VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ THẮNG
ĐẶC TRƯNG NGễN NGỮ - VĂN HểA
CỦA ĐỊA DANH THANH HểA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI – 2014
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ THẮNG
ĐẶC TRƯNG NGễN NGỮ - VĂN HểA
CỦA ĐỊA DANH THANH HểA
Chuyờn ngành: Ngụn ngữ học
Mó số: 62 22 02 40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. PHẠM TẤT THẮNG
2. TS. NGUYỄN ĐĂNG SỬU
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đ
313 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 370 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Đặc trưng ngôn ngữ - Văn hóa của địa danh Thanh Hóac, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, kÕt qu¶ nªu trong luËn ¸n lµ trung thùc, cã nguån gèc xuÊt xø râ rµng.
Tác giả luận án
Vũ Thị Thắng
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
I. QUY ƯỚC VIẾT TẮT
1. Quy ước viết tắt địa danh các huyện, thị xã, thành phố và ví dụ
Chữ viết tắt
Được viết đầy đủ
B.T
Bá Thước
C.T
Cẩm Thủy
Đ.S
Đông Sơn
H.H
Hoằng Hóa
H.L
Hậu Lộc
H.Tr
Hà Trung
L.C
Lang Chánh
M.L
Mường Lát
N.T
Như Thanh
N.X
Như Xuân
Q.H
Quan Hóa
Q.X
Quảng Xương
T.P
Thành phố Thanh Hóa
T.X
Thọ Xuân
Th.H
Thiệu Hóa
TT
Thị trấn
V.L
Vĩnh Lộc
Y.Đ.
Yên Định
T.H
Thanh Hóa
VD
Ví dụ
2. Quy ước viết tắt về các loại hình địa danh
Chữ viết tắt
Được viết đầy đủ
ĐB
Đồng bằng
MN
Miền núi
ĐDĐH
Địa danh địa hình
ĐDĐVCT
Địa danh đơn vị cư trú
ĐVCTTN
Địa danh đơn vị cư trú tự nhiên
ĐVHC
Địa danh đơn vị hành chính
CTNT
Địa danh công trình nhân tạo
CTGT
Địa danh công trình giao thông
CTTL
Địa danh công trình thủy lợi
CTVH
Địa danh công trình văn hóa
CTDS
Địa danh công trình dân sinh
VĐNPDC
Địa danh vùng đất nhỏ phi dân cư
3. Quy ước viết tắt trong các bảng biểu về nguồn gốc địa danh
Chữ viết tắt
Được viết đầy đủ
HV
Hán - Việt
TTH
Tiếng Thanh Hóa
TVTD
Tiếng Việt toàn dân
TV+HV
Thuần Việt và Hán Việt
TV + TT
Thuần Việt và tiếng Thái
TV + TM
Thuần Việt và tiếng Mường
TT + TM
Tiếng Thái và tiếng Mường
KR
Không rõ
DTTS
Dân tộc thiểu số
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
1. Quy ước về cách dùng kí hiệu phiên âm
- Những phụ âm khi xuất hiện ở vị trí đầu âm tiết sẽ được kí hiệu bằng một dấu nối đặt sau kí hiệu phiên âm âm vị. Ví dụ: /b-/
- Những phụ âm và bán âm khi xuất hiện ở vị trí cuối âm tiết sẽ được kí hiệu bằng một dấu nối đặt trước kí hiệu phiên âm. Ví dụ: /-i»/, /-n/
2. Quy ước về kí hiệu Tài liệu tham khảo
- Kí hiệu Tài liệu tham khảo được để trong [ ], gồm: số thứ tự của tài liệu theo trật tự ở phần Tài liệu tham khảo; trang. Nếu nhiều trang thì số trang được ngăn cách bằng dấu gạch ngang hoặc dấu phẩy. Ví dụ: [1; 15] hoặc [3; 12-23] hoặc [56; 23 - 25, 34 - 35]
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Bảng tổng hợp tần số xuất hiện của các nhóm địa danh 45
Bảng 1.2a: Nguồn gốc ngữ nguyên của thành tố riêng trong địa danh đồng bằng 46
Bảng 1.2b: Nguồn gốc ngữ nguyên của thành tố riêng trong địa danh miền núi 46
Bảng 2.1: Mô hình cấu tạo địa danh 50
Bảng 2.2: Nguồn gốc ngữ nguyên của thành tố chung 56 trong địa danh Thanh Hóa 56
Bảng 2.3: Tổng hợp tần số xuất hiện các kiểu cấu tạo của thành tố chung 57
Bảng 2.4: Tổng hợp tần số xuất hiện các kiểu cấu tạo của thành tố riêng 66
Bảng 3.1: Tổng hợp tần số xuất hiện của các phương thức định danh 81
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Phân loại địa danh Thanh Hóa theo tiêu chí tự nhiên/không tự nhiên 44
DANH MỤC BIỀU ĐỒ
Biểu đồ 1.1. Sự phân bố các nhóm địa danh Thanh Hóa trong địa danh đồng bằng 45
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Địa danh là một loại đơn vị từ vựng. Những lí thuyết về địa danh đã được công bố trên thế giới trước đây chủ yếu có đối tượng nghiên cứu là địa danh ở các ngôn ngữ biến hình. Trong khi đó, sự tồn tại và vận động của địa danh trong mỗi ngôn ngữ bị chi phối mạnh mẽ bởi những quy luật nội tại của chính ngôn ngữ đó. Vì thế, khi vận dụng các lí thuyết trên vào nghiên cứu địa danh ở các ngôn ngữ phi hình thái như tiếng Việt đã nảy sinh một số vấn đề không phù hợp về cấu tạo, các ý nghĩa ngữ pháp về giống, số, cách trong địa danh, sự biến đổi của địa danh,... Do đó, việc nghiên cứu địa danh của các địa phương trong các ngôn ngữ cụ thể sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lí thuyết địa danh trong ngôn ngữ không biến hình nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Đây là một việc làm rất cần thiết trong hiện tại. Hơn nữa, nghiên cứu địa danh của từng địa phương, từng vùng còn có ý nghĩa thiết thực góp phần bổ sung cho bức tranh toàn cảnh về địa danh Việt Nam.
1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa từ lâu đã được khẳng định. Đó là mối quan hệ hữu cơ giữa một bên là những giá trị vật chất và tinh thần của một dân tộc và bên kia là phương tiện giao tiếp chung của dân tộc ấy. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã khẳng định: những đặc trưng của văn hóa dân tộc có ảnh hưởng và được thể hiện khá rõ trong ngôn ngữ. Ngôn ngữ, vì thế, không chỉ là phương tiện giao tiếp của cộng đồng mà còn là phương tiện bảo lưu những đặc trưng về lịch sử - văn hóa và tư duy dân tộc. Địa danh là một trong những đơn vị ngôn ngữ thể hiện mối quan hệ ấy một cách rõ nét. Nghiên cứu địa danh ở một địa phương, một vùng miền chính là góp phần làm rõ bức tranh ngôn ngữ - văn hóa, lịch sử - tộc người của địa phương ấy.
1.3. Thanh Hóa là vùng chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Trung Bộ. Những đặc trưng về địa lí tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội, ngôn ngữ, tộc người,... đã tạo nên một xứ Thanh với những sắc thái văn hóa riêng biệt. Những đặc trưng đó chắc chắn còn được lưu giữ trong địa danh. Vì thế, việc nghiên cứu những đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong địa danh Thanh Hóa thực sự hứa hẹn nhiều điều thú vị.
1.4. Là tỉnh lớn cả về diện tích và dân số, việc nghiên cứu địa danh Thanh Hóa là vấn đề phức tạp và đòi hỏi phải rất dày công. Trong khuôn khổ của một luận án, việc làm này sẽ trở nên không tưởng nếu không chia vùng, xé lẻ để thực hiện. Lê Trung Hoa đã nhận định: “Đối với những địa bàn đa ngữ, việc phân vùng địa danh để khảo sát riêng từng loại là rất quan trọng” [57; 8]. Lấy sông Mã làm trung tâm về địa bàn khảo sát, luận án tập trung nghiên cứu địa danh ở một số huyện vùng đồng bằng sông Mã và một số huyện miền núi ở Thanh Hóa. Vùng đồng bằng sông Mã là vùng trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của tỉnh Thanh Hóa từ xưa đến nay. Nghiên cứu ngôn ngữ - văn hóa của địa danh ở địa bàn này cũng chính là khai phá vào vùng đất trung tâm của địa danh người Việt ở Thanh Hóa. Vùng miền núi là địa bàn cư trú của các DTTS. Tính đa sắc tộc về văn hóa sẽ được phản ánh trong địa danh ở đây. Những đặc điểm rất riêng ấy chắc chắn được phản ánh cụ thể trong địa danh Thanh Hóa.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1. Vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới
Việc nghiên cứu địa danh trên thế giới xuất hiện muộn hơn sự định danh nhưng so với các khoa học khác lại rất sớm.
Từ thời cổ đại, trên thế giới đã có những ghi chép về địa danh. Thậm chí có một số sách còn ghi rõ hoặc thuyết minh về nguồn gốc và quá trình diễn biến của địa danh, trình bày cách đọc và lí giải lí do gọi tên các vị trí địa lí, như sự ghi chép của Ban Cố trong Hán Thư (32 - 92 sau Công nguyên), của Lệ Đạo Nguyên (466? - 527) trong Thuỷ Kinh Chú [155; 12]. Ở phương Tây, trong Thánh kinh của Thiên Chúa giáo cũng đã thu thập rất nhiều địa danh với các nguồn khác nhau. Sự thu thập đó chủ yếu nhằm mục đích truyền giáo cho cư dân trên các châu lục, các quốc gia, các vùng miền khác nhau. Những ghi chép đó như là những công trình đầu tiên, khởi nguyên cho hướng nghiên cứu địa danh ở góc độ địa lí học lịch sử.
Đến thế kỷ XIX, địa danh học mới trở thành một khoa học ở Tây Âu với các tên tuổi cùng các công trình: T.A. Gibson (1835) có Địa lí học từ nguyên: hướng đến một danh sách phân loại về các từ ngữ thường gặp, như tiền tố hoặc hậu tố, trong các phức thể của tên địa lí; Issac Taylor (1864) có Từ và các địa điểm hay sự minh hoạ có tính nguyên lai về lịch sử, dân tộc học và địa lí học; J. J. Eghi (1872) có Địa danh học; J.W. Nagh (1903) có Địa danh học,... Những công trình này ban đầu đã đưa ra các hướng nghiên cứu lí thuyết làm tiền đề cho khoa học địa danh phát triển trong thế kỷ XX. Cũng ở giai đoạn này, nhiều cuộc hội thảo có tính chất khu vực và quốc tế đã được tổ chức ở Mỹ, Australia, Anh. Nhiều tổ chức nghiên cứu về địa danh được thành lập. Năm 1890, Uỷ ban địa danh Mỹ được thành lập. Uỷ ban địa danh Thụy Điển cũng được thành lập năm 1902. Năm 1925, ở Đức đã có tạp chí chuyên ngành Nghiên cứu địa danh [155,12].
Sang thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã đưa địa danh học lên một bước phát triển mới: vừa nghiên cứu theo hướng lí thuyết vừa nghiên cứu theo hướng ứng dụng. Tiêu biểu là các công trình: Các tên gọi, một khảo sát về việc đặt tên địa điểm của George R. Stewart (1958), Thực hành địa danh học của P. E. Raper, Địa danh học, kho tri thức, các quy tắc và ngôn ngữ của Naftali Kadmon, Đi đầu trong nghiên cứu hệ thống lí thuyết về địa danh là các học giả Xô viết. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, hàng loạt các công trình địa danh học ra đời. Đó là các tác giả: E. M. Murzaev với Những khuynh hướng nghiên cứu địa danh học, Iu. A. Kapenko với Bàn về địa danh học đồng đại (1964), A. I. Popov với Những nguyên tắc cơ bản của công tác nghiên cứu địa danh, N. I. Nikonov với Các khuynh hướng nghiên cứu địa danh .v.v [92], [155].
Tiêu biểu cho những nghiên cứu về địa danh học Xô viết là các công trình Những nguyên lí của địa danh học và Địa danh là gì của học giả người Nga A. V. Superanskaja. Trong hai tác phẩm này, Superanskaja đã xem xét địa danh hoàn toàn từ góc độ ngôn ngữ học và trên các phương diện của nó. Đặc biệt, trong Địa danh là gì (1985), tác giả đã đưa ra gần như toàn bộ các vấn đề lí thuyết về địa danh ở Nga ngữ. Hàng loạt các thuật ngữ (sơn danh, thuỷ danh, phố danh,...) cùng với sự phân loại địa danh, vấn đề định nghĩa địa danh, địa danh học, chức năng, cấu tạo của địa danh, tính liên tục của địa danh, cách viết tên gọi địa lí,... đã được tác giả nghiên cứu khá sâu. Superanskaja nêu rõ: “Chỉ có bằng các phương pháp ngôn ngữ mới có thể kiểm tra những giả thuyết có liên quan đến xuất xứ của hàng loạt địa danh” [115; 3].
Cùng với những vấn đề lí thuyết, V.A. Superanskaja đã đưa ra sự phân tích vừa cụ thể, tỉ mỉ lại vừa có tính khái quát cao về địa danh. Có thể xem những vấn đề lí thuyết mà Superanskaja đưa ra đều là những vấn đề quen thuộc trong địa danh học ở Nga ngữ nói riêng và trên thế giới nói chung. Cũng vì thế, lí thuyết này được nhiều nhà địa danh học Việt Nam vận dụng.
2.2. Vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ - văn hóa của địa danh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, khoa học về địa danh thường được nghiên cứu theo ba hướng: địa lí học lịch sử, địa danh học ứng dụng và ngôn ngữ học.
Những nghiên cứu về địa danh theo hướng địa lí học lịch sử ở Việt Nam xuất hiện muộn hơn so với thế giới. Mãi đến thế kỷ XIV mới có những tác phẩm: Dư địa chí của Nguyễn Trãi (1435), Dư địa chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821). Chi tiết hơn một chút có Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, Phương đình dư chí của Nguyễn Siêu (1900), Sử học bị khảo (mục Địa lí khảo thượng, hạ) của Đặng Xuân Bảng, Ô Châu cận lục của Dương Văn An, Đại Nam nhất thống chí,... Theo hướng này, thời kì hiện đại có công trình Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh (1964).
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, việc nghiên cứu địa danh chuyển sang dạng khảo sát, tập hợp các hệ thống địa danh Việt Nam theo hướng ứng dụng. Những công trình khảo sát công phu phải kể đến là: Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra) do Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, Danh mục các làng xã Bắc Kỳ (Nomenclature des communues du Tonkin) của Ngô Vi Liễn (1928),... Những công trình này là những tập hợp đơn giản, thuần tuý các địa danh hành chính, rất thuận tiện cho việc tra cứu. Từ đó cho đến nay, hàng loạt các tài liệu về địa danh được tập hợp dưới dạng sổ tay địa danh. Có thể xem đây là nguồn tư liệu quý giá về địa danh Việt Nam theo hướng nghiên cứu của địa danh học ứng dụng.
Đến những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, địa danh Việt Nam mới được xem xét, nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ học. Năm 1966, Hoàng Thị Châu với bài viết Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông đã là người đưa “nhát cuốc” đầu tiên khai phá vùng đất hứa hẹn nhiều tài nguyên của địa danh Việt Nam dưới góc độ ngôn ngữ học. Bằng phương pháp nghiên cứu so sánh - lịch sử, với những dẫn liệu xác đáng, tác giả đã đưa ra những luận điểm thuyết phục về việc lí giải nguồn gốc các địa danh sông Việt Nam. Theo đó, các yếu tố có mặt trong một số địa danh sông ở Việt Nam và Đông Nam Á đều có nghĩa liên quan đến nước [46; 130]. Từ đó có thể suy rộng ra, không chỉ có những địa danh khảo sát trong bài viết mà cả hệ thống địa danh sông ở Việt Nam nói chung đều có nghĩa liên quan đến nước dù nguồn gốc ngữ nguyên của chúng khác nhau. Điều đó có nghĩa là những địa danh sông ngày nay có thể đều được chuyển hóa từ những danh từ chung (thành tố chung) có nghĩa là nước mà thành.
