Luận án Chính sách của Việt Nam đối với Lào giai đoạn 2011 - 2020: Tiếp cận từ góc độ lợi ích quốc gia - dân tộc

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO PHAN CHÍ THÀNH CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI LÀO GIAI ĐOẠN 2011-2020: TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ LỢI ÍCH QUỐC GIA - DÂN TỘC LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ MÃ SỐ: 9310206 Hà Nội - 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO PHAN CHÍ THÀNH CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI LÀO GIAI ĐOẠN 2011-2020: TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ LỢI ÍCH QUỐC GIA - DÂN TỘC Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế Mã số: 9310

pdf219 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Chính sách của Việt Nam đối với Lào giai đoạn 2011 - 2020: Tiếp cận từ góc độ lợi ích quốc gia - dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
206 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. NGUYỄN VŨ TÙNG Hà Nội – 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan Luận án “Chính sách của Việt Nam đối với Lào giai đoạn 2011-2020: tiếp cận từ góc độ lợi ích quốc gia-dân tộc’’ là công trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung nghiên cứu và kết quả được trình bày trong Luận án là trung thực và chưa từng được công bố. Kết quả nghiên cứu của Luận án thể hiện quan điểm khoa học của cá nhân, không phản ánh ý kiến của cơ quan, tổ chức nơi Nghiên cứu sinh công tác./. Hà Nội, ngày tháng 2 năm 2021 Tác giả luận án Phan Chí Thành LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Học viện Ngoại giao, Bộ Ngoại giao đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và triển khai đề tài nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin cảm ơn Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Tùng - Đại sứ Việt Nam tại Hàn Quốc, nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao đã hướng dẫn, giúp đỡ và định hướng cho tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận án; cảm ơn Tiến sỹ Phạm Lan Dung, Quyền Giám đốc Học viện Ngoại giao đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành Luận án. Tôi cũng xin cảm ơn GS-TS Trần Thị Vinh, GS-TS Nguyễn Thái Yên Hương, GS-TS Hoàng Khắc Nam, PGS-TS Dương Văn Quảng, PGS-TS Nguyễn Huy Hoàng, PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Thủy, PGS-TS Võ Kim Cương, PGS- TS Nguyễn Thị Hạnh, PGS-TS Đỗ Thị Thủy đã tận tình góp nhiều ý kiến khoa học, phân tích, phản biện giúp tôi hoàn thành luận án. Tôi xin cảm ơn TS. Đỗ Thị Thanh Bình và các nhân viên Phòng Đào tạo sau đại học Học viện ngoại giao đã tận tình hướng dẫn thủ tục, đôn đốc và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập ở Học viện. Cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã chia sẻ nhiều ý kiến, thông tin, tư liệu quý giá, giúp tôi trong quá trình thực hiện luận án. Đặc biệt tôi cảm ơn gia đình đã động viên tôi hoàn thành luận án./. Hà Nội, ngày tháng 2 năm 2021 Tác giả Phan Chí Thành MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC HÌNH MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH .... 23 CỦA VIỆT NAM VỚI LÀO GIAI ĐOẠN 2011-2020 .................................... 23 1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 23 1.1.1. Lợi ích quốc gia dân tộc, quan hệ đặc biệt và chính sách đối ngoại ... 23 1.1.2. Cách tiếp cận chính sách đối ngoại từ góc độ lợi ích quốc gia-dân tộc ..... 31 1.1.2.1. Quan điểm của Đảng về ba lợi ích an ninh, phát triển và vị thế .. 31 1.1.2.2. Cách tiếp cận khoa học về lợi ích quốc gia-dân tộc ..................... 32 1.1.3. Một số mô hình phân tích chính sách đối ngoại theo tiếp cận LIQGDT ..... 37 1.1.4. Mô hình phân tích chính sách đối ngoại trong mối quan hệ đặc biệt ... 42 1.1.4.1. Khung phân tích định tính ............................................................. 42 1.1.4.2. Khung phân tích định lượng ......................................................... 46 1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 49 1.2.1. Yếu tố lịch sử trong chính sách của Việt Nam với Lào ...................... 49 1.2.2. Bối cảnh quốc tế giai đoạn 2011-2020 tác động đến chính sách của Việt Nam với Lào .......................................................................................... 51 1.2.2.1. Các yếu tố quốc tế và khu vực ....................................................... 51 1.2.2.2. Phân tích tác động của các yếu tố bên ngoài đối với chính sách của Việt Nam với Lào ................................................................................. 56 1.2.3. Tình hình trong nước tác động đến chính sách với Lào (2011-2020) . 57 1.2.3.1. Tình hình chung ............................................................................ 57 1.2.3.2. Nhận thức về lợi ích của Việt Nam trong quan hệ với Lào .......... 58 Tiểu kết ................................................................................................................ 60 CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI LÀO GIAI ĐOẠN 2011-2020 ........................................................................... 62 2.1. Phân tích định lượng chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 2011- 2020 ................................................................................................................... 62 2.1.1. Nghiên cứu trường hợp: “Vấn đề Biển Đông trong năm Chủ tịch ASEAN của Lào” .......................................................................................... 62 2.1.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế .................................................... 62 2.1.1.2. Phân tích lợi ích của Việt Nam và Lào trong vấn đề Biển Đông . 63 2.1.1.3. Triển khai chính sách của Việt Nam và Lào trong việc bảo vệ lợi ích của Việt Nam tại Biển Đông................................................................. 65 2.1.1.4. Nhận xét ........................................................................................ 67 2.1.2. Nghiên cứu trường hợp “Dự án thủy điện Xayabury” ........................ 68 2.1.2.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế .................................................... 68 2.1.2.2. Phân tích lợi ích của Việt Nam và Lào ......................................... 69 2.1.2.3. Các vấn đề đặt ra .......................................................................... 72 2.1.2.4. Đàm phán giải quyết sự khác nhau về lợi ích ............................... 72 2.1.2.5. Nhận xét ........................................................................................ 75 2.1.3. Nghiên cứu trường hợp “Chỉ thị 33 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho Lào” ......................................... 76 2.1.3.1. Bối cảnh ra đời của Chỉ thị ........................................................... 76 2.1.3.2. Phân tích lợi ích của Việt Nam và Lào trong hợp tác giáo dục ... 77 2.1.3.3. Các vấn đề đặt ra cho Việt Nam ................................................... 80 2.1.3.4. Nội dung và quá trình triển khai Chỉ thị 33 .................................. 81 2.1.3.5. Nhận xét ........................................................................................ 84 2.2. Phân tích định tính chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 2011- 2020 ................................................................................................................... 85 2.2.1. Sự kế thừa chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 1986-2010 ... 85 2.2.1.1. Sự kế thừa về định hướng .............................................................. 85 2.2.1.2. Sự kế thừa về mục tiêu: ................................................................. 87 2.2.1.3. Sự kế thừa về biện pháp ................................................................ 88 2.2.2. Phân tích nội dung chính sách với Lào giai đoạn 2011-2020 ............. 88 2.2.2.1. Về định hướng chính sách ............................................................. 88 2.2.2.2. Mục tiêu chính sách ...................................................................... 90 2.2.2.3. Biện pháp triển khai chính sách .................................................... 93 Tiểu kết .............................................................................................................. 104 CHƢƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ....................... 107 3.1. Đánh giá chính sách với Lào giai đoạn 2011-2020 .............................. 107 3.1.1. Tiêu chí 1. Chính sách với Lào phải phân biệt rõ lĩnh vực nào hợp tác theo tính chất QHĐB, lĩnh vực nào hợp tác theo thông lệ quốc tế vì LIQGDT; không gắn QHĐB vào những lĩnh vực hợp tác theo thông lệ quốc tế, hoặc ngược lại. ........................................................................................ 107 3.1.1.1. Kết quả ........................................................................................ 107 3.1.1.2. Hạn chế ....................................................................................... 111 3.1.2. Tiêu chí 2. Phải xử lý hài hòa giữa hai yếu tố LIQGDT và QHĐB; lựa chọn CSĐN một cách hợp lý, không vì QHĐB mà hy sinh LIQGDT, nhưng cũng không vì lợi ích trước mắt mà làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển QHĐB. ......................................................................................................... 113 3.1.2.1. Kết quả ........................................................................................ 113 3.1.2.2. Hạn chế ....................................................................................... 114 3.1.3. Tiêu chí 3. Hợp tác với Lào trên cơ sở hai bên cùng có lợi, có ưu tiên, ưu đãi cho Lào ở những lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh, nhưng không được tiêu hao nhiều nguồn lực để tranh giành ảnh hưởng ở những lĩnh vực mà Việt Nam không có lợi thế so sánh so với các đối tác thứ ba ..................... 115 3.1.3.1. Kết quả ........................................................................................ 115 3.1.3.2. Hạn chế ....................................................................................... 119 3.2. Triển vọng tình hình trong nƣớc và quốc tế giai đoạn 2021-2030 .... 123 3.2.1. Tình hình trong nước ......................................................................... 123 3.2.2. Tình hình thế giới và khu vực ........................................................... 125 3.3. Cơ hội và thách thức đối với quan hệ Việt Nam-Lào ......................... 129 3.3.1. Cơ hội ................................................................................................ 129 3.3.2. Thách thức ......................................................................................... 131 3.4. Kiến nghị: ............................................................................................... 134 3.4.1. Về định hướng ................................................................................... 134 3.4.1.1. Nhất quán lấy LIQGDT làm cơ sở để hoạch định chính sách với Lào ...................................................................................................... 134 3.4.1.2. Mở rộng những lĩnh vực hai nước có lợi ích chiến lược chung để phát triển quan hệ đặc biệt một cách thực chất, bền vững ...................... 