BÔ ̣GIÁO DUC̣ VÀ ĐÀO TAỌ
TRƢỜNG ĐAỊ HOC̣ VINH
TRẦN THỊ HOÀNG YẾN
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC, NGỮ NGHĨA
CỦA HÀNH ĐỘNG CHỬI QUA LỜI THOẠI
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
LUÂṆ ÁN TIẾN SI ̃NGƢ̃ VĂN
NGHỆ AN - 2014
BÔ ̣GIÁO DUC̣ VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐAỊ HOC̣ VINH
TRẦN THỊ HOÀNG YẾN
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC, NGỮ NGHĨA
CỦA HÀNH ĐỘNG CHỬI QUA LỜI THOẠI
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LÍ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ: 62 22 01 01
LUÂṆ ÁN TIẾN SI ̃NGƢ̃ VĂN
Ngư
172 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 518 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời hướng dẫn khoa học:
GS. TS. ĐỖ THỊ KIM LIÊN
NGHỆ AN - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án
chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận án
Trần Thị Hoàng Yến
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 8
4. Đối tượng nghiên cứu và nguồn dẫn liệu ............................................................. 9
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 9
6. Đóng góp của luận án ........................................................................................ 10
7. Cấu trúc của luận án .......................................................................................... 10
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ....................................................................... 11
1.1. Lý thuyết hội thoại .......................................................................................... 11
1.1.1. Khái niệm hội thoại ......................................................................................... 11
1.1.2. Các vận động hội thoại ................................................................................... 11
1.1.3. Các đơn vị hội thoại ........................................................................................ 13
1.2. Lý thuyết về hành động ngôn ngữ ................................................................... 19
1.2.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ ............................................................... 19
1.2.2. Phân loại hành động ngôn ngữ ................................................................. 21
1.2.3. Điều kiện sử dụng hành động ở lời và việc phân loại các hành động
ở lời ......................................................................................................... 22
1.2.4. Phát ngôn ngữ vi và biểu thức ngữ vi........................................................ 26
1.3. Hành động chửi với vấn đề lịch sự trong hội thoại .......................................... 28
1.3.1. Khái niệm hành động chửi .............................................................................. 28
1.3.2. Phân biệt hành động chửi trong văn bản nghệ thuật với hành động
chửi trong giao tiếp đời thường ...................................................................... 31
1.3.3. Lịch sự trong hội thoại .................................................................................... 34
1.3.4. Quan hệ giữa hành động chửi với vấn đề lịch sự trong hội thoại ............... 36
1.4. Truyêṇ ngắn và đặc trưng lời thoại nhân vật trong truyêṇ ngắn Viêṭ Nam ....... 37
1.4.1. Truyêṇ ngắn và đặc trưng lời thoại nhân vật trong truyêṇ ngắn .................. 37
1.4.2. Chức năng của lời thoại nhân vật trong truyện ngắn .................................... 39
1.5. Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 41
Chƣơng 2. NHẬN DIỆN VÀ PHÂN LOẠI HÀNH ĐỘNG CHỬI
QUA LỜI THOẠI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
VIỆT NAM ....................................................................................... 42
2.1. Điều kiện xác định hành động chửi ................................................................. 42
2.2. Dấu hiệu nhận diện hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện
ngắn Việt Nam ...................................................................................................... 45
2.2.1. Dưạ vào lời dâñ thoaị ...................................................................................... 45
2.2.2. Dựa vào biểu thức ngữ vi................................................................................ 52
2.3. Phân loại hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam ....... 60
2.3.1. Căn cứ phân loại hành động chửi ................................................................... 60
2.3.2. Các nhóm hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn
Việt Nam .......................................................................................................... 62
2.4. Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 71
Chƣơng 3. CẤU TRÚC HÀNH ĐỘNG CHỬI QUA LỜI THOẠI
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM..................... 73
3.1. Khái niệm cấu trúc .......................................................................................... 73
3.2. Cấu trúc tham thoại chứa hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong
truyện ngắn Việt Nam ........................................................................................... 74
3.2.1. Khái quát về hành động chửi và hành động đi kèm hành động chửi ........... 74
3.2.2. Kết quả thống kê số lượng hành động chửi và hành động đi kèm
hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam ........... 75
3.3. Mô tả hành động chửi và hành động đi kèm hành đôṇg chửi qua lời thoại
nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam .................................................................... 76
3.3.1. Mô tả hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt
Nam .................................................................................................................. 76
3.3.2. Mô tả hành động đi kèm hành đôṇg chửi qua lời thoại nhân vật trong
truyện ngắn Việt Nam ..................................................................................... 94
3.3.3. Liên kết giữa hành động chửi với hành động đi kèm hành đôṇg chửi
qua lời thoaị của nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam ............................. 101
3.4. Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 103
Chƣơng 4. NGỮ NGHĨA HÀNH ĐỘNG CHỬI QUA LỜI THOẠI
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM................... 105
4.1. Khái quát về nghĩa trong phát ngôn .............................................................. 105
4.1.1. Khái niệm nghĩa trong phát ngôn ................................................................. 105
4.1.2. Các nhân tố chi phối ngữ nghĩa hành động chửi ......................................... 106
4.2. Các nhóm ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong
truyện ngắn Việt Nam ......................................................................................... 120
4.2.1. Thống kê số lượng các nhóm ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời
thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam ................................................ 120
4.2.2. Mô tả các nhóm ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời thoại nhân
vật trong truyện ngắn Việt Nam ................................................................... 122
4.3. Đặc trưng văn hóa ứng xử của người Việt thể hiện qua thành tố ngữ
nghĩa hành động chửi của nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam ......................... 129
4.3.1. Sử dụng từ ngữ chỉ tâm linh trong hành đôṇg chửi ..................................... 129
4.3.2. Sử dụng từ ngữ chỉ quan hệ gia đình, thân tộc ............................................ 131
4.3.3. Sử dụng từ ngữ chỉ nghề nghiệp xấu bi ̣ lên án ............................................ 132
4.3.4. Sử dụng từ ngữ tục tĩu, những từ chỉ bộ phận kín của cơ thể ..................... 134
4.3.5. Sử dụng từ ngữ gọi con vật bị xem xấu xí , tầm thường .............................. 135
4.3.6. Sử dụng từ ngữ gọi tình trạng cơ thể không bình thường ........................... 135
4.4. Vai trò của hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam ..... 137
4.4.1. Góp phần thể hiện phong cách, ý đồ nghê ̣thuâṭ của tác giả....................... 137
4.4.2. Góp phần thể hiện đặc điểm tâm lý tiêu cực của nhân vật ......................... 141
4.4.3. Góp phần thể hiện đặc điểm tính cách, số phận của nhân vật .................... 143
4.5. Tiểu kết chương 4 ......................................................................................... 146
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ......................................................................... 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 153
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN LÀM VÍ DỤ .............................................................. 163
MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ
Trang
Bảng 2.1. Các nhóm hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn
Việt Nam ........................................................................................... 62
Bảng 3.1. Thống kê tham thoại có hành đôṇg chửi và hành đôṇg đi kèm
qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam ............................ 75
Bảng 3.2. Thống kê tham thoại có một hay nhiều hành đôṇg chửi ...................... 76
Bảng 3.3. Thống kê tham thoại có hành đôṇg chửi và hành đôṇg đi kèm
hành động chửi .................................................................................. 78
Bảng 3.4. Thống kê số lượng tham thoại có hành đôṇg đi kèm hành đôṇg
chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam ..................... 94
Bảng 4.1. Thống kê các mối quan hệ thân cận giữa vai chửi và vai bị chửi ...... 108
Bảng 4.2. Thống kê số lượng hành động chửi của nhân vật nam và nhân vật
nữ trong truyện ngắn Việt Nam ........................................................ 112
Bảng 4.3. Thống kê số lượng hành động chửi nhân vật xét theo quan hệ vị thế .... 115
Bảng 4.4. Bảng thống kê các nhóm ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời thoại
nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam ............................................... 121
BẢNG CHÚ THÍCH KÍ HIỆU VIẾT TẮT
TT Nội dung viết tắt Kí hiệu viết tắt
1 Người nói Sp1
2 Người nghe Sp2
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Cùng với sự phát triển của lý thuyết ngữ dụng học, các hành động nói
năng nói chung và các tiểu nhóm hành động ngôn ngữ nói riêng thực sự được quan
tâm nghiên cứu ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Ở hình thức lời nói cá nhân, các
sự kiện ngôn ngữ quen thuộc có đích giao tiếp lịch sự đã được các nhà nghiên cứu
chú ý tìm hiểu như hành động hỏi, hành động cầu khiến, hành động trần thuật, hành
động cho tặng, hành động rào đón, hành động khen Tuy vậy, hành động ngôn
ngữ kém lịch sự chưa được quan tâm nhiều hoặc quan tâm chưa đầy đủ, đặc biệt là
hành động chửi. Đây là hành động thường được sử dụng trong khẩu ngữ lẫn trong
tác phẩm văn chương, thế nhưng, vẫn chưa có đề tài luận án tiến sĩ nào tìm hiểu
hành động này.
1.2. Trong thực tiễn giao tiếp hàng ngày, con người luôn tìm cách sử dụng
ngôn từ một cách lịch sự, văn hoá tạo ra sự gần gũi, thân mật. Vậy nhưng, cũng có
lúc, vì lý do nào đấy, sự giao tiếp không nhằm tới mục đích lịch sự, mà ngược lại.
Hành động chửi được sử dụng thuộc nhóm mục đích giao tiếp thứ hai này.
Chửi là một kiểu hành động ngôn ngữ thường gặp, quen thuộc với nhiều
người ở mọi thời đại, mọi dân tộc, ở mọi tầng lớp khác nhau. Theo quan niệm
chung của xã hội, chửi thường được xem là hiện tượng “kém văn hoá”, vì thế nó bị
phê phán, lên án và hạn chế phạm vi sử dụng, nhất là ở nơi công cộng. Trên thực tế,
hành động chửi vẫn tồn tại và phát triển trong lời nói ở nhiều giai tầng xã hội khác
nhau, cả những người có trình độ văn hoá thấp lẫn những người có trình độ văn hoá
cao, cả nam lẫn nữ, cả người cao tuổi lẫn người ít tuổi. Trong văn bản nghệ thuật,
hành động chửi cũng được nhà văn sử dụng để miêu tả lời thoại nhân vâṭ một cách
sâu sắc, từ góc nhìn nghệ thuật. Vì vậy, chúng không còn là hiện tượng ngoại lệ, bị
gạt bỏ mà cần được xem xét, nghiên cứu. Nghiên cứu hành động chửi sẽ góp phần
tìm hiểu những cơ chế tâm lý bức xúc của người nói dẫn đến hành động chửi như
một hiện tượng xã hội. Việc tìm hiểu cấu trúc, ngữ nghĩa của một hành động như
thế không còn là hiện tượng ngoại biên mà mang tính phổ quát cho nhiều ngôn ngữ,
2
theo chúng tôi là việc làm cần thiết. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số
nhận xét biểu hiện đặc trưng tư duy - văn hoá trong giao tiếp của người Việt.
1.3. Trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, chúng ta bắt gặp hành động chửi
thường xuất hiện ở chợ, ở nơi xếp hàng mua vé, ở bệnh viện, trong lúc họp hành,
khi tham gia giao thông và ngay cả trong gia đình, Và đặc biệt, trong văn bản
nghệ thuật, hành động chửi được các nhà văn sử dụng qua lời thoại nhân vật ở
những ngữ cảnh khá đa dạng. Do giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu
hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại, tiêu
biểu nhất là của các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyễn Huy Thiệp,
Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh Việc nghiên cứu hành động chửi qua lời thoại nhân
vật trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại góp phần chỉ ra cách thức tổ chức lời nói
vốn có diêṇ maọ sinh động, đa dạng tồn tại trong đời thường, được hư cấu, chọn lọc
nhờ lăng kính thẩm mỹ và đặc điểm phong cách nghệ thuật của các nhà văn. Đồng
thời, tìm hiểu hành động này, chúng tôi mong muốn đươc̣ cung cấp thêm những cứ
liệu phù hợp, làm phong phú lý thuyết hội thoại.
Với những lý do lý luận và thực tiễn nói trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Đặc
điểm cấu trúc, ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện
ngắn Việt Nam.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CƢ́U
Theo hướng nghiên cứu hành động ngôn từ, hướng nghiên cứu có mối liên
hệ trực tiếp với đề tài, năm 1955, có J.L. Austin đã phát hiện ra bản chất của ngôn
ngữ “Khi chúng ta nói năng là chúng ta đang thực hiện một loại hành động đặc biệt
mà phương tiện là ngôn ngữ. Một hành động ngôn ngữ được thực hiện khi một
người nói (người viết) nói ra một phát ngôn cho người nghe (hoặc người đọc) trong
ngữ cảnh. J.L. Austin cho rằng có 3 loại hành động ngôn ngữ lớn: hành vi tạo lời
(acte locutoire), hành vi mượn lời (acte perlocutoire) và hành vi ở lời (acte
illocutoire) [10, tr.88]. Các chỉ dẫn về các hành động ngôn từ của J.L. Austin cho
thấy vai trò quan trọng của hiệu lực phát ngôn trong ngữ cảnh. Đặc biệt là hiệu lực
hành vi phát ngôn ở lời. Trong đó, các phát ngôn ngữ vi là sản phẩm cũng là
phương tiện tạo ra giá trị hành chức hiển ngôn và hàm ngôn của các hành vi ở lời.
