VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----------------
VŨ THỊ THU HÀ
CỔNG LÀNG NGƯỜI VIỆT Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA DÂN GIAN
Mã số: 62 22 01 30
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. Nguyễn Xuân Kính
Hà Nội, 2016
I
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án: Cổng làng người Việt ở châu thổ Bắc Bộ do tôi
thực hiện. Các tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và
lần đầu tiên được công bố tại luận án này. Nếu sa
231 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Cổng làng người việt ở châu thổ Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Nghiên cứu sinh
II
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chương 1: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CỔNG LÀNG, TỔNG QUAN VỀ CHÂU
THỔ VÀ LÀNG VIỆT BẮC BỘ, LÝ THUYẾT VẬN DỤNG ............................ 8
1.1. Lịch sử nghiên cứu cổng làng ............................................................................. 8
1.2. Tổng quan về châu thổ Bắc Bộ và làng Việt ..................................................... 15
1.3. Lí thuyết vận dụng......................................... .................................................... 38
Chương 2: NHẬN DIỆN CỔNG LÀNG TRUYỀN THỐNG Ở CHÂU THỔ
BẮC BỘ ................................................................................................................... 46
2.1. Vị trí và sự phân bố cổng làng .......................................................................... 46
2.2. Phân loại cổng làng ........................................................................................... 55
2.3. Điêu khắc, trang trí trên cổng làng .................................................................... 72
2.4. Mối quan hệ giữa cổng làng với đình làng, chùa làng ...................................... 80
Chương 3: CHỨC NĂNG VÀ GIÁ TRỊ CỦA CỔNG LÀNG Ở CHÂU THỔ
BẮC BỘ ................................................................................................................... 84
3.1. Chức năng của cổng làng .................................................................................. 84
3.2. Giá trị của cổng làng ....................................................................................... 104
Chương 4: CỔNG LÀNG TRONG LỊCH SỬ VÀ TRONG CUỘC SỐNG
ĐƯƠNG ĐẠI, NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN ................................................. 116
4.1. Cổng làng trong lịch sử ................................................................................... 116
4.2. Cổng làng trong cuộc sống đương đại ............................................................ 119
4.3. Những vấn đề bàn luận ................................................................................... 125
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 141
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ....... . 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 145
PHỤ LỤC ...................................................................................................... ........156
III
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CB
ĐH
Chủ biên
Đại học
GS
H
Giáo sư
Hà Nội
KHXH
NCS
Khoa học xã hội
Nghiên cứu sinh
Nxb
PGS
Nhà xuất bản
Phó giáo sư
Tr. trang
TS
TSKH
Tiến sĩ
Tiến sĩ khoa học
Tp Thành phố
UBND
VHDG
VHDT
Uỷ ban nhân dân
Văn hóa dân gian
Văn hóa dân tộc
VHNT Văn hóa nghệ thuật
VHTT Văn hóa thông tin
xb Xuất bản
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa truyền thống của người Việt từ ngàn đời nay được lưu giữ một phần
lớn và quan trọng là ở làng. Làng Việt ở Bắc Bộ là nơi định cư sớm của cư dân
Việt. Đa phần công việc trong làng là làm nghề nông. Về cảnh quan, có đường làng,
chùa làng, đình làng, ao làng, chợ làng,... và nhiều làng không thể thiếu cổng làng.
Cổng làng được các nhà nghiên cứu văn hóa xếp vào danh mục các di sản
văn hóa vật thể, cũng như các di tích kiến trúc nghệ thuật khác như đình, chùa, đền,
miếu, văn chỉ, từ chỉ, nhà thờ họ... Song, cổng làng không chỉ là di sản văn hóa vật
thể. Ẩn sau diện mạo khó quên của những chiếc cổng làng, còn có những giá trị văn
hóa phi vật thể mà nếu được quan tâm nghiên cứu, cổng làng sẽ là tư liệu quý, giúp
chúng ta hiểu thêm về làng Việt và văn hóa dân tộc.
Là một bộ phận cấu thành của thực thể làng Việt, cổng làng có vai trò, chức
năng của nó. Cổng làng thể hiện mơ ước, nguyện vọng của cộng đồng, mang giá trị
tâm linh, trở thành một biểu tượng khó mờ phai đối với dân làng. Thêm nữa, cổng
làng còn là vách ngăn, một thứ biểu tượng để phân biệt làng này với làng khác, là
nơi chức dịch kiểm soát dân làng. Vai trò, chức năng ấy đã dần dần thay đổi. Những
yếu tố truyền thống và biến đổi hiện nay trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc
trang trí, những yếu tố vay mượn của cổng làng và ý nghĩa của cổng làng trong
không gian văn hóa của làng quê xưa và nay luôn luôn cần được tìm hiểu. Việc
nghiên cứu một cách hệ thống cổng làng vùng châu thổ Bắc Bộ sẽ góp phần khẳng
định những giá trị truyền thống văn hóa của làng, góp thêm tiếng nói vào việc
nghiên cứu sự biến đổi văn hóa hiện nay.
Thực trạng của cổng làng hiện nay có rất nhiều vấn đề đáng quan tâm, số
lượng cổng làng cũ hiện tại không còn nhiều bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau.
Có nhiều cách lý giải, ứng xử trước sự biến đổi này. Liệu có cần thiết giữ gìn nét
truyền thống của cổng làng ở mỗi làng quê cho phù hợp với cảnh quan không gian
2
của làng? Sự tồn tại của cổng làng sẽ làm tôn thêm vẻ đẹp truyền thống của mỗi
làng, hay chỉ bó buộc không gian sống của con người, cản trở giao thông khi xe cộ
càng nhiều, kích thước càng lớn? Khi xây mới hoặc tu sửa cổng cũ thì cần lưu ý
những gì?
Trong thời kì mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế, văn hóa hiện nay, cổng
làng cũng như nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật khác đã trải qua nhiều tác động
tiêu cực của thời gian, của cơ chế thị trường và những bất cập trong quản lý văn
hóa, đặc biệt là của quá trình đô thị hóa quá nóng. Diện mạo, chức năng và giá trị
của cổng làng đang dần mai một theo văn hóa truyền thống. Để bảo tồn, phát huy và
khai thác những giá trị lịch sử - nghệ thuật cổng làng của người Việt vùng châu thổ
Bắc Bộ trong bối cảnh hiện nay, với những lý do vừa trình bày, tôi chọn “Cổng làng
người Việt ở châu thổ Bắc Bộ” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ trong quá trình lịch sử, trình bày
diện mạo, chức năng, giá trị và vai trò của nó trong xã hội truyền thống và đương
đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.2.1. Tìm hiểu sự vận động của cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ trong diễn
trình lịch sử
2.2.2. Phân tích các chức năng, giá trị của cổng làng truyền thống
2.2.3. Khảo sác các xu hướng ứng xử hiện nay với cổng làng
2.2.4. Trình bày những suy nghĩ về vai trò của cổng làng trong xã hội đương
đại, dự báo số phận của nó trong tương lai.
Nhằm thực hiện những nhiệm vụ trên, tức là tác giả luận án đã trả lời cho các
câu hỏi nghiên cứu sau:
- Cổng làng ra đời từ bao giờ, diện mạo, chức năng xã hội và giá trị của nó ra
sao?
- Cổng làng biến đổi như thế nào trong cuộc sống hiện nay?
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các cổng làng truyền thống và cổng làng
mới ở châu thổ Bắc Bộ từ xưa đến nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1.Không gian nghiên cứu
Không gian nghiên cứu là cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ. Châu thổ Bắc Bộ là
một vùng rộng lớn, bên cạnh việc cố gắng bao quát bức tranh chung, tình hình
chung, nghiên cứu sinh chọn những điểm nghiên cứu có tính đại diện.
Trước hết, NCS chú ý đến những cổng làng là đại diện cho bốn tiểu vùng
Đông, Tây, Nam, Bắc của Bắc Bộ xưa. Về xứ Đông, chúng tôi khảo sát cổng làng
Cầu Nôm (nay thuộc Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên), (H1)1. Về xứ Đoài (phía Tây) chúng
tôi khảo sát cổng làng Mông Phụ (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội),
(H2). Về phía Nam, nghiên cứu sinh khảo sát cổng làng Tây Bình Cách (xã Đông
Xá), (H3); cổng Tây (thôn Duyên Hà, xã Đông Kinh), (H4), cả hai cổng làng này đều
thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Về xứ Bắc, chúng tôi khảo sát một số cổng
làng xã Dương Xá2 (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội), (H5); cổng làng Đồng Kị
(nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), (H6); cổng làng Thổ Hà (nay thuộc huyện
Việt Yên, tỉnh Bắc Giang), (H7).
Thứ hai, NCS chú ý đến những tiêu chí đại diện khác. Cổng làng Ước Lễ
(nay thuộc Thanh Oai, Hà Nội ), là cổng làng cổ được coi là đẹp nhất châu thổ Bắc
Bộ, là cổng trước của một làng nông nghiệp có hai nghề phụ nổi tiếng là nghề giã
giò và nghề may mặc. Cổng làng Mông Phụ là chiếc cổng cổ nhất còn giữ được cho
đến nay (H8). Cổng làng Cầu Nôm là cổng của một làng buôn bán trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Làng này có nghề buôn đồng nát nổi tiếng: “Bao nhiêu đồng
nát thì về Cầu Nôm, con gái nỏ mồm thì ở với cha” (tục ngữ). Cổng làng Thổ Hà là
cổng làng nghề gốm lâu đời. Cổng làng Đồng Kị là cổng của một làng có quá trình
1 (H1), (H2), (H3)... tương ứng với hình ảnh trong phụ lục.
2 Xã Dương Xá gồm có sáu thôn: Dương Đanh, Dương Đá, Dương Đình, Thuận Tiến
Thuận Quang, Yên Bình.
4
đô thị hóa rất nhanh, tiêu biểu cho loại làng “vươn ra phố” (Nguyễn Thị Phương
Châm). Cổng làng Tây Bình Cách và cổng Tây làng Duyên Hà, Thái Bình tiêu biểu
cho loại cổng của những làng thuần nông. Một số cổng hiện còn ở đường trên phố
Thụy Khuê (quận Tây Hồ, Hà Nội hiện nay), như Hồ Khẩu, Trích Sài, Bái Ân,
Võng Thị... là loại cổng vốn là của làng xóm xưa kia, nay bị kẹt cứng trong không
gian đô thị (H9). Cổng làng Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) nằm ngay sát nội đô Hà
Nội, cũng là một kiểu cổng cần tìm hiểu.
Ngoài ra, trong những phân tích cụ thể, trong những vấn đề cụ thể, chúng tôi
sẽ phân tích những cổng làng khác nữa.
3.2.2.Thời gian nghiên cứu
Tác giả luận án bắt đầu nghiên cứu cổng làng Bắc Bộ từ năm 2009 đến tháng
8 năm 2015. Những thông tin về thời gian trước năm 2009 là những thông tin hồi cố
từ các cán bộ dân làng địa phương hoặc tác giả thu thập từ thư tịch, báo chí.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Khi nghiên cứu cổng làng người Việt ở Bắc Bộ, tác giả luận án luôn luôn đặt
cổng làng trong bối cảnh của làng (bao gồm điều kiện địa lí tự nhiên, không gian
vật lí và không gian văn hóa xã hội).
Khi nghiên cứu cổng làng người Việt ở Bắc Bộ nghiên cứu sinh nhìn đối
tượng trong sự vận động, vận dụng những tri thức về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật để
lí giải sự biến đổi, sự xuất hiện những yếu tố mới, sự vắng bóng những yếu tố cũ.
4.2.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài luận án, NCS sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu.
Trước hết là phương pháp tập hợp các tài liệu thứ cấp. Tài liệu viết về cổng
làng khá hiếm. Nhiều khi trong một cuốn sách, trong một bài tạp chí, chúng tôi chỉ
tìm được mươi dòng có thông tin liên quan đến đề tài luận án. Thí dụ trong cuốn
sách của Phan Hữu Dật, NCS chỉ tìm thấy một dòng thông tin: “Các làng miền
Trung nước ta làm gì có cổng làng” [20, tr.116]. Chúng tôi đã đọc hết ba cuốn sách
về văn bia mà không thấy một thông tin nào về cổng làng [110], [127], [128]. NCS
5
đã đọc kĩ hai cuốn sách sưu tập 3000 và 5000 hoành phi, câu đối Hán Nôm do Trần
Lê Sáng chủ biên mà không tìm thấy một thông tin nào về cổng làng [90], [91].
Thứ hai, từ những gợi ý của các tác giả đi trước, NCS tiến hành khảo sát thực
địa. NCS khảo sát 47 cổng làng tại Hà Nội và các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái
Bình, Hưng Yên. Chúng tôi đã chụp ảnh, hỏi chuyện người dân địa phương. Có
những cổng làng NCS đi đến nhiều lần như cổng làng Đường Lâm, cổng làng
Dương Xá, cổng làng Đồng Kỵ, cổng làng Duyên Hà, cổng làng Cầu Nôm, cổng
làng Ước Lễ,...
Thứ ba, NCS sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp trong nghiên
cứu văn hóa dân gian. Về phương pháp này, Đinh Gia Khánh đã trình bày chi tiết
trong cuốn sách của Viện Văn hóa dân gian: Văn hóa dân gian những phương pháp
nghiên cứu (1990) [126]. Tiếp thu những gợi ý của tác giả, NCS hiểu cổng làng là
một tổng thể, nhiều yếu tố. Để hiểu nó, cần phân tích những yếu tố cụ thể để nghiên
cứu sau đó sẽ tổng hợp lại.
Thứ tư, phương pháp phỏng vấn chuyên gia cũng được sử dụng. NCS đã
phỏng vấn GS.TSKH Phan Đăng Nhật và PGS.TS Nguyễn Xuân Đức. Cả hai vị đều
là nhà nghiên cứu văn hóa, văn hóa dân gian. Đặc biệt GS.Phan Đăng Nhật năm nay
84 tuổi (sinh năm 1931). Kí ức của ông cho biết tình hình cổng làng ở làng quê ông
trước cách mạng tháng Tám 1945. PGS.TS Nguyễn Xuân Đức (sinh năm 1948),
hiện đang nghỉ hưu ở Hà Nội. Ông cho tôi biết văn hóa ở làng quê ông hiện nay ở
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ngoài ra, nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh được đào
tạo về Hán học, có nhiều năm giữ cương vị Giám đốc Sở Văn hóa thông tin tỉnh
Thái Bình. Ông giúp đỡ chúng tôi những hiểu biết về một vùng quê lúa và cổng
làng trước kia. Không chỉ qua trò chuyện, ông còn trực tiếp dẫn chúng tôi đến hai
cổng làng cổ ở Thái Bình. Về Hán học, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ của nhà
giáo TS. Nguyễn Ngọc Lân, Trường Đại học Hà Nội. Ông đã thể hiện các chữ Hán
mà ở phần câu đối, tác giả Vũ Kiêm Ninh chỉ mới phiên âm bằng chữ quốc ngữ.
Ông cũng góp phần trao đổi về ý nghĩa của một số điển tích.
Thứ năm, NCS sử dụng phương pháp so sánh. NCS sẽ so sánh giữa các cổng
làng với nhau để hiểu cái chung và nét riêng của từng khu vực và từng thời đại.
