả vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đến nâng cao chất lượng CTTT của Đảng sau khi có đường lối đúng là nâng cao chất lượng nội dung tuyên truyền giáo dục. Yếu tố quyết định đến chất lượng CTTT là đội ngũ những người làm CTTT; phát huy sức mạnh tổng hợp trong tiến hành CTTT.
Hữu Thọ (2000), Bảy mươi năm công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng truyền thống vẻ vang, trách nhiệm to lớn [130]. Tác phẩm đã lược ghi các bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Tổng Bí thư của Đảng nói về CTTT văn hoá; các ý kiến của các đồng chí lãnh đạo Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương về CTTT văn hoá của Đảng; nêu rõ vị trí, vai trò, truyền thống và trách nhiệm của những người làm CTTT.
Hữu Thọ (2000), Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng văn hóa [131]. Cuốn sách tập hợp, tuyển chọn các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CTTT văn hóa từ năm 1920 đến năm 1969. Qua đó, thể hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề nội dung, nhiệm vụ, phương pháp tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao tính chủ động, tự giác, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2001), Sơ thảo lược sử công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam 1930 - 2000 [7]. Tác phẩm đã trình bày một cách hệ thống CTTT của Đảng qua các thời kỳ từ năm 1930 đến năm 2000; tập trung vào những hoạt động của các cơ quan làm CTTT ở Trung ương; đồng thời, dành một phần quan trọng giới thiệu hoạt động CTTT của các ngành, các đoàn thể, lực lượng vũ trang và của một số địa phương; phục dựng những hoạt động CTTT gắn với các hoạt động trên các lĩnh vực khác qua các thời kỳ; tổng kết lịch sử 70 năm ngành tư tưởng văn hóa, nêu ra một số kinh nghiệm trong lãnh đạo CTTT của Đảng.
Phùng Thị Hiển (2004), Công tác tư tưởng trong kháng chiến chống Mỹ: Thành công và kinh nghiệm [70]. Bài viết chỉ rõ CTTT luôn giữ vai trò rất quan trọng, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Trong cuộc đụng đầu lịch sử, CTTT của Đảng đã góp phần quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và để lại nhiều kinh nghiệm có giá trị. Theo đó, tác giả chỉ rõ những thành công nổi bật của CTTT là đã biến tinh thần quyết đánh và quyết thắng Mỹ thành niềm tin sắt đá và sự quyết tâm cao độ của tất cả người dân Việt Nam yêu nước; trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt của chiến tranh, CTTT đã phát động và tổ chức được hàng loạt các phong trào quần chúng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước; đã xây dựng được một lực lượng làm CTTT rất đông đảo, tuyệt đối trung thành và gắn bó mật thiết với nhân dân.
Phùng Thị Hiển (2008), Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền, cổ động chính trị ở miền Bắc (1960 - 1975) [71] . Dưới góc độ khoa học chuyên ngành Lịch sử Đảng, tác giả luận án đã làm rõ một số khái niệm cơ bản về CTTT, công tác tuyên truyền, cổ động chính trị; làm rõ bối cảnh lịch sử, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đối với công tác tuyên truyền, cổ động chính trị ở miền Bắc từ năm 1960 đến năm 1975, trong đó chỉ rõ chủ trương “chuyển hướng tư tưởng” ở miền Bắc của Đảng giai đoạn 1965 - 1975 so với giai đoạn 1960 - 1965. Từ đó, khẳng định 4 thành công nổi bật của công tác tuyên truyền, cổ động chính trị từ năm 1960 đến năm 1975, chỉ ra 5 hạn chế và rút ra 5 kinh nghiệm có giá trị, góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo công tác tuyên truyền, cổ động của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Ban Tuyên giáo Trung ương (2010), Lịch sử 80 năm Ngành Tuyên giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2010) [4]. Tác phẩm đã khái quát quá trình hình thành và phát triển của Ngành Tuyên giáo, mô tả những chặng đường lịch sử công tác tuyên giáo của Đảng. Trong đó đề cập đến công tác tuyên giáo trong kháng chiến chống Mỹ, chỉ rõ mọi hoạt động văn học, nghệ thuật, giáo dục, báo chí... đều hướng vào mục đích động viên toàn dân cho sự nghiệp chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Các hoạt động phong phú, đa dạng của Ngành Tuyên giáo đã tạo được những thành công lớn trên mặt trận tư tưởng, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Đào Duy Quát (2010), Công tác tư tưởng [99]. Cuốn sách đã đưa ra khái niệm CTTT; chỉ rõ các yếu tố cấu thành CTTT gồm: Chủ thể, khách thể, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện và hiệu quả CTTT. Các bộ phận cấu thành của CTTT gồm: Công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động. CTTT được thực hiện theo nguyên tắc: Tính đảng; tính khoa học; tính trung thực; sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, gắn với đời sống; quan điểm đồng bộ; tính hệ thống; tính nhất quán và tính liên tục; tính linh hoạt, tính tiến công; tính thuyết phục và tính dễ hiểu. Trong đó, tính đảng là nguyên tắc cơ bản nhất.
Lã Quý Đô (2013), Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954 [63]. Luận án trình bày khái lược CTTT của Đảng trước Cách mạng Tháng Tám; làm rõ bối cảnh lịch sử và những yêu cầu đặt ra với CTTT; luận giải chủ trương của Đảng về CTTT qua hai giai đoạn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: 1945 - 1950 và 1951 - 1954. Làm rõ quá trình chỉ đạo thực hiện CTTT của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhận xét những ưu điểm, hạn chế và rút ra 5 kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo CTTT của Đảng thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trần Thị Anh Đào (2014), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác tư tưởng [62]. Cuốn sách chỉ rõ CTTT nhằm xây dựng ý thức XHCN; định hướng giá trị xã hội đúng đắn; hình thành niềm tin cách mạng có căn cứ khoa học, thúc đẩy quần chúng tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Hình thái của CTTT bao gồm: Công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động. Đối tượng tác động của CTTT bao gồm các giai cấp, tầng lớp nhân dân, cộng đồng dân tộc, tập thể và cá nhân trong toàn xã hội. Phương thức nâng cao hiệu quả CTTT, theo tác giả phải không ngừng đổi mới hình thức, phương pháp CTTT; tăng cường phương pháp đối thoại; đa dạng hóa phương thức giáo dục truyền thống; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với CTTT.
1.1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến công tác tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị (1990), Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975 [100]. Tác phẩm phản ánh hoạt động CTĐ, CTCT qua các giai đoạn của cuộc kháng chiến; đánh giá những ưu điểm và bước phát triển mới của CTĐ, CTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong đó chỉ rõ vai trò của CTTT “đã xây dựng được tinh thần dám đánh Mỹ, không sợ Mỹ, làm tiền đề sáng tạo cách đánh và vượt qua khó khăn để thắng Mỹ” [100, tr.78]. Đồng thời, tác phẩm chỉ rõ những khuyết điểm, rút ra 7 bài học kinh nghiệm, trong đó chỉ rõ: “Để phát huy mạnh mẽ hiệu lực của công tác tư tưởng, trước hết phải nắm vững tính giai cấp, tính đảng của công tác tư tưởng” [100, tr.190]; phải nắm vững tính khoa học, phải nâng cao tính chiến đấu của CTTT vì “đấu tranh tư tưởng là một mặt trận của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh “ai thắng ai” giữa ta và địch...” [100, tr.193].
Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1998), Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ 1945 - 1975 [103]. Nội dung CTĐ, CTCT trong các chiến dịch của cuộc ...u tranh vì độc lập dân tộc; đồng thời, hạn chế sự giúp đỡ của phe XHCN, nhất là Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam. Xu thế hòa hoãn cũng tác động tiêu cực đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, các nước lớn đều cho rằng tương quan lực lượng quốc tế đang ở thế cân bằng, họ muốn giữ nguyên hiện trạng.
Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới đã chi phối trực tiếp đến quá trình hoạch định đường lối của Đảng, tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến tâm lý, tư tưởng của mọi người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đặc biệt, tình hình trên đã tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến quân đội, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên, chiến sĩ dao động, thiếu kiên định, có người bị nhiễm tư tưởng tư sản và tàn dư tư tưởng phong kiến, tư tưởng cá nhân chuyên quyền, coi thường sự lãnh đạo tập thể... Từ đó, đã xuất hiện những quan điểm sai trái, mơ hồ, lầm lẫn giữa quan điểm tư tưởng tư sản với quan điểm tư tưởng vô sản về tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc và tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và những nhận thức, quan điểm sai trái trong việc xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại. Thực tế đó đòi hỏi CTTT trong quân đội cần tập trung giải quyết kịp thời để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến.
Tình hình trong nước
Tháng 7-1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đặt cơ sở cho việc thống nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ từng bước can thiệp vào miền Nam, thi hành chính sách xâm lược thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam phải đương đầu với đế quốc Mỹ - một thế lực xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh nhất trong phe đế quốc. Sự chia cắt hai miền đất nước với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau, mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau, nhưng đều nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước là “đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà” [48, tr.918]. Đây là nhiệm vụ bao trùm chi phối toàn bộ hoạt động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội trong những năm chống Mỹ, cứu nước.
Bước sang năm 1960, tình hình Việt Nam có những chuyển biến căn bản. Với sự nỗ lực và cố gắng vượt bậc, đến năm 1960, miền Bắc đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; tiến hành khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954-1957), đẩy mạnh thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo XHCN, bước đầu phát triển kinh tế - văn hóa (1958-1960). Tuy nhiên, trong quá trình cải cách ruộng đất, Đảng đã mắc một số sai lầm, gây hậu quả tiêu cực về tư tưởng trong một bộ phận những người bị xử lý oan sai. Trong lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tập trung sửa chữa, khắc phục những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, thì xuất hiện nhóm “Nhân văn Giai phẩm”, làm cho một số văn nghệ sĩ và lực lượng làm báo trong quân đội bị ảnh hưởng tiêu cực [224, tr.151]. Mặt khác, tư tưởng muốn nghỉ ngơi, thỏa mãn dừng lại “hòa bình chủ nghĩa”, mất cảnh giác đã xuất hiện trong một bộ phận cán bộ, đảng viên... từ đó tác động, ảnh hưởng trực tiếp tới tư tưởng của bộ đội.