Năm 1976, Trần Thanh Tâm với bài Thử bàn về địa danh Việt Nam [116] đã sơ lược hình dung về bức tranh địa danh ở Việt Nam từ góc độ địa - văn hóa. Từ góc nhìn này, tác giả đề cập đến các vấn đề như là những gợi ý ban đầu cho một hướng nghiên cứu về địa danh: sơ lược nghiên cứu địa danh ở Việt Nam, quy luật phát triển của địa danh, các loại hình địa danh và mấy đặc điểm về địa danh Việt Nam. Đáng chú ý là ở nội dung về quy luật phát triển của địa danh, tác giả đã nêu ra một số nguyên nhân ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của địa danh. Tuy nhiên, ở nội dung phân loại, do không xây dựng tiêu chí rõ ràng nên sự phân chia thành các loại hình địa danh chưa thống nhất và phù hợp.
Tiếp tục hướng nghiên cứu này, đến những năm của thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, các luận án nghiên cứu địa danh ở các địa phương của Lê Trung Hoa (1990), Nguyễn Kiên Trường (1996) mới thực sự trở thành dấu mốc mới cho nghiên cứu địa danh ở Việt Nam với tư cách là một bộ môn của khoa học ngôn ngữ. Trong công trình Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh (1991), Lê Trung Hoa đã đưa ra một số vấn đề lí thuyết làm cơ sở cho việc nghiên cứu và phân tích địa danh ở Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, những đặc điểm của địa danh vùng đồng bằng Nam Bộ được làm sáng rõ. Năm 1996, Nguyễn Kiên Trường đi vào nghiên cứu địa danh Hải Phòng. Ở đây, một số vấn đề lí thuyết như khái niệm và chức năng của địa danh được bổ sung. Một hệ phương pháp nghiên cứu địa danh được xác định gồm hai nhóm: nhóm phương pháp thu thập và xử lí địa danh và nhóm các phương pháp nghiên cứu. Vì thế, đặc điểm địa danh vùng biển Hải Phòng đã được tác giả chỉ ra trong mối liên hệ và so sánh với địa danh của các địa phương khác [155].
Năm 2000, không đi sâu vào nghiên cứu tỉ mỉ địa danh của từng địa phương, Nguyễn Văn Âu trong “Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam” sơ lược đưa ra những vấn đề của địa danh học. Đó là: xác định đối tượng nghiên cứu của địa danh học, các phương pháp và ý nghĩa của việc nghiên cứu địa danh,... Trong mục Đặc điểm của địa danh Việt Nam, tác giả đã chỉ ra một số những đặc điểm về nguyên tắc đặt tên, sự biến đổi của địa danh, phân loại và phân vùng địa danh như là những phác hoạ ban đầu cho bức tranh địa danh Việt Nam. Tuy nhiên, ở mục phân vùng địa danh Việt Nam, tác giả lại sử dụng phương pháp của địa lí học khi nghiên cứu một số địa danh cụ thể.
Sang thế kỷ XXI, từ năm 2004 đến nay, nhiều luận án đã nghiên cứu về địa danh của các địa phương. Từ Thu Mai (2004) nghiên cứu đặc điểm của địa danh Quảng Trị. Trần Văn Dũng (2005) sử dụng phương pháp so sánh - lịch sử khi nghiên cứu các địa danh có nguồn gốc dân tộc thiểu số ở Dak Lăk. Phan Xuân Đạm (2006) khảo sát được một số lượng lớn các địa danh ở Nghệ An và chỉ ra được đặc điểm và giá trị nghệ thuật của địa danh trong ca dao Nghệ Tĩnh. Nguyễn Văn Loan (2012) khảo sát và mô tả địa danh Hà Tĩnh trên cơ sở kế thừa những vấn đề lí luận của các công trình đi trước. Trần Văn Sáng (2013) lần đầu tiên nghiên cứu “địa danh có nguồn gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế”.
Ngoài những công trình trên, một số đề tài các cấp của một số tác giả đã tiến hành nghiên cứu địa danh ở các địa phương khác như Nghiên cứu địa danh Quảng Nam. Trong công trình này, trên cơ sở những lí thuyết của các học giả đi trước, tác giả đã làm rõ thêm một số vấn đề cho địa danh học Việt Nam: đặc điểm ngữ âm, đặc điểm ngữ nghĩa, đặc điểm ngữ pháp trong địa danh, vấn đề chuẩn hóa địa danh,... Hướng nghiên cứu này đã hoàn toàn sử dụng các phương pháp mô tả của từ vựng học. Ngoài ra, tác giả đã bổ sung thêm một số vấn đề lí thuyết mà ở các công trình của các tác giả khác chưa có. Đó là các vấn đề về địa danh trong ngôn ngữ học đại cương như: địa danh trong các quốc gia đa ngôn ngữ, địa danh trong các ngôn ngữ chưa có chữ viết,...[92].
Đáng chú ý trong các nghiên cứu về địa danh ở Việt Nam là một hệ thống các công trình của tác giả Lê Trung Hoa. Năm 2006, Lê Trung Hoa đã đưa ra Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (Địa danh thành phố Hồ Chí Minh) và Địa danh học Việt Nam. Đây có thể xem là công trình tổng hợp những kết quả của quá trình nghiên cứu dài lâu của Lê Trung Hoa về địa danh Việt Nam. Các công trình trên đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản của địa danh Việt Nam, từ khái niệm về địa danh học, phân loại địa danh, vị trí của địa danh trong ngôn ngữ học cho đến các vấn đề nguyên nhân của sự ra đời và mất đi của địa danh,...
Gần đây, khi những lí thuyết của ngôn ngữ học hiện đại thế giới có những bước tiến đáng kể, các nhà ngôn ngữ học đã có sự quan tâm thích đáng đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa. Nhiều học giả Việt Nam trên cơ sở kế thừa, vận dụng và phát triển các lí thuyết đó đã cho ra mắt một số công trình nghiên cứu về tiếng Việt từ góc độ nghiên cứu ngôn ngữ - văn hóa. Các tác giả đã đi theo ba hướng tiếp cận: một là cách tiếp cận của từ nguyên học (Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Thị Châu, Trần Trí Dõi, Phạm Đức Dương, ...); hai là cách tiếp cận của dân tộc - ngôn ngữ học (Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Thúy Khanh,...); và ba là cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận (Lý Toàn Thắng,...) [46].
Theo hướng nghiên cứu thứ nhất, Hoàng Thị Châu (1964) có Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông, Vài nét về tổ chức xã hội Văn Lang qua tài liệu ngôn ngữ học,... Nguyễn Kim Thản (1993) với Sự phản ánh một nét văn hóa vật chất của người Việt vào ngôn ngữ, Nguyễn Tài Cẩn (2001) có bài Về tên gọi con Rồng của người Việt [59],
Theo hướng nghiên cứu thứ hai có thể kể đến các công trình về ngôn ngữ - văn hóa, trong đó có Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy của tác giả Nguyễn Đức Tồn. Trong công trình này, những tiền đề lí thuyết cho việc nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa đã được tác giả trình bày một cách hệ thống và thấu đáo. Tiếp theo, những đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của tiếng Việt trên cơ sở so sánh với tiếng Nga và một số ngôn ngữ khác đã được nghiên cứu một cách sâu sắc. Những đặc trưng văn hóa của ngôn ngữ dân tộc được thể hiện cụ thể trong các lớp từ cơ bản tiêu biểu của tiếng Việt. Chúng tôi coi cách tiếp cận này cũng là hướng nghiên cứu cơ bản và vận dụng các lí thuyết đó để khai thác “đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa”, đặc biệt là trong việc mô tả những đặc điểm định danh của địa danh.
Theo hướng nghiên cứu thứ ba có thể kể đến công trình Ngôn ngữ học tri nhận - từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt (2005) của tác giả Lý Toàn Thắng nghiên cứu ngôn ngữ từ góc độ ngôn ngữ học - tri nhận. Công trình này dù không trực tiếp nghiên cứu ngôn ngữ - văn hóa nhưng những gì mà tác giả đưa ra chính là những đặc trưng của tư duy dân tộc. Điều đó đã làm sáng rõ một vấn đề: chính tư duy là cội nguồn làm nên những nét khác biệt về văn hóa hay là những đặc trưng văn hóa dân tộc.
Ngoài ra, các bài viết khác đáng được lưu tâm là: Về một vài địa danh tên riêng gốc Nam Đảo trong vùng Hà Nội xưa và Tên gọi sông Hồng: dấu tích biểu hiện nét văn hóa đa dạng trong lịch sử người Việt của Trần Trí Dõi (2001), Một số nhận xét về tên phố Hà Nội có chữ “Hàng” (nhìn từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa) của Hà Quang Năng (2001) [59],... Những bài viết này thực sự là những định hướng quý báu cho chúng tôi về phương pháp và thao tác nghiên cứu cũng như hướng tiếp cận địa danh từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa.
Như vậy, ngoài những thành công của hướng nghiên cứu địa lí học lịch sử về địa danh, từ góc độ ngôn ngữ học, những vấn đề về địa danh và ngôn ngữ - văn hóa của địa danh vẫn còn được tiếp tục nghiên cứu cả ở Việt Nam và trên thế giới. Địa danh luôn gắn với địa phương. Các vấn đề lí thuyết về địa danh phải được soi sáng bằng việc nghiên cứu địa danh ở các địa bàn cụ thể. Do đó, nghiên cứu địa danh ở các địa phương cụ thể đang trở nên rất cần thiết để hoàn thiện bức tranh ngôn ngữ - văn hóa về địa danh Việt Nam và hoàn thiện hệ thống lí thuyết địa danh học trong ngôn ngữ đơn lập nói riêng và địa danh học nói chung.
2.3. Nghiên cứu ngôn ngữ - văn hóa trong địa danh Thanh Hóa
Là một vùng đất cổ với bề dày về truyền thống lịch sử - văn hóa, Thanh Hóa là một trong những địa phương được nhiều học giả thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau của trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều hội thảo quốc gia và quốc tế về các vấn đề lịch sử - văn hóa, về vùng đất và con người xứ Thanh đã được tổ chức. Địa danh ở Thanh Hóa vì thế cũng được xem xét, nghiên cứu ở những góc độ này.
Từ góc độ địa lí học lịch sử, địa danh Thanh Hóa một mặt được nghiên cứu trong các địa dư, địa chí như Lịch triều hiến chương loại chí, Hoàng Việt dư địa chí của Phan Huy Chú, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định, Đại Việt địa dư toàn biên của Phương đình Nguyễn Văn Siêu, Đại Nam nhất thống chí do Á Nam Trần Tuấn Khải phiên dịch,... và trong các địa bạ, địa dư, địa chí của các làng, xã, huyện và tỉnh. Mặt khác, địa danh Thanh Hóa cũng được đề cập trong các tài liệu, các truyền thuyết về các sự kiện và nhân vật lịch sử của các triều đại: Lê Đại Hành và thời Tiền Lê, về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, về Hồ Quý Ly và thành Nhà Hồ, về chúa Trịnh và kinh đô kháng chiến Vạn Lại - Yên Trường trong thời kì Lê Trung hưng, về chúa Nguyễn, vương triều Nguyễn và Gia Miêu trang và về nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử khác. Ngoài ra, địa danh Thanh Hóa còn được nhắc đến trong các huyền thoại về các vị công thần có công lập làng mở ấp ở Thanh Hóa , trong những nghiên cứu về các làng nghề truyền thống của xứ Thanh. Trong đó, loại hình được nghiên cứu nhiều nhất là địa danh làng.
Năm 1990, hội thảo về Văn hóa làng Thanh Hóa được tổ chức. Trong cuộc hội thảo này, tác giả Nguyễn Kim Lữ đã đưa ra con số thống kê là 24% của 1792 làng trong tên gọi có yếu tố “kẻ” [158; 73-74]. Cũng trong thời gian này, các tác giả Hoàng Anh Nhân và Lê Huy Trâm lần đầu tiên ra mắt công trình Khảo sát văn hóa làng ở Thanh Hóa. Trong công trình này, tác giả đã đưa ra con số thống kê về các làng nghề, làng văn hóa tiêu biểu của xứ Thanh như là những dữ liệu quan trọng để phục vụ kế hoạch xây dựng làng văn hóa trong thời kì hiện đại [101].
Năm 2000, công trình Tên làng xã Thanh Hóa (2 tập) của Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa được xuất bản. Mục đích của cuốn sách là “bước đầu hệ thống, giới thiệu tên các làng, xã trên đất Thanh Hóa cùng một số diên cách và dấu vết lịch sử” [9] tiện cho việc tra cứu. Và đúng như mục đích, các tác giả chỉ làm thao tác thống kê tên các làng xã Thanh Hóa hiện nay với những thông tin về vị trí, về diện tích, dân số và sự thay đổi tên gọi,... của các làng xã Thanh Hóa từ trước đến năm 2000.
Địa danh Thanh Hóa cũng được nghiên cứu trong các địa chí của các huyện như: Địa chí huyện Hậu Lộc, Địa chí huyện Hoằng Hóa, Địa chí huyện Vĩnh Lộc, Địa chí huyện Thọ Xuân,... Năm 2000, địa danh ở Thanh Hóa cũng được xem xét trong Địa chí Thanh Hóa. Tuy nhiên, trong công trình này, các tác giả tìm hiểu địa danh trong một giới hạn nhất định để giới thiệu về đất và người xứ Thanh thông qua các địa danh của các địa phương cụ thể.
Từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa, địa danh ở Thanh Hóa được nghiên cứu lần đầu tiên ở bài viết “Có một làng quê là Kẻ Rỵ” của Nguyễn Quang Hồng [60]. Trong bài viết, tác giả đã dẫn cách giải thích nghĩa của yếu tố “kẻ” trong “Từ điển Việt - Bồ - La” của A. De Rhodes làm cơ sở để nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa địa danh Kẻ Rỵ. Theo đó, Nguyễn Quang Hồng, bằng những trực giác về ngôn ngữ, đã lí giải: Kẻ Rỵ là tên gọi có liên quan đến nghề làm thừng truyền thống của địa phương.
Năm 2009, đề tài cấp liên ngành Từ điển địa danh Thanh Hóa đã thống kê được hơn 7000 mục địa danh Thanh Hóa . Mục đích của đề tài là khảo sát được hệ thống các địa danh ở Thanh Hóa để biên tập thành từ điển. Với mục đích đó, địa danh ở đây một mặt được xem xét như là những chỉ dẫn về các thông tin vị trí địa lí, dân số, đặc điểm lịch sử - văn hóa nổi bật; mặt khác từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa, một số thông tin khác cũng được điểm qua và có thể coi là những tìm hiểu bước đầu như: miêu tả cấu tạo địa danh, nghĩa của địa danh theo phương diện từ nguyên học dân gian,... [93]. Vì phạm vi khảo sát rộng lại là một địa bàn có số lượng địa danh khổng lồ nên đề tài mới chỉ dừng lại ở cấp độ khảo sát một cách tương đối các địa danh ở Thanh Hóa.
Tóm lại, cho đến thời điểm hiện tại, địa danh Thanh Hóa vẫn cần có một sự nghiên cứu sâu hơn, khái quát hơn từ phương diện ngôn ngữ - văn hóa.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Thông qua việc thu thập, phân loại, miêu tả và phân tích ngữ liệu, luận án nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa trên các phương diện: cấu tạo, phương thức định danh, ý nghĩa, nguồn gốc và sự biến đổi của địa danh. Trên cơ sở đó phân tích vai trò của địa danh đối với văn hóa, sự chi phối, tác động của các yếu tố văn hóa đối với sự ra đời và tồn tại của địa danh Thanh Hóa.
- Kết quả của luận án góp phần tìm hiểu thêm về truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời của xứ Thanh. Từ đó, giáo dục tình yêu quê hương xứ sở cho người dân địa phương, hình thành ý thức bảo vệ và gìn giữ các giá trị truyền thống qua địa danh. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng để phục vụ phát triển du lịch, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án giải quyết các vấn đề sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lí thuyết liên quan đến địa danh làm cơ sở cho việc khai thác địa danh Thanh Hóa. Đó là các vấn đề định nghĩa và phân loại địa danh, các phương thức định danh, ý nghĩa của địa danh,... Xác định mối quan hệ giữa văn hóa và địa danh trên phương diện lí luận.
