HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM HỒNG PHONG
CƠ CHẾ PHÁP LÝ
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA
CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP
VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI – 2021
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM HỒNG PHONG
CƠ CHẾ PHÁP LÝ
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA
CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP
VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PH
174 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 362 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÁP LUẬT
Mã số: 9 38 01 06
Người hướng dẫn khoa học: GS,TS. TRẦN NGỌC ĐƯỜNG
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Đề tài luận án
được tôi nghiên cứu, sử dụng các số liệu, trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng và tuân
theo quy định về thực hiện đề tài luận án. Tôi chịu trách nhiệm về các nội dung
trình bày trong luận án.
Tác giả
Phạm Hồng Phong
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 8
1.2. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 25
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN
LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ
QUYỀN TƯ PHÁP 29
2.1. Một số khái niệm cơ bản, đặc điểm, cơ cấu, vai trò cơ chế pháp lý kiểm
soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và
quyền tư pháp 29
2.2. Các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế
pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành
pháp và quyền tư pháp 55
2.3. Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện
quyền hành pháp và quyền tư pháp ở một số quốc gia và giá trị tham khảo
cho Việt Nam 62
Chương 3: SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CƠ CHẾ
PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC
HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 66
3.1. Khái quát sự hình thành và phát triển cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực
nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở
Việt Nam 66
3.2. Thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay 78
3.3. Thực trạng vận hành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa
các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam 91
3.4. Đánh giá chung về cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam 104
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CƠ
CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN
THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 121
4.1. Quan điểm xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực
nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở
Việt Nam 121
4.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam 124
KẾT LUẬN 154
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156
PHỤ LỤC 163
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CQĐP : Chính quyền địa phương
CQNN : Cơ quan nhà nước
HĐND : Hội đồng nhân dân
QLNN : Quyền lực nhà nước
TAND : Tòa án nhân dân
UBND : Uỷ ban nhân dân
UBTVQH : Uỷ ban thường vụ Quốc hội
VAHC : Vụ án hành chính
VBPL : Văn bản pháp luật
VKS : Viện Kiểm sát
VKSND : Viện Kiểm sát nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Quyền lực nhà nước (QLNN) là thuộc tính của nhà nước, khẳng định ưu thế
và tầm quan trọng của nhà nước so với các tổ chức khác của hệ thống chính trị
trong quản lý xã hội. Tuy nhiên, QLNN bên cạnh khả năng vượt trội bởi tính hướng
đích hiệu quả, sức mạnh bắt buộc trong điều chỉnh các quan hệ xã hội để thiết lập,
duy trì trật tự xã hội thì còn có yếu tố cấu thành khách quan gắn liền với sự tồn tại
và phát triển của nó là sự tha hóa của QLNN. Sự tha hóa của QLNN luôn có nguy
cơ đe dọa phá hủy tất cả các thành quả của chính nó, thông qua việc phá vỡ các giới
hạn trật tự, nền tự do dân chủ và thành tựu nhân quyền mà QLNN tạo ra.
Ở nước ta, một trong những nguyên tắc nền tảng của công cuộc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân
dân là nguyên tắc “Tất cả QLNN thuộc về Nhân dân” [42]. Nguyên tắc này đã được
ghi nhận trong các Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam và được thể chế hóa
bằng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc “Tất cả QLNN thuộc về
Nhân dân” xuất phát từ bản chất QLNN có nguồn gốc từ Nhân dân. Nhân dân thành
lập nên Nhà nước, ủy quyền cho Nhà nước, các cơ quan nhà nước (CQNN) thực
hiện quyền lực nhân dân. Để bảo đảm cho QLNN không bị lũng đoạn, các CQNN
không thể lạm dụng quyền lực được giao, cần phải xây dựng một cơ chế kiểm soát
việc thực hiện QLNN một cách minh bạch và chặt chẽ. Đây cũng là đòi hỏi tất yếu
của nguyên tắc tất cả QLNN thuộc về Nhân dân, bảo đảm ngăn chặn sự lạm dụng
QLNN, xâm phạm chủ quyền nhân dân, bảo đảm cho Nhân dân luôn ở vị thế là chủ
thể tối cao của QLNN. Chính vì thế, Hiến pháp năm 2013 khẳng định “QLNN là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các CQNN trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3 Điều 2).
Trong các cơ chế kiểm soát giữa các CQNN trong việc thực hiện QLNN thì cơ
chế kiểm soát giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp đóng vai
trò quan trọng, bởi vì:
Thứ nhất, quyền hành pháp với chức năng nhiệm vụ của mình, hoạch định
chính sách và tổ chức thi hành pháp luật trong mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội,
có tác động đến quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Do vậy,
2
việc lạm dụng quyền hành pháp có nguy cơ xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người dân. Trong khi đó, quyền tư pháp với chức năng bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, có khả năng tác động, ngăn chặn
quyền hành pháp trong việc ban hành, thực hiện những chính sách gây ảnh hưởng
đến quyền con người, quyền công dân.
Thứ hai, các chính sách do quyền hành pháp hoạch định được chuyển hóa
thành quy định của pháp luật để đưa vào cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, pháp luật
không bao giờ có thể dự liệu được tất cả mọi tình huống phát sinh trong thực tiễn
của đời sống. Vì vậy, về nguyên tắc, trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, cơ
quan thực hiện quyền hành pháp phải thực hiện một cách chủ động, sáng tạo để
thích ứng kịp thời với những diễn biến đa dạng và sinh động của thực tiễn đời sống.
Tuy nhiên, để bảo đảm cho việc thực hiện quyền hành pháp không đi quá giới hạn,
đòi hỏi cần xây dựng cơ chế ngăn cản sự lạm quyền của cơ quan thực hiện quyền
hành pháp. Trong đó, cơ quan thực hiện quyền tư pháp phải đóng vai trò là chốt
chặn, ngăn cản sự lạm quyền của cơ quan thực hiện quyền hành pháp.
Thứ ba, nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân
của cơ quan tư pháp được thực hiện thông qua chức năng xét xử của tòa án. Tòa án
căn cứ vào quy định của pháp luật, thực hiện chức năng xét xử. Tức là, cơ quan tư
pháp, căn cứ vào chính sách do cơ quan hành pháp hoạch định được chuyển hóa
thành quy định của pháp luật để thực hiện chức năng của mình. Để bảo vệ chính
sách đã được luật hóa, cơ quan hành pháp cần kiểm soát hoạt động của cơ quan tư
pháp. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của quyền tư pháp là độc lập, cơ quan hành
pháp không thể tác động trực tiếp vào hoạt động xét xử của tòa án, mà thông qua
khả năng tác động đến tổ chức nhân sự của tòa án, bảo đảm việc lựa chọn thẩm
phán của tòa án đáp ứng được các yêu cầu về phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ.
Để bảo đảm cho việc kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành
pháp và quyền tư pháp có hiệu lực và hiệu quả, trước hết, đòi hỏi xây dựng cơ chế
pháp lý kiểm soát hoạt động thực hiện QLNN giữa các cơ quan này. Tuy nhiên, kể
từ khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, chưa có nhiều thay đổi trong các thể
chế pháp lý cũng như thực tế thực hiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa hai
nhóm cơ quan nêu trên. Điều đó dẫn đến cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN nói
chung, kiểm soát QLNN giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư
3
pháp nói riêng chưa hình thành và phát huy hiệu quả. Trong bối cảnh đó, việc
nghiên cứu đề tài: “Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam” có ý nghĩa cấp thiết cả
về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về cơ chế pháp
lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp;
đồng thời, nghiên cứu, xây dựng luận cứ thực tiễn cho việc đề xuất giải pháp hoàn
thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để thực hiện được mục đích trên đây, luận án có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa
cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp trên các phương diện làm rõ
khái niệm, đặc điểm, nội dung cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Thứ hai, nghiên cứu vận dụng lý luận trong và ngoài nước về cơ chế pháp lý
kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp để làm
sáng rõ cơ sở lý luận cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện
quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN
giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay trên
các phương diện những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập và chỉ ra nguyên nhân
của hạn chế, bất cập.
Thứ tư, đề xuất những quan điểm, luận giải tính khả thi của các giải pháp hoàn
thiện cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu các quan điểm lý luận khoa học với những tư tưởng, quan
điểm về tổ chức QLNN; cơ chế kiểm soát QLNN nói chung, cơ chế pháp lý về
kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp nói
4
riêng; các quy định của Hiến pháp và luật về tổ chức cơ quan thực hiện quyền hành
pháp, quyền tư pháp; thực tiễn kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và quyền tư pháp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về nội dung nghiên cứu: Luận án nghiên cứu các nội dung những vấn đề liên
quan đến việc xác định cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; nghiên cứu thực tiễn cơ chế
pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư
pháp và hoàn thiện cơ chế này.
Việc nghiên cứu so sánh cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực
hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở một số nước trên thế giới nhằm mục đích
tham khảo và làm tăng tính thuyết phục cho những lập luận, phân tích, đánh giá và
kiến nghị hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay.
- Về phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu cơ chế pháp lý kiểm soát
QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp từ khi Hiến pháp
năm 2013 có hiệu lực đến nay. Bên cạnh đó, với mục đích so sánh, tham khảo, luận
án có nghiên cứu khái quát cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện
quyền hành pháp và quyền tư pháp theo quy định của các Hiến pháp năm 1946,
Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu của luận án
Việc nghiên cứu đề tài luận án được tiếp cận dựa trên cơ sở lý luận sau:
- Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà
nước và pháp luật; quan điểm của Đảng về tổ chức, kiểm soát QLNN, tổ chức
bộ máy nhà nước.
- Các học thuyết chứa đựng những tư tưởng, quan điểm về nền dân chủ pháp
quyền, về tổ chức QLNN, tổ chức bộ máy nhà nước. Những học thuyết, triết lý này
được trình bày trong tác phẩm của các nhà tư tưởng, chính trị, luật học, được vận
dụng để phân tích nguyên tắc kiểm soát QLNN, kiểm soát QLNN giữa cơ quan
5
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; vị trí, vai trò, nhiệm vụ của các thiết
chế thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp.
- Các quan điểm, chủ trương cải cách bộ máy nhà nước của Đảng định hướng
cho việc tìm kiếm các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
- Các quan điểm của Đảng về công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới
tổ chức và hoạt động nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp luận nghiên cứu của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các quy luật và các phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để nghiên cứu về quá trình phát
triển nhận thức của xã hội về QLNN, kiểm soát QLNN nói chung, cơ chế pháp lý
kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và tư pháp nói riêng.