Ở miền Nam, mặc dù Mỹ - Diệm ra sức thi hành “một chính sách khủng bố cực kỳ man rợ, quyết dìm cách mạng miền Nam trong máu lửa” [47, tr.516], song, quân dân miền Nam không chịu khuất phục, ngọn lửa cách mạng đã nhen nhóm và bùng lên ở nhiều nơi. Đặc biệt, sau thắng lợi của phong trào Đồng khởi, cách mạng miền Nam chuyển sang một bước ngoặt phát triển mới, từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công địch mạnh mẽ, thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.
Để đối phó với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, đầu năm 1961, Tổng thống Mỹ G.Kennơđi đề ra chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt”, quyết định tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam. Theo đó, “từ năm 1961, Mỹ lập Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự (MACV); ở miền Nam Việt Nam, số quân của Mỹ đã tăng dần từ 3.000 người vào tháng 12-1960 lên 23.000 người vào tháng 12-1964” [72, tr.120]. Với sự tăng viện về đôla, vũ khí, thiết bị chiến tranh, đội ngũ cố vấn và lực lượng yểm trợ Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn dồn sức vào việc gom dân, lập ấp chiến lược, thực hiện “tát nước bắt cá” bằng nhiều thủ đoạn khốc liệt, đẫm máu. Chúng mở nhiều cuộc hành quân càn quét, sử dụng các loại vũ khí, khí tài hiện đại và triển khai các chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”; vận dụng các thủ đoạn tác chiến “bủa lưới phóng lao”, “trên đe dưới búa”, “phượng hoàng vồ mồi” đánh phá dữ dội phong trào cách mạng miền Nam, đánh sâu vào toàn bộ hệ thống căn cứ kháng chiến của ta [10, tr.137].
Bối cảnh trên đã đưa cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới với quyết tâm cao đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Các vấn đề tư tưởng xung quanh nhiệm vụ trọng đại của đất nước, xây dựng CNXH cũng như đấu tranh thống nhất nước nhà, cuộc đấu tranh tư tưởng giữa hai con đường XHCN và TBCN đã và đang đặt ra cấp thiết, đòi hỏi CTTT của Đảng nói chung, CTTT trong quân đội nói riêng cần tập trung giải quyết.
2.1.3. Tình hình công tác tư tưởng trong quân đội trước năm 1960 và nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn mới
Tình hình CTTT trong quân đội trước năm 1960
Từ năm 1955 đến năm 1960, dưới sự lãnh đạo của ĐBQĐ, trình độ tư tưởng của bộ đội, nhất là cán bộ đã được nâng cao từ giác ngộ dân tộc dần tiến lên giác ngộ XHCN; xác định được lập trường kiên quyết phấn đấu cho CNXH và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Quán triệt được đường lối, nhiệm vụ chung, nhiệm vụ phương châm xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới, xác định được lập trường kiên định chống bóc lột, thủ tiêu CNTB. “Những quan điểm tư tưởng tư sản, tiểu tư sản và chủ nghĩa cá nhân dần được khắc phục; quan điểm tư tưởng vô sản được nâng cao dần” [107, tr.16]. Đã nhận rõ ranh giới tư tưởng giữa 2 con đường TBCN và XHCN, phân biệt rõ bạn, thù, ta; nhận rõ lao động và bóc lột, cá nhân và tập thể; phân rõ đường lối quân sự của Đảng với những biểu hiện quan điểm tư tưởng quân sự tư sản.
Quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ kế hoạch 3 năm xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại. “Các phong trào thi đua yêu nước trong quân đội liên tiếp được phát động và ngày càng lên cao là biểu hiện sự tiến bộ về chính trị và tư tưởng, có tác dụng lớn trong việc hoàn thành nhiệm vụ quân đội và gây ảnh hưởng tốt trong nhân dân” [107, tr.16].
Việc học tập văn hóa đã gây được nhiều phong trào học tập sôi nổi trong cán bộ, chiến sĩ, “đến năm 1960 trình độ văn hóa của chiến sĩ đa số ở lớp 4, lớp 5, lớp 3 rất ít; cán bộ sơ cấp đa số ở lớp 5, lớp 6; cán bộ trung cấp, cao cấp ở lớp 6, lớp 7” [107, tr.17]. Việc tổ chức học tập ngày càng chặt chẽ và nội dung giảng dạy cũng dần được chú ý cải tiến cho phù hợp với yêu cầu của việc nâng cao trình độ chính trị tư tưởng, xây dựng quân đội.
Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, hiện đại, CTTT trong quân đội còn có một số hạn chế, khuyết điểm, đó là:
“Nhận thức về sự chuyển biến cách mạng chậm, không kịp thời đưa trình độ giác ngộ dân tộc dân chủ của quân đội lên trình độ xã hội chủ nghĩa; trình độ của quân đội không tiến kịp sự chuyển biến của cách mạng, có thời kỳ không phân biệt bạn thù, không xác định được mục tiêu phấn đấu mới, cho nên có nhiều mơ hồ, nhiều thắc mắc sai lầm” [45, tr.161] như vấn đề chiến tranh và hòa bình, nội dung thời đại, chưa thấy hết tính chất phức tạp của đấu tranh cách mạng ở miền Nam, thắc mắc khá phổ biến rằng trước kia Trung ương đề ra đấu tranh thống nhất bằng hòa bình có đúng không, kết hợp chính trị và vũ trang như thế nào. Đối với cách mạng XHCN miền Bắc thì vướng mắc phổ biến xoay quanh vấn đề tích lũy và tiêu dùng, giá cả thu mua, cho rằng coi nhẹ nông nghiệp. Trong xây dựng quân đội, thắc mắc phổ biến là tốc độ xây dựng quân đội chậm, phương châm chống tư tưởng tư sản trong quân đội có sai không, đường lối lấy công nông làm cốt cán trong quân đội đúng không, các mối quan hệ giữa chính trị và kỹ thuật, quan hệ giữa vũ khí và con người chưa thật nắm vững.
Về ý thức vẫn còn những sai lầm, cản trở sự tiến bộ chung của quân đội và từng người. Còn hiện tượng tính toán riêng tư thiệt hơn về đãi ngộ vật chất, kém yên tâm phấn khởi phục vụ quân đội lâu dài, muốn chuyển ngành, khi tiền lương được cải tiến và tăng lương thì tư tưởng chuyển ngành giảm nhưng muốn chuyển vùng gần nhà, việc so sánh suy bì cấp trên cấp dưới khá phổ biến.
Về ý chí tiến thủ vươn lên, quyết tâm xây dựng quân đội chưa cao, có khuynh hướng bảo thủ dừng lại thích học văn hóa, lơ là học quân sự, ngại học chính trị, ngại học nghiệp vụ. Hiện tượng phân tán, tự do, ngại gò bó, ngại khuôn khổ, dễ dãi với mình, xuê xoa với người khác là phổ biến. Hiện tượng lãng phí, tham ô gây tổn thất cho tài sản của công, cơ sở vật chất của quân đội rất lớn [22, tr.2].
Những yếu kém đó thể hiện ở những hiện tượng phổ biến là: Cá nhân chủ nghĩa, khuynh hướng bảo thủ dừng lại, tinh thần trách nhiệm cá nhân chưa cao... Do đó, “trong cán bộ và chiến sĩ còn tư tưởng cá nhân bảo thủ, tự do tản mạn, chưa thật sự quyết tâm hưng phấn đi vào xây dựng quân đội chính quy và hiện đại theo yêu cầu của Đảng, của cách mạng, tinh thần cảnh giác chưa cao, tác phong quan liêu mệnh lệnh và hiện tượng lãng phí, tham ô vẫn còn” [107, tr.21].
Biểu hiện cụ thể trên các mặt công tác:
Công tác GDCT còn hạn chế, bất cập: Việc tổ chức giáo dục XHCN cho cán bộ, chiến sĩ làm chậm mất một thời gian sau khi hòa bình mới lập lại nên tư tưởng bộ đội chuyển biến không kịp theo yêu cầu mới. Công tác giáo dục, lãnh đạo tư tưởng chưa thật nhạy bén và đầy đủ đã có lúc coi nhẹ chống tư tưởng tư sản, trái lại khi nhấn mạnh chống tư tưởng tư sản thì lại không chú ý đúng mức việc chống tư tưởng tiểu tư sản. Công tác giáo dục lý luận cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin cho cán bộ chưa đủ, chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển cán bộ trong giai đoạn mới.
Hoạt động tuyên truyền, cổ động; văn hóa, văn nghệ; báo chí, xuất bản còn yếu kém: Công tác tuyên truyền chưa mạnh. Ngành câu lạc bộ, thư viện bị tê liệt. Văn công chuyên nghiệp chuyển biến chưa mạnh. Cán bộ nghệ thuật và công tác nghệ thuật còn yếu cả chuyên môn và chính trị. Tuyên truyền quốc tế còn chắp vá, bị động. Chất lượng các buổi thông tin, phát thanh chưa cao. Xuất bản các ấn phẩm văn học nhiều nhưng các tác phẩm về quân sự, chính trị chưa đáp ứng yêu cầu.
Những hạn chế, khuyết điểm trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó đáng chú ý là: Trình độ hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin, hiểu biết thực tế của cán bộ, đảng viên còn thấp; lập trường giai cấp chưa thật kiên định; “công tác tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức; phương pháp công tác tư tưởng vẫn còn biểu hiện buông lỏng, gò bó, thiếu nhạy bén, làm giảm sức chiến đấu, sức thuyết phục...” [22, tr.4].