- Điền dã, khảo sát, thu thập thực tế hệ thống địa danh tiếng Việt ở Thanh Hóa thuộc các loại hình đối tượng địa lí khác nhau được phân bố ở hai tiểu vùng địa hình: vùng đồng bằng sông Mã và vùng miền núi.
- Thống kê, phân loại, miêu tả và phân tích các cứ liệu đã thu thập được để xác định các đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa thể hiện trong các phương diện khác nhau của địa danh Thanh Hóa, cố gắng trong khả năng có thể để tìm hiểu các tầng địa danh ẩn sâu bên dưới lớp địa danh bề mặt.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tên gọi của các đối tượng địa lí tự nhiên như sông, suối, hồ, đầm, núi, đồi,... và của các đối tượng địa lí nhân văn như cầu, cống, làng, bản, thôn, xóm,... ở Thanh Hóa (đến năm 2010).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khảo sát: Địa bàn khảo sát chủ yếu là vùng đồng bằng sông Mã ở Thanh Hóa, gồm các huyện, thành phố: Vĩnh Lộc, Thọ Xuân, Yên Định, Thiệu Hóa, Đông Sơn, Hà Trung, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, thành phố Thanh Hóa và các huyện miền núi: Cẩm Thủy, Bá Thước, Lang Chánh, Như Thanh, Như Xuân,... Số lượng địa danh trong kết quả khảo sát không phải tương đương theo tỉ lệ 1:1 với các đối tượng địa lí tồn tại ở thực tế khách quan.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Lần đầu tiên địa danh Thanh Hóa được nghiên cứu một cách quy mô theo hướng tiếp cận của ngôn ngữ - văn hóa. Luận án một mặt sẽ mô tả toàn diện bức tranh về địa danh Thanh Hóa trên các phương diện: cấu tạo, phương thức định danh, ý nghĩa, đặc trưng phương ngữ, nguồn gốc và sự biến đổi của địa danh. Mặt khác, từ việc mô tả và phân tích trên, luận án chỉ rõ các đặc trưng văn hóa và biểu hiện của nó trong địa danh Thanh Hóa.
5.2. Từ những tư liệu thực tế về địa danh Thanh Hóa và kết quả đạt được hi vọng đây sẽ là nguồn ngữ liệu cần thiết, giúp ích cho các công trình nghiên cứu sau này về lịch sử - văn hóa, về phương ngữ Thanh Hóa và về sự phát triển của tiếng Việt. Bởi “muốn nghiên cứu lịch sử tiếng Việt thì cần tìm các di tích hóa thạch trong các phương ngữ” [36; 259] trong đó có địa danh.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp miêu tả ngôn ngữ học
“Phương pháp miêu tả là hệ thống những thủ pháp nghiên cứu được vận dụng để thể hiện đặc tính của các hiện tượng ngôn ngữ trong một giai đoạn phát triển nào đó của nó.” [50; 422]. Phương pháp miêu tả được chia thành hai thủ pháp: thủ pháp giải thích bên ngoài và thủ pháp giải thích bên trong. Thủ pháp giải thích bên trong sử dụng các thao tác phân loại, hệ thống hóa, định lượng thống kê và các thủ pháp phân tích, tổng hợp khi nghiên cứu các thành tố trong cấu tạo địa danh, xác định các phương thức định danh, ý nghĩa các thành tố và sự biến đổi của địa danh. Bên cạnh đó, sự ra đời và tồn tại của địa danh chịu sự tác động mạnh mẽ của điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội. Do vậy, thủ pháp giải thích bên ngoài cũng được vận dụng khi đặt địa danh trong mối quan hệ với các yếu tố địa lí tự nhiên, lịch sử, xã hội, văn hóa tộc người,... và thao tác so sánh địa danh Thanh Hóa với địa danh của các địa phương khác. Các phương diện của địa danh được xem xét, phân tích, miêu tả một cách thấu đáo và chính xác hơn khi vận dụng theo thủ pháp này.
6.2. Phương pháp điền dã ngôn ngữ học
Phương pháp điền dã ngôn ngữ học được vận dụng khi thu thập ngữ liệu. Khảo sát, thu thập ngữ liệu về địa danh Thanh Hóa được tiến hành theo nguyên tắc “thu hẹp đào sâu để chọn mẫu điển hình và mở rộng phổ tra để tìm hệ thống” [152; 8]. Để có nguồn tư liệu, chúng tôi tiến hành thu thập từ hai nguồn chính: điều tra điền dã thực tế và điều tra khảo sát qua các tài liệu về địa phương.
- Điền dã là thủ pháp điều tra trực tiếp các địa danh có trên địa bàn trong thời điểm hiện tại (tính đến 2010). Trình tự được tiến hành theo các bước: xây dựng mẫu phiếu, xác định các điểm khảo sát, thực địa, thu thập thông tin theo mẫu phiếu bằng cách gặp gỡ phỏng vấn trực tiếp người dân, trưởng thôn, cán bộ văn hóa của các địa phương, người cao tuổi,...
- Bên cạnh nguồn tư liệu điền dã, chúng tôi còn thu thập tư liệu qua các tài liệu về địa phương. Đối với việc thu thập ngữ liệu...huộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo thành các đơn vị ngôn ngữ người yếu tố nội dung của giao tiếp” [Dẫn theo 144;165].
Ở Việt Nam, khái niệm “định danh” được hầu hết các nhà từ vựng học nhắc tới. Chẳng hạn, Nguyễn Thiện Giáp đã cho rằng “Gọi tên là sự đánh dấu một đối tượng, một hiện tượng, một quá trình,... Sự đánh dấu này thường dựa vào một hoặc một vài dấu hiệu có tính chất duyên cớ của đối tượng, hiện tượng thực tế” [48; 376]. Nói cách khác, đó là việc sử dụng các yếu tố ngôn ngữ đã có theo những cách khác nhau để gọi tên sự vật.
Việc xác định cơ sở của tên gọi là đi tìm lí do của sự gọi tên. Trong ngôn ngữ nói chung và địa danh nói riêng, khi một sự vật được định danh, con người phải dựa vào những đặc điểm cụ thể của nó. “Trong trạng thái ngôn ngữ hiện nay, nguyên tắc tạo thành tên gọi là nguyên tắc có lí do” [21; 166]. Sự vật có rất nhiều đặc điểm, song chỉ những đặc điểm nào có giá trị nhận diện, phân biệt nó với những sự vật khác cùng loại mới trở thành những đặc trưng của sự vật. Khi một đặc trưng được trở thành tên gọi thì cái tên gọi đó sẽ đại diện cho cả cái tổng thể sự vật, “cái đặc điểm ban đầu này (của sự vật - VTT) sẽ bị quên đi” [21; 166].
Việc lựa chọn các đặc trưng của sự vật để định danh “phụ thuộc không phải vào cách thức trừu tượng hóa, mà là vào những điều kiện thực tiễn cụ thể (quá trình lao động, văn hóa, truyền thống, hoàn cảnh địa lí,...)” [G.V. Cônsansky, dẫn theo 144; 190]. Điều kiện tự nhiên, lịch sử - văn hóa, tâm lí, xã hội,... chính là môi trường ra đời và tồn tại hay chính là ngữ cảnh của địa danh. Vì vậy, tên gọi của một sự vật có quan hệ mật thiết với việc thể hiện đặc trưng văn hóa của từng vùng miền và của mỗi dân tộc. Ngay cả việc lựa chọn những đặc trưng để định danh cũng không giống nhau giữa các ngôn ngữ, giữa các tộc người “Mỗi ngôn ngữ có thể biểu lộ thiên hướng lấy đặc trưng có tính chất nhất định để làm cơ sở gọi tên. Do đó, giá trị của cùng một đặc trưng trong từng ngôn ngữ là không như nhau” [141; 190].
Các phương thức định danh trong địa danh cũng không nằm ngoài những quy luật định danh trong ngôn ngữ nói chung. Tuy nhiên, nếu định danh trong ngôn ngữ là định danh cho một lớp sự vật thì định danh trong địa danh là định danh cho từng cá thể sự vật. Sự định danh này chịu sự tác động trực tiếp của đặc điểm tự nhiên, tâm lí, văn hóa, xã hội của địa phương và tại thời điểm mà địa danh ra đời. Điều đó làm nên cảnh huống của địa danh.
1.2.4.2. Về các phương thức định danh trong địa danh
a. Phương thức định danh trong địa danh
Phương thức định danh trong địa danh chính là “các phương thức đặt địa danh” mà Lê Trung Hoa đã nghiên cứu [57; 65]. Xác định phương thức định danh cũng chính là đi tìm các lí do, các cơ sở của việc gọi tên trong địa danh. “Một địa danh (...) được cấu tạo từ loại từ nào và tại sao một đối tượng địa lí nào đó lại được được đặt tên như vậy? (...) Câu hỏi đầu tiên thuộc lĩnh vực ngôn ngữ (...) Câu hỏi thứ hai thuộc về văn hóa - lịch sử, có liên quan tới tâm lí của quá trình sáng tạo và tiếp thu tên gọi, với những đánh giá xã hội cho từng sự việc, sự kiện, cá nhân” [115; 65].
Trong những nghiên cứu về địa danh Việt Nam trước đây, phương thức định danh khi thì được xem xét trong “Đặc điểm cấu tạo” [154], [85], khi được nghiên cứu trong mối quan hệ với ý nghĩa của địa danh [89]. Nguyễn Kiên Trường cho rằng: việc “thuật ngữ hóa” “cách đặt tên” trong địa danh học “chưa thống nhất: phương thức cấu tạo, cách cấu tạo tên gọi, luật định danh hoặc “nguyên tắc đặt tên”, hay “các phương thức đặt địa danh”” và kết luận: phương thức định danh gồm hai nội dung chủ yếu: “Việc đánh giá (hoặc ý đồ gán cho) các thuộc tính của đối tượng địa lí cả về nội dung lẫn hình thức” và “các phương thức tạo lập hay cách cấu tạo để có tên gọi sau khi lựa chọn các thuộc tính đặc điểm của đối tượng hay gán cho đối tượng một thuộc tính nào đó” [154; 53 - 54]. Nguyễn Văn Loan [85] có cùng quan điểm với Nguyễn Kiên Trường khi xác định “thao tác định danh gồm: Thứ nhất, xác định những đặc tính chung để phân nhóm, tức là lựa chọn thành tố chung (danh từ chung) cho đối tượng (ví dụ: làng, thôn, cầu, bãi, khu du tích); Thứ hai, lựa chọn những đặc tính riêng (nét riêng) để xác lập thành tố riêng (tên riêng) cho đối tượng” [85; 44]. Chúng tôi không tán thành cách nhập “hai trong một” của các tác giả này. Bởi cấu tạo địa danh thuộc cấu trúc bề mặt, định danh thuộc cấu trúc bề sâu của địa danh. Do vậy, hai phương diện này phải được nghiên cứu bởi hai nội dung lí thuyết khác nhau. Nghiên cứu cấu trúc hình thức của địa danh là xem xét địa danh ở phương diện cấu tạo ngữ pháp. Trong khi đó, nghiên cứu định danh là nghiên cứu lí do gọi tên và những vấn đề liên quan đến chủ thể và đối tượng định danh. Về vấn đề này, chúng tôi cùng quan điểm với tác giả Từ Thu Mai [89]. Phương thức định danh có mối quan hệ chặt chẽ với cấu tạo địa danh, là cơ sở để quyết định đặc điểm cấu tạo của địa danh.
Từ Thu Mai khi “nghiên cứu địa danh Quảng Trị” đã nhận xét: “Giữa phương thức định danh và ý nghĩa của địa danh có mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ theo kiểu sự tác động và hệ quả, kết quả của sự tác động”. Từ đó, tác giả cho rằng địa danh Quảng Trị thường sử dụng hai phương thức là phương thức cấu tạo mới và phương thức chuyển hóa trong [89; 101- 102]. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm này. Tuy nhiên, phương thức cấu tạo mới được chúng tôi gọi là phương thức tự tạo như cách gọi của Lê Trung Hoa. Những quan niệm khác nhau về phương thức định danh cũng đủ để thấy được tính chất cũng như vai trò quan trọng của vấn đề này trong nghiên cứu địa danh.
Về phân loại các phương thức định danh, chúng tôi cho rằng địa danh Thanh Hóa cũng như địa danh Việt Nam được định danh theo 3 phương thức: tự tạo, chuyển hóa và vay mượn với sự đa dạng của các cách định danh. Riêng về phương thức vay mượnn các tác giả có những cách hiểu khác nhau. Theo Nguyễn Kiên Trường, địa danh Hải Phòng vay mượn bằng hai cách: “dùng địa danh ngoài địa bàn và nhân danh để đặt địa danh” [154; 85]. Nguyễn Văn Loan xác định: “Cách thức tạo lập địa danh theo phương thức vay mượn ở Hà Tĩnh chủ yếu diễn ra theo dạng 3 dạng: thứ nhất mượn địa danh ở địa phương khác (trong và ngoài nước) để đặt tên; thứ hai mượn nhân danh để đặt tên địa danh; thứ ba mượn một địa danh có tính điển hình của một khu vực để đặt tên cho các đối tượng tồn tại bên cạnh” [85; 88]. Chúng tôi cho rằng, ngoài hai cách định danh tự tạo và chuyển hóa, phương thức vay mượn trong địa danh Thanh Hóa được tạo từ ba nguồn: mượn nhân danh, mượn từ các địa phương khác và mượn từ các ngôn ngữ khác.
b. Mối quan hệ giữa phương thức định danh và cấu tạo địa danh
Nguyễn Kiên Trường khi xem xét đặc điểm cấu tạo của địa danh Hải Phòng đã xem phương thức định danh trong địa danh bao gồm hai nội dung chủ yếu: cách “đánh giá và lựa chọn thuộc tính hay ý đồ gán những thuộc tính, ý niệm nào đó cho đối tượng” để đặt tên cho đối tượng và “các phương thức tạo lập hay cách cấu tạo để có tên gọi”. Theo đó, khi nghiên cứu phương thức định danh “có hai loại công việc: a) Nghiên cứu ý nghĩa từ vựng, hình thái bên trong hay cấu trúc bề sâu của từ hoặc ngữ cấu tạo nên địa danh. b) Nghiên cứu các mối quan hệ ngữ pháp, cấu trúc nội bộ của địa danh nếu đó là từ đa tiết và các phương thức chuyển hóa, vay mượn,... gồm cả từ đơn tiết hay địa danh ký hiệu” [154; 53-54]. Là một đơn vị từ vựng, địa danh cũng phải được xem xét giống như các đơn vị từ vựng khác ở hai phương diện: hình thái bên ngoài và hình thái bên trong.
Hình thái bên ngoài của địa danh là cấu tạo của nó với các thành tố và yếu tố trong cấu trúc hình thức của nó. Hình thái bên trong chính là lí do gọi tên, nguồn gốc, ý nghĩa của địa danh. Cả hình thái bên ngoài và hình thái bên trong đều chịu sự chi phối mạnh mẽ của đặc điểm loại hình ngôn ngữ, của tâm lí, văn hóa và lịch sử xã hội. Chẳng hạn, địa danh núi Voi, xét về cấu tạo, là địa danh có cấu tạo đơn còn xét về phương thức định danh thì cách định danh này mang bản chất của phương thức ẩn dụ, tức là dựa vào sự liên tưởng của con người về đối tượng.
Trong nhiều địa danh, cách thức định danh cũng chính là cách cấu tạo địa danh. Chẳng hạn, địa danh làng Xuân Hưng (Xuân Khang, N.T) được tạo nên bằng cách ghép các yếu tố của địa danh Quảng Hưng và Xuân Khang. Làng Đồng Hải (Hải Long, N.T) được ghép từ các yếu tố của địa danh xã Hoằng Đồng (Hoằng Hóa) và xã Hải Long (N.T),... Do vậy, trong những địa danh này, sự phân biệt phương thức định danh và phương thức cấu tạo cũng chỉ có tính chất tương đối.
1.2.5. Về vấn đề ý nghĩa của địa danh
1.2.5.1. Khái quát về ý nghĩa của địa danh
Vấn đề ý nghĩa của tên riêng nói chung và địa danh nói riêng được nghiên cứu khá nhiều, có nhiều ý kiến trái chiều và dường như chưa có hồi kết.
