Luận án Chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Vị xuyên, tỉnh Hà giang từ năm 1986 đến năm 2010

LÊ HỒNG SƠN HỒNG LÊ VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ HỒNG SƠN LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬLUẬNLỊCH ÁN SĨ TIẾN CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2010 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ KHÓA III HÀ NỘI - NĂM 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ HỒNG SƠN CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2010 Chuyên ngành: Lịch sử Việ

pdf242 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 401 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Vị xuyên, tỉnh Hà giang từ năm 1986 đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t Nam Mã số: 62 22 03 13 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN NHẬT HÀ NỘI - NĂM 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của cá nhân tôi, chưa được công bố dưới bất cứ hình thức nào, những số liệu được đưa ra để chứng minh và đánh giá là trung thực, có cơ sở. Ngoài ra, một số nhận xét, đánh giá hoặc số liệu của các tác giả, cơ quan, tổ chức khác cũng được luận án sử dụng, thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Tác giả Lê Hồng Sơn i LỜI CẢM ƠN Đầu tiên, xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Văn Nhật, người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án. Tác giả hết sức trân trọng sự giúp đỡ quý báu của các thầy, cô giáo trong Khoa Sử học, Học viện Khoa học Xã hội trong quá trình học tập, nghiên cứu. Tác giả chân thành cảm ơn tới các vị nguyên lãnh đạo huyện, các anh chị lãnh đạo các phòng ban thuộc Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, các đồng nghiệp tại NXB Giáo dục Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự thật đã tạo điều kiện về thời gian, nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình sưu tầm tài liệu, nghiên cứu và hoàn thành luận án. Tác giả trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ, động viên của người thân, bạn bè trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành bản luận án này. ii MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội nói chung .......................... 8 1.2. Các công trình đề cập đến lĩnh vực kinh tế - xã hội tại địa phương ......... 13 1.3. Những nội dung luận án kế thừa .............................................................. 22 1.4. Những nội dung luận án cần tiếp tục giải quyết ...................................... 22 CHƯƠNG 2. CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2000 2.1. Những yếu tố tác động đến chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên. ................................................................................... 24 2.2. Chuyển biến về kinh tế ................................................................. .38 2.3. Chuyển biến về xã hội ................................................................ ............. 55 Tiểu kết chương 2............................................................................................ 68 CHƯƠNG 3. CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 3.1. Những yếu tố tác động đến chuyển biến của huyện Vị Xuyên khi bước vào thế kỷ XXI ......................................................................................... 70 3.2. Chuyển biến về kinh tế ........................................................................ 75 3.3. Chuyển biến về xã hội......................................................................................... 97 Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 119 CHƯƠNG 4. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT 4.1. Nhận xét ................................................................................................ 121 4.2. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................ 131 4.3. Một số đề xuất ........................................................................................... 135 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................. 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 152 PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 168 iii DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ, BẢN ĐỒ TRONG LUẬN ÁN Hình/ STT Biểu đồ/ Nội dung Trang Bản đồ 1 Hình 2.1. Quy mô dân số và gia tăng dân số 30 huyện Vị Xuyên thời kì 2000 - 2009 2 Hình 3.1 Tổng sản lượng lương thực huyện Vị Xuyên 79, 2001 - 2010 và diễn biến bình quân lương 80 thực đầu người qua một số năm 3 Hình 3.2. Diễn biến tỷ trọng lĩnh vực công nghiệp - 92 xây dựng trong tổng GDP huyện Vị Xuyên qua một số năm 4 Hình 3.3. Tỷ lệ hộ nghèo (2000 - 2010) 107 5 Phụ lục 1. Bản đồ tỉnh Hà Giang, năm 2010 169 6 Phụ lục 2. Bản đồ hành chính huyện Vị Xuyên 170 (năm 2010) 7 Phụ lục 3. Bản đồ dân cư huyện Vị Xuyên 171 8 Phụ lục 4. Bản đồ phân định xã, thị trấn thuộc vùng 172 dân tộc thiểu số và miền núi huyện Vị Xuyên theo trình độ phát triển, đến năm 2010 9 Phụ lục 5 . Biểu đồ cơ cấu kinh tế huyện Vị Xuyên 173 từ năm 2000 đến năm 2010 iv DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN STT Bảng Nội dung Trang 1 Bảng 2.1. Tổng đàn gia súc qua một số năm 44 2 Bảng 3.1 Cơ cấu kinh tế huyện Vị Xuyên 77 từ 2000 đến 2010 3 Bảng 3.2. Diện tích gieo trồng cây lúa, ngô 81 từ 2001 đến 2010 4 Bảng 3.3. Diện tích và sản lượng cây chè 82 từ 2001 đến 2010 5 Bảng 3.4. Số lượng đàn gia súc chủ yếu 84, 85 ở huyện Vị Xuyên những năm 2001 - 2010 6 Phụ lục 6. Diện tích, dân số và mật độ dân số 174 huyện Vị Xuyên năm 2009 7 Phụ lục 7. Hiện trạng sử dung đất năm 2010 175, huyện Vị Xuyên 176 8 Phụ lục 8. Hiện trạng ngành công nghiệp và tiểu thủ 177 công nghiệp (2000 - 2010) v MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng 12 năm 1986 là một mốc đánh dấu quan trọng có ý nghĩa bước ngoặt trong đổi mới tư duy, lý luận về kinh tế - xã hội. Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh chuyển sang quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực. Thực tiễn của công cuộc đổi mới ở Việt Nam cho thấy, việc tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Bài học và kinh nghiệm của các quốc gia phát triển cho thấy nếu tăng trưởng kinh tế mà không giải quyết tốt các vấn đề xã hội thì sẽ dẫn đến sự mất cân đối trong đời sống xã hội, thậm chí dẫn đến khủng hoảng. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam là một sự biến cải xã hội toàn diện trong các quan hệ kinh tế, trong cơ cấu xã hội, trong hệ thống giá trị. Quá trình này tạo nên sự vượt trội về chất ở các chỉ tiêu kinh tế, xã hội so với thời kỳ bao cấp. Lịch sử địa phương là một bộ phận quan trọng của lịch sử dân tộc. Nghiên cứu lịch sử địa phương tức là nghiên cứu về các đơn vị hành chính lớn nhỏ của một quốc gia, nhằm khai thác nét độc đáo, đặc thù của địa phương, những giá trị vật chất, văn hoá tinh thần, với những đóng góp quý báu để xây dựng truyền thống, góp phần bổ sung hoàn chỉnh lịch sử dân tộc. 1 Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo và đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, bộ mặt kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang nói chung, huyện Vị Xuyên nói riêng đã từng bước được thay đổi. Năm 1976, một năm sau ngày thống nhất đất nước, Tuyên Quang và Hà Giang được sáp nhập thành tỉnh Hà Tuyên, cái tên chung Hà Tuyên đã gắn bó đất và người hai tỉnh suốt chiều dài 16 năm. Ngày 1 tháng 10 năm 1991, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, tỉnh Hà Tuyên chính thức được chia tách để tái lập hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Mục đích của việc chia tỉnh là nhằm phát huy được mọi tiềm năng của từng địa phương, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc. Sau ngày tái lập, tỉnh Hà Giang có những bước đi phù hợp, khẳng định sự phát triển với những kết quả tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực của kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Xác định là tỉnh vùng cao biên giới, một trong những tỉnh nghèo nhất nước, điểm xuất phát thấp, bởi vậy nghị quyết của các kỳ đại hội từ XI đến XV Đảng bộ tỉnh Hà Giang đều xuyên suốt, chỉ rõ: Phát huy cao độ nội lực tranh thủ cao nhất sự ủng hộ giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, từng bước vượt khó, thoát nghèo, tất cả vì sự phát triển của Hà Giang, vì cuộc sống của nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Huyện Vị Xuyên có vị trí quan trọng đối với tỉnh Hà Giang nói riêng và cả nước nói chung, phía bắc giáp huyện Quản Bạ, phía tây giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và huyện Hoàng Su Phì, phía đông giáp thành phố Hà Giang và huyện Na Hang (nay thuộc huyện Lâm Bình, Tuyên Quang), phía nam giáp huyện Bắc Quang. Vị Xuyên là huyện rộng lớn nhất trong tỉnh, là điểm đầu của quốc lộ 2 thông với Trung Quốc qua cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ (nay là cửa khẩu quốc tế). Toàn huyện có 24 đơn vị hành chính, gồm 22 xã và 2 thị trấn, có đường biên giới quốc gia dài 32,6 km, là nơi chung sống của 18 dân tộc anh em. 2 Huyện được đánh giá là một trong những huyện động lực về phát triển kinh tế của tỉnh Hà Giang. Nhân dân Vị Xuyên có truyền thống đấu tranh cách mạng. Huyện đã được Đảng, Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong thời kì đổi mới xây dựng đất nước, nhân dân các dân tộc Vị Xuyên đã đoàn kết, sát cánh bên nhau, phát triển kinh tế, xã hội, củng cố an ninh biên giới, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xoá đói giảm nghèo, từng bước đưa huyện phát triển hoà nhập chung với sự phát triển của tỉnh và đất nước. Hơn nữa, Vị Xuyên lại có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, tài nguyên phong phú, nguồn lao động khá dồi dào, đường lối chính sách phát triển kinh tế hợp lý, được sự giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh nguồn lực quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng phát triển. Hiện nay, Vị Xuyên là huyện có tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP, các ngành kinh tế có bước phát triển tiến bộ. Tình hình phát triển văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến, chú trọng nhiều hơn đến chất lượng cuộc sống, hạ dần tỷ lệ hộ đói nghèo, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, an ninh - quốc phòng được củng cố... Để đạt được kết quả đó, Đảng bộ và nhân dân Vị Xuyên đã nỗ lực phấn đấu hết mình trong việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng đã đề ra. Trên cơ sở thực tiễn như vậy, việc đặt vấn đề nghiên cứu về quá trình phát triển kinh tế, xã hội địa phương huyện Vị Xuyên là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt khoa học và thực tiễn. Trước hết, bởi cấp huyện có vị trí quan trọng trong hệ thống tổ chức các đơn vị hành chính lãnh thổ quốc gia. Trong khi đó, huyện Vị Xuyên lại có vị trí chiến lược đối với việc bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia trong lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay và là một huyện miền núi - biên giới giáp với Trung Quốc. Hơn nữa, việc nghiên cứu và nhận diện đầy đủ sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện 3 Vị Xuyên từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, từ chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đến quá trình thực hiện, thành quả và những hạn chế trong chỉ đạo và hoạt động kinh tế, xã hội của địa phương này, không chỉ góp phần vào việc phát huy những mặt tốt, những lợi thế và khắc phục những mặt còn hạn chế, mà còn từ đó phần nào có thể đưa ra những khuyến nghị, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây dựng địa phương Vị Xuyên ngày càng phát triển, văn minh, mà còn sẽ góp phần làm sáng tỏ một phần trong bức tranh tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang trong giai đoạn hiện nay. Từ xuất phát điểm như vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề “Chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang từ năm 1986 đến năm 2010” làm đề tài luận án Tiến sĩ lịch sử. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu - Làm rõ những chuyển biến về kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên trong thời gian từ năm 1986 đến năm 2010. - Phân tích những thành công, hạn chế của quá trình phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên từ năm 1986 đến năm 2010, rút ra những nhận xét, đánh giá và đưa ra những đề xuất cho sự phát triển trong thời gian tiếp theo. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu -Trên cơ sở tiến hành sưu tầm và xử lý các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài luận án, chúng tôi tập trung giới thiệu về các yếu tố tác động đến chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên, bao gồm: vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của địa phương; điều kiện kinh tế, xã hội và dân cư; tình hình quốc tế và trong nước; cũng như chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Hà Giang từ thời điểm đất nước tiến hành công cuộc Đổi mới. 4 - Dựng lại quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang từ năm 1986 đến năm 2010 trên hai góc độ phát triển kinh tế và phát triển xã hội theo hai giai đoạn 1986-2000 và 2001-2010. -Từ việc phân tích những nội dung quan trọng về chuyển biến kinh tế, xã hội ở huyện Vị Xuyên trong khung nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số nhận xét về vấn đề nghiên cứu, cả trên góc độ những thành công đã đạt được cũng như những hạn chế đã mắc phải trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới; đồng thời làm rõ thêm về nguyên nhân của những thành công và hạn chế đó, cũng như đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần vào việc đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án có đối tượng nghiên cứu là sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên trong thời kỳ từ năm 1986, khi cả nước bắt đầu thực hiện sự nghiệp đổi mới, đến năm 2010. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Đề tài giới hạn trong địa bàn huyện Vị Xuyên của tỉnh Hà Giang, địa giới hành chính huyện gồm 22 xã và 2 thị trấn, với đặc điểm là huyện miền núi biên giới có sự phân chia theo trình độ phát triển. Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu quá trình huyện Vị Xuyên thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội từ năm 1986 (năm bắt đầu công cuộc đổi mới) đến năm 2010 (năm tổng kết 25 năm đổi mới). Nghiên cứu kinh tế - xã hội là mảng đề tài rộng. Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu sự chuyển biến kinh tế về cơ cấu kinh tế và kinh tế ngành (nông - lâm nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ); giới hạn chuyển biến xã hội về y tế, giáo dục, văn hoá thông tin, lao động việc làm và thực hiện các chính sách xã hội. 5 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Về cơ sở lý luận, chúng tôi xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế, xã hội, nhất là quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về kinh tế, xã hội thời kỳ đổi mới. - Về phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện chủ yếu là sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic. Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp và điền dã. 5. Nguồn tài liệu - Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về kinh tế - xã hội thời kỳ đổi mới; đồng thời chúng tôi còn dựa vào các văn kiện, các chỉ thị, nghị quyết, các báo cáo tổng kết của Đảng bộ tỉnh Hà Giang, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên... Đây là những tài liệu mang tính chất cơ sở lý luận, định hướng phát triển chung. - Nhóm tài liệu gốc về kinh tế - xã hội địa phương như: thống kê số liệu của các sở, ban ngành liên quan như Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tài nguyên và Môi trường, Cục Thống kê tỉnh Hà Giang, Phòng Thống kê huyện Vị Xuyên Đặc biệt là những báo cáo hằng năm về tình hình kinh tế - xã hội của Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên và Đảng bộ huyện Vị Xuyên từ năm 1986 đến năm 2010. Đây là nhóm tài liệu hết sức quan trọng giúp chúng tôi dựng lên bức tranh tổng thể của kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên, từ đó triển khai nghiên cứu ở mức độ sâu hơn. Những phân tích, đánh giá về quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên về căn bản dựa trên số liệu được xử lý từ nhóm tài liệu này. - Một số tài liệu có tính chất là những công trình nghiên cứu về lịch sử địa phương như: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang (3 tập), Lịch sử Đảng bộ huyện Vị Xuyên (1939 - 2000), Hà Giang 20 năm tái lập và phát triển 6 (1991- 2011)...; các luận văn, bài viết được đăng tải trên các tạp chí, báo, cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Giang, cổng thông tin điện tử huyện Vị Xuyên đề cập đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang nói chung và của huyện Vị Xuyên nói riêng giúp chúng tôi có thêm những thông tin cần thiết cũng như những nhận định có thể tham khảo. - Ngoài ra, để phục vụ cho việc nghiên cứu luận án, chúng tôi cũng đã thực hiện nhiều chuyến điền dã ở địa phương để nắm tình hình cũng như thu thập tài liệu. Kết quả của công tác điền dã, đặc biệt là những phỏng vấn hồi cố giúp chúng tôi có thêm nguồn tư liệu cũng như cái nhìn phong phú, đa chiều đối với đề tài luận án. 6. Những đóng góp mới của Luận án - Luận án nghiên cứu một cách hệ thống và tái hiện chân thật quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên (Hà Giang) trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2010. - Qua việc đánh giá, phân tích chuyển biến kinh tế, xã hội ở huyện Vị Xuyên trong những năm từ 1986 đến 2010, luận án nêu lên và làm rõ những thành tựu và hạn chế cần được tiếp tục rút kinh nghiệm nhằm đưa ra những giải pháp thích hợp để phát huy thế mạnh và khắc phục hạn chế. - Luận án hoàn thành sẽ cung cấp thêm nguồn tư liệu phục vụ việc nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy lịch sử, địa lý địa phương. 7. Kết cấu Luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận án được kết cấu thành 4 chương: - Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu. - Chương 2: Chuyển biến về kinh tế, xã hội từ năm 1986 đến năm 2000. - Chương 3: Chuyển biến về kinh tế, xã hội từ năm 2001 đến năm 2010. - Chương 4: Nhận xét và một số đề xuất. 7 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Từ trước đến nay vấn đề kinh tế - xã hội cả nước nói chung, ở các địa phương nói riêng, được các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu khoa học thuộc nhiều chuyên ngành quan tâm. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong những năm qua có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt việc đầu tư phát triển kinh tế địa phương đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhiệm vụ hàng đầu, mang tính lâu dài và tất yếu trên bước đường xây dựng, phát triển đất nước. 1.1. Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội nói chung Trong các công trình nghiên cứu về các vấn đề kinh tế - xã hội thời kỳ đổi mới, đầu tiên phải kể đến là tác phẩm Đổi mới kinh tế - xã hội thành tựu, vấn đề và giải pháp, Phạm Xuân Nam (Chủ biên), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991. Cuốn sách đã phân tích các lĩnh vực chủ yếu của đời sống kinh tế - xã hội nước ta sau 4 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, qua đó nêu lên những thành tựu đã đạt được, chỉ ra những vấn đề tồn đọng từ lâu hoặc mới nảy sinh và đề xuất một số kiến nghị về giải pháp sắp tới nhằm góp phần vào việc xây dựng, hoàn thiện cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội nước ta đến năm 2000. Cuốn sách Đổi mới kinh tế và phát triển, Vũ Tuấn Anh (Chủ biên), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994 đã chỉ ra những nét chính của quá trình đổi mới các chính sách kinh tế, vai trò của nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tác động của quá trình đổi mới kinh tế đối với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, 8 hiện đại hoá, những chuyển biến của cơ cấu xã hội, xu hướng phân tầng xã hội dưới ảnh hưởng của đổi mới chính sách kinh tế Nguyễn Trọng Phúc trong cuốn Một số kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, đã phân tích đặc điểm nước ta trong thời kỳ quá độ, tổng kết một số chủ trương của Đảng và những thành tựu tiêu biểu mà chúng ta đã đạt được, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước. Sách Kinh tế Việt Nam đổi mới: Những phân tích và đánh giá quan trọng của Nguyễn Văn Chỉnh, Vũ Quang Việt, Trần Vân, NXB Thống kê, Hà Nội, 2002 đã hệ thống hoá số liệu tổng hợp và chi tiết trên phạm vi cả nước và từng vùng, lãnh thổ, phân tích kinh tế về tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, thành phần kinh tế, khu vực thể chế, vùng lãnh thổ và hoạt động tài chính. Năm 2010, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam hiện nay do Tạ Ngọc Tấn làm Chủ biên. Cuốn sách là một phần kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học trọng điểm cấp Nhà nước KX.04.14/06-14 “Biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam”. Sách gồm 4 phần trong đó nội dung chính được tập trung ở phần 2 - Những tác động của biến đổi cơ cấu xã hội đến sự phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới và phần 3- Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam và những dự báo trong thời gian tới. Các tác giả cuốn sách mong muốn đưa ra những đánh giá cơ bản về thực trạng biến đổi cơ cấu xã hội nước ta trong thời gian qua, làm rõ những tác động khách quan qua lại giữa những biến đổi cơ cấu xã hội với sự vận động, phát triển của các lĩnh vực đời sống đất nước. Ngoài ra cuốn sách cũng đưa ra những dự báo về xu hướng biến đổi và một số nét dự báo về mô hình tương lai của cơ cấu xã hội Việt Nam trong thời