3
Dựa các động từ ngữ vi, J.L. Austin tiếp tục phân loại thành các phạm trù: (1) phán
xử (verditives, verditifs); (2) hành xử (exrcitives, exercitifs); (3) cam kết
(commisives, commissifs); (4) trình bày (expositives, expositifs); (5) ứng xử
(behabitives, comportementaux). Trong những nhóm trên, tác giả xếp nguyền rủa
(chửi) vào phạm trù ứng xử thể hiện hành động phản ứng với cách xử sự của người
khác, đối với các sự kiện có liên quan.
J.R. Searle (1975) sử dụng 4 tiêu chí: đích ở lời, hướng khớp ghép, trạng thái
tâm lý và tiêu chí nội dung mệnh đề, đã phân lập được 5 loại hành vi ở lời. Đó là:
tái hiện (representatives), điều khiển (directives, directifs), cam kết (commissives,
commissifs), biểu cảm (expresives, expressifs), tuyên bố (declarations, declaratifs)
[10, tr.125]. Theo cách phân loại này, hành động chửi xếp vào nhóm biểu cảm. Vì
đích ở lời của nhóm biểu cảm là bày tỏ trạng thái tâm lý phù hợp với hành vi ở lời
(vui thích/khó chịu, mong muốn/rẫy bỏ, v.v). Trạng thái tâm lý thay đổi tùy theo
mỗi hành vi; nội dung mệnh đề là một hành động hay một tính chất nào đó của Sp1
hay của Sp2.
Tiếp theo, tác giả H.D. Grice, khi nghiên cứu lý thuyết hội thoại, đã phân thành
4 phương châm: lượng, chất, quan hệ và cách thức. Về cách thức giao tiếp, theo ông,
nên dựa vào quy tắc tôn trọng thể diện người hội thoại để tránh lối nói gây nên tác động
xấu đối với người nghe, làm cho họ cảm thấy tủi thân hoặc “mất mặt”. Như vậy, thái
độ của người nói cần khiêm tốn khi tham gia giao tiếp cùng người khác.
Nhìn chung, các tác giả ngoài nước có đề cập đến hành động chửi và xem nó
như một tiểu nhóm hành động ngôn ngữ trong khi phân loại.
Ở trong nước, các công trình nghiên cứu trực tiếp về hành động chửi trong
giao tiếp của người Việt đã được khai thác tư liệu trên hai nguồn chính: lời nói hàng
ngày và lời thoại nhân vật tác phẩm văn học (truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết,
kịch, ca dao). Tuy nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu chủ yếu phân tích, lý giải
cơ chế tạo hành động chửi và biểu hiện của chúng trên cơ sở nguồn tư liệu thứ hai.
Có thể điểm đến các công trình như:
Cuốn Ngoa ngữ trong dân gian Việt Nam (1998) do soạn giả Nguyễn Văn
Hoa sưu tầm đã cho thấy sự dụng công của việc tập hợp các lời chửi trong dân
4
gian Việt Nam. Tác giả đã lí giải rất sinh động nguồn gốc các lời chửi và nêu ra
nguyên tắc hình thành tiếng chửi trong dân gian. Theo tác giả, “ngoại trừ tiếng
chửi nựng yêu con cháu hoặc tiếng răn đe kiểu “đóng cửa trong nhà bảo nhau của
bà nội, bà ngoại, bà dì, bà cô còn lại, theo tôi, do tâm trạng nặng nề, cáu giận,
thù ghét mà phải bật lên tiếng chửi. Đó là võ miệng cần thiết để hạ nhục đối
phương, tiếng chửi càng to, càng kéo dài, càng sâu sắc, càng tục tĩu thì càng áp
đảo mạnh đối phương” [47, tr.38].
Tác giả Đỗ Thị Kim Liên trong chuyên khảo Ngữ nghĩa lời hội thoại (1999)
đã đi sâu vào các vấn đề chủ chốt nhất của ngữ nghĩa lời hội thoại với những yếu tố
cấu thành lời hội thoại (lời trao - lời đáp) qua các hành động ngôn từ. Tác giả đã chỉ
ra cách thức thực hiện và sự tương tác lời trao - lời đáp trong các vai trao - đáp
trong lời hội thoại. Tác giả viết: nếu “lời trao là một câu đe doạ, là lời chửi rủa
thách thức hay lời cảnh báo” thì lời đáp “là sự bác bỏ hay hưởng ứng”. Tác giả còn
biện giải cụ thể qua từng cặp tương ứng, đó là: a) nếu “Lời trao là một câu đe doạ sẽ
thực hiện hành động chân tay” thì “Lời đáp là một sự bác bỏ về hành vi đe doạ”, b)
nếu “Lời trao là một câu thách thức” thì “Lời đáp gián tiếp bác bỏ nội dung câu
thách thức”, c) nếu “Lời trao là câu thách thức” thì “Lời đáp công khai tấn công lời
thách thức đó”, “Lời trao là một lời cảnh báo, nhắc nhở. Lời đáp gián tiếp bày tỏ
thái độ không hợp tác, không thân thiện, chửi cạnh khoé”; d) nếu “Lời trao là một
lời thách thức có tính giải trình nhằm gián tiếp chửi cạnh khóe người nghe thì lời
đáp cũng thể hiện thái độ thách thức” [71, tr.155]. Có thể nói, cùng với 5 tiểu nhóm
trên là những ví dụ minh họa hết sức thú vị, phù hợp cho từng cặp trao - đáp, gợi ý
cho người đọc về mối quan hệ liên nhân giữa các nhân vật khi tham gia giao tiếp.
Tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam (1999) nhận
xét về nghệ thuật ngôn từ Việt Nam qua lời chửi, ông đã khẳng định: “Thậm chí
ngay cả trong việc chửi, người Việt cũng chửi bài bản, cân đối, nhịp nhàng, đầy
chất thơ, không chỉ lời chửi mà cả cách chửi, dáng điệu chửi... cũng mang tính nhịp
điệu. Với lối chửi có vần điệu, cấu trúc chặt chẽ, người Việt có thể chửi từ giờ này
sang giờ khác mà không nhàm chán. Đó là một “nghệ thuật độc đáo mà có lẽ không
một dân tộc nào trên thế giới có thể có được” [114, tr.162]. Đứng ở góc độ nghiên
5
cứu ngôn ngữ liên văn hoá , chúng tôi khẳng điṇh sự cần thiết của việc tìm hiểu và
lý giải hành động ngôn ngữ này.
Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt - các phát ngôn đơn phần (2006), tác giả
Phan Mậu Cảnh, khi phân loại các phát ngôn đã xếp phát ngôn phản ứng gồm: lời
chửi, mắng, mỉa mai, chế giễu,... Trọng tâm của các hành động ngôn ngữ đó là chửi.
Trong phần trình bày của mình, tác giả có nhắc đến kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Thị Tuyết Ngân với 4 nhóm từ ngữ có nghĩa xấu, phóng đại.
Tuy vậy, ở phần này, tác giả không chú ý đến ngữ cảnh xuất hiện của lời
thoại nhân vật.
Trong luận án Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Minh Châu (2010), tác giả Lê Thị
Sao Chi đưa ra bức tranh tổng hợp về kết quả phân loại các hành động ngôn từ biểu
thị qua lời độc thoại nội tâm nhân vật rất chi tiết, sinh động. Trong đó, kết quả
thống kê cho thấy hành động chửi xuất hiện với tần số khá lớn, phản ánh nhu cầu
giải phóng tâm trạng nhân vật trước những áp lực, đồng thời thể hiện thái độ phản
ứng quyết liệt của nhân vật khi biện luận, đánh giá, phê bình những tình huống, sự
kiện trái lẽ thường xảy ra trong cuộc sống. Lời độc thoại nội tâm đã tồn tại với tư
cách là một dạng lời thoại để thực hiện mục đích giao tiếp nên nó có dấu hiệu nhận
diện và phương tiện thể hiện. Tuy vậy, giữa hành động chửi trong lời độc thoại và
lời đối thoại có sự phân biệt, điển hình là sự phân biệt về đích ngôn trung. Ở lời độc
thoại, hành động chửi không hướng lời đến vai nghe, còn ở lời đối thoại, hành động
chửi xác định có đối tượng tiếp nhận lời trực tiếp [12].
Trong bài báo Đặc trưng ngôn ngữ, văn hoá trong các lối chửi của người
Việt, tác giả Nguyễn Thị Tuyết Ngân chú ý đến tiêu chí “phản chuẩn mực xã hội”
của hành động chửi. Bởi đây là tiêu chí có khả năng khu biệt nhằm tách hành động
chửi ra khỏi nhóm các phản ứng ngôn từ. Đồng thời, tác giả đi vào tìm hiểu hình
thức thể hiện lời chửi và phân loại các kiểu chửi dựa vào nội dung và đích ngôn
trung [83, tr.92].
Với bài Về lời chửi của người Việt (2001), Phan Mậu Cảnh tiếp tục khẳng
định: thái độ phản ứng của con người được thể hiện bằng những hành động chửi
6
sinh động, phong phú. Cấu tạo của các phát ngôn chửi chủ yếu là ngắn gọn nhưng
có khả năng khoét sâu mâu thuẫn giữa các mối quan hệ khi bản thân chủ ngôn nhận
thấy mình bị mất mát, thiệt thòi hay bị làm nhục. Về ý nghĩa, chửi là sự phản ánh
trực tiếp bằng ngôn ngữ biểu hiện trạng thái căng thẳng, căm tức, khinh bỉ, do vậy,
từ ngữ mang tính phóng đại. Về phạm vi, lời chửi không chỉ xuất hiện trong lời ăn
tiếng nói hàng ngày, hành động chửi được chuyển thành lời các nhân vật trong tác
phẩm mà còn thành những lời hát đối đáp trong ca dao dân ca... Như vậy, dù chỉ là
những suy nghĩ bước đầu, nhưng tác giả Phan Mậu Cảnh đã khẳng định sự tồn tại
của hành động chửi với những “lời lẽ tự nhiên trong những hoàn cảnh không thể
khác được” [6, tr.317].
Luận án Sự kiện lời nói chê trong tiếng Việt (cấu trúc và ngữ nghĩa) (2007)
của tác giả Nguyễn Thị Hải Yến đã tìm hiểu cấu trúc biểu thức ngữ vi chê với các
thành tố của nó. Tác giả phân biệt biểu thức ngữ vi chê với một số biểu thức khác
có cấu trúc hoặc nội dung mệnh đề có khả năng nhầm lẫn với hành động chê, như
hành động miêu tả, hành động nhận xét, hành động chửi, hành động mắng, hành
động than, hành động khen. Trong đó, theo tác giả, giữa hành động chê và hành
động chửi, có những điểm khác nhau cơ bản sau: 1/ ở mức độ (sức mạnh) mà đích
tác động ở lời thực hiện; 2/ ở phong cách thực hiện hành vi; 3/ ở phương thức thể
hiện. Tuy nhiên, theo nhâṇ xét của tác giả , thực tế phân điṇh ranh giới hành động
chê và hành đ ộng chửi có những khó khăn , vì việc xác định hai hành động đó
thường mang tính chủ quan.
Tác giả Lương Thị Hiền trong công trình nghiên cứu Giá trị văn hoá và
quyền lực đánh dấu qua hành động ngôn từ trong giao tiếp của người Việt (2008)
đã đưa ra một số kết luận: “Có những hành động ngôn từ chỉ xuất hiện trong giao
tiếp với người dưới mà không xuất hiện trong giao tiếp với người trên: cấm, cảnh
báo, cho phép, chê, chế giễu, chửi, chỉ đạo, khuyên can, mắng, mắng yêu, mỉa, nhắc
nhở, rủa, sai bảo, trách, yêu cầu” [41, tr.638]. Tuy vậy, ở bài báo này, chúng tôi
nhâṇ thấy cần bàn thêm môṭ số điểm về hành động chửi. Thực tế, nhân vật sử dụng
hành động chửi khá đa daṇg, chứ không nhất thiết chỉ gồm vai có tuổi tác, vị thế cao
hơn. Bởi vì, những người trẻ tuổi, có vị thế thấp hơn , có khi, cũng dùng lối ứng xử
7
này với người lớn tuổi, có vị thế cao hơn chỉ vì lí d o bực tức nhất thời, hay vì sự
khó chịu được tích lũy, dồn nén trong môṭ quá trình.
Trong bài viết Hiện tượng chửi của người Việt, từ thực tế đời sống đến ngôn
ngữ văn học, tác giả Ngàn Lâm đã nhận xét: “Trong cuộc sống hàng ngày, các bà
mẹ Việt vẫn thường răn dạy con cái: Thép vàng ai nỡ uốn câu, người khôn ai nỡ nói
năng nặng lời. Ấy thế nhưng, trên thực tế có một hiện tượng giao tiếp khá độc đáo,
đấy là hiện tượng chửi. Ở một góc nhìn nào đó, ta có thể thấy đó không phải là thứ
ngôn ngữ điêu toa, chợ búa, một hiện tượng phi ngôn ngữ Từ trong cuộc sống và
qua việc tìm hiểu sự vận dụng linh hoạt ngôn ngữ dân tộc vừa thể hiện một nét tính
cách của người Việt bên cạnh việc sống trọng tình thiên về hoà hợp là thái độ quyết
liệt trước cái xấu của họ” [69]. Cách nhìn nhận vấn đề nói trên của tác giả đa ̃không
theo môṭ chiều, phiến diêṇ mà đó là sự đánh giá phản ánh đúng mục đ ích của người
sử duṇg trong mỗi tình huống nhất điṇh.