S.A. Gardinar coi địa danh chỉ là những nhãn mác khi xác định địa danh là “một từ hoặc cụm từ được nhận ra thông qua sự biểu thị hoặc nhắm tới sự biểu thị một vật hay các sự vật mà nó chỉ ra (...) mà không hề quan tâm đến bất kì ý nghĩa nào mà nó gắn với hình thức âm thanh ban đầu, hoặc nhận biết nó thông qua sự liên kết hay các vật đã nói” [Dẫn theo 111; 17]. Những tên gọi này gắn vào đối tượng như nhãn mác bằng âm thanh, không mang theo trong mình bất cứ chức năng hay ý nghĩa nào khác. Ở đây, S.A. Gardinar đã thực sự coi trọng chức năng đánh dấu đối tượng của địa danh mà không hề quan tâm đến những giá trị khác của nó trong khi bản thân địa danh cũng là một đơn vị ngôn ngữ như những đơn vị khác.
Tương tự S.A. Gardinar, nhà nghiên cứu Trung Quốc Trần Phú Huệ Quang đưa ra ý kiến: “Địa danh khác với từ vựng thông thường, chúng có thể mất đi hàm nghĩa vốn có trong kho ngôn ngữ, chủ yếu là loại ký hiệu chỉ định đặc biệt” [108]. Theo cách hiểu của tác giả này, địa danh vốn là những đơn vị từ vựng, khi tham gia vào địa danh, chúng đã bỏ lại tất cả những ý nghĩa vốn có ban đầu, chỉ mang theo hình thức âm thanh để làm những “ký hiệu chỉ định đặc biệt” mà thôi.
Ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Hoàng Phê đã phủ định sự tồn tại ý nghĩa trong tên riêng. Ông viết: “Tên riêng là những ký hiệu thuần túy không có nghĩa. Có những tên riêng có nghĩa thì cái nghĩa đó thường cũng không ai nghĩ đến, nó trở thành thật sự vô nghĩa” [105]. Sự khẳng định này có vẻ cực đoan về nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ. Xác định tên riêng (trong đó có địa danh) là những đơn vị ngôn ngữ nhưng không thừa nhận các giá trị ngữ nghĩa của nó là điều vô lí. Sự vô lí thể hiện ở chỗ: địa danh là một loại tín hiệu ngôn ngữ, nó tồn tại và tạo thành một lớp trong từ vựng. Các đơn vị này cũng có chức năng định danh như từ. Nghĩa là “phải "nói lên", phải đại diện cho, phải được người sử dụng quy chiếu về một cái gì đó” [26; 166-171]. Và “cái” để nó đại diện ấy chính là đối tượng địa lí với những đặc điểm kèm theo của bản thân đối tượng. Chẳng hạn, địa danh thủ đô Hà Nội, ngoài ý nghĩa từ vựng ban đầu vốn có của từ hà nội (phía trong sông) còn biểu thị cho một đối tượng địa lí là thủ đô nước Việt Nam. Đối tượng này có những đặc điểm riêng về địa lí tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội,... Vì thế, đã là người Việt Nam dù đến Hà Nội hay chưa, đều biết về đối tượng hay “sự vật” này. Vậy là địa danh thủ đô Hà Nội đã làm tròn chức năng ngữ nghĩa hay chức năng giao tiếp của mình.
Về ý nghĩa của tên riêng, Mác đã khẳng định: “Tôi hoàn toàn không biết gì về người này nếu như tôi chỉ biết tên anh ta là Jakov” [Dẫn theo 128; 11-12]. Điều này có nghĩa là một hình thức âm thanh mà không có mối liên hệ hay dẫn tới một sự vật nào thì chắc chắn hình thức âm thanh đó chưa phải là ngôn ngữ. Tác giả Hồ Lê trong “Quy luật ngôn ngữ” thừa nhận: ““Hiện thực” là cái gốc của nghĩa (...) trong ngôn ngữ chỉ khi nào có một sự tương ứng hoặc một sự liên hệ nào đó với cái hiện thực cần biểu thị mà được biểu thị thì khi đó mới xuất hiện cái gọi là “có nghĩa”” [82; 71].
Nhiều nhà danh xưng học nói chung và địa danh học nói riêng xác định tên riêng nói chung và địa danh nói riêng có ý nghĩa. Sir Alan Gardiner trong một nghiên cứu về nghĩa của tên riêng đã coi hành động đặt tên là “hành động tạo ra từ mới” cho ngôn ngữ. “Mỗi một từ trong số những từ mới này đều có một ý nghĩa, đều có một giá trị trao đổi nhất định, ít ra nó cũng phải giống như nghĩa của từ (từ chung- VTT)”. Một tên riêng có hình thức ngữ âm giống các tên riêng khác và giống một từ chung nào đó là những từ đồng âm khác nghĩa. “Những từ đồng âm dị nghĩa là những từ có âm phát ra giống nhau nhưng lại có ngữ nghĩa khác nhau. Khó có thể phủ nhận được rằng hai tên của hai anh John đã thỏa mãn hai điều kiện này” [164; 15-17]. Phạm Tất Thắng trong một nghiên cứu gần đây về tên riêng đã nêu: “Cũng như tên chung, tên riêng cũng có nghĩa, nhưng tên riêng có nghĩa đồng thời có giá trị khi nào nó xác lập được mối liên hệ trực tiếp của nó với đối tượng, nếu không tên gọi đó chỉ giống như những cái “nhãn” được dán vào đối tượng hoặc giống như các từ tượng thanh mà thôi” [127; 11-12]. Tác giả đã rất có lí khi cho rằng: xác nhận giá trị giao tiếp của tên riêng là đồng nghĩa với việc xác nhận tên riêng có nghĩa. Ý nghĩa của tên riêng gắn liền với đối tượng mà nó gọi tên.
Cùng có quan niệm như trên, khi nghiên cứu về địa danh, nhà địa danh học người Nga V.A Superanskaja đã chỉ rõ: “địa danh thuộc về nhóm từ đặc biệt mà chừng nào chưa xác định được là nó liên quan tới đối tượng nào, thì nghĩa của nó không thể hiểu được (...) Địa danh chỉ dễ hiểu khi những người đối thoại biết chính xác chúng liên quan tới địa điểm nào” [115; 2]. Giá trị ngữ nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ chính là ở chỗ đó. Tên gọi phải làm cho người ta hướng tới một đối tượng nào đó. Địa danh tồn tại trong đời sống rõ ràng là để hướng đến, liên hệ đến những hiện thực hay những đối tượng cụ thể. Mỗi địa danh thường cho ta liên hệ đến một sự vật, một hiện thực có trong thực tế khách quan. Cái mà địa danh biểu thị chính là các đối tượng địa lí cùng những đặc điểm, đặc trưng của nó.
Đa số các nhà địa danh học Việt Nam đều cho rằng tên riêng có ý nghĩa. Lê Trung Hoa đã chỉ ra các “đặc điểm về mặt phản ảnh hiện thực” của địa danh. Theo đó, hiện thực mà địa danh phản ảnh chính là nghĩa của địa danh [56], [57]. Nguyễn Kiên Trường cũng khẳng định: “Một tên riêng tạo nên trong trí óc ta sự liên hệ đến một thực thể. Đó là chức chức năng ngữ nghĩa của tên riêng” [154; 102].
Từ những quan niệm trên có thể hiểu: là một đơn vị ngôn ngữ, địa danh có ý nghĩa. Nhờ có ý nghĩa mà địa danh trở thành đơn vị giao tiếp như bất kì một đơn vị ngôn ngữ nào. Để phân biệt với khái niệm “nghĩa” trong từ chung (tên chung), chúng tôi sử dụng khái niệm “ý nghĩa” đối với địa danh trong quá trình nghiên cứu.
1.2.5.2. Các thành phần ý nghĩa trong địa danh
Nghĩa của địa danh chính là hiện thực mà nó phản ánh. Hiện thực đó có hai loại: hiện thực về sự vật mang tên gọi và hiện thực để có tên gọi, tức là cái “môi trường” ban đầu để hình thành tên gọi. Theo đó, địa danh có hai loại nghĩa: một là nghĩa biểu thị sự vật và hai là nghĩa từ nguyên. Hai loại ý nghĩa đó chính là kết quả của sự phản ánh hai loại thông tin trong địa danh mà Superanskaja đã nêu trong “Địa danh là gì” [115]. Các loại ý nghĩa đó thể hiện khác nhau trong địa danh.
Loại ý nghĩa biểu thị sự vật chính là ý nghĩa đặc chỉ. Ý nghĩa đặc chỉ hoạt động trong chức năng khu biệt đối tượng nên còn gọi là ý nghĩa khu biệt. Ý nghĩa này có ở tất cả các địa danh. Nhờ có ý nghĩa này, các đối tượng cá thể mới được nhận ra, mới được phân biệt. Lotman Iu.M, Uspenski B.A trong “Huyền thoại - tên gọi - văn hóa” đã nêu: “Trong phạm vi các tên riêng thường xuyên diễn ra sự đồng nhất của từ và nghĩa biểu vật” [87]. Ý nghĩa này thuộc về những thông tin bên ngoài, những “thông tin về từ và đối tượng địa lí” [115]. Chẳng hạn, trong địa danh sông Mã những thông tin về đối tượng như đặc điểm dòng chảy, vị trí hiện tại, diện tích, chiều dài,... là những thông tin có thể nhận biết được ngay. Đây là những thông tin bên ngoài của địa danh sông Mã, để nhận diện phân biệt nó với các đối tượng cùng loại khác như sông Chu, sông Yên,... ở Thanh Hóa.
Ý nghĩa từ nguyên của địa danh chính là ý nghĩa hàm chỉ. Đây là loại ý nghĩa vốn có của các đơn vị trước khi tham gia vào địa danh. Ý nghĩa này không có chức năng khu biệt như ý nghĩa đặc chỉ. Nó chỉ có trong những địa danh nào còn xác định được lí do định danh và ý nghĩa từ vựng ban đầu. Ý nghĩa từ nguyên “hóa thạch” trong địa danh, làm cho địa danh trở thành những trầm tích văn hóa. B.A. Meiring chỉ rõ: “Tên gọi (tên địa lí -VTT) cho thấy những đặc trưng về thực vật, động vật, khảo cổ học, địa chất, đặc trưng về lịch sử và văn hóa, cho chúng ta biết thêm về con người và môi trường của mình” [166]. Đó chính là những thông tin bên trong của địa danh, những “thông tin về vấn đề: địa danh thuộc về ngôn ngữ nào, do dân tộc nào sinh ra, thuộc thời đại nào (...) đối tượng được đặt tên là loại gì, như thế nào, của ai, có quan hệ thế nào với các đối tượng xung quanh” [115; 84 - 85].
Như vậy, địa danh có ý nghĩa. Ý nghĩa đó gồm hai loại: ý nghĩa hàm chỉ (biểu trưng) và ý nghĩa đặc chỉ (khu biệt). Hai loại ý nghĩa đều có chung chức năng phản ánh hiện thực. Dựa vào hai loại nghĩa này, Superanskaja chia địa danh thành ba loại: địa danh ký hiệu, địa danh mô tả và địa danh ước vọng [115].
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỊA BÀN THANH HÓA
1.3.1. Sơ lược về đặc điểm địa bàn Thanh Hóa
1.3.1.1. Về địa lí tự nhiên
Thanh Hóa là một tỉnh có những đặc điểm về địa lí tự nhiên và lịch sử - xã hội khá đặc biệt mà không phải tỉnh nào cũng có thể có được. Về vị trí địa lí, trên bản đồ Việt Nam, Thanh Hóa là “một tỉnh mang tính chất trung gian giữa Bắc Bộ và Trung Bộ” [141; 15]. Phía bắc và tây bắc giáp ba tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình, phía tây giáp nước CHDCND Lào, phía Nam và tây nam giáp Nghệ An, phía đông giáp biển Đông. Phần đất liền của Thanh Hóa chạy dài theo chiều từ tây bắc xuống đông nam. Với vị trí ấy, Thanh Hóa là địa phương chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Trung Bộ. Tính chuyển tiếp thể hiện khá rõ ở nhiều phương diện: địa - địa hình, địa - văn hóa, địa - lịch sử và địa - ngôn ngữ.
Ranh giới Thanh Hóa được xác định rõ rệt bởi sự bao bọc của các dãy núi suốt ba bề bắc - tây - nam, phía đông là biển Đông. Núi như cánh tay dài vòng ôm trọn Thanh Hóa vào lòng. “Hình thế: đông liền biển lớn, tây cắp rừng dài. Khe Lãnh Thủy chặn ở phía nam; núi Tam Điệp ngăn về phía bắc. Non cao thì có Thiên Tôn và Na Cù; sông lớn thì có Lương Mã và Ngọc Giáp. Núi sông bao bọc, cao thấp lẫn xen” [73; 23]. C. Roberquain nhận xét: “Tỉnh Thanh Hóa không phải là một hạt mà thôi. Thật là một xứ. Nó là hình ảnh thu nhỏ của Bắc Kỳ” [110].
Đặc điểm nổi bật nhất của Thanh Hóa là tính đa dạng về địa hình. Thanh Hóa có đủ các dạng địa hình: núi đồi, đồng bằng và biển, trong đó, diện tích đồi núi chiếm tỉ lệ lớn. Phần núi đồi chạy dài từ phía đông bắc, qua phía bắc sang phía tây, tây nam cho đến vùng đồi núi thấp phía nam. Vùng đồng bằng trải từ Nga Sơn (giáp Ninh Bình) chạy theo bờ biển và bên bờ của các con sông đến vùng Nông Cống, Tĩnh Gia (giáp Nghệ An). Giữa vùng núi cao và vùng đồng bằng là vùng chuyển tiếp gọi là vùng bán sơn địa. Các dải núi đồi thấp của vùng bán sơn địa ăn lan theo mạch xuống vùng đồng bằng tạo nên một vùng cảnh quan thơ mộng rất đẹp như tác giả “Le Thanh Hoa” cảm nhận: “Những quả đồi đơn độc ấy... giữa vùng đất phù sa giữ một vai trò rất quan trọng về mặt địa lí. Trong cảnh quan, các quả đồi ấy là những thành phần tạo nên cái tuyệt mỹ, và ở khắp nơi, in trên chân trời phẳng lặng bóng dáng nhiều hình nhiều vẻ của chúng phá vỡ cái đơn điệu của vùng Thanh Hóa hạ và gán cho nó một nét duyên dáng mà ít châu thổ có được” [110; 289].
Địa hình Thanh Hóa thấp dần theo hướng tây bắc - đông nam, do vậy, sông ngòi Thanh Hóa phần lớn đều chảy theo hướng này. Trong đó, hệ thống sông Mã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và tồn tại của tiểu đồng bằng cũng như trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cả tỉnh Thanh Hóa. Hệ thống đó bao gồm sông Mã và các sông suối là chi lưu của nó như suối Sim, suối Quanh, suối Xia, sông Luồng, sông Lò, Hón Nủa, sông Bưởi, sông Cầu Chày, sông Chu, sông Lèn, sông Tào (sông Ngu). Các chi lưu suối Sim, suối Quanh, suối Xia, sông Luồng, sông Lò, Hón Nủa, sông Bưởi, sông Cầu Chày, sông Chu gom nước từ các nguồn trên vùng núi đổ vào sông Mã; sông Lèn, sông Tào (sông Ngu) có chức năng giảm tải, ổn định dòng chảy cho sông Mã mà chia nước từ sông Mã mang ra biển.
Trong các tiểu vùng địa hình, đồng bằng Thanh Hóa có vị trí và vai trò quan trọng trong sự phát triển lịch sử, văn hóa, xã hội của tỉnh Thanh Hóa. Theo các nhà địa chất, đồng bằng Thanh Hóa (còn gọi là đồng bằng sông Mã) được tạo thành sớm hơn đồng bằng sông Hồng và mang những đặc trưng riêng biệt [6; 126). Đó là vùng đất phù sa cổ, được giới hạn “từ đỉnh cực đông của tỉnh, giáp Ninh Bình, chạy rìa chân núi đá vôi và đá phiến” của các huyện Nga Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Hà Trung, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thọ Xuân, Triệu Sơn, Tĩnh Gia cho tới biển [141; 30 - 31].