gian tới. 9 Năm 2012, cuốn sách Lịch sử Việt Nam - Tập 4 của các tác giả Lê Mậu Hãn (Chủ biên), Nguyễn Đình Lê, Trương Thị Tiến, NXB Giáo dục, Hà Nội, được xuất bản. Theo các tác giả, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Về kinh tế, thành tựu nổi bật nhất là những thiết chế mới của nền kinh tế đã hình thành, phù hợp với quy luật khách quan, đem lại động lực mới cho sự phát triển dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cao hơn là dẫn đến sự tăng trưởng vượt trội của nền kinh tế so với trước đổi mới. Về xã hội, các tác giả cuốn sách cho rằng: Từ giữa thập kỷ 90 trở đi, công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ trọng tâm là đổi mới kinh tế đã tiến tới đổi mới trên tất cả các lĩnh vực: hệ thống chính trị, văn hoá, giáo dục, y tế; kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, cũng có những cuốn sách đề cập đến nội dung về kinh tế, xã hội. Tác phẩm Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc do Viện Dân tộc học thực hiện, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1987, tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu bước đầu lý giải một số vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội tại các tỉnh miền núi phía Bắc như vấn đề dân tộc, dân cư và lao động, vấn đề xác định, đánh giá những thế mạnh của miền núi và việc khai thác phát huy những thế mạnh, các tiềm năng kinh tế ở khu vực này. Bên cạnh những vấn đề đó là việc xây dựng, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mới, phát triển văn hoá - giáo dục Ở trang 44 - 45 (chương I) của sách, các tác giả đã xác định rõ vai trò cấp huyện “không chỉ là đơn vị hành chính mà còn thành đơn vị kinh tế - xã hội”: xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cân đối nông - lâm nghiệp, bố trí lao động, liên kết kinh tế, tổ chức thực hiện định canh định cư, lưu thông phân phối, văn hoá, giáo dục, y tế đều đặt trong quan hệ của huyện. Chương IV làm sáng tỏ những hạn chế trong phát triển văn hoá, giáo dục miền núi. Chương V đề cập đến vấn đề kết hợp đúng đắn giữa xây dựng kinh tế với bảo đảm an ninh quốc phòng. Cuốn sách Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở 10 miền núi, Bế Viết Đẳng (Chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội 1996 là kết quả chắt lọc từ đề tài KX.04-11 mang tên “Luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện các chính sách đối với dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi”, nội dung đề cập đến quan điểm, đường lối chính sách dân tộc, những vấn đề cấp bách về thực trạng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi. Đồng thời, các tác giả cũng đề xuất những ý kiến tham khảo cho việc hoạch định những chính sách đối với các dân tộc thiểu số miền núi trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay. Cuốn sách Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền núi phía Bắc, Khổng Diễn (Chủ biên), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996 là kết quả thu được từ những cuộc điều tra, điền dã dân tộc học trong một số năm kết hợp với các tài liệu thống kê dân số ở Trung ương và địa phương, cung cấp bức tranh khái quát nhưng rất phong phú và đa dạng về nhiều mặt: điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, dân cư, dân số, kinh tế, văn hoá và mối quan hệ giữa các dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam. Trên một khía cạnh khác, các tác giả Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa (Chủ biên), Nguyễn Đình Phan, Dương Thị Thanh Mai trong sách Phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 đã nêu lên thực trạng kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc và miền núi hiện nay cũng như tính cấp thiết phải đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời đề ra các định hướng phát triển, một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy bản sắc văn hoá, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, đoàn kết các dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và đối với từng khu vực cụ thể thuộc vùng dân tộc miền núi Việt Nam nói riêng. Sách cũng làm nổi bật cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa ra kinh 11 nghiệm của một số nước trong việc phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi. Tương tự có thể kể đến Tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh trung du và miền núi Bắc Bộ, NXB Lao động xã hội, Hà Nội, 2006. Sách do Bộ Công nghiệp phối hợp với các ngành kinh tế, các địa phương, các doanh nghiệp trong Vùng thu thập thông tin xuất bản. Sách gồm 2 phần: Phần 1 - giới thiệu khái quát tiềm năng, định hướng phát triển kinh tế - xã hội vùng trung du và miền núi phía Bắc; Phần 2 - giới thiệu tiềm năng, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương trong Vùng. Từ trang 227 đến trang 263 là nội dung về mục tiêu, định hướng phát triển các ngành Nông nghiệp, Giao thông vận tải, Giáo dục - Đào tạo, Ngân hàng, Điện lực, Thương mại và Bưu điện của Hà Giang. Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam do Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường - Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2008. Sách tập hợp những bài viết của các học giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về những đề tài đang mang tính thời sự ở Việt Nam như quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sự thay đổi các mối quan hệ lao động, thành quả phát triển trong thời kì mở cửa ở vùng cao Việt Nam v.v Nhìn chung, những tài liệu thuộc nhóm chủ đề trên có thể thống kê nhiều hơn, song đây là những nghiên cứu tổng hợp, chủ yếu đưa ra những nhận định khái quát ở tầm vĩ mô về tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực miền núi nói chung. Những công trình nghiên cứu nói trên mang tính định hướng cũng như góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề tổng quan về kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và ở khu vực miền núi phía Bắc nói riêng dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Thông qua kết quả nghiên cứu của nhóm tài liệu này, chúng tôi có được cơ sở lý luận cũng như có cái nhìn tổng quát nhất về quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam thời kỳ Đổi mới để từ đó tiếp cận đối tượng nghiên cứu cụ thể mà đề tài luận án đã đặt ra là huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. 12 1.2. Các công trình đề cập đến lĩnh vực kinh tế - xã hội tại địa phương Tác phẩm Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn tỉnh Hà Giang (1900 - 1998) của Phạm Văn Nhần, Lê Xuân Mát, Ngô Huy Chương, NXB Lao động, Hà Nội 1999 đề cập đến quá trình hình thành và phát triển đội ngũ công nhân và tổ chức công đoàn Hà Giang, những đóng góp của công nhân và công đoàn Hà Giang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 2000, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên phát hành bản Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên thời kỳ 2000 - 2010. Bản quy hoạch nêu rõ định hướng phát triển kinh tế - xã hội huyện trong mối quan hệ chặt chẽ với định hướng phát triển chung của tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng, dịch vụ, công nghiệp trên cơ sở khai thác có hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh của huyện; phát triển các ngành, các lĩnh vực có lợi thế so sánh Các báo cáo hằng năm, báo cáo trong những nhiệm kỳ đại hội về tình hình kinh tế - xã hội của huyện Vị Xuyên từ năm 1986 đến nay của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên là sự tổng kết tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh, của huyện. Năm 2001, Ban Chấp hành Đảng bộ...t triển kinh tế còn thấp nên huyện Vị Xuyên vẫn là một huyện nghèo của tỉnh Hà Giang. Huyện Vị Xuyên có cơ cấu dân tộc khá đa dạng, với khoảng 17 dân tộc anh em cùng sinh sống: Tày, Kinh, Dao, Mông, Nùng, Giấy, Pà Thẻn, Hoa, Lô Lô,... và các dân tộc khác. Trong cơ cấu dân tộc của Vị Xuyên hiện nay người Tày chiếm tỉ lệ lớn nhất (36,1%), sau đó là các dân tộc Dao (22,9%), Kinh (15,2%), Mông (11,0%), Nùng (7,1%), Hoa (1,4%) và các dân tộc khác chiếm 6,3%. Giữa các dân tộc có sự chênh lệch về trình độ phát triển, trình độ học vấn và mức sống. Dù vậy, mỗi dân tộc vẫn giữ nét đặc trưng riêng trong đời sống văn hoá truyền thống, làm phong phú, đa dạng bản sắc văn hoá của cộng đồng các dân tộc trong tỉnh. Các dân tộc có sự phân bố đa dạng: dân tộc Kinh tập trung chủ yếu ở thị trấn Vị Xuyên, thị trấn Việt Lâm và các xã vùng thấp: Đạo Đức, Ngọc Linh, Việt Lâm, Trung Thành; dân tộc Tày chủ yếu ở thị trấn Vị Xuyên, các xã Thuận Hòa, Tùng Bá, Phú Linh, Linh Hồ, Việt Lâm, Trung Thành; dân tộc Mông phân bố chủ yếu ở các xã vùng cao như Minh Tân, Thuận Hòa, Lao Chải, Bạch Ngọc; dân tộc Dao chủ yếu ở các xã Minh Tân, Phương Tiến, Cao Bồ, Thượng Sơn, Quảng Ngần. Theo số liệu thống kê năm 2009, huyện Vị Xuyên có diện tích 1495,25 km2, dân số 96.250 người, chiếm 18,9 % diện tích và 13,6 % dân số của tỉnh Hà Giang. Trong đó, dân số nông thôn 84270 người (chiếm 87,6 %), ở thành thị 11.898 người (chiếm 12,4 %). Những năm gần đây tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên của huyện giảm dần. Năm 2000 tỷ lệ gia tăng dân số là 1,63%, đến năm 2009 chỉ còn 1,2%. (Hình 2.1) 29 100000 Ng•êi 1.8 % 95000 1.6 90000 D©n sè 1.4 GTTN (%) 85000 1.2 80000 75000 1 N¨m 2000 2005 2006 2007 2008 2009 Hình 2.1. Quy mô dân số và gia tăng dân số huyện Vị Xuyên thời kì 2000 - 2009 Nguồn: Xử lý từ niên giám thống kê Vị Xuyên qua các năm. Theo số liệu của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở, mật độ dân số trung bình của huyện năm 2009 là 64 người/km2; dân cư phân bố không đồng đều giữa các xã, thị trấn. Dân số phân bố tập trung tại các xã, thị trấn đã bước đầu phát triển ven quốc lộ 2 và cận TP. Hà Giang: thị trấn Vị Xuyên 434 người/km2, thị trấn Việt Lâm 303 người/km2, xã Đạo Đức 114 người/km2, xã Việt Lâm 109 người/km2, xã Phú Linh 105 người/km2. Những nơi dân cư tập trung thưa thớt chủ yếu là các xã vùng biên giới, vùng cao, vùng sâu, xa như: Quảng Ngần 26 người /km2, Thanh Đức 32 và Bạch Ngọc 32 người/km2, Cao Bồ 33 người/km2. [130; tr.37] Như vậy, dân số càng đông, chất lượng nguồn lao động càng cao thì có điều kiện tốt để hình thành, phát triển cơ cấu kinh tế đa dạng, có chất lượng với những ngành, lĩnh vực có khả năng bứt phá, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, sự đa dạng về dân tộc cũng tạo ra sự phân hoá về phát triển con người. Các dân tộc thiểu số thường cư trú ở các địa bàn vùng núi, điều 30 kiện kinh tế khó khăn, trình độ giáo dục thấp, vấn đề chăm sóc sức khoẻ chưa được tốt, có nơi còn du canh du cư, do vậy, đời sống và trình độ phát triển của người dân nơi đây thấp hơn so với các dân tộc sống ở vùng đồng bằng. Với truyền thống vắn hoá, truyền thống cách mạng, nhân dân các dân tộc trong huyện cần cù sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn, kế thừa và phát huy những kinh nghiệm, thành quả đã đạt được trong lao động, huyện Vị Xuyên sẽ có điều kiện để phát huy mạnh mẽ kinh tế, xã hội trong thời gian tới. 2.1.3. Bối cảnh quốc tế và trong nước Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986), sự nghiệp đổi mới của cả nước nói chung và tỉnh Hà Giang nói riêng phát triển trong điều kiện thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào tình trạng thoái trào. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại, đan xen với nhau, có mặt trở nên sâu sắc hơn. Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, những xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, khủng bố vẫn diễn ra ở nhiều nơi và ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, là động lực thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất và năng suất lao động, làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế thế giới, nhưng cũng đặt ra thách thức lớn đối với tất cả các nước. Từ xã hội công nghiệp hiện đại, nhân loại phải đối mặt với những vấn đề cấp thiết mang tính toàn cầu, đòi hỏi phải có sự hợp tác của toàn thế giới mới có thể giải quyết được. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động, tiềm lực kinh tế ngày càng mạnh. Xu hướng tự do hóa và liên kết trong khu vực phát triển nhanh, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Sự phát triển không đồng đều giữa 31 các nước vẫn là một xu hướng không thể đảo ngược. Từ những thay đổi của tình hình thế giới, trong quan hệ quốc tế đã và đang nổi lên những xu thế chủ yếu sau đây: Hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển vì lợi ích của các dân tộc và quốc gia và vì lợi ích chung của toàn nhân loại; các quốc gia ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển và tập trung mọi nguồn lực vào ưu tiên phát triển kinh tế; các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, hợp tác và đấu tranh luôn là hai mặt cùng tồn tại. Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển biến theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được đầu tư nâng cấp, mở rộng, nguồn lực phát triển kinh tế được huy động. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, kinh tế tăng trưởng liên tục. Việt Nam đã thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế. Với bối cảnh chung như trên, sau thời kỳ gián đoạn, quan hệ Việt - Trung dần dần được cải thiện và chính thức bình thường hoá từ năm 1991. Điều này tác động lớn đến các tỉnh biên giới phía Bắc và Hà Giang nói chung, Vị Xuyên nói riêng có thêm điều kiện để phát triển. 2.1.4. Chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Hà Giang Tháng 12-1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã họp. Với tính thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát cho việc phát triển kinh tế, xã hội của nước ta là: Ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tực xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội 32 chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) thông qua, đã chỉ rõ định hướng phát triển, vai trò của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, “Kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ” [59; tr. 319]. Tiếp theo, Đại hội VIII của Đảng (1996), trên cơ sở đánh giá những thành công và hạn chế sau 10 năm đổi mới, xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế giai đoạn 1996 - 2000 là: “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội,cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế” [59; tr. 545], đồng thời Đại hội cũng xác định mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ quá độ. Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đến năm 2001, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về văn hoá, xã hội, Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu và mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội trong 5 năm (1991 - 1995): “Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế” [59; tr. 279]. Trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội cũng nêu rõ nhiệm vụ và phương hướng phát triển văn hoá và các vấn đề xã hội là nhằm phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo những điều kiện để con người phát triển một cách toàn diện. Đến Đại hội VIII (1996), chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội được tập trung vào việc thanh toán nạn 33 mù chữ và hoàn thành cơ bản phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, giảm nhịp độ phát triển dân số, giải quyết việc làm, hoàn thành căn bản định canh định cư, xoá đói giảm nghèo. Cụ thể hoá các nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định, chương trình mục tiêu..., trong đó quan trọng và có ý nghĩa nhất là Chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Giai đoạn đầu, Chương trình 135 chủ yếu nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn xuống dưới 25% vào năm 2005, tăng tỷ lệ trẻ em nhập học lên đến 70%, mở rộng đào tạo cho người nghèo trong sản xuất, kiểm soát dịch bệnh và cung cấp nước sạch, xây dựng đường và phát triển chợ nông thôn. Người hưởng lợi từ Chương trình 135 chủ yếu là nhóm đồng bào dân tộc thiểu số. Phần lớn các xã được hưởng lợi từ Chương trình 135 thuộc khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Với sự đầu tư vốn lớn từ các chương trình, dự án phát triển kinh tế đối với khu vực dân tộc thiểu số của Chính phủ, bộ mặt kinh tế của huyện Vị Xuyên từ cuối những năm 90 thế kỷ XX đã có những chuyển biến tích cực và thực sự khởi sắc từ những năm 2000. Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ Hà Giang đã thông qua các nghị quyết, chỉ thị về chính sách về phát triển các lĩnh vực xã hội phù hợp với địa phương, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống xã hội. Quán triệt quan điểm, đường lối của Đại hội Đảng lần thứ VII, Đại hội lần thứ XI Đảng bộ tỉnh Hà Giang (1-1992) đã xác định 5 mục tiêu lớn về kinh tế xã hội trong những năm 1992 - 1995 là: Phát triển kinh tế theo hướng cơ cấu nông - lâm - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; lấy kinh tế đồi rừng, phát triển công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc để làm chuyển biến nền kinh tế tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá, gắn phát triển kinh 34 tế nông - lâm nghiệp với xây dựng nông thôn mới; hạ mức tăng dân số, khắc phục tình trạng xuống cấp của lĩnh vực văn hoá, giáo dục nhằm từng bước ổn định đời sống kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí và tạo thế đi lên trong những năm tới. Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XI đề ra 10 chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 1995. Đảng bộ cũng đã xác định rõ 3 vùng kinh tế của tỉnh. Đó là: - Vùng cao núi đá: gồm các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ. - Vùng cao núi đất gồm 2 huyện Xín Mần, Hoàng Su Phì và một số xã của huyện Bắc Quang, Vị Xuyên và Bắc Mê. - Vùng thấp gồm thị xã Hà Giang, huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê. Có thể nói việc xác định 3 vùng kinh tế với những cây trồng, vật nuôi thích hợp là sự cụ thể hoá tư tưởng chỉ đạo đối với đổi mới cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp. Đường lối đổi mới của Đảng, chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước được Đảng bộ tỉnh vận dụng sáng tạo vào điều kiện địa phương bằng những mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, những chính sách, biện pháp cụ thể, đã có tác động lớn đến khả năng thu hút các nguồn lực cho phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Những năm cuối thế kỉ XX (1996 - 2000), thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng (khoá VIII), các chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ra các nghị quyết quan trọng để đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp phát triển kinh tế như: Nghị quyết về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (khoá VIII) về ứng dụng khoa học công nghệ; Nghị quyết về chương trình 35 hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khoá VIII) về phát huy nội lực, cần kiệm để xây dựng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2000; Nghị quyết về thực hiện Nghị quyết số 06 của Bộ Chính trị về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Như vậy, các yếu tố này là điều kiện có tính quyết định đến sự hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Sự ổn định, minh bạch, đồng bộ của thể chế kinh tế (nhất là các chính sách đầu tư, tài chính) sẽ góp phần phát triển cơ cấu kinh tế làm giảm hoặc làm tăng lên các tác động tích cực và tiêu cực đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ chế quản lí sẽ tác động lên cơ cấu sản xuất, cơ cấu dân cư, tạo ra cân đối lực lượng lao động và thu nhập giữa các vùng, giảm bớt khoảng cách chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn. Chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên từ năm 1986 đến năm 2010 chịu sự tác động thường xuyên của nhiều yếu tố, trong đó có những yếu tố tự nhiên như điều kiện địa hình, địa chất, khí hậu, thổ nhưỡng và có những yếu tố thuộc về xã hội như đặc điểm dân tộc, dân cư. Ngoài ra còn có những yếu tố tác động hết sức quan trọng là chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với khu vực miền núi, khu vực dân tộc thiểu số, các chính sách về xóa đói giảm nghèo... Huyện Vị Xuyên là một vùng dân tộc thiểu số, miền núi và biên giới. Đây là vùng chiếm số đông các dân tộc thiểu số sinh sống, có tốc độ tăng trưởng kinh tế tốt nhưng do xuất phát điểm thấp nên quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé, tình trạng đói nghèo còn ở mức cao và phổ biến, lệ thuộc nhiều vào sự đầu tư của các cấp. Đặc biệt, do có đường biên giới với nước ngoài nên nơi đây là những địa bàn nhạy cảm về chính trị, buộc phải đặt vấn đề phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo an ninh - quốc phòng. Tuy nhiên, 36 nơi đây vẫn là vùng có nhiều tiềm năng và cơ hội để phát triển. Là nơi có địa bàn lớn, có nhiều dân tộc, có tuyến biên giới dài, có tuyến quốc lộ quan trọng chạy qua, do vậy, huyện cần quan tâm đến quản lý và sử dụng có hiệu quả hạ tầng xã hội, hạ tầng giao thông, hạ tầng thông tin để tạo sự thúc đẩy, lan tỏa hình thành các mạng lưới liên kết vùng phát triển kinh tế hiệu quả và bền chặt. Mặc dù kinh tế có phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng đất đai, tài nguyên khoáng sản, thế mạnh về con người, lợi thế về địa lý. Chính vì thế Vị Xuyên chưa phát huy được vai trò của huyện động lực như mong muốn. Sự phát triển và thành tựu của các lĩnh vực chủ yếu dọc trục quốc lộ 2, chủ yếu địa bàn thị trấn, thị tứ, chủ yếu ở những nơi được tập trung chỉ đạo thường xuyên và liên tục của huyện và của tỉnh Điều này cho thấy yếu tố tự nhiên và xã hội của Vị Xuyên có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện các chính sách về dân tộc cũng như tăng trưởng kinh tế. Việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án lớn ở huyện Vị Xuyên luôn phải tính đến việc khắc phục những khó khăn của điều kiện tự nhiên cũng như khả năng tiếp nhận của người dân trên địa bàn huyện. Dù vậy, là địa bàn có nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế như khoáng sản, thủy điện, tài nguyên thiên nhiên phong phú, có vị trí đối nội đối ngoại trọng điểm của tỉnh, có nhiều giá trị văn hóa lịch sử và tâm linh, trong tương lai Vị Xuyên hoàn toàn có thể là nơi khai thác tài nguyên tốt phục vụ cho đời sống của người dân địa phương. Mặt khác, Vị Xuyên là mảnh đất giàu truyền thống, kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc. Nhân dân các dân tộc Vị Xuyên trong những năm qua luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm vượt lên nghèo khó, hòa nhập với nhân dân trong tỉnh Hà Giang và cả nước. Đây chính là điều kiện quan trọng đảm bảo cho sự thành công khi triển khai thực hiện các 37 chính sách của Đảng và Nhà nước đối với khu vực miền núi trọng điểm như huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. 