Tác giả Lê Thuý Hà trong bài viết Các chiến lược phê phán của người Việt
cho rằng: “Phê phán là hành động ngôn từ thuộc nhóm các hành động khó thực hiện
nhất vì nó có khả năng đe dọa thể diện cao đối với người bị phê phán và ngay cả với
người phê phán (thể diện âm tính). Mặc dù vậy, trong cuộc sống hàng ngày chúng ta
không thể tránh khỏi những lúc phải đưa ra các lời phê phán” [33, tr.67]. Đó là lý
do tác giả tiến hành tìm hiểu hành động ngôn từ phê phán trong tình huống tự nhiên
đời thường nhằm chỉ ra, trong thực tế, người Việt phê phán như thế nào, xét ở
phương diện ngôn ngữ và văn hóa. Theo kết quả khảo sát, người Việt lựa chọn hai
chiến lược phê phán: phê phán trực tiếp và phê phán gián tiếp. Trong đó, tác giả chú
trọng việc phân loại theo mức độ nghiêm trọng của các vấn đề phê phán từ góc độ
người nói theo trình tự sau: khuyên, thuyết giáo, phàn nàn, chê, mắng, mỉa mai, cấm
đoán, chửi. Theo tác giả , trong các hình thức phê phán có hiệu lực ở lời nói trên thì
đặc điểm nổi bật, đặc trưng là người Việt ưa dùng hành động ngôn từ phê phán gián
tiếp theo quy ước, bằng biểu thức ngữ vi có cấu trúc câu trần thuyết và câu hỏi
mang sắc thái trung tính (trách, mắng, chê). Điều đó góp phần lý giải về đặc điểm
của người Việt khi ứng xử thường ưa chuộng sự ôn hoà, có độ an toàn cao cho cả
người nói và người nghe.
8
Tóm lại, kết quả nghiên cứu của những tác giả trong các bài viết đã góp phần
làm sáng tỏ, lý giải sự tồn tại tất yếu của một nhóm hành động ngôn từ có khả năng
đe dọa thể diện người nghe rất cao trong thực tiễn giao tiếp. Đồng thời, một số
nguyên nhân hình thành phát ngôn có lực tại lời, mối quan hệ giữa các hành động
ngôn từ như cãi, phàn nàn, khuyên, mỉa mai, chê, mắng, trách, chửi bước đầu
được lý giải. Ngoài ra, việc phân định các mức độ tác động của lời chửi trong lời
nói cho thấy việc sử dụng linh hoạt ngôn từ phù hợp với mức độ phản ứng hay bày
tỏ của chủ ngôn.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài hướng đến mục đích làm sáng tỏ các kiểu dạng hành động chửi , đăc̣
điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của chúng qua việc mô tả , phân tích các hành đôṇg chửi
của nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam
- Đồng thời hướng đến việc chỉ ra một số đặc trưng văn hóa ứng xử của
người Viêṭ trong viêc̣ sử dụng hành động ngôn ngữ chửi - hành động có khả năng vi
phạm thể diêṇ, danh dư ̣của người khác thuôc̣ mức đô ̣cao nhất . Qua đó, luâṇ án góp
phần chỉ ra môṭ số biểu hiêṇ về phong cách nghê ̣thuâṭ tác giả và nghê ̣thuâṭ sử duṇg
ngôn từ của nhà văn trong sáng tác của mình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ:
a) Tổng quan các vấn đề lý thuyết hành đôṇg ngôn ngữ , lý thuyết hội thoại ,
lý thuyết lịch sự và các vấn đề liên quan đến lời thoaị nhân vâṭ trong truyêṇ ngắn.
b) Đi sâu phân tích, miêu tả tham thoại có hành động chửi và hành động đi
kèm hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam.
c) Phân tích đặc điểm ngữ nghĩa của chúng qua lời thoaị nhân vâṭ trong
truyêṇ ngắn Viêṭ Nam.
d) Rút ra một số nhâṇ xét về đặc trưng văn hoá giao tiếp người Việt qua
viêc̣ sử duṇg hành động chửi và vai trò của hành động chửi trong quá trình tổ chức
tác phẩm.
9
4. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN DẪN LIÊỤ
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận án khảo sát và tìm hiểu hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong
324 truyện ngắn của 41 đầu sách của nhiều nhà văn Việt Nam. Luận án chỉ khảo sát
những tham thoại chứa hành động chửi do nhân vật trực tiếp thực hiện trong ngữ
cảnh cụ thể.
4.2. Nguồn dẫn liệu
Đề tài giới hạn phạm vi khảo sát là truyện ngắn Việt Nam hiện đại, gồm của
các tác giả trước và sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Với nguồn tư liệu cụ thể
gồm 930 tham thoại chứa hành động chửi của nhân vật, luận án đi vào tìm hiểu đặc
điểm cấu trúc, ngữ nghĩa và một số biểu hiện văn hóa ứng xử của người Viêṭ qua lời
nói của nhân vật khi sử dụng hành động ngôn ngữ này.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CƢ́U
5.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại
Luận án thống kê số lượng hành động chửi thể hiện qua lời thoại nhân vật
trong 324 truyện của 41 đầu sách thuộc thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
Trên nguồn tư liệu này, chúng tôi tiến hành phân loại hành động chửi dựa vào
những tiêu chí cụ thể: tần số xuất hiện của hành động chửi, các dạng thức chửi, các
hành động chửi và hành động đi kèm hành đôṇg chửi, các nhóm ngữ nghĩa của hành
đôṇg chửi.
5.2. Phƣơng pháp phân tích diễn ngô..., trong
đó có 4 tiêu chí cơ bản nhất (đích ngôn trung, hướng khớp ghép, trạng thái tâm lý,
nội dung mệnh đề). Theo đó, hành động ở lời được phân thành 5 phạm trù: tái hiện,
điều khiển, cam kết, biểu cảm và tuyên bố. Hành động chửi thuộc nhóm hành động
biểu cảm.
1.2.3.2. Phân loại hành động ở lời
Dựa vào hiệu lực tác động của lời tạo ra, có thể chia hành động ở lời thành
hai loại: hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp.
Hành động ở lời trực tiếp là những hành động thực hiện đúng điều kiện sử
dụng, đúng với các đích ở lời của chúng. Các hành động đó có sự tương ứng giữa
cấu trúc bề mặt với hiệu lực mà nó gây nên. Những hành động ở lời được nhận diện
một cách trực tiếp qua nội dung mệnh đề của phát ngôn, thực hiện đúng với điều
kiện thoả mãn, đúng với các đích của chúng thì sẽ thuộc vào loại hành động ở lời
trực tiếp, nằm ở tầng hiển ngôn (tường minh) của phát ngôn. Yule đã xuất phát từ
góc độ hình thái cấu trúc và chức năng tổng quát của hành động ngôn ngữ, quan
niệm: “Chừng nào có mối liên hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng, thì
ta có một hành động nói trực tiếp, chừng nào có mối liên hệ gián tiếp giữa một cấu
trúc và một chức năng thì ta có một hành động gián tiếp” [139, tr.110]. Cũng vậy,
tác giả Đào Thanh Lan cho rằng: “Hành động ở lời trực tiếp là hành động tạo ra
đích ngôn trung hiển ngôn được biểu hiện trực tiếp bởi các dấu hiệu hình thức ngôn
từ đặc trưng cho nó tức là bằng phương tiện chỉ dẫn lực ngôn trung trực tiếp. Hành
động trực tiếp tạo ra lời trực tiếp/ lời chính danh” [69, tr.47].
25
(14). - Tao muốn vạch mặt mày. Mày là quân mèo đàng cho điếm. Mày là
quân cơm hàng cháo chợ [XIII, tr.281].
Ở ví dụ (14), vai chửi sử dụng các yếu tố ngôn ngữ có nội dung chửi để sỉ
nhục, thoá mạ đối phương một cách trực diện, công khai, không vòng vo , né tránh.
Hiệu lực ở lời như vậy đã tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến nhận thức, suy nghĩ của
vai tiếp ngôn khiến họ bị bẽ mặt, xấu hổ. Đây là hành động ở lời trực tiếp đích thực.
Hành động ở lời gián tiếp là hành động không có sự tương ứng giữa cấu trúc
phát ngôn trên bề mặt với hiệu lực mà nó gây nên, hay nói một cách khác là hành
động mà trên cấu trúc bề mặt là A nhưng gây một hiệu lực là B. Tác giả Đào Thanh
Lan viết: “Hành động ở lời gián tiếp là hành động mà đích ngôn trung không được
thực hiện bằng các dấu hiệu hình thức ngôn từ đặc trưng cho nó mà được biểu hiện
gián tiếp thông qua dấu hiệu hình thức của hành động khác (hành động dẫn nhập)
tạo ra hàm ý của lời được người nghe nhận diện bằng thao tác suy ý trên cơ sở ngữ
nghĩa và ngữ cảnh (bao gồm bối cảnh giao tiếp và chế ước xã hội đã được mã hoá).
Hành động gián tiếp tạo ra lời gián tiếp/ hàm ngôn” [69, tr.47]. Như vậy, hành động
ở lời gián tiếp sử dụng hình thức biểu đạt vừa đủ để người nghe dựa vào đó mà suy
ý, để hiểu cái hiệu lực của một hành động khác - cái ý mà người nói muốn nói. Ngữ
nghĩa của hành động ở lời gián tiếp là một nội dung mở. Cùng một hành động được
nói ra nhưng tuỳ người tiếp nhận, tuỳ hoàn cảnh có thể hiểu khác nhau về mục đích
của hành động ở lời.
Vậy, điều căn bản ở hành động ở lời gián tiếp là để biết được đích ngôn
trung cuối cùng mà người nói bày tỏ trong lời, người nghe cần sử dụng thao tác suy
ý. Thao tác suy ý được thể hiện theo các bước sau:
- Phân tích ngữ nghĩa của lời tường minh và ngữ cảnh chứa nó để thấy được
hành động ở lời trực tiếp của lời không phải là đích ngôn trung cuối cùng của lời.
- Lập luận để xác định được hành động ở lời gián tiếp nào đó chính là ngôn
trung của lời.
(15). - Lão Hoả, làm sao lão ác thế?
- À, mày bảo tao ác à? Thế thằng bố mày xưa kia vật người ra mà đánh thì
nhân đức chắc [I, tr.305].
26
Lượt lời của Sp2 là hành động phản ứng với hành động trách móc của Sp1.
Hành động hồi đáp của Sp2 là hành động phản ứng, Sp2 đã không chấp nhận dễ
dàng sự trách móc của Sp1. Sp2 có thái độ phản ứng gay gắt quyết liệt hơn cả thái
độ của Sp1. Bằng các dấu hiệu như từ xưng hô, tình thái từ, cách nói hàm ngôn đã
cho người đọc biết Sp2 đã thực hiện hành động chửi.
1.2.4. Phát ngôn ngữ vi và biểu thức ngữ vi
1.2.4.1. Phát ngôn ngữ vi (Performative utterance)
Theo Đỗ Thị Kim Liên: “Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn mà khi người ta nói
chúng thì đồng thời người ta cũng thực hiện luôn cái việc biểu thị trong phát ngôn”
[75, tr.75].
Chẳng hạn, những phát ngôn sau đây người nói không nhằm mục đích khẳng
định, phủ định hay miêu tả về hiện thực khách quan mà nhằm bộc lộ cảm xúc (a),
hỏi (b), hứa hẹn (c), yêu cầu (d)...
(a). - Trời ơi!
(b). - Anh cho biết đây là ở đâu vậy?
(c). - Mình hứa sẽ giữ kín chuyện này.
(d). - Cấm vào!
Đây là những phát ngôn mà khi nói ra thì người nói đồng thời cũng thực hiện
luôn chúng ở chính ngay trong lời. Những phát ngôn này gọi là phát ngôn ngữ vi.
Cũng vậy, phát ngôn chứa hành động chửi được xem là phát ngôn ngữ vi vì người
nói đã thực hiện luôn hành động chửi khi chúng được sử dụng làm phương tiện biểu
thị thái độ, tâm trạng bức xúc, khó chịu của chủ thể trước sự tình . Chúng gây cho
người nghe môṭ hiêụ lưc̣ là bị xúc phạm, bị mất thể diện.
1.2.4.2. Biểu thức ngữ vi
Biểu thức ngữ vi là dấu hiệu hình thức đặc trưng để nhận diện phát ngôn ngữ
vi. Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Phát ngôn ngữ vi có một kết cấu lõi đặc trưng
cho hành vi ở lời tạo ra nó. Kết cấu lõi đó được gọi là biểu thức ngữ vi” [10, tr.91].
Như vậy biểu thức ngữ vi chính là kết cấu hình thức (còn gọi là kết cấu lõi) để nhận
diện một phát ngôn ngữ vi.
Biểu thức ngữ vi được đánh dấu bằng một hay một số dấu hiệu chỉ dẫn, nhờ
những dấu hiệu này mà các biểu thức ngữ vi phân biệt với nhau. J. R. Searle gọi các
27
dấu hiệu này là các chỉ tố chức năng. Trong tiếng Anh, các chỉ tố chức năng gồm
động từ, thức, ngữ điệu. Trong tiếng Việt, ngoài các động từ ngữ vi còn có các
phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời khác như ngữ điệu, các phụ từ, tình thái từ... Nhờ
các biểu thức ngữ vi mà chúng ta nhận biết được các hành vi ở lời.