Đặc điểm lớn nhất của cảnh quan đồng bằng Thanh Hóa là độ dốc khá lớn, có nhiều đồi núi, đất đai không bằng phẳng, có nhiều vùng trũng thấp, đất đai ít độ phì nhiêu. Là một đồng bằng lớn thứ ba trong cả nước nhưng đồng bằng Thanh Hóa mặc dù có nhiều ruộng đồng nhưng ít có những cánh đồng thẳng cánh cò bay như đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ mà bị chia cắt thành nhiều ô. Tầm mắt ở đây luôn bị che chắn bởi những núi, đồi mọc lên điểm xuyết giữa đồng bằng. Ruộng đồng không bằng phẳng mà có những vùng trũng thấp tồn tại bên những vùng cồn cao. Chính vì đặc điểm này mà tác giả Ngô Đức Thịnh đã nhận xét: “Ở Thanh Hóa cảnh quan đồng bằng, biển và rừng núi nối kết và cận kề nhau, làm tăng tính chất rừng và biển của đồng bằng, chứ không “xa rừng, nhạt biển” như đồng bằng châu thổ Bắc Bộ” [137; 16].
Về khí hậu, Thanh Hóa “có đầy đủ những đặc điểm khí hậu của cả nước. Nắng lắm, mưa nhiều, gió Lào và lụt bão” [6; 26]. Bốn mùa khí hậu được phân biệt rõ rệt ở đây.
Tính chất chuyển tiếp, lưỡng phân về vị trí địa lí và những đặc điểm về tự nhiên trên đây chính là yếu tố quan trọng để tạo nên một xứ Thanh rất riêng về văn hóa và về lịch sử, xã hội.
1.3.1.2. Đặc điểm lịch sử
Viết về đất và người Thanh Hóa, Phan Huy Chú trong Hoàng Việt địa dư chí nhận xét: “Đây là nơi non xinh nước đẹp, là nơi có thế như cái cổ áo và cũng là vùng có nhiều thắng cảnh đẹp, từ xưa, trải qua các triều đại đều cho đây là một trọng trấn (...) Bởi đây là vùng địa linh nên mới sinh ra nhân kiệt, nơi hội tụ vượng khí của non sông, chung đúc nên những bậc anh hùng, là một vùng đất nổi tiếng khắp thiên hạ” [25; 147]. Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, hầu như ở thời kì nào, Thanh Hóa cũng có mặt và đóng vai trò, vị trí quan trọng trong các thời kì đó. Có lẽ vì thế mà học giả người Pháp H. le Breton đã nhận định: “Thanh Hóa là nơi căn bản của nước Nam; muốn học sử Nam, nên học sử tỉnh Thanh Hóa trước” [13; 5].
Thời kì tiền sử, Thanh Hóa là một trong những cái nôi đầu tiên của người Việt cổ. Hàng loạt các di chỉ khảo cổ được tìm thấy ở Thanh Hóa thuộc các thời kì văn hóa khác nhau. Thời kì đồ đá có các di chỉ văn hóa núi Đọ (Th.H), núi Nuông, núi Quan Yên, núi Nổ (Y.Đ), di chỉ mái đá Điều (B.T), hang Con Moong (Thạch Thành) cho đến thời kì đồ đá mới với nền văn hóa Đa Bút (gồm hệ thống các di chỉ Đa Bút (Vĩnh Tân, V.L), di chỉ cồn Cổ ngựa (Hà Lĩnh, H.Tr), di chỉ Gò Trũng (Phú Lộc, H.L),...). Các di chỉ văn hóa Đa Bút (V.L) đã chứng minh “chủ nhân văn hóa Đa Bút theo quá trình lùi dần của biển ngày càng lấn xuống chiếm lĩnh đồng bằng ven biển Thanh Hóa” [141; 530].
Các bộ lạc nguyên thủy thời đại đồng thau đã tồn tại và phát triển rực rỡ ở Thanh Hóa. Từ các di chỉ hang động Thẩm Hai và Thẩm Tiên (Thường Xuân), cho đến các di chỉ Hoa Lộc hay di chỉ gò Sau Chợ (H.L), di chỉ Cồn Chân Tiên, di chỉ Quỳ Chữ và đỉnh cao của thời kì đồ đồng là văn hóa Đông Sơn đều được phát hiện ở Thanh Hóa. “Sự phân bố đông đúc của các di tích Đông Sơn ở vùng đồng bằng đã phần nào phản ánh tính làm chủ đồng bằng của những người Việt cổ ở Thanh Hóa với những làng định cư lâu đời hàng ngàn năm như Đông Sơn, Thiệu Dương, Quỳ Chử,... trên một khu vực rộng hàng vạn mét vuông” [6; 123].
Có thể nói, “diện mạo thời tiền sử - sơ sử xứ Thanh... là quá trình nội sinh, phát triển liên tục và không ngừng (...) Xứ Thanh từng là nơi chứng kiến sự ra đời và phát triển xưa nhất của người nguyên thủy trên đất Việt Nam. Vì vậy, tiền sử - sơ sử Thanh Hóa cũng dài như tiền sử - sơ sử Việt Nam” [142; 552 - 553].
Trong nghìn năm Bắc thuộc, vùng đất Thanh Hóa đã từng là nơi diễn ra bao sự kiện lịch sử của dân tộc. Những hiện vật được tìm thấy ở vùng núi Trịnh (Định Công, Y.Đ) cho phép các nhà sử học kết luận về một cuộc huyết chiến đã từng diễn ra ở đây giữa nghĩa quân Hai Bà Trưng với quân Mã Viện từ những thập kỷ đầu tiên sau công nguyên (40 - 44). Sau đó, nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân chống lại phong kiến phương Bắc, mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (248), “một cuộc khởi nghĩa mà thanh thế của nó đã làm “toàn thể Giao Châu chấn động”” [7; 50], đã liên tục diễn ra trên đất Thanh Hóa.
Suốt hơn một nghìn năm của thời kì phong kiến, ở Thanh Hóa liên tục diễn ra các sự kiện lịch sử gắn với lịch sử dân tộc. Trong thời kì này, “ít nhất cũng đã từng có ba dòng họ đế vương gốc tích từ xứ Thanh: vương triều Hồ, vương triều Lê và Vương triều Nguyễn” [137; 168].
Trong thời Ngô - Đinh - Tiền Lê, ở Thanh Hóa lần lượt diễn ra các cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ khôi phục quyền tự chủ cho dân tộc (931). Khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn sát hại, Ngô Quyền đã dẫn quân từ Ái Châu tiến ra Bắc để diệt trừ nội phản. Trong cuộc đại thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (938) và giành lại quyền độc lập tự chủ sau hơn 10 thế kỷ đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc cũng có công không nhỏ của những người con ưu tú của xứ Thanh như Dương Tam Kha (con trai cả của Dương Đình Nghệ), Ngô Xương Ngập, Đỗ Cảnh Thạc [142; 952 - 953]. Vùng đất làng Ràng (Thiệu Hóa) không chỉ là trung tâm kinh tế chính trị của quận Cửu Chân trong nhiều thế kỷ mà còn là đất bản bộ của dòng họ Dương và đến thời Dương Đình Nghệ thì thế lực đã bao trùm cả nước [142; 595].
Trong cuộc dẹp loạn mười hai sứ quân, “nhân dân Châu Ái đã nhanh chóng hướng về ngọn cờ đại nghĩa của Đinh Bộ Lĩnh” để cùng thống nhất giang sơn, lập nên nước Đại Cồ Việt. Giáp Bối Lý, Châu Ái (nay là xã Thiệu Trung) mà trung tâm là Kẻ Rỵ - Kẻ Chè là vùng đất cai quản của lệnh tộc Lê Lương, một hào trưởng có đạo nghĩa được Đinh Tiên hoàng phong cho làm Đô quốc dịch sứ quận Cửu Chân, Châu Ái [142; 596 - 597]. Sau khi Đinh Tiên hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, triều đình nhà Đinh hoảng loạn trong khi quân Tống lại dẫn quân sang xâm lược. Lê Hoàn đã được thái hậu Dương Vân Nga khóac hoàng bào và trấn giữ được triều đình, dẹp tan quân xâm lược nhà Tống.
Thanh Hóa “trong suốt gần bốn thế kỷ, dưới các triều đại Lý Trần Hồ, với vị trí “phên dậu” phía nam của Tổ quốc, quân dân Thanh Hóa đã nhiều lần đánh lui các cuộc xâm lược của Chiêm Thành và Chân Lạp” [142; 612]. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên ở thế kỷ XIII, Thanh Hóa là hậu cứ vững chắc che chở cho vua quan và quân đội nhà Trần. Tại đây cũng đã diễn ra những trận đánh khốc liệt giữa quân đội triều đình do tướng Trần Quang Khải chỉ huy và quân Nguyên do Toa Đô chỉ huy mà dấu tích còn lưu lại ở các địa danh vùng Hậu Lộc [7; 135 - 143].
Từ nửa sau thế kỷ XIV, quốc gia Đại Việt bước vào thời kì khủng hoảng sâu sắc trên mọi phương diện, giặc ngoại xâm lăm le ngoài bờ cõi. Nhà Hồ đã thay thế nhà Trần và đương đầu với những thách thức ấy. Việc Hồ Quý Ly cho dời đô về Thanh Hóa là phù hợp với tình hình thực tế bấy giờ. Triều đại nhà Hồ chỉ tồn tại 7 năm (1400 - 1407) ở Thanh Hóa nhưng đã để lại dấu ấn trong lịch sử dân tộc qua các chính sách cải cách tiến bộ. Tuy chưa thực hiện thành công những chính sách táo bạo ấy nhưng điều đó đã chứng tỏ: “Hồ Quý Ly và vương triều của ông đã thực sự quan tâm và mong muốn đất nước phát triển phồn vinh” [142; 621].
Sau khi nhà Hồ thất bại, quân Minh rộng đường xâm lược và đặt ách đô hộ nước ta. Đất và người xứ Thanh lại một lần nữa thể hiện bản lĩnh kiên cường, không chịu khuất phục của mình. Khởi nghĩa Lam Sơn lừng lẫy với vị anh hùng áo vải Lê Lợi là niềm tự hào của những người dân xứ Thanh. Sau khởi nghĩa Lam Sơn, nước Việt trải qua một thời kì phát triển rực rỡ trên mọi phương diện ở thời Lê Sơ với những ông vua sáng như Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông,...
Trong cuộc nội chiến Trịnh - Mạc, nhiều trận đánh lớn nhỏ đã diễn ra giữa quân Nam triều và Bắc triều kéo dài hàng chục năm trên đất Thanh Hóa. Thanh Hóa vốn là đất căn bản của thời Lê Sơ, đến thời kì này lại là cơ sở chủ yếu trong sự nghiệp trung hưng. Khi chiến tranh Nam - Bắc triều chưa ngã ngũ thì Nguyễn Hoàng thực hiện hành trình Nam tiến, tạo nên cục diện chính trị mới với cát cứ Đàng Trong - Đàng Ngoài. Triều Lê vẫn giữ là vương triều chính thống nhưng quyền lực Đàng Trong thì thuộc về chúa Nguyễn còn Đàng Ngoài thuộc về chúa Trịnh. Vua Lê, chúa Nguyễn, chúa Trịnh - cả ba đều là những người con của Thanh Hóa nhưng mâu thuẫn tranh giành thế lực trong suốt thời gian gần 2 thế kỷ. Sau đó, các cuộc khởi nghĩa nông dân dưới ngọn cờ “Phù Lê diệt Trịnh” của Lê Duy Mật, cuộc khởi nghĩa của anh em Tây Sơn,... cũng đã từng diễn ra ở Thanh Hóa. Đất quý hương Gia Miêu ở Tống Sơn (H.Tr) đã cống hiến cho dân tộc một triều đại nhà Nguyễn lắm công nhiều tội đã tồn tại trong lịch sử 143 năm và cũng là triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Trong thời kì hiện đại, Thanh Hóa đã cống hiến nhiều công sức trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong bài nói chuyện ngày 13 tháng 6 năm 1957 với nhân dân Thanh Hóa, Bác Hồ đã nhấn mạnh: “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”. Những trận đánh ác liệt cùng những chiến tích vang dội làm nức lòng nhân dân cả nước gắn liền với đất và người Thanh Hóa: anh hùng Ngô Thị Tuyển với những chiến công của Nam Ngạn - Hàm Rồng, các cụ phụ lão Hoằng Trường, nữ dân quân du kích Hoa Lộc bắn rơi máy bay Mỹ ngay tại mảnh đất quê hươn... Tâm