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Phương pháp này được sử dụng
trong nghiên cứu các tài liệu phục vụ quá trình xây dựng tổng quan tình hình nghiên
cứu ở Chương 1; nghiên cứu các vấn đề lý luận và kinh nghiệm của các nước ở
Chương 2; nghiên cứu thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam tại Chương 3.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong suốt
quá trình nghiên cứu đề tài luận án. Thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu,
phương pháp này hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở khoa học của cơ chế pháp lý
kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp và quyền
tư pháp; phân tích, làm rõ thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam; đánh giá các kết quả đạt
được, những hạn chế, bất cập và chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng này. Trên cơ sở
đó, luận án phân tích quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát
QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam.
Phương pháp đánh giá, tổng kết thực tiễn: Phương pháp này được sử dụng
chủ yếu ở Chương 3, khi nghiên cứu thực trạng thể chế, thiết chế tổ chức bộ máy để
đánh giá các kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập của cơ chế pháp lý kiểm soát
6
QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở
Việt Nam và chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng này.
Phương pháp so sánh và dự báo: Phương pháp này được sử dụng giúp cho việc
nhận diện chuẩn xác về những điểm tương đồng và khác biệt của cơ chế pháp lý kiểm
soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam
trong từng thời kỳ phát triển, từng giai đoạn lịch sử cụ thể; giữa cơ chế pháp lý kiểm
soát QLNN ở Việt Nam với một số nước trong khu vực và trên thế giới; sự đồng
hành hay bất cập giữa cơ sở lý thuyết và pháp lý với thực tiễn cơ chế pháp lý kiểm
soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận án xác định những thiếu vắng và yêu cầu hoàn thiện cơ chế pháp
lý kiểm soát QLNN trong xu thế vận động, phát triển để dự báo và chọn lọc những tri
thức khoa học từ thực tiễn nhằm đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế
pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp
ở Việt Nam. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 4 của luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Việc nghiên cứu đề tài luận án góp phần triển khai, thực hiện nguyên tắc kiểm
soát QLNN mới được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. Đây là một trong số công
trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện, có hệ thống và chuyên biệt về cơ
chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư
pháp ở Việt Nam trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Dưới góc độ
tiếp cận của Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, đề tài luận án có những đóng
góp mới sau:
Một là, luận án kế thừa, tổng hợp các công trình đi trước và bổ sung vào hệ
thống lý luận, các khái niệm về cơ chế kiểm soát QLNN; cơ chế pháp lý kiểm soát
QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; các lý thuyết
liên quan đến tổ chức thực hiện QLNN, cơ chế kiểm soát về QLNN nói chung, cơ
chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền
tư pháp nói riêng phù hợp với Việt Nam.
Hai là, luận án cũng đã chỉ ra và phân tích đặc điểm, cơ cấu, vai trò, các yếu tố
cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý về kiểm soát
QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Ba là, luận án đã phân tích, đánh giá một cách đồng bộ, chi tiết thực trạng cơ
chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành
7
pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực cho đến
nay. Từ đó, chỉ rõ những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của
thực trạng này. Đây là những đóng góp mới về phương diện thực tiễn.
Bốn là, luận án đã xây dựng được hệ thống những quan điểm và giải pháp
hoàn thiện cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay. Những kiến nghị này
có ý nghĩa cho hoạt động lập pháp, thực thi pháp luật và khoa học pháp lý.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Về mặt lý luận, luận án đã nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về cơ chế
pháp lý kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp và
quyền tư pháp ở nước ta. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú
thêm lý luận về tổ chức thực hiện QLNN, về kiểm soát QLNN, cơ chế pháp lý về
kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham
khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong quá trình xây
dựng, hoàn thiện Bộ máy nhà nước ta. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng là tài
liệu tham khảo bổ ích cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong lĩnh vực
khoa học pháp lý.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn
đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa
cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp
Chương 3: Sự hình thành, phát triển và thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở
Việt Nam
Chương 4: Quan điểm và giải pháp xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý
kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư
pháp ở Việt Nam
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước
Sự quan tâm của các nhà khoa học về vấn đề kiểm soát QLNN nói chung và
kiểm soát thực hiện QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền (trong
đó có quyền hành pháp và quyền tư pháp) được phản ánh qua nhiều công trình
nghiên cứu. Có thể phân chia các công trình nghiên cứu tiêu biểu thành các nhóm
sau đây:
Một là, các công trình nghiên cứu về QLNN, quyền hành pháp, quyền tư pháp
Trong cuốn sách: “Quyền lực nhà nước và quyền công dân” của PGS.TS
Đinh Văn Mậu [31] đã trình bày về QLNN và khẳng định thực chất QLNN là
quyền lực của nhân dân. Với những đặc thù vốn có, QLNN cần phải được thực hiện
bởi những cơ quan nhất định. Tuy nhiên, cơ quan đó phải bảo đảm nhận và thể hiện
ý chí của chính nhân dân - nguồn gốc của QLNN. Về bản chất, ý chí, lợi ích của
nhân dân phải được bảo đảm trong quá trình thực hiện QLNN. Nhà nước phải bảo
đảm quyền con người, quyền công dân và bảo vệ các quyền ấy, thông qua các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trong cuốn sách: “Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới” của tác giả Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành [19]; và “Một số vấn đề
về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam” do GS.TS Trần Ngọc Đường chủ biên [20], các tác giả đã
phân tích, lập luận trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn nhằm làm sáng tỏ
các mối liên hệ cơ bản. Đó là quan hệ giữa chủ thể QLNN với chủ thể có vai trò
lãnh đạo nhà nước và mối quan hệ giữa các CQNN với nhau. Một trong những
đóng góp quan trọng của các tác giả được trình bày trong các cuốn sách trên là đã
tiếp cận khoa học và lý giải cụ thể vấn đề nguồn gốc, đặc điểm, bản chất xu hướng
của QLNN.
9
Sách chuyên khảo: “Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính”, do
Viện Chính sách công và pháp luật xuất bản là một tài liệu phân tích về quyền tư
pháp trong nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp trong xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN và một vấn đề quan trọng trong xã hội hiện nay là sự liêm chính trong
các hoạt động tư pháp [62]. Đây là những nền tảng lý luận quan trọng cho việc tổ
chức nghiên cứu về vị trí, vai trò của hệ thống Tòa án trong việc thực hiện quyền tư
pháp và sự gắn kết giữa cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền. Tuy
nhiên, sách được viết dưới dạng tập hợp các chuyên đề nên chưa có hệ thống đầy đủ
và toàn diện, chưa đề cập nhiều đến cải cách của hệ thống Tòa án.
Trong cuốn sách: “Tổng kết một số vấn đề lý luận - Thực tiễn 30 năm đổi mới
(1986-2016) về phòng, chống tham nhũng, lãng phí”, do Ban Nội chính Trung
ương phát hành [3] đã tập trung vào ba vấn đề quan trọng là tư pháp, nội chính và
phòng, chống tham nhũng. Trong đó, về lĩnh vực tư pháp, cuốn sách đã nêu lên
những thành tựu 30 năm đổi mới (1986-2016), cụ thể là làm rõ quá trình đổi mới và
hoàn thiện hệ thống tư pháp. Từ đó, tổng kết, đánh giá những kết quả đạt được,
những nhược điểm, hạn chế cần tiếp tục khắc phục trong thời gian tới. Đây là cuốn
sách có những đánh giá mang tính tổng quan, toàn diện về một thời kỳ dài thực hiện
các cải cách về hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có Tòa án; qua đó, chỉ
rõ những nhược điểm cần phải khắc phục khi tiến hành nghiên cứu về đổi mới hệ
thống Tòa án nhân dân (TAND).
Tác giả Bùi Ngọc Sơn nêu vấn đề “Quyền tư pháp trong chính thể hiện đại”
thông qua khẳng định việc xác định một mô hình chính thể cần phải dựa vào cả ba
loại quyền lực [46]. Tác giả đã đi sâu phân tích sự khác nhau của quyền tư pháp
trong các chính thể hiện đại (chính thể cộng hòa tổng thống, chính thể đại nghị,
chính thể cộng hoà lưỡng tính, chính thể của các nhà nước XHCN). Kết luận của tác
giả về vấn đề này là quyền tư pháp “một cành QLNN không chỉ mang tính chất tố
tụng mà còn mang yếu tố chính trị”.
Bài viết: “Một số vấn đề về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ quan tư
pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp” của PGS.TS Trần Đình Nhã [33]. Tác giả đã đưa
ra quan niệm về quyền tư pháp là quyền xét xử và cơ quan tư pháp là Tòa án; hoạt
động tư pháp là hoạt động của quyền tư pháp trong đời sống xã hội, đó là hoạt động
10
xét xử; cơ quan tư pháp - cơ quan nhân danh QLNN thực hiện quyền tư pháp - là cơ
quan xét xử.
Trong bài viết: “Bàn về quyền hành pháp trong Hiến pháp năm 2013”, TS
Nguyễn Văn Cương [5] đã phân tích về khái niệm quyền hành pháp theo quan điểm
lịch sử. Tác giả viện dẫn quyền hành pháp trong quan niệm của Montesquieu; trình
bày quan niệm về quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay dưới cách đánh giá, lập
luận của các nhà khoa học, cho thấy sự đa dạng trong quan niệm về quyền hành
pháp ở Việt Nam. Tác giả cũng gợi mở góc nhìn so sánh về vấn đề này, nhằm cung
cấp cách đánh giá khách quan về quyền hành pháp.
Tác giả Nguyễn Ngọc Toán trình bày quan điểm về quyền hành pháp trong bài
viết: “Quyền hành pháp của Chính phủ theo Hiến pháp năm 2013” [57]. Trong đó,
tác giả trình bày quá trình hiến định quyền hành pháp cho Chính phủ trên cơ sở làm
rõ quan niệm về quyền hành pháp, quá trình hiến định quyền hành pháp cho Chính
phủ. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra quan điểm xác định nội dung và phạm vi
quyền hành pháp của Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013, cấu trúc tương thích
của Chính phủ để thực hiện quyền hành pháp, kiểm soát quyền hành pháp của
Chính phủ trong Hiến pháp.
Bài viết: “Tòa án thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý” của GS.TS
Nguyễn Đăng Dung [10]. Tác giả nhấn mạnh chức năng, nhiệm vụ của Tòa án là
phải bảo vệ công lý, sự công bằng, nêu rõ sự tiến bộ vượt bậc của Hiến pháp năm
2013 khi ghi nhận Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người và bảo vệ quyền công dân. Tác giả còn cho rằng, Tòa án phải
nhân danh công lý trong xét xử, chứ không phải nhân danh nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam.