Tuy vậy cần phân biệt biểu thức ngữ vi nguyên cấp và biểu thức ngữ vi
tường minh. Căn cứ vào sự xuất hiện hay không xuất hiện của động từ ngữ vi, J.L.
Austin đã phân biệt biểu thức ngữ vi tường minh và biểu thức ngữ vi nguyên cấp.
Nếu các động từ được sử dụng trong những chức năng khác nhau thì sẽ mang lại kết
quả tạo ra các biểu thức ngữ vi tường minh hay biểu thức ngữ vi nguyên cấp.
Biểu thức ngữ vi tường minh là biểu thức ngữ vi có sử dụng động từ ngữ vi.
Ví dụ: Tôi hứa sẽ đến dự đám cưới của em. Phát ngôn này gây hiệu lực: người nói
phải thực hiện hành động hứa; người nghe tin đó là hiện thực.
Biểu thức ngữ vi nguyên cấp là biểu thức tuy vẫn có hiệu lực ở lời nhưng
không có động từ ngữ vi. Ví dụ: Mẹ về à? Phát ngôn này gây hiệu lực người nghe
trả lời.
Có thể thấy trong tiếng Việt có những hành động ở lời được thể hiện bằng
các biểu thức ngữ vi như sau:
- Những hành động ở lời được thể hiện bằng biểu thức ngữ vi tường minh có
các động từ ngữ vi. Đó là những hành động như mời, tuyên án, xin lỗi, cám ơn, thề,
cam đoan, cấm, đề nghị, yêu cầu,... Ví dụ: Tôi hứa sẽ giúp em. Hành động hứa có
động từ ngữ vi hứa.
- Những hành động ở lời được thể hiện bằng những biểu thức ngữ vi nguyên
cấp, không có động từ ngữ vi. Đó là các hành động như rủ, khoe, chửi,Ví dụ: Đồ
ngu! - Đây là hành động chửi không có động từ chửi.
- Những hành động ở lời vừa được thể hiện bằng biểu thức ngữ vi nguyên
cấp, vừa được thực hiện bằng biểu thức ngữ vi tường minh. Đó là các hành động
như hứa, khen, công bố, Ví dụ: - Tôi hứa đến dự đám cưới em. Đây là biểu thức
ngữ vi tường minh; - Em tôi hứa đến dự đám cưới em à? Đây là biểu thức ngữ vi
nguyên cấp.
28
Những biểu thức ngữ vi nói trên là cơ sở nhận diện hành động chửi xuất hiện
trong giao tiếp. Trên thực tế, hành động chửi được thực hiện trong hội thoại có
nhiều hình thức thực hiện khác nhau, nhằm phản ánh thái độ tức giận của người nói
theo các mức độ cao thấp khác nhau.
1.3. Hành động chửi với vấn đề lịch sự trong hội thoại
1.3.1. Khái niệm hành động chửi
Về khái niệm chửi, trong tiếng Việt có nhiều hình thức ngôn từ để biểu thị,
như chửi rủa, chửi bới, chửi xỏ, chửi chữ, chửi đổng, chửi bóng gió, chửi mắng, mắng
nhiếc, xỉ vả, đay nghiến, nhục mạ, nói nhiếc, nói mỉa, nói kháy... và cũng có nhiều
cách nói hình tượng thể hiện hành động này, như lời ong tiếng ve, tiếng bấc tiếng chì,
nói như tát nước vào mặt,... Ở các ngôn ngữ khác, cách sử dụng thuật ngữ để biểu đạt
hành động chửi đơn giản hơn, như tiếng Anh chửi được gọi abuse, instuling....; trong
tiếng Nga, chửi được gọi là ричать (mắng, nhiếc, cự, chỉnh, xạc, đì, chửi rủa, chửi
bới, chửi mắng, nhiếc móc),...
Để nhất quán trong hướng nghiên cứu của mình, chúng tôi chọn khái niệm
hành động chửi là thuật ngữ khái quát cho tất cả các tên gọi nói trên để làm sáng tỏ
mục đích dụng học của đối tượng nghiên cứu.
Về khái niệm hành động chửi (insulting act), theo một số từ điển:
Chửi là “Dùng lời độc ác và thô tục nói phạm đến người khác” [104, tr.7]
hoặc “Chửi là thốt ra những lời cay độc để làm nhục” [93, tr.19].
Như vậy, trong hai từ điển này có điểm giống nhau khi định nghĩa hành động
“chửi”, đó là:
- Người nói: dùng lời lẽ thô tục, độc ác, cay nghiệt để sỉ nhục, thoá mạ người nghe.
- Người nghe: tiếp nhận những thông tin đó, dù không mong muốn.
- Đích tác động: người tiếp nhận bị làm nhục, xúc phạm về thể diện.
Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Ngân cho rằng: “Chửi là một hiện tượng văn hoá
ngôn từ phản chuẩn bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình nhằm làm giảm
căng thẳng tinh thần của người chửi và hạ uy tín của người bị chửi” [83, tr.33].
Cách hiểu của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Ngân cũng không đi ngoài ba nhân tố trên
nhưng thể hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn. Đó là:
29
- Người nói: hành động một cách chủ động nhằm giảm trạng thái căng thẳng
về tinh thần.
- Người nghe tiếp nhận và bị mất thể diện.
- Đích tác động của hành động: hạ uy tín của người nghe.
Điểm mới của cách hiểu này là xem hành động chửi là hiện tượng văn hoá
phản chuẩn.
Cũng trong công trình nghiên cứu này, tác giả Nguyễn Thị Tuyết Ngân đã
đưa ra một số dấu hiệu chủ yếu để nhận diện đó là: hình thức (ngôn từ) và mục đích
(làm nhục, xúc phạm người khác, cho hả giận). Bằng việc phân tích mối quan hệ
giữa chửi với các hành loạt khái niệm khác như: cãi, khóc, khen, chê, tác giả đã
tìm được 6 tiêu chí cho phép xác định khái niệm này với những khái niệm có liên
quan. Những tiêu chí đó là: (1) nguyên nhân: sự bất bình; (2) mục đích đặt ra đối
với người chửi: làm hả giận; (3) mục đích đặt ra với người bị chửi: hạ uy tín; (4)
công cụ: ngôn từ; (5) hình thức: chủ động (trái với thụ động); (6) cách thức: phản
chuẩn mực xã hội (bị chê trách, hạn chế, cấm đoán). Cũng theo tác giả cần nhấn
mạnh tiêu chí “phản chuẩn xã hội”, bởi đây là tiêu chí có khả năng khu biệt cao để
tách chửi ra khỏi nhóm các phản ứng ngôn ngữ. Đi sâu vào các biểu hiện của cách
phản chuẩn mực xã hội, tiêu chí này còn là cơ sở của việc phân loại, tìm hiểu các
dạng thức chửi: chửi rủa, chửi bới, chửi xỏ, chửi chữ, chửi đổng, chửi mắng...
Tác giả Phan Mậu Cảnh trong bài báo ”Về các lời chửi trong tiếng Việt” có
đề cập đến hành động chửi nhưng không đưa ra định nghĩa. Tác giả xem nó như
một hành động tồn tại tất yếu trong đời sống xã hội. Hành động này khá đa dạng với
những biểu hiện cung bậc khác nhau: chửi rủa, chửi kháy, chửi mỉa, chửi thề, chửi
yêu, chửi mát... [6].
Tóm lại, tuy những ý kiến trên có đề cập đến khái niệm hành động chửi
nhưng chưa nhiều, chưa đưa ra một định nghĩa, chưa đưa ra tiêu chí để nhận diện
chúng một cách minh định, chưa phân định hành động chửi trong khẩu ngữ và trong
lời nhân vật, cũng như phân loại các hành động chửi cụ thể theo ngữ cảnh.
Từ bình diện ngữ dụng học, chúng tôi cho rằng hành động chửi là hành động
được vai nói sử dụng lời lẽ thô tục, cay nghiệt để thể hiện thái độ bực tức, giận dữ,
30
căm ghét của mình trong những ngữ cảnh nhất định và nhằm làm mất thể diện của
người nghe.
Ví dụ:
(16). Vừa dắt xe vào cổng, Lương đã nhìn thấy mẹ già còm cõi đứng ở giữa
sân, quần thâm ống thấp ống cao, tay chống nạnh, mắt đỏ đọc, chân nhảy tâng
tầng, giọng the thé:
- Vâng, chị tốt, chị đẹp! Tôi thì tôi chịu chi, tôi hàng chị! Để anh ấy về anh
ấy đối đáp với chị. À anh ấy kia rồi! Ôi anh Lương ơi, anh về mà dạy vợ anh đi này!
Lương chưa kịp hiểu đầu đuôi, vừa kịp dừng lại, đã thấy vẳng ra từ trong
bếp cái giọng xong xóc đối đáp quen thuộc của vợ:
- Này, già rồi, đừng có ăn không nói có, đừng có để trẻ mỏ nó khinh cho nhé!
- Con nào ăn gian nói dối thì trời tru đất diệt nó.
- Chỉ được cái xoen xoét cái mồm là tài!
- Chị bảo ai xoen xoét cái mồm?
- Già rồi thì ăn nói từ tốn chứ ăn nói sồn sồn thế à!
- Chị dám ăn nói với tôi thế à? Chỉ có chó nó mới sồn sồn thôi, chị hiểu
chưa? [XIII, tr. 267].
Như vậy, dù muốn hay không, để xuất hiện lời thoại có hành động chửi thì
các nhân tố cơ bản của hoạt động giao tiếp như người chửi , người nghe chửi , nội
dung chửi, đích tác động cần được xác định.
Với cách hiểu về hành động chửi, chúng tôi thấy cần nhấn mạnh tình
huống để xảy ra hành động chửi phụ thuộc vào ngữ cảnh và vai phát lời. Ngữ
cảnh là cơ sở ẩn chứa lý do và là cơ hội để hiện thực hóa đích ở lời của hành
động chửi. Ngữ cảnh cho phép hành động này được diễn ra ở mức độ cụ thể như
thế nào. Khi thực hiện hành động chửi, về bản chất, vai phát lời luôn có chủ ý
hướng lời nói trực tiếp của mình đến người nghe. Và nhằm gây hiệu lực phát
ngôn tối đa, vai phát lời đã sử dụng các yếu tố ngôn từ và kết hợp các hành động
phi ngôn ngữ khác theo cách riêng, khó bắt gặp ở những hành động ngôn từ khác
trong giao tiếp thông thường.
31
1.3.2. Phân biệt hành động chửi trong văn bản nghệ thuật với hành động
chửi trong giao tiếp đời thường
Hoạt động tư tưởng, tinh thần của con người vốn dĩ rất đa dạng, phức tạp
nhưng không kém sự tinh tế. Những đặc tính đó được con người tìm cách biểu đạt
tương ứng, thích hợp bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Trong mỗi
bối cảnh cụ thể, các phát ngôn sẽ được thiết lập để phục vụ chủ nhân của nó truyền
tải những thông điệp cần thiết. Và có thể, chúng chứa đựng yếu tố tích cực hoặc ẩn
náu yếu tố tiêu cực, chi phối mối quan hệ liên nhân giữa các chủ thể hội thoại. Như
vậy, ngôn ngữ vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của các hành động ứng xử giữa
con người với thế giới nhân sinh.
Trong giao tiếp, để tuân thủ nguyên tắc hội thoại, các vai giao tiếp phải có
những trải nghiệm cuộc sống đích thực. Các cung bậc cảm xúc chân thành được nảy
sinh, các hành vi ứng xử được kiểm chứng, ghi nhận qua các hành động ngôn từ.
Đối diện với hiện thực nào thì sẽ có cách ứng xử tương ứng như vậy. Các hành
động ngôn ngữ của vai giao tiếp là cơ sở nắm bắt những suy nghĩ, thói quen ứng xử
có văn hóa hay kém văn hóa của vai nói.
Hành động chửi được dùng với những mục đích khác nhau như mắng,
trách, phê bình, cảnh cáo và trọng tâm là thóa mạ, lăng nhục. Để thể hiện chúng, ta
bắt gặp những phương tiện biểu đạt thích hợp , giúp vai nói bày tỏ , chia sẻ tâm
trạng hay nhâṇ thức về hiêṇ thưc̣ nào đó . Vì thế , trên thực tế , hành động chửi tồn
tại khá phổ biến trong lời nói của nhiều người. Chúng xuất hiện trong giao tiếp
thường nhật và được “nghệ thuật hóa”, “sân khấu hóa” qua lời nhân vật trong tác
phẩm văn hoc̣ . Giữa hai không gian giao tiếp khác nhau - đời thường và nghệ
thuật, hành động chửi xuất hiện, tồn tại có những điểm tương đồng và khác biệt.