6
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
5.1. Đưa ra cái nhìn hệ thống về cổng làng của người Việt ở Bắc Bộ từ góc
nhìn văn hóa học, trình bày những mốc chính trong diễn trình lịch sử của nó (trong
điều kiện tài liệu hiện nay cho phép), mô tả và phân loại chi tiết về cổng làng.
5.2. Phân tích có hệ thống các chức năng, giá trị của cổng làng, nhìn nhận vai
trò của các chức năng này trong diễn trình lịch sử.
5.3.Trình bày các xu hướng ứng xử với cổng làng trong cuộc sống đương
đại, đề xuất những suy nghĩ để các nhà quản lí và giới nghiên cứu tham khảo.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
6.1.1. Góp phần vào việc nhận diện cảnh quan, đời sống văn hóa, tâm linh ở
nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhận diện sự biến đổi
của những yếu tố này trong thời đại mới.
6.1.2. Làm rõ vai trò qua lại giữa các thành tố trong một hệ thống với toàn bộ
hệ thống và sự tương tác giữa các yếu tố trong một hệ thống.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
6.2.1. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà
quản lí, các cấp có thẩm quyền trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống, hoạch định,
xây dựng nông thôn mới hiện nay.
6.2.2. Bản luận án sẽ góp phần vào nhận thức của người dân Việt nói chung,
của thế hệ trẻ nói riêng trên con đường tìm về cội nguồn, hướng về cội nguồn, trong
đạo lí uống nước nhớ nguồn và từ đó thêm yêu quê hương, đất nước.
7. Cơ cấu của luận án
Trong phần chính văn, ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bản luận
án có bốn chương như sau:
Chương 1. Lịch sử nghiên cứu cổng làng, tổng quan về châu thổ Bắc Bộ và
làng Việt, lý thuyết vận dụng (tr.8 - tr.438)
Chương 2. Nhận diện cổng làng truyền thống Bắc Bộ (tr.46 - tr.80)
7
Chương 3. Chức năng và giá trị của cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ (tr.84 -
tr.104)
Chương 4. Cổng làng trong lịch sử và trong cuộc sống đương đại, những vấn
đề bàn luận (tr.116 - tr.125)
Ngoài ra, luận án còn có một phụ lục, nhằm làm rõ thêm nội dung của phần
chính văn.
8
Chương 1
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CỔNG LÀNG, TỔNG QUAN VỀ CHÂU THỔ BẮC
BỘ VÀ LÀNG VIỆT, LÝ THUYẾT VẬN DỤNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu cổng làng
Khi nghiên cứu cổng làng, văn bia là một trong những nguồn tài liệu thu hút
sự chú ý của chúng tôi. Văn bia thời Mạc (1996) của Đinh Khắc Thuân [110] giới
thiệu 147 văn bia và một bài minh văn khắc trên chuông đồng chùa Tư Phúc (ở Thái
Bình). 148 trong số tài liệu này, văn bia ở chùa chiếm đại đa số (nói về việc công
đức tu sửa chùa, làm giếng chùa, dựng cầu vào chùa, làm lại hướng mới của
chùa,). Ngoài ra còn có bia đền thần, bia ghi lại công tích, sự nghiệp của danh
nhân, Trong công trình Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt
làng xã (2003), tác giả Phạm Thị Thùy Vinh cho biết số lượng bia thời Lê; dựng và
phân bố ở các địa điểm như sau: chùa 556 bia; đình 302 bia; đền, miếu 50 bia; văn
chỉ 40 bia; từ đường 36 bia; lăng mộ 22 bia; từ chỉ 19 bia; cầu 15 bia; chợ 9 bia;
sinh từ 7 bia; điếm 6 bia; am 1 bia [127]. Trong Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà
Nội. Tuyển tập văn khắc Hán Nôm (2010), chủ biên Phạm Thị Thùy Vinh và các
đồng soạn giả biên dịch 135 bài minh văn, nội dung chủ yếu của các văn bản này
nói về việc dựng chùa, tu sửa chùa, làm đình, đúc chuông, cung tiến ruộng đất, lập
từ đường, [128].
Trong tất cả ba cuốn sách nêu trên, không có một văn bia nào nói về việc xây
hoặc tu sửa cổng làng!
Cổng làng thường có các câu đối. Chính vì vậy, chúng tôi đã tìm đọc cuốn
3000 hoành phi, câu đối Hán Nôm (2003) do Trần Lê Sáng chủ biên [90], cuốn
5000 hoành phi, câu đối Hán Nôm (2015) cũng do Trần Lê Sáng chủ biên [91].
Đáng tiếc, hai cuốn sách không cho nghiên cứu sinh một thông tin nào về cổng
làng.
9
Những tài liệu đề cập đến cổng làng thực sự ít ỏi. Số lượng tài liệu không chỉ
ít, trong mỗi tài liệu, đại đa số các tác giả lại chỉ viết rất ít về cổng làng.
1.1.1. Tài liệu viết không tập trung về cổng làng
Pierre Gourou (1900 - 1999), nhà sử học và địa lí học người Pháp công bố cuốn
sách Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ vào năm 1936. Khi viết về làng của người Việt,
tác giả đặc biệt chú ý đến lũy tre và đã viết về cổng làng. Ông cho biết số lượng cổng
của một làng, chất liệu xây dựng, kích thước của cổng và công dụng của cổng. Cuốn
sách của ông còn có một bức ảnh về cổng làng Đông Viên, thôn Chu Quyến, phủ
Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội) [29].
Năm 1939 khi viết về khu phố buôn bán ở Hà Nội, Henri Bernard nhận thấy:
“Những bức tường bao và những cổng phố được đóng lại vào ban đêm, đã chia cắt
những phường khác nhau, với số lượng là 36, mỗi một phường lại chia thành hai
phường nhỏ” [7, tr.79]. Tác giả không mô tả cổng phố, không có ảnh chụp và không
cho biết cổng phố có khác cổng làng không, nó được làm bằng chất liệu gì. Chúng
tôi không nhận được thông tin cụ thể về hình dáng, kích thước và chất liệu làm
cổng.
Vào nửa cuối những năm 60 của thế kỉ trước, tại Sài Gòn, trong cuốn sách
Làng xóm Việt Nam với hơn 270 trang, tác giả Toan Ánh chỉ dành hai đoạn miêu tả
cổng làng: một đoạn gồm 8 dòng (viết về chiếc cổng xây), một đoạn 15 dòng (viết
về cổng tre). Cả hai chiếc cổng này đều ở Bắc Bộ [1,tr.6,10].
Năm 1977, trong cuốn sách nhiều tác giả, trong bài “Về vai trò của làng xã
trong sự nghiệp đấu tranh vũ trang giữ nước ở Việt Nam thời xưa”, tác giả Lê Văn
Lan cho biết từ đầu Công nguyên, người Trung Quốc đã nói đến những lũy tre gai
“không sao công phá được” ở các làng Việt, ghi nhận từ thế kỉ thứ XIII, sứ giả nhà
Nguyên là Trần Phu đã viết về các bụi tre gai ở Đại Việt. Từ đó tác giả nghĩ rằng đi
kèm với lũy tre là cổng làng với hai hình thức thô sơ (cổng tre) và kiên cố (cổng xây
bằng gạch). Tác giả không chỉ ra được những cái cổng đó được sách vở, tác giả nào
ghi nhận [123]. Trong cuốn sách vừa nêu, trong bài “Làng xã trong cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông (thế kỉ XIII)”, tác giả Phùng Văn Cường
10
cũng dẫn câu văn mà sứ giả Trần Phu ghi nhận những bụi tre gai nước Việt, và
không nói gì về cổng làng [123, tr.262]1.
Năm 1978, trong bài “Tìm hiểu về sự cư trú ở một số làng xã trên miền đồng
bằng Bắc Bộ”, tác giả Huy Vu dành hai đoạn văn (đoạn dài nhất không quá một
trang) miêu tả cảnh quan xung quanh cổng làng [124, tr. 78].
Năm 1991, trong cuốn sách của nhiều tác giả Văn hóa và văn hóa cư dân
đồng bằng sông Hồng, Vũ Tự Lập miêu tả cảnh quan xung quanh cổng làng gần
giống như Huy Vu đã viết:
...xưa kia vào làng rất khó, nhiều khi có có lối đi vào duy nhất, hai bên
đường có ao, lại có cổng chắc chắn, cổng xây gạch cửa gỗ, bên trên có địch
lâu tích trữ gạch đá, mảnh chai làm vũ khí tự vệ. Làng nghèo lắm thì cổng
cũng có rào chông bảo vệ. Ở những làng giàu có, quản lí chặt chẽ thì cách
cổng làng khoảng 50m lại xây điếm canh, có tuần phiên canh gác, nhất là về
ban đêm. Trước cổng làng thường trồng các cây cổ thụ, như cây đa, cây đề,
cây si, cây bàng và núp dưới chúng có cái quán nhỏ mở hàng nước [65,
tr.55-56].
Cùng năm 1991, trong cuốn sách Mĩ thuật ở làng gồm 247 trang (cả chữ và
hình), hai tác giả Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng chỉ viết về cổng làng vẻn vẹn
mấy dòng như sau:
Cổng làng thường là cổng gạch kiểu tam quan, có chạm trổ bằng vữa,
đắp hình, ghép gốm Nhiều cổng khá đồ sộ, nhưng thường thì xinh xắn mà
thôi. Nó giống như cột mốc vào làng hơn là một cổng thành để tự vệ. Cái
cổng thông thoáng này dẫn qua đoạn chính của đường làng tới đình và có
thể có những đoạn khác cũng rộng rãi dẫn tới chùa, miếu, đến thờ [86,
tr.27].
Trong cuốn sách 740 trang khổ lớn của nhiều tác giả Làng ở vùng châu thổ sông
Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ (xb 2002), trong bài “Về không gian làng”, tác giả Nguyễn
Tùng viết hai đoạn văn về cổng làng như sau:
1 Ở mục lục của sách, tên tác giả là Phạm Văn Cường, trong bài, tên tác giả là Phùng Văn Cường?
11
+ Trước năm 1945, Mộ Trạch (thôn Thượng) có ba cổng gạch ngày nay
không còn nữa: Đông, Chùa và Nam. Cổng nam lớn nhất có gác cho tuần
phiên ngủ. Theo hương ước của làng sửa đổi hay bổ sung vào năm 1665 và
1679, không gian cư trú của Mộ Trạch trước đây là lũy tre, hào và dường
như cả tường gạch cao vây quanh: nếu đúng thế thì đây là điều khá hiếm!”
[83, tr.115].
+Ở Tả Thanh Oai, Đông Ngạc cũng như ở nhiều làng ngoại ô Hà
Nội khác nằm dọc theo sông Hồng hay sông Tô Lịch, mỗi ngõ thường có
một cổng mở ra đường ven sông và một cổng mở ra đồng ruộng.
Ở Mộ Trạch và Mông Phụ, là hai làng xa sông, cổng làng có chức năng
kiểm soát các con đường chính đi vào làng từ đường thiên lý hay không
gian canh tác, nhằm bảo vệ không gian cư trú. Mông Phụ có 5 cổng mang
tên của 5 khu (hay xóm): Đình, Sải, Sui, Chim và Hè. Điều đáng ngạc
nhiên là trước đây ngoài 3 cổng Đông, Nam và Chùa, Mộ Trạch không có
cổng ở phía bắc, chắc là vì thời xưa chưa có đường liên xã nối Mộ Trạch
với My Cầu và Sặc” [83, tr.130].
Trong bản dịch tiếng Việt (in lần đầu 2007) của công trình Làng Việt đối diện
tương lai hồi sinh quá khứ, John Kleinen cho rằng, không thể biết chắc chắn làng Việt
ở châu thổ Bắc Bộ “được bảo vệ bằng cổng gạch và hệ thống lũy tre khi nào” nhưng
những mô tả của người nước ngoài từ đầu thế kỉ XIX đều khẳng định rằng đến lúc đó,
cảnh tượng này là rất phổ biến [61, tr.40].
Nhà nghiên cứu dân tộc học Bùi Xuân Đính có hơn 30 năm gắn bó với đề tài
làng xã, khảo sát nhiều làng cụ thể ở các vùng quê. Trong cuốn Lệ làng phép nước,
ông nêu một số quy định về vấn đề bảo vệ an ninh trong làng, liên quan đến cổng
làng [24]. Trong hai tập Hành trình về làng Việt cổ, ông và các đồng tác giả đã khảo
sát sơ bộ cổng của các làng thuộc xứ Đoài như Yên Sở, Dương Liễu, Kim Hoàng,
Hậu Ái, An Trai... thuộc xứ Nam như Ngọc Hồi, Văn Điển, Cổ Điển, Cương Ngô...
[26],[27]. Tuy trong khuôn khổ khảo sát chung về làng, mang tính sơ bộ, song các
phần viết cũng đưa ra các thông tin về cổng làng, như số lượng cổng, cách bố trí,
12
những đặc điểm của làng qua hệ thống câu đối và các đại tự. Ông cũng cho biết
những thông tin tư liệu về cổng làng ở một số làng thuộc loại hình “làng khoa bảng”,
như Đông Ngạc, Phú Thị, Tả Thanh Oai... , trong cuốn Các làng khoa bảng Thăng
Long – Hà Nội, do ông đồng chủ biên.
Năm 2009, trong chuyên khảo Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay, tác
giả Nguyễn Thị Phương Châm đề cập đến ba làng như những nghiên cứu trường
hợp về làng quê cổ kính, điển hình của xứ Kinh Bắc xưa. Trong không gian và cảnh
quan xưa của ba làng Đồng Kị, Trang Liệt, Đình Bảng trước kia, lũy tre làng gắn
kết với cổng làng. Đến nay sự uy nghi của những cổng làng không còn, cổng làng
chỉ còn lại như chứng tích của thời gian về một không gian cổ xưa của làng. Sự
phân định giữa không gian trong làng và ngoài làng bằng những cổng làng cũng
không còn nữa, do dân cư trong làng ngày càng tràn ra ngoài cổng làng, các ngôi
nhà và những công trình mới vươn cao lên át đi vẻ uy nghi một thủa của những
chiếc cổng xưa. [15, tr.134-135].
Năm 2011, trong cuốn Văn hóa tâm linh, nhà giáo Nguyễn Đăng Duy cho
rằng, tâm linh xuất hiện trong mọi mặt của cuộc sống đời thường. Tâm linh trong đời
sống cá nhân, gia đình (nằm ngay trong niềm tin thiêng liêng của con người), tâm linh
trong cộng đồng làng xã, tính thiêng liêng trong tín ngưỡng tôn giáo được tôn thờ
trong không gian thiêng, sự cố kết xóm làng trong cộng đồng làng xã chính là bản sắc
văn hóa xóm làng và không gian thiêng của người Việt mang tính xã hội mà ở đó là
không gian tâm linh qua kiến trúc dân gian như: đình, đền, chùa, miếu, am, cổng
làng[23].
Năm 2012 trong trong cuốn Văn hóa gốm của người Việt vùng đồng bằng sông
Hồng, tác giả Trương Minh Hằng nhận xét rằng, đến thế kỉ thứ XIX sự xuất hiện các
đô thị mới được dựa trên các làng cổ ngay lòng đô thị cổ. Đô thị mới xuất hiện rộng
khắp nhưng vẫn không làm mất đi hình ảnh những chiếc cổng làng truyền thống [37,
tr.31].