2.2. Chuyển biến về kinh tế 2.2.1. Bước đầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế Huyện Vị Xuyên là một địa bàn có tầm quan trọng chiến lược của tỉnh Hà Giang nói chung và khu vực biên giới Việt - Trung nói riêng. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc trước sự xâm lược của Trung Quốc, quân dân huyện Vị Xuyên đã anh dũng chiến đấu cùng với nhân dân của tỉnh Hà Tuyên và các tỉnh biên giới phía Bắc đánh bại âm mưu của kẻ thù, bảo vệ an ninh vùng biên của đất nước. Sau cuộc chiến năm 1979, huyện Vị Xuyên tiếp tục phải chịu nhiều thiệt hại trước sự đánh phá của kẻ thù. Ngày 7 tháng 5 năm 1981, Trung Quốc dùng pháo cối hạng nặng bắn phá các xã Lao Chải, Thanh Thủy, Minh Tân, Phương Tiến sau đó dùng bộ binh đánh chiếm các cao điểm 1800A, 1800B, 1875, 1558. Từ ngày 7 đến 23 tháng 5 năm 1981, Trung Quốc bắn sang khu vực biên giới huyện Vị Xuyên hơn 9.000 quả đạn pháo là chết 2 người dân, 11 người bị thương, 189 ngôi nhà bị phá hủy [10; tr. 162-163]. Trước tình hình đó, huyện Vị Xuyên được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hà Tuyên đã kịp thời đề ra các biện pháp ổn định tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; tiến hành kiểm tra bố trí lại lực lượng chiến đấu ở tuyến trước, tổ chức cho nhân dân sơ tán về tuyến sau. Tháng 5 năm 1982, Chính phủ quyết định cho giải thể một số xã ở vùng biên, tách nhập một số thôn vào các xã khác để phù hợp với thế trận chiến đấu (giải thể xã Thanh Hương, sáp nhập các thôn của xã Thanh Hương vào Thanh Đức và Xín Chải, tách một số thôn của xã Phương Tiến vào xã Thanh Thủy). 38 Đến năm 1984, Trung Quốc lại tiến hành chiến tranh xâm lấn biên giới, tăng cường kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống Việt Nam. Trung Quốc sử dụng quân đoàn 14 và một số sư đoàn độc lập thuộc đại quân khu Côn Minh tấn công dồn dập vào biên giới Hà Tuyên và chủ yếu tập trung ở Vị Xuyên. Chiến trường Bắc Vị Xuyên trở thành chiến trường nóng bỏng nhất cả nước [10; tr. 169]. Cho đến năm 1985, quân Trung Quốc vẫn tìm mọi cách quấy phá an ninh của ta. Không chỉ về quân sự, quân Trung Quốc còn tìm cách phá hoại về kinh tế, chính trị, văn hóa, phao tin đồn nhảm gây hoang mang trong nội bộ ta [149; tr. 4]. Để đối phó với tình hình trên, huyện Vị Xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân về âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, đề cao tinh thần cảnh giác trong mọi tình huống, gắn chặt lực lượng an ninh với việc củng cố quốc phòng toàn dân. Từ cuối năm 1985 đến đầu năm 1986, thực hiện chủ trương chung trong tỉnh Hà Giang, huyện Vị Xuyên đã gom các nhóm cư dân ở vùng biên di dời vào sâu trong nội địa, tổ chức cư trú tạm thời cho nhân dân trong một khu vực hoàn chỉnh có chính quyền, tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng; đồng thời đảm bảo đất đai để sản xuất tạo điều kiện ổn định cuộc sống của bà con nhân dân. Đối với những lao động trẻ, khỏe có thể bám trụ lại vùng biên vừa sản xuất, vừa chiến đấu được tập trung lại trong các địa bàn nhất định để thuận tiện cho việc quản lý, sinh hoạt, củng cố công tác an ninh [149; tr. 4]. Năm 1986 là năm đầu tiên trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm 1986 - 1990 với 3 chương trình kinh tế lớn là: Chương trình sản xuất lương thực, phực phẩm; Chương trình sản xuất hàng tiêu dùng; Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với Vị Xuyên lúc này vẫn gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh chiến sự vẫn thường xuyên xảy ra, quân và dân ở đây ở trong điều kiện vừa sản xuất vừa chiến đấu. Nhiều vùng đất canh tác ở biên cương bị bỏ hoang do đạn pháo kích của quân Trung Quốc gây ra, số dân bám trụ sản xuất không được bao nhiêu, số lui vào nội địa việc bố trí sản xuất, đời 39 sống còn chưa ổn định. Cơ sở vật chất phục vụ sản xuất chưa được củng cố và tăng thêm, vật tư nhà nước cung cấp không đáp ứng đủ theo nhu cầu [149; tr. 1]. Nhiệm vụ quan trọng đặt lên hàng đầu trong lúc này của huyện Vị Xuyên là: Tăng cường củng cố quốc phòng toàn dân, toàn diện, xây dựng làng xã, huyện pháo đài vững chắc, thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn và kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của bọn phản động Trung Quốc [149; tr. 2]. Về cơ bản, kinh tế huyện Vị Xuyên giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990) chỉ có nông - lâm nghiệp nếu xét theo cơ cấu các ngành kinh tế. Nông nghiệp là trọng tâm, là chủ đạo trong tất cả các giải pháp, kế hoạch mà huyện đưa ra nhằm thực hiện những chủ trương của tỉnh và của Đảng, Nhà nước. Những lĩnh vực về công nghiệp, dịch vụ vẫn chưa có gì đáng kể. Từ sau khi tỉnh Hà Tuyên được chia tách1, huyện Vị Xuyên bắt đầu thực hiện đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, nhưng vẫn chỉ mới tập trung vào ngành nông - lâm nghiệp. Huyện đã xác định lại cơ cấu vùng sản xuất, xác định cơ cấu cây trồng, chuyển nền sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa; từ điều kiện tự nhiên, đất đai của từng vùng để xác định hình thành vùng sản xuất hàng hóa như vùng chè, quế, vùng cây ăn quả, thâm canh lương thực [155; tr. 3]. Việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông lâm - nghiệp có 7/23 xã chuyển biến tích cực. Điển hình là xã Trung Thành có 756 hộ, thu nhập bình quân 2 triệu đồng/người/năm. [155; tr. 4]. Từ năm 1995 trở đi vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngoài việc tiếp tục nhấn mạnh đến kinh tế nông - lâm nghiệp thì bắt đầu đề cập đến phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp. Phương hướng từ năm 1995 đến năm 2000 1 Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 9 năm 1991 đã ra nghị quyết về việc chia tách một số tỉnh, trong đó tỉnh Hà Tuyên chia thành 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. 40 mà huyện Vị Xuyên vạch ra là: "Tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, trọng tâm là phát triển và mở rộng diện tích cây chè, cà phê, cây ăn quả, cây lâm nghiệp thành vùng tập trung phục vụ cho công nghiệp chế biến... Thâm canh lúa nước, ngô để đảm bảo lương thực tại chỗ" [155; tr. 8]. Với phương hướng mới đó, từ năm 1996 trở đi, cơ cấu ngành kinh tế của huyện Vị Xuyên đã bớt đơn điệu hơn giai đoạn trước. Thay vì chỉ thuần túy nông, lâm nghiệp, lúc này ngành tiểu thủ công nghiệp đã có một vị trí nhất định trong cơ cấu kinh tế ngành của huyện, mặc dù còn chiếm vị trí hết sức khiêm tốn. Đến cuối năm 1996, lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp của huyện Vị Xuyên bắt đầu phát triển, tập trung ở một số ngành nghề chính như: khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất dụng cụ cầm tay, sản xuất đồ gỗ... Đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại địa bàn, trong năm đã khai thác được 3.407m3 đá hộc, sản xuất được 2.948.000 viên gạch chỉ, 937 tấn vôi củ, 830m3 gỗ xây dựng, 3.907 nông cụ các loại. Giá trị tổng sản lượng thủ công nghiệp đạt 5.564,7 triệu đồng, tăng 109,2% so với năm 1995 [156; tr. 6]. So với con số giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp năm 1996 đạt 112.268,8 triệu đồng [156; tr. 1] thì giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp còn chênh lệch rất lớn. Dù vậy, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp vẫn cho thấy vai trò ngày càng quan trọng trong cơ cấu phát triển kinh tế của huyện Vị Xuyên. Trước năm 1997, kế hoạch cho phát triển lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp gần như không được đề cập vì khả năng cũng như thực tế phát triển của lĩnh vực này rất thấp và yếu kém. Lĩnh vực công nghiệp lần đầu tiên được đề cập đến trong phương hướng phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên năm 1997. Đó là "đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng, công cụ cầm tay. Tiếp tục đầu tư cho nhân 41 dân vay vốn lắp đặt máy chế biến chè mi ni, máy chưng cất dầu sả, xây dựng các dự án vừa và nhỏ để thu hút người lao động tạo ra sản phẩm cho người lao động" [156; tr. 5]. Có thể nói đây là một bước tiến mới trong việc vạch kế hoạch phát triển kinh tế ở địa phương. 2.2.2. Sự phát triển của các ngành kinh tế 2.2.2.1. Nông - lâm nghiệp Kinh tế nông - lâm nghiệp luôn được xác định là lĩnh vực trọng tâm, quan trọng hàng đầu của Vị Xuyên, nhất là trong thời gian đầu thực hiện hiện công cuộc đổi mới. Ngay từ năm 1986, phương hướng nhiệm vụ chủ yếu của huyện Vị Xuyên được xác định là: "Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện. Trọng tâm là sản xuất lương thực, thực phẩm trên cơ sở thâm canh, gắn với việc sản xuất nông lâm kết hợp, củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn. Phát triển thêm một bước sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng nông sản (chè, lạc, ngô) và các mặt hàng lâm sản (mây song và các mặt hàng mây tre đan lát) bằng các hình thức tổ chức sản xuất, thu mua thích hợp" [149; tr. 2]. Trong sản xuất nông nghiệp, các loại cây lương thực được hết sức chú trọng, đặc biệt là cây lúa và cây ngô được xem là hai cây chủ lực. Mặc dù đã chủ động đề ra kế hoạch đưa diện tích, sản lượng của cây lúa, ngô tăng lên, nhưng do điều kiện là huyện biên giới, chiến sự vẫn tiếp tục xảy ra ác liệt, nên những chỉ tiêu về sản xuất lương thực nhìn chung đều không thực hiện được theo như kế hoạch đặt ra. Cho đến năm 1990, tổng sản lượng lương thực quy thóc của huyện Vị Xuyên mới đạt được con số 18.315 tấn, bình quân 1 nhân khẩu là 305 kg/năm [151; tr. 3]. Con số này vẫn còn thấp hơn chỉ tiêu dự kiến đạt được năm 1986 (kế hoạch dự kiến đưa bình quân lương thực lên 320,8kg/người). 