Điểm tương đồng là chúng đều là hình thức ngôn ngữ hội thoại được người nói sử
dụng để thể hiện thái độ tức giận , bất bình của bản thân trước đối tươṇg . Đích giao
tiếp của hành động này là đều làm nhục, hạ uy tín, vạch mặt người bị chửi. Đồng
thời, chúng khiến cho người nghe khó chịu và bị bẽ mặt . Sự phân biệt giữa hành
động chửi trong văn bản nghệ thuật và giao tiếp đời thường , được nhận diện ở
những điểm như sau:
32
- Về hình thức cấu trúc
Hành động chửi của nhân vật là kết quả của hành động hoàn toàn có ý thức,
chủ ngôn luôn bộc lộ tính thực dụng đích thực qua sự hư cấu của nhà văn đặt trong
lời thoại của từng nhân vật cụ thể. Trong đó có sự đan xen một chuỗi các hành động
khác nhau, tác động qua lại làm nổi bật lý do, đích ngôn trung của tham thoại. Cấu
trúc hình thức của các hành động chửi chặt chẽ, tuân thủ các quy tắc ngữ pháp - ngữ
nghĩa nhất định được quy định trong ngôn ngữ giao tiếp. Nó thể hiện sự khúc chiết,
trình tự, mạch lạc của lý trí, của nhận thức và suy xét. Còn hành động chửi trong
giao tiếp đời thường là kết quả của hành vi có tính chất tuỳ hứng , nhất thời ; khả
năng kiểm soát ý thức và ngôn từ của vai chửi bị hạn chế . Do vậy, cấu trúc thể hiện
hành động chửi trong lời chủ ngôn có thể thiếu tính chọn lựa , thiếu chắt lọc và chứa
đưṇg nhiều yếu tố dư thừa.
Hành động chửi trong giao tiếp đời thường là hành động giao tiếp trực tiếp
của chủ ngôn. Hành động chửi của nhân vật trong văn bản nghệ thuật được thể hiện
qua lời tác giả với hai hình thức thể hiện: lời dẫn thoại miêu tả hành động và lời
thoại nhân vật.
- Về đối tượng chửi
Đối tượng chửi của chủ ngôn trong giao tiếp đời thường là cá nhân cu ̣thể
đươc̣ xác điṇh , xét trong quan hệ liên nhân với người chửi ; còn đối tượng chửi của
chủ ngôn trong văn bản nghệ thuật , có thể là mộ t cá nhân nhưng có thể là môṭ bô ̣
phâṇ, môṭ lớp người có haṇ chế , nhươc̣ điểm đáng bi ̣ lên án trong xa ̃hôị . Bởi, khi
cầm bút sáng tác , mỗi tác giả là mỗi nhà văn xa ̃hôị nên thông qua nhân vâṭ se ̃
truyền đi môṭ thông điêp̣ hữu ích, phản ánh cuộc sống xã hội.
- Về nội dung chửi
Nôị dung lời chửi xuất hiêṇ trong tác phẩm văn hoc̣ chủ yếu tâp̣ trung đả
kích, phỉ báng con người trong xã hội , gồm: thói hư tật xấu trong sinh hoạt hàng
ngày, nhân cách con người , tính cách xấu , những tham voṇg ngông cuồng hay sư ̣
tha hóa nhân cách do tác đôṇg của xa ̃hôị ....
Lời chửi trong khẩu ngữ thể hiện nhiều nội dung khá phong phú đa dạng hơn
lời chửi trong văn bản nghệ thuật. Sự quan tâm chi tiết hiện thực muôn màu trong
33
cuộc sống khiến con người bị kích thích và chịu tác động mạnh về mặt nhận thức,
tâm lý và cảm xúc. Những biểu hiện khác lẽ thường, “không thuận chiều” là nguyên
nhân chính để họ bộc lộ thái độ không đồng tình hoặc thiếu thiện chí với đối
phương. Thái độ, sự nhận xét của người nói qua hành động chửi trong khẩu ngữ
nhằm phê bình, chỉ trích, trách mắng, nguyền rủa đối phương với rất nhiều lý do,
mặc dù chỉ là đó lý do rất nhỏ nhặt, vụn vặt.
- Về hình thức diễn đạt
Khi thực hiện hành động chửi, vai chửi bị rơi vào trạng thái không kiểm soát
cảm xúc, hành vi do tức giận và ức chế . Tuy vậy, trong tác phẩm văn hoc̣ , lời nói là
của nhân vật nhưng nội dung , giọng điệu và ngôn ngữ nhân vâṭ đã có “sự xâm
nhập” của nhà văn. Vì thế, nhà văn phải có vai trò xây dựng hình tượng nhân vật
đúng chuẩn. Cho dù nhận thức của nhân vật hạn chế, thiển cận, lệch lạc nhưng
nhân vật nói năng, phát ngôn đều được nhà văn mô tả theo nếp suy nghĩ riêng của
mình. Mặt khác, để nhận diện hành động chửi, người đọc nhận biết được thông qua
lời dẫn thoại và các phương tiện ngôn từ trong phát ngôn . Trong khẩu ngữ, chúng ta
sẽ bắt gặp lối diễn đạt tùy hứng vì đăc̣ điểm của khẩu ngữ đa daṇg . Chẳng haṇ, cách
diêñ đaṭ câu của người chửi không theo quy tắc , không đầy đủ thành phần ; sử duṇg
nhiều từ đêṃ , nhiều quảng ngắt , lăp̣ từ ngữ ... Đó là kết quả của việc tính toán , suy
xét thiếu thấu đáo , tùy hứng lúc tức giận của chủ ngôn . Người chửi đã thiết lập một
mạng lưới đan xen, chồng chéo các hành động ngôn từ, các kết hợp cấu trúc phát
ngôn và mục đích phát ngôn không thật sự chuẩn mực. Ngoài ra, hành động chửi
trong giao tiếp thường nhâṭ không có các phương tiện chỉ dẫn nhưng người nghe
vẫn nhận biết chúng khá dễ dàng qua các yếu tố ngôn ngữ đăc̣ thù.
- Về muc̣ đích của lời chửi
Trong giao tiếp hàng ngày , hành động chửi được thực hiện nhằm hướng vào
đối tươṇg chửi, từ đó gây nên tác đôṇg trưc̣ tiếp cho đối tươṇg . Trong tác phẩm văn
học, mục đích của hành động chửi là hướng đến người đoc̣ , làm cho người đọc thấy
đươc̣ đăc̣ điểm tính cách nhân vâṭ - người chửi và người bi ̣ chửi . Từ đó , tác giả
nhằm gây nên những rung đôṇg xúc cảm thẩm mỹ , tác động đến thái độ ở người
đoc̣. Người đọc có thể nhận biết thái độ của tác giả trước vấn đề xã hội được đề cập
trong tác phẩm qua nghê ̣thuâṭ sử duṇg lời chửi.
34
Nhu vậy, tuy có sự phân biệt nói trên nhưng thực chất các phát ngôn có hành
động chửi trong tác phẩm chính là phần lời thoại của nhân vật trong đời thường
được nhà văn ghi lại. Dù nhà văn có trau chuốt sao cho bớt những yếu tố dư thừa,
lặp nhưng về nguyên tắc, nhà văn phải tôn trọng nguyên tác tới mức tối đa chứ
không được can thiệp qua mức bằng cách cấu trúc lại, biến các phát ngôn sinh động
thành một văn bản đúng nhưng vô hồn vô cảm.
1.3.3. Lịch sự trong hội thoại
Giao tiếp là hành vi mang tính xa ̃hôị , chịu sự chi phối mạnh mẽ của nhân tố
lịch sự và văn hóa . Lịch sự là nhân tố không thể thiếu trong giao tiếp xã hội, nó có
tác động trực tiếp đến quá trình giao tiếp. Lịch sự là tiêu chuẩn để đánh giá khả
năng thành công của một cuộc hội thoại theo hướng tích cực.
Khái niệm “lịch sự” từ lâu được nhắc đến trên thế giới nhưng thực sự được
nâng lên thành lý thuyết và trở thành đối tượng nghiên cứu chính của Ngữ dụng học
thì phải đến những năm 60, 70 của thế kỷ XX. Thành tựu nghiên cứu về vấn đề lịch
sự có thể kể đến sự đóng góp của R.Lakoff, G.N.Leech, P. Brown và S.C.
Levinson...
Quan điểm của R.Lakoff: Lịch sự như là một phương thức giảm thiểu sự
xung đột trong diễn ngôn (...). Những chiến lược lịch sự có nhiệm vụ đặc biệt là làm
cho cuộc tương tác được thuận lợi. Theo ý kiến của tác giả này thì lịch sự là tôn
trọng lẫn nhau. Nó bao gồm các biện pháp dùng để giảm bớt trở ngại trong tương
tác giao tiếp giữa các cá nhân: không áp đặt, dành cho người nghe sự lựa chọn,
khuyến khích tình cảm bạn bè.
Theo G.N. Leech: (Trong những điều kiện giao tiếp như khác nhau) hãy giảm
thiểu biểu hiện của những niềm tin không lịch sự; (trong những điều kiện khác nhau
như nhau) hãy tăng tối đa biểu hiện của những niềm tin lịch sự. Như vậy, G.N. Leech
đã dựa trên khái niệm sự tổn thất và lợi ích để xác định các phương châm của nguyên
tắc lịch sự: khéo léo, rộng rãi, tán thưởng, khiêm tốn, tán đồng, thiện cảm. Cũng theo
quan điểm của ông, mức độ lịch sự của một hành động phụ thuộc vào ba nhân tố:
- Bản chất của hành động nói được thực hiện.
- Hình thức ngôn từ thực hiện hành động nói đó.
- Mức độ quan hệ giữa người nói và người nghe.
35
Tuy nhiên, ông cũng cho rằng : “Có những hành vi taị lời mang bản chất cố
hữu là không lic̣h sư ,̣ chẳng haṇ như hành vi ra lêṇh , và có những hành vi tại lời mà
bản chất cố hữu lại là lịch sự như khen, tăṇg” [Dâñ theo 16, tr.143].
Quan điểm của P.Brown và S.C. Levinson được xem là nhất quán, có ảnh
hưởng rộng rãi nhất, có hiệu quả nhất đối với việc nghiên cứu về phép lịch sự. Lịch
sự là chiến lược giữ gìn thể diện của mình và của người khác sao cho không bị tổn
hại trong giao tiếp bởi các hành động ở lời. Thể diện (face) được hiểu là cảm giác về
các giá trị cá nhân của mỗi người hay hình ảnh về ta. Cái hình ảnh này có thể bị làm
tổn hại hay được giữ gìn đề cao trong tương tác. Thể diện lại bao gồm hai phương
diện: thể diện âm tính và thể hiện dương tính. Theo P. Brown và S.C. Levinson, đại
bộ phận các hành động ngôn ngữ đều tiềm ẩn khả năng gây tổn hại thể diện của cả
người nhận và người thực hiện. Đó là hành động đe doạ thể diện - Face threatening
act, viết tắt là FTA. Các hành động đe doạ thể hiện được chia thành bốn nhóm:
- Hành động đe doạ thể diện âm tính của người thực hiện: tặng, hứa,...
- Hành động đe doạ thể diện dương tính của người thực hiện: thú nhận, xin
lỗi, tự trách,...
- Hành động đe doạ thể diện âm tính của người nhận: hỏi, sai khiến, ngăn
cấm, khuyên bảo,...
- Hành động đe doạ thể hiện dương tính của người nhận: phê phán, từ chối,
trách móc, chửi, lăng mạ,...
Tuy nhiên, môṭ hành đôṇg đe doạ khô ng chỉ đe doạ môṭ thể diêṇ mà có thể
đồng thời đe doạ môṭ số hoăc̣ cả bốn thể diêṇ nói trên.
Theo P. Brown và S.C. Levinson, để cân bằng khi thực hiện một hành vi
ngôn ngữ có tính chất đe doạ thể diêṇ thì phải sử duṇg kèm theo những hành vi có
tính chất tôn vinh thể diêṇ như : khen, cám ơn ,... Và như vậy , tâp̣ hơp̣ các hành vi
ngôn ngữ đươ ̣ c chia thành hai nhóm lớn : nhóm có hiệu quả căn bản tiêu cực và
nhóm có hiệu quả tích cực . Tương ứng với chúng se ̃là phép lic̣h sư ̣âm tính và
phép lịch sự dương tính .
Phép lịch sự dương tính là phép lịch sự nhằm vào thể diện dương tính của
người nghe . Nó thực hiện những hành động nhằm đề cao , tôn vinh thể diêṇ của
người nghe như: tán đồng, trao tăṇg, cảm ơn, khen.
36
Phép lịch sự âm tính là phép lịch sự hướng vào thể diện âm tính của người
nghe. Về căn bản , nó có tính chất né tránh , bù đắp. Đó là sư ̣né tránh các FTA hoăc̣
giảm nhẹ chúng bằng một số biện pháp thực hiện khi các FTA có tác động đến thể
diêṇ dương tính, gồm:
- Các biện pháp tu từ nói: nói giảm, nói vòng;
- Sử duṇg các phương tiêṇ giảm FTA;
- Đặc biệt chú ý tới các từ xưng hô lịch sự.
Theo các điều kiện nói trên, chúng tôi nhận thấy, P. Brown và S.C. Levinson đa ̃
xếp hành động chửi thuộc nhóm hành động đe dọa thể diện dương tính người nhận.
Chúng tôi cho rằng , quan niêṃ về phép lic̣h sư ̣ và viêc̣ chỉ ra các phương
thức để đảm bảo tính lic̣h sư ̣giao tiếp mà hai tác gi ả P. Brown và S.C. Levinson
đưa ra là cơ sở tin câỵ khi chúng tôi nghiên cứu hành đôṇg chửi - hành động thuộc
nhóm đe dọa thể diện dương tính người nghe và đe dọa thể diện âm tính người nói.