Năm 2012 trong luận án tiến sĩ Văn hóa học Khai thác các giá trị văn hóa
truyền thống phục vụ phát triển du lịch, (nghiên cứu trường hợp làng Mông Phụ, xã
13
Đường Lâm, Sơn Tây), tác giả Đào Duy Tuấn nhận định: “Cổng làng Mông Phụ được
xây dựng vào đời Lê Thần Tông (1553). Cổng được làm như gian nhà, được xây bít
đốc có trụ đỡ mái và đầu nóc, bên trong có khung gỗ, kèo, hoành rui, trên mái lợp
ngói”[119]. Niên đại 1553 mà tác giả nêu ra cần phải bàn. Theo Niên biểu Việt Nam,
vua Lê Thần Tông có hai thời gian trị vì là từ năm 1619 đến 1643, từ năm 1649 đến
1662 [130]. Vậy nếu đã công nhận thời gian xây dựng cổng dưới thời Lê Thần Tông
thì con số 1553 là không chính xác. Còn hiện nay giới nghiên cứu chưa có bằng
chứng cụ thể tin cậy nào chứng minh cổng làng Mông Phụ được xây dựng dưới thời
vua Lê Thần Tông.
Ở trên, một cách có chủ ý, chúng tôi đã làm rõ trong các tài liệu đã phân tích,
chưa có tác giả nào tập trung nghiên cứu cổng làng, đa phần họ chỉ dành ít dòng viết
về nó, trong khi mối quan tâm chuyên môn chủ yếu của họ dành cho vấn đề khác, chủ
đề khác.
1.1.2.Tài liệu tập trung giới thiệu , nghiên cứu cổng làng
Luận văn thạc sĩ Nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị của các cổng làng
trong quy hoạch đô thị Hà Nội, (2002) của tác giả Giang Thị Thu Hiền, gồm 105
trang trình bày về vai trò và hình ảnh của cổng làng trong cấu trúc làng xã truyền
thống Việt Nam và trong các hoạt động văn hóa dân gian truyền thống, tác giả còn
bàn về các giá trị đặc sắc của cổng làng: giá trị sử dụng, giá trị lịch sử văn hóa và giá
trị xã hội nhân văn của cổng làng. Tác giả cũng bàn về bố cục họa tiết, nghệ thuật
trang trí, hình thức và tỉ lệ kiến trúc của cổng làng. Người viết còn phân loại các cổng
làng ở khu vực Hà Nội, bàn về tính năng tồn tại cổng làng, tác giả chưa phân tích sâu
cổng làng trong bối cảnh làng xã, điểm mạnh của luận văn là dưới cái nhìn của kiến
trúc sư, tác giả đã có những bản vẽ chi tiết chuyên nghiệp về mặt bằng, mặt đứng,
mặt sau, mặt cắt của một số cổng làng ở Hà Nội [45].
Cuốn sách Cổng làng Hà Nội xưa và nay (2007) của tác giả Vũ Kiêm Ninh
cũng hết sức quý giá đối với việc chúng tôi. Tác giả đã đi khảo sát tất cả các quận
huyện ngoại thành Hà Nội (ở thời gian chưa sáp nhập Hà Tây, huyện Mê Linh của
tỉnh Vĩnh Phúc và một số xã của Hòa Bình vào Hà Nội). Số cổng làng mà ông đã
14
nhận diện được ở quận Hoàn Kiếm là 2 cổng làng; quận Ba Đình 4; quận Cầu Giấy:
9; quận Đống Đa: 1; quận Hoàng Mai: 7; quận Long Biên: 6; quận Tây Hồ: 10; huyện
Đông Anh: 22; huyện Gia Lâm: 9; huyện Sóc Sơn: 2; huyện Thanh Trì: 17; huyện Từ
Liêm: 18. Ông cũng có quan tâm nhưng chưa tìm thấy cổng làng trên địa phận quận
Hai Bà Trưng.
Trong tập sách, tác giả giới thiệu 109 cổng làng1 [75]. Mỗi cổng đều có ảnh
(do ông chụp), đều được mô tả khái quát; ở một số cổng, tác giả còn viết về nghề
nghiệp, tín ngưỡng, lễ hội của làng,...
Tập sách chưa phải là một chuyên khảo về cổng làng Hà Nội. Tác giả chưa
được đào tạo về Hán học nên các câu đối chữ Hán chỉ mới được phiên âm, mức độ
chính xác của bản dịch cần được thẩm định. Song từ đây, chúng tôi rút ra được nhiều
thông tin bổ ích. Đó là những phiên âm, lời dịch câu đối chữ Hán, chữ Nôm và các
câu đối chữ quốc ngữ ở những cổng làng cụ thể, một số cổng có thông tin về năm xây
dựng hoặc năm xây dựng lại, lí do cổng bị tàn phá, tên tuổi những người hưng công
xây dựng ở một số cổng làng,... Những cổng có niên đại sớm nhất là vào cuối thế kỉ
XIX và số cổng này rất ít.
Năm 2007, trong khóa luận tốt nghiệp Cổng làng, kiến trúc biểu trưng cho
không gian làng Việt, tác giả Lê Thị Thu trình bày khái quát chung về không gian
kiến trúc cổng làng, mô tả vẻ đẹp của cổng làng xứ Đoài trong sáng tạo nghệ thuật
[109].
Dành hẳn sự quan tâm đối với cổng làng, năm 2011, tác giả luận án đã bảo vệ
luận văn thạc sĩ Cổng làng ở ngoại thành Hà Nội truyền thống và biến đổi. Trên cơ
sở tiếp thu những suy nghĩ, những nhận xét gợi mở của các tác giả đi trước, NCS đã
khảo sát, tìm hiểu về sự biến đổi của cổng làng hiện nay tại hai xã Dương Xá và
Kim Sơn thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Những thông tin trong luận văn mới dừng
lại ở việc mô tả so sánh giữa các cổng làng thuộc huyện Gia Lâm ngoại thành Hà
Nội, bàn về vấn đề bảo tồn di sản văn hóa của làng [31]. Trong luận án này, NCS có
1 Tác giả gọi 109 cổng là cổng làng, nhưng theo chúng tôi, có nhiều cổng như cửa Ô Quan Chưởng, cổng
Ngõ Đa Lộc không phải là cổng làng.
15
sử dụng kết quả điền dã về cổng làng khi thực hiện luận văn cao học. Như vậy, việc
điền dã của NCS được tiến hành từ năm 2009 đến năm 2015.
Bài viết “Nghệ thuật trang trí cổng làng Hà Nội” của tác giả L.T.L (2012) có
nhiều thông tin và nhận xét quan trọng. Tác giả đã phân loại các kiểu cổng làng cổ
c...ồng
sự thực hiện những chủ trương của Hội đồng kì mục, và chịu trách nhiệm về việc
làng, việc nước trước chính quyền quân chủ trung ương (được đại diện bởi các cấp
29
quan liêu trung gian) [120, tr. 65 - 66].
Dân hàng xã gồm toàn cư dân nam giới, từ đinh tráng trở lên. Mỗi khi được
lí dịch mời đến nhóm họp tại đình, dân hàng xã có thể ngồi theo từng giáp, thậm chí
nhiều khi phát biểu ý kiến cá nhân với tư cách là thành viên của giáp này hay giáp
kia. Tất cả vai trò năng động của giáp trong sinh hoạt hàng xã vẫn không ngăn cản
nổi ý thức đẳng cấp của xã hội ngoài giáp khỏi chi phối mạnh mẽ thiết chế dân hàng
xã. Tại các cuộc họp ở đình, dân hàng xã đâu còn là một tập thể thuần nhất, trong đó
mọi thành viên đều bình đẳng với nhau (tuy vẫn có thể chấp nhận tôn ti dựa trên
tuổi tác).
Hội đồng kì mục, về lí thuyết là cơ quan đề ra chủ trương (và nhiều khi cả
những biện pháp hành chính) để cho lí dịch căn cứ vào đó mà thi hành. Tuy nhiên,
trong các cuộc họp, ở nội bộ hội đồng kì mục hay ở các cuộc họp khao quan viên
hàng xã, ý kiến của hội đồng thường phân tán. Chính ở cái kẽ hở này sẽ nổi bật lên
vai trò của lí dịch. Trong phạm vi từng xã, lí dịch phải chịu trách nhiệm chính trong
việc thi hành mọi chủ trương của nhà nước quân chủ. “Trát quan trên tư về là tư cho
lí trưởng, không thông qua cấp tổng"1, và lí trưởng (cùng các đồng sự) phải thi hành
nội dung từng trát một. Theo tục lệ lâu đời của mọi làng xã Việt ở đồng bằng và
trung du Bắc Bộ, sau khi nhận được trát, lí trưởng phải “trình các cụ”, tức là trước
hết trình tiên chỉ và thứ chỉ, rồi đến hội đồng kì mục hay quan viên hàng xã. Những
việc quan trọng, thiết thân đối với từng hộ trong xã (như sưu thuế, hay quân phân
công điền công thổ), lí dịch còn phải “trình dân ” nữa, tức đem ra bàn ở cuộc họp
dân hàng xã. Mới nhìn thì cuộc họp này là biểu hiện của nền “dân chủ làng mạc”.
Nhưng về thực chất, dân đinh đâu có quyền ăn quyền nói, lão hạng thì xuất lão vô
sự, việc bàn bạc chủ yếu diễn ra giữa những kì mục hay quan viên, rất có khả năng
biến thành cuộc cãi vã giữa các phe phái, do đó nhiều khi không dẫn đến những
quyết định thực sự cụ thể. Về mặt này, ứng xử của tiên chỉ và thứ chỉ cũng thật điển
1 Nguyễn Từ Chi giải thích: Trên xã dưới huyện là tổng, cấp tổng gồm có chánh tổng và phó tổng, thường
được lựa chọn trong số những địa chủ giàu có nhất hàng tổng. Còn lí dịch ở cấp xã thường chỉ là trung nông
lớp trên, cấp tổng không có bộ máy để hoạt động, còn cấp xã lại có dưới tay một bộ máy đơn giản nhưng
hoàn chỉnh.
30
hình. Trong những trường hợp hiếm hoi mà uy thế của họ vượt quá xa uy thế của
đám kì mục bên dưới (do sản nghiệp lớn, cộng với phẩm hàm rất cao), thì ý kiến
của hai vị được nghe theo răm rắp. Nhưng, thông thường thì, mặc uy tín của mình,
và cũng chính để bảo vệ uy tín ấy, tiên chỉ và thứ chỉ sẽ phát biểu ý kiến một cách
chung chung, cố giữ thái độ dàn hoà giữa các phe phái. Và một khi đã lĩnh ý “các
cụ”, và đã có đôi lời với dân rồi, lí dịch cứ chiếu theo tình hình thực tế mà làm việc,
vì dù sao họ còn phải chịu trách nhiệm trước quan viên nữa. Như vậy, bàn cãi có
khi chỉ là hình thức. Theo Nguyễn Từ Chi, đó là tính vô hiệu của hội đồng kì mục,
hay tập thể quan viên () [120,tr.76].
Lí dịch không chỉ phải đương đầu với mâu thuẫn giữa các phe phái trong
làng, trong xã, không chỉ phải đối phó với kì mục và quan viên hàng xã mà còn phải
đối phó với dân nữa, những người nông dân với bao nguyện vọng, quyền lợi riêng
tây.
Dưới triều Nguyễn (từ năm 1802 đến tháng 8 năm 1945), tổ chức lí dịch
thường gồm có bốn chức danh chính:
* Lí trưởng: là người cầm đầu tổ chức lí dịch cấp xã và chịu trách nhiệm
chính trước nhà nước quân chủ (thông qua các cấp quan liêu trung gian) về việc vận
hành công việc của hàng xã, nhằm thực hiện những đòi hỏi của nhà nước đối với
dân xã (đóng thuế, đi phu, đi lính);
* Phó lí: là người phụ tá cho lí trưởng và cùng lí trưởng chịu trách nhiệm
trước nhà nước. Phó lí thường là người thay mặt lí trưởng đi đôn đốc từng việc cụ
thể (bắt phu, lấy lính, kiểm tra việc canh phòng làng xã). Trong trường hợp xã lớn
bao gồm nhiều làng, thì một xã có thể có nhiều phó lí, mỗi phó lí trực tiếp làm việc
với một thôn;
* Hương trưởng: là người đặc trách việc công ích, do đó cũng là người
(cùng phó lí) trực tiếp lấy phu, cũng như trực tiếp điều khiển công việc tại nơi làm
công ích;
* Xã tuần: là người đặc trách bảo đảm việc an ninh cho làng xóm.
Dưới tay xã tuần có một số tuần đinh hay tuần phiên.
31
Về nạn lí dịch tham nhũng, áp bức dân làng, đến nay dân vẫn nhớ. Chúng tôi
đến làng Tây Bình Cách, xã Đông Xá, huyện Đông Hưng, Thái Bình (tên gọi trước
là làng Gạch). Trước đây làng có ba cổng là cổng Tây, cổng Bắc, cổng Nam. Ngày
Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), cổng Tây và cổng Bắc bị phá, chỉ còn lại cổng
Nam (phía đầu làng). Theo lời kể của cụ Nguyễn Thị Lan (80 tuổi), khu vực gần
cổng Nam tập trung các địa chủ sinh sống, cũng là nơi tuần đinh giam cầm những
người không nộp sưu thuế. Dấu ấn cổng làng xưa như chứng tích của một thời mà ở
không ít nơi người dân nghèo đã phải sống cực khổ vô cùng1.
Việc lí dịch trong làng áp bức dân làng đã được sử cũ ghi lại. Năm 1855, vua
Tự Đức (làm vua 1848 - 1883), đã nhận xét rằng:
Bọn tổng lí, hương hào, nhà nào cũng giàu có, có kẻ tôi tớ hoặc một
trăm người, hoặc sáu, bảy mươi người, rồi chiêu tập bọn côn đồ, chứa
ngầm binh khí. Người trong một tổng, một làng đều bị bọn chúng hơi
nhếch mép, hất hàm là phải theo. Ai thuận theo thì chúng dử cho chút
lợi, trái ý thì chúng lấy quyền thế bức bách [Dẫn theo 87, tr.223].
Sau đó, năm 1858, Tự Đức đã đồng ý cho thi hành điều sau:
Những tổng lí, hào cường không được nuôi nhiều đầy tớ (không quá
ba, bốn người) để xử đoán hung hăng trong làng xóm, hiếp tróc dân
lương thiện, bắt dân bầu [làm hậu thần thờ phối] vào đình chùa, bắt dân
phu làm việc riêng, đi về xe lọng, cưỡi ngựa giáo mác nghênh ngang,
cùng những bọn du côn lừa dối, các tệ ấy phải cấm hẳn. Nhân dân nếu có
việc tranh kiện tầm thường chỉ cho tổng lí phân xử bằng miệng, không
được tự tiện gông cùm giam đánh ở nhà riêng. Nếu tên nào quen tính làm
bậy không chừa, cho dân sở tại đi kiện. Viên phủ, huyện bất thình lình
xét xử, chiếu theo luật côn đồ, gian ác xử tội [Dẫn theo 87, tr. 223].
Trước kia, lí dịch có đàn áp, giam cầm dân làng. Nhưng như Nguyễn Từ Chi
đã phân tích, lí dịch không chỉ phải đối phó với mâu thuẫn giữa các phe phái trong
làng, trong xã với kì mục và quan viên hàng xã, mà còn phải đương đầu với dân.