Bài viết: “Quyền hành pháp theo Hiến pháp năm 2013: những vấn đề cần tiếp
tục hoàn thiện” của PGS.TS Bùi Xuân Đức [18]. Tác giả đã phân tích về quyền
hành pháp và tổ chức quyền hành pháp theo Hiến pháp năm 2013; sự thể hiện
quyền hành pháp trong mô hình tổ chức QLNN theo Hiến pháp năm 2013. Tác giả
đề xuất trong thời gian tới cần có các quy định pháp luật xác định đúng tính chất, vị
trí của Chính phủ, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm và mối quan hệ qua lại giữa
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với các thiết chế quyền lực khác; xác định rõ tính
11
chất, vai trò và các mối quan hệ giữa Chính phủ và các Bộ. Xác định rõ mối quan
hệ giữa Chính phủ (Trung ương) với chính quyền địa phương (CQĐP) (địa phương)
và quy định rõ cơ chế chịu trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên Chính phủ.
Hai là, các công trình nghiên cứu về kiểm soát QLNN, kiểm soát quyền hành
pháp, quyền tư pháp
Cuốn sách: “Sự hạn chế QLNN” của tác giả Nguyễn Đăng Dung [6]. Cuốn
sách giải thích lý do giới hạn và chỉ rõ nội dung giới hạn QLNN. Những trình bày
của tác giả tập trung làm rõ tính pháp quyền và đòi hỏi của tính pháp quyền đối với
hạn chế QLNN. Vấn đề cốt lõi là khâu tổ chức thực hiện, nghĩa là phải xác định rõ
ràng sự phân công QLNN. Tuy nhiên, sẽ khó có thể có hiệu quả nếu sự phân công
đó không gắn liền với sự giám sát QLNN. Những mô hình và giá trị của việc thực
hiện các mô hình tổ chức QLNN trên thế giới sẽ là chỉ dẫn quan trọng cho Việt
Nam tham khảo kinh nghiệm. Gợi ý của tác giả liên quan đến nhiều vấn đề (bao
gồm cả sự tổ chức QLNN cũng như thực hiện QLNN); nhưng chưa bao hàm kiểm
soát QLNN với việc thể hiện rõ nét vai trò của từng loại CQNN.
Cuốn sách: “QLNN và quyền công dân” của PGS.TS Đinh Văn Mậu [31].
Trên cơ sở khẳng định trách nhiệm bảo đảm quyền con người, quyền công dân của
nhà nước, tác giả nhấn mạnh việc bảo đảm, bảo vệ các quyền này được thực hiện
thông qua ba quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp). QLNN có khả năng bắt buộc cư
dân phải phục tùng ý chí của nhà nước, điều này sẽ xảy ra xu hướng dễ lạm quyền.
Vì vậy, phải kiểm soát đối với các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp để bảo đảm
quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân không bị xâm phạm. Mặc dù có đề cập
tới nhu cầu phải kiểm soát QLNN nhưng công trình này không đi sâu phân tích về
vấn đề này.
Công trình khoa học: “Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước” của tác giả
Nguyễn Đăng Dung, đề cập tới một số phương thức kiểm soát QLNN [8]. Trên cơ
sở luận chứng về sự cần thiết của nhà nước đối với xã hội và khẳng định nhà nước
luôn luôn có xu hướng lạm quyền, sự tha hoá của QLNN. Để tránh sự lạm quyền,
phải chế ước quyền lực bằng cơ chế của hiến pháp, pháp luật và phân chia quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp thành ba nhánh quyền lực để chế ước lẫn nhau, bảo
đảm các nhánh quyền lực không được lạm quyền, thực hiện “quyền lực giám sát
12
quyền lực”. Vì vậy, để thực hiện “quyền lực giám sát quyền lực” có hiệu quả, bắt
buộc phải xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền và giám sát xã hội đối với
QLNN. Trên cơ sở lý luận cũng như thực tiễn hệ thống chính trị Hoa Kỳ, tác giả đã
khảo cứu và đưa ra các kiến nghị về chế ước QLNN Việt Nam. Tuy nhiên dưới góc
độ chủ yếu phân tích về chế độ trách nhiệm của nhà nước, tác giả chú tâm nghiên
cứu về phân chia quyền lực và quyền lực chế ước quyền lực trong bộ máy nhà
nước, chưa đi sâu nghiên cứu cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực
hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam.
Sách chuyên khảo: “Kiểm soát QLNN một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay” của TS Trịnh Thị Xuyến [68]. Tác giả tiếp cận vấn đề kiểm soát
QLNN dưới góc độ chính trị học. Trên phương diện này, nhiều nội dung đã được
tác giả phân tích, liên quan trực tiếp tới kiểm soát QLNN như làm rõ vấn đề lý luận
(có đối chiếu, so sánh với vấn đề tương tự của một số nước); thực trạng (bao gồm cả
thành tựu và hạn chế); phương hướng, giải pháp chủ yếu trong kiểm soát QLNN ở
Việt Nam. Mặc dù đã trình bày tương đối cụ thể về vấn đề này, song tác giả cũng
chưa đề cập một cách rõ ràng nội dung, yêu cầu của cơ chế kiểm soát QLNN giữa
cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam.
Công trình khoa học: “Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của nhóm tác giả,
do Lê Minh Thông làm chủ biên [52]. Trên cơ sở kết quả công trình khoa học cấp
Nhà nước, các tác giả chỉ rõ tính gắn bó chặt chẽ, mật thiết giữa đổi mới hệ thống
chính trị với đổi mới các mối quan hệ cơ bản ...mô hình nhà nước phong kiến Việt Nam và ở một số
nước khác. Cơ chế giám sát QLNN, trong đó có cơ chế giám sát QLNN từ Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức thành viên và nhân dân, các giải pháp cụ thể giám sát QLNN,
khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, hình thức, các bộ phận hợp thành thể chế
pháp lý về kiểm soát QLNN. Cơ sở lý luận xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm
soát QLNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hai là, những vấn đề còn có các ý kiến khác nhau
Tuy đã đề cập đến vấn đề QLNN, kiểm soát QLNN, cơ chế kiểm soát QLNN
nhưng trong các công trình khoa học đã công bố còn có nhiều ý kiến, quan điểm
khác nhau. Các vấn đề có quan điểm khác nhau như: Khái niệm quyền hành pháp,
quyền tư pháp; cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; nội dung
quyền hành pháp, quyền tư pháp; mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; phương thức thực hiện và phương thức
kiểm soát QLNN giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp
26
Ba là, những vấn đề chưa được nghiên cứu
Cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và
quyền tư pháp ở Việt Nam chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện.
Do đó, nhiều vấn đề chưa được giải thích, trình bày cụ thể, rõ ràng như: Các yếu tố
cấu thành, mối quan hệ giữa các yếu tố và điều kiện bảo đảm cho cơ chế pháp lý
kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền tư pháp và quyền tư pháp; thực
trạng cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền tư pháp và
quyền tư pháp ở Việt Nam từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực đến nay; các
quan điểm và giải pháp xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN
giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và phát huy dân chủ, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Từ đó, có thể khẳng định, kết quả nghiên
cứu của các công trình đã công bố là chất liệu và nền tảng vô cùng quý báu để tác
giả luận án kế thừa và phát triển.
Trong tiến trình đổi mới đất nước, yêu cầu hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm
soát các CQNN trong việc thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp với những
đặc trưng về chế độ chính trị, đặc điểm kinh tế, lịch sử, văn hóa là một yêu cầu tất
yếu và là một trong những trọng tâm của đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Kể từ khi Quốc hội ban hành Hiến pháp năm 2013, trong đó có
ghi nhận nội dung về “kiểm soát các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp” thì chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào
đề cập chuyên sâu, dưới góc độ tiếp cận là chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật, về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa các cơ quan thực hiện
quyền hành pháp và quyền tư pháp.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu
Trong phạm vi luận án tiến sĩ luật học, các vấn đề mà luận án cần tiếp tục
nghiên cứu bao gồm:
- Khái niệm, nội dung quyền hành pháp; khái niệm, nội dung quyền tư pháp;
phân biệt giới hạn giữa quyền hành pháp và quyền hành chính. Việc xác định rõ
khái niệm quyền hành pháp, quyền tư pháp và phân biệt giữa quyền hành pháp và
27
quyền hành chính có ảnh hưởng quan trọng tới việc xác định cơ chế pháp lý kiểm
soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
- Khái niệm cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và quyền tư pháp; làm rõ sự khác nhau giữa cơ chế pháp lý về kiểm soát
QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp với các cơ chế
kiểm soát QLNN khác.
- Nội dung và những yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN
giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
- Phương thức vận hành của cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
- Thể chế, thiết chế cấu thành cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Giả thuyết khoa học:
Cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp
và quyền tư pháp đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát QLNN. Tuy nhiên, trên
thực tế, cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành
pháp và tư pháp ở Việt Nam chưa phát huy đúng vai trò trong kiểm soát QLNN.
Việc hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và quyền tư pháp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kiểm soát QLNN nói
chung, kiểm soát việc thực hiện các quyền hành pháp, tư pháp nói riêng, góp phần
bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Câu hỏi nghiên cứu
Luận án tập trung trả lời cho các câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và quyền tư pháp gồm có nội dung gì? Vai trò của cơ chế này trong kiểm
soát QLNN, bảo vệ quyền con người, quyền công dân?
Câu hỏi 2: Quy định của pháp luật về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay đã đạt được
kết quả gì và còn những hạn chế chủ yếu nào? Đâu là những nguyên nhân chủ yếu
của các hạn chế?
28
Câu hỏi 3: Cần thực hiện những giải pháp nào để hoàn thiện cơ chế pháp lý về
kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước
ta hiện nay?
Tiểu kết chương 1
Với mục tiêu tìm kiếm mô hình tổ chức, kiểm soát QLNN một cách hiệu lực,
hiệu quả, để thiết lập một xã hội dân chủ, văn minh, bộ máy nhà nước hoạt động
tuân thủ pháp luật, ghi nhận và bảo đảm quyền con người, thì đề tài kiểm soát
QLNN nói chung, kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và
quyền tư pháp nói riêng rất hấp dẫn đối với các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực
(chính trị học, luật học, xã hội học) trong và ngoài nước. Qua khảo cứu đã cho
thấy, liên quan đến vấn đề này, đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước và
quốc tế đề cập ở những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, từ thực tiễn Việt Nam, với
nhiều điểm mới quan trọng, trong đó có nội dung yêu cầu kiểm soát QLNN giữa
các CQNN trong việc thực hiện ba quyền thì việc nghiên cứu chuyên sâu về cơ chế
pháp lý kiểm soát QLNN giữa hai nhóm CQNN, bao gồm cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và quyền tư pháp theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 còn là vấn đề
mới trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân ở nước ta hiện nay. Các kết quả nghiên cứu về QLNN, kiểm
soát QLNN của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước là nền tảng, chất liệu vô
cùng quý báu cho tác giả luận án khi triển khai nghiên cứu đề tài.
