BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
BÙI XUÂN TIỆP
DÂN CA GẦU PLỀNH VÀ LỄ HỘI GẦU TÀO CỦA NGƯỜI HMÔNG Ở LÀO CAI – TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 62.22.01.25
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thu Yến
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là do tôi viết. Các cứ liệu nêu trong luận án trung thực, khách quan. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày tháng 01 năm 2015
169 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 536 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Dân ca Gầu Plềnh và lễ hội Gầu tào của người Hmông ở Lào cai – truyền thống và biến đổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu sinh
Tác giả
Bùi Xuân Tiệp
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Luận án sử dụng một số kí hiệu, một số chữ viết tắt:
1. Kí hiệu
- Dấu [ ]: để chú thích. Kí hiệu trong dấu móc được hiểu như sau: Số thứ nhất là số thứ tự tác phẩm trích dẫn theo danh mục tài liệu tham khảo; số thứ hai là số trang. Ví dụ: [1, tr.45] được hiểu: 1 là số thứ tự tác phẩm trích dẫn trong tài liệu tham khảo, 45 là trích dẫn tại trang 45. Nội dung trích dẫn tài liệu dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc do chúng tôi tự dịch sang tiếng Việt, sẽ thêm chữ bg (bản gốc). Ví dụ: [191, tr.126. bg]: 191 là số thứ tự tác phẩm trích dẫn trong tài liệu tham khảo, 126.bg. là trích dẫn tại trang 126 của bản gốc tiếng Trung đã dịch ra tiếng Việt.
- Dấu ( ): trong trường hợp để chú thích phụ lục ảnh. Ví dụ: (A2.6, tr.283): A là ảnh; 2.6 là ảnh 6 chương 2; tr. 283 là trang 283. Trong trường hợp chú thích phụ lục khác: Ví dụ (PL2.2, tr.259): PL2.2 là phụ lục số 2 chương 2; tr. 259: trang số 259 của phụ lục.
2. Các chữ viết tắt
TT
Viết thông thường
Viết tắt
1
Ảnh số
A
2
Bản gốc
bg
3
Hà Nội
H.
4
Lễ hội gầu tào
LHGT
5
Nhà xuất bản
Nxb
6
Phổ cập giáo dục tiểu học
PCGDTH
7
Phổ cập giáo dục trung hoc học cơ sở
PCGD THCS
8
Phụ lục
PL
9
Trang
tr.
10
Trung Quốc
TQ
11
Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam
UB TWMTTQVN
12
Ví dụ
VD
13
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ V (khóa VIII) xác định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian). Văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể” [3, tr. 63]. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, trong đó, dân tộc Hmông có dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 6 (Kinh: 73.594.427, Tày: 1.623.920, Thái: 1.550.423, Mường: 1.268.963, Khơ me: 1.260.640) trong danh sách 54 dân tộc [157, tr. 273]. Nền văn hóa Hmông, trong đó, văn học dân gian hết sức đặc sắc đang đứng trước nhiều thách thức, thậm chí có bộ phận bị mai một trong xu thế cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay. Nghiên cứu đề tài này là việc làm đầy ý nghĩa góp phần phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa cổ truyền dân tộc.
Lào Cai là tỉnh vùng cao, biên giới có vị trí địa lý đặc biệt, nhiều đồng bào Hmông sinh sống (năm 2013: 154.709 người, chiếm 24,59% dân số toàn tỉnh, [156]) với 5 ngành Hmông cư trú tại 9/9 huyện, thành phố. Lào Cai có các nhóm (ngành) Hmông tiêu biểu cho cộng đồng dân tộc Hmông ở Việt Nam. Họ còn lưu giữ được nền văn hóa dân gian phong phú, độc đáo, hấp dẫn, trong đó, văn học dân gian có vị trí vô cùng quan trọng, mang đậm bản sắc dân tộc, phản ánh nhiều mặt đời sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tư tưởng, tình cảm, tâm hồn, thẩm mĩ... của đồng bào. Đặc biệt, dân ca Hmông rất phong phú, với nhiều tiểu loại như: tiếng hát cưới xin, tiếng hát tang ma, tiếng hát tình yêu, tiếng hát làm dâu, tiếng hát mồ côi.... “Tiếng hát tình yêu” (dân ca Gầu plềnh; viết tắt: Gầu plềnh) có số lượng lớn nhất, giá trị văn học nghệ thuật độc đáo và vai trò quan trọng trong sinh hoạt cộng đồng, nhất là tại Lễ hội Gầu tào (Grâuk taox – viết tắt: LHGT). Nhưng đến nay, việc nghiên cứu Gầu plềnh, LHGT, nhất là sự biến đổi của chúng chưa được mấy người quan tâm nên rất cần được nghiên cứu cụ thể, sâu sắc hơn.
Từ năm 1945 đến nay, công tác sưu tầm văn học dân gian Hmông đạt nhiều thành tựu, diện mạo văn học dân gian Hmông hiện lên tương đối đầy đủ. Nghiên cứu về dân tộc Hmông như lịch sử, dân tộc học, văn hóa dân gian, văn học dân gianđược chú trọng, có kết quả. Đặc biệt, công tác sưu tầm dân ca Hmông được đẩy mạnh; số lượng tác phẩm Gầu plềnh sưu tầm, công bố trên 1000 trang. Đó là nguồn tư liệu chính đảm bảo cho tác giả Luận án lựa chọn, khảo sát thực hiện đề tài. Nghiên cứu đề tài “Dân ca Gầu plềnh và LHGT của dân tộc Hmông ở Lào Cai – truyền thống và biến đổi”, chúng tôi hy vọng góp phần giải mã, làm sáng tỏ một phương diện của văn học nghệ thuật dân gian Hmông và một mảng sinh hoạt văn hóa quan trọng của đồng bào.
Bản thân tôi có thuận lợi là sinh ra, lớn lên, công tác ở Lào Cai, được sống cùng đồng bào Hmông, nên hiểu biết nhất định về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tín ngưỡngcủa đồng bào, đã tham dự nhiều LHGT, sưu tầm được số lượng đáng kể tư liệu văn học dân gian, nhất là những bài Gầu plềnh. Điều đó thúc đẩy tôi nghiên cứu với hy vọng làm sáng tỏ vấn đề một cách sâu sắc, đầy đủ hơn, đóng góp thiết thực, góp phần nhỏ bé vào công cuộc xây dựng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ
2.1. Mục tiêu
- Luận án làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng, mật thiết giữa Gầu plềnh và LHGT, sự biến đổi của chúng trong xã hội đương đại; vận dụng lý thuyết thi pháp học văn học dân gian, trên cơ sở văn bản và thực tế diễn xướng, đánh giá những giá trị nội dung, nghệ thuật Gầu plềnh; khẳng định vai trò quan trọng của Gầu plềnh trong đời sống tinh thần dân tộc Hmông.
- Từ đó, tác giả Luận án đề xuất thái độ ứng xử phù hợp và các biện pháp tổ chức quản lý, giáo dục tại cộng đồng, góp phần giữ gìn một cách hiệu quả bản sắc văn hóa Hmông trên địa bàn tỉnh biên giới Lào Cai.
2.2. Nhiệm vụ
- Kế thừa, chọn lọc, nâng cao những kết quả nghiên cứu của người đi trước; nghiên cứu Gầu plềnh đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với tín ngưỡng, phong tục tập quán, môi trường diễn xướng tại LHGT; lý giải hiện tượng từ góc độ địa văn hóa, văn hóa tộc người.
- Làm rõ những đặc trưng trong diễn xướng và thi pháp Gầu plềnh. Phân tích giá trị tiêu biểu về nội dung, nghệ thuật Gầu plềnh trên phương diện thẩm mĩ ngôn từ; đồng thời làm rõ, sâu sắc hơn đặc trưng nguyên hợp của văn học dân gian, cụ thể ở đây là mối quan hệ mật thiết giữa Gầu plềnh với LHGT (ẩn sâu là các lớp tín ngưỡng, văn hóa) trên địa bàn tỉnh Lào Cai; thẩm định, đánh giá giá trị của chúng trong cuộc sống quá khứ, hiện tại và tương lai.
- Tỉnh Lào Cai có 5 ngành Hmông sinh sống, 4 ngành tổ chức LHGT. Luận án khảo sát, nghiên cứu sự tương đồng, khác biệt của các vùng lễ hội và của các ngành Hmông; nghiên cứu sự biến đổi, ảnh hưởng của chúng trong xã hội đương đại, ảnh hưởng của chúng đến đối tượng học sinh phổ thông, đề xuất các giải pháp quản lý, bảo tồn, phát huy những giá trị tốt đẹp.
- Sưu tầm Gầu plềnh tại LHGT; biên dịch, bổ sung thêm vào kho tàng văn học dân gian nước nhà.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Về nội dung: Luận án chủ yếu khai thác phương diện ngôn từ, phương diện diễn xướng, đồng thời khai thác phương diện âm nhạc ở một mức độ hẹp hơn trong điều kiện có thể. Vận dụng lý thuyết thuyết thi pháp học văn học dân gian, chúng tôi đặt Gầu plềnh trong môi trường văn hóa của chúng để đánh giá, thẩm định nội dung, nghệ thuật, nhận diện bản chất thể loại. Môi trường văn hóa, xã hội truyền thống của người Hmông Lào Cai được xác định từ 1960 trở về trước (xem 3.2, Chương 3).
3.2. Về phạm vi, tư liệu khảo sát:
- Tài liệu dân ca đã công bố:
+ 04 tác phẩm, chủ yếu sưu tầm tại Lào Cai: 1) Doãn Thanh (1967), Dân ca Mèo (Lào Cai), Nxb Văn học, Hà Nội, (quyển 1). 2) Doãn Thanh (1974), Dân ca Mèo (Jăng Gâux Hmôngz) Lào Cai, Hội Văn học nghệ thuật Lào Cai (quyển 2). 3) Doãn Thanh, Hoàng Thao, Chế Lan Viên (1984), Dân ca HMông, Nxb Văn học, Hà Nội (quyển 3). 4) Doãn Thanh, Hoàng Thao, Triều Ân (2004), Ca dao dân ca Tày, Nùng, HMông, Nxb Văn học, Hà Nội (quyển 4). Tuy công bố sau 1960, song có thể xác định những bài dân ca trong các tập sách trên là lời cổ, thuộc về truyền thống.
+ 01 tác phẩm sưu tầm tại Hà Giang: Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang, Sở Văn hoá Thông tin Hà Giang, Tập 1,2,3 và một số bài báo, tạp chí.
- Phạm vi, tư liệu điền dã của tác giả Luận án:
+ Về Gầu plềnh: Tác giả tham gia nhiều buổi hát Gầu plềnh tại các LHGT, hoặc nghe hát đơn lẻ; cùng một số nghệ nhân ghi âm, sưu tầm, biên dịch Gầu plềnh (PL0.1, tr.164) của các ngành Hmông hoa, Hmông đen, Hmông đỏ ở các vùng có điều kiện địa lý, lịch sử, xã hội khác nhau nên tính đại diện khá cao, phù hợp đối tượng nghiên cứu.
+ Về lễ hội: Tác giả nhiều lần trực tiếp tham dự, nghiên cứu LHGT ở các vùng và các ngành Hmông khác nhau: các xã Pha Long, Tả Ngải Chồ, Lùng Khấu Nhin (Mường Khương); xã Cán Cấu (Si Ma Cai); các xã Hầu Thào, San Sả Hồ, Tả Giàng Phình (Sa Pa), xã Thái Niên (Bảo Thắng), xã Lao Kha (huyện Hà Khẩu, TQ) (PL0.2, 0.3, tr.253-254); trên cơ sở đó, so sánh điểm chung và riêng giữa lễ hội các vùng. Tuy nhiên, địa bàn chúng tôi tập trung khảo sát chủ yếu ở 3 LHGT tiêu biểu tại 3 huyện của tỉnh Lào Cai là: Mường Khương: xã Pha Long; Si Ma Cai: xã Cán Cấu; Sa Pa: xã Tả Giàng Phình.
+ Về điều tra bằng phiếu: (PL0.4, tr. 257): Để đánh giá mức độ tác động, ảnh hưởng, biến đổi của Gầu plềnh và LHGT đối với lớp trẻ, chúng tôi lập phiếu điều tra, tổ chức điều tra trên đối tượng học sinh bậc trung học của 3 huyện Sa Pa, Mường Khương, Si Ma Cai, tổng số 450 phiếu; tổng hợp, phân tích kết quả.
- Khảo sát Gầu plềnh: Tổng số tư liệu khảo sát 250 bài (lời). Luận án có mục khảo sát 175 bài đã xuất bản, có mục khảo sát cả 250 bài (lời). Cụ thể:
+ Tư liệu Gầu plềnh đã xuất bản: 175 bài, gồm: 95 bài quyển 1; 42 bài quyển 2 (bỏ 3 bài trùng: số 8, 12, 45); 38 bài quyển 3, từ bài 3 đến bài 52 (bỏ 11 bài trùng, số: 7, 9, 12, 21, 35, 36, 42, 43, 44, 45, 51).
+ Tư liệu Tiếng hát mồ côi, tiếng hát làm dâu tiềm ẩn khả năng chuyển thành Gầu plềnh:13 bài (6 bài quyển 1; 4 bài quyển 3; 3 bài quyển 4).
+ Tư liệu Gầu plềnh do tác giả Luận án sưu tầm: 61 bài (lời).