134 3.4.1.3. Làm sâu sắc hơn các yếu tố bản sắc chung giữa hai nước để củng cố nền tảng quan hệ đăc biệt ................................................................... 135 3.4.1.4. Kết hợp, vận dụng linh hoạt yếu tố QHĐB với yếu tố LIQGDT, kiên quyết bảo vệ LIQGDT mang tính sống còn của Việt Nam ............... 135 3.4.1.5. Phát huy lợi thế so sánh để nâng cao vị thế của Việt Nam tại Lào, không cạnh tranh ảnh hưởng bằng mọi giá, dẫn đến tiêu hao nguồn lực ... 136 3.4.1.6. Phát triển quan hệ đặc biệt với các đối tác khác ........................ 136 3.4.2. Về mục tiêu ........................................................................................ 137 3.4.2.1. Mục tiêu tổng quát ...................................................................... 137 3.4.2.2. Mục tiêu cụ thể ............................................................................ 137 3.4.3. Về biện pháp ...................................................................................... 138 Tiểu kết .............................................................................................................. 143 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 145 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ................................................ 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 152 PHỤC LỤC ....................................................................................................... 170 DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT STT VIẾT TẮT TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT 1. ACMECS Ayeyawady-Chao Phraya- Mekong Economic Cooperation Strategy Tổ chức Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyarwady - Chao Phraya - Mê Kông 2. AEC Asean Economic Community Cộng đồng kinh tế ASEAN 3. AIIB Asian Infrastructure Investment Bank Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á 4. APEC Asia Pacific Economic Cooperation Diễn đàn hợp tác châu Á – Thái Bình Dương 5. ASC ASEAN Security Community Cộng đồng an ninh ASEAN 6. ASCC ASEAN Socio-Cultural Community Cộng đồng văn hóa, xã hội ASEAN 7. ASEAN Association of South East Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 8. BCHTW Ban chấp hành trung ương 9. BRI Belt Road Initiative Sáng kiển vành đai con đường 10. CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 11. CLMV Cambodia-Laos-Myanmar- Vietnam Cơ chế Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam 12. CLV Cambodia-Laos-Vietnam Cơ chế Campuchia, Lào, Việt Nam 13. CNXH Chủ nghĩa xã hội 14. CPC Campuchia 15. CSVN (Đảng) Cộng sản Việt Nam 16. NDCM (Đảng) Nhân dân Cách mạng (Lào) 17. EEZ Exclusive Economic Zone Vùng đặc quyền kinh tế 18. EU European Union Liên minh châu Âu 19. GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội 20. IPS Indo-Pacific Strategy Chiến lược Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương 21. ISEAS Institute of East Asian Studies Viện nghiên cứu Đông Nam Á 22. LIQGDT Lợi ích quốc gia-dân tộc 23. LMI Lower Mekong Initiative Sáng kiến Hạ nguồn Mê Công 24. MLC Mekong Lancan Cooperation Cơ chế hợp tác Mê Công – Lan Thương 25. MOU Memorandum of Understanding Bản ghi nhớ 26. MRC Mekong River Commission Ủy hội sông Mê Công quốc tế 27. NXB Nhà xuất bản 28. OBOR One Belt One Road Một vành đai, Một con đường 29. ODA Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức 30. OECD Organization of Economic Cooperation and Development Tổ chức hợp tác và phát triển 31. PCA Permanent Court of Arbitration Tòa trọng tài thường trực 32. PNPCA Procedures for Notifications, Prior Consultations and Agreements Thủ tục thông báo, tham vấn trước và thỏa thuận 33. QHĐB Quan hệ đặc biệt 34. TPP Trans-Pacific Partnership Hiệp định xuyên Thái Bình Dương 35. UNCLOS United Nations Convention on Law of the Sea Công ước Liên hợp quốc về luật biển 36. UNDP United Nations Development Programme Chương trình phát triển Liên hợp quốc 37. XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC HÌNH Hình 1.1. Khung tiếp cận LIQGDT của các tác giả Việt Nam ............................ 33 Hình 1.2. Khung tiếp cận lợi ích dựa trên lý thuyết của Nuechterlein ................ 36 Hình 1.3. Khung phân tích sự điều chỉnh chính sách của Hermann .................... 38 Hình 1.4. Khung điều chỉnh chính sách của Hermann (bổ sung) ........................ 39 Hình 1.5. Chu trình điều chỉnh CSĐN theo các tác giả Dương Văn Quảng và Nguyễn Thị Thìn .................................................................................................. 40 Hình 1.6. Chu trình điều chỉnh CSĐN theo tác giả Nguyễn Vũ Tùng ................ 41 Hình 1.7. Khung phân tích định tính chính sách trong QHĐB ............................ 44 Hình 1.8. Khung phân tích định lượng “1-2-3-4” chính sách với Lào ................ 48 Hình 2.1. Lợi ích của Việt Nam và Lào trong vấn đề Biển Đông ....................... 65 Hình 2.2. Tác động của đập Xayabury đối với lợi ích của Việt Nam và Lào ...... 71 Hình 2.3. Đàm phán giữa Việt Nam và Lào: Trường hợp đập thủy điện Xayabury .............................................................................................................. 75 Hình 2.4. Lợi ích của Việt Nam và Lào trong hợp tác giáo dục .......................... 78 Hình 2.5. Đầu tư của Việt Nam sang Lào (đơn vị 1000USD) ............................. 99 Hình 3.1. Sự đan xen các kịch bản về tình hình trong nước và thế giới ............ 126 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Phát triển quan hệ với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống nói chung và quan hệ đặc biệt (QHĐB) với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào nói riêng là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại (CSĐN) của Đảng Cộng sản Việt Nam[41]. Đường biên giới chung dài 2060 km và lịch sử liên minh chiến đấu dành độc lập dân tộc trong thế kỷ XX đã gắn kết lợi ích chiến lược của hai nước, hình thành mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, mang ý nghĩa quan trọng chiến lược đối với cả hai nước. Từ năm 2011, Việt Nam và Lào đều có chủ trương coi lợi ích quốc gia-dân tộc (LIQGDT) là mục tiêu của CSĐN [42]. Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng CSVN (năm 2011) xác định LIQGDT là mục tiêu cao nhất của CSĐN. Về phía Lào, từ Đại hội VIII (năm 2006), Đại hội IX (năm 2011) đến Đại hội X (năm 2016) của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào mục tiêu của CSĐN được xác định là bảo đảm lợi ích chung và lợi ích riêng của mỗi bên, khẳng định CSĐN „vì lợi ích cao nhất của đất nước‟, sẵn sàng tham gia vào các liên minh „vì lợi ích chung và lợi ích của mỗi bên‟. Về thực tiễn, chính sách với Lào đã góp phần củng cố và phát triển mối QHĐB Việt Nam-Lào, nhưng cũng đặt ra sự cần thiết phải làm rõ mối tương quan giữa QHĐB với LIQGDT. Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, tình hình thế giới và khu vực Đông Nam Á có những chuyển biến nhanh chóng, QHĐB Việt Nam-Lào có những thuận lợi cơ bản trên nền tảng vững chắc và kết quả hợp tác toàn diện của hai nước sau hơn hai thập kỷ đổi mới, nhưng cũng gặp không ít thách thức. Từ năm 2011 đến nay, trong quan hệ giữa hai bên bắt đầu xuất hiện một số khác biệt về lợi ích. Ví dụ, trường hợp Lào xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Công và chính sách ngoại giao của Lào trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông đặt ra thách thức nhất định cho CSĐN của Việt Nam. Về mặt khoa học, việc thực thi CSĐN với Lào dựa trên LIQGDT là đề tài được giới nghiên cứu quan tâm. Các nghiên cứu về chính sách với Lào của Việt Nam đến nay chủ yếu sử dụng cách tiếp cận lịch sử, theo ý thức hệ, lợi ích giai cấp... CSĐN với Lào theo cách tiếp cận LIQGDT chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo và là một khoảng trống cần được nghiên cứu chuyên sâu. 2 Với lý do nêu trên, đề tài nghiên cứu Chính sách của Việt Nam đối với Lào giai đoạn 2011-2020: Tiếp cận từ góc độ LIQGDT sẽ góp phần vào việc làm rõ hơn, toàn diện hơn về CSĐN của Việt Nam với Lào, thúc đẩy quan hệ hai nước tiếp tục phát triển bền vững, vì lợi ích chung của hai dân tộc trong tương lai. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Các nghiên cứu về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào Bộ sách “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam 1930- 2007” do NXB Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2011 tổng kết, phân tích và đánh giá những đặc điểm, nhân tố tạo nên mối QHĐB Việt - Lào, CSĐN của Việt Nam qua từng giai đoạn với nội hàm QHĐB được kế thừa và đổi mới, mỗi giai đoạn vừa có những đặc điểm chung vừa có đặc thù riêng, rút ra bài học lịch sử cho giai đoạn tiếp theo. Cần làm mới QHĐB Việt Nam – Lào trong bối cảnh hai nước theo đuổi LIQGDT và thực hiện CSĐN đa phương, mở rộng quan hệ đối tác, thu hút nguồn lực bên ngoài để phát triển. Chủ trương của Đảng CSVN phát triển quan hệ hai nước trên tinh thần kết hợp tính chất QHĐB với thông lệ quốc tế, có ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau. Việc triển khai chính sách với Lào trong thời gian qua đã đem lại kết quả tốt đẹp, nhưng cũng đặt ra một số vấn đề mới. QHĐB là ưu tiên trong CSĐN của mỗi đảng, nhà nước. Tuy nhiên, Việt Nam và Lào đều là những quốc gia nghèo, nguồn lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế trong khi nhu cầu phát triển rất lớn. Hai nước có nhiều lợi ích chung, nhưng sự khác biệt về lợi ích riêng trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế hiện nay là một thực tế. Cuốn sách “Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào (1930-2017) do Ban Tuyên giáo Trung ương chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2017 viết về quá trình hình thành và phát triển, bản chất, thành quả, bài học lịch sử của QHĐB Việt Nam - Lào. Cuốn sách đúc kết các yếu tố QHĐB Việt Nam - Lào: lòng yêu nước, chủ nghĩa quốc tế, tình đoàn kết, lòng tin, tình cảm chân thành, sự giúp đỡ cao nhất dành cho nhau. Tác giả Lê Đình Chỉnh (2017) trong các cuốn sách “Quan hệ đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào giai đoạn 1954-2017” và “55 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam – Lào: Nhìn lại và Hướng tới” NXB Thông tin và truyền thông đã nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của QHĐB Việt Nam – Lào qua 3 các thời kỳ. Lê Đình Chỉnh sử dụng thuật ngữ “hợp tác toàn diện đặc biệt” để mô tả quan hệ hai nước theo hướng đẩy mạnh hợp tác toàn diện, chặt chẽ, hiệu quả, lấy hợp tác kinh tế làm trọng tâm; tôn trọng độc lập, chủ quyền, chống tư tưởng nước lớn hơn, dân tộc hẹp hòi hoặc tự ti, ỷ lại; giải quyết mâu thuẫn phải dựa trên tinh thần anh em đồng chí. Mệnh đề “kết hợp tính chất QHĐB với thông lệ quốc tế” được tác giả đề cập như một định hướng quan trọng của quan hệ Việt Nam – Lào. Tác giả không đề cập mô hình QHĐB khác trên thế giới, coi QHĐB Việt Nam – Lào là duy nhất giữa các nước có chung đường biên giới. Phan Văn Rân trong bài viết Triển vọng phát triển quan hệ đặc biệt Việt- Lào giai đoạn 2017-2025, tầm nhìn 2030, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2017, cho rằng tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ của Việt Nam còn ở mức độ thấp hơn tương quan với các nước khác sẽ hạn chế việc phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam trong hợp tác với Lào. Hạ tầng kết nối giao thông còn yếu kém làm cho chi phí trao đổi hàng hóa giữa hai nước tăng cao, hiệu quả kinh tế thấp, làm cho quan hệ thương mại hai nước chưa tương xứng QHĐB. 2.2. Các nghiên cứu về chính sách của Việt Nam với Lào 2.2.1. Các nghiên cứu về CSĐN của Việt Nam thời kỳ đổi mới Về đổi mới tư duy đối ngoại, một số tác phẩm như cuốn sách "Đổi mới và phát triển ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn" do Nguyễn Phú Trọng (chủ biên), NXB. Chính trị Quốc gia, 2006; “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay” do Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2009; "Lịch sử Bộ Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2010" do Bộ Ngoại giao biên soạn, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2011; Vũ Dương Huân, “Về vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam”, tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1(68), tháng 3/2007 cho rằng đổi mới tư duy đối ngoại là một quá trình liên tục, từ Đại hội VI (12/1986) và tiếp nối cho tới nay với việc từng bước đưa ra những quan điểm đối ngoại phù hợp với sự phát triển của tình hình; cần tiếp tục đổi mới tư duy dám nghĩ, dám làm, có tinh thần chủ động tiến công, dám vượt ra khỏi những tư duy cũ, những lĩnh vực quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và quốc tế; xây dựng vị thế và tâm thế mới của Việt Nam trong xử lý quan hệ với các nước cả về song phương và đa phương. Vấn đề này cũng được 4 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29[22]. Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh trong bài “Ðường lối đối ngoại Ðại hội XI và những phát triển quan trọng trong tư duy đối ngoại của Ðảng ta”, báo Nhân Dân ngày 19/5/2011 đã chỉ rõ sự phát triển trong tư duy đối ngoại qua các kỳ Đại hội Đảng, thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu. Cuốn “Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và Thế giới trong 25 năm tới (1995-2020), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, Cuốn Cục diện thế giới đến 2020, NXB Chính trị Quốc gia, 2010 của tác giả Nguyễn Cơ Thạch; Cuốn Bức tranh thế giới đương đại”, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2016 của tác giả Vũ Văn Hiền; Cuốn CSĐN đổi mới của Việt Nam (1986-2015), Nxb. Thế giới 2016 của tác giả Phạm Quang Minh... đề cập đường lối Đổi mới bắt đầu từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, CSĐN của Việt Nam từng bước được điều chỉnh để thích ứng với công cuộc Đổi mới trong nước và môi trường quốc tế đang thay đổi nhanh chóng không có lợi cho cách mạng Việt Nam như sự suy yếu và hệ quả của nó là sự sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Sau khi các chính đảng cầm quyền ở Nga và các nước Đông Âu đã chuyển hướng CSĐN, Việt Nam và Lào buộc phải điều chỉnh CSĐN. Các cuốn sách nói trên trình bày hệ thống quá trình hình thành và những nội dung cơ bản của CSĐN đổi mới của Việt Nam từ 1986-2015. Các tác giả như Nguyễn Cơ Thạch (Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta”, trong CSĐN Việt Nam, NXB Thế Giới, Hà Nội, 2007), Phan Doãn Nam (“Ngoại giao Việt Nam sau 20 năm đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, số 14 (760), tháng 7/2006), Đặng Đình Quý (“Bàn thêm về LIQGDT trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam giai đoạn mới”, trong “Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến năm 2020”, do Phạm Bình Minh chủ biên, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, 2011) cho rằng sự điều chỉnh CSĐN cơ bản nhất trong giai đoạn này của Việt Nam là sự chuyển đổi từ CSĐN dựa trên ý thức hệ sang CSĐN thực dụng hơn, với trọng tâm là lợi ích quốc gia. Đặng Đình Quý, Nguyễn Vũ Tùng (2019) trong bài “Góp phần tìm hiểu đường lối đối ngoại của Đảng: Sự phát triển trong nhận thức và những vấn đề đặt 5 ra trong thời gian tới”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 3 (118), 9-2019, tr. 7-28, cho rằng việc bảo đảm LIQGDT phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối ngoại, là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại, là cơ sở để xây dựng đồng thuận xã hội đối với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, là cơ sở “bất biến” để từ đó định hướng cho “vạn biến”. Tuy nhiên, lợi ích quốc gia – dân tộc của Việt Nam không phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ hẹp hòi, mà những lợi ích dựa trên luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Hai bên cùng xây dựng quan hệ trên cơ sở cùng vì lợi ích của nhau, tạo ra tương đồng lợi ích và tạo cơ sở đấu tranh khi lợi ích không song trùng. Nhận thức mới về vì LIQGDT cần đặt trong quan hệ với lợi ích của các nước khác và lợi ích chung (khu vực và quốc tế). Các chủ trương lớn về đối ngoại như hội nhập quốc tế, xây dựng đan xen lợi ích và nâng tầm đối ngoại đa phương ngày càng đòi hỏi Việt Nam không những chỉ theo đuổi lợi ích của riêng mình, mà còn phải quan tâm hơn nữa đến lợi ích chung. Chỉ trên cơ sở hành xử vì lợi ích chung thì Việt Nam mới có thể chứng minh là “thành viên có trách nhiệm” từ đó nâng cao khả năng “hòa giải, dẫn dắt và đi đầu” trong một số trường hợp có sự song trùng lợi ích quốc gia – dân tộc và lợi ích chung với các nước khác. Ngoài ra, các tác giả nhìn nhận LIQGDT còn có quan hệ với lợi ích của các thành phần tham gia đối ngoại trong nước. Ở nước ta, quá trình triển khai hội nhập quốc tế, đẩy mạnh đối ngoại đa phương và tạo đan xen lợi ích trong quan hệ song phương không toàn diện và đều khắp có một phần lý do từ việc chưa hài hòa LIQGDT và lợi ích nhóm. Tác giả Trần Nam Tiến trong bài “LIQGDT trong CSĐN của Việt Nam thời kỳ đổi mới” Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) – 2013, đã phân tích nội hàm lợi ích quốc gia trong CSĐN của Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Quá trình nhận thức và xác định nội hàm LIQGDT của Việt Nam đã diễn ra trong khoảng thời gian hơn 30 năm gần đây bắt đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng CSVN với tiên lượng là “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tham gia phân công lao động quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài”. Trong giai đoạn 1996-2006 lợi ích quốc gia trong CSĐN của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã được xác định rõ hơn với những nội dung cơ bản, gắn liền với công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 6 Về bối cảnh quốc tế, Vũ Văn Hiền trong cuốn Bức tranh thế giới đương đại, NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2016, cho rằng trong thập kỷ 2010-2020, tình hình chính trị khu vực tiếp tục chịu tác động của chính sách tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn trước hết là Mỹ và Trung Quốc. Quan hệ Mỹ-Trung sẽ chi phối toàn bộ các quan hệ quốc tế trong tương lai trong đó có quan hệ giữa Việt Nam và Lào. Các nước ASEAN bị ảnh hưởng bởi chính sách tập hợp lực lượng kiềm chế lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc, gây ra những căng thẳng, xung đột lợi ích nhất định và đặc biệt là sự nghi kỵ lẫn nhau giữa hai nước cũng như với các quốc gia khác sẽ ngày càng tăng lên. Mỹ tiếp tục chuyển trọng tâm chiến lược về khu vực châu Á-Thái Bình Dương bao gồm ASEAN, nhưng ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực có xu hướng giảm tương đối so với nhiều thập kỷ qua; song song với đó là sự gia tăng sức mạnh của các cường quốc, các trung tâm quyền lực khác, nhất là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Yếu tố Trung Quốc trong CSĐN của Việt Nam được phân tích khá kỹ trong các nghiên cứu của các tác giả trong nước. Trung Quốc không còn chú trọng gắn kết theo ý thức hệ như trước với Việt Nam, Lào, mà dựa trên những lợi ích đan xen về kinh tế, chính trị, an ninh với mục tiêu chính là phục vụ cho lợi ích. Tác giả Lê Viết Duyên trong Luận án Tiến sĩ “Quá trình phát triển của CSĐN của Việt Nam với ASEAN trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay (2017), đã phân tích yếu tố Trung Quốc trong CSĐN của Việt Nam. Trung Quốc sẽ tiếp tục lôi kéo, tranh thủ các nước ASEAN trên cả bình diện đa phương và song phương, sử dụng các biện pháp cứng rắn, kể cả sức mạnh quân sự, kết hợp với sức mạnh mềm, thông qua lợi ích kinh tế, tương đồng văn hóa... nhằm xác lập và củng cố ảnh hưởng chi phối khu vực. Các nước ASEAN tuy có nghi ngại nhưng vẫn chủ trương hợp tác với Trung Quố...h tính phân tích bối cảnh, tình hình trong và ngoài nước, tổng hợp, đánh giá, làm rõ được khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc, quan điểm, động cơ chính sách, tiêu chí đánh giá chính sách. Phương pháp luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa kiến tạo được sử dụng để giải thích các nội dung chính sách. Phương pháp nghiên cứu định lượng về lợi ích quốc gia và CSĐN sẽ giúp tăng tính đại diện, độ chuẩn xác, độ tin cậy và tính khách quan trong việc hoạch định CSĐN. Khung phân tích CSĐN vì lợi ích dân tộc của học giả Mỹ Donald Nuechterlein (1976), trong đó lợi ích quốc gia được chia thành 4 nhóm và 4 cấp độ cao thấp khác nhau rất hữu ích đối với mục tiêu định lượng và lựa chọn chính sách. Luận án sử dụng một số ma trận, thuật toán của lý thuyết trò chơi (game theory) để so sánh lợi ích của Việt Nam và Lào, từ đó xác định sự song trùng và khác nhau về lợi ích, tính toán phương án đàm phán và lựa chọn chính sách trong từng trường hợp cụ thể. Việc sử dụng các ma trận để dự báo các chiều hướng CSĐN dựa trên các kịch bản của tình hình quốc tế trong và ngoài nước, tác động đến chính sách với Lào. Phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study) phân tích các bước đi và kết quả triển khai CSĐN dựa trên lựa chọn lợi ích của các bên, làm nổi bật những yếu tố chi phối sự lựa chọn chính sách và quá trình triển khai chính sách đó. Bối cảnh xảy ra mâu thuẫn, quá trình giải quyết mâu thuẫn, quan điểm giải quyết mâu thuẫn của mỗi bên trong các trường hợp cụ thể, phân tích lợi-hại về lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài đạt được sẽ giúp rút ra những bài học về điều chỉnh CSĐN của Việt Nam. Các nghiên cứu trường hợp sẽ lượng hóa lợi ích, những lựa chọn chính sách và dự báo phản ứng chính sách của đối tác để điều chỉnh hành vi của mình, từ đó đưa ra các giả thuyết nghiên cứu khác nhau. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm phân tích các tài liệu có được để chứng minh các giả thuyết, từ đó rút ra các kết luận cần thiết đối với CSĐN và xây dựng các tiêu chí đánh giá thành công hay hạn chế của CSĐN. 20 Phương pháp so sánh rất cần thiết để so sánh chính sách giai đoạn khác nhau để hiểu rõ sự kế thừa và điều chỉnh chính sách sau mỗi giai đoạn. 7. Nguồn tài liệu Tài liệu sử dụng trong luận án gồm các tài liệu gốc, các văn kiện về đường lối, quan hệ Việt Nam - Lào, CSĐN của Việt Nam, phát biểu của các nhà lãnh đạo Việt Nam và Lào. Ngoài ra luận án cũng sử dụng các tài liệu, công trình khoa học đã được công bố của các tác giả trong và ngoài nước về quan hệ Việt Nam - Lào, CSĐN của Việt Nam nói chung, CSĐN với Lào nói riêng. 