1.3.4. Quan hệ giữa hành động chửi với vấn đề lịch sự trong hội thoại
Lịch sự trong tiếng Việt bao gồm hai bộ phận: lịch sự lễ độ và lịch sự chiến
lược. Trong hoạt động giao tiếp của người Việt, các vai giao tiếp đề cao trước hết
phép lịch sự lễ độ, coi đó là một biểu hiện tối thiểu của trình độ văn hoá mà chủ yếu
là của đạo đức và nhân cách. Lịch sự lễ độ gắn liền với những chuẩn mực ứng xử xã
hội. Vì vậy, khi vi phạm các quy tắc, chuẩn mực này thường được đánh giá tiêu cực
nghiêm trọng về mặt nhân cách và đạo đức.
Khác với lịch sự lễ độ, lịch sự chiến lược lại thuộc về văn hoá ứng xử. Nó
gắn với kinh nghiệm sống, vốn văn hoá, sự hiểu biết tâm lý và khả năng sử dụng
ngôn từ. Sự vi phạm chiến lược không bị đánh giá nặng nề về mặt đạo đức hay nhân
cách mà chủ yếu về kinh nghiệm nói năng, sự khéo léo hay không khéo léo khi nói
năng và tính văn hoá khi ứng xử.
Chửi, mắng, rủa, lăng mạ... là những hành động thể hiện tổng hợp hai bộ
phận lịch sự nói trên. Chúng được xếp vào nhóm hành vi bị coi là bất lịch sự. Ở
hành động chửi, hầu như các nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp đều bị vi phạm. Dù
người nói có dùng hình thức hay yếu tố lịch sự nào đó để giảm thiểu hoặc né tránh
thì mục đích hạ thấp, xúc phạm danh dự, uy tín của người bị chửi cũng “lộ diện”.
37
Bởi khi chửi, vai chửi phải dẫn ra hoăc̣ nói quá điểm hạn chế, lỗi lầm, sai phạm của
người khác thì việc thực hiện hành động chửi mới đạt hiệu lực tối đa ở lời.
Ở hành động chửi, vai nghe bị đe doạ thể diện dương tính. Vì, dù ở mức độ
phê phán, chỉ trích nhẹ nhàng, né tránh thì tính áp đặt, xúc phạm thể diện, danh dự
vai nghe ở hành động ngôn ngữ này vẫn được xếp ở nhóm cao nhất. Quan hệ liên
nhân trong hành động chửi chủ yếu chi phối, tác động mạnh theo chiều hướng tiêu
cực. Trong trường hợp vai chửi có tuổi tác, địa vị, quyền uy cao hơn vai tiếp nhận
lời thì quan điểm đối xử với đối phương ở hình thức giao tiếp này, từ thái độ, giọng
điệu, nội dung phát ngôn thì họ thường có thái độ kẻ cả, trịch thượng, coi thường,
buộc người nghe phải chịu đựng sự áp đặt đó. Tuy vậy, có tình huống, vai chửi là
vai “dưới” thì mức độ vi phạm lịch sự và đe dọa thể diện dương tính người nhận
càng cao. Tính chất áp đặt được vai chửi thực hiện qua xưng hô trong khi chửi. Thái
độ chủ quan của vai nói là điều kiện hình thành tâm lý áp đặt. Như vậy, vai nói đã
vi phạm quy tắc khiêm tốn, xâm phạm quyền tự do, lãnh địa của người đối thoại.
Quan hệ vai nói - vai nghe xấu hơn, tiêu cực hơn là vì thế. Mặt khác, ở tham thoại
chửi, vai nói cũng là vai chịu sự đe doạ thể diện âm tính. Bởi chính vai nói đi ngược
với tinh thần bảo vệ tôn trọng thể diện người nghe; vai nói chủ động tạo ra những
tổn thất tinh thần. Ngoài ra, chính họ còn gây ảnh hưởng thể diện chính mình vì
phải dùng lời lẽ bất lịch sự để bày tỏ quan điểm, thái độ, sự đánh giá đối phương.
Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, bên cạnh những hành động đe doạ thể diện
còn có hành động khi đươc̣ thực hiện vai trò làm gia tăng sự tôn trọng thể diện của
cả người tiếp nhận và người nói. Tuy vậy, hành động chửi là loại hành động đặc
biệt, bởi nó thưc̣ hiện chức năng đe doạ thể diện đối với cả người nói và người
nghe. Chúng tôi sẽ phân tích sâu hơn vấn đề này ở chương 3 của luận án.
1.4. Truyêṇ ngắn và đặc trƣng lời thoại nhân vật trong truyêṇ ngắn
Viêṭ Nam
1.4.1. Truyêṇ ngắn và đặc trưng lời thoại nhân vật trong truyêṇ ngắn
Truyêṇ ngắn là môṭ thể loaị tư ̣sư ̣tiêu biểu của văn hoc̣ hiêṇ đaị . Khác với
tiểu thuyết là thể loaị chiếm liñh đời sống trong toàn bô ̣sư ̣đầy đăṇ và toàn veṇ của
nó, truyêṇ ngắn có dung lươṇg nhỏ , số trang ít, chỉ miêu tả một khía cạn...sự mất mát, thiệt thòi; chửi để đòi hỏi quyền lợi;
chửi để giải tỏa trạng thái tâm lý cá nhân; chửi để đe dọa đối phương; chửi để bày tỏ
quan điểm; chửi để nêu đánh giá, nhận xét về hiện tượng
- Về ngữ nghĩa hành động chửi, chúng tôi xác định có 5 nhóm chính, tiêu
biểu. Trong đó, nhóm nghĩa phản ánh sự hạn chế về cách ứng xử, lối sống tha hóa,
biến chất của nhân vật có số lượng vượt trội hơn cả. Bên cạnh đó là các nhóm ngữ
nghĩa thể hiện thái độ đánh giá năng lực, trình độ nhận thức, cách ứng xử, hành vi
tham lam, vô trách nhiệm, bất cẩn của đối phương. Khi thực hiện hành động chửi,
nhân vật muốn bày tỏ nhu cầu giải phóng tâm trạng, lên án cái xấu, cái kém phẩm
chất tồn taị trong đời sống xa ̃hôị.
- Về bản sắc văn hóa dân tộc Việt, tư duy đậm tính duy cảm, trọng tình cùng
đặc trưng văn hóa tâm linh Á đông chi phối, ảnh hưởng đến thói quen đối thoại của
nhân vật. Khi chửi, nhân vật ưa dùng yếu tố tâm linh đe dọa uy hiếp đối phương; ưa
so sánh đối phương với con vật xấu xí, bẩn thỉu, ngu dốt hay ví đối phương với
những thứ “giả người” nhằm coi thường, khinh miệt; ưa hô gọi đối phương theo
kiểu đảo lộn “xưng tôn hô khiêm”, xóa nhòa ranh giới ngôi thứ, khoảng cách, quan
hệ giữa người chửi và người tiếp nhận lời chửi. Thói quen ngôn ngữ này gây ảnh
hưởng rất lớn thể diện dương tính người nghe, đồng thời khoét sâu mâu thuẫn cuộc
sống tinh thần của mỗi người.
- Giọng điệu, phong cách ngôn ngữ tác giả trong tác phẩm được định hình
bởi các yếu tố như: vốn từ, cấu trúc câu văn, cách thức diễn đạt Quá trình phân
tích đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời thoại nhân vật
trong truyện ngắn cho thấy phong cách ngôn ngữ tác giả và ý đồ sáng tác của mỗi
nhà văn. Mỗi tác giả có một giọng điệu riêng, một cá tính sáng tác riêng vậy nên
148
nhân vật cũng được khắc họa và có dấu ấn về tính cách, số phận có sự chi phối
phong cách tác giả.
149
KẾT LUẬN
1. Từ cơ sở nhận diện hành động chửi , ở góc độ ngôn ngữ học, cụ thể là vận
dụng lý thuyết ngữ dụng học và lý thuyết hội thoại khi thống kê, phân loại, miêu tả
hành động chửi, chúng tôi có kết luận: hành động chửi được sử dụng khá nhiều
trong lời thoại nhân vật truyện ngắn Việt Nam, đặc biệt của nhà văn sáng tác theo
khuynh hướng hiện thực. Hành động chửi có những biểu hiện khá đa dạng về cung
bậc, tạo nên những bảng màu cực kỳ sinh động và phong phú. Luận án xác định
nghiên cứu hành động chửi phải dựa vào điều kiện sử dụng hành động ngôn ngữ,
các dấu hiệu của biểu thức ngữ vi, nội dung mệnh đề và đích ngôn trung. Khác với
các hành động ngôn ngữ có cùng đích biểu cảm khác, hành động chửi là kiểu hành
động biểu cảm đặc biệt. Chúng tiềm ẩn khả năng đe dọa thể diện dương tính người
nhận rất cao. Chúng vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc hội thoại. Đặc trưng cấu
trúc, ngữ nghĩa hành động chửi cũng chịu sự chi phối của đích giao tiếp này. Đó là
thái độ coi thường, miệt thị, hạ nhục đối phương; ý định khoét sâu mâu thuẫn trong
quan hệ và mong muốn giải tỏa trạng thái tâm lý cá nhân khi phải đối diện với hiện
thực “không thuận chiều” nào đó.
2. Về cấu trúc, tham thoại chửi được định hình bởi ý định và tính cách của
người nói. Nhân vật hiểu rõ chửi cái gì, vì sao lại chửi và chửi như thế nào trong
mỗi tình huống mâu thuẫn nhất định. Cấu trúc tham thoại chửi có hành đôṇg chửi
và hành động đi kèm hành động chửi . Luận án đã tiến hành xem xét các mô hình kết
hợp và mối liên kết liên hành vi của phát ngôn có hành đôṇg chửi và hành đôṇg đi
kèm. Cụ thể, chúng tôi nhận thấy có nhóm tham thoại chỉ chứa một hành đôṇg chửi
có đặc điểm ngắn, cộc lốc, thể hiện tính chất đốp chát của nhân vật. Ở nhóm tham
thoại này xuất hiện dày đặc các yếu tố thô tục và các biểu thức ngữ vi chửi đặc
trưng, khiến chúng ta dễ dàng phân biệt chúng với các biểu thức ngữ vi có đích lịch
sự. Ở nhóm tham thoại có một hành đôṇg chửi và một hành đôṇg đi kèm hay tham
thoại chứa nhiều hành đôṇg chửi và nhiều hành đôṇg đi kèm ,... thì cấu trúc tham
thoại phức tạp. Ở nhóm này, mục đích và cách thức tác động nhằm hạ nhục, thóa
mạ đối phương của người chửi được thể hiện rất chi tiết, rõ ràng. Ở phần hành động
150
chửi, mục đích chửi thường đích diện. Ở phần hành động đi kèm hành động chửi,
người chửi muốn tường minh lý do, nguyên nhân và cả cách tác động, đe dọa danh
dự, ý thức đối phương để bản thân được hả giận. Đặc điểm cấu trúc này là cơ sở lý
giải thói quen tư duy ngôn ngữ của người Việt trong giao tiếp, đó là ưa sự cụ thể,
chi tiết, thậm chí có yếu tố dư thừa.
3. Về ngữ nghĩa, các nhân tố chi phối ngữ nghĩa hành động chửi đóng vai trò
quan troṇg. Trong hành động chửi của nhân vật truyện ngắn Việt Nam , chúng tôi đi
sâu phân tích 5 nhóm quan hệ liên nhân cơ bản. Hành động chửi đươc̣ thưc̣ hiêṇ
chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn thuộc về nhóm nhân vật nữ, nhóm nhân vật có địa vị, tuổi
tác, thứ bậc cao hơn và nhóm nhân vật có quan hệ huyết thống thân cận... Ngữ
nghĩa của hành động chửi được thể hiện chủ yếu qua thái độ, cách nhìn nhận, đánh
giá của chủ thể về đối tượng theo xu hướng phê phán, lên án, chỉ trích, nguyền rủa.
Trong đó, nhóm ngữ nghĩa thể hiện thái độ phê phán, chỉ trích cách ứng xử, đạo
đức, lối sống chiếm tỷ lệ vượt trội. Hiện tượng này khẳng định, người Việt rất coi
trọng việc đối nhân xử thế của con người trong gia đình hay ngoài xã hội. Tâm lý
coi trọng này đã nảy sinh, tồn tại một số hành động ngôn ngữ đóng vai trò gia tăng,
tác động nhằm điều chỉnh, uốn nắn, giáo dục nhân cách phù hợp mong muốn người
nói và chuẩn mực xã hội.
4. Đặc trưng văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc Việt và tinh thần Á đông ảnh
hưởng khá sâu sắc đến thói quen tư duy và ngôn ngữ của nhân vật mỗi khi có mâu
thuẫn nảy sinh. Hành động chửi thể hiện rõ nhận thức của con người về thế giới tâm
linh. Vậy nên, nhân vâṭ khi chửi ưa dùng yếu tố tâm linh, thần thánh để uy hiếp, đe
dọa, nguyền rủa người khác. Những b iểu hiêṇ này cho thấy n gười Việt coi trọng
tình cảm gia đình, quan hệ huyết thống, họ có thói quen dùng từ ngữ hô gọi biểu thị
quan hệ gia đình, dòng tộc cũng nhằm đề cao bản thân và hạ thấp, miệt thị người
khác. So sánh với hành động chê hay bác bỏ thì hành động chửi có nguy cơ gây tổn
thương danh dự đối phương rất cao cũng vì cách thức hô gọi này. Ngoài ra, nhân
vật ưa dùng từ ngữ chỉ hành động, công việc hèn kém hoặc con vật xấu xí để ví von
khiến đối phương phải bẽ mặt.