- Lưu ý một số vấn đề dịch thuật tiếng Hmông ra tiếng Việt: Ngôn ngữ dân ca Hmông là ngôn ngữ nghệ thuật rất tinh tế, duyên dáng, giàu hình tượng và biểu tượng. Dịch giả Doãn Thanh đã chú trọng đến việc chú thích tỉ mỉ những ý dịch chưa thoát, những từ ngữ lạ, những phong tục, tập quán, cách diễn đạt riêng... giúp cho người đọc có thể nắm bắt tương đối trọn vẹn tác phẩm. Tuy nhiên, đọc dân ca, lại thông qua bản dịch, dù sao cũng rất khó có thể cảm nhận hết cái hay, cái đẹp trong tình ý sâu xa của bài ca. Do đó, khi nghiên cứu dân ca Hmông, Gầu plềnh, cần thiết phải đối chiếu với văn bản gốc của ngôn ngữ đó. Chúng tôi đối chiếu bản dịch so với văn bản gốc 45 bài Gầu plềnh, xin lưu ý một số điểm sau:
Số lượng dòng thơ, từ ngữ: có 3 bài số dòng thơ bản gốc và bản dịch bằng nhau; còn lại đều lệch ngắn hơn, trong đó, 34 bài bản dịch ngắn hơn bản gốc (23 bài ngắn hơn từ 4 dòng trở lên; có bài ngắn hơn 35 dòng). Số chữ từng dòng thơ dịch cũng ít hơn số chữ bản gốc. Từ tiếng Hmông là từ đơn âm tiết như tiếng Việt, như vậy, nguyên nhân chủ yếu bản dịch vênh so với bản gốc là do cấu tạo ngữ pháp khác nhau và do đặc điểm dân ca Hmông có nhiều tiếng đệm không có nghĩa hay nghĩa mờ nhạt trong bài. VD: “Caox nav caox txir txơưx zus/ Zus caox pôngz ntơưs têx bông fơưr/ Caox hluz tơưv trôngx ntus plơưl/ Caox nav caox txir muôz caox xang/ Môngl têx tsêr cơưv ntơưr” (Dịch: Mẹ cha cô biết sinh/ Sinh ra cô đặt trong bịch thóc/ Lớn khôn, mẹ cha cô cho cô đi học [133, tr. 12]. Từ bốn dòng thơ VD trên, dịch còn ba dòng (lược 1 dòng). Vì trôngx ntus plơưl không có nghĩa nên dịch gộp hai dòng thơ cuối còn một dòng. Câu đầu 6 tiếng, dịch còn 5 tiếng vì caox nav caox txir (4 tiếng) dịch ra tiếng Việt là mẹ cha cô (3 tiếng). Như vậy, khi dịch ra tiếng Việt, có sự thay đổi đáng kể sẽ làm giảm đáng kể vai trò nhạc điệu, nhịp điệu của lời ca. Người đọc khó hình dung ra diễn xướng của lời ca ấy.
Đôi khi, dịch giả muốn dịch cho có hồn thơ thì lại bị sai lệch về ý nghĩa. VD: “Caox nav caox txir trôngx plangl txơưv tsaoz măngx/ Cha mur cêr jur/ Caox uô caox nav caox txir mêr nxeik gâux xưz/ Cur lê tâu txu cêr thur” (Dịch: Trước cửa nhà em có cây lanh mọc/ Ong có nơi về đậu/ Em làm thân con gái bẩy năm theo mẹ theo cha/ Anh có nơi qua lại) [133, tr. 10]. Nguyên nghĩa: bố mẹ em trồng cây lanh trước cửa, ong mới về đậu, em làm cô gái đồng trinh của mẹ, của cha, anh mới qua lại). Nếu nói bố, mẹ em trồng lanh...tức là gia đình có nề nếp lao động, bản thân em chắc biết làm lanh, may vá thêu thùa,... được thừa hưởng nền nếp gia đình...Em lại là cô gái còn trong trắng nên anh đến tìm hiểu là lẽ đương nhiên. Hiểu như vậy mới phù hợp phong tục, tập quán dân tộc Hmông. Mặt khác, dịch ra tiếng Việt như trên, câu thơ khó đảm bảo được vần điệu (jur vần với thur, dịch là đậu - lại).
Sau khi dịch, ý nghĩa hình tượng thơ không còn nguyên vẹn: VD: “Caox tuôr cur lux têl trơưr/ Cur tuôr caox lux têl truz/ Ưz uô chiv cêr plênhl gâux đrâus/ Puôr tangv têx jâuz tsênhx grêl jâuz sur hluz”. (Dịch: Em nắm tay anh nắm cho vững/ Anh cầm tay em cầm cho chặt/ Ta yêu nhau đằm thắm như khóm ngải xanh tươi) [133, tr. 8]. Nguyên nghĩa hai câu cuối: Con đường tình duyên của đôi ta, như là từ đám rau xương cá chuyển sang đám rau ngải lớn. Bản dịch đã bỏ từ con đường (cêr) và từ lớn (hluz), thêm vào đó từ xanh tươi. Nếu dịch như vậy thì chỉ cho ta cảm nhận về một tình yêu đằm thắm, ở thời điểm ấy mà thôi. Từ bản gốc, có thể phân tích ý nghĩa hình tượng thơ như sau: Vùng cao mọc nhiều rau xương cá và rau ngải, nhưng rau xương cá chỉ mọc vào mùa xuân, rất tươi tốt và tàn rất nhanh vào đầu mùa hè; rau ngải hầu như quanh năm không tàn. Từ sự nhanh tàn chuyển sang lâu tàn ví với con đường tình duyên là con đường dài lâu, bền chặt, càng ngày càng bền chặt hơn, thắm thiết hơn, tin tưởng hơn. Điều đó tương đồng với việc cầm tay nhau cho vững (têl truz) ở trên. Đây là cách diễn đạt quen thuộc của đồng bào Hmông (VD, về sự bất tận: Bài hát sắp hết, có bài không hết/ hết như từ nương ớt sang vườn kiệu) và phù hợp với tâm lý ưa thuỷ chung của nam nữ Hmông.
Bản dịch chưa thể hiện hết đặc trưng giao duyên, bối cảnh diễn xướng, nhất là trong các đối ca nam - nữ: Mở đầu các đối ca nam nữ, người Hmông thường hát một số làn điệu, câu hát quen thuộc: - Ntux tês nduô! - Ntux tês nduô nxeik gâux sênh! - Ntux tês nduô lênhx tangz!... Tất cả đều được dịch là chàng ơi!, nàng ơi! hoặc không dịch sẽ không lột tả hết sự tinh tế của câu hát. Ntux tês nduô có nghĩa: đất trời đẹp hoặc trời hết rồi kết hợp với lời gọi chàng ơi!, nàng ơi!... thì mới duyên dáng! Mặt khác, dịch là nàng ơi nhưng mấy từ chỉ cô gái có nghĩa khác nhau; chẳng hạn nxeik gâux xưz (nàng trinh nữ), nxeik gâux sênh (nàng tiên) nxeik nhăngz (nàng dâu). Không ai hát với người đã có chồng mà gọi là cô trinh nữ cả. Cái duyên của lời ca nằm ở chỗ đó!
Do ngôn ngữ bất đồng nên việc dịch tất nhiên không thể thể hiện hết cái hay, cái đẹp, tình ý sâu xa, sự tinh tế và đặc biệt là nét đặc sắc văn hóa của những lời ca. Vì lẽ đó, chúng tôi đề xuất: 1) Để hiểu được chiều sâu cũng như cái hay, cái đẹp của từng lời ca Gầu plềnh, việc cần thiết và hết sức quan trọng là người thực hiện cố gắng đối chiếu văn bản dịch với văn bản gốc và tìm hiểu trên cơ sở văn hóa truyền thống của đồng bào. 2) Hiện nay, các tác phẩm dân ca Hmông đã xuất bản chủ yếu bằng tiếng Việt, có quá ít tác phẩm ghi âm, văn bản tiếng Hmông hoặc song ngữ Việt – Hmông, vì vậy, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, sưu tầm cần quan tâm thỏa đáng để bảo tồn nền dân ca truyền miệng đặc sắc ấy. 3) Sưu tầm dân ca Hmông nói riêng, văn học dân gian các dân tộc thiểu số nói chung, các tác giả nên ghi âm nguyên bản, ghi lại bằng chữ viết của dân tộc (nếu có) và khi dịch, cố gắng ghi chú tỷ mỷ, kỹ lưỡng những chỗ mà việc dịch thuật gặp khó khăn, như vậy sẽ giúp người đọc tiếp cận được giá trị đích thực của tác phẩm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính là:
4.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Gầu plềnh tồn tại trong diễn xướng, ẩn chứa nhiều giá trị thuộc nhiều lĩnh vực nhận thức, tín ngưỡng, sinh hoạt, nghệ thuật, lịch sửCó thể các giá trị trên được thể hiện độc lập song do đặc trưng thể loại nên phần lớn là hỗn dung, nguyên hợp. Vì vậy, tác giả Luận án sử dụng đồng thời, khách quan, bình đẳng nhiều phương pháp chuyên ngành như ngữ văn học, văn hóa học, lịch sử học, dân tộc họcSử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành sẽ giúp cho việc khám phá các giá trị của Gầu plềnh toàn diện, sâu sắc hơn.
4.2. Phương pháp điền dã - dân tộc học: Chúng tôi thực hiện khảo sát thực tế (tham dự LHGT) thu thập tư liệu, tiến hành khảo cứu, tổng hợp, phân tích tư liệu...giải quyết mục tiêu đề tài, do vậy phải sử dụng các thao tác quan sát, phỏng vấn sâu, quay phim, chụp ảnh, điều tra bằng phiếu; ghi âm, biên dịch Gầu plềnh; thống kê, phân loại tư liệuVới phương pháp này, việc nghiên cứu Gầu plềnh trong môi trường diễn xướng tại LHGT có tính khoa học, tính thực tiễn rất cao và cho kết quả trung thực, chính xác; đáp ứng yêu cầu đặt ra.
4.3. Phương pháp so sánh lịch đại và so sánh đồng đại: Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu này để đối chiếu, so sánh Gầu plềnh (đặc biệt là diễn xướng của chúng trong LHGT) giữa các ngành Hmông khác nhau cư trú ở các vùng khác nhau, giữa các thời kỳ lịch sử khác nhau; đối chiếu Gầu plềnh với dân ca trữ tình của các dân tộc kháctrên cơ sở phân tích, tổng hợp, chỉ ra nét đặc sắc cũng như quá trình phát triển, biến đổi của chúng.
4.4. Phương pháp phân tích văn bản ngôn từ: Gầu plềnh được thể hiện qua nhiều yếu tố, song thể hiện qua văn bản ngôn từ hay phần lời là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất quyết định sự tồn tại, sự diễn xướng cũng như sự sáng tạo của người nghệ sỹ bình dân. Do đó, phân tích văn bản ngôn từ trong nghiên cứu Gầu plềnh là con đường khoa học để khám phá những giá trị (cả nội dung, nghệ thuật) đích thực, sâu sắc của chúng. Tuy nhiên, chúng tôi không phân tích văn bản ngôn từ Gầu plềnh một cách thuần túy như phân tích tác phẩm văn học mà kết hợp rộng hơn trong tổng thể của phương pháp nghiên cứu liên ngành và biện pháp phân tích các phạm trù thi pháp học văn học dân gian.
4.5. Áp dụng hướng tiếp cận nhân học - văn hóa (cultural anthropology) xem xét đối tượng nghiên cứu trong một quá trình vận hành của tổng thể văn hóa Hmông, đặc biệt là phong tục, tập quán, điều kiện sống..., từ đó luận bàn, lý giải sự phát sinh, truyền bá, sáng tạo, biến đổi của Gầu plềnh cũng như LHGT.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài, điểm mới của Luận án
5.1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn: Đề tài “Dân ca Gầu plềnh và LHGT của người Hmông ở Lào Cai - truyền thống và biến đổi” phần nào đã đáp ứng tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn đang đặt ra. Về lý luận là nghiên cứu Gầu plềnh đặt trong môi trường diễn xướng cụ thể, nơi Gầu plềnh được bộc lộ sinh động nhất, phản ánh đặc trưng nguyên hợp của tác phẩm văn học dân gian. Về thực tiễn, LHGT ngày nay đang biến đổi theo xu hướng phát triển quy mô ngày càng lớn hơn do sự phát triển xã hội và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của đồng bào Hmông ngày càng tăng, theo đó, Gầu plềnh cũng đang biến đổi đa dạng nội dung, phong phú về phương thức diễn xướng.
5.2. Điểm mới của Luận án:
- Khảo sát, miêu thuật, đối chiếu các LHGT giữa các vùng của Lào Cai trong quá khứ và hiện tại.
- Ghi âm, quay phim, chụp ảnh, sưu tầm thêm và biên dịch Gầu plềnh, đóng góp thiết thực vào kho tàng văn học dân gian nước nhà.
- Lý giải bằng cơ sở khoa học, cơ sở nội tại của lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Hmông, vận dụng quan điểm thi pháp học văn học dân gian chỉ ra bản chất mối quan hệ giữa Gầu plềnh - LHGT và luận giải những vấn đề căn cốt nhất, đặc sắc nhất về nội dung, nghệ thuật Gầu plềnh một cách hệ thống.
- Nghiên cứu Gầu plềnh với tư cách một tiểu loại dân ca độc lập, đặt trong môi trường động của diễn xướng và quá trình vận động. Đánh giá sự biến đổi, dự báo xu hướng biến đổi Gầu plềnh và LHGT từ truyền thống đến hiện đại, đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy góp phần xây dựng cuộc sống mới.
6. Cấu trúc Luận án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận án gồm 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề lý luận.
- Chương 2: Diễn xướng Gầu plềnh trong Lễ hội Gầu tào.
- Chương 3: Một số bình diện thi pháp Gầu plềnh.
- Chương 4: Sự biến đổi của Gầu plềnh và Lễ hội Gầu tào.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
Chúng tôi nêu tổng quan một số vấn đề nghiên cứu và lý luận liên quan đến đề tài để có cái nhìn tổng quát và phương hướng giải quyết các nội dung đặt ra trong đề tài. Đó là tổng quan về: lịch sử nghiên cứu, sưu tầm; một số vấn đề cơ bản nhất về lịch sử, văn hóa, xã hội, văn học dân gian Hmông; khái niệm Gầu plềnh; những nội dung lý luận định hướng giải quyết vấn đề.
1.1. Tổng quan lịch sử vấn đề
1.1.1. Về sưu tầm
Trước Cách mạng tháng Tám, việc sưu tầm dân ca Hmông nói chung chưa được quan tâm. Chúng tôi tìm thấy một số bài dân ca Gầu plềnh được in trong một vài công trình nghiên cứu dân tộc học như “Lịch sử người Mèo” của Savina, “Lịch sử nhân dân vùng hạ lưu sông Triết Giang” của Từ Tùng Thạch. Các tác giả sử dụng những bài dân ca đó như tư liệu minh chứng cho nhận định, đánh giá các vấn đề về dân tộc học, văn hóa học của mình chứ không nhằm mục đích sưu tầm, lưu giữ; tuy nhiên, qua đó, người đọc có thể nhận thấy hai nhà nghiên cứu trên nhận định dân tộc Hmông rất yêu ca hát, có nền dân ca phong phú là có cơ sở.
Sau Cách mạng tháng Tám, dưới ánh sáng đường lối văn nghệ, với quan điểm bình đẳng dân tộc của Đảng, việc nghiên nhiều mặt đời sống các dân tộc thiểu số nước ta được đặc biệt quan tâm, chú trọng, có thành tựu; việc nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian các dân tộc thiểu số đạt nhiều kết quả. Dân tộc Hmông được quan tâm nghiên cứu; văn học dân gian Hmông được nhiều người tiến hành sưu tầm và đạt kết quả nhất định.