42 Năm 1990 là năm kết thúc kế hoạch 1986 - 1990. Đối với Vị Xuyên tình hình kinh tế - chính trị diễn ra phức tạp, giá cả thị trường không ổn định ảnh hưởng đến đời sống sản xuất và đời sống của nhân dân [151; tr. 1]. Trong lĩnh vực sản xuất nông - lâm nghiệp, phần lớn kết quả đạt được xấp xỉ chỉ tiêu đặt ra, một số ít đạt hoặc vượt. Chẳng hạn diện tích gieo trồng lúa đạt 103% kế hoạch so với năm 1989; tương tự cây ngô đạt 106%. Tuy nhiên năng suất và sản lượng lại không đạt như kế hoạch. Cho đến đầu thập niên 90, cây lúa và cây ngô vẫn là cây lương thực chính của huyện Vị Xuyên. Trên địa bàn huyện vẫn có một vài loại cây khác được trồng nhưng không phổ biến và năng suất cũng không cao (ví dụ như cây lạc). Dù vậy, cả năng suất và sản lượng chưa thực sự cao và có phần giảm sút nếu so với năm 1989. Nguyên nhân được chỉ ra là do năm 1990, huyện Vị Xuyên gặp thời tiết bất lợi, vụ Đông Xuân có rét đậm kéo dài, mưa lũ gây thiệt hại nặng dẫn đến diện tích gieo trồng một số xã như Tùng Bá, Thuận Hòa... bị thu hẹp. Mặt khác, việc đầu tư cho cây của người nông dân còn ít (như về giống lúa, phân bón...) trong khi đó giá phân đạm tăng đột ngột, hàng nông sản giá thu mua thấp nên sức mua để đầu tư cho nông nghiệp của người dân hạn chế [151; tr. 3]. Việc thực hiện chủ trương khoán trong nông nghiệp đã phần nào có tác dụng tích cực đối với tình hình sản xuất của toàn huyện, tuy nhiên mức độ phổ biến vẫn chưa cao. Toàn huyện có 122 hợp tác xã thì mới chỉ có 63 hợp tác xã thực hiện công tác khoán vào thời điểm năm 1990. Hơn nữa, việc giao đất chưa thật công bằng dẫn đến tình trạng lấn chiếm đất đai, ban quản trị điều hành còn lúng túng. Trong khi công tác dịch vụ phục vụ nông nghiệp hoạt động yếu chưa đáp ứng được yêu cầu [151; tr. 3]. Chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò và lợn. Cho đến năm 1990, đàn lợn nuôi theo mô hình quốc doanh không còn tồn tại nữa do thiếu vốn đầu tư, chỉ còn phát triển dưới hình thức hộ gia đình. Tổng đàn lợn có 20.875 con (đạt 95,88% 43 kế hoạch), đàn trâu có 16.597 con (đạt 93,66% kế hoạch), đàn bò có 573 con (đạt 99,68% kế hoạch) [151; tr. 4]. So với năm 1985, số lượng đàn gia súc tăng lên với tốc độ chậm, tương ứng với tốc độ phát triển của sản xuất lương thực (xem Bảng 2.1). Bảng 2.1. Tổng đàn gia súc qua một số năm (đơn vị tính: con) Đàn gia súc Năm 1985 Năm 1990 Lợn 20.110 20.875 Trâu 15.800 16.597 Bò 300 573 Nguồn: [149; tr.5 và 151; tr. 4]. Trong sản xuất lâm nghiệp, ngay từ năm 1985 Vị Xuyên đã xem trồng rừng và bảo vệ rừng là một việc làm cấp bách, nhằm tăng nhanh diện tích phủ xanh đất trống đồi trọc, theo tinh thần sản xuất nông lâm kết hợp. Lĩnh vực lâm nghiệp thời gian này được chia thành bốn nhóm nhiệm vụ rõ nét, đó là: trồng rừng tập trung, chăm sóc rừng, tu bổ rừng và khai thác lâm sản. Năm 1985, huyện Vị Xuyên thực hiện nhiệm vụ trồng rừng tập trung ước đạt 400 ha, trong đó quốc doanh trồng được 200 ha, còn lại do các hợp tác xã thực hiện. Số lượng trồng rừng phân tán cũng khá lớn, năm 1985 đạt khoảng 1.000 ha. Diện tích rừng trồng phân tán một phần do quốc doanh, còn lại là cán bộ công nhân viên, học sinh, bộ đội đóng trên địa bàn thực hiện. Việc chăm sóc và tu bổ rừng cũng được thực hiện do quốc doanh và các hợp tác xã thực hiện, ngoài ra còn huy động thêm lực lượng học sinh, bộ đội [149; tr. 9]. Riêng khai thác lâm sản đều do quốc doanh thực hiện, vừa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt vừa sử dụng để xuất khẩu. Năm 1985, khai thác gỗ tròn được 1.700m3, ngoài ra còn có các loại khác như tre, vầu, mây song. 44 So với năm 1985, lĩnh vực lâm nghiệp năm 1990 có phần chững lại, hoạt động không hiệu quả. Diện tích trồng rừng tập trung năm 1990 chỉ thực hiện được 20 ha (bằng 6,9% kế hoạch đặt ra). Phần lớn trồng rừng chủ yếu là do hộ gia đình thực hiện. Báo cáo tình hình năm 1990 của huyện Vị Xuyên đã đánh giá: "Sản xuất lâm nghiệp thuộc khu vực quốc doanh trong năm 1990 gặp nhiều khó khăn, vốn do nhà nước cấp rất muộn cho nên đơn vị không có vốn. Đời sống công nhân gặp nhiều khó khăn... Việc khai thác lâm sản và bảo vệ rừng còn kém hiệu q... công dân biết; thời gian hoàn thành các công việc liên quan trực tiếp đến tổ chức, công dân rút ngắn 1/3 thời gian theo quy định hiện hành, cụ thể như sau: 1. Cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo Luật Đầu tư: a) Đối với dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đến dưới 300 tỷ đồng, không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện; không thuộc danh mục dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô dưới 300 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ, trong đó: - Trong thời hạn 05 ngày làm việc, Sở Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành báo cáo trình UBND Tỉnh. - Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư. b) Đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và dự án có quy mô trên 300 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn là 17 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ, trong đó: - Trong thời hạn 13 ngày làm việc, Sở Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành báo cáo thẩm tra trình UBND Tỉnh. - Trong thời hạn không quá 04 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư. c) Đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ thì thời gian hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận đầu tư là 37 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký đầu tư hợp lệ. 210 d) Thời hạn quy định trên đây không kể thời gian khi nhà đầu tư phải chỉnh sửa, bổ sung hồ sơ theo yêu cầu của cơ quan tiếp nhận hồ sơ sau khi tổng hợp ý kiến thẩm tra của các bộ, ngành và các sở, ngành liên quan. 2. Đối với việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất a) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 123 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì thời gian hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn 33 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, trong đó: - Trong thời hạn không quá 23 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoàn thành hồ sơ địa chính theo quy định, gửi đến Phòng Tài nguyên và Môi trường. - Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ địa chính của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Phòng Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc thẩm tra hồ sơ địa chính và trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp xem xét quyết định. - Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được Tờ trình của Phòng Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoàn thành việc quyết định giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ký kết hợp đồng thuê đất đối với trường hợp thuê đất. b) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 125 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Sở Tài nguyên - Môi trường hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn là 13 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Thời gian nói trên không kể thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính. c) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 126 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Sở Tài nguyên - Môi trường hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn 13 ngày làm việc kể từ ngày giải phóng xong mặt bằng và nhận được hồ sơ hợp lệ. Thời gian nói trên không kể thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính. 211 d) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 128 Nghị định 181/2004/NĐ-CP thì thời gian hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn là 12 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, trong đó: - Trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ của người sử dụng đất, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu hoàn thành thủ tục về giao lại đất hoặc cho thuê đất theo quy định và gửi quyết định giao lại đất hoặc hợp đồng cho thuê đất kèm theo hồ sơ đến cơ quan tài nguyên và môi trường thuộc UBND cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định giao lại đất hoặc hợp đồng cho thuê đất, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trình UBND cùng cấp ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gửi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu. - Trong thời gian không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày người sử dụng đất thực hiện xong nghĩa vụ tài chính với cơ quan thuế, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu hoàn thành việc bàn giao đất trên thực địa và trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất. 3. Thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình a) Thời gian thẩm định dự án, bao gồm cả thời gian thẩm định thiết kế cơ sở được tính từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ: - Đối với dự án nhóm B: Thời gian thẩm định là 20 ngày làm việc. - Đối với dự án nhóm C: Thời gian thẩm định là 13 ngày làm việc. b) Thời hạn quy định trên đây không kể thời gian chủ đầu tư phải chỉnh sửa, bổ sung hồ sơ dự án theo ý kiến thẩm định của các ngành chức năng. 4. Thời gian thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, Sở Tài nguyên - Môi trường hoàn thành công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án, trình UBND tỉnh. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, 212 UBND tỉnh xem xét phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án. 5. Thời gian thẩm định và cấp giấy phép xây dựng Trong thời hạn 13 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ xin cấp giấy phép xây dựng của nhà đầu tư (Sở Xây dựng, UBND các huyện, thị xã theo thẩm quyền được quy định tại Điều 25 Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ) hoàn thành việc cấp giấy phép xây dựng công trình cho nhà đầu tư. 6. Thời gian thẩm định và cấp giấy phép hoạt động khoáng sản a) Trong thời hạn 40 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ của tổ chức trong nước xin cấp giấy phép hoạt động khoáng sản hoặc của tổ chức nước ngoài, tổ chức liên doanh có bên nước ngoài xin cấp giấy phép khảo sát, thăm dò khoáng sản, Sở Tài nguyên & Môi trường hoàn thành việc thẩm định hồ sơ, trình UBND tỉnh xem xét việc cấp phép. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do Sở Tài nguyên & Môi trường trình, UBND tỉnh quyết định việc cấp phép hoặc không cấp phép hoạt động khoáng sản. b) Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh có bên nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư và nộp đầy đủ, hợp lệ hồ sơ xin cấp giấy phép khai thác, chế biến khoáng sản theo quy định, Sở Tài nguyên & Môi trường hoàn thành việc thẩm định hồ sơ, trình UBND tỉnh xem xét việc cấp phép. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do Sở Tài nguyên & Môi trường trình, UBND tỉnh quyết định việc cấp phép. Chương II ÁP DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ Điều 5. Về giá thuê đất, thuê mặt nước 1. Đơn giá thuê đất được tính theo Quyết định số 2157/QĐ-UBND ngày 21/8/2006, Quyết định số 3340/2008/QĐ-UBND ngày 08/10/2008 và Quyết định số 4476/2008/QĐ-UBND ngày 19/12/2008 của UBND tỉnh Hà Giang và Quyết định bổ sung (nếu có). 