1 Tư liệu điền dã ngày 15/3/2004
32
Dân tiểu nông là một cộng đồng phức tạp, gây nên rất nhiều mâu thuẫn tuy nhỏ
nhưng liên miên diễn ra. Khi thi hành trát của cấp trên, lí dịch không chỉ đơn thuần
đàn áp, mà chủ yếu tìm một thế thỏa hiệp [120, tr.76-77].
Theo Nguyễn Từ Chi, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, phần lớn lí
dịch ở các xã thuộc vùng đồng bằng và trung du bắc Bộ đều xuất thân từ các thành
phần trung gian, thường là trung nông lớp trên, nếu có một số địa chủ nào đó, thì
cũng là địa chủ nhỏ mà mọi phe phái, mọi tầng lớp và đa số các hộ gia đình có thể
chấp nhận [120, tr.76-77].
Như vậy, các chiếu dụ của Tự Đức và nhận xét của Nguyễn Từ Chi về lí dịch
đều đúng, đúng với một làng cụ thể, với một thời gian cụ thể. Chức dịch có khi đàn
áp, có khi không. Triết học Mác xít nói rằng, chân lí là cụ thể, rằng sự vật luôn luôn
vận động. Còn Philippe Papin và Oliver Tessier thì viết: Người nghiên cứu phải
thận trọng, phải để ý đến “những chuyển biến và biến đổi bất ổn” [83. tr.25]. Những
cách diễn đạt khác nhau này đều thể hiện một điểm về phương pháp nhận thức.
1.2.2.2.5. Làng là tập hợp người trong tổ chức dựa trên sự tự nguyện tham
gia của từng cá nhân: phe, hội, phường.
Trên cửa miệng của người nông dân Việt ở Bắc Bộ, từ “phe” thường được
ghép với từ “giáp” thành một từ kép là “phe giáp”. Mỗi làng có thể có nhiều phe,
nhưng đứng trên hết là phe tư văn. Trên danh nghĩa, các thành viên của phe này đều
là những người có học thức.
Về hội, có hội tư cấp (còn gọi là họ tư cấp). Nội dung cũng như mục đích của
tổ chức này là giúp đỡ nhau, trong phạm vi từng nhóm những người tự nguyện,
bằng cách chung nhau chơi một bát họ (do đó mà có tên gọi “họ”). Số thành viên
của một hội không vượt quá đôi chục người. Trong một làng có thể tồn tại cùng một
lúc nhiều bát họ. Đã chơi họ tất phải có người “cầm cái” hay “nhà cái”, tức hội
trưởng của hội tư cấp.
Ngoài ra, còn có hội võ (tập hợp những người biết võ nghệ), hội chèo (tập
hợp những người tập và diễn chèo), hội các vãi hay hội chư bà (tổ chức Phật giáo
của các lão bà),...
33
Về phường, có phường mộc, phường nề, phường sơn, phường thêu,
Trên đây là nói về làng xã Bắc Bộ. Còn ở miền Trung, các tổ chức ngõ xóm,
phe, giáp, phường hội khá mờ nhạt [108, tr.47].
1.2.2.3. Những cảnh quan thường thấy ở làng
1.2.2.3.1.Ruộng làng
Ruộng làng Bắc Bộ là cánh đồng trồng lúa nước, có những con ngòi dẫn
nước, đôi khi có cây cổ thụ trên bãi đất cao để hoang giữa cánh đồng. Trẻ con
thường chăn trâu, bò ở nơi đây. Thông thường thì cư dân ở làng nào sẽ canh tác ở
đồng ruộng ấy. Nhưng cũng có trường hợp người làng này canh tác tại ruộng trên
cánh đồng làng khác. Có trường hợp đặc biệt như làng Hành Thiện (tỉnh Nam Định
hiện nay) thì ruộng đất canh tác chỉ chiếm một phần ba đất đai của làng. Sở dĩ như
vậy là vì cuối thế kỉ XIV làng bị sông Hồng cuốn đi nên mới sáp nhập vào Nghĩa
Xá. Vào thế kỉ thứ XVI, Nghĩa Xá cũng bị xói lở, cho nên dân làng mua khu đất
hiện nay lập làng Hành Cung, sau đó đổi thành Hành Thiện. Trước năm 1954, trong
số người giàu có ở trong làng, không có ai có nhiều hơn 3 mẫu ruộng ở làng (tức là
dưới 1 ha). Nhưng những người Hành Thiện lại mua ruộng ở rất nhiều nơi khác
nhau. Các điền chủ Hành Thiện có ruộng tại nhiều tỉnh (Hà Nam, Thái Bình, Ninh
Bình, Thanh Hóa, Bắc Giang,..). Cụ thể là ở các huyện Kim Bảng, Thư Trì, Vũ
Tiên, Tiền Hải, Cẩm Thủy, Hoàng Hóa, Yên Mô, Bố Hạ, Lạng Giang,... Người làng
Hành Thiện là Đặng Vũ Khâm đã lập đồn điền nuôi bò và trồng cà phê ở Yên Mô,
diện tích 600 ha [48, tr.514-515].
1.2.2.3.2. Đường làng
Từ đường cái lớn, có con đường nhỏ hơn đi ngoằn ngoèo qua những cánh
đồng, xuyên qua chiếc cổng đầu làng, đi vào trong làng, rồi dần dần đi suốt làng cho
tới chiếc cổng cuối làng. Chiếc cổng này không khác gì chiếc cổng đầu làng, trừ
những chữ đại tự trên cổng và nội dung đôi câu đối hai bên. Đến đây, con đường
chui qua cổng để ra đồng ruộng [1].
Con đường làng không đi thẳng một mạch từ đầu làng tới cuối làng. Vào
trong làng, nó tách ra làm năm bảy nhánh, đi vào năm bảy xóm, lượn qua những bờ
34
ao vườn chuối để đi đến tận từng nhà.
Có một con đường nhánh đi thẳng một mạch từ con đường chính tới cửa đình
làng, rồi đi men đình để vào một xóm mé trong. Lại có một nhánh, sau khi tách rời
khỏi con đường chính, đi ngay vào chiếc giếng giữa làng. Giếng này nằm dưới một
gốc đa lớn mà bóng mát của nó toả khá rộng. Dưới gốc đa loáng thoáng vài ba chiếc
bình vôi, thỉnh thoảng có người tới cắm dăm ba nén hương [1].
1.2.2.3.3. Cây đa đầu làng
Cây đa bờ giếng đã già và đã to nhưng cây đa đầu làng còn già hơn và to
hơn; những rễ phụ của nó ăn hẳn xuống đất cũng đã biến thành những thân cây
khác. “Dưới gốc cây, rễ bò lổm ngổm, một số rễ nổi trên mặt đất, một số khác lửng
lơ nửa chìm nửa nổi tạo nên những cái hốc ăn sâu vào rễ cây, hoặc ăn sâu xuống
mặt đất. Các cụ bảo rằng, trong các hốc đó có ngựa ngài ở, và các cụ giải thích ngựa
ngài là những cặp rắn có mào, có khi là những cặp rắn trắng toát với chiếc mào đỏ
chót”[1]. Ngay ở gốc cây đa, có một bàn thờ nhỏ, với bài vị có bốn chữ “Đại thụ
linh thần”. Bàn thờ có bát hương, có bình hoa, hai bên mé bàn thờ là khá nhiều bình
vôi to, nhỏ. Bình vôi còn được treo vào những rễ cây rủ xuống.Về hoa cắm trong
bình, theo sự hồi cố của nhà nghiên cứu Toan Ánh, trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945, ở quê ông (tỉnh Bắc Giang), thường là mấy bông hoa huệ. Lại có ý kiến
cho rằng ở châu thổ Bắc Bộ, thường thì có bó hoa các màu hoặc bình hoa cắm nhiều
loại hoa khác nhau. Theo tâm linh, hoa huệ thường được cúng trong chùa và cúng
vào dịp giỗ người đã khuất tại gia đình (nhưng không cắm hoa huệ dịp cuối năm)1.
Về cây đa làng, người dân Việt đã lưu truyền câu chuyện cổ tích Kiện ngành
đa [17, tr.586-588] (H12).
1.2.2.3.4. Luỹ tre làng
Cách cây đa làng vài chục mét là luỹ tre làng. Luỹ tre bao bọc chung quanh
làng, gồm hai rặng tre hai bên đi từ cổng đầu làng đến cổng cuối làng. Tre mọc rất
dày. Bên trong luỹ tre có nơi có ao cá, có vườn rau, có nơi có một vài ngôi nhà sát
gần luỹ tre. Những nhà này có khi trổ một chiếc cổng gai để tiện ra ngoài, không
1 Ý kiến của người phản biện độc lập luận án viết ngày 14 tháng 4 năm 2016.
35
phải đi qua cổng làng. Tuy mở ban ngày, nhưng ban đêm bao giờ chiếc cổng gai
cũng được đóng kín [1], (H13).
1.2.2.3.5. Chợ làng
Chợ không ở hẳn trong làng mà ở ngoài luỹ tre xanh, bên cạnh đường làng.
Chợ có một quán chính năm gian, chung quanh quán là nhiều ngôi lều tranh bé nhỏ,
mỗi lều rộng không quá hai mét vuông. Chợ họp một tháng sáu phiên, cách bốn
ngày lại đến ngày phiên chợ. Sở dĩ như vậy là vì nhiều làng trong vùng có chợ,
phiên họp phải tránh trùng nhau để không có trường hơp hai chợ cùng hợp một
ngày. Vào ngày phiên chợ, làng rất vui.
Trong làng ai có hoa màu gì muốn bán đều mang ra chợ, cũng như ai
đan được ít rổ, rá, bện được ít chổi lúa, phất trần, hoặc làm thêm được bất
cứ thức gì trong phạm vi tiểu công nghệ gia đình đều mang ra chợ bán.
Hoặc có ai nuôi được lứa gà, lứa vịt đã lớn, hoặc nhà ai có đàn chó con
mới đẻ, cần bán bớt, họ cũng đều nhân phiên chợ này mà tiêu thụ đi [1],
(H14).
1.2.2.3.6. Đình làng
Nhìn chung đình là nơi thờ thành hoàng và những người có công với làng
được tôn phong là thần. Thành hoàng làng có thể là những người đã từng có đóng
góp lớn cho sự tồn tại và phát triển của làng hoặc của đất nước; cũng có thể là thiên
thần có công âm phù bảo vệ và che chở cho dân làng. Đình là nơi sinh hoạt chung
của cả làng, ở đó có các viên quan sắc mục bàn về các công việc làng như thuế
khóa, binh dịch, kiện cáo, ruộng đất, thờ cúng,lễ hội[127, tr.76]. Nhận xét này
của Phạm Thị Thùy Vinh là đúng nhưng chưa đầy đủ bởi có làng không thờ thần
thành hoàng làng ở đình. Cũng có trường hợp thần thành hoàng làng là người hành
khất đi qua làng chết vào giờ thiêng được mối đùn lên thành đống to. Theo nhà sử
học Phan Đại Doãn, có thể cho rằng, làng xã thế kỉ XV chưa có đình mà chùa cũng
ít [127,tr.34], (H15).
1.2.2.3.7. Chùa làng
Chùa là nơi thờ Phật (H16). Làng Tả Thanh Oai có bốn ngôi chùa mà dân
làng thường chỉ biết tên nôm: Bùi (tên chữ: Bùi Linh tự), Phe, Thắm (tên chữ: An
36
Linh tự) và Chợ. Ở đầu thế kỉ XX, cả bốn ngôi chùa này đều thuộc các khu có dân
cư trú [83, tr.125]. Ở hầu hết các chùa ở miền Bắc, Đạo giáo hiện diện khá rõ nét
thông qua các ban thờ tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc ĐẩuCác tượng này,
được đặt ngay ở chính điện bên cạnh các tượng Phật tam thế hay thông qua tục thờ
mẫu: Có thể nói không chùa nào là không có bàn thờ Liễu Hạnh, tam tòa hay tứ tòa
Thánh Mẫu, hoặc một thánh mẫu địa phương như bà chúa Mía ở chùa Sùng Nghiêm
(Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội) [83, tr.126].
1.2.2.3.8. Văn chỉ
Văn chỉ là nơi thờ Khổng Tử và những người đỗ đạt của làng, do hội tư văn
đứng ra thành lập. Các thành viên trong hội tư văn phải thờ cúng các bậc tiên hiền.
Văn chỉ là sự phát triển tiếp nối của Văn miếu từ cấp nhà nước xuống đến huyện,
xã, thôn. Văn chỉ xuất hiện từ thế kỉ XV trở về sau khi Nho giáo đã phát triển đến
đỉnh cao. Hội tư văn là hội của kẻ sĩ nông thôn, và văn chỉ là nơi để họ tập hợp sinh
hoạt và tưởng nhớ những người đã tham gia thi tuyển qua các kì thi của Nho học.
Mục đích của việc dựng văn chỉ và lập ra hội tư văn là để khẳng định và đề cao Nho
giáo ở nông thôn. Nhưng càng lùi về sau, nhất là cuối thời Lê (thế kỉ XVIII) tính
chất và mục đích của hội tư văn đã thay đổi. Những người nào muốn vào hội tư văn
chỉ cần nộp một số tiền nhất định là trở thành thành viên của hội. Tương ứng như
vậy, văn chỉ không chỉ là nơi thờ các vị tiên hiền, tức kẻ sĩ đã trải qua thi cử Nho
học các cấp, mà còn thờ cả những người được bầu là hậu hiền. Đối tượng hậu hiền
là những người có tiền, của, công sức, đã đóng góp để tu sửa, xây dựng văn chỉ, họ
được bầu hậu hiền thờ sau những người hiền tài của địa phương [127, tr.77]. Ở làng
Mộ Trạch (Hải Dương trước kia), văn chỉ ở giữa làng, gồm hai ngôi nhà song song
với nhau,mỗi cái ba gian,làm bằng gỗ lim, xây tường gạch,lợp ngói. Hàng năm hội
tư văn tế lễ hai lần vào hai mùa xuân, thu. Trong thời Pháp thuộc, nhà ngoài của văn
chỉ được dùng làm trường học hàng tổng nên sau đó văn chỉ được chuyển ra khu
vực đất chùa. Văn chỉ của làng Đông Ngạc thời xưa ở phía Đông của đình làng. Từ
năm 1921 trở đi, nó được dùng làm nhà hội đồng để hằng tháng các tộc biểu và lí
dịch đến họp. Ở Mông Phụ (nay thuộc Hà Nội), văn chỉ là một nền đất đắp cao nằm
37
ở phía đông của không gian cư trú, gần bên lũy tre làng [83, tr.127], (H17).
1.2.2.3.9. Quán
Quán ở đây không phải là đạo quán của đạo Lão, cũng không phải là quán
bán hàng, mà là ngôi nhà nhỏ không có tường nằm trong không gian canh tác hoặc
bên cạnh đường đi để che mưa nắng cho dân làng đi làm hoặc là nơi trú ngụ qua
đêm cho những người nhỡ đường vì trước đây các làng đều không muốn cho người
lạ vào trong làng ban đêm. Ở làng Tả Thanh Oai đầu thế kỉ XX, có hai chiếc quán ở
giữa đồng bên cạnh đường đi. Ở Đông Ngạc, trước năm 1945, các quán được gọi là
cầu để người làm ruộng hay khách đi đường nghỉ ngơi hay trú nắng mưa. Ở Mông
Phụ hiện nay cũng vẫn còn có quán nằm bên ngoài làng cạnh cổng làng, gọi là quán
Rô (H18).