Từ thực tiễn những ưu điểm và hạn chế của CTTT trong quân đội trước năm 1960 đặt ra yêu cầu đối với ĐBQĐ cần có chủ trương, giải pháp về CTTT phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn mới.
Sau thắng lợi của công cuộc củng cố miền Bắc và thắng lợi của phong trào Đồng khởi ở miền Nam, căn cứ vào đường lối, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng trong giai đoạn mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: “Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước” [48, tr.916]. Để biến nhận thức, tư tưởng và quyết tâm của toàn quân thành hành động cụ thể, đảm bảo QĐND hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới, Đại hội III chỉ rõ: “Quân đội nhân dân là lực lượng trụ cột của Nhà nước để bảo vệ độc lập của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân ở miền Bắc, đồng thời là hậu thuẫn vững chắc của cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Phải xây dựng quân đội nhân dân tiến lên chính quy và hiện đại...” [48, tr.933-934], bảo đảm cho quân đội sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội III, trong các phiên họp ngày 31-1 và 25-2-1961, Bộ Chính trị BCHTW Đảng ra Nghị quyết Về nhiệm vụ quân sự 5 năm (1961-1965) và phương hướng nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Trong phiên họp ngày 25-2-1961, Bộ Chính trị đã thông qua Kế hoạch Quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-1965) do QUTW và Bộ Quốc phòng chuẩn bị. Theo đó, QUTW xác định 4 nhiệm vụ toàn quân phải nỗ lực thực hiện trong 5 năm 1961-1965 là: Thứ nhất, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng trên miền Bắc. Tăng cường sức mạnh của Lục quân, xây dựng bộ đội Phòng không, Không quân, Hải quân. Hoàn thành chính quy hóa, tạo cho quân đội có đủ các thành phần binh chủng, quân chủng mạnh, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Thứ hai, xây dựng ở miền Nam một lực lượng vũ trang tập trung mạnh. Thứ ba, giúp đỡ cách mạng Lào. Thứ tư, kiện toàn bộ máy chỉ đạo quân sự của Đảng. Bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân.
Có thể thấy, nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn mới là rất nặng nề, khó khăn và gian khổ. Đòi hỏi ĐBQĐ cần bám sát đường lối, chủ trương của Đảng, đánh giá kịp thời, chính xác những diễn biến của cuộc kháng chiến, cũng như những thuận lợi, khó khăn của tình hình trong nước và quốc tế mang lại, gắn với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của quân đội để có chủ trương và sự chỉ đạo CTTT phù hợp, góp phần đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi.
2.1.4. Chủ trương của Đảng về công tác tư tưởng (1960 - 1965)
Trước yêu cầu mới của cách mạng, Đại hội lần thứ III của Đảng (9-1960) đã thông qua Nghị quyết Về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, vạch rõ nhiệm vụ chung của toàn dân; xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam; đường lối cách mạng XHCN ở miền Bắc. Đại hội chỉ rõ: Muốn tiến lên CNXH, phải tiến hành cách mạng XHCN về kinh tế, đồng thời phải tiến hành cách mạng XHCN về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật. Trong đó, cuộc cách mạng XHCN về tư tưởng được coi là cuộc cách mạng có tầm quan trọng rất lớn: Tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật là những vũ khí sắc bén mà chính đảng của giai cấp công nhân phải nắm lấy để thúc đẩy toàn bộ sự nghiệp cách mạng tiến lên, thúc đẩy công cuộc xây dựng xã hội mới, tư tưởng, văn hóa, kỹ thuật là ba mặt có liên hệ chặt chẽ với nhau và thúc đẩy nhau phát triển, nhưng tư tưởng vẫn là cơ sở [47, tr.548-550]. Với nhận thức trên, Đại hội III đưa ra chủ trương toàn diện về cuộc cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng như sau:
Về phương hướng: “Bồi dưỡng tư tưởng vô sản trên cơ sở giáo dục một cách có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin, chống ảnh hưởng của tư tưởng tư sản, chống tư tưởng tiểu tư sản, tiếp tục xóa bỏ tàn tích của tư tưởng phong kiến và tư tưởng không vô sản khác” [47, tr.644].
Về nội dung: Cuộc cách mạng XHCN về tư tưởng sẽ phát triển tư tưởng làm chủ của nhân dân lao động trong điều kiện mới của lịch sử, nhằm bảo đảm cho họ có thể dựa trên những quan hệ sản xuất XHCN mà cải tạo xã hội, cải tạo tự nhiên, cải tạo con người một cách tự giác.
Về mục tiêu: Làm cho toàn dân trước hết là nhân dân lao động, thấm nhuần tư tưởng XHCN, gạt bỏ thế giới quan và nhân sinh quan cũ, xây dựng thế giới quan chủ nghĩa Mác - Lênin và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nước ta và trở thành hệ tư tưởng của toàn dân, trên cơ sở đó mà xây dựng đạo đức mới của nhân dân.
Về nhiệm vụ: Cần đẩy mạnh công tác giáo dục và đấu tranh tư tưởng nhằm nâng cao không ngừng trình độ giác ngộ XHCN, tinh thần yêu nước, ý chí thống nhất Tổ quốc và ý thức làm chủ của nhân dân, chống lại mọi biểu hiện của tư tưởng tư sản, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, tiếp tục xóa bỏ mọi tàn tích của tư tưởng phong kiến và mọi tư tưởng sai lầm khác. Phải làm cho nhân dân thấm nhuần quan điểm lao động XHCN; tinh thần yêu thương giai cấp cao độ, ý thức tập thể sâu sắc, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản và tư sản; giáo dục chủ nghĩa yêu nước và nâng cao tinh thần tự hào dân tộc; nâng cao hơn nữa tinh thần căm thù đế quốc, phong kiến và tinh thần cảnh giác cách mạng, phát huy mạnh mẽ ý chí thống nhất nước nhà; xây dựng tác phong mới, khẩn trương, hoạt bát, trật tự, chống lại lề thói uể oải, luộm thuộm trong lao động và sinh hoạt, những lề thói ấy là tàn tích của xã hội cũ. Đại hội khẳng định: “Những tư tưởng và tác phong mới nói trên phải chỉ đạo cuộc sống mới của nhân dân ta, chỉ đạo cuộc đấu tranh của dân tộc ta cho sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa” [47, tr.552].
Bên cạnh những quan điểm có tính chất định hướng, Đại hội chỉ rõ CTTT cần căn cứ vào nhiệm vụ công tác trước mắt, yêu cầu của cách mạng và tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên trong từng thời kỳ mà cụ thể hóa nhiệm vụ và phương châm CTTT một cách thiết thực và cụ thể. Đồng thời, Đại hội cũng chỉ ra một loạt các vấn đề cần phải được chú trọng thực hiện để có thể đẩy mạnh CTTT đó là tăng cường công tác văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản... bởi đó là những “vũ khí sắc bén” trên mặt trận tư tưởng của Đảng.
Có thể thấy, Nghị quyết Đại hội III của Đảng là ánh sáng soi đường cho công cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân cả nước trong thời kỳ mới, là phương hướng cơ bản của CTTT trong bước phát triển mới của cách mạng. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội III, trước những diễn biến phức tạp của tình hình, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Về tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng ta (12-1963) chỉ rõ phương châm đấu tranh tư tưởng là: Chống ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại và khắc phục tư tưởng hữu khuynh là chính, đồng thời phải ngăn ngừa và khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa biệt phái và những sai lầm “tả” khuynh; phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa xét lại hiện đại liên hệ với thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phê phán những tư tưởng hữu khuynh của cán bộ, đảng viên, liên hệ với thực tiễn công tác ở các địa phương và các ngành [49, tr.786].
Tiếp đó, Nghị quyết số 95-NQ/TW ngày 4-2-1964 của Bộ Chính trị Về nhiệm vụ công tác tư tưởng trong năm 1964 tiếp tục nhấn mạnh: Làm cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và thấu suốt đặc điểm của cách mạng nước ta mà nhận thức một cách có hệ thống và sâu sắc hơn nữa đường lối cách mạng XHCN ở miền Bắc, đường lối cách mạng miền Nam và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, đường lối chính sách đối ngoại của Đảng. Củng cố lập trường giai cấp, phát huy mạnh mẽ tinh thần triệt để cách mạng, tinh thần tự lực cánh sinh, tinh thần hy sinh phấn đấu, chịu đựng gian khổ, nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, tinh thần tập thể XHCN, rèn luyện đạo đức vô sản, tích cực tham gia cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa xét lại hiện đại trên phạm vi thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Phê phán mạnh mẽ và khắc phục những tư tưởng hữu khuynh và ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại, các biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do và bệnh quan liêu, mệnh lệnh còn tồn tại trong cán bộ, đảng viên. Tạo ra một khí thế cách mạng và lao động sôi nổi, mạnh mẽ trong nhân dân, tạo ra một cơ sở chính trị vững vàng, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế [50, tr.63-64].
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về CTTT (1960 - 1965) là cơ sở quan trọng, tạo tiền đề trực tiếp, xuyên suốt để ĐBQĐ quán triệt và vận dụng trong xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo CTTT trong quân đội, đáp ứng kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến.
2.2. Chủ trương của Đảng bộ Quân đội về công tác tư tưởng (1960 - 1965)
2.2.1. Phương hướng
Đại hội đại biểu ĐBQĐ lần thứ nhất (7-1960) xác định phương hướng CTTT trong quân đội là: Tiếp tục làm cho quân đội quán triệt đường lối cách mạng của Đảng là XHCN và đấu tranh thống nhất nước nhà; phân rõ hai đường lối khác nhau vô sản và tư sản; quán triệt phương châm sẵn sàng chiến đấu, đề cao cảnh giác cách mạng; giữ vững và tăng cường chế độ Đảng lãnh đạo Quân đội [45, tr.162].