Mở đầu công cuộc tìm hiểu về đồng bào Hmông sau Cách mạng là nhà văn Tô Hoài. Năm 1952, trong chuyến đi thực tế 8 tháng cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc, sống cùng đồng bào Hmông tại Tủa Chùa, Lai Châu, ông thu lượm được một số bài dân ca Hmông. Đặc biệt, Tô Hoài đã phản ánh một cách nghệ thuật phong tục, tập quán, thói quen người Hmông trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” và chép lại những câu Gầu plềnh tiêu biểu.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, sau khi bộ chữ Hmông Việt Nam được Chính phủ ban hành, phong trào học tiếng Hmông, chữ Hmông trong cán bộ, giáo viên và xóa mù chữ cho người Hmông bằng tiếng Hmông ở Lào Cai phát triển mạnh. Nhà sưu tầm Doãn Thanh, một thầy giáo dạy chữ Hmông, một cán bộ quản lý công tác xóa mù chữ tiếng Hmông của Ty Giáo dục Lào Cai, đã tiến hành sưu tầm dân ca của nhiều ngành Hmông tại các huyện Sa Pa, Mường Khương, Bắc Hà, Bát Xát, Si Ma Cai tỉnh Lào Cai. Kết quả, năm 1967 cuốn “Dân ca Mèo (Lào Cai)”, Nxb Văn học phát hành ra mắt bạn đọc. Đây là cuốn sách giới thiệu tương đối đầy đủ diện mạo dân ca Hmông với năm loại chính: “Tiếng hát tình yêu, Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát làm dâu, Tiếng hát cúng ma, Tiếng hát cưới xin” [132, tr. 9]. Trong đó, loại tiếng hát tình yêu (Gầu plềnh) có số lượng lớn nhất: 95/142 bài. Tác phẩm được dịch tiếng Việt một cách công phu, chú thích tỉ mỉ tên, địa chỉ người hát, chỉ dẫn về phong tục, thói quen sinh hoạt, những chỗ dịch chưa sát nghĩa gốcvà chủ yếu dịch từ nên đảm bảo được ý nghĩa cơ bản. Doãn Thanh khẳng định trong lời giới thiệu: “Gầu plềnh chính là loại tình ca của nam nữ, loại bài hát phong phú và đa dạng nhất của người Mèo Trong dân ca Mèo, loại này là loại chủ yếu, có nhiều giá trị tích cực nhất”. “Dân ca Mèo (Lào Cai)” là công trình sưu tầm đầu tiên rất quan trọng đối với chúng tôi vì nó hội tụ cơ bản đủ diện mạo dân ca của các nhóm, ngành Hmông ở Lào Cai. Bản thân Doãn Thanh là thầy giáo tiếng Hmông có hàng chục năm sống cùng đồng bào, am hiểu tường tận phong tục, tập quán, thói quen, văn hóa, ngôn ngữ, cách diễn đạt của đồng bào, tiến hành sưu tầm nghiêm túc, cẩn trọng nên rất đáng tin cậy. Đó là động lực thúc đẩy, củng cố thêm ý tưởng cho tác giả Luận án hướng nghiên cứu, sưu tầm Gầu plềnh.
Cùng thời gian này, Bùi Lạc và Mạc Phi công bố truyện thơ “Tiếng hát làm dâu Tây Bắc” (Tạp chí Văn học số 3/1964) và một số bài dân ca Hmông vùng Sơn La, Lai Châu, Lào Cai. Tiếng hát làm dâu Tây Bắc tương tự truyện thơ A Thào – Nù Câu Doãn Thanh sưu tầm ở Lào Cai được một số học giả coi là truyện thơ về đề tài tình yêu, trong đó có nhiều bài, đoạn, câu Gầu plềnh được khéo léo liên kết lại dưới dạng lối kể chuyện hoặc đối đáp của các nhân vật thành câu chuyện. Chúng tôi cho rằng đây là sự phát triển của Gầu plềnh tiến dần đến truyện thơ nên có giá trị để khai thác phục vụ đề tài.
Năm 1974, Doãn Thanh tiếp tục cho ra mắt cuốn Dân ca Mèo Lào Cai (45 bài, trong đó có 42 bài Gầu plềnh mới sưu tầm; sách in song ngữ Việt - Hmông, Sở Văn hóa Thông tin Lào Cai phát hành). Các bài hát sưu tầm được đại diện cho nhiều ngành Hmông các vùng có đông người Hmông sinh sống của tỉnh Lào Cai; đặc biệt, nhiều bài quen thuộc được nam nữ hát trong LHGT. Tác phẩm giá trị ở chỗ lần đầu tiên, những bài Gầu plềnh được in hai thứ tiếng, giúp cho việc nghiên cứu, đối chiếu lời Việt và lời Hmông để xác định giá trị đích thực tác phẩm thuận lợi hơn.
Năm 1984, các tác giả Doãn Thanh, Hoàng Thao tiến hành tuyển chọn, chỉnh lý, bổ sung một số bài dân ca Hmông đã công bố trên các sách, tạp chí và công bố cuốn Dân ca Hmông với lời giới thiệu của Chế Lan Viên do Nhà xuất bản Văn học phát hành. Cuốn sách tuyển đủ năm loại hát dân ca Hmông với lời dịch trau chuốt hơn. Riêng Gầu plềnh, các tác giả đã chọn một số bài từ các cuốn trước và bổ sung 38 bài mới.
Mười năm sau, nhà văn, nhà nghiên cứu, sưu tầm Hùng Đình Quý, người dân tộc Hmông tỉnh Hà Giang (giáp tỉnh Lào Cai), công bố tác phẩm Dân ca Mông Hà Giang gồm 3 tập, in song ngữ Việt - Hmông, gần 100 bài chủ yếu thuộc loại Gầu plềnh, Gầu ua nhéng (Gâux uôs nhangz) do ông sưu tầm tại Hà Giang. Đây là tư liệu cần thiết để chúng tôi đối chiếu với các tác phẩm sưu tầm tại Lào Cai, tìm ra nét tương đồng, khác biệt của hai vùng cư trú của người Hmông.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, nhiều người tiến hành ghi chép, sưu tầm dân ca Hmông và in rải rác trên các sách báo trung ương, địa phương. Bản thân tác giả Luận án từ năm 2001 đến nay cũng tham gia sưu tầm, biên dịch được một số bài Gầu plềnh hát trong các LHGT.
Nhìn tổng quát, công tác sưu tầm dân ca Hmông nói chung, Gầu plềnh nói riêng hơn 60 năm qua đạt được những thành tựu quan trọng. Số lượng bài Gầu plềnh sưu tầm tại Lào Cai là nguồn tư liệu quý để chúng tôi khảo sát, hoàn thành Luận án này.
Cùng thời gian trên, công tác sưu tầm truyện cổ, tục ngữ, câu đố, tang ca Hmông cũng được chú trọng; kết quả là đã phát hành được một số cuốn sách như: Truyện cổ dân tộc Mèo (Doãn Thanh, Thương Nguyễn sưu tầm, Nxb Văn học in năm 1963), Truyện cổ H.Mông (Lê Trung Vũ sưu tầm, Nxb Văn hóa in năm 1984), Quả lê mũi dài (Vàng Thung Chúng, Ngọc Cường sưu tầm, Hội văn học nghệ thuật Lào Cai phát hành năm 1999), Tục ngữ và câu đố Mông (Lê Trung Vũ sưu tầm, Nxb Văn hóa thông tin, 1994), Một số tục ngữ, câu đố Hmông Lào Cai (Lý Seo Chúng sưu tầm, Sở Văn hóa Thông tin Lào Cai phát hành 1996), Tang ca (KRUÔZ CÊ) của người Mông Sa Pa (Giàng Seo Gà sưu tầm, Nxb Văn hóa dân tộc phát hành năm 2004). Các cuốn truyện cổ, tang ca Hmông tập hợp được một số thể loại như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, phản ánh nhiều nét đời sống sinh hoạt cộng đồng Hmông, nhất là sinh hoạt văn hóa, ca hát, lễ hội; các cuốn tục ngữ, câu đố khá phong phú, phản ánh nhiều mặt đời sống lao động, trí tuệ, kinh nghiệm của đồng bào. Đây là nguồn tư liệu phong phú, cần thiết giúp tác giả Luận án tìm hiểu sâu hơn về các phương diện đời sống, nghệ thuật của người Hmông, đồng thời có thể sử dụng để đối chiếu, so sánh soi sáng vấn đề.
Như vậy, trên văn bản, các thể loại văn học dân gian Hmông đã được hiện diện khá đầy đủ là cơ sở quan trọng cho việc lựa chọn và triển khai đề tài.
1.1.2. Về nghiên cứu
1.1.2.1. Ở nước ngoài
Việc quan tâm, nghiên cứu lịch sử, văn hóa, phong tục, đời sống người Hmông xuất hiện sớm nhất ở TQ, nơi họ cư trú từ xa xưa. Chúng tôi chú ý trước hết những nghiên cứu ở TQ, đặc biệt vùng Tây Nam TQ, nơi cư trú chủ yếu của người Hmông và là con đường di cư của họ xuống phía Nam đến Việt Nam.
Đời nhà Tống (thế kỷ XII), tác giả Lục Du viết cuốn “Lão học am bút ký” đã ghi chép một số phong tục “lạ” của người Miêu (Hmông), có đoạn tả cảnh sinh hoạt ca hát: Người Miêu khi nông nhàn, từng bọn một hai trăm người, tay nắm tay nhau mà hát, có mấy người thổi khèn đằng trước dẫn dắt, những cái vại cất trong bóng cây, đói không cần ăn, chỉ lấy rượu trong vại ra uống, không ngừng ca hát, ca hát thâu đêm ngoài trời đến hôm sau [Dẫn theo Lương Vũ Minh, 189, tr.126. bg].
Đến đời nhà Minh (thế kỷ XIV – XVII), sách “Gia Tĩnh đồ kinh” ghi chép lịch sử triều đại nhà Minh cũng dành hẳn một mục chép về phong tục Miêu dân ở vùng Tây Nam TQ, có ghi: Nam, nữ chưa kết hôn, hàng năm vào tháng ba, tháng tư, tập trung ở sân bãi, ở giữa dựng một cái cột, nhảy múa xung quanh, ca hát” [189, tr.126. bg].
Vào đời Thanh, Trần Đỉnh viết “Điền Kiềm du ký”, ghi chép tại vùng Vân Nam (TQ), rất chú ý đến người Hmông, ông miêu tả: Tập tục của người Miêu, hàng năm vào tháng giêng, thanh niên nam, nữ ăn mặc đẹp, cùng nhau nhảy múa [189, tr.126. bg].
Các miêu tả trên về phong tục ca hát vào dịp đầu năm của người Hmông cổ đại có lẽ là LHGT hoặc chí ít cũng là dấu tích của LHGT ngày nay.
Năm 1933, Từ Tùng Thạch, người TQ, xuất bản tác phẩm “Lịch sử nhân dân vùng hạ lưu sông Việt Giang” phác hoạ những nét cơ bản lịch sử các dân tộc Hmông, Dao, Di; trong đó, ông dành nhiều trang nói về lịch sử chiến tranh, di cư, văn hoá, phong tục, tập quán dân tộc Hmông; khẳng định dân tộc Hmông không phải người man rợ mà là một trong rất ít dân tộc vẫn còn lưu giữ được sắc thái của Bộ lạc nguyên thủy, do di cư về phương Nam sinh sống, tổ chức chính quyền độc lập nên bị người phương Bắc gọi là Man [130, tr. 43].
Sách Vân Nam phong vận chí, Miêu tộc Thái hoa sơn (1982) ghi: Thái hoa sơn (踩 花 山) còn gọi là Xọa hoa sơn (tức LHGT) diễn ra ở sườn đồi bằng phẳng, rộng rãi giữa mấy thôn trại của người Miêu; mỗi khi đến ngày hội, đồng bào Miêu vượt Châu mà đến vô cùng náo nhiệt [188, tr.137. bg].
Những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở tỉnh Vân Nam, TQ thành lập Hội nghiên cứu Miêu học tại một số Châu thuộc tỉnh và đã xuất bản một số đầu sách. Đáng chú ý là 4 cuốn: “Nghiên cứu về dân tộc Miêu ở Văn Sơn” (Vương Vạ... thuộc các họ Vàng, Lý vào khu vực Đồng Văn (Hà Giang) và một nhóm khác ít hơn, thuộc các họ Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ vào khu vực Si Ma Cai, Bắc Hà (Lào Cai) cách nay hơn 200 năm. Đợt ba, người Hmông thiên di vào Việt Nam đông nhất, khoảng trên 10 ngàn người, phần lớn từ Quý Châu, một số từ Quảng Tây, Vân Nam, chủ yếu vào các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giangkhoảng từ 1840 đến 1868. Riêng một số nhóm người Hmông ở vùng Tây Thanh Hóa, Nghệ An di cư từ Lào và các tỉnh miền núi miền Bắc đến, khoảng 100 năm trở lại đây. Sau đó, hàng năm vẫn có người Hmông di cư theo hình thức nhỏ lẻ sang Việt Nam.
Về sự phân bố của người Hmông, hiện nay, đồng bào cư trú trên một địa bàn rộng lớn, độ cao 700 - 800 mét trở lên, bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi từ biên giới Việt - Trung đến biên giới Việt - Lào (Tây Thanh Hoá, Nghệ An, Tây Nguyên). Mật độ cư trú ở vùng biên giới Việt - Trung khá cao, 70-90 người/km2; vùng biên giới Việt – Lào, 30-40 người/km2. Người Hmông ở Việt Nam có sự gia tăng dân số cao (PL1.4, tr. 253) dẫn đến nhiều nơi thiếu đất canh tác, họ du canh, du cư đến những vùng đất hoang, rừng già, thượng nguồn các tỉnh miền núi, hệ quả là mấy chục năm qua, tình trạng phá rừng thượng nguồn làm nương rẫy tại Việt Nam, Lào “trở thành vấn đề lớn”, “thảm họa nghiêm trọng” [107, tr. 63].