213 2. Mức giá đất để tính đơn giá thuê đất được áp dụng trên cơ sở bảng giá đất được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt hàng năm và các quy định hiện hành của Nhà nước. Điều 6. Về ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất Nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng đất làm mặt bằng sản suất kinh doanh mà lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, được miễn, giảm tiền sử dụng đất được quy định tại Điều 11, Điều 12 và Điều 13 Nghị định số: 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất và quy định tại Điều 1 Nghị định số 44/2008/NĐ-CP, ngày 09/04/2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất. Điều 7. Về ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước Ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước thực hiện theo quy định tại Điều 13, Điều 14 và Điều 15 Nghị định số: 142/2005/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2005 của Chính Phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước. Điều 8. Về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp 1. Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 15; áp dụng miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 16, Điều 17; điều kiện áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 19 - Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. 2. Các dự án đầu tư tại khu công nghiệp, khu kinh tế, bao gồm: Dự án đầu tư vào ngành nghề, lĩnh vực thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư; dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu phi thuế quan; dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao; dự án đầu tư có qui mô lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển ngành, lĩnh vực hoặc phát triển kinh tế - xã hội của khu vực sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận (theo quy định tại điểm a, b, c, d, khoản 4 Điều 16 Nghị định số: 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ, quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế) được áp dụng và hưởng ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp. 214 3. Doanh nghiệp có dự án đầu tư tại khu công nghiệp, khu kinh tế, có chi phí hợp lý, như: Chi phí đầu tư xây dựng, vận hành, hoặc cho thuê nhà chung cư và các công trình kết cấu hạ tầng xã hội phục vụ cho công nhân làm việc tại khu công nghiệp, khu kinh tế (theo quy định tại Khoản 6 Điều 16 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ, quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế), sẽ được khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Điều 9. Ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân Người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại khu kinh tế (theo quy định tại Khoản 5 Điều 16 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ, quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế), có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập, được giảm 50% thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân. Điều 10. Về ưu đãi miễn thuế nhập khẩu Nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu để thực hiện dự án đầu tư thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Chương III CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẦU TƯ Điều 11. Đối với khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu 1. Chính sách hỗ trợ đầu tư đối với khu công nghiệp: Thực hiện theo Quyết định số 43/2009/QĐ - TTg ngày 19 tháng 03 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ. 2. Chính sách hỗ trợ đầu tư đối với khu kinh tế cửa khẩu: Thực hiện theo Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 03 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ. Điều 12. Đối với các dự án đầu tư riêng lẻ Ngân sách địa phương hỗ trợ tối đa không quá 50 % kinh phí đền bù, giải phóng mặt bằng trên diện tích được giao hoặc cho thuê để xây dựng nhà máy và hỗ trợ tối đa không quá 30 % kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng để làm đường giao thông, đường điện từ trục chính đến hàng rào nhà máy. Các 215 ngành chức năng của UBND tỉnh và UBND các huyện, thị xã tổ chức thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng, rà phá vật cản trên diện tích đất thu hồi trước khi giao đất hoặc cho thuê đất. Điều 13. Hỗ trợ đầu tư đối với các dự án cơ sở hạ tầng nằm trong vùng nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản 1. Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, như: Đường từ trục chính vào khu nhà máy, hệ thống cấp điện, kho bảo quản, chợ bán buôn nằm trong vùng nguyên liệu tập trung (vùng sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản), gắn với cơ sở chế biến và tiêu thụ, xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản theo quy hoạch được phê duyệt, được Tỉnh hỗ trợ một phần kinh phí đầu tư cho dự án với tỷ lệ nguồn vốn theo địa bàn như sau: a) Dự án đầu tư vào địa bàn các huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê và Thị xã Hà Giang, hỗ trợ tối đa không quá 40 % tổng vốn đầu tư của dự án. b) Dự án đầu tư vào địa bàn các huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì và Xín Mần, hỗ trợ tối đa không quá 60 % tổng vốn đầu tư của dự án. 2. Nguồn vốn hỗ trợ cho các dự án được nêu tại khoản 1 Điều này sử dụng từ nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung theo quy định tại Luật Ngân sách nhà nước năm 2002. Điều 14. Hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư 1. Nhà đầu tư được các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh cung cấp thông tin về thị trường trên địa bàn tỉnh Hà Giang và các vấn đề có liên quan đến dự án đầu tư mà nhà đầu tư yêu cầu. 2. Nhà đầu tư được hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. 3. Nhà đầu tư được đưa thông tin lên mạng trong trang Websie của UBND tỉnh (miễn phí) nhằm xúc tiến, quảng bá đầu tư kinh doanh thương mại, du lịch, giới thiệu hàng hoá của địa phương. Chương IV CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Điều 15. Hỗ trợ chăn nuôi, xây dựng chuồng trại, cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi 216 1. Đối với hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi trâu, bò đực giống được hỗ trợ kinh phí với mức là 1,2 triệu đồng/con/năm cho trâu, bò đực giống đã qua tuyển chọn và được cấp giấy chứng nhận. 2. Ngân sách địa phương hỗ trợ trả lãi suất tiền vay Ngân hàng cho các hộ gia đình, cơ sở chăn nuôi trâu, bò thương phẩm (hàng hoá) và trâu, bò sinh sản như sau: a) Hỗ trợ 50% lãi suất trong 24 tháng cho hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi, kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết. Mức vay tối đa là 20 triệu đồng tại Ngân hàng nông nghịêp & PTNT của các huyện, thị xã. b) Hỗ trợ 100 % lãi suất trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết cho hộ gia đình nghèo chưa có trâu, bò để mua trâu, bò cái sinh sản. Mức vay tối đa là 10 triệu đồng tại Ngân hàng chính sách xã hội của các huyện, thị xã. 3. Các xã thuộc 6 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ và các xã, thôn bản thuộc Chương trình 135 được hỗ trợ 100% tiền mua vắc xin; các xã vùng II được hỗ trợ 50% tiền mua vắc xin để tiêm phòng cho đàn trâu, bò. Việc hỗ trợ thông qua cơ quan thú y của các huyện, thị xã. 4. Hỗ trợ hộ gia đình trồng cỏ gắn với chăn nuôi trâu, bò, cụ thể như sau: a) Hỗ trợ mua giống cỏ trồng trong năm đầu, với mức hỗ trợ 0,9 triệu đồng/ha. Diện tích trồng cỏ tối thiểu được hưởng chính sách hỗ trợ là 500 m2/hộ, trên cơ sở kết quả nghiệm thu của Hội đồng nghiệm thu cấp huyện. b) Hỗ trợ kinh phí khuyến nông và quản lý chương trình trồng mới cỏ chăn nuôi. Mức hỗ trợ là 100.000 đồng/ha. 5. Các hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi không thuộc địa bàn 6 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ được hỗ trợ 50% lãi suất vốn vay ngân hàng trong thời hạn 36 tháng cho để làm chuồng trại chăn nuôi trâu, bò hàng hoá. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 50 triệu đồng. 6. Các hộ gia đình và doanh nghiệp không thuộc địa bàn 6 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ được hỗ trợ 50% lãi suất trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh để xây dựng cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 50 triệu đồng/ hộ gia đình và 200 triệu đồng/doanh nghiệp. 217 Điều 16. Chính sách đối với Hợp tác xã Các hợp tác xã khó khăn về vốn, có nhu cầu vay vốn, Ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% lãi suất vay vốn tại Ngân hàng nông nghiệp tỉnh Hà Giang trong thời gian 03 năm, với mức vay không quá 100 triệu đồng/Hợp tác xã. Điều 17. Hỗ trợ phát triển chè, thâm canh lúa, ngô và trồng rừng sản xuất 1. Hỗ trợ phát triển chè a) Trồng mới, thâm canh, cải tạo chè: Hỗ trợ 100% lãi suất trong thời hạn 60 tháng, kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh cho hộ gia đình vay vốn để trồng mới, thâm canh và cải tạo chè già. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất đối với trồng chè mới là 15 triệu đồng/ha; thâm canh chè 07 triệu đồng/ha và cải tạo chè già là 05 triệu đồng/ha. Diện tích chè tối thiểu được hưởng chính sách hỗ trợ là 300m2/hộ. b) Các doanh nghiệp chế biến có ký hợp đồng với nhân dân để trồng và thu mua sản phẩm, được vay vốn, ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% lãi suất trong thời gian 03 năm để đầu tư, nâng cấp hoặc xây dựng mới cơ sở chế biến chè. Mức vay được hỗ trợ lãi suất là 50% giá trị đầu tư. c) Các doanh nghiệp chế biến có kế hoạch xây dựng thương hiệu, đăng ký chất lượng sản phẩm chè, quảng bá sản phẩm lần đầu được hỗ trợ 50% chi phí. 2. Hỗ trợ thâm canh lúa, ngô a) Hộ nghèo không thuộc địa bàn thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ được hỗ trợ một lần với mức 3 triệu đồng/hộ để mua giống mới và phân bón phục vụ thâm canh lúa, ngô (danh mục giống mới do Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn thông báo). b) Các hộ không thuộc địa bàn thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ hoặc địa bàn thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II được hỗ trợ 100% lãi suất trong thời hạn 09 tháng, kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết giữa các hộ với các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh để mua giống mới và phân bón phục vụ thâm canh lúa, ngô. Mức vốn vay được hỗ trợ lãi suất là 5 triệu đồng/ha. (danh mục giống mới do Sở Nông nghiệp & phát triển nông thôn thông báo). 