Cụ thể hóa tinh thần Đại hội đại biểu ĐBQĐ lần thứ nhất, Nghị quyết số 30/QU-TW ngày 2-2-1961 của QUTW Tình hình và nhiệm vụ quân sự các chủ trương công tác lớn của kế hoạch quân sự 5 năm (1961 - 1965) tiếp tục chỉ rõ:
Phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong quân đội, nâng cao trình độ lãnh đạo toàn diện của Đảng, không ngừng giáo dục nâng cao trình độ giác ngộ XHCN và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho toàn quân, nhất là cho cán bộ, không ngừng phát huy bản chất, truyền thống cách mạng của quân đội; chú trọng kiện toàn tổ chức về mặt chính trị, làm cho quân đội được hoàn toàn trong sạch, cải tiến tác phong và nâng cao trình độ công tác chính trị, tư tưởng, làm cho toàn quân quán triệt sâu sắc đường lối, nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng; tích cực và kiên quyết chấp hành mọi chủ trương chính sách của Đảng, nhiệm vụ chính quy hóa, đẩy tới thêm một bước việc hiện đại hóa quân đội, góp phần đẩy mạnh xây dựng một lực lượng hậu bị hùng hậu, luôn luôn sẵn sàng và quyết tâm giành thắng lợi trong mọi tình huống có thể xảy ra để bảo vệ công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, góp phần đẩy mạnh đấu tranh cách mạng giải phóng miền Nam, bảo vệ hòa bình Đông - Nam Á và thế giới [107, tr.36].
Sau 3 năm triển khai thực hiện, công tác GDCT, lãnh đạo tư tưởng luôn được xác định là khâu trung tâm, nhưng so với yêu cầu thì còn một số khuyết điểm. Mặt khác, tình hình chính trị trên thế giới và trong nước, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội có những điểm phát triển mới. Do đó, Nghị quyết số 43/QU-TW ngày 29-4-1964 của QUTW Điều chỉnh kế hoạch 5 năm 1961 - 1965, phương hướng nhiệm vụ công tác quân sự năm 1964 - 1965 đã điều chỉnh, bổ sung, phát triển phương hướng CTTT cho thời gian tiếp theo là:
Chú trọng bồi dưỡng thật mạnh mẽ và thường xuyên tư tưởng vô sản, lập trường cách mạng kiên định, nâng cao ý thức giai cấp và quan điểm đấu tranh giai cấp, quan điểm thực tiễn cho cán bộ, đảng viên và chiến sĩ, coi trọng cả chống ảnh hưởng tư tưởng tư sản và chống tư tưởng tiểu tư sản, không xem nhẹ tư tưởng nào, trước mắt tập trung sức quét sạch và ngăn chặn mọi ảnh hưởng của tư tưởng xét lại xâm nhập vào trong quân đội, khắc phục triệt để tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, hòa bình chủ nghĩa, phê phán đả kích mạnh mẽ và sâu sắc chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do trên mọi lĩnh vực tư tưởng, tổ chức, sinh hoạt và tác phong, chống bảo thủ và giáo điều [113, tr.85-86].
2.2.2. Mục tiêu
Một là, từ giáo dục giác ngộ dân tộc dân chủ tiến lên giáo dục giác ngộ sâu sắc tư tưởng XHCN nhằm không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, nâng cao trình độ giác ngộ XHCN và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho quân đội, làm cho quân đội kiên định lập trường giai cấp công nhân, tăng cường bản chất cách mạng cho quân đội.
Hai là, làm cho toàn quân quán triệt được đường lối, nhiệm vụ chung của Đảng và nhiệm vụ quân sự, nhất là đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền.
Ba là, tiếp tục giáo dục nâng cao lập trường chính trị, tính tổ chức, tính kỷ luật cao hơn, nâng cao trình độ văn hóa, nắm vững kiến thức khoa học, kỹ thuật tiên tiến làm cho tư tưởng bộ đội luôn kiên định, vững vàng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quân đội trong tình hình mới, phát huy được truyền thống và tinh thần tích cực cách mạng của quân đội trong sinh hoạt, học tập, công tác, chấp hành các chế độ điều lệnh, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao cho trong mọi tình huống.
Bốn là, xây dựng tư tưởng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, bảo vệ vững chắc miền Bắc sẵn sàng chi viện cho nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước [107, tr.36].
2.2.3. Yêu cầu
Một là, nắm vững trọng tâm của công tác chính trị là GDCT lãnh đạo tư tưởng, làm cho toàn quân nhất là cán bộ quán triệt sâu sắc và cơ bản Nghị quyết của Đại hội lần thứ ba của Đảng, các nghị quyết của Trung ương và QUTW. Nâng cao trình độ lý luận cơ bản Mác - Lênin. Nâng cao tư tưởng XHCN, rèn luyện đạo đức cộng sản chủ nghĩa.
Hai là, phát huy cao độ tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản. Tăng cường đoàn kết, đề cao chí căm thù địch và tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu.
Ba là, bồi dưỡng ý thức tổ chức và kỷ luật, tôn trọng và nghiêm túc chấp hành các quy định của quân đội và pháp luật của nhà nước. Rèn luyện tinh thần tôn trọng, bảo vệ và tiết kiệm của công. Đấu tranh chống các quan điểm tư sản, tiểu tư sản, các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa bảo thủ, chủ nghĩa giáo điều, chống những hiện tượng lơ là mất cảnh giác, tham ô, lãng phí [107, tr.36].
Bốn là, quán triệt thật sâu sắc đường lối đối ngoại và lập trường quan điểm của Đảng về những vấn đề chiến lược, sách lược của phong trào Cộng sản Quốc tế, kiên quyết chống chủ nghĩa xét lại hiện đại và chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, đồng thời chống chủ nghĩa cơ hội giáo điều và chủ nghĩa biệt phái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ đoàn kết quốc tế.
Năm là, quán triệt sâu sắc đường lối, nhiệm vụ cách mạng XHCN ở miền Bắc, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh giải phóng miền Nam, nhiệm vụ quốc tế, đường lối, nhiệm vụ quân sự của Đảng, đặc điểm nửa nước có hòa bình, nửa nước có chiến tranh.
Sáu là, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ: Phải sẵn sàng và có quyết tâm cao độ, kiên quyết hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ an ninh miền Bắc, giải phóng miền Nam, giúp đỡ cách mạng các nước anh em; phải tích cực xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, thống nhất tư tưởng chiến lược, chiến thuật, trên cơ sở đó đẩy mạnh tốc độ xây dựng quân đội chính quy hiện đại, phù hợp với điều kiện thực tế và yêu cầu chiến đấu của quân đội, nâng cao sức chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu, vừa đánh chính quy, vừa đánh du kích giỏi, vừa đánh được trên chiến trường miền Bắc, vừa đánh được chiến trường miền Nam; phải hăng hái và quyết tâm tham gia xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, củng cố hậu phương, trước mắt tham gia tốt công cuộc phát triển nông nghiệp và đề cao tinh thần cần kiệm xây dựng quân đội, tăng gia sản xuất, tự túc một phần thực phẩm và lương thực [113, tr.83].
Để thực hiện tốt những yêu cầu trên, tránh những lệch lạc có thể xảy ra, QUTW chỉ rõ: “cần phải nắm vững các quan hệ về: nhiệm vụ đối với miền Bắc và đối với miền Nam; xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng; đẩy mạnh xây dựng kỹ thuật và tăng cường công tác chính trị trong quân đội” [107, tr.32]; đồng thời, “cần phải nắm chắc khâu trung tâm là giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng trên cơ sở đó phải đẩy mạnh mọi mặt công tác tổ chức” [113, tr.83].
2.2.4. Nhiệm vụ, giải pháp
Một là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác GDCT
Đảng bộ Quân đội xác định nhiệm vụ GDCT trong những năm 1960-1965 là không ngừng nâng cao trình độ chính trị tư tưởng chung cho toàn quân, chủ yếu quán triệt đường lối cách mạng, đường lối quân sự của Đảng và hoàn thành căn bản việc giáo dục cho cán bộ về lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách tương đối có hệ thống [106, tr.10]. Cụ thể:
Tập trung tuyên truyền giáo dục Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III. Mặt khác, vẫn lấy việc giáo dục đường lối nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân sự làm trọng tâm, chú trọng giáo dục sâu sắc đường lối cách mạng XHCN miền Bắc, đường lối cách mạng miền Nam, đường lối đối ngoại của Đảng và lập trường quan điểm của Đảng về những vấn đề chiến lược, sách lược của phong trào Cộng sản Quốc tế, đường lối tư tưởng quân sự của Đảng, nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng của quân đội [113, tr.86].
Tăng cường giáo dục lý luận cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin cho cán bộ về CNXH khoa học, chiến lược, sách lược cách mạng, lý luận Mác - Lênin vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, vào lĩnh vực xây dựng lực lượng võ trang và đấu tranh võ trang, nghiệp vụ công tác chính trị cho phù hợp với thực tiễn tình hình đấu tranh giai cấp.
Giáo dục rèn luyện sâu sắc thêm về đạo đức, nhân sinh quan cộng sản, tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong lãnh đạo và chiến đấu, nền nếp sinh hoạt cách mạng, tinh thần cần kiệm, tự lực cánh sinh, làm cơ sở cho việc khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ của quân đội. “Đặc biệt cần chú ý trong giáo dục cho cán bộ mới và chiến sĩ ta về ta, bạn, thù, hai thứ nhà nước, hai thứ chế độ, hai thứ quân đội, bản chất truyền thống quân đội ta” [113, tr.86].