Với mục đích và những nội dung nghiên cứu của đề tài luận án đã được tác giả
phân tích ở phần trên, có thể khẳng định đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu,
có hệ thống về vấn đề hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
29
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN
QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN, ĐẶC ĐIỂM, CƠ CẤU, VAI TRÒ CƠ
CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC
HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP
2.1.1. Khái niệm quyền hành pháp, quyền tư pháp; nội dung, đặc điểm,
vai trò của quyền hành pháp, quyền tư pháp
2.1.1.1. Khái niệm quyền hành pháp, quyền tư pháp
- Khái niệm quyền hành pháp
Trong quan niệm của các nhà khoa học trên thế giới, thuật ngữ quyền hành
pháp xuất hiện rất sớm. Đó là quyền “quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi
các nước, thiết lập an ninh và đề phòng xâm lược” [77]; quyền hành pháp
(executive power) là “quyền bảo đảm cho các đạo luật được thực thi một cách đầy
đủ. Theo luật liên bang, quyền này được trao cho Tổng thống, còn ở các bang,
quyền này được trao cho các thống đốc” [73]; “quyền hành pháp là thẩm quyền
thực thi các đạo luật và bảo đảm rằng các đạo luật này được thi hành như ý định đặt
ra các đạo luật ấy” [72].
Ở Việt Nam, thuật ngữ quyền hành pháp được ghi nhận chính thức trong các
văn kiện chính trị - pháp lý. Từ năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu rõ: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền đó” [13].
Tiếp đó, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), bước đầu thể chế hóa trong
văn bản pháp lý có giá trị cao nhất rằng: “QLNN là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”. Đến Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “QLNN là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp” (khoản 3 Điều 2); Chính phủ “thực hiện quyền hành pháp”
(Điều 94); Tòa án nhân dân “thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102) [42].
30
Giải thích về quyền hành pháp, có nhiều quan điểm khác nhau:
Trong Từ điển luật học, quyền hành pháp được hiểu là “quyền quản lý hành
chính nhà nước về mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia” [64]. Theo đó,
quyền hành pháp được đồng nghĩa với quyền hành chính.
Trong các công trình khoa học, các nhà khoa học có các cách giải thích
khác nhau:
GS.TS Nguyễn Đăng Dung khẳng định quyền hành pháp chính là “quyền
hoạch định và điều hành chính sách quốc gia” [11] và giải thích hoạch định chính
sách là “vạch ra những mục tiêu tổng quát cho quốc gia và điều hành chính sách
quốc gia”, là vận dụng các phương tiện để đạt được mục tiêu đó. Do đó, thành tố cơ
bản của quyền hành pháp sẽ bao gồm: Quyền trình dự án luật, quyền lập quy và
quyền truy tố, xử lý các vi phạm pháp luật. Đồng thuận với quan điểm này, TS Trần
Anh Tuấn giải thích “quyền hành pháp” là “quyền năng trực tiếp trong hoạch định,
đệ trình chính sách và thực thi chính sách” [59].
GS.TS Thái Vĩnh Thắng nêu quan điểm đồng nhất “hành pháp” và “hành
chính công” [51]. Tuy nhiên, hành pháp không chỉ đơn thuần là chức năng tổ chức
thực hiện pháp luật; mà bao gồm nhiều hoạt động từ việc xác lập đường lối, chính
sách, đến việc tổ chức thực thi hiến pháp, luật, xây dựng duy trì hoạt động của bộ
máy công quyền, tổ chức quản lý dịch vụ công, tài sản nhà nước và tổ chức kiểm
tra, thanh tra, kiểm toán [51, tr.96, 97].
GS.TS Phạm Hồng Thái khẳng định “quyền hành pháp” chính là “quyền điều hành
đất nước” một cách liên tục, không ngưng trệ [50]; “quyền hành pháp được phân công
tới các CQNN ở địa phương, tới cộng đồng lãnh thổ” [50] nên được thực hiện bởi “toàn
bộ hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương và cả các cơ
quan QLNN ở địa phương - Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp” [50].
GS.TS Trần Ngọc Đường cho rằng: “Chính phủ không phải chỉ có chấp hành
(hành chính) mà trước hết là hành pháp, tức là chủ thể chủ động, sáng tạo trong việc
xây dựng và thực thi chính sách quốc gia Chính phủ mạnh là Chính phủ phải
không ngừng nâng cao năng lực xây dựng chính sách, pháp luật và chủ động trong
việc đề xuất, chỉ đạo việc soạn thảo, thẩm định chính sách” [21].
31
TS Cao Anh Đô lập luận về “bản chất cai trị” của quyền hành pháp trên hai
phương diện: Thực hiện quản lý hành chính công và đề xuất ban hành hoặc tự mình
ban hành chính sách theo quy định của pháp luật [16].
Thậm chí, có quan điểm cho rằng “trong khi chưa tìm được các thuật ngữ có
khả năng diễn đạt ngắn gọn và đúng nhất nội dung và tính chất của loại quyền lực
này, để tiện cho việc nghiên cứu và vận dụng vào việc giải quyết các vấn đề thực
tiễn thì cần thiết phải mở rộng nội dung của các khái niệm quyền hành pháp thành
khái niệm quyền thi hành pháp luật và hành chính (có thể gọi là quyền hành pháp và
chính sự)” [47].
Qua phân tích các quan điểm nêu trên cho thấy, mặc dù ở các giác độ khác
nhau, với những sự khác biệt nhất định khi giải thích về quyền hành pháp do cách
tiếp cận khác nhau, thì các nhà khoa học đều có một số thống nhất chung trong
quan niệm về quyền hành pháp đó là:
Thứ nhất, quyền hành pháp bao gồm hoạt động cơ bản là hoạch định chính
sách và điều hành chính sách quốc gia.
Thứ hai, quyền hành pháp không thụ động trong việc điều hành chính sách mà
còn chủ động trong việc hoạch định, đề xuất chính sách trình cơ quan lập pháp phê
chuẩn, làm cơ sở cho việc điều hành chính sách.
Nghiên cứu sinh cho rằng, quyền hành pháp được đề cập ở đây là một bộ phận
của QLNN, trong đó QLNN được hợp thành bởi ba quyền (quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp). Do đó, để làm rõ nội hàm của quyền hành pháp, cần
phải dựa trên yếu tố chung, cốt lõi của QLNN; đồng thời, phân biệt được một cách
tương đối với các nhánh quyền lực khác, để khẳng định bản chất vốn có quyền hành
pháp - thứ quyền lực mạnh mẽ, tạo nên sức sống của các đạo luật, các chính sách
bởi sự tổ chức và vận hành của hệ thống cơ quan riêng - cơ quan thực hiện quyền
hành pháp.
Với tư cách là bộ phận hợp thành của QLNN, quyền hành pháp phải thể hiện
bản chất của QLNN. QLNN là công cụ của quyền lực chính trị, thể hiện tập trung
quyền lực chính trị, được thực hiện bởi nhà nước, thông qua bộ máy nhà nước, với
nhiều công cụ, phương tiện khác nhau để bảo đảm thực hiện chính sách, pháp luật.
QLNN có đặc điểm cơ bản là luôn luôn gắn liền với sự tồn tại của chính quyền nhà
32
nước; được phân chia thành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; do giai cấp
nhất định tổ chức thực hiện; được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà
nước. Vì thế, quyền hành pháp cũng phải phản ánh yếu tố này, với biểu hiện cụ thể
khả năng, sức mạnh bảo đảm của nhà nước đối với hoạt động của những chủ thể
mang QLNN, tác động tới một lĩnh vực, hoạt động nhất định (hành pháp).
Với yếu tố đặc thù, quyền hành pháp phải là bộ phận QLNN có trách nhiệm
chấp hành và tổ chức thực thi các đạo luật. Vì thế, quyền hành pháp phải có các bộ
phận chấp hành, triển khai trên thực tế các đạo luật đó, một bộ phận rất đông đảo,
được tổ chức thành hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương để hiện thực
hóa các đạo luật. Tuy nhiên, với bản chất năng động, sáng tạo, để phù hợp với thực
tiễn đa dạng, quyền hành pháp không phải là một loại quyền thụ động, nên nó cũng
có khả năng xây dựng pháp luật theo phương diện ủy quyền lập pháp (với nghĩa là
ban hành các văn bản pháp quy theo sự ủy quyền của cơ quan lập pháp). Bên cạnh
đó, quyền hành pháp bao hàm cả việc hoạch định các chính sách để điều hành, quản
lý đất nước. Điều này phù hợp với quan điểm pháp luật thực định của Việt Nam khi
thừa nhận Chính phủ có những quyền nhất định trong việc trình Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội (UBTVQH) các đề xuất, dự án, xây dựng chính sách cũng như
quyết định theo thẩm quyền những vấn đề nhất định. Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo
việc xây dựng chính sách. Trên phương diện hoạch định chính sách, thẩm quyền đó
thuộc về Chính phủ và người đứng đầu Chính phủ.
Từ các phân tích trên, có thể khái niệm quyền hành pháp như sau: Quyền hành
pháp là một bộ phận hợp thành của QLNN, có nhiệm vụ xây dựng và thực thi chính
sách, quản lý, điều hành đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với
nội dung trọng tâm là hoạch định và điều hành chính sách quốc gia; được thực hiện
bởi các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Nghiên cứu về quyền hành pháp, cần phân biệt với quyền hành chính. Đây
cũng là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm. GS.TS Nguyễn Đăng Dung cho
rằng “hành chính” là thuật ngữ được dùng để chỉ “hoạt động chấp hành chính sách
của các công chức” [11]. GS.TS Phạm Hồng Thái cho rằng quyền hành chính là
“quyền điều hành, tổ chức đưa các chính sách và pháp luật vào đời sống xã hội
bằng các hoạt động mang tính tổ chức - pháp lý... Quyền lực hành chính là quyền
33
lực trong hành động để thực hiện quyền hành pháp thông qua việc ban hành các
quyết định hành chính... tính đặc thù của quyền lực hành chính: Tính thứ bậc; tính
hệ thống; tính liên tục” [50]. TS. Cao Anh Đô nêu rõ quyền hành chính là một bộ
phận (và là một biểu hiện) của “quyền hành pháp”; “một Chính phủ chỉ thực hiện
chức năng hành chính thì Chính phủ đó chưa thực sự nắm quyền hành pháp trong
bộ máy nhà nước” [16, tr.20]. Như vậy, quyền hành chính là quyền quản lý, điều
hành các mặt, các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; có những điểm tương
đồng với quyền hành pháp song không đồng nhất. Trong đó, quyền hành pháp phản
ánh mối quan hệ của QLNN ở cấp độ cao nhất, hợp thành QLNN; quyền hành
chính phản ánh mức độ thấp hơn khi triển khai QLNN từ trung ương xuống địa
phương, được xem như là phương tiện để thực hiện quyền hành pháp; gắn với quá
trình quản lý, điều hành, phục vụ của toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước. Chủ thể quan trọng nhất của quyền hành pháp là Chính phủ, còn chủ thể của
quyền hành chính là toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà nước các cấp, thậm
chí còn bao hàm cả các chủ thể khác khi các chủ thể này thực hiện việc quản lý,
điều hành.