1.2.2.3.10. Điếm
Điếm xuất hiện khi làng xã đã khá phát triển về thiết chế tổ chức, từng ngõ,
giáp đều phải có điếm. Điếm được dựng lên ở mỗi ngõ, hoặc mỗi giáp, có khi điếm
được dựng gần cổng làng (như ở làng Đồng Kị, điếm làng Thổ Hà1) với mục đích
ban ngày là nơi nghỉ ngơi, tránh mưa nắng của người dân sở tại, ban đêm là nơi
dừng chân của những người tuần tra bảo vệ an ninh xóm làng. Nếu người lạ vào
trong ngõ hoặc giáp đều phải qua điếm để kiểm tra. Lúc đầu điếm được làm bằng
tranh, tre, lứa, lá, sau này do nhu cầu cần tu sửa vững chãi hơn, các cộng đồng dân
cư trong cùng một khu vực đã cùng đóng góp hoặc do một cá nhân hảo tâm đứng ra
xây dựng [123,tr.78], (H19).
1.2.2.3.11. Giếng làng
Giếng làng là nơi chứa nước ăn cho cả làng, có giếng đất và giếng gạch.
Trước kia Tả Thanh Oai có năm chiếc giếng đất giống như năm chiếc ao con tròn
trịa và đều mang tên của các di tích kế cận: Giếng Chợ, giếng Chùa Thắm, giếng
Đình, giếng Miếu Ông và giếng chùa Bùi. Giếng Chợ ngày xưa có nước ngọt nổi
tiếng, đã bị lấp trong thời kì tập thể hóa, tức là vào những năm 60, 70 của thế kỉ
XX. Mộ Trạch chỉ có một giếng đất, nhưng giếng này rất to, chu vi hơn 160 m.
1 Hiện nay điếm đã thay đổi chức năng của nó, người dân chuyển thành nơi thờ của các xóm.
38
Trước kia giếng có tường gạch cao chừng 1m bao quanh và có bệ thờ thần giếng. Ở
Mông Phụ, mỗi xóm có một giếng xây bằng đá ong và nước thường rất trong,
nhưng ngày nay họ ít dùng vì hầu hết các nhà đều có giếng khơi [83, tr.129-130],
(H20).
1.2.2.3.12. Cổng làng
Cổng làng là yếu tố không thể thiếu trong cảnh quan của làng, trong tâm thức
dân làng. Nó là đối tượng nghiên cứu của luận án nên chúng tôi sẽ trình bày kĩ trong
các chương sau.
1.3. Lí thuyết vận dụng
Chúng tôi tiếp cận cổng làng dưới góc độ của khoa nghiên cứu văn hóa dân
gian. Những quy phạm của khoa học này được tác giả Đinh Gia Khánh thể hiện
trong cuốn sách Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian (1989), trong bài viết: “Để
nắm bắt thực chất của văn học dân gian” (1977). Tác giả cho rằng, nếu hiểu văn hóa
dân gian theo nghĩa rộng thì là tất cả các hoạt động vật chất và tinh thần của dân
chúng đều là văn hóa dân gian. Theo ông, tác giả của văn học, văn hóa dân gian là
người nông dân, thợ thủ công và có cả sự tham gia của nhà nho. Các tác giả Cao
Huy Đỉnh, Nguyễn Xuân Kính cho rằng, lực lượng sáng tác dân gian nhiều hơn thế.
Ngoài nông dân, thợ thủ công, còn có các nhà nho bình dân, còn có người buôn bán,
còn có các ca nữ, những người hát xẩm và binh lính,[59]. Từ sự hiểu biết trên lí
thuyết về lực lượng tác giả, chúng tôi thấy được tác giả của cổng làng phải là sự kết
hợp giữa những người đứng đầu, các nhà nho, những vị quan hưu trí (nếu làng có)
và việc thực hiện nó là những người thợ nề, thợ ngõa và những người nông dân
trong làng.
Khi nghiên cứu cổng làng, chúng tôi còn được gợi ý bởi lý thuyết chức năng
trong nghiên cứu văn hóa.
Theo các nhà sáng lập lí thuyết chức năng, có ba định nghĩa khác nhau về chức
năng:
39
1. Định nghĩa thứ nhất hiểu “chức năng” theo một ý nghĩa có vẻ toán học. Mọi
tập tục đều có tương quan với tất cả những tập tục khác trong cộng đồng, vì
vậy mỗi tập tục quy định tình trạng của những tập tục kia.
2. Định nghĩa thứ hai, đặc biệt do Malinowski sử dụng, được rút ra từ sinh lí
học. Chức năng của các tập tục là được thỏa mãn những nhu cầu sinh học,
chủ yếu của cá nhân thông qua phương tiện văn hóa.
3. Định nghĩa thứ ba do A.Racliff Brown lấy từ những lý thuyết của Durkheim.
Chức năng của một tập tục là vai trò mà nó nắm giữ trong việc duy trì sự
toàn vẹn của hệ thống xã hội [5, tr.51,52].
Thuyết chức năng trong nhân học về cơ bản được chia thành hai hệ tư tưởng mà
mỗi hệ tư tưởng gắn với một người khởi xướng chủ chốt.
Trường phái chức năng tâm lí gắn liền với tên tuổi của Malinowski (1884 –
1942). Ông sinh ra ở Ba Lan. Thời sinh viên ông học vật lí và toán học, sau đó ông
quan tâm tới lịch sử văn hóa và những công trình nghiên cứu về nhân học văn hóa.
Sau khi tốt nghiệp nghiên cứu sinh, ông bắt đầu làm việc tại Trường Đại học Tổng
hợp Luân Đôn. Nhà nghiên cứu dành nhiều thời gian đi khắp châu Úc [5, tr.207].
B.Malinowski chịu ảnh hưởng mạch mẽ của G.Spencer, người xem xã hội như một
tổ chức sinh học loại biệt. Khái niệm văn hóa học của nhà sáng lập chức năng luận
đã được xây dựng trên những nguyên tắc sinh học, có liên kết chặt chẽ với việc
nghiên cứu phương thức thỏa mãn các nhu cầu của con người trong ăn uống, áo
quần, nhà ở, tình dục, cặp đôi, di chuyển ... Lí thuyết các nhu cầu là một nền tảng
trong khái niệm văn hóa của B.Malinowski. Để tách con người ra khỏi vương quốc
động vật, ông chia các nhu cầu thành các nhu cầu cơ bản và các nhu cầu sản xuất
sinh ra do môi trường văn hóa. Gắn với nhu cầu sản xuất, sinh ra do môi trường văn
hóa. Gắn với nhu cầu sản xuất có các nhu cầu về trao đổi kinh tế, về quyền uy, kinh
tế xã hội, hệ thống giáo dục và các dạng khác...
B. Malinowski khẳng định: bản thân khái niệm văn hóa không phải lúc nào
cũng đơn nghĩa. Khi thỏa mãn các nhu cầu sinh vật của mình, con người tìm kiếm
thức ăn, xây dựng nhà ở... hơn nữa nó cải tạo môi trường xung quanh vào tạo ra hoàn
40
cảnh (môi trường), sản xuất ấy là văn hóa. Ngoài ra, văn hóa là tổng thể những đáp
ứng đối với các nhu cầu cơ bản và nhu cầu sản xuất. Văn hóa phù hợp với cách đặt
vấn đề trên đây, còn là một cơ chế (bộ máy) vật thể và tinh thần, nhờ có nó mà con
người giải quyết các nhiệm vụ chuyên biệt, cụ thể đặt ra trước mắt nó. Văn hóa còn là
một chỉnh thể, được tạo ra từ những nguyên tử bộ phận, phối hợp trong các thiết chế.
Thiết chế được xem như một đơn vị tổ chức khởi nguyên, đó là một tổng thể những
phương tiện và phương thức để thỏa mãn các nhu cầu này hay khác: cơ bản hay sản
xuất. Đó là bức tranh về cấu trúc văn hóa theo Malinowski [5, tr.105 - 106].
Trường phái cấu trúc chức năng về văn hóa gắn liền với tên tuổi của
A.Radcliff Brown (1881 – 1955). Sinh ra ở Anh, sau khi tốt nghiệp nhân học tại
Trường Đại học Tổng hợp Kembơrítgiơ, ông nghiên cứu đời sống người thổ dân ở
Úc, đã đi du lịch qua châu Phi, Trung Quốc và nhiều nước khác. Một thời gian dài
ông giảng dạy về nhân học tại Úc, Nam Phi và Hoa Kì. Năm 1938, ông trở về Anh
với tư cách là một nhà khoa học nổi tiếng. Ông chia khoa học về văn hóa thành hai
lĩnh vực: dân tộc học và nhân học xã hội (văn hóa). Dân tộc học là khoa học nghiên
cứu lịch sử, cụ thể các dân tộc riêng lẻ, sự phát triển bên trong của chúng, các mối
liên hệ văn hóa giữa chúng. Phương pháp cơ bản của dân tộc học là tái hiện lại lịch
sử. Còn nhân học xã hội có nhiệm vụ tìm tòi những quy luật chung của sự vận hành
và phát triển xã hội và văn hóa [5, tr. 108-109].
Khác với B.Malinowski, ông không từ chối việc nghiên cứu lịch sử các nền
văn hóa. Những nhận xét lí luận phổ quát của ông dựa trên sự khẳng định tất cả các
dạng hiện thực khách quan đều là những lớp khác nhau trong hệ thống tự nhiên
(nguyên tử, tế bào, tổ chức xã hội của con người). Ông ủng hộ quan điểm của
E.Durkheim khi nhà bác học này cho rằng, xã hội là hiện thực đặc biệt không đồng
nhất với các cá thể. Theo A.Racliff Brown, bất cứ hệ thống nào cũng được xác định
bằng:
a) Các đơn vị (các yếu tố) cấu thành nó.
41
b) Các quan hệ giữa chúng, các thực thể nhân loại như là tổng thể của những
hiện tượng hành vi, còn quan hệ giữa chúng là các quan hệ xã hội, đây là những đơn
vị của hệ thống xã hội.
Hệ thống xã hội gồm có:
a) Cấu trúc xã hội
b) Tổng thể chung của những tập quán xã hội
c) Những hình ảnh, chuyên biệt về ý tưởng và cảm xúc gắn với các tập quán
xã hội [5, tr.109].
Trong thời gian sau, A.Racliff quan niệm đối tượng của nhân học là rất hẹp.
Khước từ khái niệm văn hóa, ông dùng khái niệm cấu trúc xã hội. Theo đó, tổ chức
chính trị của các nền văn hóa khác nhau, những đặc điểm của hệ thống thân tộc và
vai trò của chúng trong hệ thống xã hội, sự phân tích chức năng các cấu trúc của
những hình thành tín ngưỡng nguyên thủy đã trở thành những phương diện cơ bản
trong hoạt động nghiên cứu của ông [5, tr.110]. Dù các nhà nghiên cứu chức năng
khác nhau như thế nào thì điểm chung của họ vẫn đúng như A.A Belik đã tổng kết:
Nghiên cứu văn hóa như một cơ chế toàn vẹn, được tạo ra bằng các yếu tố, các bộ
phận là đặc điểm của phương pháp tiếp cận chức năng, nhiệm vụ quan trọng nhất là
chia tách chỉnh thể (văn hóa) thành ra các bộ phận và vạch ra những quan hệ phụ
thuộc giữa chúng. Xu hướng chức năng trong nghiên cứu văn hóa ở mức độ lớn
nhất là hướng tới việc làm bộc lộ các cơ chế hành động tái tạo những cấu trúc xã
hội. Mỗi tế bào nguyên tử của văn hóa được nghiên cứu không phải với tư cách là
cơ chế (tàn dư) ngẫu nhiên, không cần thiết (có hại, cổ sơ) mà như là một nhiệm vụ
cụ thể cần phải thực hiện như là chức năng trong cộng đồng xã hội - văn hóa. Hơn
nữa, đôi khi yếu tố riêng lẻ lại có vai trò không chỉ giản đơn là chứa đựng bản thân
nó (có ý nghĩa quan trọng), mà còn là một khâu, thiếu nó thì văn hóa không thể tồn
tại với tính cách một cơ chế toàn vẹn [5, tr.103 – 104].
Trong quá trình nghiên cứu văn hóa học, khái niệm chức năng mang hai
nghĩa cơ bản. Một là nó chỉ ra vai trò, mà yếu tố văn hóa cụ thể nào đó thể hiện
trong mối quan hệ với chỉnh thể. Hai là, nó diến đạt tính phụ thuộc giữa các bộ
phận, các thành tố của văn hóa [5, tr.104]
42
Tiếp thu lí thuyết chức năng chúng tôi nhận thấy rằng cổng làng đáp ứng nhu
cầu phòng vệ của dân làng, nhu cầu tự thể hiện, phân biệt làng mình với làng khác.
Xét về cấu trúc, trong mối quan hệ với làng thì cổng làng là một thành tố, là một bộ
phận ; trong mối quan hệ với bộ phận (trụ cổng, cánh cổng, ...) là cổng làng là một
chỉnh thể.
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi còn tiếp cận lí thuyết về giá trị.
Giá trị chỉ tính có ích, có ý nghĩa của những sự việc hành động tự nhiên hay xã hội
có khả năng thỏa mãn nhu cầu phục vụ lợi ích của con người. Ở đây, các sự vật hiện
tượng được xem xét dưới góc độ đúng không hay không đúng mong muốn, có ý
nghĩa tích cực hay không đối với đời sống xã hội.
Có thể phân loại giá trị theo nhiều cách khác nhau. Có những giá trị thiên
nhiên mà con người thường xuyên sử dụng và hưởng thụ (môi trường sống, tài
nguyên, phong cảnh); những giá trị văn hóa do lịch sử toàn thế giới hay của một số
nước tạo ra (thiết chế giáo dục, y tế, công trình kiến trúc, tác phẩm văn hóa nghệ
thuật, ...); Những giá trị vật chất (đối tượng của lợi ích, nhu cầu); những giá trị tinh
thần (lí tưởng, quan niệm, niềm tin, truyền thống ,...); những giá trị xã hội (tự do,
công bằng, dân chủ, ...); những giá trị nhận thức (chân lí), giá trị đạo đức (điều
thiện); giá trị thẩm mĩ (cái đẹp)...
Tiếp cận giá trị từ góc độ văn hóa học, tác giả Ngô Đức Thịnh quan niệm:
Giá trị cũng như tập quán, chuẩn mực, tri thức...đều là sản phẩm của
quá trình tư duy, sáng tạo tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi
nhất của văn hóa. Giá trị văn hóa là một hình thái của ý thức, của đời
sống tinh thần, tuy nhiên nó phản ánh và kết tinh những giá trị của cả đời
sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của con người. Cho nên quan
niệm cho rằng, văn hóa hay giá trị chỉ là lĩnh vực đời sống tinh thần thôi
thì chưa thật thỏa đáng. Tuy nhiên tùy theo mỗi bộ môn khoa học, mỗi
góc độ tiếp cận, thậm chí tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu riêng người
ta có thể nhấn mạnh hay chỉ quan tâm đến giá trị tinh thần hay giá trị vật
chất của các hiện tượng văn hóa này hay khác [107, tr.21].