Cải tiến phương pháp giáo dục, chú trọng liên hệ với thực tiễn, nâng cao chất lượng và tính chiến đấu trong công tác giáo dục tại trường, tại chức, phù hợp với mọi đối tượng, nhiệm vụ, hoàn cảnh của quân đội.
Quân ủy Trung ương chỉ rõ: Yêu cầu chung là phải nâng cao trình độ giác ngộ về chủ nghĩa Mác - Lênin, chú trọng đi sâu vào quan điểm Mác - Lênin về quân sự, nhằm quán triệt đường lối nhiệm vụ cách mạng chung và đường lối quân sự của Đảng. Trong đó, đối với cán bộ chính trị: Yêu cầu hoàn thành giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin có hệ thống và căn bản nâng cao trình độ nghiệp vụ công tác chính trị lên một bước mới - chủ yếu sẽ học tại trường trong kế hoạch 5 năm, toàn bộ sẽ qua các lớp 1 năm hoặc 2 năm ở Trường Chính trị trung cao. Đối với cán bộ quân sự, hậu cần, chuyên môn kỹ thuật: Yêu cầu căn bản hoàn thành việc giáo dục về lý luận cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin tương đối có hệ thống. Kết hợp học tại trường và tại chức. Một số cán bộ cần thiết sẽ học các lớp 1 năm tại Trường Chính trị trung cao; đại bộ phận sẽ học các lớp ngắn hạn từ 4 đến 6 tháng tại trường đi sâu vào một vài môn cần thiết, các môn khác sẽ học tại chức. Đối với một số cán bộ lãnh đạo cao cấp chủ chốt: Mỗi năm có thể nghiên cứu sâu một vấn đề tại trường (trong 3 tháng). Đối với cán bộ sơ cấp: Yêu cầu căn bản hoàn thành việc giáo dục chương trình phổ thông về những vấn đề lý luận cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin và nâng ca... trên là một sự chuẩn bị tư tưởng và nhận thức cần thiết, rất cần thiết khi bước qua một thời kỳ mới của cách mạng, của chiến tranh cách mạng.
Có vũ khí tư tưởng sắc bén, mới có vũ khí bằng sắt thép sắc bén để chiến thắng quân thù.
Nhân dân miền Nam ta rất anh hùng, trước đây đã từng qua 9 năm kháng chiến chống Pháp và 11 năm nay đã từng chống Mỹ và tay sai với một tinh thần chịu đựng, kiên quyết và dũng cảm phi thường, lại có nhiều kinh nghiệm cả về đấu tranh quân sự lẫn đấu tranh chính trị. Do đó, nhân dân miền Nam ta đã được cách mạng hóa đến trình độ cao, đặc biệt là tinh thần kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc. Truyền thống anh hùng của một dân tộc đã có một lịch sử cách mạng vẻ vang cộng với sự tiếp thu một cách mạnh mẽ và sâu sắc tư tưởng tiên tiến, lập trường cách mạng triệt để tạo thành một hệ tư tưởng cách mạng có một sức sống vĩ đại trong nhân dân ta. Do lòng yêu nước, chí căm thù địch, tinh thần đoàn kết dân tộc, tinh thần quốc tế, tinh thần chống chủ nghĩa đế quốc, tinh thần dân chủ, v.v. của đồng bào miền Nam ta có một chất lượng đông đảo, tự nó có một sức mạnh dẻo dai và luôn quật khởi, vì nó đã được xây dựng trên một lập trường tư tưởng và những quan điểm cách mạng nhất, tiên tiến nhất của thời đại.
Hơn nữa, từ khi một nửa nước ta đã được độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sự kiện trọng đại đó đã tác động rất mạnh vào đời sống tư tưởng của nhân dân miền Nam, tạo thêm một sức sống mới mà trước đây chưa có, kích thích lòng hăng hái cách mạng của đồng bào miền Nam. Và đặc biệt là trong 11 năm qua khi một nửa nước độc lập thì miền Nam bị đế quốc Mỹ và tay sai giày xéo; đồng bào miền Nam ta phải chịu đựng biết bao nhiêu hy sinh, gian khổ, tang tóc dưới chế độ cực kỳ tàn ác của Mỹ và tay sai, cho nên đã vùng lên đấu tranh quyết liệt chống một kẻ thù mạnh hơn mình gấp bội, và trong cuộc đấu tranh đó, nhân dân miền Nam đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhất là đã hai lần giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đó là thắng lợi “đồng khởi” đập tan nền móng chế độ độc tài phát xít của Mỹ - Diệm và thắng lợi đánh bại “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Vì vậy, vào giữa năm 1965, đứng trước một tình huống chiến lược mới, nhân dân miền Nam ngay từ đầu đã tỏ ra kiên quyết, bình tĩnh, sẵn sàng chiến đấu và tự tin rằng mình sẽ là người chiến thắng.
Đó là những điểm thuận lợi rất căn bản, rất quan trọng về mặt tinh thần của nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng khi cách mạng miền Nam chuyển sang một thời kỳ mới. Và lợi thế về tinh thần đó lại được kết hợp rất đẹp với một lợi thế về chiến lược và chính trị, tạo cho chúng ta có thêm những điều kiện khách quan thuận lợi để tiến hành công tác tư tưởng trong nội bộ.
Trước tình hình đế quốc Mỹ ào ạt đem quân vào miền Nam để cứu nguy cho ngụy quân ngụy quyền, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã kịp thời tiến hành một cuộc động viên chính trị và tư tưởng sâu rộng trong nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng, phất cao ngọn cờ “Quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ”, lấy đó làm chuẩn cho nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng tiến theo, đem tất cả tài năng, sức lực, gan óc xông lên đạp đổ quân thù, để với bất cứ giá nào cũng quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc của mình! Từ cuộc động viên chính trị và tư tưởng đó, tỏa ra một sức mạnh vĩ đại, một khí thế cách mạng hùng dũng, một trí tuệ tập thể bình tĩnh, sáng suốt và khôn ngoan, làm cho nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam giành được thắng lợi rất lớn trong một mùa khô lịch sử.
Tuy nhiên, theo sự nhận định của Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng thì sự diễn biến tư tưởng trong nội bộ đoàn thể, các lực lượng vũ trang giải phóng và nhân dân miền Nam vừa rồi cũng không phải quá đơn giản và việc giải quyết tư tưởng cũng không phải là ít công phu.
Lúc bấy giờ, từ phía địch xuất hiện một số điểm mới, thử thách lập trường tư tưởng của quân và dân miền Nam ta như: Chính sách một tay cầm cái gậy, một tay cầm cà rốt của Giônxơn; đế quốc Mỹ bắn phá miền Bắc một cách liên tục; chúng dùng với quy mô lớn sức mạnh của lục quân, không quân và các thứ binh khí kỹ thuật của Mỹ vào cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, v.v. Những điểm ấy đặt ra cho quân và dân ta ở miền Nam nhiệm vụ phải kiểm tra lại lập trường tư tưởng, lại phải nêu lên, phân tích một số vấn đề về trách nhiệm chính trị của mình, về đánh giá so sánh lực lượng, vận dụng đường lối cách mạng, tổ chức cách mạng, phương châm đấu tranh chính trị, quân sự, v.v. để trước hết xác định cho được lập trường kiên định vì đó là cái gốc của mọi vấn đề. Có lập trường cách mạng kiên định mới có dũng khí cách mạng, do đó mới có hành động cách mạng kiên định và sáng tạo; nói đơn giản là muốn đánh giặc, thắng giặc thì trước hết gan phải to, chí phải quyết, lòng phải bền.
Đầu năm 1965, khi quân Mỹ mới vào, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã tiến hành công tác tư tưởng thường xuyên và liên tục trong nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng, đã nắm được quy luật diễn biến tư tưởng, do đó Mặt trận đã đề ra phương hướng công tác tư tưởng đúng đắn là: Quán triệt đường lối của cách mạng, nâng cao lập trường tư tưởng kiên quyết và triệt để cách mạng, tập trung mũi nhọn khắc phục tư tưởng co thủ hữu khuynh và xu hướng đánh giá địch quá cao, ta quá thấp; tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, không ngừng bồi dưỡng chí khí quyết thắng quân địch, giành thắng lợi về mình.
Vào giữa năm 1965, sau khi kiểm tra lại toàn bộ tình hình tư tưởng của nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng, sau khi phân tích tình hình mới, đề ra nhiệm vụ mới, ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã xác định lại một lần nữa là phương hướng cơ bản của công tác tư tưởng đó là đúng, là rất thích hợp, cần phải tiếp tục làm ráo riết theo hướng đó hơn lúc nào hết. Mặt trận đã dự kiến đúng rằng: Trong một tình hình mà địch đã bị thua đau, ta đã thắng lợi trong “chiến tranh đặc biệt”, nhưng lực lượng của địch tăng thêm đến hàng vạn, thì trong nội bộ ta, bên cạnh lập trường tư tưởng và phương pháp tư tưởng đúng, có thể có nơi, có lúc nào đó xuất hiện đôi chút ngả nghiêng về tư tưởng máy móc do không phân tích được đúng đắn tình hình. Mặt trận đã khẳng định rằng mặt tích cực trong tư tưởng của nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng là rất căn bản và chủ yếu. Do đó, trước sự thử thách mới của quân thù, Mặt trận đã hết sức tin tưởng vào lòng quả cảm và tính sáng tạo của nhân dân, các lực lượng vũ trang giải phóng và cán bộ miền Nam. Nhưng đồng thời Mặt trận vẫn cho rằng mặt khác cũng cần đề phòng một số biểu hiện tư tưởng không đúng có thể xảy ra như: tự ti, đánh giá khả năng cách mạng của mình thấp, khả năng địch cao, tư tưởng co thủ hữu khuynh; khi cách mạng đòi hỏi phải tiếp tục tiến lên, đạp bằng mọi gian khổ để tiến lên, v.v.