C.T
252
Phân Lùm
Yên Khương
L.C
285
Rồng
CẩmLong
C.T
253
Phang
Yên Khương
L.C
286
Rú Nâm
Phú Nhuận
N.T
254
Pháng Nờ
Thanh Kỳ
N.T
287
Rú Thuyền
Phú Nhuận
N.T
255
Phía Đông
Thanh Tân
N.T
288
Rừng Lim
TT Cẩm Thủy
C.T
256
Phía Tây
Thanh Tân
N.T
289
Rừng Luồng
Cẩm Bình
C.T
257
Phóc
Giao An
L.C
290
Rừng Vàu
Phú Nhuận
N.T
258
Phốc
Giao An
L.C
291
Rừng Vầu
Mậu Lâm
N.T
259
Phòng Không
Yên Khương
L.C
292
Sam Tạng
Yên Khương
L.C
260
Phòng Quân
Thanh Kỳ
N.T
293
Sân
Yên Khương
L.C
261
Phu Đén
Văn Nho
B.T
294
Sao
Yên Thọ
N.T
295
Sặt
Mậu Lâm
N.T
319
Trắt
Giao An
L.C
296
Sau Làng
Mậu Lâm
N.T
320
Trâu Trếu
Cẩm Phú
C.T
297
Sau Làng
Thanh Kỳ
N.T
321
Trém
Giao An
L.C
298
Sau Thôn
Thanh Tân
N.T
322
Tròn
Phú Nhuận
N.T
299
Sen
Giao An
L.C
323
Trủ
Giao An
L.C
300
Sí Bé
Giao An
L.C
324
Trùng
Cẩm Tâm
C.T
301
Siêng
Cẩm Châu
C.T
325
Trùng
Đồng Lương
L.C
302
Sim
Đồng Lương
L.C
326
Trước Làng
Thanh Kỳ
N.T
303
Sớ
Giao An
L.C
327
Trước Voóng
Mậu Lâm
N.T
304
Sóc Sơn
Mậu Lâm
N.T
328
Trướm
Giao An
L.C
305
Sói
Giao An
L.C
329
Trường
Phú Nhuận
N.T
306
Sỏi Đá
Thanh Kỳ
N.T
330
Trường
Yên Thọ
N.T
307
Tần
Đồng Lương
L.C
331
Túp
Giao An
L.C
308
Tàu Bay
Thanh Tân
N.T
332
U Bò
Cẩm Châu
C.T
309
Tây
Yên Thọ
N.T
333
Văn Minh
Kỳ Tân
B.T
310
Tây
Giao An
L.C
334
Vàng Tâm
Cán Khê
N.T
311
Thanh Niên
Xuân Khang
N.T
335
Vàu
Xuân Phúc
N.T
312
Thịnh
Phú Nhuận
N.T
336
Vực Chiềng
Giao An
L.C
313
Tô
Cẩm Châu
C.T
337
Vực Dụng
Giao An
L.C
314
Toài Vú
Giao An
L.C
338
Vùng Xe
Giao An
L.C
314
Toài Vú
Giao Thiện
L.C
339
Xăm
Giao An
L.C
315
Tổng Cồ
Cẩm Châu
C.T
340
Xét
Giao An
L.C
316
Trám
Giao An
L.C
341
Xiên
Yên Khương
L.C
317
Tràm
Thanh Kỳ
N.T
342
Xong Long
Giao Thiện
L.C
318
Trăn
Phú Nhuận
N.T
4. Eo: 4 địa danh
1
Khí
Xuân Phúc
N.T
3
Nga
Hải Long
N.T
2
Lụi
Xuân Phúc
N.T
4
Trăn
Xuân Phúc
N.T
5. Hang: 24 địa danh
1
Cá
Văn Nho
B.T
13
Khoai
Kỳ Tân
B.T
2
Cá
Cẩm Lương
C.T
14
Lặn
Lũng Niêm
B.T
3
Cây Thị
Xuân Phúc
N.T
15
Làng Tráng
Lâm Xa
B.T
4
Cố
Thiết Ống
B.T
16
Lèn Hung
Cát Tân
N.X
5
Con Tằng
Thanh Hoà
N.X
17
Lò Cao
Hải Vân
N.T
6
Đá Giàng
Yên Khương
L.C
18
Meng
Đồng Lương
L.C
7
Đại thần
Mậu Lâm
N.T
19
Mổ
TT Cẩm Thủy
C.T
8
Dơi
Kỳ Tân
B.T
20
Ngọc
Xuân Khang
N.T
9
Dơi
Thanh Phong
N.X
21
Ông Thiều
Hải Vân
N.T
10
Dơi
Cẩm Thạch
C.T
22
Pu Kun
Yên Khương
L.C
11
Dơi
Kỳ Tân
B.T
23
Quy Hen
Cẩm Vân
C.T
12
Dong
Thiết Ống
B.T
24
Rồng
Cẩm Thạch
C.T
7. Lèn: 7 địa danh
1
Đá trắng
Xuân Khang
N.T
5
Mỏ nước
Xuân Khang
N.T
2
Đá Vôi
Thanh Kỳ
N.T
6
Mướp
Xuân Thái
N.T
3
Khe Bồ
Thanh Tân
N.T
7
Trắng
Xuân Khang
N.T
4
Mỏ nước
Mậu Lâm
N.T
8. Núi: 86 địa danh
1
Ba Nhà
Thanh Lâm
N.X
13
Chùa
Định Công
Y.Đ
2
Ba Thang
Thanh Kỳ
N.T
14
Chùa
Yên Khương
L.C
3
Bái Trắng
Yên Lạc
N.T
15
Chùa Chặng
TT Cẩm Thủy
C.T
4
Bán Bò
Đồng Lương
L.C
16
Cò Hèo
Yên Khương
L.C
5
Bẻ Chiêng
Cẩm Phú
C.T
17
Co Mi
Thanh Sơn
N.X
6
Bí
Giao Thiện
L.C
18
Cửa Hà
Yên Khương
L.C
7
Bù Cúng
Thanh Phong
N.X
19
Đá
Thanh Phong
N.X
8
Bù Rinh
Yên Thắng
L.C
20
Đá
Xuân Quỳ
N.X
9
Bù Rinh
Giao Thiện
L.C
21
Đá Bồ
Yên Khương
L.C
10
Cà Lông
Yên Khương
L.C
22
Đá Chồng
Yên Khương
L.C
11
Cao
Cát Tân
N.X
23
Đá Chùa
Yên Khương
L.C
12
Cây Kè
Thanh Kỳ
N.T
24
Đá Cò Đường
Cẩm Vân
C.T
25
Đá Én
Yên Khương
L.C
56
Nưa
Mậu Lâm
N.T
26
Đá Giữa
Yên Khương
L.C
57
Nưa
Phú Nhuận
N.T
27
Đá Lớn
Xuân Bình
N.X
58
Phá Bạng
Thanh Tân
N.T
28
Đá Mốc
Yên Khương
L.C
59
Phá Bóng
Văn Nho
B.T
29
Đá Thung
Yên Khương
L.C
60
Phá Có Ngóa
Lâm Phú
L.C
30
Đá Tọ
Yên Khương
L.C
61
Phá Đén
Văn Nho
B.T
31
Đá Trận
Yên Khương
L.C
62
Pha Giàng
Yên Khương
L.C
32
Đá Vôi
Thanh Lâm
N.X
63
Pha Na Lạn
Yên Khương
L.C
33
Đồng Tên
Thượng Ninh
N.T
64
Phá Pu
Lâm Phú
L.C
34
Eo Xôm
Yên Khương
L.C
65
Pháng
Yên Khương
L.C
35
Hăng Bụt
Xuân Khang
N.T
66
Phu Huột
Yên Thắng
L.C
36
Hang Diêm
Yên Khương
L.C
67
Póm Huối Lìm Tạch
Yên Thắng
L.C
37
Hang Xé
Yên Khương
L.C
68
Póm Pười
Yên Khương
L.C
38
Khoi
Yên Khương
L.C
69
Pu Cọ
Văn Nho
B.T
39
Lai Li Lai Láng
Kỳ Tân
B.T
70
Pu Gống
Yên Thắng
L.C
40
Lai Li Lai Láng
Yên Khương
L.C
71
Pu Muôn
Yên Thắng
L.C
41
Lèn Bạc
Xuân Khang
N.T
72
Pù Ngà
Lâm Phú
L.C
42
Lèn Cái
Phúc Đường
N.T
73
Rùa
Phú Nhuận
N.T
43
Lèn Côi
Phúc Đường
N.T
74
Tải E
Đồng Lương
L.C
44
Lèn Hung
Cát Tân
N.X
75
Thang Mơ
Cẩm Vân
C.T
45
Lô Cô
Bình Lương
N.X
76
Thanh Hòng
Cẩm Vân
C.T
46
Lum
Xuân Phúc
N.T
77
Thủ Lợn
HảI Long
N.T
47
Luồi
Đồng Lương
L.C
78
Thủ Lợn
Xuân Phúc
N.T
48
Mâm
Cẩm Phú
C.T
79
Thủ Lợn
Xuân Thái
N.T
49
Me
Bãi Trành
N.X
80
Voi
Thanh Tân
N.T
50
Miến Thiên
Giao An
L.C
81
Vũng Bàn
Giao An
L.C
51
Mổ
Yên Khương
L.C
82
Vũng Ngần
Giao An.
L.C
52
Mũ Đồng Cân
Xuân Thọ
N.T
83
Xà Nót
Yên Khương
L.C
53
Mủ Đồng Cân
Thượng Ninh
N.X
84
Xam
Đồng Lương
L.C
54
Múng Mương
Yên Khương
L.C
85
Xè
Giao An
L.C
55
Ngọc Khánh
Đồng Lương
L.C
86
Yên Ngựa
Thanh Tân
N.T
10. Phá: 2 địa danh
1
Phá Rẹ
Lâm Phú
L.C
2
Phá Tói Lai
Lâm Phú
L.C
11. Pu: 7 địa danh
1
Cú
Yên Khương
L.C
5
Pù Luông
Thành Lâm
B.T
2
Luống
Yên Thắng
L.C
6
Sám Póm
Yên Khương
L.C
3
Pha Phai
Yên Khương
L.C
7
Tén Chè
Pù Nhi
M.L
4
Pù Hu
Pù Nhi
M.L
5
Pù Luông
Thành Lâm
B.T
12. Rừng: 6 địa danh
1
Đá Trải
Phú Nhuận
N.T
4
Luồng
Yên Khương
L.C
2
Lim
Yên Lạc
N.T
5
Pơ Mu
Xuân Khang
N.T
3
Lim
Thanh Tân
N.T
6
Trồng Bồ
Yên Thắng
L.C
II. THỦY DANH
Huối: 78 địa danh
1
Bản Trong
Phú Xuân
L.C
20
Hăng
Yên Khương
L.C
2
Bo
Kỳ Tân
B.T
21
Háo
Yên Khương
L.C
3
Bò
Yên Khương
L.C
22
Hê
Phú Xuân
L.C
4
Bó Tong
Đồng Lương
L.C
23
Hin Chon
Yên Khương
L.C
5
Buốc
Lâm Phú
L.C
24
Hin Khoang
Yên Khương
L.C
6
Buộc Mu
Yên Khương
L.C
25
Hộc
Yên Khương
L.C
7
Cại
Phú Xuân
L.C
26
Hóm
Yên Khương
L.C
8
Cám
Phú Xuân
L.C
27
Hón Chí
Giao An
L.C
9
Cắm
Đồng Lương
L.C
28
Hón Hiên
Giao An
L.C
10
Chả
Giao An
L.C
29
Hón Lựa
Giao An
L.C
11
Có Mỹ
Yên Khương
L.C
30
Hón Tượt
Giao An
B.T
12
Có Phay
Yên Khương
L.C
31
Huôi
Phú Xuân
L.C
13
Co Phùng
Phú Xuân
L.C
32
Hượn
Yên Khương
L.C
14
Cộc Lông
Lâm Phú
L.C
33
Kế
Thiết Kế
B.T
15
Cống
Yên Khương
L.C
34
Kéng Bé
Yên Khương
L.C
16
Cui
Đồng Lương
L.C
35
Kéng Peo
Yên Thắng
L.C
17
Cúm
Phú Xuân
L.C
36
Khạnh
Phú Xuân
L.C
18
Đang
Lâm Phú
L.C
37
Kho Lai
Yên Khương
L.C
19
Đang
Lâm Phú
L.C
38
Khóe Mạ
Yên Khương
L.C
39
Láu
Giao Thiện
L.C
59
Pan
Phú Xuân
L.C
40
Lúc Mú
Yên Khương
L.C
60
Phá
Yên Khương
L.C
41
Mè
Yên Khương
L.C
61
Pháng
Yên Khương
L.C
42
Mèn
Phú Xuân
L.C
62
Phé Mý
Phú Xuân
L.C
43
Muỗng
Yên Khương
L.C
63
Piềng
Yên Khương
L.C
44
Mý
Phú Xuân
L.C
64
Pòm Khu
Phú Xuân
L.C
45
Na Chon
Lâm Phú
L.C
65
Pu Buốc
Lâm Phú
L.C
46
Na Nọi
Yên Khương
L.C
66
Pung
Phú Xuân
L.C
47
Na Phòng
Yên Khương
L.C
67
Pùng
Yên Khương
L.C
48
Na Pung
Yên Khương
L.C
68
Quắc
Đồng Lương
L.C
49
Nặm Bò
Yên Khương
L.C
69
Quáng
Yên Khương
L.C
50
Nàm Din
Yên Khương
L.C
70
Sai
Yên Thắng
L.C
51
Nặm Ùn
Yên Thắng
L.C
71
Sai
Yên Khương
L.C
52
Nặm Ùn
Yên Khương
L.C
72
Tá Khoai
Yên Khương
L.C
53
Nga
Thiết Ống
B.T
73
Tang Ruống
Yên Khương
L.C
54
Nghiêu
Tam Chung
L.C
74
Tạt
Yên Thắng
L.C
55
Ngóa
Yên Khương
L.C
75
Tổng Kiêng
Phú Xuân
56
Nong Đen
Lâm Phú
L.C
76
Từm
Phú Xuân
57
Noóng
Yên Khương
L.C
77
Vớ
Giao An
58
Pà Hỉa
Yên Khương
L.C
78
Xúm Lum
Yên Thắng
Khe: 33 địa danh
1
Cày Sơn
Cẩm Phú
C.T
12
Cái
Phượng Nghi
N.T
2
Bai Mối
Cẩm Phú
C.T
13
Rú Thuyền
Phú Nhuận
N.T
3
Tối
Cát Vân
N.X
14
Cầu
Phú Nhuận
N.T
4
Sung
Tân Bình
N.X
15
Thùng
Phúc Đường
N.T
5
cầu
Phú Nhuận
M.L
16
Than
Phúc Đường
N.T
6
Cây Hó
Xuân Thọ
M.L
17
Cành Cúng
Thanh Kỳ
N.T
7
dài
Cán Khê
N.T
18
Me
Thanh Tân
N.T
8
Lén Sảng
Cán Khê
N.T
19
Tre
Thanh Tân
N.T
9
Bến Đá
Cán Khê
N.T
20
Đá Mài
Thanh Tân
N.T
10
cây Tấu
Mậu Lâm
N.T
21
hom hom
Thanh Tân
N.T
11
Đồng Đẻ
Mậu Lâm
N.T
22
nước trong
Thanh Tân
N.T
23
Thanh Cao
Thanh Tân
N.T
29
Dài
Xuân Thọ
N.T
24
Mỏ
Xã Xuân Thọ
N.T
30
Cây Khét
Xuân Thọ
N.T
25
Đá Mài
Xuân Khang
N.T
31
Lươn
Yên Lạc
N.T
26
Chẹt Voi
Xuân Phúc
N.T
32
Cầu Bò
Yên Thọ
N.T
27
Bãi Luồng
Xuân Phúc
N.T
33
Cây Sổ
Yên Thọ
N.T
28
Hảm Chuối
Xuân Phúc
N.T
Suối: 77 địa danh
1
An
Lâm Phú
L.C
26
Còn
Kỳ Tân
B.T
2
Án
Yên Khương
L.C
27
Đang
Văn Nho
B.T
3
Bá
Yên Khương
L.C
28
Đang
Lâm Phú
L.C
4
Bai
Lâm Phú
L.C
29
Đồng Loài
Phú Nhuận
N.T
5
Bai Bông
Cẩm Tâm
C.T
30
Giàng
Yên Khương
L.C
6
Bai Dung
Cẩm Tâm
C.T
31
Hà
Yên Thắng
L.C
7
Bai Phổ
Cẩm Tâm
C.T
32
Hang
Thiết Ống
B.T
8
Bằng
Đồng Lương
L.C
33
Hang
Thiết Ống
B.T
9
Bằng
Đồng Lương
L.C
34
Hang Hùm
Đồng Lương
L.C
10
Bo
Kỳ Tân
B.T
35
Híu Cha
Lâm Phú
L.C
11
Bó
Lâm Phú
L.C
36
Hòn Cọc
Cẩm Tâm
C.T
12
Bò Lăn
Thanh Tân
N.T
37
Hòn Giáng
Yên Thắng
L.C
13
Bỏng
Đồng Lương,
L.C
38
Hón Tượt
Giao Thiện
L.C
14
Boọc Hồông
Yên Khương
L.C
39
Kế
Thiết Kế
B.T
15
Cái
Đồng Lương
L.C
40
Khế
Giao An
L.C
16
Cây Vải
Cẩm Thành
C.T
41
Khe Khoai
Thanh Tân
N.T
17
Cha
Thiết Kế
B.T
42
Khe Tréo
Yên Thọ
N.T
18
Cha
Thiết Kế
B.T
43
Khép
Lâm Phú
L.C
19
Chà Bối
Cẩm Long
C.T
44
Kiềng
Lâm Phú
L.C
20
Chiềng
Yên Thắng
L.C
45
Kỷ
Kỳ Tân
B.T
21
Chiềng
Yên Khương
L.C
46
Kỷ
Kỳ Tân
B.T
22
Chưaloót
Thanh Tân
N.T
47
Lãng Mọn
Giao An
L.C
23
Có Co
Lâm Phú
L.C
48
Lót
Lâm Phú
L.C
24
Co Cú
Thanh Tân
N.T
49
Luồi
Đồng Lương
L.C
25
Co phát
Thanh Tân
N.T
50
Luống
Lâm Phú
L.C
51
Mán
Lâm Phú
L.C
65
Thổ Công
Đồng Lương
L.C
52
Mán
Lâm Phú
L.C
66
Tiền Tiến
Thanh Tân
N.T
53
Na Hin
Yên Khương
L.C
67
Tìu Tộc
Yên Thắng
L.C
54
Na Nọi
Yên Thắng
L.C
68
Tơ Lơng
Thanh Tân
N.T
55
Nang
Kỳ Tân
B.T
69
Trô
Giao An
L.C
56
Nga
Thiết Ống
B.T
70
Trốc
Giao An
L.C
57
Ngàm
Yên Thắng
L.C
71
Trung Tiến
Thanh Tân
N.T
58
Ngọc Láo
Cẩm Tâm
C.T
72
Vần
Yên Thắng.