1.2.2.3. Nguồn gốc, sự phân bố, địa vực cư trú của người Hmông ở Lào Cai
Nguồn gốc: Người Hmông thiên di vào Lào Cai cách nay đã hơn 200 năm, chủ yếu từ Quý Châu xuống Vân Nam (TQ), rồi vào Lào Cai thành nhiều đợt với số lượng người khác nhau. Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, người Hmông ở Quý Châu liên tiếp nổi dậy đấu tranh chống lại sự cai trị hà khắc của Triều đình Mãn Thanh nhưng các cuộc khởi nghĩa của họ liên tiếp thất bại, vì vậy, họ phải ra đi tìm đất mới để sinh sống. Đợt thiên di đầu tiên gồm 80 gia đình là các dòng họ Vàng, Lý, Lù, Chấu, Sùng, Hoàng; nơi đặt chân là San Khô Sủ, động Mù Văn, động Ngọc Uyển (nay là các huyện Bắc Hà, Si Ma Cai), sinh sống được khoảng 3 đời thì có 30 gia đình ở Mù Văn do ông Lý Thàng Pua dẫn đầu tiếp tục di cư sang Sa Pa. Đợt thiên di thứ hai vào Lào Cai cũng là đợt thiên di lớn nhất của người Hmông vào Việt Nam diễn ra từ 1840-1868 sau khi phong trào “Thái Bình Thiên quốc” chống lại triều đình Mãn Thanh thất bại, chia thành 3 đoàn. Đoàn thứ nhất do ông Sèo Cồ Phìn dẫn đầu vào xã Pha Long (Mường Khương); đoàn thứ hai do ông Lùng Chung dẫn đầu vào xã Bản Lầu (Mường Khương); đoàn thứ ba do một thủ lĩnh họ Hoàng dẫn đầu vào huyện Si Ma Cai, Bắc Hà. Từ Bắc Hà, một bộ phận người Hmông tiếp tục vượt sông Hồng đến các xã Mường Bo, Thanh Phú, Lao Chải (Sa Pa). Từ Mường Khương, một bộ phận người Hmông tiếp tục di cư sang các xã Chung Chải, San Sả Hồ (Sa Pa) [36, tr. 12-13]. Riêng nhóm Hmông Xanh huyện Văn Bàn di cư thẳng đến huyện Văn Bàn cùng thời gian trên. Ngoài hai lần thiên di trên, từ cuối thế kỷ XIX, người Hmông vẫn tiếp tục di cư nhiều đợt nhỏ lẻ vào nhiều vùng đất Việt Nam. Trong quá trình sinh sống, người Hmông tiếp tục di dịch cư từ huyện này sang huyện khác và các tỉnh khác.
Phân bố: Dân tộc Hmông trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 27.332 hộ, 154.709 khẩu, chiếm 24,59% dân số toàn tỉnh, phân bố tại 9 huyện, thành phố gồm 118 xã/164 xã, phường, thị trấn với 534 thôn, bản/2.206 thôn, bản, tổ dân phố; trong đó có 462 thôn, bản và 33 xã có trên 90% người Hmông sinh sống [156, năm 2013, (PL 1.5; 1.6, tr. 264)].
Địa vực cư trú: Người Hmông thiên di vào Việt Nam thể hiện khát khao lớn của họ về một “mảnh đất lành” để sinh sống. Họ luôn coi nơi đây là quê hương mới của mình. Hiện nay, người Hmông Lào Cai sinh sống ở những vùng núi cao, độ cao trung bình 700-1500m so với mặt biển. Trong đó, 4 huyện vùng cao đông người Hmông sinh sống nhất là: Mường Khương, Bắc Hà, Si Ma Cai, Sa Pa; các huyện, thành phố còn lại, người Hmông cũng chỉ cư trú ở các xã vùng cao (PL1.7, tr. 265). Đó là những nơi hiểm trở nhất, những vùng rừng già trước đây rất ít người sinh sống; vì vậy, đặc điểm cư trú của người Hmông khá biệt lập, quan hệ với dân tộc khác bị hạn chế. Đồng bào Hmông có sẵn tinh thần lao động cần cù, trí thông minh, sáng tạo; đến vùng đất mới, họ đã thích ứng môi trường vùng núi, tạo ra được văn hóa ứng xử, yêu thương đoàn kết cộng đồng. Người Hmông ở Lào Cai luôn coi đây là mảnh đất sinh trụ lâu dài và họ tạo dựng được cuộc sống hòa thuận với các dân tộc anh em; sát cánh, đoàn kết chống ngoại xâm bảo vệ quê hương, đất nước. Tiêu biểu như các cuộc khởi nghĩa của người Hmông ở huyện Bắc Hà (1881-1894), huyện Than Uyên (1885-1896); cuộc nổi dậy của Giàng San và nhân dân các huyện Sa Pa, Bát Xát năm 1915... chống lại Thực dân Pháp xâm lược.
1.2.3. Đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá, văn học dân gian
Về kinh tế, nền kinh tế trước đây của người Hmông chủ yếu tự cung tự cấp, mang tính chất khép kín, biệt lập; chưa thực sự có nền tảng kinh tế - xã hội của một xã hội phong kiến. Ngày nay, nhìn chung diện mạo kinh tế của đồng bào có nhiều thay đổi, đời sống ấm no hơn, được học hành, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đáng kể hàng năm (10%).
Người Hmông Lào Cai có một số phương thức hoạt động kinh tế là: canh tác trồng trọt một mùa trên địa bàn núi đá hiểm trở và ruộng bậc thang; chăn nuôi nhỏ ở hộ gia đình; nghề thủ công mang tính tự cung tự cấp; hoạt động kinh tế chợ chủ yếu giao thương, trao đổi hàng hóa nhỏ lẻ những nhu yếu phẩm thiết yếu. Nhìn chung, đời sống đồng bào Hmông Lào Cai còn nhiều khó khăn nhưng đang thay đổi mạnh mẽ do chính sách phát triển kinh tế của Đảng, nhà nước đối với vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số (PL1.8, tr. 266).
Về xã hội, việc quản lý dân cư chủ yếu do các giao (làng) đảm nhận, có một trưởng họ đứng đầu. Quy mô làng trong vài thập kỷ qua có sự thay đổi mạnh, số hộ ở mỗi làng tăng hơn trước nhiều; trước kia chỉ có từ 10-15 hộ, đến nay, phổ biến từ 30-50 hộ.
Dòng họ (xênhv) có vị trí vô cùng quan trọng, là một trong những yếu tố cấu thành xã hội Hmông và thể hiện bản sắc dân tộc. Dòng họ chi phối mọi hoạt động đời sống hàng ngày của cộng đồng; mỗi dòng họ có một tổ chức tự quản riêng, gồm các thành viên: - Trưởng họ (uô thơưx hoặc hâur pâul) “cầm quyền người”, quyết định mọi vấn đề sau khi có sự bàn bạc của cộng đồng; - Người “cầm quyền ma, quyền khách” (cho đaz khuô) là cố vấn của trưởng họ trong việc đối ngoại, lo toan việc tín ngưỡng; - Bà cô (fâux hoặc pu nhăngx) là người có uy tín tham gia vào công việc chung của dòng họ, giám sát công việc của cho đaz khuô và mọi thành viên dòng họ trong vấn đề thực hiện quy định của dòng họ; -Thầy Sa man (trir ninhz), khi được mời đến sẽ như viên “thanh tra” giúp người có trách nhiệm phát hiện những vấn đề trong dòng họ [107, tr. 75].
Gia đình người Hmông là gia đình phụ quyền, bình quân 6 - 7 người, có thể hai, ba thế hệ cùng chung sống; theo đó, họ chú trọng trước hết quyền lợi đàn ông, quyền lợi dòng họ rồi mới đến quyền lợi phụ nữ. Người Hmông đặc biệt coi trọng quan hệ láng giềng và thường nói khẩu ngữ “chúng ta là một giống người” hay “chúng ta cùng một hạt lanh gieo xuống đất”, hoặc “người Hmông ta”. Sự cư trú đan xen nhiều dân tộc trong cùng một bản làng bắt đầu từ khi có chính sách định canh, định cư, đưa một bộ phận người Hmông thiếu ruộng đất đến làng của dân tộc khác sinh sống, nhưng người Hmông vẫn thích tách thành khu vực riêng và họ quan niệm đó là dò, giao của mình. Điều đó phản ánh truyền thống khép kín, tính cố kết tộc người của họ. Tuy nhiên, đời sống xã hội của đồng bào Hmông Lào Cai hiện đang có sự thay đổi rất lớn do được học hành, tiếp cận thông tin, khám chữa bệnh, giao lưu văn hóa...(xem thêm PL1.8, tr. 266).
Về văn hoá, người Hmông trọng danh dự, dễ tin người, tôn trọng tập thể, luật tục của làng; bản tính thuỷ chung, ít thay đổi; đời sống tín ngưỡng, tâm linh phong phú, tinh tế. Tín ngưỡng tôn giáo Hmông có nhiều nét tương đồng với các dân tộc khác nhưng không chịu ảnh hưởng của tam giáo (Nho, Phật, Lão) như các dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Dao...; thờ cúng tổ tiên là chính, Saman giáo phát triển. Những hình thức tôn giáo sơ khai như vật linh giáo, tô tem giáo, các loại ma thuật... vẫn tồn tại ở dạng tàn dư nhưng có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần cộng đồng. Tôn giáo, tín ngưỡng đã hoà quyện với các lễ thức hội hè tạo nên những sắc thái, sự phong phú trong đời sống tinh thần dân tộc. Tác giả Trần Hữu Sơn khái quát ba đặc điểm cơ bản của văn hoá tinh thần đồng bào Hmông: Một là: Khát vọng bảo vệ sự sinh tồn của dân tộc là đặc điểm nổi bật trong văn hoá tinh thần người Hmông; trở thành một hằng số trong lịch sử, được phản ánh đậm nét trong nền văn hoá tinh thần; đặc biệt trong văn học dân gian. Hai là: Luôn luôn đề cao ý thức cộng đồng; trong đó, ý thức cộng đồng dòng họ được đề cao hơn ý thức cộng đồng bản làng; biểu hiện trong hệ thống lễ nghi, tín ngưỡng của ma chay, cưới xin, lễ hội... mà các cá nhân, mỗi lần tham gia được thế hệ trước trao truyền phong tục truyền thống. Ba là: Văn hoá tinh thần cổ truyền đậm đặc tính nguyên hợp; biểu hiện của nó là ở sự hoà quyện, kết hợp các loại hình nghệ thuật trong tổng thể văn hoá, tiêu biểu nhất là trong lễ thức diễn xướng dân gian [103, tr. 19]. Đời sống tinh thần của người Hmông đương đại đã và đang có sự thẩm thấu, tiếp biến văn hoá của các dân tộc khác, nhất là trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, theo đó, tính khép kín, cục bộ truyền thống bị phá vỡ dần, những yếu tố không còn phù hợp dần bị loại bỏ, thay vào đó là những giá trị mới. Bởi đất nước ta đổi mới, hội nhập quốc tế trên nhiều phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội đã hơn hai chục năm qua, diện mạo xã hội ở những vùng khó khăn có nhiều thay đổi; các dịch vụ công cộng như trường học, bệnh viện, đường giao thông, các phương tiện truyền thông phát triển đã mở rộng không gian nhận thức cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Vậy, yếu tố tồn tại xã hội của người Hmông đã thay đổi, có thể chưa đến độ căn bản và phổ biến, nhưng đã đủ mạnh để làm thay đổi ngày một rõ hơn đời sống văn hoá tinh thần của họ.
Văn học dân gian Hmông phát triển phong phú về thể loại: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, tục ngữ, câu đố, dân ca..., và đậm đặc tính nguyên hợp. Thần thoại tồn tại thành hệ thống tương đối hoàn chỉnh. Thần thoại Khúa kê (Kruôz cê) được diễn xướng trong lễ thức đám ma nói về nguồn gốc vũ trụ, loài người, cây trồng vật nuôi...Truyện cổ tích khá phong phú với ba tiểu loại nhỏ: truyện cổ tích thần kỳ; truyện cổ tích loài vật; truyện cổ tích sinh hoạt. Người Hmông yêu thích ca hát và ca hát là một phần quan trọng trong sinh hoạt cộng đồng, vì vậy, nền dân ca của họ hết sức đa dạng, phong phú với số lượng bài hát rất lớn; đặc biệt, Gầu plềnh chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống dân ca Hmông, vừa là lời ca tiếng hát hàng ngày của đồng bào, vừa là phương tiện để trai gái tỏ tình yêu đương. Hát Gầu plềnh còn là phương thức giao tiếp đặc biệt trong LHGT.
Về lễ hội, ở Lào Cai người Hmông có hai lễ hội quan trọng: lễ Nào lồng (Naox lôngx - ăn ước) và LHGT (Grâuk taox). Lễ ăn ước tổ chức đầu năm tại cộng đồng làng (jaol) để cúng thần rừng, thống nhất những quy định của làng để mọi người thực hiện trong năm. LHGT chỉ có ở một số vùng người Hmông Lào Cai và một số vùng của các tỉnh phía Tây Nam TQ, gọi theo tiếng Quan hoả (tiếng dùng chung của các dân tộc vùng biên giới Việt Trung) là Sải sán (leo núi), có người gọi theo tiếng Việt là “hội chơi núi mùa xuân hoặc hội đạp núi” [149, tr. 175, 223]; người Trung Quốc vùng Vân Nam gọi là Thái hoa sơn (踩 花 山) hay Xọa hoa sơn, Sại hoa san cũng có nghĩa đạp lên cỏ hoa đi chơi. Tuy nhiên, theo người dân vùng lễ hội Pha Long thì nội hàm của từ này không nên dịch đơn giản như vậy, vì: thứ nhất, chữ grâuk có nghĩa là hội chơi, đình đám [18, tr.187], chữ taox là sườn đồi; khi hội diễn ra phải gọi là ntênhl grâuk taox tức là đã có sự tham dự của con người mới thành hội; thứ hai, trong hội có một phần nghi lễ nhất định (nghi lễ trồng cây nêu, thắp hương, cúng bái...) chứ không chỉ đi chơi; thứ ba, lễ hội nhằm mục đích cầu may, cầu sinh sôi nảy nở và để trai gái có dịp gặp nhau “nên vợ nên chồng” nên có tục “kéo vợ”, hát Gầu plềnh; cho nên còn có ý nghĩa hội tình yêu hay hội hát. Do vậy, nhóm tác giả Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý đã đánh giá: “hát Sải sán” là phần đặc biệt của hội, diễn ra ở cả ba giai đoạn: Khai hội, Hội, Kết thúc hội và “sau buổi hội, nhiều đôi nên vợ, nên chồng”[74, tr. 68 -73]. Trong Luận án, chúng tôi thống nhất dùng cụm từ “Lễ hội Gầu tào" nhưng trích dẫn tài liệu chúng tôi vẫn để nguyên cách gọi mà tác giả tài liệu đã sử dụng.