151
5. Hành động chửi xuất hiện trong lời thoại nhân vật truyện ngắn vừa thực
hiện chức năng giao tiếp của lời nói, vừa thực hiện chức năng thẩm mỹ của ngôn
ngữ nghệ thuật trong tác phẩm . Vì thế, khác với hành động chửi tồn tại trong
giao tiếp, đặc điểm hành động chửi của nhân vật đã được thể hiện qua lăng kính
thẩm mỹ của nhà văn, được xây dựng bằng tài năng, cá tính nghệ thuật của chủ
thể sáng tác. Hành động chửi của nhân vật là một kiểu tín hiệu thẩm mỹ góp
phần thể hiện giọng điệu, ý đồ sáng tác và đặc trưng phong cách nhà văn. Đặc
biệt, với những nhà văn theo khuynh hướng hiện thực, họ luôn trăn trở và khao
khát điều tốt đep̣ thì hành động chửi có tần xuất dày đặc hơn trong lời thoại nhân
vật. Cũng do vậy mà giọng điệu và ngôn ngữ đời thường chát chúa, gay gắt,
nặng nề được miêu tả rõ ràng, chân thực và sinh động qua hành động chửi của
nhân vâṭ trong truyêṇ ngắn Viêṭ Nam hiêṇ đaị .
152
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Thị Hoàng Yến (2009), Đặc điểm cấu trúc lời chửi của nhân vật trong
văn xuôi hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945, Tạp chí Khoa học, các
ngành Khoa học Xã hội, TậpXXXVIII, Đại học Vinh, Số 2B - 2009, tr.73 - 79.
2. Trần Thị Hoàng Yến (2010), Phương tiện thể hiện hành động chửi trực tiếp
qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng, Tạp chí Khoa học,
các ngành Khoa học Xã hội, Tập 39, Đại học Vinh, số 4B - 2010, tr. 85 - 94.
3. Trần Thị Hoàng Yến (2011), Đặc điểm lời chửi có dạng “Đồ + X” qua lời
thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam, Ngữ học toàn quốc, Hội Ngôn
ngữ học Việt Nam, tr. 877 - 883.
4. Trần Thị Hoàng Yến (2012), Xưng hô trong lời chửi của nhân vật truyện ngắn
Việt Nam, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, Số 3, tr. 47 - 53.
5. Trần Thị Hoàng Yến (2012), Một số cấu trúc đặc trưng của lời chửi trong
truyện ngắn Việt Nam, Hội thảo Quốc tế: Nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ,
văn hóa Trung Quốc - Việt Nam, lần thứ III, tr.126 - 133.
6. Trần Thị Hoàng Yến (2013), Phân loại hành động chửi qua lời thoại nhân vật
trong truyện ngắn Việt Nam, Ngữ học toàn quốc, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.
7. Trần Thị Hoàng Yến (2013), Đặc điểm ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời
thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số
6, tr. 37 - 42.
153
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
1. Chu Thị Thuỷ An (2002), Câu cầu khiến tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn,
Viện Ngôn ngữ học.
2. Aristore (2007), Nghệ thuật thi ca, Nxb Lao động, Hà Nội.
3. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
4. Diêp̣ Quang Ban (2010), Từ điển thuâṭ ngữ Ngôn ngữ hoc̣ (sơ khảo), Nxb
Giáo dục.
5. Chử Thị Bích (2008), Cấu trúc của sự kiện lời nói cho, tặng trong tiếng
Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
6. Phan Mâụ Cảnh (2001), “Về các lời chửi của người Viêṭ”, Những vấn đề về
lý thuyết lịch sử văn học và ngôn ngữ, Nxb Giáo duc̣, Hà Nội.
7. Phan Mậu Cảnh (2006), Ngữ pháp tiếng Việt - các phát ngôn đơn phần,
Nxb Giáo dục.
8. Chafe W. L (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa từ vựng tiếng Việt, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
10. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, tâp̣ 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1993), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12. Lê Thi ̣ Sao Chi (2010), Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Minh Châu,
Luâṇ án Tiến si ̃Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.
13. Nguyêñ Phương Chi (2003), “Môṭ số cơ sở của các chiến lươc̣ từ chối ”,
Ngôn ngữ (số 8).
14. Nguyễn Phương Chi (2004), Một số đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá ứng xử
của hành vi từ chối trong tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Ngôn
ngữ học.
154
15. Mai Ngoc̣ Chừ , Vũ Đức Nghiệu , Hoàng Trọng Phiến (2000), Cơ sở ngôn
ngữ hoc̣ và tiếng Viêṭ (tái bản lần 3), Nxb Giáo duc̣, Hà Nội.
16. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tâp̣ 1, Nxb Giáo dục, Tp Hồ Chí Minh.
17. Nguyễn Đức Dân (1996), Logic và tiếng Viêṭ, Nxb Giáo duc̣.
18. Vũ Tiến Dũng (2002), “Thử tìm hiểu một vài biểu thức tình thái gắn với
lịch sự của nữ giới trong giao tiếp”, Ngôn ngữ (số 3).
19. Vũ Tiến Dũng (2003), Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính (qua một số hành
động nói), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
20. Trương Thị Diễm (2002), Từ xưng hô có nguồn gốc thân tộc trong giao
tiếp tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.
21. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hoá đến văn hoá học, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
22. Hữu Đaṭ (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Viêṭ , Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
23. Trần Thanh Địch (1986), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Độ (1999), Các phương tiện ngôn ngữ biểu hiện hành động
thỉnh cầu trong tiếng Việt và tiếng Anh, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn , Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
25. Hà Minh Đức (2000), “Truyện ngắn Việt Nam trước cách mạng”, Văn học
(số 12).
26. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết
(1996), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Ngữ cảnh và giao tiếp, Viện Khoa học xã hội,
Hà Nội.
28. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Phân tích hội thoại, Viện Khoa học xã hội,
Hà Nội.
29. Nguyễn Thiện Giáp (2000), “Chiến lược giao tiếp”, Kiến thức ngày nay (số 9).
30. Nguyễn Thiện Giáp (2004), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia ,
Hà Nội.
31. Trịnh Thanh Hà (2001), Cặp thoại điều khiển trong sự kiện lời nói điều
khiển, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
155
32. Đinh Thị Hà (1994), Cấu trúc ngữ nghĩa của động từ ngôn ngữ: bàn, tranh
luận, cãi, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
33. Lê Thúy Hà (2013), Các chiến lược phê phán của người Việt, Ngôn ngữ
(số 2).
34. Cao Xuân Hải (2010), Hành động trần thuật qua lời thoại nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Lê Lựu, Luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Trường Đại học Vinh.
35. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Nguyễn Thu Hạnh (2005), Hành vi ngôn ngữ trách và sự kiện lời nói trách,
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
37. Dương Tuyết Hạnh (2007), Hành vi nhờ và sự kiện lời nói nhờ trong giao tiếp
tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
38. Cao Xuân Hạo (2004), Tiếng Việt (sơ khảo ngữ pháp chức năng), quyển 1,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
39. Cao Xuân Haọ (2003), Tiếng Viêṭ - Văn Viêṭ - Người Viêṭ, Nxb Trẻ.
40. Cao Xuân Hạo (1997), Một số vấn đề ngôn ngữ học và văn học, Nxb Đại
học sư phạm, Hà Nội.
41. Lương Thi ̣ Thu Hiền (2008), “Giá trị văn hoá và quyền lực đánh dấu qua
hành động ngôn từ trong giao tiếp của người Việt”, Kỷ yếu hội thảo Ngữ
học trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.
42. Nguyêñ Văn Hiêp̣ (2006), Ngữ nghiã hoc̣ dâñ luâṇ, (dịch từ nguyên bản
tiếng Anh Linguistic Semantics - An Introduction, 1995, tác giả : John
Lyons, Cambridge University Press), Nxb Giáo duc̣, Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Hiệp (2004), “Các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt và
chiến lược lịch sự”, Kỷ yếu hội thảo Quốc tế ngôn ngữ học Liên Á lần thứ
IV, Hà Nội.
45. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
156
46. Lê Thị Việt Hoa (1999), “Sự thể hiện quan niệm giới tính trong từ vựng
tiếng Việt”, Kỷ yếu Ngữ hoc̣ trẻ, Hội Ngôn ngữ hoc̣ Việt Nam.
47. Nguyêñ Văn Hoa (1998), Ngoa ngữ trong dân gian Việt Nam, Nxb Văn
hoá dân tộc.
48. Nguyễn Thái Hoà (2004), “Điểm nhìn trong lời nói giao tiếp và điểm nhìn
nghệ thuật trong truyện”, Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
49. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo duc̣.
50. Nguyêñ Thái Hòa (1997), Dâñ luâṇ phong cách hoc̣, Nxb Giáo duc̣, Hà Nội.
51. Nguyễn Chí Hoà (1993), “Thử tìm hiểu phát ngôn hỏi và phát ngôn trả lời
trong sự tương tác lẫn nhau giữa chúng trên bình diện giao tiếp”, Ngôn ngữ
(số 1).
52. Nguyễn Hoà (2002), “Ngữ cảnh trong lí luận phê bình diễn ngôn”, Ngôn
ngữ (số 8).
53. Nguyễn Công Hoan (1996), Đời viết văn của tôi, Nxb Văn nghệ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
54. Siriwong Hongsawan (2010), Nghiên cứu đối chiếu hành vi bác bỏ trong
tiếng Thái và tiếng Viêṭ , Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ họ c, Trường Đaị hoc̣
Khoa hoc̣ xa ̃hôị và nhân văn, Hà Nội.
55. Đỗ Việt Hùng (2011), “Điṇh hướng giáo dục ngôn ngữ (từ góc độ văn hóa
hành vi ngôn từ)”, Tạp chí Dạy và học ngày nay (số 1).
56. Đỗ Việt Hùng (2011), Nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ, Nxb Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
57. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa (2004), Phân tích phong cách ngôn
ngữ trong tác phẩm văn học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
58. Vũ Thị Thanh Hương (1999), “Giới tính và lịch sự”, Ngôn ngữ (số 8).
59. Vũ Thị Thanh Hương (1999), “Lịch sự và phương thức biểu hiện tính lịch
sự trong lời cầu khiến tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 10).
60. Lương Văn Hy (chủ biên), Diêp̣ Đình Hoa , Nguyêñ Thi ̣ Thanh Bình , Phan
Thị Yến Tuyết, Vũ Thị Thanh Hương (2000), Ngôn từ, giới và nhóm xã hôị
từ thưc̣ tiêñ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
157
61. Nguyêñ Quang Khải (2006), Phong tuc̣ tâp̣ quán của người Viêṭ , tâp̣ tuc̣ và
kiêng ki,̣ Nxb Lao đôṇg - Xã hội, Hà Nội.
62. Nguyêñ Văn Khang (1996), Ngôn ngữ hoc̣ xã hôị - những vấn đề cơ bản ,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
63. Nguyễn Văn Khang (1996), “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn
ngữ”, Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt, Nxb Văn hóa
Thông tin.
64. Nguyễn Văn Khang (1996), Nghi thức lời nói trong gia đình người Việt,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
65. Nguyễn Văn Khang (2003), “Ngôn ngữ tự nhiên và vấn đề chuyển mã
trong giao tiếp hội thoại (trên cơ sở tư liệu trạng thái đa ngữ xã hội ở Việt
Nam)”, Ngôn ngữ (số 1).
66. Khrapchenco. M. (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
67. Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 -
1975, Nxb Hà Nôị.
68. Nguyễn Lai (1998), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
69. Đào Thanh Lan (2010), Ngữ pháp - ngữ nghĩa lời cầu khiến tiếng Việt, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
70. Ngàn Lâm (2012), Website: htpp// Tri thức thời đại
71. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ nghiã lời hôị thoaị, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
72. Đỗ Thị Kim Liên (1999), “Phương thức cấu tạo hàm ngôn trong hội thoại”,
Kỷ yếu hội thảo “Những vấn đề Ngữ dụng học”, Trường Đại học sư phạm
Hà Nội.
73. Đỗ Thị Kim Liên (1998), “Từ xưng hô trong hội thoại”, Ngữ học trẻ, Hội
ngôn ngữ học Việt Nam.
74. Đỗ Thị Kim Liên (2003), “Khảo sát các phát ngôn có đôṇg từ ngữ vi tiếc ,
trách, ước, khuyên trong ca dao người Viêṭ” , Tạp chí Khoa học , Trường
ĐH Vinh, Tâp̣ XXXII (số 1B).
158
75. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình ngữ dụng học, Nxb Đại học Quốc gia ,
Hà Nội.
76. Nguyễn Thị Lương (1995), “Một số tiểu từ tình thái dứt câu tiếng Việt với
phép lịch sự trong giao tiếp”, Ngôn ngữ (số 2).
77. Lyons, J. (2001), Các hành động ngôn từ và lực ngôn trung (Người dịch:
Nguyễn Văn Hiệp ), Tạp chí Ngôn ngữ (số15).
78. Lyons, J. (2002), “Các hành đôṇg ngôn từ và lưc̣ ngôn trung” (tiếp theo)
(Người dịch: Nguyễn Văn Hiệp dịch), Ngôn ngữ (số 1).