Những biểu hiện tiêu cực này đã được kịp thời ngăn chặn và giải quyết. Nếu không thì nó sẽ gây tác dụng xấu không phải chỉ trên một số vấn đề cụ thể của cách mạng, mà còn có thể ảnh hưởng một phần nào đến đường lối cách mạng, đến một số quan điểm cơ bản của cách mạng, đến sự đoàn kết, thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động trong nội bộ, làm cho cách mạng yếu đi, làm quân thù có đất để gây tác dụng của chính trị tâm lý.
Cả mùa khô, mặt trận đã tiến hành công tác chính trị và tư tưởng rất tốt, đó là một thắng lợi có ý nghĩa rất lớn vì từ thắng lợi về công tác chính trị và tư tưởng trong nội bộ, nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã giành được thắng lợi lớn trên chiến trường.
Kinh nghiệm chỉ rõ rằng, trước tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng, lãnh đạo cần đặt ra công tác chuẩn bị chính trị, lý luận và tư tưởng một cách kịp thời, chủ động, có nội dung sâu sắc và đúng đắn, và cố giành lấy thắng lợi ngay từ trận đầu để làm đà tiến lên, và việc đó phải được đặt thành một công tác trọng tâm thì nhiều việc khác mới có thể tiến hành có kết quả tốt được.
Lúc bấy giờ Mặt trận dân tộc giải phóng đã đề ra ba yêu cầu lớn là: Không để chựng về tư tưởng; Không để chựng về chiến lược và chiến thuật; Không để chựng về tổ chức.
Như vậy là trước những sự thay đổi lớn về tình hình, Mặt trận đã kịp thời phát hiện và giải quyết những vấn đề mới, nhưng tránh sự chao đảo, nhất là về tư tưởng, tránh sự xình rình về chiến lược, chiến thuật và tổ chức, tuyệt đối bảo đảm cho nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng tiến lên, tiếp tục chiến đấu và chiến thắng, không những không mất cái đà sẵn có mà còn tạo một cái đà mới mạnh hơn phong trào. Trước đây năm 1961, khi Bộ tư lệnh Hắckin của Mỹ vào miền Nam, chúng ta cũng đã tiến hành công tác chính trị và tư tưởng rất tốt trong nội bộ và trong quần chúng. Song lúc đầu cũng phải xình rình một hai tháng rồi sau đó mới có đà, đó là một điều không tốt mà anh em đã rút kinh nghiệm và do đó lần này đã tránh được.
Và lần này, để cho dễ nhớ, Mặt trận đã nêu lên một công thức cho anh em bên dưới nắm lấy để làm công tác chính trị và tư tưởng cho tốt, công thức đó là:
Lập trường tư tưởng cách mạng kiên định và quyết tâm cao cộng với sự đánh giá đúng so sánh lực lượng bằng thắng lợi. Và thắng lợi đó phải thể hiện cụ thể ra trên chiến trường bằng một cao trào đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận với những thành tích nhiều nhất, lớn nhất, xuất sắc nhất so với bất cứ mùa khô nào trước đây.
Anh em chúng ta trong ấy đã ráng sức vận dụng quan điểm duy vật lịch sử và duy vật biện chứng để quán triệt đường lối của Mặt trận, để phân tích cụ thể tình hình cụ thể, tìm ra được cách giải quyết đúng đắn những vấn đề do thực tiễn của cuộc chiến tranh cách mạng đề ra. Với một thái độ nghiêm túc, anh em đã tìm hiểu tình hình để cải tạo tình hình, đưa cách mạng tiến lên, nghiên cứu đường lối, chủ trương để chấp hành được tốt hơn, tìm hiểu thuận lợi để phát huy, tìm hiểu khó khăn để tích cực khắc phục chứ không phải để “lâm ly ai oán”, tìm hiểu cái mạnh của địch để đối phó, hạn chế chứ không phải để bó tay chịu khuất phục v.v. Tóm lại là anh em đã suy nghĩ và làm việc với một tinh thần trách nhiệm chính trị rất cao.
Trong lúc bấy giờ, nếu có ai thiếu ý thức về trách nhiệm chính trị - mà thông thường là do quyết tâm cách mạng và chí khí phấn đấu kém - thì người đó dễ đem “lý luận suông” ra mà vặn vẹo theo kiểu lý sự cùn; không chịu khó đi sâu nghiên cứu lý luận và thực tế để tìm ra biện pháp giải quyết vấn đề; thường đưa ra những lập luận lơ lửng làm cho tư tưởng người khác cũng sẽ lửng lơ như mình; nêu khó khăn ra không phải để khắc phục nêu cái mạnh của địch ra không phải để đối phó, mà là để hù dọa người khác, hữu ý hay vô tình gieo rắc chủ nghĩa bi quan; ưa kích động tình cảm không cách mạng làm cho người khác ít ra cũng bâng khuâng, giảm quyết tâm đạp bằng khó khăn, gian khổ, tiếp tục hy sinh để giành những thắng lợi cho kỳ được; tệ hơn nữa là người đó sẽ nêu lên nhiều bài toán không có đáp số, bày la liệt ra nhiều kinh nghiệm chỗ này, chỗ kia để chứng minh một cách lơ lửng rằng “chúng ta cũng có thể thắng lợi được”, nhưng lại đèo theo sau đó cả một đống “nhưng mà”, làm cho đến trời cũng không thể hiểu nổi người ấy muốn nói cái gì, nói như vậy để làm gì?
Anh em chúng ta đã tránh được các cái đó, nếu không thì nó sẽ gây tác dụng tiêu cực, làm cho người ta không quán triệt được tinh thần kiên định của đường lối chính trị và lập trường cách mạng, không quán triệt được các quan điểm cơ bản của cách mạng như quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng, quan điểm chiến tranh nhân dân, quan điểm bạo lực, quan điểm cách mạng không ngừng, quan điểm dựa vào sức mình là chính, v.v. Và các chiều hướng tư tưởng sai trái làm cho người ta không thấy rõ được quy luật phát triển của cách mạng; không thấy rõ được sức mạnh của lý luận tiên phong, của đường lối chính trị và quân sự đúng đắn; không thấy rõ được sức mạnh vĩ đại và tài năng vô tận của nhân dân quần chúng và của tập thể, thấy chỗ mạnh của địch thì sắc mà thấy chỗ yếu của địch thì cùn; nói chỗ yếu và khó khăn của ta thì đậm đà, mà nói chỗ mạnh của ta thì không lấy gì làm hào hứng lắm, v.v.
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam không chỉ đề ra một cách đúng đắn những vấn đề tư tưởng phải giải quyết, mà còn có phương pháp đúng như lý luận đã liên hệ với thực tế, không lý luận suông; không o ép chụp mũ mà là đưa lý lẽ thực tế để giải thích thuyết phục, đấu tranh; không thô bạo độc đoán mà mở rộng dân chủ bàn bạc, thuyết phục tiến hành phê bình một cách nghiêm túc, tuy nhẹ nhàng nhưng lại dứt khoát và đi sâu; không một chiều mà đề cao và phát huy rất mạnh mặt tích cực, phê phán đến nơi đến chốn mặt tiêu cực, nhằm làm cho mọi người đều sáng sủa về tư tưởng, đoàn kết nội bộ được tăng thêm, ai ai cũng có được những phấn khởi mới, phát huy lòng tự tin, tự trọng và tự hào chính đáng của mình, v.v. Và việc giải quyết các vấn đề về ý thức tư tưởng đều không tách rời phương pháp tư tưởng.
Cuộc cách mạng ở miền Nam ta có một sức sống vĩ đại do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng là nhân dân miền Nam ta có một lý luận tiên phong chỉ đạo. Lý luận đó phản ánh đúng nhu cầu của sự phát triển xã hội, làm kim chỉ nam cho đường đi nước bước của quân và dân miền Nam ta. Và chính là nhờ đặt lý luận đó vào một địa vị rất cao, xứng đáng, và coi việc triệt để sử dụng sức mạnh động viên, tổ chức và chỉ đạo của lý luận đó là nghĩa vụ của mình nên nhân dân miền Nam đã giành được thắng lợi. Đứng trên quan điểm của ta để đánh giá so sánh lực lượng địch, ta, chúng ta thấy địch không có sức mạnh đó mà chỉ ta mới có. Nếu người nào trong chúng ta khi đánh giá so sánh lực lượng giữa hai bên mà bỏ qua điều đó thì họ sẽ bỏ rơi mất một sức mạnh to lớn của mình, do đó các bài toán tiếp theo sẽ sai trật.
Những bậc thầy cách mạng đã nói: Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng; và lý luận tiên phong, đường lối chính trị của giai cấp tiên phong, một khi thâm nhập vào quần chúng sẽ biến thành lực lượng vật chất lớn lao. Vì vậy, trong cuộc chiến tranh cách mạng, lý luận và đường lối cách mạng tự nó đã chứa đựng một tiềm lực lớn lao, cung cấp không ngừng cho chiến tranh cách mạng những lực lượng vật chất cần thiết để đánh đổ lực lượng vật chất của đối phương. Vì vậy, nếu người nào đó không đứng trên quan điểm đó để so sánh lực lượng giữa ta và địch ở miền Nam thì: Một là họ sẽ chùn bước, hai là họ sẽ hoang mang trước khó khăn; ba là họ sẽ thần bí hoá thắng lợi của cách mạng, chứ không hiểu nổi đó là những chiến đấu đầy tính sáng tạo của quần chúng nhân dân bắt nguồn từ lý luận tiên phong, từ một đường lối chính trị mang trong lòng nó một tư tưởng vô địch. Ví dụ: Chúng ta không thể sáng tạo được lực lượng vật chất mới để giành thắng lợi lớn lao trong mùa khô nếu chúng ta không nhờ vào lý luận tiên phong và đường lối chính trị của chúng ta để đánh giá một cách đúng đắn rằng thắng lợi đánh bại “chiến tranh đặc biệt” là một bước nhảy vọt, và bước tiến nhảy vọt đó đưa chúng ta lên một thế chiến lược mới, sẽ tạo ra chúng ta những khả năng mới trong đó có cả khả năng vật chất cần phải kịp thời động viên và khai thác để đánh bại quân thù, phát triển lực lượng của ta.