1.3. Tổng quan về dân ca Gầu plềnh
1.3.1. Khái niệm dân ca
Khái niệm dân ca mà chúng tôi bàn dưới đây thường được coi là tương đồng với khái niệm ca dao mà trước đây chúng ta thường dùng vì theo “Từ điển thuật ngữ văn học” thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là là bài hát không có khúc điệu; ca dao bao gồm những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong trường hợp này ca dao đồng nghĩa với dân ca [44, tr. 31].
“Dân ca”, hiện nay có nhiều định nghĩa. Riêng bộ phận dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam đã được một số nhà nghiên cứu chú ý nhận diện, phân loại và định nghĩa. Đáng chú ý là ba định nghĩa sau: (1) “Dân ca là những bài hát và câu hát dân gian, trong đó có cả phần lời và phần giai điệu đều có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng hình tượng hoàn chỉnh của tác phẩm” [57, tr. 411]. (2) Dân ca là “những bài hát ngâm hay kể bằng văn vần, hoặc độc lập, hoặc kèm theo nhạc, điệu múa, trò chơi, hoặc tự một người thể hiện hay một tập thể cùng tham gia...Đó là những bài hát ngắn dăm bảy câu đến hàng trăm hàng ngàn câu cắt ra từng khúc, từng đoạn” [172, tr. 18]. (3) Dân ca là một loại hình sáng tác dân gian chủ yếu có tính chất trữ tình dưới hình thức ngôn ngữ có vần điệu gắn với lời ca hát [86, tr. 117]. Ba định nghĩa nêu trên thống nhất ở khía cạnh khái niệm hình thức biểu hiện của dân ca: - dân ca là những bài (câu) hát; - dân ca có vần điệu hoặc giai điệu; còn về nội dung biểu hiện của dân ca ở định nghĩa (1) cho rằng hình thức đó góp phần quan trọng xây dựng một hình tượng hoàn chỉnh và định nghĩa (3) cho rằng dân ca chủ yếu có tính chất trữ tình.
Đối chiếu với tình hình thực tế dân ca các dân tộc thiểu số nói chung, dân ca Hmông nói riêng, chúng tôi thấy các dân tộc gọi sáng tác dân ca của mình như sau: người Hmông gọi là gầu (hát), người Thái gọi là khắp (hát), người Dao gọi là dung (hát), người Nùng gọi là sli (hát)... đều có nghĩa là hát; còn nội dung bài hát, theo tác giả Phan Đăng Nhật thì “thỉnh thoảng cũng có tính chất triết lý, giáo huấn, hoặc tự sự nhưng chủ yếu bộc lộ tâm tình và đằng sau câu chuyện kể, lời dạy bảo là nỗi lòng sâu kín của người hát dân ca” [86, tr. 117]. Mặt khác, đối chiếu với dân ca Hmông, cả 5 tiểu loại dân ca đều có yếu tố Gâux (gầu) có nghĩa là “tiếng hát” đứng trước tên một loại nhất định (Gâux tuz njuôs (Gầu + tú giua = Tiếng hát + mồ côi), Gâux uô nhangz (Gầu + uô nhéng = Tiếng hát + làm dâu)... đồng thời nội dung, cảm hứng trữ tình luôn giữ vai trò chủ đạo trong tất cả các bài, tiểu loại dân ca trên (kể cả tiếng hát cúng ma) mặc dù vẫn có yếu tố tự sự đan xen. Có thể nói, đối với dân ca các dân tộc thiểu số nói chung và dân ca Hmông hay Gầu plềnh nói riêng, sử dụng khái niệm “dân ca” là hợp lý và giữ nguyên giá trị của khái niệm này. Hơn nữa quan niệm như vậy mới thấy loại bài hát hay tiểu loại “hát” ấy luôn tồn tại ở dạng động của diễn xướng.
Như vậy, tác giả Phan Đăng Nhật khẳng định dân ca “chủ yếu có tính chất trữ tình...gắn với lời ca hát” là hợp lý đối với dân ca các dân tộc thiểu số. Căn cứ tình hình thực tế dân ca Hmông, chúng tôi tán thành khái niệm của tác giả Phan Đăng Nhật (định nghĩa 3) vì nó đầy đủ, hoàn chỉnh, phù hợp và đã đặt dân ca trong môi trường động của diễn xướng để xem xét. Chúng tôi lựa chọn định nghĩa đó làm công cụ cơ bản để triển khai đề tài Luận án.
1.3.2. Khái niệm Gầu plềnh
Tình hình phân loại dân ca các dân tộc và dân tộc thiểu số Việt Nam hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tựu chung có 3 cách tiêu biểu: 1) Tác giả Phan Đăng Nhật [87, tr. 118] sắp xếp dân ca theo các phạm vi hoạt động đời sống gắn liền với nó, chia 4 loại: Dân ca nghi lễ và phong tục, Dân ca giao duyên, Hát ru, Hát vui chơi của trẻ em. 2) Các tác giả Chu Xuân Diên [57, tr.417-431], Võ Quang Nhơn [98], Lê Chí Quế [109] cùng chung quan điểm loại hình, chia 3 loại: Dân ca lao động, Dân ca nghi lễ - phong tục, Dân ca sinh hoạt; trong đó, dân ca giao duyên (dân ca tình yêu đôi lứa) là một bộ phận của dân ca sinh hoạt. 3) Trong “Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam” [1, tr.130], Trần Thị An chủ biên, phân loại, sắp xếp dân ca các dân tộc Việt Nam theo chủ đề, gồm: “Dân ca lao động, Dân ca nghi lễ - phong tục, Dân ca quê hương, đất nước, Gia đình, xã hội và tình yêu lứa đôi”.
Nhìn chung, các cách phân loại dân ca, dân ca các dân tộc thiểu số trên tuy có khác nhau song cơ bản bao quát được tình hình tư liệu dân ca hiện nay ở nước ta. Hầu hết các tác giả đều thống nhất bộ phận dân ca lao động, dân ca nghi lễ và phong tục, nhưng các cách phân chia bộ phận “dân ca sinh hoạt”; “dân ca giao duyên”, “dân ca quê hương đất nước, gia đình, xã hội và tình yêu lứa đôi” như trên rõ ràng chưa có sự thống nhất, chứng tỏ sự phức tạp về tình hình tư liệu, tiêu chí phân loại chưa đồng nhất. Tuy nhiên, dù phân loại thế nào thì bộ phận dân ca giao duyên hay tình yêu đôi lứa luôn được đề cập đến như một bộ phận quan trọng, có số lượng đồ sộ và nhiều giá trị nhất. Trong phạm vi Luận án, chúng tôi không bàn thêm về vấn đề này mà chỉ tập trung vào việc phân loại dân ca Hmông làm cơ sở triển khai đề tài.
Ngoài các cách phân loại chung như trên, tình hình phân loại dân ca Hmông của một số tác giả nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian Hmông cũng có các ý kiến chưa thống nhất: Các tác giả Doãn Thanh [132], Cư Hòa Vần, Hoàng Nam [173, tr.115], căn cứ cách tự gọi tên dân ca của đồng bào Hmông, thống nhất phân dân ca Hmông thành 5 loại nhỏ: Gâux plênhl (Gầu plềnh = Tiếng hát tình yêu), Gâux tuz njuôs (Gầu tú giua = Tiếng hát mồ côi), Gâux uô nhangz (Gầu uô nhéng = Tiếng hát làm dâu), Gâu yôngz (Gầu xống = Tiếng hát cưới xin), Gâu tuôs (Gầu túa = Tiếng hát cúng ma). Tác giả Trần Hữu Sơn [121, tr. 131] căn cứ theo phương pháp loại hình – lịch sử và tình hình thực tế dân ca Hmông đã phân loại dân ca Hmông thành 3 tiểu loại: Dân ca giao duyên, Dân ca than thân, Dân ca nghi lễ và phong tục gia đình. Tác giả Hồng Thao [140, tr. 199] xét từ làn điệu hát dân ca Hmông, cho rằng đại thể có thể tới 11 làn điệu hát nhưng có các làn điệu phổ biến ở các ngành Hmông là Phìa phá (hát đối đáp trong hát đố), Lù tẩu (hát ngâm), Khâu xìa (hát kể), Nhie (hát than), và một số làn điệu hát cúng ma. Riêng Khâu xìa có Khâu xìa plành (hát tình yêu), Khâu xìa gùa (hát mồ côi), Khâu xìa oa nhá (hát làm dâu)...Cách phân loại này chưa bao quát hết thực tế vì có những bài hát có thể hát bằng các làn điệu khác nhau như Gầu plềnh (khâu xìa plành) có thể hát đối, hát kể, hát than...Tác giả người Hmông, nhà văn, nhà nghiên cứu Mã A Lềnh (2009) trong bài “Ngưỡng vọng về dân ca Hmông” [68, tr. 30-52]) phân chia dân ca Hmông thành 4 loại: loại bài ca nghi lễ (Gâux cêr lil), loại bài ca lễ cưới (Gâux yôngz), loại bài ca có cốt truyện (Gâux jangx pêv), loại bài ca sáng trí (Gâux tsưr ziv) riêng loại bài ca sáng trí có 10 tiểu loại nhỏ: hát tâm tình (Gầu plềnh), hát thách đố, hát than thân, hát lao động, hát ru, hát vui chơi gải trí, hát phong tục, hát chúc tụng, hát khóc than, hát mỉa. Cách phân loại này chưa thống nhất về tiêu chí ở chỗ gọi “bài ca nghi lễ” là căn cứ vào chức năng thực hành và nội dung biểu hiện, còn gọi “bài ca có cốt truyện” là căn cứ vào hình thức biểu hiện.
Xem xét các cách phân loại chung và riêng nêu trên, đối chiếu tình hình thực tế dân ca Hmông, chúng tôi thấy có một số vấn đề: Một là, dù phân loại thế nào thì bộ phận “dân ca giao duyên” hoặc “dân ca tình yêu” hoặc “dân ca trữ tình” vẫn nổi lên như một bộ phận riêng biệt, quan trọng trong kho tàng dân ca các dân tộc. Coi dân ca là một thể loại thì bộ phận dân ca này sẽ là một tiểu loại trong thể loại đó. Hai là, khi nghiên cứu dân ca Hmông, hầu hết các tác giả đều căn cứ vào thực tế cách gọi tên dân ca của đồng bào để phân loại. Trường hợp tác giả Trần Hữu Sơn gọi “dân ca giao duyên” song nội hàm ý nghĩa vẫn để chỉ loại hát Gầu plềnh. Ba là, bản thân từ “Gầu plềnh”, nếu dịch là “tiếng hát tình yêu” cũng chưa thỏa đáng, vì theo “Từ điển Mông Việt” [174, tr.178, 514], chữ gâux có nghĩa là bài hát, bài ca, còn chữ plênhl có nghĩa là tình duyên, nguyệt hoa, đùa dỡn, lả lơi. Có lẽ vì vậy mà tác giả Doãn Thanh phân chia 5 tiểu loại dân ca Hmông và gọi Gầu plềnh là “tiếng hát tình yêu” nhưng ông cũng thừa nhận “như vậy cũng chưa chính xác, khoa học”. Bốn là, Gầu plềnh có những đặc trưng rất riêng, ở chỗ Gầu plềnh có năm nhóm bài: - Các bài con trai hát với con gái; - Các bài con gái hát với con trai; - Các bài nam giới hát với đàn bà (có chồng hoặc đã bỏ chồng); - Các bài hát với đàn bà góa; - Các bài hát với đàn ông góa. Đối chiếu với khái niệm "Dân ca giao duyên bao gồm các bài hát trao đổi tình cảm giữa hai bên trai gái” [102, tr. 377] thì Gầu plềnh không hoàn toàn trùng khớp nếu nội hàm nghĩa của từ “trai gái” không được mở rộng.
Chúng tôi áp dụng luận điểm của Dan Ben-Amos xem thể loại với tư cách một phạm trù của diễn ngôn văn hóa (Bài "Thể loại”, [148, tr. 240]), theo đó, khai thác, ứng dụng các thể loại dân tộc đòi hỏi một sự khảo cứu tên gọi, sự phân loại văn hóa và sự trình diễn của chúng trong đời sống xã hội; tên gọi phản ánh ý nghĩa văn hóa, lịch sử, trình diễn là nền tảng cho phân tích thi pháp thể loại; lưu ý rằng, một thể loại riêng biệt có thể bao gồm các thể loại khác được chấp nhận theo kiểu văn hóa. Từ những vấn đề trên, giải pháp của chúng tôi là xây dựng khái niệm cụ thể về Gầu plềnh làm cơ sở xác định đối tượng nghiên cứu. Theo chúng tôi, Gầu plềnh là một tiểu loại trong dân ca Hmông có chức năng sinh hoạt riêng, đó là những khúc hát tâm tình về tình duyên, tình yêu, quan hệ nam nữ được diễn xướng trong các dịp vui chơi, cưới xin, đặc biệt trong dịp LHGT. Trong Luận án, chúng tôi dùng thuật ngữ Gầu plềnh theo đúng tên gọi của đồng bào Hmông. Gầu plềnh là đối tượng nghiên cứu của Luận án với nội hàm ý nghĩa như chúng tôi vừa nêu trên.
1.4. Tổng quan một số vấn đề về lý luận
Nghiên cứu đề tài “Dân ca Gầu plềnh và Lễ hội Gầu tào của dân tộc Hmông ở Lào Cai – truyền thống và biến đổi” liên quan đến cả thực thể vật chất và tinh thần, vì vậy, chúng tôi lựa chọn một định nghĩa rộng theo quan điểm của Archer Taylor (cũng như quan điểm của một số học giả Mỹ, Phương Tây, Việt Nam như William R. Bascom, Dr. Gustav Klemm, William John, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Tấn Đắc, Trần Quốc Vượng...): Folklore là tư liệu được truyền lại bằng lời nói hoặc bằng phong tục tập quán. Đó có thể là những bài hát dân gian (folksong), truyện kể dân gian (folktale), câu đố (riddle), tục ngữ (proverb) hay những tư liệu khác được lưu giữ bằng lời [147, tr. 66]; đó có thể là những công cụ, vật thể cổ truyền; biểu tượng truyền thống; phong tục truyền thống; những niềm tin cổ truyền... Tuy nhiên, hoàn toàn có thể tách riêng bộ phận văn học dân gian (folklore được thể hiện bằng lời) để nghiên cứu. Chúng tôi coi Gầu plềnh, LHGT là folklore, từ đó áp dụng lý thuyết dân tộc học về folklore và mối quan hệ của chúng với lịch sử, địa văn hóa...để giải quyết các vấn đề của Luận án với những điểm chủ yếu sau:
- Thứ nhất, áp dụng lý thuyết dân tộc học lời nói; đây là cách tiếp cận chú ý đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hóa và xã hội bao gồm cả lý luận, phương pháp luận. Dân tộc học lời nói liên quan đến:
+ Các nguồn ngôn ngữ xã hội học sẵn có trong những cộng đồng riêng biệt (cụ thể ở đây là xã hội Hmông). Các nguồn loại này bao gồm không chỉ ngữ pháp theo nghĩa truyền thống mà là tổ hợp ngôn ngữ tiềm năng sử dụng trong xã hội, trong đó có các biến ngôn ngữ, phong cách, thuật ngữ chỉ người và xưng hô, từ, quan hệ từ.