- Khái niệm quyền tư pháp
Quyền tư pháp là một trong ba nhánh QLNN (quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp), được xem như là một thiết chế nhằm bảo đảm cân bằng
quyền lực, chống sự lạm quyền trong sử dụng QLNN. Quyền tư pháp trong đời
sống chính trị - pháp lý có một ý nghĩa rất quan trọng, do đó, việc minh định, làm rõ
nội hàm của khái niệm này luôn nhận được sự quan tâm của các chuyên gia, nhà
khoa học và được phản ánh trong nhiều công trình khoa học.
Trên thế giới, quan niệm phổ biến cho rằng quyền tư pháp là một trong ba
nhánh quyền lực, được trao cho Tòa án thực hiện. Montesquieu với tác phẩm “Tinh
thần pháp luật” đã giải thích quyền tư pháp trên cơ sở phân biệt với quyền lập pháp
và quyền hành pháp. Theo đó, quyền tư pháp là quyền mà “nhà vua hay pháp quan
trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân” [77]. Trong các hình thức
chính thể, sự biểu hiện về quyền tư pháp cũng có những khác biệt cơ bản. Ở chính
thể cộng hòa tổng thống, tiêu biểu như Hoa Kỳ, quyền tư pháp được trao cho Tòa
án tối cao và cho những tòa án ở cấp thấp hơn. Tòa án Hoa Kỳ là biểu hiện đặc
34
trưng của quyền tư pháp trong mô hình tam quyền phân lập, với sự độc lập rất cao
của nhánh quyền lực này. Ở chính thể cộng hòa đại nghị, với nguyên tắc phân
quyền mềm dẻo, sự độc lập của quyền tư pháp vẫn được ghi nhận nhưng không
cứng rắn. Điều này biểu hiện rõ nét ở việc Thượng nghị viện là cấp xét xử cao nhất
và sự tồn tại của Tòa án hiến pháp. Như vậy, Tòa án không phải là cơ quan duy nhất
thực hiện quyền tư pháp. Ở chính thể cộng hòa lưỡng tính, tồn tại mô hình Hội đồng
bảo hiến, như là một cơ chế bảo vệ Hiến pháp, song lại thiếu tính công khai và tranh
tụng. Dù tổ chức theo mô hình nào thì quyền tư pháp trong nhà nước tư sản vẫn
được xem là một nhánh quyền lực, với đặc trưng là hoạt động xét xử, được thực
hiện bởi một hoặc một số cơ quan nhất định. Trong đó, Tòa án với hoạt động xét xử
luôn giữ vị trí trung tâm.
Ở Việt Nam, quyền tư pháp được đề cập trong nhiều tài liệu, công trình khoa
học như:
Theo Từ điển Luật học, dưới khía cạnh thể chế nhà nước, tư pháp là “một trong
ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong đó quyền tư pháp được hiểu đồng nghĩa
với quyền xét xử do tòa án thực hiện” [64, tr.828]; theo nghĩa chung nhất thì tư pháp
được quan niệm “như là một ý tưởng về một nền công lí, đòi hỏi việc giải quyết
những tranh chấp xảy ra trong xã hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng,
bảo đảm lòng tin của nhân dân vào xã hội và pháp luật, đảm bảo an toàn về pháp lí
cho cá nhân, tổ chức, sự ổn định và phát triển của xã hội” [64, tr.828].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, tư pháp được giải thích ở nghĩa rất rộng,
dùng để chỉ các cơ quan tòa án trong hoạt động xét xử các hành vi vi phạm pháp
luật và các vụ kiện tụng trong nhân dân, hoạt động của các cơ quan điều tra, kiểm
sát, truy tố, xét xử và thi hành án [29].
Quyền tư pháp còn được khẳng định trong cuốn “Cải cách tư pháp vì một nền
tư pháp liêm chính”, theo đó, “bản chất của tư pháp là công lý, những khái nhiệm
“công lý” và “tòa án” là đồng nghĩa với nhau” [62, tr.15, 16].
Nhiều nhà khoa học cũng bày tỏ quan điểm về tư pháp và quyền tư pháp trong
các công trình khoa học của mình. Trong đó, GS.TS Nguyễn Đăng Dung giải thích:
“Tư pháp là một lĩnh vực QLNN, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và
phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi
35
có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật” [7]. GS.TS Lê
Hồng Hạnh nêu quan điểm: “Trong cơ chế phân công quyền lực, quyền tư pháp
được hiểu là quyền của Nhà nước xác định và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
và thực thi công lý thông qua các thể chế phù hợp. Thiết chế này có chức năng cơ
bản nhất, nếu không muốn nói là duy nhất, thay mặt xã hội thực thi công lý và nó
phải được tổ chức, được giao nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện công việc một cách
độc lập tối đa có thể; và công lý phải được thực thi trong mắt nhân dân. Thiết chế
thực thi công lý bao gồm các Thẩm phán” [26]
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng có thể thấy, quyền tư pháp
được hiểu theo ba dạng quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: Quyền tư pháp được hiểu là hoạt động xét xử của Tòa án
và những hoạt động của các cơ quan, tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động
xét xử của Tòa án, nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ chế độ, trật tự pháp luật, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, cá nhân và và xã
hội. Theo quan điểm này, thì quyền tư pháp được thực hiện bởi nhiều chủ thể với
những hoạt động khác nhau: Hoạt động xét xử, điều tra, truy tố và các hoạt động bổ
trợ tư pháp khác như: Bào chữa, công chứng, giám định, tư vấn pháp luật.
Quan điểm thứ hai: Quyền tư pháp là quyền mà Nhà nước giao cho các cơ
quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh
doanh, thương mại, lao động theo trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp, bao gồm các
thủ tục tố tụng hình sự, thủ tục tố tụng dân sự, thủ tục tố tụng hành chính Việc
thực hiện quyền tư pháp luôn gắn liền với chức năng xét xử của Tòa án mà không
bao trùm cả chức năng điều tra, chức năng công tố.
Quan điểm thứ ba: Quyền tư pháp là lĩnh vực QLNN được thực hiện thông
qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi,
quyết định áp dụng pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các
chủ thể pháp luật.
Với mỗi quan điểm sẽ dẫn đến các quan niệm về cơ quan thực hiện quyền tư
pháp khác nhau. Theo chúng tôi, vì quyền tư pháp đều được thừa nhận là một bộ
phận hợp thành QLNN nên cần xem xét nội hàm quyền tư pháp trong mối quan hệ
với QLNN mà cụ thể là trong mối quan hệ với quyền lập pháp và quyền hành pháp.
36
Vì thế, trên cơ sở quyền lập pháp - ghi nhận ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân
dân bằng thể chế; quyền hành pháp - tổ chức thực hiện thể chế; thì quyền tư pháp
phải thể hiện được việc bảo vệ công lý, bảo vệ lợi ích đó bằng việc phán xét các
hành vi của cá nhân, hoạt động của tổ chức có vi phạm pháp luật không, để đưa ra
các chế tài phù hợp nhằm bảo vệ thể chế đó. Sự phân tích này bắt nguồn từ nguyên
tắc chủ quyền nhân dân. Do đó, quyền tư pháp phải có chức năng, nhiệm vụ bảo vệ
công lý nói chung, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ
chức nói riêng. Quyền tư pháp phải được trao cho và thực hiện bởi những cơ quan
nhất định. Với trọng tâm là hoạt động xét xử nên tòa án sẽ là cơ quan tư pháp, nhân
danh công lý, thực hiện quyền tư pháp. Tuy nhiên, tùy thuộc vào mô hình tổ chức
QLNN và thực tiễn một số nước mà quyền tư pháp còn được trao cho các cơ quan
bảo vệ pháp luật khác, nhưng tòa án vẫn là cơ quan giữ vị trí trung tâm.
Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định về vai trò của TAND trong
thực hiện quyền tư pháp: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp” [42]. Trong thực tiễn đời sống pháp lý của nước ta,
quyền tư pháp cũng được hiểu là quyền xét xử của Tòa án nhằm bảo vệ công bằng,
công lý và bảo đảm cho sự thống nhất của QLNN. Do đó, xét về nội dung trọng
tâm, quyền tư pháp là quyền xét xử, quyền phán xét đối với các hành vi vi phạm
pháp luật. Tuy nhiên, quyền tư pháp không chỉ giới hạn ở quyền xét xử mà với chức
năng bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo
vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thì quyền
tư pháp còn phải bao hàm cả các hoạt động khác của Tòa án trong bảo vệ pháp luật
như đánh giá về tính hợp pháp hay không của các hành vi, quyết định tố tụng do các
cơ quan tham gia hoạt động tư pháp thực hiện, giải thích pháp luật
Từ sự phân tích trên, có thể khẳng định, cần hiểu quyền tư pháp là một bộ
phận hợp thành của QLNN, có nhiệm vụ duy trì, bảo vệ công lý, trật tự pháp luật,
do Tòa án thực hiện với hoạt động trọng tâm là hoạt động xét xử.
Trong mối quan hệ với quyền lập pháp; quyền tư pháp ngăn cản việc ban hành
các đạo luật không phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm các đạo luật được ban hành
phải thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Trong mối quan hệ với quyền
hành pháp; quyền tư pháp bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, trừng trị các
37
hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ trật tự pháp luật; khi cần, thông qua hoạt động xét
xử, quyền tư pháp tạo ra các án lệ nhất định.
2.1.1.2. Nội dung, đặc điểm, vai trò của quyền hành pháp
- Nội dung của quyền hành pháp
Xuất phát từ khái niệm quyền hành pháp là một bộ phận hợp thành của
QLNN, có nhiệm vụ xây dựng và thực thi chính sách quản lý, điều hành đất nước
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với nội dung trọng tâm là hoạch định và
điều hành chính sách quốc gia; được thực hiện bởi các cơ quan trong bộ máy nhà
nước; cho nên, nội dung quyền hành pháp bao gồm:
Thứ nhất, quyền đề xuất, xây dựng chính sách và trình dự án luật
Quyền đề xuất, xây dựng chính sách chứa đựng nội dung hoạch định chính
sách theo giới hạn của quyền hành pháp. Trong đó, việc đề xuất, xây dựng chính
sách được giao cho cơ quan nhất định. Ở Việt Nam, cơ quan này là Chính phủ và
người chịu trách nhiệm là người đứng đầu Chính phủ. Những chính sách được đệ
trình lên có tầm quan trọng đặc biệt, với phạm vi tác động rộng lớn. Vì thế, những
chính sách này thường được liệt kê trong pháp luật. Đó có thể là chính sách cơ bản
về dân tộc, tôn giáo, tài chính, tiền tệ Những chính sách này sau đó sẽ được thể
hiện trong văn bản có tên gọi là Luật.