Ở đây chúng ta thấy rằng đế quốc Mỹ có những mặt mạnh hơn ta, nhưng chúng tuyệt đối không có một sức mạnh nào là vô địch, mà chỉ ta mới có sức mạnh vô địch, đó là lý luận và hệ tư tưởng tiên phong của chúng ta.
Quân và dân miền Nam ta đã nắm được quy luật phát triển tuần tự và nhảy vọt trong vận động của sự vật để đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch ở miền Nam vào năm 1965. Vận dụng phép biện chứng, lúc bấy giờ anh em cho rằng:
+ Địch bị thất bại trong “chiến tranh đặc biệt” nên đã chuyển sang “chiến tranh cục bộ”, thực chất đó là một bước nhảy vọt của sự bị động về chính sách và chiến lược của địch, mặc dù địch cố tăng lực lượng lên gấp bội.
+ Ta đã thắng địch trong “chiến tranh đặc biệt” thực chất đó là bước tiến nhảy vọt của cách mạng, của chiến tranh nhân dân ở miền Nam, đưa cuộc chiến tranh nhân dân của ta lên một trạng thái cao hơn cả về số lượng và chất lượng. Do đó, nhiều nhân tố mới đã xuất hiện mà chúng ta cần nắm lấy cho chặt, cần bồi dưỡng kịp thời và khai thác thật mạnh để thúc đẩy và phát triển chiến tranh cách mạng.
Nhờ có cách xem xét đó, anh em ở trong đó lúc bấy giờ đã có thể rút ra một số kết luận thực tiễn sau đây: Nếu chỉ nhìn vào số lượng của địch trước đây chỉ có gần 50 vạn quân ngụy, 3 vạn cố vấn Mỹ, 10 tiểu đoàn cơ động chiến lược, mà nay chúng tăng thêm 20 vạn quân Mỹ với cả ngụy và chư hầu lên khoảng 70 vạn, trong đó có thể có chừng 40 tiểu đoàn cơ động chiến lược thì quả thật sự so sánh lực lượng đã là một sự đánh giá theo lôgic hình thức, vì theo cách nhìn biện chứng, thì việc tăng cường lực lượng của Mỹ với việc làm thay đổi so sánh lực lượng theo hướng có lợi cho Mỹ là hai vấn đề khác nhau, chứ không phải là một. Địch có tăng quân nhiều thật, nhưng thế chiến lược của ta đã tốt hơn trước nhiều rồi, lực lượng của địch có tăng thêm nhiều, nhưng một phần lớn phải bù vào các lỗ hổng do “chiến tranh đặc biệt” bị thất bại để lại, các chính sách và chiến lược của địch đang và sẽ gặp phải những mâu thuẫn nghiêm trọng xâu xé, v.v. Do đó địch không có điều kiện, không có những yếu tố cơ bản để xoay chuyển được tình thế, còn chúng ta thì có điều kiện để giữ vững và phát triển một bước quyền chủ động trên chiến trường, chúng ta và chỉ chúng ta mới có điều kiện tiếp tục làm thay đổi so sánh lực lượng theo hướng có lợi cho ta không có lợi cho địch; do đó chúng ta có điều kiện đánh bẹp cuộc phản công mùa khô của địch, giành thắng lợi về mình với một tư tưởng tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công quân địch, mặc dù cuộc chiến tranh cách mạng của chúng ta còn trải qua nhiều khó khăn và gian khổ.
Từ cách xem xét đúng so sánh lực lượng, anh em ta ở trong đó đã rút ra được những kết luận thực tiễn đúng, cho nên đã có những biện pháp tổ chức thực hiện tốt, do đó đã giành được thắng lợi vẻ vang.
Trong một tình hình mà lực lượng của Mỹ tăng lên một cách đột ngột, thì về cách xem xét vấn đề, bên cạnh cái đúng có thể xuất hiện chiều hướng sai lầm: một là bảo thủ không thấy cái mới, không tìm ra được cái mới, do đó người ta sẽ cắm đầu, cắm cổ mà làm “y như cựu lệ”; hai là bất lực không phân tích được tình hình cụ thể mới để có những ý kiến đúng đắn và sáng tạo, do đó người ta lại quay sang tìm cái mới ở những công thức sẵn có trong sách vở, sao chép máy móc kinh nghiệm đã qua của mình hay kinh nghiệm của nước ngoài, rồi gán vào thực tiễn cách mạng sinh động một “tình duyên ép uổng” theo xu hướng giáo điều.
Ví dụ: Khi nghe địch mới tăng quân, chưa kịp điều tra, nghiên cứu tình hình thực tế ra sao đã vội kết luận rằng: chiến tranh cách mạng của ta có mấy giai đoạn, ta đang ở vào giai đoạn thứ mấy; muốn tiêu diệt một tiểu đoàn ngụy thì ưu thế binh lực của ta phải có 2/1, vì vậy muốn đánh tiêu diệt 1 tiểu đoàn Mỹ được trang bị tốt hơn, có số quân đông gấp đôi quân ngụy, có sĩ quan Mỹ giỏi hơn sĩ quan ngụy phải có ít nhất 7/1 hay 9/1, v.v. Thật ra đó là một kiểu “bói toán” chứ không phải một sự tính toán khoa học và thông thường những nhà “bói toán” lại hay thích bước thụt lùi.
Vì vậy, trong khi chỉ đạo chiến tranh, bất cứ trong tình hình nào, nhất là những lúc tình hình mới thay đổi hoặc thay đổi đột ngột thì phải vừa chú trọng lý luận và kinh nghiệm lại phải hết sức xuất phát từ thực tiễn. Lặp lại nguyên xi những cái đã thuộc về lịch sử trong một thực tiễn mới là một việc mạo hiểm.
Một ví dụ nữa: Sẽ không thể đánh giá đúng khả năng quân sự của ta và của địch, nếu không thấy hết tác dụng quan trọng của đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam ta, và rồi có thể do cách nhìn thoát ly thực tế đó, sẽ đặt và giải quyết các mối quan hệ giữa đồng bằng và rừng núi, giữa nông thôn và đô thị trong cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam một cách cũ kỹ.
Lại ví dụ: Không thể đánh giá năng lực chiến đấu của một sư đoàn bộ binh Mỹ một cách trừu tượng vì sự đánh giá trừu tượng chỉ có thể dẫn đến kết luận mơ hồ hoặc sai lầm; trái lại phải đánh giá nó một cách rất cụ thể nghĩa là phải đặt nó vào trong một hoàn cảnh cụ thể trên những địa điểm, thời gian cụ thể, cọ xát với một đối phương cụ thể. Về lý thuyết đơn thuần mà nói thì một sư đoàn bộ binh của Mỹ thường thường gồm chừng 15 nghìn quân, có thể tiêu diệt một trung đoàn của đối phương trong một trận. Nhưng vì sao ở miền Nam ta trong suốt cả mùa khô này Mỹ có gần 6 sư đoàn với một lực lượng không quân rất mạnh mà không tiêu diệt gọn được một đại đội Quân giải phóng, trái lại hàng chục tiểu đoàn của Mỹ lại bị Quân giải phóng tiêu diệt gọn? Thế là thế nào? Nếu chỉ đếm số người và số súng của một sư đoàn Mỹ thì không thể đánh giá đúng năng lực chiến đấu của nó được, trừ khi để mà duyệt binh. Còn đánh nhau thì lại khác, năng lực chiến đấu thực tế của một quân đội bị phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ở miền Nam nước ta, do nhảy vào một thế thua, quân đội viễn chinh Mỹ - mặc dù chúng ta không khinh thường nó - bị rất nhiều yếu tố tiêu cực tác động đến và chi phối, đến nỗi ngay những nhà chiến lược Mỹ cũng không thể ngờ rằng từ năng lực lý thuyết của gần 6 sư đoàn cơ động đến năng lực thực tế của các sư đoàn đó trên chiến trường miền Nam trong mùa khô vừa rồi có một khoảng cách xa đến như thế!
Vì vậy, xuất phát từ thực tiễn là một thái độ cần thiết của người lãnh đạo. Không tôn trọng thực tiễn thì tự mình tước mất năng lực sáng tạo của mình, làm cho mình trở nên “cổ lỗ sĩ”. Lẽ tất nhiên tôn trọng thực tiễn không có nghĩa là sùng bái, mà là dùng lý luận, dùng chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dùng đường lối cách mạng để phân tích tình hình thực tế, tìm hiểu quy luật phát triển khách quan của sự vật để chỉ đạo thực tiễn một cách tự giác, tổ chức quần chúng hành động, đưa phong trào cách mạng tiến lên mạnh mẽ và nhanh chóng.
Đó là ý nghĩa của lý luận kết hợp với thực tiễn, lý luận chỉ đạo thực hành và thực hành bổ sung cho lý luận, lãnh đạo kết hợp với quần chúng. Đó là ý nghĩa của nguyên tắc “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”, và của quan điểm quần chúng nhân dân sáng tạo ra lịch sử. Vì vậy phép biện chứng, ở đây cụ thể là quan điểm thực tiễn, đã là một cái chìa khóa giúp cho quân và miền Nam ta mở ra được khá nhiều vấn đề tiến lên trong một tình hình phức tạp, để giải quyết những vấn đề của cách mạng miền Nam một cách đúng đắn và sáng tạo.