43
Sau khi trình bày định nghĩa về giá trị của Clyde Kluckhohn; J.H.Fichter;
M.Roodentan và P.Iuđin, Ngô Đức Thịnh định nghĩa:
Giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người
về bất cứ một hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những
cái đó là cần, là tốt, là hay, là đẹp, nói theo cách của các nhà triết học
phương Tây, một t...
Làm ruộng 22/2/2013
160
S
TT
HỌ VÀ TÊN
NĂM
SINH
ĐỊA CHỈ
NGHỀ
NHIỆP
NGÀY
23 Phan Văn Hải 1953
Làng Mông Phụ, xã
Đường Lâm, thị xã Sơn
Tây, Hà Nội
Công nhân
nghỉ mất sức
22/2/2013
24 Hà Thị Vin 1928 Làng Mông Phụ, xã
Đường Lâm, thị xã Sơn
Tây, Hà Nội
Bà lão bán
hàng ở Xích
Hậu
22/2/2013
25 Hà Thị Lợi 1955 Làng Mông Phụ, xã
Đường Lâm, thị xã Sơn
Tây, Hà Nội
Làm ruộng 22/2/2013
26 Phùng Thị Hường 1944 Làng Cầu Nôm, xã
Đồng Cầu, huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên
Công nhân
nghỉ hưu
21/7/2013
27 Nguyễn Thúy
Vượng
1951 Làng Hồ Khẩu, phường
Bưởi, quận Tây Hồ, Hà
Nội
Công nhân
nghỉ hưu
24.12.2013
28 Vũ Văn Cầu
1957 Làng Hồ Khẩu, phường
Bưởi, quận Tây Hồ, Hà
Nội
Cán bộ nghỉ
hưu
24.12.2013
29 Đinh Văn Sinh
1945 Làng Hồ Khẩu, phường
Bưởi, quận Tây Hồ, Hà
Nội
Cán bộ nghỉ
hưu
24.12.2013
30 Hồ Thị Oanh
1943 Làng Hồ Khẩu, phường
Bưởi, quận Tây Hồ, Hà
Nội
Tổ trưởng tổ
dân phố số 9,
khu dân cư số
2, phường
Bưởi.
26.12.2013
161
S
TT
HỌ VÀ TÊN
NĂM
SINH
ĐỊA CHỈ
NGHỀ
NHIỆP
NGÀY
31 Vũ Văn Luân 1933 Làng Hồ Khẩu, phường
Bưởi, quận Tây Hồ, Hà
Nội
Đã về hưu
năm 1990, là
nhà giáo dạy
văn.
29.12.2013
32 Bùi Thị Nghĩa
1943 Xóm Giếng, làng Đồng
Kỵ, phường Đồng
Quang, thị xã Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh
Làm nghề tự
do (bán hàng
nước)
30.12.2013
33 Nguyễn Văn Cường 1946 Khu phố Thanh Bình,
làng Đồng Kỵ, phường
Đồng Quang, thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh
Công nhân
nghỉ hưu
34 Nguyễn Thị Lan 1943 Làng Tây Bình Cách,
xã Đông Xá, huyện
Đông Hưng, tỉnh Thái
Bình
Làm ruộng,
cán bộ tiền
khởi nghĩa
15/3/2014
35 Đỗ Ngọc Ru 1934 Làng Duyên Hà, xã
Đông Kinh, huyện
Đông Hưng, tỉnh Thái
Bình
Làm ruộng 16/3/2014
36 Trần Công Trừng
1944 Làng Bồng Tiên, xã Vũ
Tiến, huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình
Làm ruộng 28/9/2014
37 Trần Văn Tự
1942 Làng Bồng Tiên, xã Vũ
Tiến, huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình
Làm ruộng 28/9/2014
162
S
TT
HỌ VÀ TÊN
NĂM
SINH
ĐỊA CHỈ
NGHỀ
NHIỆP
NGÀY
38 Trần Văn Minh
1954 Làng Bồng Tiên, xã Vũ
Tiến, huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình
Làm ruộng 28/9/2014
39 Trần Quyết Chiến
1951 Làng Bồng Tiên, xã Vũ
Tiến, huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình
Bộ đội nghỉ
hưu
28/9/2014
40 Trần Văn Liêm
1941 Làng Bồng Tiên, xã Vũ
Tiến, huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình
Cán bộ nghỉ
hưu
28/9/2014
41 Nguyễn Văn Bức 1942 Phố Đại Từ, phường
Đại Kim, quận Hoàng
Mai, Hà Nội
Bí thư Chi bộ
2 khu phố Đại
Từ
21/2/2015
42 Nguyễn Văn Đào 1945 Làng Linh Đàm,
phường Hoàng Liệt,
quận Hoàng Mai, Hà
Nội
Cán bộ nghỉ
hưu
25/3/2015
43 Trần Thị Phượng 1933 Làng Linh Đàm,
phường Hoàng Liệt,
quận Hoàng Mai, Hà
Nội
Cán bộ iền
khởi nghĩa
25/3/2015
44 Tạ Văn Bình
1956 Xóm Chân Sông, thôn
Phúc Đức, xã Sài Sơn,
huyện Quốc Oai, Hà
Nội
Thợ nề 15/6/2015
45 Nguyễn Đình Xuân 1940 Xóm Chân Sông, thôn
Phúc Đức, xã Sài Sơn,
huyện Quốc Oai, Hà
Nội
Thợ nề 15/6/2015
163
S
TT
HỌ VÀ TÊN
NĂM
SINH
ĐỊA CHỈ
NGHỀ
NHIỆP
NGÀY
46 Tạ Văn Hân
1945 Xóm Chân Sông, thôn
Phúc Đức, xã Sài Sơn,
huyện Quốc Oai, Hà
Nội
Làm ruộng 15/6/2015
47 Tạ Văn Cân
1935 Xóm Chân Sông, thôn
Phúc Đức, xã Sài Sơn,
huyện Quốc Oai, Hà
Nội
Làm ruộng 15/6/2015
48 Tạ Văn Bảy
1955 Xóm Chân Sông, thôn
Phúc Đức, xã Sài Sơn,
huyện Quốc Oai, Hà
Nội
Làm ruộng 15/6/2015
49 Phong Ngọc Sáu 1955 Làng Sơn Đồng, xã
Sơn Đồng, huyện Hoài
Đức, Hà Nội.
Làm ruộng 15/6/2015
50 Lê Thị Sử
1937 Làng Giá, xã Yên Sở,
huyện Hoài Đức, Hà
Nội.
Làm ruộng 18/7/2015
51 Nguyễn Văn Xuân 1967 Làng Phúc Đức, xã Sài
Sơn, huyện Quốc Oai,
Hà Nội.
Công nhân 26/7/2015
52 Nguyễn Hữu Hùng
1960 TP Thái Bình Trưởng
phòng Nghiệp
vụ, Sở Văn
hóa Thể thao
và Du lịch,
Thái Bình
9/5/2015
164
S
TT
HỌ VÀ TÊN
NĂM
SINH
ĐỊA CHỈ
NGHỀ
NHIỆP
NGÀY
53 Quách Đông
Phương
1958 Phố Sơn Tây, quận
Đống Đa, Hà Nội
Là người có
đam mê chụp
ảnh cổng làng
2/7/2015
54 Phan Đăng Nhật
1931 Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam
GS.TSKH,
quê ở Nghệ
An
13/7/2015
55 Nguyễn Xuân Đức 1948 Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam
PGS.TS, quê
ở Hà Tĩnh
13/7/2015
56 Đỗ Đức Minh 1938 Thôn Mễ Trì Hạ, xã
Mễ Trì, huyện Từ
Liêm, Hà Nội
Công nhân
nghỉ hưu
4/10/2015
165
BẢNG THỐNG KÊ VỀ CỔNG LÀNG HÀ NỘI
(Bảng thống kê bước đầu
của NCS từ năm 2009 đến tháng 8 năm 2015)
S TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
QUẬN NAM TỪ LIÊM
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Đại Cát Liên Mạc 1924
2 Đông Ngạc/Kẻ vẽ Đông Ngạc
3 Nhật Tảo Đông Ngạc 1924 1994
4 Xóm Cầu Điếm Thượng Cát
5 Cổng xóm Hòe Thị Xuân Phương
6 Ngọc Mạch/ Cổng Điếm Xuân Phương
7 Thôn Hoàng Cổ Nhuế
8 Đức Diễn Phú Diễn
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
9 Nguyên Xá Minh Khai 2004
10 Phúc Lý Minh Khai 2004
11 Hoàng Xá Liên Mạc 1994
12 Yên Nội Liên Mạc 2001
13 Liên Mạc/ Hoàng Liên Liên Mạc
14 Đống Ba Thượng Cát 2003
15 Phú Thứ Tây Mỗ
16 Phùng Khoang Trung Văn 1950
17 Phú Mỹ Mĩ Đình
18 Khu Tân Xuân Xuân Đỉnh 2002
166
S TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
QUẬN THANH XUÂN
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Làng Mọc / Nhân Chính
Mọc
Quan Nhân
Cự Chính
1919
2 Chính Kinh Nhân Chính
HUYỆN THANH TRÌ
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Ích Vịnh Vĩnh Quỳnh
2 Cổng đông Ích Vịnh Vĩnh Quỳnh
3 Vĩnh Thịnh Đại Áng
4 Cổng Tiền Đại Áng Đại Áng
5 Nguyệt Áng cũ
Đại Áng
6 Làng Thanh Liệt/cổng
làng Quang
Thanh Liệt
7 Xóm Bỏ (thôn Văn) Thanh Liệt 1936
8 Trù Nhĩ Thanh Liệt 1942
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1. Vĩnh Trung Đại Áng 2003
2. Đại Áng/ làng Đảm Đại Áng
3. Nguyệt Áng mới Đại Áng
4. Cự Đông Thanh Liệt 2002
5. Thôn Tràng Thanh Liệt
6. Thôn Trung Thanh Liệt
167
S TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
QUẬN TÂY HỒ
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Yên Thái (An Thái) Bưởi
2 Làng khoa bảng tiến sĩ Bưởi
3 Cổng Hầu làng An Thọ Bưởi 1998
4 Cổng Cảnh (cổng Xanh) Bưởi
5 Cổng làng Đông Xã Bưởi
6 Giáp Bắc (cổng Giếng) Bưởi
7 Xóm Chùa (làng Hồ
Khẩu)
Bưởi
8 Cổng Cái (làng Hồ
Khẩu)
Bưởi
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Giáp Đông (làng Hồ
Khẩu)
Bưởi 1994
2 Hồ ấp đình môn (cổng
Đình)
Bưởi
3 Cầu Dừa (cổng Chùa) Bưởi
HUYỆN SÓC SƠN
Cổng làng xây dựng trước năm 1945: Không có
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Dược Hạ Tiên Dược 2004
2 Dược Thượng Tiên Dược 2004
QUẬN ĐỐNG ĐA
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
168
S TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
1 Nam Đồng Nam Đồng
Cổng làng xây dựng sau năm 1945: Không có
QUẬN LONG BIÊN
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Xuân Đỗ Thượng/Cổng
Thượng
Thổ Khối 1994
2 Xuân Đỗ Hạ/Cổng Đồng Thổ Khối
3 Thanh Am Thượng Thanh
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Bắc Biên Ngọc Thụy
2 Lâm Du Bồ Đề
3 Tư Đình Tư Đình
HUYỆN GIA LÂM
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Đỗ Xá Yên Thường
2 Vân Nhuộm/Cổng Xóm
Chợ
Yên Viên
3 Doanh Trung Phù Đổng
4 Tề Xuyên/Cổng Đông Đình Xuyên
5 Cổng Đình Dương Xá
6 Cổng Miễu/Dương Đình
(cổng sau)
Dương Xá
7 Dương Đá Dương Xá
8 Yên Bình Dương Xá
9 Phù Ninh (Làng Nành) Ninh Hiệp
169
S TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
10 Kim Sơn
- Cổng Đình
- Cổng Đông
Kim Sơn
1931
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Quy Mộng Yên Thường
2 Yên Khê Yên Thường 2005
3 Dương Đanh Dương Xá 1998
4 Linh Quy Bắc Kim Sơn 2002
5 Linh Quy Đông Kim Sơn 2002
6 Giao Tất Kim Sơn
7 Thận Tiến Dương Xá 2010
QUẬN HOÀNG MAI
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Hậu Tứ Kì Hoàng Liệt
2 Linh Đàm Hoàng Liệt
3 Lũ Trung (Kim Lũ) –
Quan Miện
Đại Kim
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Pháp Vân (Kẻ Vân) Hoàng Liệt 1986
2 Tứ Kì Đại Kim
3 Đại Từ Đại Kim 2003
4 Tương Mai Tương Mai
QUẬN CẦU GIẤY
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Tiên Thượng Nghĩa Đô
170
S TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
2 Trung Nha (Làng Nghè) Nghĩa Đô
3 Vạn Long (Làng Dâu) Nghĩa Đô
4 An Phú Nghĩa Đô
5 Trung Từ (Làng Trung
Kính thượng)
Trung Hòa
6 Xóm Riềng (Làng Trung
Hòa)
Trung Hòa
7 Trung Kính Hạ (Đường
Trần Duy Hưng)
Trung Hòa
8 Ngõ Đa Lộc Dịch Vọng Hậu
9 Dịch Vọng Sở Mai Dịch
HUYỆN ĐÔNG ANH
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Dục Tú Dục Tú
2 Mai Hiên 1889
3 Gia Lộc 1889
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Xuân Canh Vân Canh 2005
2 Xuân Trạch Vân Canh 2000
3 Hội Phụ Đông Hội
4 Lại Đà Đông Hội
5 Võng La Võng La
6 Sáp Mai Võng La
7 Lễ Pháp Tiên Dương
8 Lương Nỗ Tiên Dương
171
S TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
9 Xóm Trong Uy Nỗ
10 Lộc Hà Uy Nỗ
11 Thôn Đông Tàm Xá
12 Cổ Điển Hải Bối
13 Thư Cưu Cổ Loa
14 Cổng Thượng Việt Hùng 1951 2000
15 Đình Trung Xuân Nộn
16 Thôn Bầu Kim Chung 2003
17 Hậu Dưỡng Kim Chung 2005
18 Dục Tú Dục Tú
19 Lí Nhân Dục Tú
20 Phúc Hậu Dục Tú
21 Đông Dầu Dục Tú
22 Du Ngoạn Mai Lâm
23 Ngọc Chi Vĩnh Ngọc
24 Phương Trạch Vĩnh Ngọc
HUYỆN THANH OAI
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Ước Lễ (cổng trước) Tân Ước 1998