Bên cạnh đó, quyền hành pháp còn bao gồm cả quyền trình dự án luật. Những
dự án luật là những dự án quy định về các vấn đề tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; các chính sách
của nhà nước và các vấn đề khác như trưng cầu ý dân, cơ chế bảo vệ hiến pháp
Quyền trình dự án luật xuất phát từ quá trình thực thi quyền hành pháp. Ngoài việc
tổ chức thi hành Hiến pháp, các đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành, cơ quan
thực thi quyền hành pháp còn chủ động tổng kết, nghiên cứu thực tiễn đời sống kinh
tế - xã hội, dự thảo và đệ trình các dự án luật để cơ quan thực thi quyền lập pháp tổ
chức phê chuẩn hoặc thông qua. Các đạo luật sau khi được thông qua quay trở lại
làm căn cứ để các cơ quan, tổ chức thực hiện, trong đó có cơ quan thực hiện quyền
hành pháp triển khai trên thực tế. Bên cạnh đó, các chính sách cũng được đệ trình
bởi cơ quan thực hiện quyền hành pháp là Chính phủ. Quy định của pháp luật hiện
hành của Việt Nam xác định Chính phủ đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc
38
hội, UBTVQH quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền; trình dự án luật, dự án
ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ “lãnh
đạo việc xây dựng chính sách” [42].
Như vậy, trong quá trình tổ chức thực hiện, cơ quan thực hiện quyền hành
pháp không chỉ thụ động thực thi các đạo luật do cơ quan thực hiện quyền lập pháp
phê chuẩn, ban hành, mà còn chủ động xây dựng và đệ trình các dự án luật có liên
quan đến quá trình thực hiện quyền hành pháp, nhằm tạo cơ sở pháp lý để quyền
hành pháp được thực thi một cách thống nhất, trong khuôn khổ luật định, cũng như
xây dựng và củng cố các căn cứ pháp lý vững chắc cho việc truy tố giúp Tòa án xét
xử hoặc chủ động xử lý những hành vi vi phạm pháp luật để bảo đảm cho pháp luật
được thực hiện một cách nghiêm minh.
Thứ hai, quyền lập quy
Quyền lập quy là quyền ban hành những văn bản pháp quy dưới luật, để cụ
thể hoá luật do các cơ quan lập pháp ban hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Ở mỗi quốc gia, quyền lập quy được trao cho các cơ quan hành chính nhà
nước và các cơ quan khác của nhà nước. Đây là quyền của các cơ quan có thẩm
quyền của nhà nước trong việc ban hành văn bản trên cơ sở và để thi hành hiến
pháp và luật của cơ quan lập pháp. Quyền lập quy được trao cho cơ quan thực
hiện quyền hành pháp, người đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp và các thành
viên của cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Tùy thuộc ở địa vị pháp lý khác
nhau, quyền lập quy của mỗi chủ thể bị giới hạn bởi phạm vi áp dụng nhất định
(không gian, thời gian).
Khi thực hiện quyền lập quy, cơ quan thực hiện quyền hành pháp căn cứ Hiến
pháp, luật để xây dựng và ban hành văn bản pháp quy, bảo đảm các văn bản này
phải được ban hành trên cơ sở Hiến pháp, luật và để hướng dẫn thi hành các luật.
Để bảo đảm được điều này, quá trình lập quy cần được giám sát chặt chẽ của quyền
lập pháp và quyền tư pháp. Đặc biệt là sự giám sát của quyền lực tư pháp, đây chính
là sự giám sát dân chủ nhất, minh bạch nhất và khoa học nhất, hiệu lực nhất, bởi
giám sát tư pháp không chỉ với quyền lập quy của cơ quan thực hiện quyền hành
pháp, mà nó còn có hiệu lực ngay cả với các đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành,
nếu các đạo luật trái vớ...gia tăng (chỉ riêng từ năm 2015 đến nay số lượng bản án, quyết
định không được thi hành đã từ trên 250.000 việc tăng lên trên 320.000 việc, bình
quân mỗi năm có hàng chục ngàn bản án, quyết định không được thi hành), nên về
153
lâu dài, thiết chế này sẽ không phù hợp, có thể làm ảnh hưởng xấu không chỉ đối
hoạt động thi hành án mà cả đối với hoạt động xét xử, do việc tách rời quá trình đi
đến công lý giao cho hai cơ quan khác nhau; Tòa án chỉ biết xét xử, không cần biết
sản phẩm của mình có đi vào thực tế cuộc sống hay không; cơ quan hành pháp có tổ
chức thi hành hay không, hiệu quả đến đâu Tòa án không thể kiểm soát được. Do
đó, cần phải xây dựng thiết chế để Tòa án chịu trách nhiệm đến cùng đối với quá
trình bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Để thực hiện được
mục tiêu này, thì cần phải giao cho Tòa án trách nhiệm tổ chức thi hành tất cả các
bản án, quyết định mà mình đã ban hành.
Tiểu kết chương 4
Chương 4 của luận án đã trình bày về quan điểm và giải pháp xây dựng và
hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa các cơ quan thực hiện quyền hành
pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam.
Trong đó, về quan điểm, tác giả khẳng định cần dựa trên các quan điểm sau:
Xây dựng cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành
pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp phải đáp ứng đòi hỏi của công cuộc cải
cách hành chính và cải cách tư pháp; bảo đảm tính năng động, sáng tạo của cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và tính độc lập trong xét xử của cơ quan thực hiện
quyền tư pháp; phải tiến hành đồng bộ với xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý
kiểm soát QLNN nói chung; đồng bộ giữa kiểm soát bên trong (kiểm soát trong mỗi
quyền) với kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền.
Về giải pháp, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp: Các giải pháp chung; Đổi
mới nhận thức về kiểm soát QLNN và cơ chế kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực
hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp; Đổi mới tổ chức và hoạt
động của các thiết chế thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp.
154
KẾT LUẬN
Kiểm soát QLNN giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư
pháp được hiểu là cơ chế chính trị - pháp lý do các chủ thể có đủ năng lực pháp
luật và thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm QLNN được thực hiện thống nhất,
thông suốt, phát huy hiệu lực, hiệu quả thực tiễn. Hiến pháp năm 2013 là cơ sở
pháp lý cao nhất, công cụ quan trọng nhất để hình thành cơ chế kiểm soát chặt chẽ
QLNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân.
Ngay sau khi có Hiến pháp năm 2013, hoạt động kiểm soát QLNN giữa các cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp bước đầu đã được thể chế hóa.
Trên cơ sở Hiến pháp, các luật về tổ chức Chính phủ và tổ chức TAND được ban
hành. Thông qua các đạo luật này, cơ chế kiểm soát QLNN trong việc thực hiện
quyền hành pháp và tư pháp ra đời, góp phần kiểm soát QLNN trong bảo vệ quyền
con người, quyền công dân.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế
quốc tế, nhất là yêu cầu phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, cơ chế pháp lý kiểm
soát QLNN giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp chưa
được hình thành một cách đầy đủ, còn thiếu đồng bộ, thống nhất, nội dung của
cơ chế pháp lý còn chung chung; chưa nhận thức sâu sắc kiểm soát QLNN là
nguyên tắc quan trọng nhất trong tổ chức và thực thi QLNN theo tinh thần Hiến
pháp năm 2013.
Luận án “Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực
hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam” đã nghiên cứu một cách toàn
diện các vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến kiểm soát QLNN; vấn đề kiểm soát
quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp với cơ quan thực hiện quyền tư
pháp, đặc biệt nghiên cứu, đánh giá sâu về thể chế pháp lý, thiết chế kiểm soát
quyền lực và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền
lực giữa nhánh quyền hành pháp và tư pháp.
155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phạm Hồng Phong (2014), “Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, bước đột phá
trong cải cách tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (20), tr.16-20.
2. Phạm Hồng Phong (2014), “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm
2013”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (3), tr.77-80.
3. Phạm Hồng Phong (2014), “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự”, Tạp
chí Lý luận Chính trị, (10), tr.39-42.
4. Phạm Hồng Phong (2015), “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
(4), tr.14-21.
5. Phạm Hồng Phong (2018), “Kiểm soát quyền tư pháp của Tòa án Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (24), tr.8-12.
6. Phạm Hồng Phong (2019), “Gợi mở về cơ chế giám sát quyền hành pháp bằng
quyền tư pháp”, Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội, (52), tr.6-19.
156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
2. Nguyễn Thị Hoài An (2019), Cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN đối với việc
thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Vũ Hồng Anh (2019), Nguyên tắc kiểm soát việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 16 (392), tháng 8/2019, tại
trang
thuc-hien-cac-quyen-lap-phap--hanh-phap.html, [truy cập ngày 12/9/2020].
4. Ban Nội chính Trung ương (2016), Tổng kết một số vấn đề lý luận - Thực tiễn
30 năm đổi mới (1986-2016) về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Chủ tịch nước (1946), Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946.
6. Nguyễn Văn Cương (2014), Bàn về quyền hành pháp trong Hiến pháp năm
2013, tại trang
phap-trong-Hien-phap-nam-2013.html, [truy cập ngày 10/9/2020].
7. Nguyễn Đăng Dung (2000), Sự hạn chế QLNN, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
8. Nguyễn Đăng Dung (2004), Thể chế Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
9. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
10. Nguyễn Đăng Dung (2014), Hiến pháp phải là văn bản kiểm soát QLNN, Tạp
chí Luật học, số 4.
11. Nguyễn Đăng Dung (2015), Tòa án thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý”,
tại trang
phap--bao-ve-cong-ly.html, [truy cập ngày 11/9/2020].
12. Nguyễn Đăng Dung (2018), Quyền hành pháp và quyền hành chính nhà nước
cao nhất, tại trang
chinh-nha-nuoc-cao-nhat-39185/>, [truy cập ngày 28/11/2018].
157
13. Nguyễn Chí Dũng (2009), Cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở
Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, tại trang: dangcongsan.vn, [truy cập
ngày 10/9/2020].
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Minh Đoan (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của
các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Cao Anh Đô (2013), “Phân công phối hợp giữa các CQNN
trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt
Nam”, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
18. Nguyễn Hữu Đổng (2018), Tuân thủ quy luật khách quan trong xây dựng cơ
chế kiểm soát QLNN ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19(371)-
tháng 10/2018), tại trang
quy-luat-khach-quan-trong-xay-dung-co-che-kiem-soat-quyen-luc-nha-nuoc-
o-Viet-Nam.html, [truy cập ngày 12/9/2020].