+ Việc sử dụng, khai thác các nguồn này trong phát ngôn, trong tương tác xã hội.
+ Các mối tương quan khuôn mẫu, tổ chức của các loại phát ngôn khác nhau và tương tác xã hội trong cộng đồng.
+ Mối quan hệ của những khuôn mẫu lời nói này đối với các khía cạnh và lĩnh vực khác nhau của văn hóa cộng đồng [148, tr. 65].
- Thứ hai, áp dụng lý luận về diễn xướng folklore. Richard Bauman và Jennifer Schacker-Mill xuất phát từ quan điểm phong cách học của Thomas Blackwell, Robert Wood, Robert Lowth, đặc biệt là từ Herder (vì Herder phát triển theo hướng “xác định các phong cách dân tộc khác nhau đặc trưng cho thi ca của thế giới con người” đưa ra “cái nhìn so sánh của thi ca dân gian hướng trọng tâm vào tính nổi bật của các phong cách dân tộc”) để xây dựng lý luận về diễn xướng của mình và cho rằng một phong cách rõ ràng là truyền miệng – phong cách có tính công thức, đa liên từ, lặp lại – được thích ứng với những đòi hỏi của diễn xướng bằng miệng và những khả năng của ngôn ngữ nói như một phương tiện truyền đạt [148, tr.197- 200]. Như vậy, diễn xướng bằng miệng chịu sự tác động chi phối mạnh mẽ bởi ngôn ngữ dân tộc và tính công thức của phong cách dân tộc đó. Theo Bauman, diễn xướng là sự thực hiện một hành động đối lập với năng lực, kiểu mẫu hay những yếu tố khác thể hiện tiềm năng đối với hành động đó hoặc một sự trừu tượng hóa từ những hành động đó; ở đây có sự tham gia của một hình thức chuyển đổi về mặt ký hiệu học (intersemiotic), một sự thay đổi từ chỗ mã hóa một thông điệp trong một hệ ký hiệu này (mã) sang hệ ký hiệu khác. Sự diễn xướng luôn thể hiện một mặt nào đó nổi trội, vì từ xa xưa đến nay không có hai lần diễn xướng nào giống hệt nhau cho nên nghiên cứu bản thân sự diễn xướng để thấy rõ tác động qua lại giữa “quyền uy và sáng tạo”, giữa cái làm sẵn và cái nảy sinh. Sự diễn xướng đôi khi trái ngược ngữ pháp với các quy tắc để sản sinh ra và hiểu các câu thích hợp về mặt ngữ pháp, nó là “lời nói tự nhiên” mà người nói thực hiện khi sử dụng ngôn ngữ, (do đó, lý luận ngôn ngữ cho rằng một ngữ pháp chính là năng lực đối với một ngôn ngữ còn diễn xướng có khuynh hướng bị coi là cái sai lạc, ngổn ngang những yếu tố không phù hợp về mặt ngữ pháp). Bauman dẫn ý của Dell Hymes nhấn mạnh “năng lực thông tin”, bao hàm trong đó toàn bộ tri thức và khả năng giúp người ta nói theo những cách có thể lý giải được và phù hợp về mặt xã hội, nó bao gồm không chỉ kiến thức ngữ pháp mà cả kiến thức, khả năng chào hỏi, kể chuyện, hát... và ông gọi đó là ngữ pháp biến tính (transformational) đem đến cho sự diễn xướng (chứ không phải sự sai lạc), vì vậy, “sự diễn xướng đóng vai trò một sự thực hiện”. Trong sự diễn xướng, hành động thông tin được đem ra trình diễn, thể hiện cụ thể, nâng lên một cấp độ so với những cái xung quanh nó trong bối cảnh và mở ra cho cử tọa dò xét, khảo sát kỹ lưỡng. Như vậy, diễn xướng dân gian có vai trò, sự tham gia (cả sự đánh giá) của cả người xem, người nghe và người diễn xướng. Đồng bộ với quan niệm về sự diễn xướng như một cơ cấu đem ra trình diễn, sự diễn xướng có một mã khóa (key) mà theo đó, mỗi hành động thông tin đều bao hàm hàng loạt thông điệp tạo kết cấu, ẩn cũng như tường, chuyển tải những chỉ dẫn về việc hiểu ra sao các thông điệp khác đang được chuyển tải gọi là “siêu thông tin” (metacommunication – chữ dùng của Gregory Bateson). Điều đó có nghĩa là mỗi cộng đồng sẽ sử dụng một tập hợp có cấu trúc các phương tiện thông tin riêng để “khóa” kết cấu diễn xướng sao cho sự truyền thông tin trong khuôn khổ kết cấu đó sẽ được cộng đồng đó hiểu; các “khóa” này là các công thức, lối cách điệu lời nói (hoặc cử động) hay viện dẫn truyền thống như một chuẩn quy chiếu cho trách nhiệm của người diễn xướng...Các “khóa” này là cụm phương tiện thông tin có tính đặc thù văn hóa cho sự diễn xướng có thể có những khuynh hướng phổ biến song không thể giống nhau giữa nền văn hóa này với nền văn hóa khác (Bài “Diễn xướng” [148, tr. 71-76]). Theo đó, sự diễn xướng văn hóa có xu hướng trở thành các bối cảnh diễn xướng dễ nhận ra nhất trong một cộng đồng và có hàng loạt các đặc điểm giống nhau; cụ thể, có 4 đặc điểm cơ bản là: thứ nhất, được lên lịch và dàn dựng trước (quy ước của cộng đồng); thứ hai, có giới hạn về thời gian với mở đầu, kết thúc; thứ ba, có giới hạn về không gian (không gian đã được lựa chọn); thứ tư, được lên chương trình. Bốn đặc điểm này mang tính truyền thống, là phần thực chất các cuộc diễn xướng văn hóa, đó là dịp công khai có sự phối hợp, được mở ra cho cử tọa dự khán và cho sự tham gia tập thể.
Ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu đã có công trình chuyên sâu về diễn xướng dân gian. Các tác giả Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo với Kho tàng diễn xướng dân gian Việt Nam đã khái quát “diễn xướng dân gian là một phương thức”, tức là cách thể hiện, cách giới thiệu và trình bày; đồng thời “diễn xướng dân gian còn là một thể loại” tức là diễn xướng tác phẩm “có tính tổ chức, mang một hình thức mới” và vì vậy “có tính cách thể loại rõ ràng” [58, tr. 14-18]. Mặc dù không trình bày thành một lý thuyết hoàn chỉnh, nhưng rõ ràng, việc xác định diễn xướng dân gian là một thể loại như trên chứng tỏ các tác giả có sự gặp gỡ với các trường phái lý thuyết Âu – Mĩ, ở chỗ đã xác định được mối liên hệ quan trọng giữa một thể loại nào đó với diễn xướng trên thực tế của nó, tức diễn xướng dân gian là cơ sở quan trọng (hay bối cảnh) để xác định thể loại folklore.
Những luận điểm trên là cơ sở lý thuyết định hướng để chúng tôi vận dụng nghiên cứu diễn xướng Gầu plềnh trong LHGT, đồng thời giải quyết các vấn đề về thi pháp Gầu plềnh trong trạng thái động của diễn xướng, trong hoạt động thực tiễn chứ không phải chỉ trên văn bản thuần túy.
Thứ ba, áp dụng lý thuyết hình thái học lễ hội của Alessandro Falassi; theo đó, lễ hội (festival) là một hoạt động kỷ niệm định kỳ biểu thị thế giới quan của một nền văn hóa hay nhóm xã hội thông qua hành lễ, diễn xướng, nghi lễ và trò chơi truyền thống, là sự kiện có tính tượng trưng và tính xã hội phức tạp nhất, tồn tại lâu đời trong truyền thống. Theo cách hiểu hiện nay, festival có nghĩa: một khoảng thời gian của một hoạt động có tính thiêng liêng và/ hoặc thế tục; thu hoạch một vụ mùa đặc biệt;... nhau cùng tiến bộ, phát triển kinh tế - xã hội.
2. Hát Gầu plềnh là một hoạt động quan trọng của LHGT. Gầu plềnh với những nội dung phong phú, với những giá trị nghệ thuật độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc, gắn bó mật thiết với LHGT; đó là mối quan hệ tương hỗ, sinh thành, đồng hành phát triển. LHGT có một mục đích quan trọng là để cho nam nữ thanh niên hát giao duyên, giao lưu, tìm hiểu và kết đôi, kết lứa... duy trì và phát triển cộng đồng. Cho nên, LHGT là một trong những cái nôi quan trọng nhất sản sinh, nuôi dưỡng, phát triển nền dân ca đằm thắm trữ tình đó; ngược lại, sinh hoạt Gầu plềnh là điều kiện tiên quyết có sức hút mạnh mẽ mọi người đến dự hội làm cho LHGT ngày càng phát triển.
Gầu plềnh là tiểu loại dân ca Hmông với thi pháp đặc trưng, là tiếng nói, là tâm hồn, tình cảm mãnh liệt, sâu sắc trong gan ruột của cộng đồng Hmông được thăng hoa trong LHGT; có sức cuốn hút, lan toả, là niềm tự hào của dân tộc Hmông không chỉ bởi chất trữ tình đắm say, bởi những tình cảm hồn nhiên, mộc mạc, giản dị, gần gũi, quen thuộc với đồng bào mà còn ở chỗ nó là kết tinh của một nền văn hoá truyền thống lâu đời với những tư tưởng, quan niệm nhiều mặt về cuộc sống nhân sinh của dân tộc Hmông; ẩn chứa trong đó những trầm tích văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc; lưu giữ lịch sử đầy đau thương nhưng bất khuất của đồng bào; đồng thời có giá trị ích dụng, thiết thực trong phong tục luyến ái của đồng bào, nuôi dưỡng tâm hồn con người.
Gầu plềnh là sản phẩm sáng tạo độc đáo của dân tộc Hmông, kết tinh những gì tinh tuý nhất trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động, là tinh hoa của nghệ thuật dân ca mà lớp lớp các thế hệ người Hmông đã sáng tạo ra. Nghệ thuật ngôn từ Gầu plềnh đặc sắc và mang sắc thái riêng độc đáo có sức hấp dẫn đặc biệt, có thể khai thác, khám phá từ nhiều bình diện khác nhau mà ở mỗi phương diện ta đều có thể thấy khả năng sáng tạo ngôn ngữ tuyệt vời của đồng bào Hmông. Gầu plềnh là tài sản vô giá không chỉ của đồng bào Hmông mà còn là tài sản quý của nhân loại.
3. Thực trạng LHGT, sinh hoạt ca hát dân ca và Gầu plềnh của đồng bào Hmông có những biến đổi đáng kể, nhất là mấy chục năm trở lại đây. Có những biến đổi do quy luật nội tại riêng của Gầu plềnh và LHGT nhưng cũng có những biến đổi do quy luật khách quan của biến đổi xã hội tác động; đặc biệt sự phát triển kinh tế, xã hội với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong hơn hai chục năm qua với sự phát triển của giao thông, trường học, điện, khí và các phương tiện công nghệ hiện đại, diện mạo nông thôn vùng cao, đời sống người Hmông có nhiều thay đổi.
Biến đổi LHGT theo quy luật thích nghi sinh tồn, hòa hợp và hội nhập, có xu hướng mở rộng quy mô, tổ chức sự kiện và ngày càng hướng nhiều hơn vào đời sống tâm linh; có nơi tính chất tổ chức sự kiện, phục vụ phát triển du lịch, phát triển kinh tế khá rõ; những yếu tố căn cốt mang bản chất nghi lễ, phong tục truyền thống luôn tồn tại; ngược lại, một số sinh hoạt dân gian có tính chất giải trí có xu hướng hoặc đã bị mai một hoặc chuyển đổi sang dạng thức khác để thích nghi. Biến đổi Gầu plềnh ngày càng theo xu hướng biểu diễn, sân khấu hóa; lớp trẻ hát đối đáp Gầu plềnh trong LHGT có xu hướng giảm trong chục năm trở lại đây; tuy nhiên, phương thức trao truyền Gầu plềnh đa dạng, thuận tiện hơn và cơ hội tiếp cận của tuổi trẻ nhiều hơn cho nên vẫn còn nhiều thanh niên biết hát Gầu plềnh. Nội dung Gầu plềnh biến đổi theo xu hướng ngày càng phong phú, đa dạng hơn; xuất hiện nhiều chủ đề mới, nhiều cách nhìn nhận mới, phản ánh nhận thức của ngươi dân được nâng cao, tâm hồn ngày càng rộng mở hơn.
Tuy nhiên, Trong LHGT hiện nay có một số vấn đề hoặc do mới nảy sinh hoặc do rơi rớt của hủ tục cũ cần quan tâm như: Năm 2015 (Pha Long) đã bắt đầu xuất hiện tình trạng kinh doanh những mặt hàng mà trước đây chưa có như bán vé số cào, các trò chơi ăn tiền (quay số điện tử, ném vòng cổ chai, ném tên...) thu hút rất đông thanh niên, gây rối loạn; bày rác làm ô nhiễm môi trường. Hiện tượng lợi dụng kéo vợ là trẻ vị thành niên, học sinh đang học dẫn đến tảo hôn, bỏ học cũng là vấn đề cần hết sức quan tâm để có giải pháp phòng tránh.
4. Khuyến nghị
Đối với người Hmông, văn hoá dân gian vừa thích hợp, vừa có những ưu điểm nổi trội vì ở đó mọi người được bình đẳng, tính cộng đồng được đề cao. Do đặc thù người Hmông cư trú ở vùng núi rất cao, nền kinh tế còn thấp và lạc hậu so với miền xuôi, nền văn hoá hiện tại, nhiều vùng còn rất đậm đà tính truyền thống, do đó, sinh hoạt văn hoá dân gian của đồng bào có vai trò đặc biệt quan trọng.