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Ước Lễ (cổng sau) Tân Ước 1998
2 Tri Lễ Tân Ước 2010
HUYỆN QUỐC OAI
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Làng Vũng/cửa Sóc Dịch Phượng Cách
172
S TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Làng Phượng Cách Phượng Cách
2 Làng Phúc Đức Sài Sơn 2013
3 Làng Phúc Đức/xóm
Chân Sông
Sài Sơn 2013
HUYỆN HOÀI ĐỨC
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Cổng xóm Dô/ làng Quán
Miện/làng Mũ
Sơn Đồng
2 Cổng xóm Gạch Sơn Đồng
3 Làng Vạng Song Phương
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
Cổng Giá/xóm trại
Đường Cối
Yên Sở 2012
173
BẢNG THỐNG KÊ VỀ CỔNG LÀNG
TỈNH THÁI BÌNH
(Bảng thống kê này do ông Nguyễn Hữu Hùng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Thái Bình cung cấp thông tin)
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
THÀNH PHỐ
Cổng làng xây dựng trước năm 1945: Không có
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Thôn Đinh Thôn Đinh, xã Tân Bình 2005 (Hình
thức trụ cột
vuông)
HUYỆN KIẾN XƯƠNG
Cổng làng xây dựng trước năm 1945: Không có
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Thôn Tân Đông Xã Bình Định
2 Thôn Sơn Trung Xã Bình Định
3 Thôn Hưng Đạo Xã Bình Định
4 Thôn Hòa Bình Xã Bình Định
5 Thôn Trần Phú Xã Bình Định
6 Thôn Ái Quốc Xã Bình Định
7 Thôn Thái Hòa Xã Bình Định
8 Thôn Công Bình Xã Bình Định
9 Thôn Phương Ngải Xã Bình Minh
10 Thôn Đông Thành Xã Bình Minh
11 Thôn Hưng Đạo Xã Bình Minh
12 Thôn Đoàn Kết Xã Bình Minh
174
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
13 Thôn Phú Mỹ Xã Bình Minh
14 Thôn An Chỉ Xã Bình Nguyên
15 Thôn Đông Lâu Xã Bình Nguyên
16 Thôn Quân Hành Xã Bình Nguyên
17 Thôn Khả Phú Xã Bình Thanh
18 Thôn Lập Ấp Xã Bình Thanh
19 Thôn Đa Cốc Xã Bình Thanh
20 Thôn Cao Trung Xã Đình Phùng
21 Thôn Nam Huân Bắc Xã Đình Phùng
22 Thôn Nam Huân Trung Xã Đình Phùng
23 Thôn Nam Huân Nam Xã Đình Phùng
24 Thôn Cao Bạt Nang Xã Đình Phùng
25 Thôn Nam Sơn Xã Hòa Bình
26 Thôn Việt Hưng Xã Hòa Bình
27 Thôn Đông Tiến Xã Hồng Tiến
28 Thôn Cao Bình Xã Hồng Tiến
29 Thôn Khả Cảnh Xã Hồng Tiến
30 Thôn Tân Thành Xã Hồng Tiến
31 Thôn Nam Hòa Xã Hồng Tiến
32 Thôn Phú Ân Xã Lê Lợi
33 Thôn An Thái Xã Lê Lợi
34 Thôn Cao Đồng Xã Minh Hưng
35 Thôn Nội Thôn Xã Minh Hưng
36 Thôn Kinh Nguyên 1 Xã Minh Hưng
37 Thôn Kinh Nguyên 2 Xã Minh Hưng
175
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
38 Thôn Tân Ấp 1 Xã Minh Tân
39 Thôn Thái Cao Xã Nam Bình
40 Thôn Sơn Thọ Xã Nam Bình
41 Thôn Thượng Hiền Xã Nam Bình
42 Thôn Cao Bạt Nam Xã Nam Cao
43 Thôn Cao Bạt Thượng Xã Nam Cao
44 Thôn Cao Bạt Trung Xã Nam Cao
45 Thôn Cao Bạt Đoài Xã Nam Cao
46 Thôn Nam Đường Tây Xã Nam Cao
47 Thôn Cao Bạt Đông Xã Nam Cao
48 Thôn Ngái Đông Xã Quang Bình
49 Thôn Ngái Xã Quang Bình
50 Thôn Đông Xã Quang Bình
51 Thôn Kim Thịnh Xã Quang Bình
52 Thôn Bắc Sơn Xã Quang Bình
53 Thôn Đoàn Kết Xã Quang Bình
54 Thôn Hưng Tiến Xã Quang Bình
55 Thôn Hoa Thám Xã Quang Bình
56 Thôn Đại Thành Xã Quang Bình
57 Thôn Nam Tiến Xã Quang Hưng
58 Thôn Tây Nghĩa Xã Quang Hưng
59 Thôn Đông Nghĩa Xã Quang Hưng
60 Thôn Nghĩa Môn Xã Quang Hưng
61 Thôn Hữu Tiệm Xã Quang Hưng
62 Thôn Luật Nội Tây Xã Quang Lịch
176
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
63 Thôn Trà Đông Xã Quang Trung
64 Thôn Trà Đoài Xã Quang Trung
65 Thôn Đắc Chúng Bắc Xã Quốc Tuấn
66 Thôn Thụy Lũng Nam Xã Quốc Tuấn
67 Thôn Bích Kê Xã Quốc Tuấn
68 Thôn Đông Tiến Xã Quốc Tiến
69 Thôn Trung Tiến Xã Quốc Tiến
70 Thôn Hồng Tiến Xã Quốc Tiến
71 Thôn Tử Tế Xã Thanh Tân
72 Thôn An Cơ Nam Xã Thanh Tân
73 Thôn Trung Quý Xã Thượng Hiền
74 Thôn Đồng Vinh Xã Vũ An
75 Thôn An Điềm Xã Vũ An
76 Thôn Đô Lương Xã Vũ An
77 Thôn Phụng Thượng Xã Vũ An
78 Thôn Đồng Lầu Xã Vũ An
79 Thôn Đồng Tâm Xã Vũ An
80 Thôn Thái Công Bắc Xã Vũ Công
81 Thôn Thái Công Nam Xã Vũ Công
82 Thôn Trà Vy Bắc Xã Vũ Công
83 Thôn Trà Vy Nam Xã Vũ Công
84 Thôn 1 Xã Vũ Hòa
85 Thôn 2 Xã Vũ Hòa
86 Thôn 3 Xã Vũ Hòa
87 Thôn 4 Xã Vũ Hòa
177
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
88 Thôn 5 Xã Vũ Hòa
89 Thôn Bắc Sơn Xã Vũ Ninh
HUYỆN ĐÔNG HƯNG
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Cổng Tây Bình Cách Thôn Tây Bình Cách, xã
Đông Xá
1930 2013
2 Cổng Tây Thôn Duyên Hà, xã Đông
Kinh
1940
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Cổng làng thôn Phương
Đài
Thôn Phương Đài, Đông
Dương
1997
2 Cổng làng Cổ Dũng Thôn Cổ Dũng 1, Đông La 2003
3 Cổng làng thôn Thượng
Phú
Thôn Thượng Phú, Đông
Phong
2005
4 Cổng làng thôn Cổ Hội Thôn Cổ Hội, Đông Phong 2007
5 Cổng làng thôn Phú Bắc Thôn Phú Bắc, xã Đông Á 2010
6 Cổng làng thôn Hữu Thôn Hữu, xã Mê Linh 2011
7 Cổng làng thôn Chiến
Thắng
Thôn Chiến Thắng, Hoa
Nam
2014
8 Cổng làng Duyên Trang
Tây
Thôn Duyên Trang Tây,
Phú Lương
2014
9 Cổng làng Duyên Trang
Đông
Thôn Duyên Trang Đông,
Phú Lương
2014
HUYỆN QUỲNH PHỤ
Cổng làng xây dựng trước năm 1945: Không có
178
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1. Cổng làng An Lộng An Lộng, Quỳnh Hoàng
2. Cổng làng An Trực An Trực, Quỳnh Hoàng
3. Cổng làng Ngõ Mưa Ngõ Mưa - Quỳnh Hoàng
4. Cổng làng Liên Hiệp Liên Hiệp, Quỳnh Hoàng
5. Cổng làng Thượng Phán Thượng Phán, Quỳnh
Hoàng
6. Cổng làng Hạ Phán Hạ Phán, Quỳnh Hoàng
7. Cổng làng Ngọc Minh Ngọc Minh, Quỳnh Hoàng
8. Cổng làng Đại Điền Đại Điền, An Vũ 2006
9. Cổng làng An Mỹ An Mỹ, An Dục 2007
10. Cổng làng Lạc Cổ Lạc Cổ, An Dục 2009
11. Cổng làng Lương Mỹ Lương Mỹ, Quỳnh Hội 2012
12. Cổng làng Mỹ Xá Mỹ Xá, Quỳnh Châu 2013
13. Cổng làng Châu Duyên Châu Duyên, Quỳnh Châu 2014
14. Cổng làng Tân Dân Tân Dân, Quỳnh Hưng 2015
15. Cổng làng Tiên Bá Tiên Bá, Quỳnh Thọ
16. Cổng làng Hiệp An Hiệp, Quỳnh Giao
17. Cổng làng Thượng Xá Thượng Xá, Quỳnh Minh
HUYỆN TIỀN HẢI
Cổng làng xây dựng trước năm 1945: Không có
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Làng văn hoá Châu
Nhai
Việt Thắng, Nam Thanh 2001
2 Cổng làng Ngải Châu Ngải Châu, Đông Minh 2005
179
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
3 Làng Quý Đức Quý Đức, Đông Quý 2005
4 Cổng làng Ngoại Đê Đông Sơn, Tây Sơn 2007
5 Cổng làng La Cao Đông Sơn, Tây Sơn 2009
6 Làng Hải Nhuận Hải Nhuận, Đông Quý 2012
HUYỆN HƯNG HÀ
Cổng làng xây dựng trước năm 1945
1 Đan Hội Thôn Đan Hội, xã Dân
Chủ
1945
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Lương Ngọc Thôn Lương Ngọc, xã Tân
Tiến
1972
2 Làng văn hóa thôn Tây
Nha
Thôn Tây Nha, xã Tiến
Đức
2000
3 Hùng Thắng Thôn Hùng Thắng, xã
Hồng An
2002
4 Lưu Xá Thôn Lưu Xá, xã Canh
Tân
2003
5 Vũ Thôn Thôn Vũ Thôn, xã Cộng
Hòa
2003
6 Làng văn hóa thôn Do
Đạo
Thôn Do Đạo, xã Tiến
Đức
2003
7 Làng văn hóa thôn
Đoan Bản
Thôn Đoan Bản, xã Tiến
Đức
2003
8 Lương Thôn Thôn Lường, xã Tân Hòa 2008
9 Ngũ Đoài Thôn Vũ Đoài, xã Điệp
Nông
2008
180
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
10 Vũ Đông Thôn Vũ Đông, xã Hồng
Lĩnh
2010
11 Vũ Đoài Thôn Vũ Đoài, xã Hồng
Lĩnh
2010
12 Nhân Phú Thôn Nhân Phú, xã Hùng
Dũng (3 cổng)
2010
13 Văn Mỹ Thôn Văn Mỹ, xã Đoan
Hùng
2010
14 Mỹ Thịnh Thôn Mỹ Thịnh, xã Tây
Đô
2012
15 Duyên Trường Thôn Duyên Trường, xã
Tây Đô
2013
16 Minh Thiện Thôn Minh Thiện, xã Hòa
Bình
2014
17 Làng văn hóa Thăng
Long
Thôn Thăng Long, xã Bắc
Sơn
2015
HUYỆN THÁI THỤY
Cổng làng xây dựng trước năm 1945: Không có
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Cầu Cất Thôn Cầu Cất, xã Thụy
Ninh
2001 2010
2 Lũng Tả Thôn Lũng Tả, xã Mỹ Lộc 2003 2008
3 Trần Phú Thôn Trần Phú, xã Thái
Dương
2004 2008
4 Đồng Tỉnh Thôn Đồng Tỉnh, xã Thái
Dương
2004
181
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
5 Chỉ Thiện Thôn Chỉ Thiện, xã Mỹ
Lộc
2004 2010
7 Tân Minh Thôn Tân Minh, xã Mỹ
Lộc
2004 2011
8 Cao Mỹ Cổ Lũng Thôn Cao Mỹ Cổ Lũng,
xã Mỹ Lộc
2005 2011
9 Vũ Công Thôn Vũ Công, xã Thái
An
2005
10 Lễ Thần Đông Thôn Lễ Thần Đông, xã
Thái An
2005
11 Lễ Thần Đoài Thôn Lễ Thần Đoài, xã
Thái An
2005
12 Nam Cường Thôn Nam Cường, xã
Thái Hà
2005 2010
13 Chợ Phố Thôn Chợ Phố, xã Thái
Dương
2005
14 Vị Thủy Thôn Vị Thủy, xã Thái
Dương
2005 2011
15 Tiền Phong Thôn Tiền Phong, xã Thái
Hòa
2005 2012
16 Kha Lý Thôn Kha Lý, xã Thụy
Quỳnh
2005 2013
17 An Lệnh Thôn An Lệnh, xã Thụy
Liên
2005 2012
18 Bắc Thôn Bắc, xã Thụy Trình 2005
19 Bái Thượng Thôn Bái Thượng, xã
Thụy Phúc
2005
182
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
20 Hoành Quang Thôn Hoành Quang, xã
Thụy Liên
2005
21 Trà Linh Thôn Trà Linh, xã Thụy
Liên
2005 2010
22 Ry Phúc Thôn Ry Phúc, xã Thụy
Phúc
2006
23 Quỳnh Lý Thôn Quỳnh Lý, xã Thụy
Quỳnh
2006
24 Bắc Thôn Bắc, xã Thái Học 2006
25 Trung Thôn Trung, xã Thái Học 2006
26 Kim Thành Thôn Kim Thành, xã Thái
Sơn
2006
27 Hoàng Nguyên Thôn Hoàng Nguyên, xã
Thái Sơn
2006
28 Hoài Hữu Thôn Hoài Hữu, xã Thái
Sơn
2006 2011
29 Nam Hưng Đông Thôn Nam Hưng Đông, xã
Thái Sơn
2006 2011
30 Nam Hưng Tây Thôn Nam Hưng Tây, xã
Thái Sơn
2006 2011
31 Việt Cường Thôn Việt Cường, xã Thái
Sơn
2006 2011
32 Thanh Phần Thôn Thanh Phần, xã Thái
Sơn
2006
33 Văn Hàn Đông Thôn Văn Hàn Đông, xã
Thái Hưng
2006
183
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
34 Văn Hàn Bắc Thôn Văn Hàn Bắc, xã
Thái Hưng
2006
35 Văn Hàn Trung Thôn Văn Hàn Trung, xã
Thái Hưng
2007
36 Thôn Đông Thôn Đông, xã Thái Học 2007
37 Hoa Quận Thôn Hoa Quận, xã Thụy
Quỳnh
2007
38 Thôn Gang Thôn Gang, xã Thụy Ninh 2007
39 Cam Đoài Thôn Cam Đoài, xã Thụy
Liên
2007
40 An Cố Nam Thôn An Cố Nam, xã
Thụy An
2007
41 Mai Diêm Thôn Mai Diêm, xã Thụy
Hà
2008
42 Minh Vũ Thôn Minh Vũ, xã Thụy
Xuân
2008
43 Lễ Củ Thôn Lễ Củ, xã Thụy
Duyên
2008