8. Những đóng góp của Luận án Về mặt khoa học, Luận án đã bổ sung thêm công trình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam và Lào cũng như chính sách của Việt Nam đối với Lào vào kho tàng các công trình nghiên cứu thuộc chuyên ngành quan hệ quốc tế. Luận án đã có được cách tiếp cận mới về LIQGDT trong phân tích CSĐN nói chung và trong chính sách QHĐB với Lào nói riêng, làm rõ mối quan hệ giữa LIQGDT và QHĐB trong CSĐN của Việt Nam. Trên cơ sở lý thuyết hiện có, tác giả bước đầu xây dựng khung phân tích riêng về CSĐN trong QHĐB tiếp cận từ LIQGDT dùng để phân tích chính sách với Lào, gồm 2 phần phân tích định lượng và phân tích định tính. Các nghiên cứu định lượng phân tích, lượng hóa các lợi ích về lý thuyết, so sánh với các lựa chọn chính sách trên thực tế để tìm ra các giả thuyết nghiên cứu. Phần nghiên cứu định tính kiểm chứng các giả thuyết, trên cơ sở đó xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách với Lào. Việc phát triển khung phân tích về CSĐN trong QHĐB tiếp cận từ LIQGDT này có thể góp phần quan trọng vào việc thiết kế và xây dựng khung phân tích chính sách trong quan hệ quốc tế và là nguồn tham khảo quan trọng cho các học viên và nhà nghiên cứu Về mặt thực tiễn, luận án đã cung cấp một lối tư duy và cách nhìn mới đối với quan hệ Việt Nam-Lào và chính sách của Việt Nam với Lào. Lào không chỉ là nước bạn bè truyền thống có QHĐB với Việt Nam, mà còn là một đối tác cạnh tranh lợi ích với Việt Nam trên trường quốc tế, một yếu tố địa chiến lược mới nổi tại khu vực, có vai trò và vị thế nhất định trong quan hệ quốc tế. Quan hệ Việt Nam-Lào ngày nay không là mối QHĐB duy nhất trên thế giới mà cần được nhìn nhận trong mối tương quan với hàng chục các mối QHĐB khác, mà bản 21 chất của chúng là các quốc gia gắn bó với nhau bằng các yếu tố bản sắc và lợi ích chung, trong đó lợi ích là yếu tố quyết định. Luận án đã phân tích sự cần thiết phải đánh đổi lợi ích trong một số trường hợp cụ thể triển khai chính sách của Việt Nam với Lào, từ đó rút ra rằng cách tiếp cận LIQGDT trong QHĐB là cần thiết để nhận diện tính chất mới của quan hệ Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Việc đánh giá chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 2011-2020, nhận diện cơ hội và thách thức đối với quan hệ Việt Nam-Lào có căn cứ khoa học, dự báo các chiều hướng chính sách và đề ra một số gợi ý chính sách là những nội dung có ý nghĩa tham khảo hữu ích đối với các nhà hoạch định chính sách hiện nay. Kết luận của luận án về việc Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được LIQGDT trong QHĐB với Lào; và LIQGDT, QHĐB là hai yếu tố vừa có tính thống nhất, lại vừa có tính mâu thuẫn, trong đó LIQGDT được coi là mục tiêu, QHĐB được coi là phương tiện để đạt được mục tiêu đó là một đóng góp quan trọng đối với việc điều chỉnh chính sách với Lào trong giai đoạn tới. 9. Bố cục của Luận án Phần Mở đầu bao gồm: lý do lựa chọn đề tài, lịch sử nghiên cứu vấn đề, mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu, nguồn tài liệu, đóng góp của luận án... Chƣơng 1 “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 2011-2020” phân tích cơ sở lý thuyết của chính sách, làm rõ mối quan hệ giữa ba yếu tố: LIQGDT, QHĐB và CSĐN; tiếp thu một số nội dung của một số mô hình phân tích CSĐN hiện nay, bổ sung nội dung mới nhằm hình thành mô hình phân tích CSĐN vì LIQGDT trong QHĐB nói chung và với Lào nói riêng. Cơ sở thực tiễn của chính sách với Lào là bối cảnh thế giới và khu vực, nhất là yếu tố nước lớn ảnh hưởng đến chính sách của Việt Nam; những vấn đề rút ra từ chính sách của Lào đối với Việt Nam, tình hình trong nước tác động đến chính sách của Việt Nam với Lào. Chƣơng 2 “Phân tích chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 2011- 2020” gồm hai phần phân tích định lượng và phân tích định tính. Phân tích định lượng về chính sách của Việt Nam đối với Lào qua ba trường hợp nghiên cứu cụ thể để làm rõ sự tương tác các yếu tố lợi ích đối với sự lựa chọn chính sách của Việt Nam với Lào. Nghiên cứu “Vấn đề Biển Đông trong năm Chủ tịch ASEAN 22 của Lào” sẽ đi sâu nghiên cứu lợi ích an ninh. Lĩnh vực kinh tế đại diện cho lợi ích phát triển với nghiên cứu trường hợp “Dự án thủy điện Xayabury trên dòng chính sông Mê Công”. Lĩnh vực giáo dục đào tạo đại diện cho lợi ích ảnh hưởng với nghiên cứu trường hợp “Chỉ thị 33 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng đào tại nguồn nhân lực cho Lào”. Phần này sẽ chẩn đoán các giả thuyết nghiên cứu về chính sách của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020. Phần phân tích định tính sẽ phân tích chính sách của Việt Nam với Lào trong giai đoạn 2011- 2020 theo khung phân tích định tính, bao gồm 3 giai đoạn (hoạch định-triển khai- đánh giá chính sách), 3 loại lợi ích (an ninh, phát triển, ảnh hưởng) và 3 nội dung chính sách (định hướng, mục tiêu, biện pháp) của Việt Nam với Lào trong một số lĩnh vực, qua đó chứng minh các giả thuyết rút ra từ nghiên cứu định lượng, khái quát nội dung chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 2011-2020; Chƣơng 3 “Đánh giá và kiến nghị chính sách”, rút ra những kết quả chính và hạn chế trong triển khai chính sách với Lào từ năm 2011-2020. Việc đánh giá chính sách dựa trên các giả thuyết đã được chứng minh để xác định thành công và hạn chế của chính sách. Trên cơ sở kết quả đánh giá, các kịch bản về tình hình thế giới, tình hình Lào, tình hình Việt Nam, rút ra các cơ hội và thách thức đối với quan hệ Việt Nam-Lào; khuyến nghị chính sách thúc đẩy QHĐB Việt Nam – Lào từ góc độ LIQGDT trong thập niên tới. Phần Kết luận sẽ khái quát kết quả nghiêu cứu đã đáp ứng được các nội dung câu hỏi nghiên cứu của Luận án như thế nào. 23 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM VỚI LÀO GIAI ĐOẠN 2011-2020 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Lợi ích quốc gia dân tộc, quan hệ đặc biệt và chính sách đối ngoại a) Khái niệm (i) Lợi ích quốc gia-dân tộc Theo Từ điển Quan hệ quốc tế, lợi ích quốc gia hay lợi ích của quốc gia (state‟s interest) là nhu cầu sống còn của quốc gia, là nhu cầu tự vệ, nhu cầu độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và thịnh vượng về kinh tế. Lợi ích quốc gia trước hết là lợi ích của giai cấp cầm quyền, vì vậy nó là mục tiêu cơ bản và nhân tố quyết định cuối cùng trong việc hoạch định chính sách ngoại giao của quốc gia[143;tr.9]. Lợi ích dân tộc (national interest) theo ý kiến của học giả và nhà ngoại giao Hoa Kỳ Nuechterlein (1979), là một tập hợp các nhu cầu và khát vọng được thừa nhận của một quốc gia có chủ quyền trong quan hệ với các quốc gia khác trong môi trường quốc tế; hay là mục tiêu mà quốc gia dân tộc phấn đấu giành được trên phạm vi thế giới để bảo đảm an ninh, phân biệt với các nhu cầu và ưu tiên trong nước[147]. Jackson và Sorensen (2003) đồng nhất lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc khi sử dụng khái niệm lợi ích dân tộc của nhà nước-dân tộc (national interest of nation-states). Tuy nhiên, lợi ích quốc gia không hoàn toàn song trùng với lợi ích dân tộc, thậm chí mâu thuẫn khi các quyết định của giới cầm quyền đi ngược lại lợi ích của nhân dân thậm chí là lợi ích của giai cấp cầm quyền. Ralph Miliband dẫn chứng quyết định của chính quyền Mỹ phát động chiến tranh Việt Nam không vì lợi ích của giai cấp tư sản hay giai cấp công nhân ở Mỹ và đã vấp phải sự chống đối của hầu hết tất cả các tầng lớp nhân dân Mỹ[185]. Nhìn chung, các học giả nước ngoài ít sử dụng cụm từ “LIQGDT”, thay vào đó khái niệm lợi ích dân tộc (national interest) được sử dụng nhiều hơn, vừa là lợi ích quốc gia tương quan với các quốc gia khác. Tuy nhiên, trong phạm vi luận án này tác giả sẽ sử dụng cụm từ “lợi ích quốc gia - dân tộc” để chỉ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc của Việt Nam. Quan điểm của Đảng CSVN về LIQGDT được hình thành rõ nét sau Đại hội XI của Đảng, bao gồm: Thứ nhất, độc lập dân tộc tiếp tục được xác định là 24 lợi ích an ninh cơ bản nhất, bao gồm cả bảo vệ an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ[46]. Thứ hai, lợi ích phát triển, bao gồm nâng cao tiềm lực đất nước thông qua phát triển kinh tế xã hội [89]; tạo môi trường quốc tế thuận lợi để hợp tác, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước [46]. Thứ ba, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước cũng được xác định là loại LIQGDT quan trọng [125]. (ii) Chính sách đối ngoại Từ điển Thuật ngữ Ngoại giao định nghĩa CSĐN là "chủ trương, chiến lược, kế hoạch và các biện pháp thực hiện cụ thể do một quốc gia đề ra liên quan đến các mối quan hệ quốc tế mà quốc gia đó thiết lập với các quốc gia và các chủ thể khác nhằm tăng cường và bảo vệ lợi ích quốc gia của mình"[56]. Theo tác giả Dương Văn Quảng, CSĐN là tổng thể các quyết sách của một quốc gia phản ánh lợi ích, cách nhìn nhận của quốc gia đó đối với môi trường quốc tế, cũng như phương thức ứng xử của họ[29]. Theo Nguyễn Vũ Tùng, CSĐN là phản ứng của một nước đối với sự thay đổi của tình hình bên ngoài[85; tr37]. Tác giả Marijke Breuning cho rằng CSĐN là “tổng thể các chính sách và tương tác với môi trường bên ngoài biên giới quốc gia”[169; tr6]. Theo George Modelski, “CSĐN là hệ thống những hoạt động nhằm thay đổi hành vi của các quốc gia khác và điều chỉnh hành động của bản thân nhà nước mình với môi trường quốc tế”[171]. Tác giả James Rosenau quan niệm CSĐN là "sự cố gắng của một xã hội quốc gia nhằm kiểm soát môi trường bên ngoài bằng cách duy trì bối cảnh thuận lợi và thay đổi những bối cảnh bất lợi"[187]. Chưa có một định nghĩa thống nhất về CSĐN giữa các học giả, tuy nhiên các định nghĩa trên đều có các từ khóa: quốc gia, chính sách, quan hệ quốc tế và lợi ích. CSĐN trong luận án này được hiểu là một phần chính sách quốc gia trong lĩnh vực quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ LIQGDT. (iii) Quan hệ đặc biệt QHĐB dùng để chỉ các mối quan hệ quốc tế giữa các nước có bản sắc chung và lợi ích chiến lược chung [95]. QHĐB trong đa số trường hợp được dẫn chiếu tới mối quan hệ song phương hữu nghị, gần gũi, lâu bền và ngoại lệ giữa hai chủ thể có chủ quyền, hợp tác và cam kết dành cho nhau sự ưu đãi cao hơn so với các đối tác khác. Các mối QHĐB trên thế giới rất đa dạng, phát triển ở nhiều cấp độ khác nhau, nhưng có đặc điểm chung là sự hội tụ các yếu tố bản 25 sắc chung (như lịch sử, văn hóa, tư tưởng, lòng tin, đoàn kết đặc biệt) và các lợi ích chiến lược chung, trong đó lợi ích chi phối bản sắc. Nói cách khác, các mối QHĐB trên thế giới, không bất biến mà thuận theo quy luật hình thành, phát triển rồi chấm dứt, nhưng LIQGDT là chiến lược lâu dài. Hiện nay trên thế giới có hơn 50 mối quan hệ quốc tế gọi là QHĐB (Phụ lục 1), tuy nhiên chưa có một định nghĩa thống nhất về QHĐB trong quan hệ quốc tế. Một số tác giả theo chủ nghĩa hiện thực như Glenn Snyder (1990) cho rằng QHĐB là một loại quan hệ được thể chế hóa trong khuôn khổ đồng minh, theo đó các nước có trách nhiệm bảo đảm an ninh cho nhau[193; tr103-123]. Một số tác giả khác so sánh QHĐB với đối tác chiến lược, với một số “ngoại lệ” như mức độ cao hơn về cả đặc quyền và cường độ so với quan hệ với đối tác thứ ba; quan hệ được phát triển ở mức cao; nhân dân hai nước có chung những giá trị và tình cảm lẫn nhau, mối quan hệ giao lưu gắn bó giữa các tầng lớp nhân dân, giới tinh hoa, chính trị gia hai nước[166]. QHĐB có những đặc điểm chung, nhưng mỗi trường phái lý thuyết quan hệ quốc tế lại có những quan điểm riêng về các mối quan hệ này [180]. Đảng CSVN và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào coi QHĐB Việt Nam – Lào là mối quan hệ dựa trên hệ tư tưởng Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, là khối đoàn kết chặt chẽ của hai dân tộc phấn đấu cho những lợi ích cơ bản và nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước [43;tr.814]. Trong điều kiện ngày nay, tính