LHGT là một sinh hoạt văn hoá lớn của người Hmông hiện nay có giá trị nhiều mặt về kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hóa và đời sống tinh thần. Trong LHGT, họ vừa là người dự hội, xem hội, hưởng thụ văn hoá lễ hội vừa là người sáng tạo văn hoá và văn học dân gian: tham dự các trò chơi, biểu diễn nghệ thuật, trực tiếp hát hội... do đó, điều cần thiết hiện nay là hết sức coi trọng văn hoá dân gian, khơi nguồn tạo điều kiện cho văn hoá dân gian phát triển là chủ yếu. LHGT hiện nay có những ưu điểm lớn cần phải duy trì và phát huy: trong LHGT, hầu hết không có hiện tượng buôn thần bán thánh, kinh doanh những trò mê tín dị đoan, lừa đảo. Mọi người dân đến hội đều hết sức thực tâm tôn trọng phong tục, tập quán truyền thống từ việc ăn, việc mặc theo truyền thống đến việc đi đứng, nói năng, thái độ cư xử nhã nhặn, hài hoà...Các sinh hoạt văn hoá văn nghệ, đặc biệt là sinh hoạt Gầu plềnh đều rất lành mạnh phù hợp với tập quán tín ngưỡng của đồng bào.
Thời gian qua, từ khi Đảng ta ban hành Nghị quyết Trung ương V khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên cần tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn từng vùng, miền cụ thể để có cơ chế, chính sách đặc thù, phù hợp hơn, trong đó có những xã đặc biệt khó khăn mà người Hmông sinh sống (Lào Cai có 33 xã trên 90% người Hmông, 15 xã 100% người Hmông sinh sống).
Các cơ quan ban ngành hữu quan cần quan tâm và tham gia tích cực trong công tác sưu tầm, nghiên cứu dân ca Hmông nói chung, Gầu plềnh nói riêng; ghi chép, dịch thuật và giới thiệu rộng rãi ở các địa phương. Nghiên cứu LHGT để có biện pháp quản lý phù hợp hơn nhằm hạn chế mặt tiêu cực, khuyến khích mặt tích cực để phục vụ một cách thiết thực nhất cho đời sống của nhân dân.
Các địa phương có LHGT và sinh hoạt Gầu plềnh nên để đồng bào tự quyết tổ chức theo truyền thống, không nên can thiệp quá sâu nhưng cần triển khai nhiều giải pháp quản lý đồng bộ nhằm: một mặt bảo tồn, phát huy tốt nhất giá trị bản sắc truyền thống của đồng bào, trên cơ sở đó quảng bá hình ảnh, phát triển du lịch, phát triển giao thương, phát triển kinh tế, xã hội; mặt khác, đảm bảo vệ sinh môi trường, thực phẩm, an ninh, an toàn giao thông cho người dự hội; phòng ngừa buôn lậu (nhất là ma túy), lợi dụng truyền đạo trái phép, lôi kéo, buôn bán trẻ em, phụ nữ qua biên giới; ngăn chặn một số hủ tục lạc hậu có thể tái sinh trở lại như tảo hôn hay lợi dụng tục kéo vợ để kéo trẻ vị thành niên về làm vợ hoặc lợi dụng chiếm đoạt, phá vỡ hạnh phúc gia đình người khác...dẫn đến vi phạm pháp luật. Việc phục dựng LHGT cần nghiên cứu, xem xét cụ thể; tránh phục dựng tràn lan mà không xuất phát từ nhu cầu của đồng bào tại địa phương hoặc làm sai lệch truyền thống dẫn đến không hấp dẫn bà con, gây tốn kém, lãng phí, thậm chí làm mất đi hình ảnh vốn tốt đẹp. Đồng thời với việc phát triển giáo dục nâng cao dân trí, cần nghiên cứu và chú trọng giáo dục truyền thống dân tộc trong nhà trường; tổ chức những hoạt động giáo dục thiết thực cho lớp trẻ như giáo dục song ngữ; sưu tầm dân ca, truyện cổ; sưu tầm và sử dụng nhạc cụ, trang phục; giáo dục lịch sử địa phương; tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, giáo dục nghề truyền thống...
NHỮNG BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Bùi Xuân Tiệp (2005), “Bước đầu giải mã một số biểu tượng văn hóa trong dân ca giao duyên dân tộc Hmông”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3 (99)/2005, tr. 41- 47.
Bùi Xuân Tiệp (2010), “Tìm hiểu truyện Vợ chồng A phủ trong mối quan hệ với văn hóa dân gian Hmông”, Tạp chí Nguồn sáng dân gian số 3/2010, tr. 25-32.
Bùi Xuân Tiệp (2011), “Hát Gầu plềnh (dân ca giao duyên) trong LHGT của dân tộc Hmông”, Tạp chí Nguồn sáng dân gian số 1/2011, tr. 49-56.
Bùi Xuân Tiệp (2012), “Khúa kê của dân tộc Hmông là tác phẩm văn học dân gian độc đáo mang đậm chất thần thoại”, Tạp chí Nguồn sáng dân gian số 3/2012, tr. 27-33.
Bùi Xuân Tiệp (2014), “Khảo sát kết cấu dân ca Gầu plềnh của người H’mông, Tạp chí Nguồn sáng dân gian, (số 2/2014), tr. 26-34.
Bùi Xuân Tiệp (2015), “Tiếp cận dân ca Gầu plềnh của dân tộc Hmông từ bình diện thời gian nghệ thuật”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (số 1/2015), tr. 26-34.
Bùi Xuân Tiệp (2015), “Không gian nghệ thuật trong dân ca Gầu plềnh của dân tộc Hmông Lào Cai”, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam (số 246/2015), tr. 29-32.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I/ Tiếng Việt,
Trần Thị An chủ biên (2008), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H, tập 17.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1994), Chỉ thị số 45/CT-TW, 23/9/1994, về một số công tác ở vùng dân tộc Hmông, H.
Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
Ban chỉ đạo Tổng cục điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2009), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, (5), H, tr.134-225.
Ban Dân tộc Trung ương (1978), Văn kiện của Đảng về chính sách dân tộc, Nxb Sự thật, H.
Ban Dân vận Tỉnh uỷ Lào Cai (2011-2013), Một số đặc trưng của đồng bào dân tộc Mông tỉnh Lào Cai, Đề tài nghiên cứu cấp tỉnh, Lào Cai.
Ban Dân vận Tỉnh uỷ Lào Cai (2013), Nghiên cứu thực trạng kinh tế xã hội, đề xuất giải pháp phát triển kinh tế xã hội trong vùng đồng bào dân tộc Mông (2011-2013), Đề tài nghiên cứu cấp tỉnh, Lào Cai.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lào Cai (2012), Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) về một số công tác ở vùng đồng bào dân tộc Mông, Kết luận số 121-KL/TU, ngày 03/5/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lào Cai.
Báo điện tử (2009): http: wikipmedia foundation.org/terms of use.
Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hóa dân gian Việt Nam - Những suy nghĩ, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.
Trần Ngọc Bình (2008), Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Thanh niên, H.
Bộ Văn hóa Thông tin, Vụ Văn hóa dân tộc, Bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Mông - Kỷ yếu hội thảo (2005), Công ty in & Văn hóa phẩm, H.
Sần Cháng (2001), Dân ca trong đám cưới và tiệc rượu người Dáy, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.
Nông Quốc Chấn, Huỳnh Khái Vinh (2002), Văn hoá các dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
Nguyễn Thị Phương Châm (2011), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay, Nxb Văn hóa, Thông tin & Viện Văn hóa, H.
Chevalier. J, Gheerbrant. A (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới (Phạm Cư và nhóm dịch), Nxb Đà Nẵng và Trường Viết văn Nguyễn Du.
Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H.
Nguyễn Văn Chỉnh (1971), Từ điển Mèo - Việt, Nxb Khoa học xã hội, H.
Nguyễn Văn Chỉnh chủ biên (1996), Từ điển Việt - Mông, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Lí Seo Chúng (1999), Một số tục ngữ câu đố H’Mông Lào Cai, Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Lào Cai.
Vàng Thung Chúng, Ngọc Cường (1999), Quả Lê mũi dài, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lào Cai.
Mai Ngọc Chừ (2009), Văn hóa ngôn ngữ Phương Đông, Nxb Phương Đông, H.
Nguyễn Văn Dân (2003), Lý luận văn học so sánh, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Chu Xuân Diên (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM.
Chu Xuân Diên (2006), Văn hóa dân gian, mấy vấn đề về phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, Nxb Khoa học xã hội, H.
Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn học, Viện văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, H.
Lưu Danh Doanh (1991),“Tìm hiểu nghệ thuật múa dân gian dân tộc H’Mông”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (2).
Lưu Danh Doanh (2001), Nhạc cụ khèn và vũ điệu khèn H’Mông trong văn hoá dân gian, Đề tài cấp viện, H.
Vũ Trọng Dung (2007), Mỹ học Mác – Lê Nin, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
Đảng Cộng Sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
Lương Thị Đại chủ biên (2013), Lễ Xên mường của người Thái đen ở Mường Then, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học & Trung tâm nghiên cứu quốc học, H.
Frazer. G.J (2007), Cành vàng (Ngô Lâm Bình dịch), Nxb Văn hóa Thông tin và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H.
Freud. S, Vật tổ và cấm kỵ (Đoàn Văn Chúc dịch), Trung tâm Văn hóa dân tộc TP. HCM (Tài liệu lưu hành nội bộ).
Freud. S, Jung. C.G, Bellemin. J, Noel, Bachelerd. G, Tucci. G, Dundes. V, Vysheslatsev. V (2004), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (Đỗ Lai Thúy biên soạn), Nxb Văn hóa Thông tin, H.
Giàng Seo Gà (2004), Tang ca (KRUÔZ CÊ) của người Mông Sa Pa, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Guxep. V.E (1999), Mĩ học Phônclo (Hoàng Ngọc Hiến dịch), Nxb Đà Nẵng.
Nguyễn Bích Hà (1998), Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, H.
Nguyễn Bích Hà (2002) “Tự sự trong loại hình trữ tình dân gian”, Tạp chí Văn học, (8).
Nguyễn Bích Hà chủ biên, (2008), Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam dùng cho sinh viên Việt Nam học, Nxb Đại học Sư phạm, H.
Nguyễn Bích Hà (2014), Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa dân gian, Nxb Đại học Sư phạm, H.
Hùng Hà (2003), “Một số loại hình văn học dân gian của dân tộc HMông”, Tạp chí Văn hóa Dân tộc, (9).
Hùng Hà (2015), Thơ ca dân gian Mông dưới góc nhìn văn hóa, Luận án Tiến sỹ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, H.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2013), Từ điển thuật ngữ văn học (tái bản lần thứ 3), Nxb Giáo dục, H.
Đỗ Đình Hãng (2007), Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
Hamburger. K (2004), Lô gíc học về các thể loại văn học (Vũ Hoàng Địch, Trần Ngọc Vương dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Nguyễn Văn Hậu (2001), Về biểu tượng trong lễ hội dân gian truyền thống, Luận án Tiến sỹ, Viện Văn hóa, H.
Hoàng Ngọc Hiến (2008), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, Nxb Đà Nẵng.
Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2007), Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam 40 năm xây dựng và trưởng thành, (bài “Nghệ nhân dân gian”), Nxb Khoa học xã hội, H, tr.122 - 137.
Diệp Đình Hoa (1998), Dân tộc H’mông và thế giới thực vật, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.
Tô Hoài (1965), “Tiếng hát làm dâu, tiếng hát đau thương, tiếng hát căm hờn ngàn đời của người phụ nữ Mèo”, Tạp chí Văn học, (2).
Kiều Thu Hoạch, 2006, Văn học dân gian người Việt, góc nhìn thể loại, Nxb Khoa học xã hội, H.
Đỗ Huy chủ biên, (2002), Cơ sở triết học của văn hoá nghệ thuật Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, H.
Nguyễn Thị Huế (2008), “Thần thoại các dân tộc Việt Nam, thể loại và bản chất”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (2).
Nguyễn Thị Hường (1998), Đặc điểm truyện cổ tích thần kỳ Mông Hà Giang, Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hoá dân gian, Nxb Khoa học xã hội, H.
Đinh Gia Khánh chủ biên, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2001), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (1997), Diễn xướng dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, H.
Minh Khương (1999), “Vài nét về dân ca Hmông”, Tạp chí Văn hoá dân gian Yên Bái (6).
Khrapchenko. MB. (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Nguyễn Xuân Kính, Lê Ngọc Canh, Ngô Đức Thịnh (1989), Văn hoá dân gian - Những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, H.
Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, H.
Nguyễn Xuân Kính (2012), Một nhận thức mới về văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây (Trịnh Bá Đĩnh dịch), Nxb Giáo dục, H.
Đinh Trọng Lạc, (1994), Chín mươi chín biện pháp tu từ Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
Lê Viết Lâm (2005), “Nghiên cứu phân loại họ phụ Tre (Bambusoideae) ở Việt Nam”, Tài liệu Hội nghị 2, Khoa học công nghệ Lâm nghiệp, 20 năm đổi mới (1986-2005), tr. 312-321.
Lévy Bruhl (2008), Kinh nghiệm thần bí và biểu tượng ở người nguyên thủy, Nxb Thế giới và Tạp chí Văn học Nghệ thuật, H.
Mã A Lềnh (2009), Ghi chép về văn hóa dân gian Hmông, Nxb Văn hóa Thông tin, H.
Mã A Lềnh, Từ Ngọc Vụ (2014), Tiếp cận văn hóa Hmông, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.
Lotman. UI. M (2002), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Lowie. R (2008), Luận về xã hội học nguyên thủy (Vũ Xuân Ba và Ngô Bằng Lâm dịch từ bản tiếng Pháp), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Nguyễn Văn Lợi (1975), “Láy từ và từ láy tiếng Mèo”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1).
Nguyễn Văn Lợi (1993), “Nguồn gốc tộc người các dân tộc Mèo - Dao qua cứ liệu ngôn ngữ”, Tạp chí Ngôn ngữ, (4).
Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý (1978), Quan họ, nguồn gốc và quá trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, H.
Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam khu vực phía Bắc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Hoàng Minh Lường (2001), Quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, H.
Bùi Huy Mai (2002), Dân tộc và bản sắc văn hoá vùng Văn Chấn Mường Lò, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Meletinsky. E.M (2000), Thi pháp của huyền thoại (Trần Nho Thìn, Song Mộc dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Đỗ Minh (1975), Bước đầu tìm hiểu ca nhạc dân gian Việt Bắc, Nxb Việt Bắc.