19. Bùi Xuân Đức (2019), Quyền hành pháp theo Hiến pháp năm 2013: những
vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 16 (392),
tháng 8/2019).
20. Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành (1994), Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân
công dân với nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Trần Ngọc Đường (2011), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
22. Trần Ngọc Đường (2012), Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với
việc sửa đổi hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
158
23. Trần Ngọc Đường (2014), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng, hoàn thiện
cơ chế kiểm soát QLNN đối với việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp ở nước ta, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội, Hà Nội.
24. Trần Ngọc Đường (2015), “QLNN là thống nhất, có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”, tại trang
[truy cập ngày 12/5/2019].
25. Trần Ngọc Đường (2017), Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát
QLNN ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 18(346)-tháng 9/2017), tại
trang
thien-co-che-kiem-soat-quyen-luc-nha-nuoc-theo-Hien-phap-nam-2013.html,
[truy cập ngày 10/10/2020].
26. Trương Thị Hồng Hà (2009), Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng
giám sát của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
27. Lê Hồng Hạnh (2015), Làm thế nào để Thẩm phán và Tòa án độc lập trong
thực thi công lý, Tạp chí Pháp luật và Phát triển, số 1/2015.
28. Nguyễn Long Hải (2017), Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở
Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
29. Hoàng Minh Hội (2019), Cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện QLNN đối
với CQĐP: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11
(387), T6/2019.
30. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa thư Việt Nam (2003),
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 3 (N-S), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
31. Nguyễn Quốc Hùng (2016), Kiểm soát quyền lực tư pháp trong Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã
hội, Hà Nội.
32. Đinh Văn Mậu (2003), QLNN và quyền công dân, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
159
33. Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp (2016), Từ điển
Luật học.
34. Trần Đình Nhã (2013), Một số vấn đề về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ
quan tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp , tại
trang
phap--hoat-dong-tu-phap---co-quan-tu-phap--kiem-sat-hoat-dong-tu-
phap.html, [truy cập ngày 12/9/2020).
35. Hoàng Thị Ngân (2019), Phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
trong thực hiện quyền hành pháp, tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 13(389),
tháng 7/2019, tại trang
phoi-hop--kiem-soat-giua-cac-co-quan-trong-thuc-hien-quyen-hanh-
phap.html, truy cập ngày 10/10/2020.
36. Phạm Hồng Phong (2018), Kiểm soát quyền tư pháp của Tòa án Việt Nam,
Nghiên cứu lập pháp số 24(376)-tháng 12/2018), tại trang
-Viet-Nam.html, [truy cập ngày 10/9/2020].
37. Vũ Văn Phúc (2020), Kiểm soát QLNN theo Hiến pháp Việt Nam, tại trang
https://tcnn.vn/news/detail/48116/Kiem-soat-quyen-luc-nha-nuoc-theo-Hien-
phap-Viet-Nam.html, [truy cập ngày 12/9/2020].
38. Vũ Văn Phúc-Hà Hữu Đức (2018), Kiểm soát QLNN theo Hiến pháp Việt
Nam, tại trang https://tcnn.vn/news/detail/48116/Kiem-soat-quyen-luc-nha-
nuoc-theo-Hien-phap-Viet-Nam.html.
39. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946), Hiến pháp,
Hà Nội.
40. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1959), Hiến pháp,
Hà Nội.
41. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Hiến pháp,
Hà Nội.
42. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992, sửa đổi năm
2001), Hiến pháp, Hà Nội.
160
43. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp,
Hà Nội.
44. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tổ chức
chính phủ, Hà Nội.
45. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tố tụng
hành chính, Hà Nội.
46. Lưu Văn Quảng (2009), Xây dựng cơ chế kiểm soát QLNN ở Việt Nam hiện
nay, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
47. Bùi Ngọc Sơn (2002), Quyền tư pháp trong chính thể hiện đại, tại trang
hien-dai.html, [truy cập ngày 10/9/2020].
48. Lê Minh Tâm (2000), “Quyền hành pháp và chức năng của quyền
hành pháp”, tạp chí Luật học số 6/2000. tr. 44
49. Nguyễn Xuân Tế (2018), Cơ chế kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay, Tạp
chí Khoa học Đại học Văn Lang, Số 10 tháng 7-2018.
50. Phạm Hồng Thái (2012), Kiểm soát giữa các CQNN trong thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Tạp chí Luật học, số 28.
51. Phạm Hồng Thái (2018), Sự liên tục của hành pháp và quyền lực hành chính,
tại trang library/get_
file?uuid=bd11d784-87c7-4423-845c-, [truy cập ngày 12/11/2018].
52. Thái Vĩnh Thắng (2011), Tổ chức và kiểm soát QLNN, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
53. Lê Minh Thông (2007), Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Đề tài khoa
học cấp nhà nước.
54. TAND tối cao (2016), Báo cáo tổng kết công tác của TAND tối cao.
55. TAND tối cao (2017), Báo cáo tổng kết công tác của TAND tối cao.
56. TAND tối cao (2018), Báo cáo tổng kết công tác của TAND tối cao.
57. TAND tối cao (2019), Báo cáo tổng kết công tác của TAND tối cao.
58. Nguyễn Ngọc Toán (2014), Quyền hành pháp của Chính phủ theo Hiến pháp
năm 2013, tại trang
phap-cua-Chinh-phu-theo-Hien-phap-nam-2013.html, [truy cập ngày
10/9/2020).
161
59. Vũ Duy Tú (2016), Về phân công, phối hợp giữa các CQNN trong thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, tại trang [truy cập ngày
12/01/2020].
60. Trần Anh Tuấn (2013), “Một số ý kiến về hoàn thiện chế định Chính phủ
trong sửa đổi Hiến pháp 1992”, Kỷ yếu Hội thảo về chế định Chính phủ và
CQĐP trong Hiến pháp, Hà Nội, ngày 8/3/2013.
61. Bùi Huy Tùng (2019), Kiểm soát đối với quyền lực hành pháp ở Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
62. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (2003), Giám sát và cơ chế giám sát thực hiện
QLNN ở nước ta hiện nay”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
63. Viện Chính sách công và pháp luật (2014), Cải cách tư pháp vì một nền tư
pháp liêm chính”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
64. Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
65. Viện Khoa học pháp lý/Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển
Bách khoa-Nxb Tư pháp.
66. VKSND tối cao (2016), Báo cáo tổng kết công tác của VKSND tối cao.
67. VKSND tối cao (2017), Báo cáo tổng kết công tác của VKSND tối cao.
68. VKSND tối cao (2018), Báo cáo tổng kết công tác của VKSND tối cao.
69. Trịnh Thị Xuyến (2006), Kiểm soát QLNN một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
70. Roderick Bell, David V. Edwards, R. Harison Wagner (2000),
Political power-reader in theory and research (Quyền lực chính trị - dành cho
nghiên cứu lý thuyết), Cornell University Press, New York.
71. John Dewey (1929), The Public and Its Problems (Nền cộng hoà và những
vấn đề), Penn State University Press.
72. John Dewey (1939), Theory of Valuation (Lý thuyết giá trị), New Jersey
Libary of Congress Catalog No 63.
162
0. Keith Dowding (2011), Encyclopedia of Power, SAGE Publications, Inc,
page 228.
0. Bryan A. Garner (ed), Black’s Law Dictionary 9th ed (St. Paul, MN: Thomson
Reuteurs, 2009) at 657.
0. F.Morstein Marx (1946), The Social Function of Public Adminisstration (Chức
năng xã hội của chính sách công), University of Pennsyvania.
0. Michael Mann (1986), The sources of social power (Nguồn gốc quyền lực xã
hội), Cambride University Press.
0. Sargent M (2001), Power and the maintennace (Quyền lực và sự duy trì của
bất bình đẳng xã hội) by Princeton, New Jersey.
0. Montesquieu (2006), Tinh thần pháp luật, (Người dịch Hoàng Thanh Đạm),
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.105-106.
0. Không rõ tên (2013), Outline of U.S Government (Khái quát về chính quyền
Mỹ), tại trang photos.state.gov, [truy cập ngày 12/9/2020].
0. H.D Laswell (1951), The policy siceces (Khoa học và chính sách), St. Martin's
Press, New York, p.5.
0. H.A.Simon (1945), A study of Decision - Making Process in Administration
Organization (Nghiên cứu quá trình ra quyết định trong tổ chức hành chính),
Cornell University Press, New York.