chất đặc biệt thể hiện ở sự hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, có ưu tiên, ưu đãi cho nhau cao hơn các quan hệ song phương khác [43;tr.862]. Trong bối cảnh Việt Nam và Lào hội nhập quốc tế, các yếu tố bản sắc tiếp tục gắn kết mối quan hệ truyền thống, trong khi đó LIQGDT quyết định tính chất mới của QHĐB giữa hai nước. Tổng hợp các định nghĩa trên, luận án sẽ sử dụng khái niệm QHĐB như một dạng quan hệ đối tác hiện đại giữa hai quốc gia có chung bản sắc và gắn kết bởi lợi ích chiến lược chung, trong đó, bản sắc là điều kiện cần, lợi ích là điều kiện đủ của QHĐB. b) Mối quan hệ giữa ba yếu tố:“Lợi ích quốc gia - dân tộc”, “Chính sách đối ngoại” và “Quan hệ đặc biệt” (i) Lợi ích quốc gia - dân tộc và chính sách đối ngoại Chủ nghĩa Mác-Lênin giải thích mối quan hệ giữa CSĐN và lợi ích thông qua mâu thuẫn giai cấp bên trong của mỗi quốc gia và giữa các quốc gia với nhau. 26 Nhà nước là chủ thể của chính sách và là một hiện tượng giai cấp ra đời trên cơ sở dân tộc-tộc người xác định. Do đó, có hai nhóm lợi ích cơ bản xác định nên chính sách nhà nước là lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Các lợi ích này thông qua ý chí của nhà nước biến thành lợi ích quốc gia là cơ sở xây dựng và thi hành chính sách đối nội, đối ngoại. Trong hai hợp phần của lợi ích quốc gia, lợi ích giai cấp thống trị là yếu tố chủ yếu, cố định, thường xuyên quyết định CSĐN. Mỗi quốc gia đều do một giai cấp nào đó cầm quyền nên lợi ích của giai cấp thống trị thường có xu hướng trở thành lợi ích quốc gia. Hay nói cách khác, nhà nước luôn là công cụ của giai cấp thống trị để thực hiện lợi ích giai cấp của mình. Vì thế CSĐN của quốc gia thường được đề ra nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị trong quan hệ với các quốc gia khác. Đồng thời, chính các lợi ích này còn là sự định hướng và dẫn dắt các hoạt động đối ngoại của quốc gia nhằm thỏa mãn lợi ích của giai cấp thống trị[55;tr.121-122].Trong lợi ích quốc gia nói chung có thể có lợi ích của các giai cấp khác trong xã hội nhưng chúng đóng vai trò thứ yếu và phụ thuộc vào lợi ích của giai cấp cầm quyền. Về sau những người theo chủ nghĩa Mác-Lênin đã bổ sung thêm lợi ích nhân loại là những vấn đề toàn cầu nhưng vẫn chỉ là hợp phần thứ yếu trong lợi ích quốc gia. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối ngoại giao được dựa trên những nguyên tắc căn bản là luôn đặt quyền lợi của quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Hồ Chí Minh nhấn mạnh quyền độc lập, tự chủ, tự do thực sự, bình đẳng, quyền toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, quyền được sống trong hòa bình, quyền tự quyết của dân tộc. Hồ Chí Minh xác định muốn làm gì cũng cần vì lợi ích dân tộc mà làm và phải luôn vì lợi ích dân tộc mà phục vụ[112;tr.61-62]. Chính sách ngoại giao độc lập, tự chủ trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi của quốc gia, dân tộc, nhân dân phải được đặt lên hàng đầu, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, điều kiện gì cũng không được vi phạm quyền lợi quốc gia, dân tộc hoặc lấy quyền lợi của quốc gia dân tộc làm điều kiện “đổi chác”. Trong những tình huống đặc biệt, để thực hiện sách lược cách mạng, chỉ có thể hy sinh quyền lợi của bộ phận, quyền lợi giai cấp, chứ không được hy sinh quyền lợi quốc gia, dân tộc[112;tr.63]. Tư tưởng này là nền tảng của CSĐN của Việt Nam, trong đó thế giới quan Hồ Chí Minh đặt Việt Nam vào sự phát triển chung của thế giới [88;tr.14] và đề cao chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc và lợi ích dân tộc trong quan hệ quốc 27 tế. Kế thừa nghệ thuật ngoại giao của ông cha ta, phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” đã trở thành tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh. Dĩ bất biến là bảo vệ các LIQGDT căn bản như độc lập, chủ quyền, thống nhất; vạn biến là sách lược và phương pháp ứng xử, có thể nhân nhượng trong giới hạn nhất định trên cơ sở đánh giá đúng đối tác, đối thủ cũng như chiều hướng chuyển biến của so sánh lực lượng, về những thuận ngịch của tình hình quốc tế trong từng giai đoạn, thời điểm cụ thể để đạt được mục tiêu. LIQGDT được xác định là mục tiêu của CSĐN của Đảng CSVN. Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay nhận thức của Đảng về LIQGDT đã được đề cập rõ nét. Đại hội XI xác định LIQGDT là mục tiêu của CSĐN[39]. Văn kiện Đại hội XII nêu rõ “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.”[40; tr.153]. Theo quan điểm của Đảng, lợi ích quốc gia bao gồm cả lợi ích giai cấp cầm quyền[125] và lợi ích dân tộc là đồng nhất, được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, phân biệt với những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi. (ii) Lợi ích quốc gia-dân tộc và quan hệ đặc biệt Đề cập về sự tương đồng lợi ích giữa các dân tộc - một yếu tố cốt lõi của QHĐB giữa các quốc gia ngày nay, Mác viết: “Muốn cho các dân tộc có thể thực sự đoàn kết lại thì họ phải có những lợi ích chung. Muốn cho những lợi ích của họ trở thành lợi ích chung thì những quan hệ sở hữu hiện có phải bị thủ tiêu”. Ăng-ghen viết: “Liên minh giữa các nhà nước của giai cấp vô sản có sự tương đồng cao về lợi ích dân tộc”[72;tr.87-88]. Quan điểm Mác-xít về lợi ích đề cao chủ nghĩa quốc tế và sự bình đẳng giữa các chủ thể, cơ bản không phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa hiện thực về lợi ích là yếu tố quan trọng chi phối QHĐB, hay quan điểm tự do về sự phụ thuộc lẫn nhau và động lực hợp tác giữa các quốc gia, nhưng nhấn mạnh vào sự coi trọng các lợi ích chung, vượt lên lợi ích dân tộc hẹp hòi. Hồ Chí Minh sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc tăng cường đoàn kết, hợp tác giữa Việt Nam với các nước láng giềng có chung đường biên giới để giữ an ninh và ổn định, từ đó mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới. Quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng là Trung Quốc, Lào, Campuchia tuy khác nhau về nội hàm, nhưng đều là những mối QHĐB so với bất kỳ quốc gia khác trên thế giới. Chung sống hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác 28 cùng phát triển với các nước láng giềng là một yêu cầu, một nguyên tắc đối ngoại, mà giá trị của nó như nhau đối với mọi quốc gia có cùng chung biên giới, dù lớn hay nhỏ. Với Trung Quốc, Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa về lợi ích dân tộc trong việc xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt Nam - Trung Quốc trên tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em”[59;tr.82]. Cho dù quan hệ hai nước thăng trầm, nhưng Việt Nam vẫn xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Trung Quốc, nhằm đem lại lợi ích và thịnh vượng cho hai dân tộc, vì hòa bình, ổn định và phát triển[112;tr.73-74]. Hồ Chí Minh đề cao độc lập, chủ quyền của Lào và Campuchia và mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền, cùng có lợi, trên năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình [61;tr.523]. Hơn nữa, Người có cách tiếp cận về hài hòa, đan xen LIQGDT trong quan hệ với Lào và Campuchia. Luận điểm quan trọng nhất trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về QHĐB là sự gắn bó vận mạnh giữa các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, với quan điểm cùng thắng về lợi ích. Người nêu rõ: “Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính trị, v.v. mà ta với Miên, Lào như môi với răng. Hai dân tộc Miên, Lào hoàn toàn giải phóng thì cuộc giải phóng của ta mới chắc chắn hoàn toàn”[62;385]. Người đặt lợi ích chung của ba dân tộc lên trên lợi ích riêng của Việt Nam. Người viết: “Chúng ta kháng chiến, dân tộc bạn Miên, Lào cũng kháng chiến. Vì vậy, ta phải giúp đỡ anh em Miên, Lào, giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào. Và tiến hành thành lập Mặt trận thống nhất các dân tộc Việt-Miên-Lào” [62;tr.385]. Hồ Chí Minh đề ra phương châm giúp bạn là tự giúp mình và không đứng trên lợi ích Việt Nam mà làm công tác Miên, Lào, không đem chủ trương, chính sách, nguyên tắc của Việt Nam ứng dụng vào Lào, Miên như lắp máy mà phải giúp đỡ để bạn tự làm, tự quyết định lấy [112;tr.76-77]. Báo cáo chính trị Đại hội VI nêu rõ “củng cố và phát triển liên minh đặc biệt với hai nước Lào và Campuchia là nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược gắn liền với lợi ích sống còn của độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội ở nước ta và trên toàn bán đảo Đông Dương”. Đại hội VII (1991) của Đảng tiếp tục đường lối của Đại hội VI đối với Lào, nhấn mạnh yếu tố lợi ích, chủ trương “không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia anh em. Đổi mới 29 phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau”[35;tr.78]. Quan điểm gắn QHĐB với LIQGDT xuyên suốt trong các kỳ đại hội của Đảng CSVN. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tuy không nêu trực tiếp mối liên hệ giữa QHĐB với LIQGDT, nhưng việc khẳng định lại đường lối vừa coi LIQGDT là mục tiêu cao nhất của CSĐN, vừa khẳng định ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống [40]; một lần nữa khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng gắn QHĐB với LIQGDT của Việt Nam. (iii) Chính sách đối ngoại và quan hệ đặc biệt Nếu quan hệ quốc tế là cái khung thì CSĐN là toàn thể các bộ phận cấu thành cái lõi, cái nhân bên trong [29]. Quan hệ quốc tế vừa là cơ sở vừa là kết quả của CSĐN [85; tr.70]. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đề cao chủ nghĩa quốc tế trong mối quan hệ giữa CSĐN và QHĐB. QHĐB chỉ có thể là quan hệ giữa các quốc gia cùng ý thức hệ, không tồn tại mâu thuẫn giai cấp, trong đó quan hệ giữa các nhà nước của giai cấp công nhân với nhau được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa quốc tế vô sản sẽ có mức độ tương đồng lợi ích giai cấp và dân tộc cao nhất [72; tr.87-88]. QHĐB giữa hai chủ thể quan hệ quốc tế dựa trên sự thống nhất rất cao về mục tiêu, lý tưởng và lợi ích giai cấp-dân tộc được chứng minh trong một quá trình lịch sử lâu dài. Thắng lợi của cách mạng vô sản tất yếu sẽ dẫn đến mối quan hệ hữu nghị giữa các nhà nước XHCN. Quan hệ giữa các nước đế quốc và các thuộc địa không thể là mối quan hệ bình đẳng, lâu bền và có cùng lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc. Chỉ có quan hệ giữa các nhà nước XHCN có cùng chung lợi ích giai cấp và cơ bản không khác biệt về lợi ích dân tộc, trên nền tảng đoàn kết giai cấp theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản thì mới thực sự là quan hệ hữu nghị, lâu bền, thống nhất lợi ích và tương trợ nhau một cách đặc biệt hơn so với các đối tác khác. Các nhà nghiên cứu Mác-xít không phủ nhận lợi ích là yếu tố quan trọng chi phối QHĐB, hay sự phụ thuộc lẫn nhau là động lực hợp tác giữa các quốc gia, nhưng nhấn mạnh tính chất bình đẳng và lợi ích chung, vượt lên các lợi ích dân tộc hẹp hòi, sự đoàn kết, tin cậy lẫn nhau trong CSĐN[95]. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho rằng sự chung sống hòa hiếu, hợp tác cùng phát triển với các nước láng giềng là một yêu cầu, một nguyên tắc đối ngoại, mà giá trị của nó như nhau đối với mọi quốc gia có chung biên giới. Lào, Campuchia, 30 Việt Nam là ba dân tộc cùng sống trên dải đất núi sông liền một dải, có sự đoàn kết gắn bó lâu đời về lịch sử, văn hóa, đã từng giúp nhau trong đấu tranh chống kẻ thù chung, chính vì thế phải ưu tiên xây dựng mối quan hệ keo sơn, gắn bó bền chặt với nhau [112;tr.74]. Tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tới Liên hợp quốc lời kêu gọi trong đó nêu rõ: “Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền”[61;tr.523]. Đối với QHĐB với các nước bạn bè truyền thống, Đảng khẳng định tiếp tục củng cố liên minh chiến lược với cả Lào và CPC là nhân tố có ý nghĩa chiến lược đối với an ninh và hòa bình trên bán đảo Đông Dương, cam kết tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quốc tế với Lào và CPC, qua đó tăng cường thế và lực của cách mạng 3 nước [34]. Đảng chủ trương “phát triển và củng cố mối QHĐB giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy luật sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em. Việt Nam trung thành với nghĩa vụ quốc tế của mình đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia, coi mỗi thành tựu trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc của hai nước anh em như thành tựu của chính mình, cũng như mỗi thành tựu của chúng ta đều không tách rời tình đoàn kết, sự ủng hộ và giúp đỡ của hai nước anh em”[45]. Đại hội VIII (1996) và Đại hội IX (2001) của Đảng tiếp tục chính sách củng cố và phát triển QHĐB với Lào. Phần “Chính sách đối ngoại” của Nghị quyết Đại hội VIII tuy không nêu đích danh Lào, nhưng nhấn mạnh nhiệm vụ “tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới, đồng thời luôn luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Mỹ latinh, với Phong trào không liên kết”[36]. Phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Nghị quyết Đại hội IX đề ra nhiệm vụ “phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng” [37]. Nghị quyết Đại hội X (2006) xác định nhiệm vụ đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ 31 của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi[38]. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng phát triển và củng cố mối QHĐB, xem đây là nhiệm vụ có tầm chiến lược to lớn, thiết thực phục vụ lợi ích đảm bảo an ninh chính trị và phát triển của mỗi nước. QHĐB Việt Nam – Lào vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy hợp tác toàn diện, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong hợp tác quốc phòng an ninh, kinh tế, giáo dục và các lĩnh vực khác cho ngang tầm với quan hệ truyền thống giữ hai nước[3]. Tóm lại, các trường phái lý thuyết đều cho rằng LIQGDT và QHĐB có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành hai trụ cột quan trọng trong CSĐN giữa các nước có quan hệ hữu nghị mật thiết, lâu dài (Phụ lục 2. Tóm tắt quan điểm của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa kiến tạo về mối quan hệ giữa chính sách đối ngoại, LIQGDT và QHĐB). CSĐN phát huy sự tương đồng về các yếu tố lợi ích, đồng thời phát huy giá trị của các yếu tố bản sắc tạo nên QHĐB. Các yếu tố bản sắc đóng vai trò là điều kiện cần, còn các yếu tố lợi ích là điều kiện đủ của chính sách phát triển QHĐB[95]. QHĐB vừa là mục tiêu vừa là điểm xuất phát của chính sách. Nói cách khác, ngoài các yếu tố quốc tế và trong nước, các yếu tố QHĐB là một loại bối cảnh tạo ra sự điều chỉnh CSĐN. 1.1.2. Cách tiếp cận chính sách đối ngoại từ góc độ lợi ích quốc gia-dân tộc 1.1.2.1. Quan điểm của Đảng về ba lợi ích an ninh, phát triển và vị thế Về lợi ích an ninh, Đại hội XII của Đảng CSVN đã đề cập 5 khái niệm của việc bảo vệ an ninh Tổ quốc. Văn kiện Đại hội XII lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.”[40, tr.153] Lần đầu tiên Đảng cụ thể hóa nội hàm bảo vệ Tổ quốc, đồng nghĩa bảo v... Sa, Hệ thống thủy lợi Đông-phu-xỉ và Thà-phạ-nông-phông tỉnh Viêng Chăn và Hệ thống thủy lợi Nậm Long tỉnh Hủa Phăn. Trong giai đoạn 2011-2020, Việt Nam tiếp tục giúp Lào xây dựng Trung tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp tỉnh Xiêng Khoảng, Trung tâm dịch vụ kỹ 13 Tính đến cuối năm 2016 Chính phủ Việt Nam đã cho Chính phủ Lào vay 6 khoản tín dụng trị giá 152 triệu USD. Giai đoạn 2011-2015 giá trị hai khoản vay VL05 và VL 06 cho phía Lào là 51 triệu USD, với lãi suất là 1,5%, kỳ hạn 10-15 năm bao gồm 3 năm ân hạn. 194 thuật nông nghiệp tỉnh Hủa Phăn, Quy hoạch nông nghiệp tại hai tỉnh Hủa Phăn- Xiêng Khoảng, Hệ thống thủy lợi tỉnh Khăm Muộn, Hệ thống thủy lợi Nam Hang tỉnh Hủa Phăn, Hỗ trợ phát triển nông nghiệp và sản xuất hàng hóa tại Thà-phạ-nong-phông và Đông-phu-xỉ... Trong lĩnh vực xã hội và giảm nghèo, Việt Nam đã giúp Lào xây dựng các mô hình thí điểm phục vụ nông nghiệp tại Phun Sủng, Chăm-pa-sắc, Lắc-sao và Hạt Siều; chuyển đổi giống cây trồng thông qua các dự án: Hỗ trợ phát triển giống ngô lai; Quy hoạch vùng cây ăn quả huyện Xiềng-Ngân, Nặm-Bạc (Luông Pha Băng) và vùng trồng rau Văng Viêng (Viêng Chăn), xây dựng Bệnh viện tỉnh Bò Kẹo, hệ thống nước sạch Xay-xổm-bun... Giai đoạn 2011-2020 Việt Nam hỗ trợ Lào các dự án Làng Hữu nghị thanh niên biên giới Việt-Lào, xây dựng Trung tâm chỉnh hình và phục hồi chức năng cho thương binh và người tàn tật 686 tại Bản Cân, tỉnh Viêng Chăn; xây dựng Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia Lào; xây dựng hai bệnh viện lớn trên 500 giường ở Xiêng Khoảng và Hủa Phăn với số vốn hơn 1.000 tỷ VNĐ. Phát triển nguồn nhân lực là lĩnh vực được hai nước quan tâm, chiếm 43,25% viện trợ không hoàn lại giai đoạn 1994-2010 cho đào tạo cán bộ, học sinh Lào tại Việt Nam và 12,61% viện trợ để hình thành hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú U-đôm-xay, Hủa Phăn, Xiêng-Khoảng, Viêng Chăn, Xa- va-na-khét, Chăm-pa-sắc, A-ta-pư, xây dựng các cơ sở bồi dưỡng cán bộ và đào tạo nghề tại Viêng Chăn, Bò Kẹo, các trường đào tạo cao đẳng và đại học như Trường Cao đẳng Tài chính Đông-khăm-xạng, Trường Âm nhạc Quốc gia Lào... Từ năm 1997 hai bên chuyển sang ưu tiên cho đào tạo dài hạn, chính quy, nhưng vẫn duy trì tỉ lệ nhất định cho các khóa bồi dưỡng và đào tạo ngắn hạn. Trong 5 năm 2006-2010, Việt Nam cấp 3.518 suất học bổng với kinh phí 520 tỷ VNĐ tương đương với 30 triệu USD. Trong giai đoạn 2011-2020, kinh phí dành cho đào tạo trên 2.100 tỷ VNĐ chiếm khoảng 32% tổng số vốn viện trợ. Việt Nam dành cho Lào trên 1000 suất học bổng/năm tại các trường đại học khắp cả nước; đầu tư trên 20 dự án xây dựng học viện chính trị, học viện hành chính, trường 195 dân tộc nội trú, trung học, trường năng khiếu tại Viêng Chăn, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Luông Nậm Thà, Luông Pha Băng, Trường dạy nghề tại U-đôm-xay, Bò Kẹo, Trường Âm nhạc quốc gia Lào, Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý khoa học công nghệ... Trong lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, trong giai đoạn 2011-2020 Việt Nam giúp Lào hàng chục dự án có ý nghĩa chính trị như Dự án biên soạn lịch sử liên minh chiến đấu, quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Dự án sửa chữa và nâng cấp Bảo tàng Cay-sỏn Phôm-vi-hản; Đầu tư xây dựng khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Khăm Muộn, 04 dự án xây dựng Đài phát thanh và truyền hình khu vực Chăm-pa-sắc, Luông Pha Băng, Xa-va-na-khẹt, U-đôm-xay, Xây dựng Công viên Hồ Chí Minh tại Viêng Chăn... Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam giúp Lào xây dựng hạ tầng giao thông bằng nguồn vốn vay ưu đãi. Tuyến đường 18B ở Nam Lào và tuyến đường 2E ở Bắc Lào và dành 2,8 viện trợ không hoàn lại trong những năm 2001-2005 để giúp Lào nghiên cứu khảo sát các tuyến đường sắt, đường bộ và đầu tư xây dựng các cửa khẩu của Lào với Việt Nam. Trong giai đoạn 2011-2020, Việt Nam giúp Lào Dự án điều tra khoáng sản và lập bản đồ địa chất tỷ lệ 1:200.000 vùng Bắc Viêng Chăn-Nam Luôn Nậm Thà, Chiến lược phát triển giao thông vận tải quốc gia Lào tới năm 2020 và tầm nhìn đến 2030; xây dựng tuyến đường bộ nối tỉnh Hủa Phăn với Thanh Hóa; nghiên cứu khả thi Dự án đường bộ cao tốc Hà Nội – Viêng Chăn, Trạm kiểm soát tần số Lào... Các khoản viện trợ chính thức và không chính thức của Việt Nam dành cho Lào là tương đối lớn so với khả năng của Việt Nam vẫn còn là nước vay nợ nước ngoài. Hiện tượng một nước vừa là nước nhận viện trợ đồng thời là nước cung cấp viện trợ không phải là mới, tuy nhiên trong trường hợp điều kiện còn khó khăn như Việt Nam hàng năm vẫn dành một khoản ngân sách đáng kể để viện trợ cho Lào là một trường hợp chính sách đối ngoại cần được nghiên cứu để rút ra một số bài học về lý luận và thực tiễn. 196 3. Viện trợ trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với Lào Tại Hội nghị Trung ương III (Khóa II), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Sự thật thì chưa tìm ra chữ gì để thay thế chữ “giúp” nên dùng chữ giúp, thực ra không phải là giúp mà là làm một nhiệm vụ quốc tế”. “Mà giúp nước bạn tức là tự giúp mình nên phải ra sức giúp đỡ một cách tích cực, thiết thực hơn”14. Kế thừa Tư tưởng Hồ Chí Minh, nghĩa vụ quốc tế đối với Lào luôn được khẳng định trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam các thời kỳ. Với Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng của chính sách đối ngoại, Việt Nam coi viện trợ dành cho Lào là nghĩa vụ quốc tế và ưu tiên trong chính sách với Lào. Theo Thỏa thuận giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CHDCND Lào về quy chế tài chính và quản lý sử dụng vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào, vốn viện trợ là các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào được ghi trong Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ thuật 5 năm và hàng năm, hoặc các khoản viện trợ không nằm trong Hiệp định giữa hai Chính phủ. Chiến lược hợp tác với Lào giai đoạn 2011-2020 xác định vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào là nguồn lực cần thiết tạo động lực thúc đẩy hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, tăng cường quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước. Vốn viện trợ được sử dụng cho các lĩnh vực (i) đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, học sinh, sinh viên Lào học tập tại Việt Nam; (ii) các dự án đầu tư xây dựng tại Lào, các dự án, công việc viện trợ khác trong lĩnh vực hành chính, kinh tế sự nghiệp theo quyết định của hai Chính phủ. Các nguồn tài liệu chính thức của Việt Nam cho rằng viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho Lào có đặc điểm riêng so với nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của các nước phát triển dành cho Lào, thể hiện sự giúp đỡ lẫn nhau, vô tư vì sự ổn định và phát triển của mỗi nước, không gắn với lợi ích hay chiến lược của nước tài trợ, không tạo tiền đề cho chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực quan tâm hoặc có lợi thế. Viện trợ không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn được 14 Hồ Chí Minh. Toàn tập, T6, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1986. 197 xem xét dưới góc độ nghĩa vụ quốc tế có tác động toàn diện về chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng, môi trường... Quan điểm này có nhiều điểm đồng với quan điểm của chủ nghĩa hiện thực về trách nhiệm đặc biệt của nước lớn hơn trong việc đảm bảo an ninh và viện trợ kinh tế nước nhỏ hơn trong quan hệ đặc biệt. Chính sách viện trợ là một phần trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Giai đoạn 2011-2020, vốn viện trợ cho Lào đã đạt được mục tiêu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tăng cường sự phát triển ổn định biên giới giữa hai nước; giải quyết một phần khó khăn của Lào về cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục-đào tạo, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, phát thanh truyền hình, y tế.... góp phần nâng cao nhận thức của Đảng và nhân dân Lào về sự giúp đỡ của Việt Nam, yếu tố gắn kết quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Nguồn hỗ trợ của các bộ, ngành, địa phương đã góp phần củng cố sự hợp tác tốt đẹp giữa các bộ ngành địa phương hai nước, góp phần củng cố quan hệ đặc biệt. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Bun Nhăng Vô La chít đã thay mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân các dân tộc Lào đã cảm ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam anh em đã luôn dành sự giúp đỡ quý báu, kịp thời và có hiệu quả đối với công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước của Lào ngày nay15. Trong các phát biểu của lãnh đạo Lào đều nhấn mạnh mặc dù Việt Nam còn rất khó khăn nhưng đã và đang dành nguồn ngân sách để viện trợ không hoàn lại cho Lào, thể hiện chủ nghĩa quốc tế vô tư trong sáng và quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng và hai nhà nước. Box 1. Câu chuyện thành công: Dự án xây dựng Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý khoa học công nghệ Lào Tại kỳ họp lần thứ 35 Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam - Lào ngày 19/12/2012, Chính phủ Việt Nam đã giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ Lào triển khai Dự án xây dựng Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý khoa học công nghệ Lào nhằm hỗ trợ phát triển tiềm lực khoa học công nghệ cho Lào. 15 Phát biểu của TBT Bun-nhăng Vô-la-chít tại Lễ kỷ niệm 55 QHNG và 40 năm Hiệp ước HNHT, ngày 18/7/2017 tại Viêng Chăn, Lào. 198 Dự án có tổng quy mô xây dựng 5,256 m2, trong đó bao gồm 1 khối nhà 2 tầng, diện tích 3,600 m2, khu ký túc xá cho học viên với 2 tòa nhà 2 tầng, diện tích 1,620 m2 cùng với các trang thiết bị cơ bản khác. Tổng mức đầu tư xây dựng công trình được chủ đầu tư tính toán ban đầu là 250 tỷ đồng dựa trên một số tính toán về nhu cầu đào tạo cán bộ KHCN của các cơ quan trung ương và địa phương Lào. Quá trình thẩm định của Phân ban Việt Nan – Lào và các cơ quan bộ, ngành liên quan của Việt Nam diễn ra khá dài nhưng với tinh thần nghiêm túc, khoa học, thận trọng và đã dự báo lại lại nhu cầu đào tạo cho sát với thực tế hơn. Rút kinh nghiệm mô hình không thành công của Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý kinh tế tại Thủ đô Viêng Chăn đã không sử dụng được đúng mục tiêu ban đầu, các cơ quan tham mưu của Chính phủ và Phân ban Việt Nam đã đóng góp ý kiến điều chỉnh lại thiết kế tòa nhà cho phù hợp với một trung tâm KHCN đa năng tầm quốc gia của Lào, nơi vừa đào tạo cán bộ, vừa có thể là trung tâm của các cơ quan công nghệ cao của Lào hoặc có thể sử dụng vào mục đích triển lãm KHCN sao cho sử dụng tối đa công suất thiết kế. Thiết kế cũ theo mẫu nhà truyền thống của Lào không thực sự phù hợp với các chức năng của Trung tâm. Các cơ quan Việt Nam và Lào đã nhiều lần trao đổi bàn bạc đi đến thống nhất về mục đích và thiết kế công trình theo mô hình của trung tâm hiện đại trên thế giới. Về vốn viện trợ, tổng mức đầu tư đã được tính toán lại từ 250 tỷ đồng rút xuống hơn 98 tỷ đồng, trong đó vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào là gần 90 tỷ đồng, và vốn đối ứng từ nguồn ngân sách của Lào là gần 9 tỷ đồng. Ngày 01/6/2015, Phân ban hợp tác Lào-Việt Nam đã ký Quyết định phê duyệt Dự án và giao Bộ Khoa học và Công nghệ Lào phối hợp với Bộ KH&CN Việt Nam triển khai Dự án. Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý KHCN của Lào sau khi được xây dựng sẽ đáp ứng việc đào tạo, bồi dưỡng cho khoảng 600 đến 800 lượt cán bộ/năm. Sau năm 2020, Trung tâm cần được nâng cấp trở thành Học viện Quản lý KH&CN để có năng lực đào tạo, bồi dưỡng cho khoảng từ 2.000 – 2.500 lượt cán bộ/năm. Dự án được khởi công vào tháng 9/2015 và hoàn thành, nghiệm thu vào tháng 12/2017 theo đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu và quy định đề ra. Đây là Dự án mang tính chiến lược lâu dài nhằm tăng cường cơ sở hạ tầng và nguồn lực về KH&CN cho Lào. Mục tiêu trước mắt là để Bộ KH&CN Lào có được cơ 199 sở vật chất hoàn thiện và có thể chủ động tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng và chuyên môn cho đội ngũ cán bộ KH&CN từ Trung ương đến địa phương và các doanh nghiệp của Lào. Việc đầu tư xây dựng dự án là bước đầu tiến tới đầu tư xây dựng đồng bộ Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý KH&CN của Lào là đầu tư cho chiều sâu, cho chất lượng nguồn nhân lực để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển KH&CN của đất nước Lào anh em. Sự kiện khởi công Dự án đầu tư xây dựng Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý KH&CN của Lào là một trong các hoạt động hợp tác trọng tâm của Bộ KH&CN hai nước Việt Nam và Lào, góp phần chào mừng Quốc khánh nước CHDCND Lào lần thứ 40, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII và Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ X. Chiều 4 tháng 2 năm 2018, tại thủ đô Viêng Chăn (Lào), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith cùng tham dự lễ khánh thành Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý khoa học và công nghệ của Lào và chứng kiến lễ ký biên bản bàn giao giữa Bộ Khoa học và Công nghệ hai nước. Dự án hoàn thành đảm bảo hạ tầng phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ quản lý khoa học công nghệ của Lào, đáp ứng quy mô 600-800 lượt người/năm; là nơi làm việc cho khoảng 70 cán bộ, nhà khoa học, giáo viên giảng dạy; nơi làm việc của Viện Khoa học và Công nghệ quốc gia Lào, một số cơ quan nghiên cứu, phòng thí nghiệm, góp phần đạt mục tiêu chiến lược phát triển khoa học và công nghệ của Chính phủ Lào Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Việt Nam Chu Ngọc Anh bày tỏ tin tưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lào sẽ quản lý, giữ gìn và phát huy hiệu quả dự án, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của Lào. "Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam với trách nhiệm và tình cảm đặc biệt của mình, trong phạm vi nhiệm vụ được giao sẽ tiếp tục phối hợp với Lào trong quá trình khai thác sử dụng dự án”, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh. Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Lào Boviengkham Vongdara cảm ơn sự giúp đỡ, ủng hộ của Việt Nam với nhân dân Lào nói chung và ngành khoa học công nghệ nói riêng. "Chúng tôi hứa sẽ quản lý, giữ gìn và khai thác hiệu quả dự án theo mục tiêu đã đề ra", Bộ trưởng Boviengkham cam kết. Trao đổi với tác giả, bà Lâm Hồng, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế của Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết Bộ KHCN Lào sử dụng khu nhà để tổ chức các lớp đào tạo tập huấn của cán bộ. Một 200 số cơ quan nghiên cứu như Viện Khoa học và Công nghệ Lào, các phòng thí nghiệm, một số đơn vị chức năng của Bộ, cũng được bố trí tại Trung tâm. Trung tâm cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo trong nước và quốc tế về KHCN. Bà Hồng cho rằng công trình thực sự có ý nghĩa thiết thực với Lào, đáp ứng rất kịp thời nhu cầu của Bộ KHCN Lào. Bạn rất biết ơn Việt Nam về món quà biểu hiện của tình hữu nghị Việt - Lào này và hào hứng sau khi Trung tâm được đưa vào sử dụng. Phía Chính phủ Lào tổ chức các cuộc tham quan đến trung tâm coi đây là một trong dự án thành công sử dụng vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào. Đến nay sau gần 2 năm sử dụng công trình vẫn bảo đảm chất lượng, không có hiện tượng hư hỏng nào đáng kể. Tuy nhiên, viện trợ của Việt Nam tạo ta chưa nhiều công trình lớn, mang dấu ấn của mối quan hệ đặc biệt. Nhân dân Lào chưa biết nhiều về sự giúp đỡ của Việt Nam ngoài các dân cư sử dụng trực tiếp các công trình viện trợ. Nhà nghiên cứu Lào Xayasane (2018) đưa ra nhận xét việc thực hiện những hiệp định thỏa thuận hợp tác giữa Lào và Việt Nam còn chậm, sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương hai nước còn thiế chặt chẽ nên cưa đạt được kết quả mong muốn. Việc sử dụng vốn viện trợ của từ Việt Nam của Lào còn nhiều bất cập, nhiều dự án hợp tác cũng được chậm được triển khai và không hoàn thành theo tiến độ đề ra. Tiêu biểu Lào và Việt Nam thỏa thuận đầu tư xây dựng hệ thống đài phát thanh truyền hình chuyển tiếp tại 4 điểm của Lào là Chăm-pa-sắc, Xavanakhet, Luông Pha Băng, U-đôm-xay tiến tới phát chuyển tiếp kênh Việt Nam phụ đề tiếng Lào, với dự kiến phục vụ cho 40,29% dân Lào, góp phần nâng cao hiểu biết của nhân dân Lào về Việt Nam. Tuy nhiên, sau 10 năm triển khai và nhiều lần điều chỉnh kinh phí thì đến tận cuối năm 2009 mới có đài phát thanh và truyền hình Chăm-pa-sắc được thông qua các thủ tục đầu tư và bắt đầu xây dựng. Sự chậm trễ trong hợp tác giữa hai nước là phổ biến dẫn đến hiệu quả hợp tác không cao. Souphanouvong (2017) cũng cho rằng các dự án sử dụng vốn viện trợ của Việt Nam cho Lào được triển khai chậm, dàn trải. Phần lớn các dự án có quy mô nhỏ, phân tán theo các vùng lãnh thổ. Một số dự án chậm tiến độ, chất lượng thấp, xuống cấp nhanh, một số dự án xây xong không triển khai được 201 theo mục tiêu ban đầu. Một số dự án thực hiện theo quy trình thí điểm giao cho phía Lào thực hiện thường có tổng mức đầu tư cao. Một số dự án để xảy ra thất thoát, lãng phí. Những bất cập trong sử dụng vốn viện trợ phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả viện trợ và uy tín của Việt Nam. Box 2. Câu chuyện thất bại: Dự án Hệ thống thủy lợi Nậm Long Dự án Hệ thống thủy lợi Nậm Long tại huyện Xộp Bấu, tỉnh Hủa Phăn có tổng mức đầu tư là 27 tỷ đồng (tương đương 1,7 triệu USD), được Phân ban hợp tác Lào- Việt Nam phê duyệt vào năm 2003. Chủ đầu tư phía Lào là Cục Thủy lợi thuộc Bộ Nông Lâm Lào và Sở Nông Lâm nghiệp tỉnh Hủa Phăn. Chủ đầu tư phía Việt Nam là Tổng công ty xây dựng nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2003-2005 và sau đó là Ban quản lý dự án thủy lợi giai đoạn 2005-2007. Công trình phục vụ tưới tiêu cho khoảng 309 ha đất canh tác và cấp nước sinh hoạt cho 6 bản dân tộc thiểu số trong khu vực được hưởng lợi. Hạng mục Dự án bao gồm hệ thống đầu mối (đập dâng bê tông, cống tràn, bể tiêu năng); 14 km kênh chính và 1,2km kênh nhánh, công trình trên kênh và nhà quản lý. Dự án được khởi công tháng 10 năm 2003 thi công theo tiến độ cấp vốn, năm 2003-2004 mỗi năm được cấp 3 tỷ đồng, năm 2005 được cấp 7 tỷ đồng, năm 2006 được cấp 14 tỷ đồng. Các hạng mục được hoàn thành gồm hệ thống đầu mối (đập dâng, cống lấy nước); hệ thống kênh (4 km kênh chính và các công trình trên kênh). Đến năm 2006 còn 10km kênh chính và 1,2 km kênh nhánh, các công trình trên kênh, nhà quản lý và một số hạng mục khác chưa được xây dựng. Từ năm 2006-2009 dự án tạm dừng. Giá trị dự án thực hiện đến năm 2007 được phía Lào nghiệm thu là 27, 3 tỷ đồng. Đến năm 2010 phía Lào bố trí vốn trong nước để xây dựng 12 km kênh chính còn lại với kinh phí tương đương 40 tỷ đồng. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, công trình đã phục vụ tưới cho 200 ha lúa và hoa màu. Tuy nhiên dự án chưa được hai bên bàn giao nghiệm thu theo quy định của Quy chế tài chính và quản lý vốn viện trợ giữa hai nước. Sa một thời gian sử dụng, đến thời điểm 2013-2014 một số hạng mục đã xuống cấp trong đó công trình cống đập không đáp ứng yêu cầu lấy nước do bị bồi lắng, thượng lưu đập dâng, cửa cống lấy nước bị bồi lắng, lưới chắn rác bị hư hỏng, cống xả cát bị bồi lấp. Hệ thống kênh tưới nhiều đoạn bị xuống cấp và bồi lấp, ảnh hưởng đến lưu lượng và mực nước cuối kênh; cầu máng số 1 có hai trụ bị lũ gây 202 xói lở, 1 trụ giữ bị cuốn trôi về hạ lưu; các cầu cống qua đường bị xuống cấp; tấm đan bị vỡ gãy; do phần lớn kênh men theo sườn núi, thiết kế không có tấm nắp nên khi bị mưa lớn đất đá từ sườn núi sạt lở gây bồi lấp lòng kênh; một số đoạn kênh nằm trên ta luy của đường giao thông có nguy cơ sạ lở. Để khắc phục tình trạng trên, vào đầu năm 2015 các chủ đầu tư Việt Nam và Lào trình phê duyệt Dự án nâng cấp và sửa chữa hệ thống thủy lợi Nậm Long đề nghị hai Chính phủ tiếp tục cấp vốn viện trợ với số vốn nhiều hơn gấp đôi dự án cũ để thực hiện dự án mới. Trao đổi với tác giả, đồng chí Khăm Hùng, Tỉnh trưởng tỉnh Hủa Phăn bày tỏ sự không hài lòng của lãnh đạo và nhân dân tỉnh Hủa Phăn đối với dự án trên, cho rằng việc thực hiện của các chủ đầu tư đã làm giảm hiệu quả của vốn viện trợ của Chính phủ Việt Nam dành cho Lào, cần sớm có biện pháp khắc phục. Nguyên nhân của các yếu kém trong quản lý và sử dụng vốn viện trợ trước hết là nhận thức và quan điểm về sự giúp đỡ của Việt Nam với Lào nói chung và về viện trợ không hoàn lại nói riêng còn nhiều vấn đề bất cập, ảnh hưởng đến mục tiêu, phương thức và hiệu quả viện trợ. Một số ý kiến cho rằng không nên đặt vấn đề gắn viện trợ cho Lào với lợi ích chiến lược của ta tại Lào. Đây là điểm khác biệt giữa viện trợ của Việt Nam so với quan điểm của các nước cung cấp ODA trên thế giới. Hai là, viện trợ chưa gắn chặt với việc triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam tại Lào. Trên thực tế vai trò của các cơ quan ngoại giao trong quy trình cam kết, phân bổ và đánh giá hiệu quả vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào là không tương xứng, do đây là thẩm quyền của Phân ban hợp tác Việt Nam-Lào do Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm cơ quan thường trực. Ba là, thiếu các tiêu chí, quy định chặt chẽ về lựa chọn dự án, nhà đầu tư, quy trình thẩm định, xét duyệt, thực hiện, đánh giá hiệu quả một cách chặt chẽ; một số cơ quan chưa thực hiện nghiêm thỏa thuận tài chính và quản lý sử dụng vốn viện trợ dành cho Lào. Bốn là chưa quan tâm đúng mức đến truyền thông về ý nghĩa của vốn viện trợ cả Việt Nam đối với việc phát triển kinh tế - xã hội Lào; tư duy khiêm tốn về sự hỗ trợ của Việt Nam với bạn và ngại nói về sự giúp đỡ của chính mình (trong khi trên thực tế tổng số vốn viện trợ của Việt Nam cho 203 Lào qua các kênh khác nhau là không hề nhỏ), làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả của vốn viện trợ với ý nghĩa là một công cụ của chính sách đối ngoại của Việt Nam. 2.2.5.4. Một số vấn đề chính sách rút ra từ viện trợ của Việt Nam cho Lào Viện trợ là một bộ phận không tách rời của chính sách đối ngoại của Việt Nam với Lào nhưng trên thực tế được triển khai như một lĩnh vực tương đối độc lập. Viện trợ có thể đem lại hiệu quả đối ngoại rất lớn nếu được sử dụng hiệu quả; ngược lại nếu dự án viện trợ kém chất lượng thậm chí thất bại thì ảnh hưởng rất tiêu cực đến hình ảnh và uy tín của Việt Nam tại Lào. Nói về hiệu quả về vị thế của Việt Nam tại Lào, người dân Việt Nam có rất ít thông tin đối với việc sử dụng vốn viện trợ của Việt Nam cho Lào. Sự đánh giá và ghi nhận của dư luận Lào đối với ý nghĩa của nguồn vốn viện trợ của Việt Nam không cao. Ngược lại một số dự án như dự án thủy lợi Nậm Long ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả chính trị của nguồn vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào, trong khi nguồn vốn này thực chất là sự “nhường cơm sẻ áo” cho Lào vì các địa phương Việt Nam rất thiếu kinh phí để xây dựng trường học và chăm sóc ý tế cho con em đồng báo vùng sâu vùng xa. Chính sách đối ngoại của nhà nước ta là vì lợi ích của quốc gia dân tộc, do đó, viện trợ của ta đối với nước ngoài tất yếu phải gắn với lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì vậy cần xem xét lại quan điểm viện trợ hiện nay của một số cơ quan quản lý vốn viện trợ của Việt Nam (coi vốn viện trợ không gắn với lợi ích hay chiến lược của nước tài trợ, không tạo tiền đề cho chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực quan tâm hoặc có lợi thế) có còn phù hợp với tình hình mới hiện nay. Cần sớm tưu duy lại chiến lược về viện trợ của Việt Nam theo hướng gắn viện trợ với lợi ích quốc gia dân tộc một cách chính đáng, cùng thắng, nhưng không vì lợi ích dân tộc vị kỷ hẹp hòi16, coi chiến lược này là cơ sở để hoạch định chính sách viện trợ. 16 Tư duy phổ biến hiện nay coi vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào là một trường hợp đặc biệt, không gắn với lợi ích của Việt Nam, khác với bản chất của viện trợ của các nước khác trên thế giới. 204 Đến nay tiềm lực kinh tế của Lào ngày càng được cải thiện so với năm 2011. Nhu cầu về vốn viện trợ của Lào không còn bức xúc như giai đoạn trước. Về phía Việt Nam số lượng dự án viện trợ trong giai đoạn trước đang được sử dụng. Trung Quốc đã trở thành nước cung cấp viện trợ lớn nhất cho Lào. Do nhu cầu trong nước về vốn an sinh xã hội và vấn đề nợ công, Việt Nam không nhất thiết cạnh tranh về viện trợ với các nước khác tại Lào. Vì vậy, cần đánh giá lại hiệu quả chính sách viện trợ của Việt Nam trong bối cảnh quốc tế, khu vực đã thay đổi và Lào ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc. Trong mọi trường hợp, viện trợ của Việt Nam cần điều chỉnh theo hướng ưu tiên sử dụng cho việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, tăng mức học bổng để duy trì số lượng và cải thiện căn bản điều kiện sống của sinh viên Lào; dành phần vốn viện trợ để duy tu bảo dưỡng các công trình đã bàn giao cho Lào. Chỉ triển khai mới các dự án viện trợ trên cơ sở chọn lọc, đáp ứng đủ tiêu chí lợi ích của cả hai nước./. Nguồn: Tài liệu của Vụ Quan hệ quốc tế, Văn phòng Chính phủ. 205 PHỤ LỤC 7 Sự khác biệt giữa QHĐB và quan hệ đối tác trong ASEAN QHĐB VN-Lào Quan hệ thành viên ASEAN Lịch sử Lịch sử kháng chiến giành độc lập dân tộc, liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung, đoàn kết đặc biệt thực chất, cùng chung hệ tư tưởng, tính giai cấp CSĐN đa dạng hóa đa phương hóa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và khu vực, đoàn kết hình thức, phi giai cấp Tính chất đối tác Bất cân đối về sức mạnh và tiềm lực, chênh lệch về trách nhiệm, giúp đỡ lẫn nhau, dành ưu đãi đặc biệt Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, có đi có lại, đề cao lợi ích Mục tiêu chiến lƣợc Cùng mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đảng, chế độ XHCN, phát triển kinh tế xã hội, củng cố an ninh quốc phòng. Tạo môi trường hòa bình để phát triển, thoát thế bao vây cô lập, hội nhập khu vực, củng cố thế và lực đất nước, đối ngoại đa phương. Lợi ích chiến lƣợc Lợi ích an ninh, quốc phòng, ổn định biên giới, lợi ích kinh tế song trùng Lợi ích nâng cao vị thế đất nước, lợi ích đối ngoại cơ bản song trùng, lợi ích trong vấn đề Biển Đông khác nhau Tính chất hợp tác Toàn diện, lâu dài, không vì lợi ích trước mắt, giúp bạn là giúp mình Hợp tác cùng có lợi, đề cao lợi ích và chi phối bởi lợi ích, theo đồng thuận ASEAN Chủ thể hợp tác Lãnh đạo Đảng, nhà nước, bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp, các tầng lớp tổ chức xã hội, giới tinh hoa Chính phủ, bộ ngành, doanh nghiệp Lĩnh vực hợp tác Hợp tác toàn diện, trong đó an ninh quốc phòng là trụ cột, kinh tế là then chốt Hợp tác 3 trụ cột: chính trị an ninh, kinh tế và văn hóa xã hội 206 Cƣờng độ quan hệ đối tác Trao đổi đoàn các cấp với số lượng lớn, ngoại giao cấp cao thường xuyên, đặc biệt Ngoại giao cấp cao tối thiểu hai lần trong năm, các cuộc họp thường xuyên, dày đặc Hạ tầng quan hệ Vị trí địa lý liền kề, kết nối hạ tầng hợp tác tốt. Hạ tầng mềm (hệ thống văn bản pháp lý) đầy đủ trên mọi lĩnh vực. Hạ tầng mềm gồm hệ thống văn bản ASEAN Bầu không khí quan hệ Tin cậy thực sự, chân tình, thử thách trong lịch sử, tình hữu nghị tốt đẹp, không có tranh chấp hay mâu thuẫn đáng kể Ngoại giao đa phương trong một số trường hợp làm khó quan hệ song phương. Khác nhau về lập trường giải quyết Ý thức hệ Chủ nghĩa Mác Lê-nin, đoàn kết đặc biệt Phi ý thức hệ Hệ giá trị Nhiều điểm tương đồng về hệ giá trị giữa hai đảng và nhân dân hai nước, cả lịch sử và hiện tại Giá trị ASEAN Hiệu quả hợp tác Nhiều về số lượng, hiệu quả cao Nhiều về số lượng, hiệu quả thấp (Tác giả tự tổng hợp). 207 PHỤ LỤC 8 Sự khác biệt trong QHĐB và quan hệ đối tác trong MRC QHĐB VN-Lào Quan hệ thành viên MRC Xuất xứ và nền tảng quan hệ Lịch sử kháng chiến giành độc lập dân tộc, liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung, đoàn kết đặc biệt thực chất, cùng chung hệ tư tưởng, tính giai cấp Việt Nam tiếp quản tư cách thành viên của Việt Nam Cộng hòa trong Ủy ban Mê Công thành lập năm 1957, ký mới Hiệp định hợp tác năm 1995 thành lập Ủy hội sông MK Tính chất đối tác Bất cân đối sức mạnh và tiềm lực, chênh lệch về trách nhiệm, giúp đỡ lẫn nhau, dành ưu đãi đặc biệt Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, có đi có lại, đề cao lợi ích, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Mục tiêu chiến lƣợc Cùng mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đảng, chế độ XHCN, phát triển kinh tế xã hội, củng cố an ninh quốc phòng. Vì sự phát triển/sử dụng bền vững nguồn tài nguyên lưu vực sông Mê Công Lợi ích chiến lƣợc Lợi ích an ninh, quốc phòng, ổn định biên giới, lợi ích kinh tế song trùng Khai thác sử dụng bền vững nguồn tài nguyên của sông Mê Công để phát triển. Tính chất hợp tác Toàn diện, lâu dài, không vì lợi ích trước mắt, giúp bạn là giúp mình Hợp tác theo lĩnh vực tài nguyên và môi trường, cùng có lợi, đề cao lợi ích và chi phối bởi lợi ích Chủ thể hợp tác Lãnh đạo Đảng, nhà nước, bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp, các tầng lớp xã hội, giới tinh hoa Bộ TNMT, ủy ban sông Mê Công quốc gia của các nước thành viên. Lĩnh vực Hợp tác toàn diện, với an ninh Thủy lợi, thủy điện, giao 208 hợp tác quốc phòng là trụ cột, kinh tế là then chốt thông, kiềm chế lũ lụt, đánh cá, du lịch... Cƣờng độ quan hệ đối tác Trao đổi đoàn các cấp với số lượng lớn, ngoại giao cấp cao thường xuyên, đặc biệt Các phiên họp cấp cao 2 năm, cấp bộ trưởng hàng năm, cấp kỹ thuật nhiều cuộc trong năm họp thường xuyên Hạ tầng quan hệ Vị trí địa lý liền kề, kết nối hạ tầng hợp tác tốt. Hạ tầng mềm gồm hệ thống văn bản pháp lý đầy đủ trên mọi lĩnh vực. Hiệp định hợp tác vì sự phát triển bền vững của lưu vực sông Mê Công và các văn bản khác Bầu không khí quan hệ Tin cậy thực sự, chân tình, thử thách trong lịch sử, tình hữu nghị tốt đẹp, không có tranh chấp hay mâu thuẫn đáng kể Hợp tác quốc tế Ngoại giao nhiều bên đa phương trong một số trường hợp làm khó quan hệ song phương. Khác nhau về lập trường giải quyết. Ý thức hệ Chủ nghĩa Mác Lê-nin, đoàn kết đặc biệt Phi ý thức hệ Hệ giá trị Nhiều điểm tương đồng về hệ giá trị giữa hai đảng và nhân dân hai nước, cả lịch sử và hiện tại Sử dụng bền vững sông Mê Công, con sông chung của các nước thành viên Hiệu quả hợp tác Nhiều về số lượng, hiệu quả tương đối cao Giải quyết tranh chấp về lợi ích không hiệu quả (Tác giả tự tổng hợp). ______________

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chinh_sach_cua_viet_nam_doi_voi_lao_giai_doan_2011_2.pdf
  • pdfQD thanh lap HD_Phan Chi Thanh.pdf
  • pdfTom tat luan an_NCS Phan Chi Thanh.pdf
  • docTrang thong tin luan an_NCS Phan Chi Thanh.doc
Tài liệu liên quan