L.C
59
Pí
Lâm Phú
L.C
73
Vân Thương
Cát Vân
N.X
60
Quăn
Thanh Sơn
N.X
74
Vĩnh Lợi
Thị trấn Bến Sung
N.T
61
Sông Sao
Giao Thiện
L.C
75
Vườn Dâu-
Khe Mít
Thanh Tân
N.T
62
Tá Luông
Thanh Kỳ
N.T
76
Y
Yên Khương
L.C
63
Thanh Quang
Thanh Tân
N.T
77
Yên
HảI Long
N.T
64
Thiêng Sơ
Yên Khương
L.C
III. VÙNG ĐẤT NHỎ PHI DÂN CƯ
Hới: 28 địa danh
1
Buốc
Lâm Phú
L.C
15
Mun Nọi
Lâm Phú
L.C
2
Cô Cuối
Lâm Phú
L.C
16
Ngay
Lâm Phú
L.C
3
Co Pén
Lâm Phú
L.C
17
Ngón
Lâm Phú
L.C
4
Coóc Coóc
Lâm Phú
L.C
18
Pắng
Lâm Phú
L.C
5
Đang
Lâm Phú
L.C
19
Phác Nọi
Lâm Phú
L.C
6
Đon Nọi
Lâm Phú
L.C
20
Phái Tốp
Lâm Phú
L.C
7
Đon Tớp
Lâm Phú
L.C
21
Pô Cọ
Lâm Phú
L.C
8
Gia Hố
Lâm Phú
L.C
22
Quắng Non
Lâm Phú
L.C
9
Giống
Lâm Phú
L.C
23
Sác Nác
Lâm Phú
L.C
10
Hặc
Lâm Phú
L.C
24
Sáo Cò Nòi
Lâm Phú
L.C
11
Hó Tớp
Lâm Phú
L.C
25
Sáo Phạ
Lâm Phú
L.C
12
Kho
Lâm Phú
L.C
26
Sơm Kha
Lâm Phú
L.C
13
Lau
Lâm Phú
L.C
27
Tăng
Lâm Phú
L.C
14
Mạng
Lâm Phú
L.C
28
Tang Tay
Lâm Phú
L.C
2. Na: 56 địa danh
1
Bón
Lâm Phú
L.C
29
Niêng
Lâm Phú
L.C
2
Chá
Lâm Phú
L.C
30
Nóng Khăm
Lâm Phú
L.C
3
Chả
Lâm Phú
L.C
31
Păn
Lâm Phú
L.C
4
Cha
Lâm Phú
L.C
32
Phá
Yên Khương
L.C
5
Chà
Yên Khương
L.C
33
Phạ Phà
Yên Khương
L.C
6
Chon
Lâm Phú
L.C
34
Phái
Lâm Phú
L.C
7
Chưa Lót
Lâm Phú
L.C
35
Phạt
Yên Khương
L.C
8
Có
Yên Khương
L.C
36
Phay
Yên Khương
L.C
9
Có Pháng
Yên Khương
L.C
37
Poọng
Giao Thiện
L.C
10
Cộc Luông
Lâm Phú
L.C
38
Pu Hặc
Lâm Phú
L.C
11
Cón
Lâm Phú
L.C
39
Pung
Yên Khương
L.C
12
Hao
Yên Khương
L.C
40
Quan
Lâm Phú
L.C
13
Héo
Yên Khương
L.C
41
Quán
Lâm Phú
L.C
14
Héo Pê
Lâm Phú
L.C
42
Quan Chả
Đồng Lương
L.C
15
Hó
Lâm Phú
L.C
43
Re
Lâm Phú
L.C
16
Hóm
Lâm Phú
L.C
44
Rén
Cẩm Vân
C.T
17
Hôn
Yên Khương
L.C
45
Ruội
Lâm Phú
L.C
18
Hú Bom
Lâm Phú
L.C
46
Sài
Giao Thiện
L.C
19
Hum
Lâm Phú
L.C
47
Tá
Lâm Phú
L.C
20
Huối Pịp
Yên Khương
L.C
48
Tạo
Yên Khương
L.C
21
Hượn
Yên Khương
L.C
49
Tín Bán
Lâm Phú
L.C
22
Kho Lai
Yên Khương
L.C
50
Tín Bán
Trí Nang
L.C
23
Ky
Yên Khương
L.C
51
Tín Bán
Yên Lễ
N.X
24
Lạn Ngậu
Yên Khương
L.C
52
Tín Pu
Điền Quang
B.T
25
Lón
Yên Khương
L.C
53
Tín Pu
Lâm Phú
L.C
26
Lỵ
Lâm Phú
L.C
54
Tíu
Lâm Phú
L.C
27
Mương
Lâm Phú
L.C
55
Túng
Yên Khương
L.C
28
Nghe
Yên Khương
L.C
56
Xám
Lâm Phú
L.C
3. Trưa/tlưa: 31 địa danh
1
Cân Trương
Tân Phúc
L.C
17
Pện
Tân Phúc
L.C
2
Chả
Tân Phúc
L.C
18
Pheo
Giao Thiện
L.C
3
Cò Nhò
Giao Thiện
L.C
19
Phống
Tân Phúc
L.C
4
Cò Nu
Giao Thiện
L.C
20
Phư
Tân Phúc
L.C
5
Cò Tôống
Giao Thiện
L.C
21
Quan
Tân Phúc
L.C
6
Cọc
Tân Phúc
L.C
22
Sán
Giao Thiện
L.C
7
Hoai Meng
Giao Thiện
L.C
23
Sớ
Giao Thiện
L.C
8
Khẹt
Tân Phúc
L.C
24
Tải
Giao Thiện
L.C
9
Lậm
Giao Thiện
L.C
25
Thao Thỉa
Giao Thiện
L.C
10
Loi
Tân Phúc
L.C
26
Trăn
Giao Thiện
L.C
11
Mèn
Giao Thiện
L.C
27
Trăn
Tân Phúc
L.C
12
Mo
Giao Thiện
L.C
28
Tràng
Giao Thiện
L.C
13
Nau
Giao Thiện
L.C
29
Tràng Pục
Giao Thiện
L.C
14
Nhà Nọi
Giao Thiện
L.C
30
Tu
Giao Thiện
L.C
15
Ổi
Tân Phúc
L.C
31
Vọ
Tân Phúc
L.C
16
Păn Chạch
Tân Phúc
L.C
B. ĐỊA DANH CÁC ĐƠN VỊ CƯ TRÚ
1. Bản: 125 địa danh
1
Bá
Trung Lý
M.L
14
Cặt
Yên Thắng
M.L
2
Bán
Quang Chiểu
M.L
15
Cầu Chai II
Mường Chanh
M.L
3
Bôn
Yên Khương
L.C
16
Chà Lan
Mường Lý
M.L
4
Bóng
Mường Chanh
M.L
17
Chai
Mường Chanh
M.L
5
Buốc
Lâm Phú
L.C
18
Chanh
Đồng Lương
M.L
6
Buốc Hiềng
Hải Long
Q.H
19
Cháo
Ban Công
L.C
7
Buốn
Tén Tằn
M.L
20
Chiên Pục
Tén Tằn
M.L
8
Cá Giáng
Trung Lý
M.L
21
Chiêng Cồng
Đồng Lương
M.L
9
Cá Nọi
Pù Nhi
M.L
22
Chiềng Nưa
Mường Lý
M.L
10
Cá Tớp
Pù Nhi
M.L
23
Chim
Yên Thắng
M.L
11
Cân
Tam Chung
M.L
24
Co Cài
Quang Chiểu
M.L
12
Cang
Đồng Lương
M.L
25
Co Cài
Đồng Lương
M.L
13
Cánh Cộng
Trung Lý
M.L
26
Cơm
Pù Nhi
M.L
27
Cơn
Đồng Lương
L.C
60
Na Khà
én Tằn
M.L
28
Đoàn Kết
Tén Tằn
M.L
61
Na Tao
Pù Nhi
M.L
29
Đôn
Đồng Lương
M.L
62
Nậm Đanh
YênKhương
L.C
30
Đông
Xuân Thọ
N.T
63
Nàng 1
Mường Lý
M.L
31
Đông Ban
Pù Nhi
M.L
64
Nàng II
Mường Lý
M.L
32
Hạ Sơn
Pù Nhi
M.L
65
Ngàm
Yên Thắng
L.C
33
Hạm
Quang Chiểu
M.L
66
Ngày
Lâm Phú
L.C
34
Hằng
Yên Khương
L.C
67
Ngố
Mường Chanh
M.L
35
Hộc
Yên Thắng
M.L
68
Ớn
Tam Chung
M.L
36
Hua Pù
Đồng Lương
M.L
69
Pá Búa
Trung Lý
M.L
37
Kéo Té
Đồng Lương
M.L
70
Pá Hộc
Pù Nhi
M.L
38
Khằm I
Thanh Tân
N.T
71
Pá Quăn
Trung Lý
M.L
39
Khằm II
Trung Lý
M.L
72
Pan
Phú Xuân
Q.H
40
Khằm III
Trung Lý
M.L
73
Peo
Yên Thắng
L.C
41
Khon
Giao Thiện
M.L
74
Pha Đén
Pù Nhi
M.L
42
Kít
Mường Lý
M.L
75
Phai
Trung Thành
Q.H
43
Lách
Mường Lý
M.L
76
Phé
Phú Xuân
Q.H
44
Lát
Tam Chung
M.L
77
Pi
Lâm Phú
L.C
45
Lìn
Trung Lý
M.L
78
Piềng Mòn
Tén Tằn
M.L
46
Lốc Há
Pù Nhi
M.L
79
Piềng Tật
Mường Chanh
M.L
47
Ma Hác
Trung Lý
M.L
80
Pốc
Yên Thắng
L.C
48
Mau
Mường Lý
M.L
81
Pom Khuông
Tam Chung
M.L
49
Mè
Yên Khương
L.C
82
Pọng
Lâm Phú
L.C
50
Mỏ
Phú Xuân
Q.H
83
Pọng
Tam Chung
M.L
51
Mờng
Quang Chiểu
M.L
84
Pù Đứa
Quang Chiểu
M.L
52
Muỗng
Yên Khương
L.C
85
Pù Ngùa
Pù Nhi
M.L
53
Muống 1
Mường Lý
M.L
86
Pù Quăn
Pù Nhi
M.L
54
Muống 2
Mường Lý
M.L
87
Pù Toong
Pù Nhi
M.L
55
Mý
Phú Xuân
Q.H
88
Pùng
Quang Chiểu
M.L
56
Na Chừa
Mường Chanh
M.L
89
Qua
Quang Chiểu
M.L
57
Nà Đang
Lâm Phú
L.C
90
Quan Dao
Quang Chiểu
M.L
58
Na Hào
Mường Chanh
M.L
91
Sáng
Quang Chiểu
M.L
59
Nà Hin
Mường Chanh
M.L
92
Sáu
Xuân Thọ
N.T
93
Suối Lóng
Tam Chung
M.L
110
Trung Tiến II
Mường Lý
M.L
94
Suối Phái
Tam Chung
M.L
111
Tung
Trung Lý
M.L
95
Suối Tút
Quang Chiểu
M.L
112
Ún
Mường Lý
M.L
96
Tà Cóm
Trung Lý
M.L
113
Vặn
Yên Thắng
L.C
97
Tài Chánh
Mường Lý
M.L
114
Vần Trong
Yên Thắng
L.C
98
Tân Hương
Tam Chung
M.L
115
Vịn
Yên Thắng
L.C
99
Táo
Trung Lý
M.L
116
Xã
Yên Khương
L.C
100
Tén Tằn
Tén Tằn
M.L
117
Xa Lao
Trung Lý
M.L
101
Tiên
Lâm Phú
L.C
118
Xa Lung
Mường Lý
M.L
102
Tiến
Lâm Phú
L.C
119
Xài Khao
Mường Lý
M.L
103
Toong
Quang Chiểu
M.L
120
Xắng
Yên Khương
L.C
104
Tráng
Yên Thắng
L.C
121
Xậy
Trung Thành
Q.H
105
Trung Lập
Trung Thành
Q.H
122
Xì Lồ
Mường Lý
M.L
106
Trung Tâm
Trung Thành
Q.H
123
Xim
Quang Chiểu
M.L
107
Trung Thắng
Mường Lý
M.L
124
Yên Phong
Yên Phong
L.C
108
Trung Thắng
Trung Thành
Q.H
125
Yên Thành
Yên Thắng
L.C
109
Trung Tiến II
Mường Lý
M.L
2. Làng: 275 địa danh
1
Ấm
Cổ Lũng
B.T
15
Bít
Điền Thượng
B.T
2
Ấm
Lương Nội
B.T
16
Bồng
Lũng Niêm
B.T
3
Ấm
Cổ Lũng
B.T
17
Bồng Sơn
Phú Nhuận
N.T
4
Ấm
Điền Quang
B.T
18
Bồng Thượng
Phú Nhuận
N.T
5
Ao Ràng
Xuân Thái
N.T
19
Các
Xuân Du
N.T
6
Ấp Củ
Xuân Thái
N.T
20
Cầu Đất
Hải Long
N.T
7
Bả
Điền Thượng
B.T
21
Cầu Máng
Hải Vân
N.T
8
Ba Bái
Xuân Thái
N.T
22
Cây Nghia
Xuân Thái
N.T
9
Bái Đình
Xuân Thái
N.T
23
Cha
Thiết Kế
B.T
10
BáI Thất
Phúc Đường
N.T
24
Chạng
Thanh Sơn
N.X
11
Bái Tôm
Điền Quang
B.T
25
Chảy Kế
Thiết Kế
B.T
12
Bầm
Thành Lâm
B.T
26
Chén
Yên Thọ
N.T
13
Báng
Thành Sơn
B.T
27
Chiềng
Thiết Ống
B.T
14
Ben
Lương Nội
B.T
28
Chiềng Khạt
Đồng Lương
L.C
29
Chiềng Lẫm
Điền Lư
B.T
62
Điền Giang
Điền Lư
B.T
30
Chiềng Lẫm
Điền Lư
B.T
63
Điền Lý
Điền Lư
B.T
31
Chiềng Má
Điền Thượng
B.T
64
Điền Tiến
Điền Lư
B.T
32
Chiềng Mưng
Điền Thượng
B.T
65
Đô
Thiết Ống
B.T
33
Chiếu
Quang Hiến
L.C
66
Do Hạ
Cẩm Tân
C.T
34
Chợ Mới
Yên Thọ
N.T
67
Do Trung
Cẩm Tân
C.T
35
Chông
Lương Nội
B.T
68
Dốc
Thiết Ống
B.T
36
Chỏng
Đồng Lương
L.C
69
Đốc
Cổ Lũng
B.T
37
Chu
Thành Lâm
B.T
70
Đồi Cầu Máng
Hải Vân
N.T
38
Chùa
Xuân Du
N.T
71
Đồi Dẻ
Hải Vân
N.T
39
Chun
Thiết ống
B.T
72
Đòn
Lũng Niêm
B.T
40
Chun
Thiết Ống
B.T
73
Đòn
Lương Nội
B.T
41
Chung
Đồng Lương
L.C
74
Đòn
Thành Lâm
B.T
42
Chuối
Xuân Quỳ
N.X
75
Đôn
Thành Lâm
B.T
43
Cốc
Thiết Ống
B.T
76
Đồng
Lũng Niêm
B.T
44
Cốc
Thành Lâm
B.T
77
Đồng Chuối
Xuân Phúc
N.T
45
Cốc
Đồng Lương
L.C
78
Đồng Dẻ
Thanh Tân
N.T
46
Cọc
Thanh Lâm
N.X
79
Đong Điểng
Thành Sơn
B.T
47
Cốc Cáo
Lương Ngoại
B.T
80
Đồng Hải
Hải Long
N.T
48
Cốc I
Xuân Thái
N.T
81
Đồng Hơn
Xuân Khang
N.T
49
Cốc II
Xuân Thái
N.T
82
Đồng Lấm
Thanh Tân
N.T
50
Cón
Ái Thượng
B.T
83
Đồng Lớn
Hải Long
N.T
51
Côn
Ái Thượng
B.T
84
Đồng Long
Hải Long
N.T
52
Cống
Thanh Hoà
N.X
85
Đồng Lườn
Xuân Thái
N.T
53
Cú
Thiết Ống
B.T
86
Đồng Mưa
Xuân Khang
N.T
54
Cự Thịnh
Yên Thọ
N.T
87
Đồng Mười
Hải Vân
N.T
55
Cui
Đồng Lương
L.C
88
Đồng Quạ
Xuân Phúc
N.T
56
Đầm
Lương Nội
B.T
89
Đồng Quốc
Xuân Phúc
N.T
57
Dần Long
Lương Ngoại
B.T
90
Đồng Sình
Phú Nhuận