44 Kiên Thắng Thôn Kiên Thắng, xã Thái
Thủy
2008
45 Thùy Dương Thôn Thùy Dương, xã
Thái Hòa
2008
46 Vũ Thành Đông Thôn Vũ Thành Đông, xã
Thái Hưng
2008
47 Vũ Thành Tây Thôn Vũ Thành Tây, xã
Thái Hưng
2008
184
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
48 Nghĩa Chỉ Thôn Nghĩa Chỉ, xã Thụy
Hà
2008
49 Thôn Đoài Thôn Đoài, xã Thụy Ninh 2009
50 Hạ Liệt Thôn Hạ Liệt, xã Thái
Giang
2009
51 Thiên Kiều Thôn Thiên Kiều, xã Thái
Thọ
2010
52 Nam Hưng Thôn Nam Hưng, xã Thái
Thủy
2010
53 Bắc Đồng Thôn Bắc Đồng, xã Thái
Thủy
2010
54 Minh Khai Thôn Minh Khai, xã Thái
Thủy
2010
55 Xuân Phố Thôn Xuân Phố, xã Thái
Phúc
2010
56 Thọ Cách Thôn Thọ Cách, xã Thụy
Quỳnh
2010
57 Đồng Tiến Thôn Đồng Tiến, xã Thái
Đô
2010
58 Nam Tân Thôn Nam Tân, xã Thái
Hòa
2010
59 Thượng Phúc Thôn Thượng Phúc, xã
Thụy Trường
2010
60 Phú Uyên Thôn Phú Uyên, xã Thái
Tân
2010
61 Lũng Đầu Thôn Lũng Đầu, xã Thái
Xuyên
2010
185
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
62 Hạ Đồng Thôn Hạ Đồng, xã Thụy
Sơn
2011
63 Cao Dương Thượng Thôn Cao Dương Thượng, xã
Thụy Hưng
2011
64 Tam Lộng Thôn Tam Lộng, xã Thụy
Hưng
2011
65 An Cố Tân Thôn An Cố Tân, xã Thụy
An
2011
66 Giáo Lạc Thôn Giáo Lạc, xã Thái
Thọ
2011
67 Thôn Vân Thôn Vân, xã Thụy Ninh 2012
68 Ngoại Trình Thôn Ngoại Trình, xã
Thụy Hà
2012
69 Hổ Đội 1 Thôn Hồ Đội 1, xã Thụy
Lương
2012
70 Xuân Bàng Thôn Xuân Bàng, xã Thụy
Xuân
2012
71 Hổ Đội 4 Thôn Hồ Đội 4, xã Thụy
Lương
2012
72 Tân Dũng Thôn Tân Dũng, xã Thụy
Tân
2012
73 Phúc Tiền Thôn Phúc Tiền, xã Thái
Phúc
2012
74 Nha Xuyên Thôn Nha Xuyên, xã Thái
Phúc
2012
75 Đông Uyên Thôn Đông Uyên, xã Thái
Phúc
2012
186
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
76 Kỳ Nha Thôn Kỳ Nha, xã Thái
Phúc
2012
77 Tân Phúc Thôn Tân Phúc, xã Thái
Phúc
2012
78 Phúc Trung Thôn Phúc Trung, xã Thái
Phúc
2012
79 Liên Khê Thôn Liên Khê, xã Thái
Thành
2012
80 Lai Triều Thôn Lai Triều, xã Thụy
Dương
2012
81 Hạc Ngang Thôn Hạc Ngang, xã Thụy
Dương
2013
82 Lương Thường Thôn Lương Thường, xã Thụy
Dương
2013
83 Vô Hối Đông Thôn Vô Hối Đông, xã
Thụy Thanh
2013
84 Khu 6 Thị trấn 2013
85 Văn Tràng Thôn Văn Tràng, xã Thụy
Văn
2013
86 Đông Hồ Thôn Đông Hồ, xã Thụy
Phong
2013
87 Vạn Đồn Thôn Vạn Đồn, xã Thụy
Hồng
2013
88 Thôn Đoài Thôn Đoài, xã Thụy Trình 2013
89 Thôn Đông Thôn Đông, xã Thụy Trình 2013
90 Hổ Đội 2 Thôn Hồ Đội 2, xã Thụy
Lương
2013
187
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
91 Hổ Đội 3 Thôn Hồ Đội 3, xã Thụy
Lương
2013
92 Thanh Khê Thôn Thanh Khê, xã Thái
Thành
2014
93 Phúc Tân Thôn Phúc Tân, xã Thái
Thành
2014
94 Tuân Nghĩa Thôn Tuân Nghĩa, xã Thái
Thành
2014
95 Đồng Nhân Thôn Đồng Nhân, xã Thái
Thành
2014
96 Chiêm Thuận Thôn Chiêm Thuận, xã
Thái Hồng
2014
97 Nghĩa Chỉ Thôn Nghĩa Chỉ, xã Thụy
Liên
2014
98 Vị Dương Thôn Vị Dương, xã Thái
Hồng
2014
99 Hòe Nha Thôn Hòe Nha, xã Thụy
Chính
2014
100 Miếu Thôn Miếu, xã Thụy
Chính
2014
101 Chính Thôn Chính, xã Thụy
Chính
2014
102 Đông Dương Thôn Đông Dương, xã
Thụy Dũng
2014
103 Phương Man Thôn Phương Man, xã
Thụy Dũng
2014
188
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
104 Nghĩa Phong Thôn Nghĩa Phong, xã
Thái Thành
105 Nam Thịnh Thôn Nam Thịnh, xã Thái
Thịnh
2015
106 Đoài Thịnh Thôn Đoài Thịnh, xã Thái
Thịnh
2015
107 Trung Thịnh Thôn Trung Thịnh, xã
Thái Thịnh
2015
108 Bắc Thịnh Thôn Bắc Thịnh, xã Thái
Thịnh
2015
109 Trà Bôi Thôn Trà Bôi, xã Thụy
Liên
2015
110 Đồng Hòa Thôn Đồng Hòa, xã Thụy
Phong
2015
111 Thượng Phúc Thôn Thượng Phúc, xã
Thụy Sơn
2015
HUYỆN VŨ THƯ
Cổng làng xây dựng trước năm 1945: Không có
Cổng làng xây dựng sau năm 1945
1 Thượng Hộ Trung Thôn Thượng Hộ Trung,
xã Hồng Lý
2000
2 Nam Bi Thôn Nam Bi, xã Tân Hòa 2010
3 Tương Đông Thôn Tương Đông, xã
Hồng Phong
2010
4 Thanh Hương Thôn Thanh Hương, xã
Đồng Thanh
2011
189
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
5 Đức Long Thôn Đức Long, xã Duy
Nhất
2011
6 Cự Lâm Thôn Cự Lâm, xã Xuân
Hòa
2011
7 An Lạc Thôn An Lạc, xã Trung
An
2012
8 Trực Nho Thôn Trực Nho, xã Minh
Quang
2012
9 Đại Đồng 1 Thôn Đại Đồng 1, xã
Đồng Thanh
2014
10 Thanh Bản 1 Thanh Bản 1, xã Xuân
Hòa
2014
11 Phúc Trung Bắc Thôn Phúc Trung Bắc, xã
Phúc Thành
2014
12 Hồng Quang Thôn Phương Cáp, xã
Hiệp Hòa
2014
13 Phú Lễ Thôn Phú Lễ, xã Tự Tân 2014
14 Phú Lễ Thượng Thôn Phú Lễ Thượng, xã
Tự Tân
2014
15 Bình Minh Thôn Bình Minh, xã Bách
Thuận
2014
16 Gia Lạc Thôn Gia Lạc, xã Hồng Lý 2014
17 Thượng Hộ Nam Thôn Thượng Hộ Nam, xã
Hồng Lý
2014
18 Hữu Lộc Thôn Hữu Lộc, xã Xuân
Hòa
2015
190
S
TT
TÊN CỔNG LÀNG
ĐỊA CHỈ
(Thôn, xã)
NĂM
XÂY
DỰNG
NĂM
TU
SỬA
19 An Thái Thôn 8, xã Vũ Đoài 2015
20 An Phúc Thôn An Phúc, xã Song
An
2015
21 Tân Minh Thôn Tân Minh, xã Song
An
2015
22 Trung Hòa Thôn Trung Hòa, xã Vũ
Vinh
2015
191
HÌNH ẢNH
CỔNG LÀNG, CÂY ĐA, GIẾNG LÀNG, ĐIẾM, ĐÌNH, CHÙA,
LŨY TRE LÀNG, QUÁN LÀNG
HỌA TIẾT TRANG TRÍ TRÊN CỔNG LÀNG
192
H1- Cổng trước làng Cầu Nôm (Ảnh tác giả chụp ngày 21.7.2013)
H2- Cổng làng Mông Phụ (Ảnh tác giả chụp ngày 22.3.2013)
193
H3- Cổng làng Tây Bình Cách (Ảnh tác giả chụp ngày 15.3.2014)
H4- Cổng làng Duyên Hà (Ảnh tác giả chụp ngày 16.3.2014)
194
H5- Cổng làng Dương Đá (Ảnh tác giả chụp ngày 18.7.2011)
H6- Cổng xóm Đột làng Đồng Kỵ (Ảnh tác giả chụp ngày 30.12.2013)
195
H7- Cổng làng Thổ Hà (Ảnh tác giả chụp ngày 31/3/2011)
H8- Cổng trước làng Ước Lễ (Ảnh chụp tác giả chụp ngày 27.2.2012)
196
H9- Cổng Giếng làng Hồ Khẩu (Ảnh tác giả chụp ngày 29.12.2013)
H10- Ruộng làng Mông Phụ (Ảnh tác giả chụp ngày 25.8.2015)
197
H11- Đường làng Mông Phụ (Ảnh tác giả chụp ngày 25.8.2015)
H12- Cây đa đầu làng Mông Phụ (Ảnh tác giả chụp ngày 25.8.2015)
198
H13- Bờ rào tre ở làng Quan Nhân - (Ảnh của Pierre Gourou, tr.561)
H14- Chợ làng Cầu Nôm (Ảnh tác giả chụp ngày 21.7.2013)
199
H15- Đình làng Mông Phụ (Ảnh tác giả chụp ngày 25.8.2015)
H16- Chùa làng Cầu Nôm (Ảnh tác giả chụp ngày 21.7.2013)
200
H17- Văn chỉ làng Thổ Hà (Ảnh tác giả chụp ngày 31.3.2011)
H18- Quán làng Mông Phụ (Ảnh tác giả chụp ngày 25.8.2015)
201
H19- Điếm làng Mông Phụ (Ảnh tác giả chụp ngày 25.8.2015)
H20- Giếng làng Mông Phụ (Ảnh tác giả chụp ngày 25.8.2015)
202
H21- Cổng làng Mông Phụ (Ảnh tác giả chụp ngày 25.8.2015)
H22- Cổng làng Vũng, xã Phượng Cách, huyện Quốc Oai, Hà Nội
(Ảnh tác giả chụp ngày 2.5.2015)
203
H23- Cổng làng Thượng Thụy, phường Đông Ngạc, Nam Từ Liêm, Hà Nội
(Ảnh tác giả chụp ngày 14.3.2015)
H24 -Hình rồng đắp nổi trên cổng làng Dương Đình,Gia Lâm, Hà Nội
(Ảnh tác giả chụp ngày 6.8.2010)
204
H25 - Hình rồng đắp nổi trên cổng Miễu làng Dương Đình,
(Ảnh tác giả chụp ngày 6.8.2010)
H26 – Sấu trên trụ cổng làng Thổ Khối, Hà Nội
(Ảnh tác giả chụp ngày 13.3.2010)
205
H27- Nghê trên cổng Xanh, phố Thụy Khuê
(Ảnh tác giả chụp ngày 29.12.2013)
H28 - Chim phượng đắp nổi trên cổng làng Thổ Khối, quận Long Biên, HN
(Ảnh tác giả chụp ngày 13.3.2011)
206
H29 - Chim phượng đầu trụ cổng Giếng, Hồ Khẩu, Tây Hồ, Hà Nội
(Ảnh tác giả chụp ngày 29.12.2013)
H30 - Quả dành dành trên đầu trụ cổng Giếng, làng Hồ Khẩu
(Ảnh tác giả chụp ngày 29.12.2013)
207
H31- Cá chép đắp nổi trên cổng làng Ước Lễ,
xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, HN
(Ảnh tác giả chụp ngày 27.2.2012)
H32 – Sen đắp trên đỉnh trụ cổng Giếng, làng Hồ Khẩu
(Ảnh tác giả chụp ngày 29.12.2013)
208
H33 -Nghê và họa tiết hoa chanh được đắp trên trụ, lan can cổng làng Ước Lễ
(Ảnh tác giả chụp ngày 27.2.2012)
H34 - Họa tiết hoa thị được đắp trên lan can cổng làng Thổ Hà
(Ảnh tác giả chụp ngày 31.3.2011)
209
H35- Biểu tượng cây khoai nước trên cổng Tây làng Duyên Hà, Thái Bình
(Ảnh tác giả chụp ngày 31.3.2011)
H36- Chó đá ở chân cổng làng An Thọ, phố Thụy Khuê
(Ảnh tác giả chụp ngày 29.12.2013)
210
H37 - Chó đá giữ cổng (Ảnh của Pierre Gourou, tr.585)
H38 - Cổng làng Linh Đàm (Ảnh tác giả chụp ngày 25.3.2015)
211
H39 – Cổng làng Sơn Đồng (Ảnh tác giả chụp ngày 15.6.2015)
H40- Lê Trọng Lân – Bố cục – Sơn dầu- 1995, 150x200cm
(Nguồn: sách Mĩ thuật Việt Nam hiện đại)
212
H41- Đặng Tin Tưởng – Đường làng – Sơn khắc – 1980, 76x127cm
(Nguồn: sách Mĩ thuật Việt Nam hiện đại)
H42 -Giang Tô – Tấp nập sớm mai – Sơn khắc – 1990, 90x120cm
(Nguồn: sách Mĩ thuật Việt Nam hiện đại)
213
H43 - Đỗ Phấn – Cảnh nông thôn – Lụa 1992, 45x65cm
(Nguồn: sách Mĩ thuật Việt Nam hiện đại)
H44- Nguyễn Huống – Đường vào xóm – bột mầu 1980, 40x60cm
(Nguồn: sách Mĩ thuật Việt Nam hiện đại)
214
H45- Cổng làng Gia Lộc (Ảnh tác giả chụp ngày 15.7.2015)
H46 – Cổng làng Thổ Khối (Ảnh tác giả chụp ngày 13/3/2011)
215
H47 – Cổng làng Đại Từ (Ảnh tác giả chụp ngày 1/9/2014)
H48- Cổng làng Lí Nhân (Ảnh tác giả chụp ngày 15.7.2015)
216
H49- Cổng làng Linh Quy (Ảnh tác giả chụp ngày 5.12.2010)
H50- Cổng làng Dương Đanh (Ảnh tác giả chụp ngày 31.7.2011)
217
H51- Cổng làng Tri Lễ (Ảnh tác giả chụp ngày 27.2.2012)
H52 - Cổng sau làng Ước Lễ (Ảnh tác giả chụp ngày 27.2.2012)
218
H53- Cổng tổ dân phố Kiên Thành (Ảnh tác giả chụp ngày 11.5.2014)
H54- Cổng thôn Đông, làng Đào Xá, Đông Hưng, Thái Bình
(Ảnh tác giả chụp ngày 21.9.2015)
219
H55- Cổng làng Thuận Tiến, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội
(Ảnh tác giả chụp ngày 21.11.2010)
H56- Cổng làng Mễ Trì Hạ, Từ Liêm, Hà Nội
(Ảnh tác giả chụp ngày 25.9.2015)
220
BẢN VẼ
Bản thiết kế cổng sau làng Đồng Cầu (Cầu Nôm)
Bản thiết kế này do gia đình cụ Đan Văn Hoàn cung tiến
xây dựng cổng sau của làng cung cấp
221
222
223
224
225
226
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_cong_lang_nguoi_viet_o_chau_tho_bac_bo.pdf