218 3. Hỗ trợ trồng rừng sản xuất: Đối với các hộ nghèo không thuộc xã Ngọc Minh huyện Vị Xuyên, xã Bản Rịa huyện Quang Bình và các xã thuộc 6 huyện được thụ hưởng Nghị quyết 30a của Chính phủ, ngoài nguồn vốn hỗ trợ của chương trình 5 triệu ha rừng được ngân sách tỉnh hỗ trợ thêm 1 triệu đồng/ha để trồng rừng sản xuất. Điều 18. Hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản Khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình được thuê đất, thuê mặt nước (nguồn nước sông, suối tự nhiên) để nuôi trồng thuỷ sản; được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định hiện hành của nhà nước và được Tỉnh hỗ trợ đầu tư như sau: 1. Hỗ trợ với mức 05 triệu đồng/ha cho các hộ nghèo thuộc các xã vùng III và thôn vùng III của xã Vùng II của tỉnh để xây dựng ao thả cá. Diện tích ao tối thiểu để được hỗ trợ phải từ 0,5 ha trở lên. 2. Hỗ trợ 50 % lãi suất trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các ngân hàng trên địa bàn tỉnh cho hộ gia đình và doanh nghiệp để đầu tư nuôi trồng thuỷ sản. Mức vay tối đa là 20 triệu đồng/hộ gia đình và 50 triệu đồng/tổ chức. Điều 19. Hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động 1. Nhà đầu tư thực hiện mở lớp đào tạo nghề tập trung hoặc gửi lao động của địa phương đi đào tạo nghề và tuyển dụng vào làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư được ngân sách tỉnh hỗ trợ tối đa không quá 750.000đ/người/khoá học nghề (mỗi lớp đào tạo phải có ít nhất 20 người trở lên) sau khi đã có ký kết hợp đồng sử dụng lao động theo quy định. 2. Hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho lao động đi xuất khẩu theo chương trình, kế hoạch của tỉnh, thông qua các trung tâm đào tạo nghề của tỉnh, với mức hỗ trợ tối đa không quá 750.000đ/người/khoá học nghề. Điều 20. Chính sách đối với các cơ sở giáo dục (trường, lớp) mầm non tư thục 1. Cá nhân, nhóm cá nhân có nhu cầu đầu tư xây dựng các trường, lớp mầm non tư thục được Nhà nước giao đất, được miễn tiền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. 219 2. Được hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 24 tháng với mức tiền vay không quá 01 tỷ đồng để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của trường, lớp mầm non tư thục kể từ khi cơ sở đi vào hoạt động có hiệu quả. 3. Được xem xét hỗ trợ một phần trang thiết bị ban đầu (01 lần) cho các trường, lớp mầm non tư thục khi mới thành lập. 4. Được xem xét áp dụng các chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập theo Nghị định số: 53/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2006 của Chính phủ (trừ chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đã được quy định tại Điều 22 của Quy định này); xem xét áp dụng chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường theo Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/05/2008 của Chính phủ. Điều 21. Hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn Các cơ sở ngành nghề nông thôn (sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản và các sản phẩm văn hoá) được Tỉnh hỗ trợ 50% lãi suất vốn vay ngân hàng trong thời gian 24 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh để phát triển ngành nghề nông thôn. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 20 triệu đồng/ hộ gia đình và 100 triệu đồng/ tổ chức. Điều 22. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Đối với các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Tỉnh trong các lĩnh vực: Giáo dục - đào tạo; y tế; văn hoá; thể dục thể thao; khoa học và công nghệ; môi trường; xã hội; dân số, gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em (trừ các cơ sở trường lớp mầm non tư thục đã quy định tại Khoản 2, Điều 20 của Quy định này và tổ chức, cá nhân thành lập hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đối với các lĩnh vực nêu trên) được ngân sách địa phương hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, như sau: 1. Đối với các cơ sở thành lập tại địa bàn các huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê và Thị xã Hà Giang được xem xét hỗ trợ 50% lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 24 tháng kể từ khi cơ sở kinh doanh được thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuỳ theo quy mô từng cơ sở, mức tiền vay được hỗ trợ lãi suất từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng. 220 2. Đối với các cơ sở thành lập tại địa bàn các huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì và Xín Mần được xem xét hỗ trợ 70 % lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 36 tháng kể từ khi cơ sở kinh doanh được thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuỳ theo quy mô từng cơ sở mức tiền vay được hỗ trợ lãi suất từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng. Chương V TỔ CHỨC THỰC HIỆN Điều 23. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước 1. Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó nhằm giải quyết nhanh chóng các thủ tục cho nhà đầu tư theo đúng thời gian quy định và thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo đúng tiến độ, kế hoạch đã được phê duyệt và đảm bảo theo đúng các quy định của pháp luật. 2. Hàng năm, Uỷ ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm cân đối ngân sách để thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội tại Quy định này. Điều 24 . Trách nhiệm của Nhà đầu tư 1. Nhà đầu tư căn cứ quy định hiện hành của pháp luật về đầu tư tổ chức thực hiện các dự án theo đúng tiến độ và mục tiêu đã được ghi trong giấy chứng nhận đầu tư; sử dụng tối đa lao động tại địa phương, ưu tiên số lao động đã qua đào tạo tại các cơ sở dạy nghề của tỉnh và lao động trong các hộ gia đình có đất bị thu hồi để xây dựng dự án theo tiêu chuẩn tuyển dụng của nhà đầu tư. 2. Quản lý, sử dụng đất được giao hoặc thuê đúng mục đích. Đất được nhà nước giao, thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng chậm hơn 24 tháng so với tiến độ ghi trong giấy chứng nhận đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa hoặc sử dụng đất không đúng mục đích, không có hiệu quả sẽ bị thu hồi. Trường hợp có lý do chính đáng chưa thực hiện được dự án đầu tư thì nhà đầu tư phải báo cáo cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét và cho phép gia hạn thêm, nhưng tối đa không được quá 24 tháng. 221 Điều 25. Khen thưởng - Kỷ luật 1. Đơn vị, cá nhân triển khai thực hiện tốt chính sách của tỉnh đối với nhà đầu tư sẽ được tỉnh xem xét khen thưởng với các hình thức và mức khen thưởng theo các quy định hiện hành của nhà nước. 2. Đơn vị, cá nhân không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư (gây khó khăn phiền hà sách nhiễu) và gây cản trở quá trình kêu gọi dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh thì tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của Pháp lệnh Công chức và các quy định hiện hành của pháp luật. Thủ trưởng cơ quan có người vi phạm phải chịu trách nhiệm trước tỉnh. CHỦ TỊCH Nguyễn Viết Xuân 222 QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 136/2009/QĐ-TTg NGÀY 26 THÁNG 11 NĂM 2009 VỀ VIỆC THÀNH LẬP KHU KINH TẾ CỬA KHẨU THANH THỦY, TỈNH HÀ GIANG THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Căn cứ Luật Đầu tư ngày 29 tháng 11 năm 2005; Căn cứ Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ Quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế; Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang, QUYẾT ĐỊNH: Điều 1. Thành lập Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang. 1. Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang là khu vực có ranh giới địa lý xác định thuộc lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, có không gian kinh tế riêng biệt. Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy gồm địa phận 07 xã: Thanh Thủy, Phương Tiến, Thanh Đức, Xín Chải, Lao Chải, Phong Quang (huyện Vị Xuyên) và Phương Độ (thị xã Hà Giang). Diện tích tự nhiên 28.781 ha. Ranh giới địa lý Khu kinh tế cửa khẩu được xác định như sau: - Phía Bắc giáp Châu Văn Sơn của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc; - Phía Nam giáp xã Cao Bồ của huyện Vị Xuyên và xã Phương Thiện, phường Quang Trung, phường Nguyễn Trãi của thị xã Hà Giang; - Phía Đông giáp xã Thuận Hòa và xã Minh Tân của huyện Vị Xuyên; - Phía Tây giáp xã Thèn Chu Phìn, xã Đản Ván và xã Túng Sán của huyện Hoàng Su Phì. 2. Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy được tổ chức thành khu phi thuế quan và các khu chức năng như: khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và các khu chức năng khác. Quy mô, vị trí từng khu vực được xác định trong quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy. 223 Điều 2. Hoạt động và các cơ chế, chính sách đối với Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang thực hiện theo Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách tài chính đối với Khu kinh tế cửa khẩu và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Điều 3. Điều khoản thi hành 1. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 01 năm 2010. Bãi bỏ Quyết định số 184/2001/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang được áp dụng chính sách khu kinh tế cửa khẩu biên giới. 2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./. THỦ TƯỚNG (đã ký) Nguyễn Tấn Dũng Nguồn: 224 Phụ lục 10. Một số hình ảnh về huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang Cổng chào huyện Vị Xuyên trên quốc lộ 2 Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn Toàn cảnh thị trấn Vị Xuyên Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn 225 Tổng Bí thư Đỗ Mười với bà con các dân tộc huyện Vị Xuyên (1993) Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển Cánh đồng mẫu ở xã Tùng Bá, huyện Vị Xuyên Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển 226 Đoàn đại biểu tỉnh Hà Giang sang thăm Trung Quốc qua cửa khẩu Thanh Thuỷ Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển Làng văn hoá du lịch thôn Khuổi Lác, xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên 227 Sinh hoạt tín ngưỡng của người Dao, xã Đạo Đức, Vị Xuyên Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên Làng văn hoá thôn Thanh Sơn, xã Thanh Thuỷ, Vị Xuyên Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên 228 Làng nghề chổi chít thị trấn Việt Lâm Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên Múa khèn tại lễ hội Gầu Tào, thị trấn Việt Lâm Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên 229 Vùng chè san tuyết tại xã Cao Bồ, Vị Xuyên Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên Khai giảng năm học mới tại Trường THCS Lý Tự Trọng Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn 230 Chủ tịch nước tặng quà cho đồng bào xã Minh Tân, huyện Vị Xuyên Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn Khánh thành nhà máy chế biến quặng sắt huyện Vị Xuyên Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển 231 Phó Thủ tướng thăm lớp học điện công nghiệp Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn Khánh thành công trình đường dây và trạm biến áp 110 kV Bình Vàng, Vị Xuyên, Hà Giang Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển 232

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chuyen_bien_kinh_te_xa_hoi_huyen_vi_xuyen_tinh_ha_gi.pdf
Tài liệu liên quan