N.T
58
Đanh
Thành Lâm
B.T
91
Đồng Thung
Phượng Nghi
N.T
59
Đào
Điền Quang
B.T
92
Đồng Trung
Xuân Phúc
N.T
60
Đền
Giao Thiện
L.C
93
Đồng Ván
Thanh Kỳ
N.T
61
Điền Giang
Điền Lư
B.T
94
Đồng Xã
Xuân Phúc
N.T
95
Đồng Xuân
Hải Long
N.T
128
Khò
Điền Quang
B.T
96
Đủ
Lũng Niêm
B.T
129
Kho Mường
Thành Sơn
B.T
97
Đức Nhuận
Phú Nhuận
N.T
130
Khu 1
Giao Thiện
L.C
98
Eo Điếu
Cổ Lũng
B.T
131
Khung
Thiết Kế
B.T
99
Eo Kén
Thành Sơn
B.T
132
Khước
Điền Quang
B.T
100
Eo Son
Phú Nhuận
N.T
133
Khuyn
Cổ Lũng
B.T
101
Giang Khê
Xuân Du
N.T
134
Kim Sơn
Hải Vân
N.T
102
Giầu Cả
Lương Ngoại
B.T
135
La Ca
Cổ Lũng
B.T
103
Gió
Bình Lương
N.X
136
Lác
Cổ Lũng
B.T
104
Giổi
Ái Thượng
B.T
137
Lằn Sổ
Giao Thiện
L.C
105
Hải Tân
Hải Long
N.T
138
Lặn Trong
Lũng Niêm
B.T
106
Hải Thanh
Hải Long
N.T
139
lau
Điền Thượng
B.T
107
Hải Xuân
Hải Long
N.T
140
Leo
Thành Lâm
B.T
108
Hang
Thiết Ống
B.T
141
Liên Thành
Thiết Ống
L.C
109
Hiêu
Cổ Lũng
B.T
142
Lồng
Thanh Lâm
N.X
110
Hồ Quang
Điền Quang
B.T
143
Lọng
Cổ Lũng
B.T
111
Hợi
Xuân Du
N.T
144
Lự
Thanh Lâm
N.X
112
Hón Tỉnh
Thanh Sơn
N.X
145
Lữ Trung
Cẩm Tân
C.T
113
Hồng Sơn
Phúc Đường
N.T
146
Lụa
Cẩm Sơn
C.T
114
Hợp Thịnh
Yên Thọ
N.T
147
Lung
Tân Bình
N.X
115
Húng
Giao Thiện
L.C
148
Lúng
Xuân Thái
N.T
116
Hùng Sơn
Yên Thọ
N.T
149
Lúng
Yên Cát
N.X
117
Kế
Thiết Kế
B.T
150
Lùng
Điền Quang
B.T
118
Kẻ Mạnh 1
Thanh Sơn
N.X
151
Lườn
Bình Lương
N.X
119
Kẻ Mạnh 2
Thanh Sơn
N.X
152
Luồng
Thiết Kế
B.T
120
Kẻ Xui
Thanh Sơn
N.X
153
Luyện
Điền Quang
B.T
121
Kèn
Thanh Lâm
N.X
154
Má
Bãi Trành
N.X
122
Kha
Thanh Lâm
N.X
155
Mài
Bình Lương
N.X
123
Khà
Ái Thượng
B.T
156
Man
Hạ Trung
B.T
124
Khà
Điền Quang
B.T
157
Măng
Lương Ngoại
B.T
125
Khả La
Thanh Tân
N.T
158
Mé
Ái Thượng
B.T
126
Khai
Lương Nội
B.T
159
Mó
Xuân Thái
N.T
127
Khe Sình
Phú Nhuận
N.T
160
Mó II
Xuân Thọ
N.T
161
Mỏ Măng
Thành Lâm
B.T
194
Phúc Hưng
Phúc Đường
N.T
162
Mó1
Xuân Thọ
N.T
195
Phúc Tỉnh
Thanh Tân
N.T
163
Mốc
Đồng Lương
L.C
196
Phượng Xuân
Xuân Khang
N.T
164
Mới
Thanh Sơn
N.X
197
Poọng
Giao Thiện
L.C
165
Môn
Hạ Trung
B.T
198
Quăn
Lũng Niêm
B.T
166
Mùn
Cẩm Sơn
C.T
199
Quan Phác
Cẩm Vân
C.T
167
Mười
Điền Quang
B.T
200
Quần Thọ
Yên Thọ
N.T
168
Mưỡn
Điền Quang
B.T
201
Quảng Đại
Xuân Thái
N.T
169
MuốnĐồi
Điền Quang
B.T
202
Quên
Đồng Lương
L.C
170
Mý
Ái Thượng
B.T
203
Quyết Thắng
Thiết Ống
B.T
171
Mỹ
Yên Thọ
N.T
204
Rảy
Thanh Lâm
N.X
172
Ná Cọ
Thanh Sơn
N.X
205
Riềng
Điền Lư
B.T
173
Nà Khà
Cổ Lũng
B.T
206
Rộc Răm
Xuân Phúc
N.T
174
Nam Ngạn
Phúc Đường
N.T
207
Ry
Lương Nội
B.T
175
NamMinh
Phúc Đường
N.T
208
Sặng
Thiết Ống
B.T
176
Nán
Thiết Ống
B.T
209
Sen
Xuân Du
N.T
177
Nang
Cổ Lũng
B.T
210
Si
Cẩm Sơn
C.T
178
Nê
Đồng Lương
L.C
211
Són
Lương Nội
B.T
179
Ngọc Sinh
Lương Ngoại
B.T
212
Sông Mã
Điền Lư
B.T
180
Ngòn
Thành Lâm
B.T
213
Suội
Thiết Ống
B.T
181
Nông Công
Thành Sơn
B.T
214
Tam Liên
Điền Quang
L.C
182
Nước Trong
Xuân Phúc
N.T
215
Tân Hùng
Thanh Tân
N.T
183
Pà Ban
Thành Sơn
B.T
216
Tân Lập
Yên Thọ
N.T
184
Pà Khà
Thành Sơn
B.T
217
Tân Long
Hải Long
N.T
185
Phìa
Cổ Lũng
B.T
218
Tân Mỹ
Thanh Tân
N.T
186
Phú Nhuận
Phú Nhuận
N.T
219
Tân Thành
Thanh Tân
N.T
187
Phú Nhuận
Phú Nhuận
N.T
220
Tân Thọ
Yên Thọ
N.T
188
Phú Phượng 1
Phú Nhuận
N.T
221
Tân Tiến
Cẩm Tân
C.T
189
Phú Phượng 2
Phú Nhuận
N.T
222
Tân Tiến
Thanh Tân
N.T
190
Phú Phượng 3
Phú Nhuận
N.T
223
Tây Sơn
Phúc Đường
N.T
191
Phú Phượng 4
Phú Nhuận
N.T
224
Tến Mới
Cổ Lũng
B.T
192
Phú Quang
Phú Nhuận
N.T
225
Thắng Lộc
Bình Lương
N.X
193
Phú Xuân
Cẩm Tân
C.T
226
Thanh Bình
Thanh Kỳ
N.T
227
Thanh Quang
Thanh Tân
N.T
252
Tượt
Giao Thiện
L.C
228
Thanh Sơn
Phú Nhuận
N.T
253
Ươi
Lũng Niêm
B.T
229
Thanh Vinh
Thanh Tân
N.T
254
Vân Thanh
Hải Vân
N.T
230
Thanh Xuân
Thanh Tân
N.T
255
Vèn
Aí Thượng
B.T
231
Thanh Xuân
Xuân Thái
N.T
256
Vền.
Điền Quang
B.T
232
Thiết Giang
Thiết Ống
B.T
257
Vĩnh Lợi
Hải Long
N.T
233
Thống Nhất
Yên Thọ
N.T
258
Võ
Điền Lư
B.T
234
Thung
Aí Thượng
B.T
259
Xằm
Thanh Lâm
N.X
235
Thung Khế
Phú Nhuận
N.T
260
Xắng
Thanh Lâm
N.X
236
Thướn
Cẩm Tân
C.T
261
Xay Luồi
Điền Thượng
B.T
237
Thượng Sơn
Điền Thượng
B.T
262
Xê
Điền Quang
B.T
238
Thúy
Thiết Ống
B.T
263
Xong Long
Giao Thiện
L.C
239
Tiên Thắng
Phúc Đường
N.T
264
Xuân Cường
Xuân Khang
N.T
240
Tiền Tiến
Thanh Tân
N.T
265
Xuân Hoà
Xuân Khang
N.T
241
Tôm
Aí Thượng
B.T
266
Xuân Hùng
Xuân Du
N.T
242
Trạch Khang
Xuân Khang
N.T
267
Xuân Hưng
Xuân Khang
N.T
243
Trại Hà
Cẩm Tân
C.T
268
Xuân Lai
Hải Vân
N.T
244
Trại Quan
Xuân Phúc
N.T
269
Xuân Lộc
Xuân Khang
N.T
245
Trần
Lương Nội
B.T
270
Xuân Phong
Hải Vân
N.T
246
Trệch
Thiết Ống
B.T
271
Xuân Sinh
Xuân Khang
N.T
247
Trênh
Aí Thượng
B.T
272
Xuân Thọ
Yên Thọ
N.T
248
Triu
Điền Lư
B.T
273
Xuân Tiến
Xuân Khang
N.T
249
Trung
Thanh Quân
N.X
274
Xuốm
Đồng Lương
L.C
250
Trung Tâm
Aí Thượng
B.T
275
Yên Trung
Yên Thọ
N.T
251
Trung Vạo
Xuân Du
N.T
3. Xóm: 10 địa danh
1
Cây Gạo
Phượng Nghi
N.T
6
Khe Tróng
Phượng Nghi
N.T
2
Cây U
Phượng Nghi
N.T
7
Nam Thọ
Yên Lạc
N.T
3
Cò Ràn
Yên Lạc
N.T
8
Quế
Yên Lễ
N.X
4
Đồng Trổ
Yên Lạc
N.T
9
Tiền Định
Phú Nhuận
N.T
5
Đù Mù
Phượng Nghi
N.T
10
Tiền Quang
Phú Nhuận
N.T
C. ĐỊA DANH CÁC CÔNG TRÌNH NHÂN TẠO
1. Bai 3 địa danh
1
Mít
Cẩm Phú
C.T
3
Quan
Đồng Lương
L.C
2
Nè
Cẩm Phú
C.T
2. Đập: 115 địa danh
1
Ao Bai
Yên Lễ
N.X
28
Cây Si
Xuân Khang
N.T
2
Ao Bươu
Bình Lương
N.X
29
Cây Sổ
Xuân Thọ
N.T
3
Ao Đẩy
Yên Lễ
N.X
30
Cây Sổ
Yên Thọ
N.T
4
Ao Hôm
Yên Lễ
N.X
31
Cây Xộp
Xuân Phúc
N.T
5
Ao Lác
Yên Lạc
N.T
32
Cây Xộp
Xuân Phúc
N.T
6
Ao Lác
Yên Lạc
N.T
33
Chà
Yên Khương
L.C
7
Ao Sen
Yên Lạc
N.T
34
Chậm
Yên Thọ
N.T
8
Ao Tổ
Xuân Thọ
N.T
35
Chuối Ong
Xuân Phúc
N.T
9
Bà Đồng
Cán Khê
N.T
36
cồn Địa
Mậu Lâm
N.T
10
Bà Lan
Thanh Tân
N.T
37
Con Hoẵng
Xuân Hoà
N.X
11
bà ngẫu
Mậu Lâm
N.T
38
Đá bàn
Phú Nhuận
N.T
12
Bai
Cán Khê
N.T
39
Đang Giàng
Yên Khương
L.C
13
Bai Bương
Cẩm Tâm
C.T
40
Dốc Cục
Xuân Phúc
N.T
14
Bai Đán
Văn Nho
B.T
41
Đông
Cán Khê
N.T
15
Bai Dốt
Cẩm Châu
C.T
42
Đồng Bể
Xuân Du
N.T
16
BáI Sói
Xuân Phúc
N.T
43
Đồng Bồ
Cán Khê
N.T
17
Băng Phái
Yên Thắng
L.C
44
Đồng Chuối
Xuân Phúc
N.T
18
Bảy nón
Yên Lễ
N.X
45
Đồng Khoang
Cán Khê
N.T
19
Bến Bằng
Cẩm Tâm
C.T
46
Đồng Nhòng
Cán Khê
N.T
20
Bến Ván
Xuân Khang
N.T
47
Đồng Ớt
Hoá Quỳ
N.X
21
Bộ Đội
Xuân Phúc
N.T
48
Đồng Phống
Thanh Xuân
N.X
22
Bồ Kết
Cẩm Tâm
C.T
49
Đồng Quạ
Xuân Phúc
N.T
23
Bu Bu
Mậu Lâm
N.T
50
Đồng Sau
Mậu Lâm
N.T
24
Cây Đa
Yên Lễ
N.X
51
Đồng Thổ
Bình Lương
N.X
25
Cây Mè
Điền Hạ
B.T
52
Đồng Trung
Xuân Phúc
N.T
26
Cây Nháp
Xuân Thọ
N.T
53
Đồng Trước
Mậu Lâm
N.T
27
Cây ổi
Cán Khê
N.T
54
Eo gấm
Mậu Lâm
N.T
55
Hàm Bò
Mậu Lâm
N.T
87
Ông Hoà
Cán Khê
N.T
56
Hang Trâu
Cẩm Liên
C.T
88
Phái Luồng
Cán Khê
N.T
57
Hố Chè
Xuân Thọ
N.T
89
Phái Má
Yên Thắng
L.C
58
Hố Chu
Cán Khê
N.T
90
Phai Sơ
Giao Thiện
L.C
59
Hòn Hó
Yên Thắng
L.C
91
Phai Sổ
Giao Thiện
L.C
60
Huối Háo
Yên Thắng
L.C
92
Quốc
Xuân Phúc
N.T
61
Huối Lìm Tạch
Yên Thắng
L.C
93
Quyết tâm
Mậu Lâm
N.T
62
Huối Thiếng Sơ
Yên Thắng
L.C
94
Rảy Cằm
Cán Khê
N.T
63
Kẻ Din
Thanh Quân
N.X
95
Rẫy Cò
Yên Lạc
N.T
64
Kẻm Cai
Yên Thắng
L.C
96
Rẫy Cồ
Yên Lạc
N.T
65
Khe Bò
Thanh Hoà
N.X
97
Rọc Ang
Mậu Lâm
N.T
66
Khe Dài
Phúc Đường
N.T
98
Sổ
Xuân Phúc
N.T
67
Khe Đu
Xuân Phúc
N.T
99
Suối Bá
Yên Khương
L.C
68
Khe Tre
Yên Lạc
N.T
100
Tảo Khai
Yên Khương
L.C
69
Lâm Danh
Lâm Phú
L.C
101
Thăng Bình
Yên Cát
N.X
70
Làng Chuối
Xuân Quỳ
N.X
102
Thanh Thuỷ
Thanh Xuân
N.X
71
Làng Lúng
Yên Cát
N.X
103
Thông Cũ
Cẩm Phú
C.T
72
Làng Mài
Bình Lương
N.X
104
Trại Cáo
Tân Bình
N.X
73
Làng Sen
Cán Khê
N.T
105
Trạm xá
Mậu Lâm
N.T
74
Mai Thắng
Tân Bình
N.X
106
Tràn
Cẩm Thạch
C.T
75
Máu Chó
Cán Khê
N.T
107
Tràn
Cẩm Tú
C.T
76
Mè
Yên Khương
L.C
108
Tràn
Kỳ Tân
B.T
77
Mo Mường
Yên Thắng
L.C
109
Tráu Huối Giáng.
Yên Thắng
L.C
78
Mó Sướng
Lương Trung
B.T
110
Trung Thành
Yên Lễ
N.X
79
Mới
Xuân Phúc
N.T
111
Và Và
Yên Thọ
N.T
80
Mỹ Ré
Yên Lễ
N.X
111
Và Và
Yên Thọ
N.T
81
Ngầm Tràn
Thanh Lâm
N.X
112
Vân Thượng
Cát Vân
N.X
82
Ngọc Đôn
Bình Lương
N.X
113
Vộ
Cẩm Tân
C.T
83
Ngọc Sớm
Mậu Lâm
N.T
114
Vũng Cầu
Cẩm Tâm
C.T
84
Nước Trong
Xuân Phúc
N.T
115
Xắng
Thanh Lâm
N.X
85
Ông Dân
Yên Lạc
N.T
86
Ông Dực
Xuân Phúc
N.T