Một điều quan trọng nữa là anh em ta đã vận dụng quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng để phát hiện mâu thuẫn địch, đánh giá tác động của các mâu thuẫn đó trên chiến trường, khoét sâu các mâu thuẫn đó để làm cho địch yếu đi.
Ở đây không phân tích toàn bộ vấn đề mâu thuẫn của địch mà chỉ nêu lên một số việc, nhất là về quân sự, để chứng minh cho sự cần thiết vận dụng phép biện chứng của anh em ta mà thôi.
Không thể hiểu được vì sao Mỹ - ngụy có đến 70 vạn tên mà chúng đã phải thua quân và dân miền Nam trong mùa khô nếu như không thấy rõ được hoạt động quân sự của Mỹ trên chiến trường miền Nam có rất nhiều mâu thuẫn chi phối đến cả chiến lược, chiến thuật và tổ chức chỉ huy chiến đấu làm cho chúng rất rối rắm. Vì hai nguyên nhân, một là bản thân nó đã rất rối rồi, hai là đối phương của nó - tức là quân và dân miền Nam - luôn luôn khoét sâu mâu thuẫn của chúng, làm cho chúng rối rắm thêm.
Trước hết lực lượng và sự hoạt động quân sự của Mỹ ở miền Nam do đường lối chính trị của chúng chi phối. Đường lối chính trị đó có ba điều quan trọng đáng chú ý, một là phi nghĩa, hai là đã hai lần thua cuộc đậm trong 10 năm qua, ba là nay chúng cũng không tin và không thể nào tin thắng được ta về quân sự.
Do đó tất nhiên chiến lược của địch phải bị động và bị động trên ba vấn đề: một là phải đưa lục quân vào chiến trường miền Nam, điều mà trước đây Mỹ cho là rất kỵ, muốn tránh mà nay cũng phải đâm đầu vào; hai là lục quân Mỹ nhảy vào khi ngụy quân, ngụy quyền do Mỹ chỉ huy đã bị thua đau, bệ rạc và đối phương thì lại đã mạnh hơn trước nhiều cả về mặt quân sự và chính trị; ba là khi lục quân Mỹ vào thì bằng cách này hay cách khác chúng muốn đánh nhanh, giải quyết nhanh nhưng không được, do đó lại phải kéo dài. Thật là mâu thuẫn!
Và do đó trong chiến thuật của Mỹ cũng có nhiều mâu thuẫn. Ví dụ: Đánh trên đất liền mà lại phải dựa vào không quân để giải quyêt chiến tranh; muốn phát huy hiệu lực của không quân thì phải có trận tuyến rõ rệt và phải có mục tiêu, đằng này không có trận tuyến, mục tiêu phân tán và không rõ, do đó tác dụng lý thuyết của không quân nếu có 10 thì khi qua thực tế chiến đấu chỉ còn lại 1; dựa vào pháo binh và cơ giới trong khi bộ binh phải làm nhiệm vụ xung kích, và nếu dựa vào bộ binh mà tinh thần chiến đấu của người lính kém thì làm sao có tác động xung phong mạnh, bao vây chặt, chia cắt lẹ, truy lùng tích cực, giải quyết chiến đấu nhanh và gọn để tiêu diệt đối phương? v.v. Thật là mâu thuẫn!
Và do đó kết quả chiến đấu của 25 vạn quân Mỹ trong mùa khô vừa qua thật là bi thảm, làm cho cả Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn dù có cố làm ra vẻ lạc quan đến mấy đi nữa cũng chỉ “cười ra nước mắt”.
Thất bại của địch trong mùa khô vừa qua là hậu quả của một chính sách phản động, một chiến lược sai lầm, và người ta chỉ có thể cắt nghĩa được những thất bại nặng nề về chiến lược của Mỹ khi nhìn thấy hết những mối mâu thuẫn đang xâu xé trong bản thân đường lối chính trị và chiến lược của Mỹ, làm cho nó đang trải qua một cuộc khủng hoảng gay gắt, trầm trọng và triền miên. Và số phận của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam đã được định đoạt ngay từ bản chất đó.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thiêng liêng của mình, nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam ta đã hàng ngày, hàng giờ làm nên sự tích anh hùng mà rồi đây trong cuốn lịch sử của dân tộc ta và có lẽ cả lịch sử của cách mạng thế giới sẽ ghi thêm nhiều dòng chữ chói lọi và bất diệt.
Và sau này cháu chắt của chúng ta sẽ kể lại chuyện cha anh mình đánh Mỹ, cứu nước một cách say sưa, rôm rả như kể những chuyện thần thoại: “Thạch Sanh bắn đại bàng cứu nàng công chúa...”, v.v.
Nhưng Lênin đã nói: “Lịch sử cũng như thiên nhiên không hề biết có “phép lạ”, nhưng mỗi bước ngoặt đột ngột của lịch sử và nhất là mỗi cuộc cách mạng đều có một nội dung phong phú, đều vận dụng những sự phối hợp bất ngờ và độc đáo của các hình thức đấu tranh và các quan hệ so sánh giữa các lực lượng đối địch, khiến cho có nhiều sự việc xem chừng như là kỳ lạ đối với một kẻ tầm thường.
Vì vậy, suy cho cùng, nghĩ cho kỹ thì vừa qua Mỹ đã thua, ta đã thắng và rồi đây Mỹ lại sẽ thua, ta lại sẽ thắng tiếp cũng không lấy gì làm lạ.
Dân của chúng ta không đông lắm, đất của chúng ta không rộng lắm, thế mà đồng bào miền Nam ta đã đánh thắng Mỹ những hiệp đầu, và tuyệt đối tin tưởng rằng mình sẽ thắng lợi hoàn toàn. Vì sao?
Vì có sự lãnh đạo của một đưòng lối chính trị và quân sự đúng đắn, lại có lập trường tư tưởng vững chắc, phương pháp tư tưởng đúng đắn, dân của chúng ta đông lên gấp bội, các lực lượng vũ trang cách mạng của chúng ta mạnh lên gấp bội, v.v. Quân thù không thể nào địch nổi lập trường cách mạng kiên quyết và triệt để của nhân dân ta, không thể nào địch nổi gan óc anh hùng của dân tộc ta.
Chúng ta hãy nói và đánh cho giặc Mỹ và tay sai biết rằng, chúng không có một yếu tố, một điều kiện cơ bản nào để giành thắng lợi được đâu; chúng chỉ có thất bại và thất bại hoàn toàn.
Cả nước Việt Nam ta đang đứng trước một cơ hội lịch sử ngàn năm có một.
Nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam ta đang bừng lên khí thế chiến thắng!
Quyết chiến đấu và chiến thắng!
Vẻ vang đời đời thuộc về dân tộc anh hùng, quân đội anh hùng.
Phụ lục 14
MỘT SỐ BỨC ẢNH TIÊU BIỂU
Nguồn: - Tổng cục Chính trị, Cục Tuyên huấn , Lịch sử Cục Tuyên huấn (1946 - 2014), Nxb QĐND, Hà Nội, 2014.
- Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị quá trình hình thành tổ chức và chỉ đạo công tác đảng - công tác chính trị trong quân đội, (Biên niên sự kiện và tư liệu), tập II - Quyển 1 (1954 - 1964), Quyển 2 (1965-1975), Nxb QĐND, Hà Nội, 1998.
- Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị, Lịch sử Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, tập I (1944-1975), Nxb QĐND, Hà Nội, 2004.
- Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ Chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000.
- Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
- Báo Quân đội nhân dân Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm TCCT
tại Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ nhất, năm 1960
Đại tướng Võ Nguyên Giáp tới dự và chụp ảnh kỷ niệm với các đại biểu trong
Đại hội liên hoan Anh hùng, Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ 3, năm 1962
Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất, năm 1965
Bác Hồ gặp gỡ các đại biểu dự Hội nghị Anh hùng và Chiến sĩ thi đua
chống Mỹ, cứu nước, năm 1967
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp với một số Anh hùng và Dũng sĩ miền Nam
Quân đội hưởng ứng phong trào thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” do QUTW phát động ngày 31-3-1965
Sư đoàn 5 hành quân “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”, năm 1967
Tổ chức ký Quyết tâm thư trước trận chiến đấu năm 1965 tại Trung đoàn 64
Đơn vị nhận cờ thưởng huấn luyện giỏi trong thời kỳ xây dựng quân đội tiến lên chính quy hiện đại (1960 - 1964)
Tiểu đoàn 514, đơn vị chiến thắng Ấp Bắc tháng 1-1963
Đơn vị chiến thắng trong trận Vạn Tường ngày 8-8-1965
Đơn vị Nguyễn Viết Xuân với khẩu hiệu “Trút căm thù lên nòng pháo. Nhằm thẳng quân thù bắn” đã bắn rơi 3 máy bay Mỹ tại Cha Lo (Quảng Bình) ngày 18-11-1964
Cán bộ tuyên huấn tổ chức sinh hoạt báo chí tuyên truyền trước trận chiến đấu
Bộ đội hành quân vượt Trường Sơn vào Nam, năm 1963
Đoàn Vận tải 125 Hải quân vận tải vũ khí cho chiến trường miền Nam
Quyết tâm thư của cán bộ, chiến sĩ gửi Hồ Chủ tịch tỏ lòng tin tưởng và ý chí quyết tâm lên đường vào Nam chiến đấu
Bài viết của đồng chí Nguyễn Chí Thanh “Vì sao quân và dân miền Nam thắng lớn, Mỹ - ngụy thua to trong mùa khô 1965 - 1966”
Văn công phục vụ bộ đội trên chiến trường, năm 1965
Đoàn văn công TCCT đi phục vụ chiến trường miền Nam, năm 1968
Các đoàn văn công luôn có mặt trên “tuyến lửa” động viên cán bộ, chiến sĩ, năm 1965
Tranh tuyên truyền, cổ động trong quân đội (1960 - 1968)