163
PHỤ LỤC
Phụ lục số 01
THỐNG KÊ
HOẠT ĐỘNG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
NĂM SỐ VỤ TỈ LỆ
TĂNG (%)
SỐ BỊ CAN TỈ LỆ TĂNG
(%)
2016 45 34
2017 51 13,3 50 47
2018 57 11,8 67 34
Tổng 153 151
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của VKSND tối cao (từ năm 2016 đến năm 2018)
Phụ lục số 02
THỐNG KÊ
CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH, KINH DOANH THƯƠNG MẠI VÀ LAO ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
SỐ VỤ VIỆC TÒA ÁN GIẢI QUYẾT (vụ) NĂM TÒA ÁN ĐÃ
GIẢI QUYẾT,
XÉT XỬ (vụ)
THEO
THỦ TỤC SƠ
THẨM
THEO THỦ
TỤC PHÚC
THẨM
THEO THỦ TỤC
GIÁM ĐỐC THẨM,
TÁI THẨM
2016 332.896 318.676 13.583 637
2017 356.586 343.920 11.876 790
2018 345.981 333.382 11.946 653
Tổng 1.035.463 995.978 37.405 2.080
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của TAND tối cao (từ năm 2016 đến năm 2018)
164
Phụ lục số 03
THỐNG KÊ
KẾT QUẢ XÉT XỬ THEO TRUY TỐ CỦA CƠ QUAN CÔNG TỐ
KẾT QUẢ XÉT XỬ CẤP PHÚC THẨM NĂM TAND
CẤP SƠ
THẨM
ĐÃ
TUYÊN
KHÔNG
PHẠM
TỘI (bị
cáo)
VKSND ĐÃ
RA QUYẾT
ĐỊNH
KHÁNG
NGHỊ, ĐỀ
NGHỊ TÒA
PHÚC
THẨM
TUYÊN BỊ
CÁO PHẠM
TỘI (kháng
nghị)
Y ÁN
SƠ
THẨM
HỦY
ÁN
ĐỂ
ĐIỀU
TRA,
XÉT
XỬ
LẠI
ĐÌNH
CHỈ
XÉT
XỬ
PHÚC
THẨM
TÒA ÁN
TUYÊN
KHÔNG
PHẠM
TỘI (do
thay đổi về
chính sách
hình sự của
nhà nước)
ĐANG
GIẢI
QUYẾT
2016 14 14 1 5 2 6 0
2017 12 4 1 1 0 0 2
2018 6 6 0 3 0 0 3
Tổng 32 24 2 9 2 6 5
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của TAND tối cao (từ năm 2016 đến năm 2018)
Phụ lục số 04
THỐNG KÊ
CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
SỐ VỤ VIỆC TÒA ÁN GIẢI QUYẾT (vụ) NĂM TAND CÁC
CẤP ĐÃ THỤ
LÝ (vụ)
TAND CÁC
CẤP ĐÃ GIẢI
QUYẾT, XÉT
XỬ (vụ)
THEO
THỦ TỤC
SƠ THẨM
THEO
THỦ TỤC
PHÚC
THẨM
THEO THỦ
TỤC GIÁM
ĐỐC THẨM,
TÁI THẨM
2016 6.708 5.358 4.011 1.296 51
2017 8.209 5.764 4.396 1.332 36
2018 10.412 5.207 3.814 1.351 42
Tổng 25.329 16.329 12.221 3.979 129
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác của TAND tối cao (từ năm 2016 đến năm 2018)
165
Phụ lục số 05
MỘT SỐ VỤ ÁN MÀ NGƯỜI BỊ KIỆN (HOẶC NGƯỜI ĐƯỢC ỦY QUYỀN
CỦA NGƯỜI BỊ KIỆN) XIN XÉT XỬ VẮNG MẶT VÀ CỬ CÁN BỘ
CHUYÊN MÔN HOẶC THUÊ LUẬT SƯ ĐỂ THAM GIA TỐ TỤNG
VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP
1. Ngày 08/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 68/2018/TLPT-HC ngày
02/02/2018 khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp hỗ
trợ và cưỡng chế thu hồi đất, do Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2017/HC-ST ngày
15/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử phúc thẩm số 556/2020/QĐPT-HC ngày 28/4/2020 giữa các đương sự:
Người khởi kiện là ông Dương Lâm Trung, có địa chỉ tại tổ 9, khu phố 7, phường
Thanh Sơn, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Người đại diện theo
ủy quyền của người khởi kiện là ông Lê Cẩm Quí, có địa chỉ tại số 14, đường 33,
phường Bình An, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh. Người bị kiện là Ủy ban nhân dân
thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận; Chủ tịch Ủy ban nhân dân Phan
Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Đại diện theo pháp luật là ông Bùi Văn Phú.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Hoàng, Phó
trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
Trong vụ án này, người bị kiện đã có đơn xin xét xử vắng mặt, đồng thời, cử
cán bộ chuyên môn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kiện (Phó trưởng
phòng Tài nguyên và Môi trường Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận).
Nguồn: Bản án số 171/2020/HC-PT ngày 08/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực
quản lý đất đai đối với trường hợp hỗ trợ và cưỡng chế thu hồi đất.
2. Ngày 08/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 660/2018/TLPT-HC ngày
23/11/2018 khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai, do Bản án hành chính
sơ thẩm số 43/2018/HC-ST ngày 18/9/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 575/2020/QĐPT-
HC ngày 02/5/2020 giữa các đương sự: Người khởi kiện là bà Chu Thị Thịnh, sinh
166
năm 1948, có địa chỉ tại 124, phường Ngô Quyền, phường 9, quận 5, thành phố Hồ Chí
Minh. Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện là ông Võ Quang Vũ, sinh năm
1975, có địa chỉ tại số 656, khu phố 4, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, thành
phố Hồ Chí Minh. Người bị kiện là Ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu; Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu. Đại diện theo pháp luật là
ông Nguyễn Lập, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Vũng Tàu. Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Bà Hoàng Thị Thanh Ngọc, Chuyên viên phòng
Tài nguyên và Môi trường thành phố Vũng Tàu.
Trong vụ án này, người bị kiện đã có đơn xin xét xử vắng mặt, đồng thời, cử
cán bộ chuyên môn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kiện (Chuyên viên
phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Vũng Tàu).
Nguồn: Bản án số 172/2020/HC-PT ngày 08/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai.
3. Ngày 09/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 704/2019/TLPT-HC ngày
05/12/2019 khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai về hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, do Bản án hành chính sơ thẩm số 1020/2019/HC-ST ngày
20/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo. Theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 780/2020/QĐPT-HC ngày 21/5/2020 giữa các đương
sự: Người khởi kiện là ông Trần Nam Hưng, sinh năm 1959, có địa chỉ tại 134/31A Lý
Chính Thắng, phường 7, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Người bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của người khởi kiện là ông Nguyễn Văn Đình, luật sư, thuộc Đoàn luật sư thành
phố Hồ Chí Minh. Người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 7, thành phố Hồ
Chí Minh, Ủy ban nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh. Người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Đinh Quang Anh Lộc, Trưởng phòng Tài
nguyên và Môi trường quận 7, ông Trần Thanh Tịnh, Chuyên viên phòng Tài nguyên
và Môi trường quận 7.
Trong vụ án này, người bị kiện đã có đơn xin xét xử vắng mặt, đồng thời, cử
cán bộ chuyên môn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kiện (Trưởng phòng
và Chuyên viên phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Vũng Tàu).
Nguồn: Bản án số 173/2020/HC-PT ngày 09/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý
đất đai về hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
167
4. Ngày 09/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 763/2019/TLPT-HC ngày
24/12/2019 khiếu kiện quyết định hành chính trong trường hợp thu hồi quyết định bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất, do Bản án hành chính sơ thẩm số
15/2019/HC-ST ngày 16/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 805/2020/QĐPT-HC ngày
22/5/2020 giữa các đương sự: Người khởi kiện là bà Trần Ánh Tuyết, sinh năm 1953,
có địa chỉ tại ấp Tân Tạo, thị trấn Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện là ông Lê Hải Lâm, Văn phòng
Luật sư Hải Lâm, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bạc Liêu. Người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
Trong vụ án này, người bị kiện đã có đơn xin xét xử vắng mặt.
Nguồn: Căn cứ Bản án số 174/2020/HC-PT ngày 09/6/2020 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong
trường hợp thu hồi quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
5. Ngày 09/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 102/2019/TLPT-HC ngày
17/01/2019 khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, do Bản
án hành chính sơ thẩm số 30/2018/HC-ST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
620/2020/QĐPT-HC ngày 22/5/2020 giữa các đương sự: Người khởi kiện là ông Võ
Văn Lương, sinh năm 1992, có địa chỉ tại tổ 5, khu phố Bình Chánh Đông, phường
Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Người đại diện theo ủy quyền của ông
Lượng: Bà Đặng Phước Hoàng Mai, sinh năm 1974, địa chỉ: 68/23A Trần Quang Khải,
phường Tân Định, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh Bình Dương. Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Mai Hùng
Dũng, Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương (là người đại diện
theo công văn ủy quyền số 4654/UBND-BTCD ngày 02/10/2018).
Trong vụ án này, người đại diện hợp pháp của người bị kiện (theo ủy quyền) đã
có đơn xin xét xử vắng mặt.
Nguồn: Căn cứ Bản án số 176/2020/HC-PT ngày 09/6/2020 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường.
168
6. Ngày 10/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 139/2020/TLPT-HC ngày
11/02/2020 khiếu kiện hành vi hành chính, do Bản án hành chính sơ thẩm số
23/2019/HC-ST ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 894/2020/QĐPT-HC ngày
20/5/2020 giữa các đương sự: Người khởi kiện là bà Dương Thị Ri, sinh năm 1944, có
địa chỉ tại số 140 đường Ngô Gia Tự, khu phố 2, phường 2, thành phố Tây Ninh, tỉnh
Tây Ninh. Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Dương Lê Tài, sinh năm
1987, địa chỉ số 493 đường Bời Lời, khu phố Ninh Thọ, phường Ninh Sơn, thành phố
Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh.
Trong vụ án này, người bị kiện đã có đơn xin xét xử vắng mặt.
Nguồn: Căn cứ Bản án số 177/2020/HC-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện hành vi hành chính.
7. Ngày 12/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 153/2020/TLPT-HC ngày
13/02/2020 về việc khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai, do Bản án
hành chính sơ thẩm số 1558/2019/HC-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
467/2020/QĐPT-HC ngày 27/4/2020 giữa các đương sự: Người khởi kiện là bà Mai
Thanh Tuyền, sinh năm 1959, có địa chỉ tại số 21 lô A, cư xá Phú Lâm D, phường 10,
quận 6, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện ủy quyền của người khởi kiện: Ông
Lại Minh Huệ, địa chỉ số 21 lô A, cư xá Phú Lâm D, phường 10, quận 6, thành phố Hồ
Chí Minh, ông Phạm Văn Hưng, địa chỉ số 237/9 Hoàng Diệu, phường 8, quận 4, thành
phố Hồ Chí Minh. Người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 8, thành phố Hồ
Chí Minh; người đại diện ủy quyền: Ông Phạm Quang Tú, Phó chủ tịch; người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Lưu Quang Huy Quan, Phó Phòng Tài nguyên và Môi
trường và người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; người
đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thành Phong.
Trong vụ án này, người bị kiện, người đại diện theo ủy quyền, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện đều vắng mặt.
Nguồn: Căn cứ Bản án số 191/2020/HC-PT ngày 12/6/2020 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc khiếu kiện quyết định hành chính về
quản lý đất đai.
169
8. Ngày 15/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 474/2017/TLPT-HC ngày
14/8/2019 về việc yêu cầu hủy quyết định hành chính, do Bản án hành chính sơ thẩm
số 01/2019/HC-ST ngày 18/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 877/2020/QĐPT-HC ngày
20/5/2020 giữa các đương sự: Người khởi kiện là ông Hàng Chên, sinh năm 1963, cư
trú tại số 44 Tôn Đức Thắng, khóm 2, phường 5, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng;
ông Hàng Chen, sinh năm 1958, bà Hàng Thị Sa Rinh, sinh năm 1953, bà Hàng Thị Sa
Phớt, sinh năm 1967, cùng cư trú tại số 12 Trần Quốc Toản, khóm 6, phường 6, thành
phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Lê
Thành Tâm, sinh năm 1956. Người bị kiện là Ủy ban nhân dân thành phố Sóc Trăng,
tỉnh Sóc Trăng và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Đại
diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Sóc
Trăng, tỉnh Sóc Trăng là ông Trần Hoàng Hợp, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành
phố Sóc Trăng.
Trong vụ án này, người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện có đơn xin xét
xử vắng mặt.
Nguồn: Căn cứ Bản án số 195/2020/HC-PT ngày 15/6/2020 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc tranh chấp yêu cầu hủy quyết định
hành chính.