79. Lyons, J (2006), Ngữ nghiã hoc̣ dâñ luâṇ (Người dịch: Nguyêñ Văn Hiêp̣),
Nxb Giáo duc̣, Hà Nội.
80. Nguyễn Thị Thanh Nga (2000), Những từ ngữ mang sắc thái khẩu ngữ
trong tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ.
81. Vũ Thị Nga (2009), Khảo sát hành vi rào đón trong giao tiếp tiếng Việt,
Luâṇ án Tiến si,̃ Viêṇ Ngôn ngữ.
82. Vũ Tố Nga (2010), Sự kiện lời nói cam kết trong hội thoại, Luận án Tiến sĩ
Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
83. Nguyêñ Thi ̣ Tuyết Ngân (1993), “Đăc̣ trưng ngôn ngữ văn hóa trong các lối
chửi của người Viêṭ”, Những vấn đề ngôn ngữ - văn hóa, Hội ngôn ngữ.học
Việt Nam.
84. Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa - văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
85. Phan Ngọc (1994), Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
86. Phan Ngoc̣ (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
87. Nguyễn Thị Hồng Ngọc (2001), “Đặc điểm một số hình thức hỏi biểu thị
cảm thán trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 5).
88. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn Nghệ, TP Hồ Chí Minh.
89. Nunan. D. (1997), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
90. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”, Ngôn ngữ (số 2).
91. Hoàng Phê (1982), “Tiền giả định và hàm ý trong ngữ nghĩa của từ”,
Ngôn ngữ (số 2).
159
92. Hoàng Phê (1981), “Ngữ nghĩa của lời”, Ngôn ngữ (số 3, 4).
93. Hoàng Phê (chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Viêṭ (in lần thứ 2), Hà Nội.
94. Hoàng Phê (1989), Logic ngôn ngữ học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
95. Ngô Đình Phương (2008), Hơp̣ phần liên nhân của câu trong ngữ pháp chức
năng hê ̣thống (Trên ngữ liêụ Anh và Viêṭ), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
96. Nguyễn Văn Quang (1998), Một số khác biệt giao tiếp lời nói Việt - Mỹ
trong cách thức khen và tiếp nhận lời khen, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
97. Nguyêñ Quang (2002), Các chiến lược lịch sự dương tính trong giao tiếp ,
Ngôn ngữ (số 11).
98. Võ Đại Quang (2004), “Lịch sự: Chiến lược giao tiếp hướng cá nhân hay
chuẩn mực xã hội?”, Ngôn ngữ (số 8).
99. Rozdetxtvenxki U.V (1998), Những bài giảng ngôn ngữ học đại cương,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
100. Saussure, F.De (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
101. Searle J.R (1964), “Thế nào là môṭ hành đôṇg ngôn từ”, Ngôn ngữ, văn hóa
và xã hội - Môṭ cách tiếp câṇ liên ngành (Người dic̣h : Vũ Thị Thanh
hương, Hoàng Tử Quân ; Hiêụ đính : Cao Xuân Haọ , Lương Văn Hy , Lý
Toàn Thắng, 2006), Nxb Thế giới, Hà Nội.
102. Đặng Đức Siêu (2004), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học sư phạm,
Hà Nội.
103. Chu Thi ̣ Thanh Tâm (1995), Sư ̣côṇg tác hôị thoaị để hình thành đề tài diêñ
ngôn, Luâṇ án Phó tiến si,̃ Trường Đại học sư phạm Hà Nôị.
104. Văn Tân (chủ biên) (1977), Từ điển tiếng Việt, in lần thứ 2, Hà Nội.
105. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
106. Đào Thản (1983), “Lối nói phóng đaị trong tiếng Viêṭ”, Ngôn ngữ (số 4).
107. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ hoc̣ tri nhâṇ - từ lí thuyết đaị cương đến
thưc̣ tiêñ tiếng Viêṭ, Nxb Khoa hoc̣ xa ̃hôị, Hà Nội.
160
108. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
109. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn
thể loại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
110. Nguyêñ Đức Thắng (2002), “Về giới và ngôi ở những từ xưng hô trong
giao tiếp tiếng Viêṭ”, Ngôn ngữ (số 2).
111. Phạm Văn Thấu (1996), “Hiệu lực ở lời gián tiếp: cơ chế và sự biểu hiện”,
Ngôn ngữ (số 1).
112. Phạm Văn Thấu (2000), Cấu trúc liên kết của cặp thoại (trên ngữ liệu tiếng
Việt), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
113. Trần Ngọc Thêm (1999), “Ngữ dụng học và văn hoá - ngôn ngữ học”,
Ngôn ngữ (số 4).
114. Trần Ngoc̣ Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
115. Trần Ngoc̣ Thêm (1993), “Đi tìm ngôn ngữ của văn hóa và đăc̣ trưng văn
hóa của ngôn ngữ Việt Nam , Những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa , Hôị
Ngôn ngữ hoc̣ Viêṭ Nam.
116. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghiã hoc̣, Nxb Giáo duc̣, Hà Nội.
117. Nguyễn Minh Thuyết (1998), Vài nhận xét về đại từ xưng hô tiếng Việt,
Ngôn ngữ (số1).
118. Phạm Văn Tình (2000), Ngữ nghĩa ngữ dụng của cặp liên từ logic
“Nếuthì”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Ngữ dụng học lần thứ nhất, Hà Nội.
119. Phạm Văn Tình (1999), “Xưng hô dùng chức danh”, Ngôn ngữ và đời sống
(số 11).
120. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoaṭ đôṇg giao tiếp tiếng Viêṭ , Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
121. Vương Toàn (1993), “Nhân tố văn hoá trong đời sống ngôn ngữ dân tộc”,
Việt Nam - Những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.
122. Tzvetan Todorov (2004), Mikhail Bakhtin - Nguyên lí đối thoại (Đào Ngọc
Chương dịch), Nxb Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
123. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đăc̣ trưng văn hoá - dân tôc̣ của ngôn
ngữ và tư duy ở người Việt, Nxb Đaị hoc̣ Quốc gia, Hà Nội.
161
124. Nguyêñ Đức Tồn (1999), “Chiến lươc̣ liên tưởng - so sánh trong giao tiếp
của người Việt Nam”, Ngôn ngữ (số 3).
125. Lê Ngoc̣ Trà (2003), Văn hóa Viêṭ Nam đăc̣ trưng và cách tiếp câṇ , Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
126. Lê Thị Trang (2002), Ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh.
127. Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hoá, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
128. Lê Đình Tường (2002), “Hoàn cảnh cầu khiến trong hội thoại”, Ngữ học
trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.
129. Lê Đình Tường (2003), “Đặc trưng ngữ nghĩa của một số nội dung mệnh
đề trong phát ngôn cầu khiến trực tiếp”, Tạp chí Khoa học, Tập XXXII, số
2B, Đại học Vinh.
130. Viện Văn hóa (1986), Khái niệm và quan niệm về văn hóa, NXB Văn hóa.
131. Trần Quốc Vươṇg (chủ biên), (1996), Văn hóa hoc̣ đaị cương và cơ sở văn
hóa Việt Nam, Nxb Khoa hoc̣ xa ̃hôị, Hà Nội.
132. Xtepanop I.U (1977), Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, Nxb ĐH
&THCN, Hà Nội.
133. Nguyễn Như Ý (1990), “Vai xã hội và ứng xử trong giao tiếp”, Ngôn ngữ (số 3).
134. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
135. Hà Thị Hải Yến (2006), Hành vi cảm thán và sự kiện lời nói cảm thán
trong tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện ngôn ngữ học, Hà Nội.
136. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2007), Sự kiện lời nói chê trong tiếng Việt (cấu
trúc và ngữ nghĩa), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
137. Bùi Minh Yến (2001), Từ xưng hô trong gia đình đến ngoài xã hội của
người Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
138. Mai Thị Hảo Yến (1998), Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao (các hình
thức thoại dẫn), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
139. George Yule (2003), Dụng học - Một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
162
II. TIẾNG NƢỚC NGOÀI
140. J.L. Austin (1975), How to do things with words, The William James
lectures delivered at Hawai University in 1965, Oxford University Press.
141. K. Back & M. Harnish (1984), Linguistic Communicational Speech Acts,
Library of Congress Cataloging in Publication Data.
142. P. Brown and S.C. Levinson (1978), “Univesals in language usage:
Politeness Phenomena”, P. 56 - 310.
143. O. Dorcot (1973), Les Echelles argumentatives, trg. La prevue et le dire.
144. O. Dorcot (1972), Dire et ne pas descipes de sematicque linguivique, Pari.
145. H.D. Grice (1975), Logic and conversation “syntax and semantic”, Vol
III, Speed acts, New York and London.
146. G. Lakoff (1976), Linguistique et Logique naturelle, Paris. Natu
147. G.N. Leech (1983), Principles of Pragmatics, Longman, London &
NewYork.
148. J. Lyons (2006), Linguistic Semantics - An Introduction, Cambridge
University Press.
149. J. Lyons (1968), Élement de sémantique, Traduction de J.Đurand, Larousse.
150. J.R. Searle (1979), “A Taxonomy of Illocitionary Acts”, in: The
Philosophy of Language, 3
rd
edition, A. P. Martinich (ed), Oxford
University Press, 1996.
151. J.R. Sesrle, (1969), Speech Acts, Cambridge University Press, Cambridge.
152. J.R. Sesrle (1975), Indirect Speech Acts, Syntax and Sematics (vol.3),
NewYork.
153. E. Sweetser (1990), From Etymology to Pragmatics, Cambridge
University Press.
154. R. Wierzbicka (1991), How Conversaton Works, Basil Blackwell, UK.
155. G. Yule (1969), Pragmatics, Oxford University Press.
163
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN LÀM VÍ DỤ
I. Tạ Duy Anh (2008), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
II. Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ (2002),
Truyện ngắn bốn cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
III. Phan Thị Vàng Anh (2009), Truyện ngắn, Nxb Trẻ.
IV. Nam Cao (1997), Tuyển tập truyện ngắn (tập I), Nxb Văn học, Hà Nội.
IV. Võ Thị Xuân Hà (2007), Cái vạc đồng có đòn khiêng bằng kim khí (Tập
truyện ngắn), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
V. Võ Thị Xuân Hà (2009), Ăn trái đào hái hoa hồng đào (Tập truyện ngắn),
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
VI. Võ Thị Hảo (2005), Goá phụ đen, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
VII. Võ Thị Hảo (2006), Người sót lại của rừng cười, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
VIII. Nguyễn Công Hoan (2007), Truỵện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nxb Văn học,
Hà Nội.
IX. Nguyễn Công Hoan (2006), Tuyển tập Nguyễn Công Hoan, (tập I). Nxb
Văn học, Hà Nội.
X. Nguyên Hồng (2005), Bỉ vỏ, Nxb. Văn học, Hà Nội.
XI. Ma Văn Kháng (2003), Tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
XII. Ma Văn Kháng (2006), 50 truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn hoá Sài Gòn.
XIII. Ma Văn Kháng (2003), Cỏ dại, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
XIV. Ma Văn Kháng (2009), Trốn nợ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
XV. Chu Lai (2002), Truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
XVI. Thạch Lam (2009), Truyện ngắn, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
XVII. Kim Lân (2008), Vợ nhặt, Nxb Văn học, Hà Nội.
XVIII. Kim Lân (2010), Truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
XIX. Lê Lựu (2006), Chuyện làng Cuội, Nxb Văn học, Hà Nội.
XX. Bảo Ninh (2009), Lan man trong lúc kẹt xe, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
XXI. Bảo Ninh (2011), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
XXII. Nhiều tác giả (2004), Truyện ngắn đầu tay của các nhà văn Việt Nam, Nxb
Thanh Niên, Hà Nội.
164
XXIII. Nhiều tác giả (2009), Truyện ngắn 5 tác giả nữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
XXIV. Nhiều tác giả (2007), Truyện ngắn nữ 2006, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
XXV. Nhiều tác giả (2007), Văn mới 2006 - 2007: Tuyển tập truyện ngắn mới
nhất, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
XXVI. Nhiều tác giả (2008), Muối của rừng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
XXVII. Nhiều tác giả (2008), Truyện ngắn hay Tuổi trẻ cuối tuần 2006, 2007,
Nxb Tuổi trẻ, Hà Nội.
XXVIII. Nhiều tác giả (2009), Văn mới 2008 -2009, Tuyển tập truyện ngắn mới
nhất, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
XXIX. Nhiều tác giả (2011), Truyện ngắn hay, Nxb Trẻ.
XXX. Vũ Trọng Phụng (1997), Truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
XXXI. Chi hội nhà văn Quân đội (2002), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb QĐ, Hà Nội
XXXII. Nguyễn Huy Thiệp (2003), Truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội
XXXIII. Nguyễn Quang Thiều (2011), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
XXXIV. Nguyễn Văn Thọ (2010), Vàng xưa (Tập truyện ngắn), Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
XXXV. Ngô Tất Tố (2008), Việc làng, Nxb Văn học, Hà Nội.
XXXVI. Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Thu Huệ (2004), 45 truyện ngắn hay,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
XXXVII. Nguyễn Tuân (2010), Truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
XXXVIII. Nguyễn Mạnh Tuấn (1995), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
XXXIX. Nguyễn Mạnh Tuấn (2010), Khoả thân, Nxb Thời đại.
XL. Đỗ Thị Hồng Vân (2009), Cô giúp việc kén chồng, Nxb Hà Nội.