Bùi Xuân Mĩ, Bùi Thiết, Phạm Minh Thảo (1996), Từ điển lễ tục Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, H.
Hoàng Nam (2002), Đặc trưng văn hoá các dân tộc Việt nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Hoàng Đức Nghi (1993), “Tiếp tục đổi mới kinh tế - xã hội nông thôn miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số”, Tạp chí Công tác tư tưởng văn hoá, (9).
Đặng Minh Ngọc (1999), Một số nghi lễ gia đình của người H’Mông xã Hầu Thào, Sa Pa, Lào Cai, Luận văn tập sự, Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Phan Nhật (1972), “Tìm hiểu quá trình hình thành truyện thơ Tiếng hát làm dâu”, Tạp chí Văn học, (3).
Phan Đăng Nhật (1977), “Cố gắng phân loại văn học dân gian các dân tộc ít người như nó vốn tồn tại trong cuộc sống”, Tạp chí Văn học, (6).
Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa, H.
Phan Đăng Nhật (2009), Văn hóa các dân tộc thiểu số, những giá trị đặc sắc, Nxb Khoa học xã hội, H.
Bùi Mạnh Nhị chủ biên, (2001), Văn học dân gian - Những công trình nghiên cứu, Nxb Văn học, H.
Nhiều tác giả (1990), Văn hóa dân gian, những phương pháp nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, H.
Nhiều tác giả (1992), Mấy vấn đề văn hoá và phát triển văn hoá Việt Nam hiện nay, Bộ Văn hoá Thông tin và Thể thao, H.
Nhiều tác giả (1994), Lễ hội cổ truyền Lào Cai, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Nhiều tác giả (1999), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Nhiều tác giả (2000), Góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu sưu tầm văn hoá, văn nghệ dân gian, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Nhiều tác giả (2001), Triết học Mác – Lê – nin, Tập 1,2,3, sách dùng cho NCS không thuộc chuyên ngành Triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
Nhiều tác giả (2004), Văn hóa dân gian, một chặng đường nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, H.
Nhiều tác giả (2006), Thông báo văn hóa dân gian 2005, Nxb Khoa học xã hội, H.
Nhiều tác giả (2006), Giá trị và tính đa dạng của folklore Châu Á trong quá trình hội nhập (Ngô Đức Thịnh tổ chức bản thảo), Nxb Thế giới, H.
Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.
Vũ Ngọc Phan (2002), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Văn học, H.
Lê Trường Phát (1997), Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số, Luận án Tiến Sỹ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, H.
Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb Giáo dục, H.
Hoàng Phê chủ biên (1994), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, Nxb Giáo dục, H.
Mạc Phi (sưu tầm, dịch và giới thiệu, 1979), Dân ca Thái, Nxb Văn hóa, H.
Thạch Phương, Lê Trung Vũ (1995), 65 lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
Propp.V. Ia (2003), Tuyển tập (Chu Xuân Diên và nhóm dịch), Nxb Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H, tập I.
Vương Duy Quang (1994), “Vấn đề người H’Mông theo Ki tô giáo hiện nay”, Tạp chí Dân tộc học, (4).
Vương Duy Quang (2005), Văn hóa tâm linh của người Hmông ở Việt Nam truyền thống và hiện tại, Nxb Văn hóa, Thông tin và Viện Văn hóa, H.
Hoàng Việt Quân (2004), Tìm hiểu dân ca dân tộc Mông, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.
Lê Chí Quế (1975), “Việc phân loại dân ca các dân tộc ở miền Bắc nước ta”, Tạp chí Văn học, (6), tr. 54-57
Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (2001), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Lê Chí Quế (2001), Văn hóa dân gian, khảo sát và nghiên cứu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Hùng Đình Quý chủ biên (1996), Văn hoá dân tộc Mông Hà Giang, Sở Văn hoá Thông tin Thể thao tỉnh Hà Giang.
Hùng Đình Quý (2001, 2003), Dân ca Mông Hà Giang, Tập1, 2, 3, Sở Văn hoá Thông tin Hà Giang.
Hùng Đình Quý (2005), Những bài khèn của người Mông ở Hà Giang, Nxb Khoa học xã hội, H.
Nguyễn Văn Quyết (2013), Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của các cộng đồng nông nghiệp nông thôn trong quá trình phát triển các khu công nghiệp, Luận án Tiến sỹ Văn hóa học, Viện Văn hóa, H.
Rylee. G, Nicktapp (2002), “Các vấn đề về dân tộc HMông hiện nay: 10 điểm chính”, Tạp chí Dân tộc học, (số 4).
Savina. F.M (1924), Lịch sử người Mèo, Hồng Kông (Tài liệu đánh máy), Bản dịch của Trương Thị Thọ và Đỗ Trọng Quang, Tư liệu Viện dân tộc học.
Trần Hữu Sơn (1990), “Trang trí dân gian trên trang phục H’mông hoa Bắc Hà, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (6).
Thèn Sèn, Lù Dín Siềng (1975), Dân ca Giáy, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lào Cai.
Trần Hữu Sơn (1993), Hát ru ở Lào Cai - Kỷ yếu hội thảo hát ru, Viện âm nhạc và múa xuất bản, H.
Trần Hữu Sơn (1996), Văn hoá HMông, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Trần Hữu Sơn (1997), Văn hoá dân gian Lào Cai, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Trần Hữu Sơn (1999), Lễ hội cổ truyền Lào Cai, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Trần Hữu Sơn (2013), “Các xu hướng biến đổi lễ hội hiện nay và giải pháp quản lý”, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai, nguồn: http//laocai.gov.vn.
Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Lào Cai (2011-2013), Bảo tồn, phục dựng Lễ hội truyền thống các dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai, Đề tài nghiên cứu cấp tỉnh, Lào Cai.
Thào Xuân Sùng (1995), “Cần tìm hiểu phong tục tập quán đồng bào Mông để làm tốt công tác dân vận dân tộc”, Tạp chí Dân tộc học, H, (1).
Thào Xuân Sùng, (2009), Dân tộc Mông Sơn La với việc giải quyết vấn đề Tín ngưỡng, Tôn giáo hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
Trần Đình Sử (1992), Dẫn luận Thi pháp học, Nxb Giáo dục, H.
Lâm Tâm (1961), “Lịch sử di cư và tên gọi của người Mèo”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (30).
Từ Tùng Thạch (1938), Lịch sử nhân dân vùng hạ lưu sông Việt Giang, Bắc Kinh (Tư liệu đánh máy, thư viện Đại học Sư phạm Hà Nội).
Doãn Thanh, Thương Nguyễn, Hoàng Thao (1963), Truyện cổ dân tộc Mèo, Nxb Văn học, H.
Doãn Thanh (1967), Dân ca Mèo (Lào Cai), Nxb Văn học, H.
Doãn Thanh (1974), Dân ca Mèo Lào Cai, Hội Văn học Nghệ thuật Lào Cai.
Doãn Thanh, Hoàng Thao, Chế Lan Viên (1984), Dân ca HMông, Nxb Văn học, H.
Doãn Thanh, Hoàng Thao, Triều Ân (2004), Ca dao dân ca Tày, Nùng, HMông, Nxb Văn học, H.
Phùng Thị Thanh (2007), “Phân tích đối chiếu hệ thống ngữ âm – âm vị học của Tiếng Việt với tiếng Hmông và các lỗi phát âm tiếng Việt của học sinh Hmông”, Tạp chí Văn học Nghệ thuật Lào Cai (2).
Nguyễn Ngọc Thanh (2001), “Làng của người HMông ở Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, H, (1).
Tô Ngọc Thanh (2007), Ghi chép về văn hóa và âm nhạc, Nxb Khoa học xã hội, H.
Hồng Thao (1975), “Bước đầu tìm hiểu âm nhạc Mèo”, Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, H, (1).
Hồng Thao (1997), Âm nhạc dân tộc Hmông, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.
Lê Ngọc Thắng (1998), “Môi trường văn hoá H’Mông, nhân tố thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng”, Tạp chí Dân tộc học, (2).
Lê Ngọc Thắng (2001), “Mấy vấn đề về sự phát triển của phụ nữ Hmông”, Tạp chí Dân tộc học, (1).
Trần Ngọc Thêm (1994), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb TP.HCM.
Ngô Đức Thịnh (1994), “Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, (11).
Ngô Đức Thịnh chủ biên (2004), Văn hoá dân gian, một chặng đường nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, H.
Ngô Đức Thịnh, Franh Proschan đồng chủ biên (2005), Folklore thế giới – Một số công trình nghiên cứu cơ bản, Nxb Khoa học xã hội, H.
Ngô Đức Thịnh, Franh Proschan đồng chủ biên (2005), Folklore, một số thuật ngữ đương đại, Nxb Khoa học xã hội, H.
Bùi Thiết (2000), Từ điển lễ hội Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, H.
Nguyễn Kiến Thọ, Trần Thị Việt Trung (2011), “Thơ ca dân tộc Hmông thời kỳ hiện đại – Một vài đặc điểm nổi bật”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (10).
Nguyễn Kiến Thọ (2012),“Thơ ca Hmông và mạch nguồn cảm hứng”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên (8).
Nguyễn Kiến Thọ (2012),“Tư duy trực quan hình ảnh trong thơ ca Hmông thời kỳ hiện đại”, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, (213).
Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg, ngày 05/3/2007, về chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 – 2010.
Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 186/2001/QĐ-TTg, ngày 07/12/2001, về phát triển kinh tế, xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc thời kỳ 2001 – 2005.
Hoàng Thị Thủy (2012), Dân ca nghi lễ dân tộc Hmông, Luận án Tiến sỹ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, H.
Tỉnh ủy Lào Cai (2012), “Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Thông báo Kết luận số 64-TB/TW, ngày 9/3/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị 45-T/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) về một số công tác ở vùng đồng bào dân tộc Mông”, Lào Cai.
Nguyễn Mạnh Tiến (2014), Những đỉnh núi du ca, một lối tìm về cá tính H’Mông, Nxb Thế giới, H.
Bùi Xuân Tiệp (2003), LHGT và dân ca giao duyên dân tộc Mông, Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, H.
Bùi Xuân Tiệp (2005), “Bước đầu giải mã một số biểu tượng trong lễ hội Gầu tào và dân ca giao duyên dân tộc Hmông”, Tạp chí Văn hóa dân gian, 99 (3).
Đỗ Bình Trị (1978), Nghiên cứu tiến trình lịch sử của văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục, H.
Chu Quang Trứ (2001), Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, H.
Lý Cẩm Tú (1997), “Một số tập tục của người HMông xanh tỉnh Lào Cai”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (1).
Vũ Anh Tuấn chủ biên (2012), Giáo trình Văn học dân gian, Nxb Giáo dục Việt Nam, H.
Vũ Anh Tuấn (2013), “Khoa học Văn học dân gian Việt Nam đã có một sự đột phá toàn cục trong nghiên cứu, bắt đầu từ một khái niệm mới của Giáo sư Đinh Gia Khánh”, Kỷ yếu Hội thảo kỷ niệm 10 năm ngày mất cố Giáo sư Đinh Gia Khánh.
Hoàng Tiến Tựu (1997), Mấy vấn đề về nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
Uỷ ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa, Ủy ban quốc gia UNESCO của Việt Nam, Viện KHCH Việt Nam (1992), Mấy vấn đề văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay, Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao, H.
UBND tỉnh Lào Cai (2002), “Quy định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và các hoạt động tín ngưỡng tại tỉnh Lào Cai”, Công tác tư tưởng, Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ Lào Cai, (8).
UBND Tỉnh Lào Cai (2002), Báo cáo nghiệm thu đề tài xây dựng làng văn hoá du lịch ở Cát Cát, Sa Pa, Lào Cai, Đề tài nghiên cứu cấp tỉnh, Lào Cai.
UBND tỉnh Lào Cai (2009), Tình hình và công tác đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Lào Cai trong thời gian qua, Báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai.
Đặng Nghiêm Vạn (2001), Dân tộc, văn hóa, tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội, H.
Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (2002), Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt nam, Nxb Đà Nẵng.
Cư Hoà Vần, Hoàng Nam (1994), Dân tộc Mông ở Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Cư Hoà Vần (2000), Từ điển Mông – Việt, Nxb Giáo dục, H.
Bùi Lương Việt (2003), “Ngày xuân đi hội Gầu Tào”, Tạp chí Văn hoá dân tộc, (1).
Lê Trung Vũ (1975), Truyện cổ dân tộc Mèo Hà Giang tập 1, Nxb Văn hoá, H.
Lê Trung Vũ (1983), “Người Mông chống lại chủ nghĩa Đại Hán”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (3,4).
Lê Trung Vũ (1984), “Hội làng, hội lễ, tổng thuật”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, (1).
Lê Trung Vũ (1984), Truyện cổ Hmông, Nxb Văn học, H.
Lê Trung Vũ (1986), “Lễ hội - Một nhu cầu văn hoá xã hội”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (4).
Lê Trung Vũ chủ biên (1991), Lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc Bộ, Nxb Khoa học xã hội, H.
Lê Trung Vũ sưu tầm, biên soạn – Phan Thanh hiệu đính (1994), Tục ngữ và Câu đố Mông, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Lê Trung Vũ, Nguyễn Hồng Dương, Lê Hồng Lý, Lưu Kiếm Thanh (1996), Nghi lễ vòng đời người, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.
Trần Quốc Vượng (1986), “Lễ hội - Một cái nhìn tổng thể”, Tạp chí Văn hoá, (1).
Phạm Thu Yến (1995), “Đặc điểm kết cấu dân ca H’Mông”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, (12).
Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục, H.
Phạm Thu Yến chủ biên (2002), Giáo trình Văn học dân gian dành cho ngành ngữ văn hệ đào tạo từ xa, Nxb Đại học Sư phạm, H.
II/ Tiếng Trung Quốc:
诸者 (1982),《云南风韵志,苗族踩花山》,云南人民出版社.
王万荣主编 (2004),《文山苗族研究》,云南民族出版社.
马关县苗族学会编 (2009),《马关苗族》,云南民族出版社.
罗有亮 (2009),《历史现状未来:红河苗族研究》,云南民族出版社.
III/ Tiếng Anh:
Hy V. Luong (1992), Revolution in the Village: Tradition and Transformation in North Vietnam, 1925-1988, Honolulu: University of Hawaii Press.
Hy V. Luong (edited) (2003), Postwar Vietnam: dynamics of a Transforming society, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore and Rowman & Littlefield Publishers. Inc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_dan_ca_gau_plenh_va_le_hoi_gau_tao_cua_nguoi_hmong_o.doc