BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
PHAN CHÍ THÀNH
CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI LÀO
GIAI ĐOẠN 2011-2020: TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ LỢI ÍCH
QUỐC GIA - DÂN TỘC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 9310206
Hà Nội - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
PHAN CHÍ THÀNH
CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI LÀO
GIAI ĐOẠN 2011-2020: TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ LỢI ÍCH
QUỐC GIA - DÂN TỘC
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 9310
219 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Chính sách của Việt Nam đối với Lào giai đoạn 2011 - 2020: Tiếp cận từ góc độ lợi ích quốc gia - dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
206
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGUYỄN VŨ TÙNG
Hà Nội – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận án “Chính sách của Việt Nam đối với Lào giai đoạn
2011-2020: tiếp cận từ góc độ lợi ích quốc gia-dân tộc’’ là công trình nghiên
cứu của tôi. Các nội dung nghiên cứu và kết quả được trình bày trong Luận án là
trung thực và chưa từng được công bố. Kết quả nghiên cứu của Luận án thể hiện
quan điểm khoa học của cá nhân, không phản ánh ý kiến của cơ quan, tổ chức
nơi Nghiên cứu sinh công tác./.
Hà Nội, ngày tháng 2 năm 2021
Tác giả luận án
Phan Chí Thành
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Học viện Ngoại
giao, Bộ Ngoại giao đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và
triển khai đề tài nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin cảm ơn Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn
Vũ Tùng - Đại sứ Việt Nam tại Hàn Quốc, nguyên Giám đốc Học viện Ngoại
giao đã hướng dẫn, giúp đỡ và định hướng cho tôi trong suốt quá trình thực hiện
Luận án; cảm ơn Tiến sỹ Phạm Lan Dung, Quyền Giám đốc Học viện Ngoại
giao đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành Luận án.
Tôi cũng xin cảm ơn GS-TS Trần Thị Vinh, GS-TS Nguyễn Thái Yên
Hương, GS-TS Hoàng Khắc Nam, PGS-TS Dương Văn Quảng, PGS-TS Nguyễn
Huy Hoàng, PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Thủy, PGS-TS Võ Kim Cương, PGS-
TS Nguyễn Thị Hạnh, PGS-TS Đỗ Thị Thủy đã tận tình góp nhiều ý kiến khoa
học, phân tích, phản biện giúp tôi hoàn thành luận án. Tôi xin cảm ơn TS. Đỗ
Thị Thanh Bình và các nhân viên Phòng Đào tạo sau đại học Học viện ngoại
giao đã tận tình hướng dẫn thủ tục, đôn đốc và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
học tập ở Học viện.
Cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã chia sẻ nhiều ý kiến, thông tin, tư liệu
quý giá, giúp tôi trong quá trình thực hiện luận án. Đặc biệt tôi cảm ơn gia đình
đã động viên tôi hoàn thành luận án./.
Hà Nội, ngày tháng 2 năm 2021
Tác giả
Phan Chí Thành
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH .... 23
CỦA VIỆT NAM VỚI LÀO GIAI ĐOẠN 2011-2020 .................................... 23
1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 23
1.1.1. Lợi ích quốc gia dân tộc, quan hệ đặc biệt và chính sách đối ngoại ... 23
1.1.2. Cách tiếp cận chính sách đối ngoại từ góc độ lợi ích quốc gia-dân tộc ..... 31
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng về ba lợi ích an ninh, phát triển và vị thế .. 31
1.1.2.2. Cách tiếp cận khoa học về lợi ích quốc gia-dân tộc ..................... 32
1.1.3. Một số mô hình phân tích chính sách đối ngoại theo tiếp cận LIQGDT ..... 37
1.1.4. Mô hình phân tích chính sách đối ngoại trong mối quan hệ đặc biệt ... 42
1.1.4.1. Khung phân tích định tính ............................................................. 42
1.1.4.2. Khung phân tích định lượng ......................................................... 46
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 49
1.2.1. Yếu tố lịch sử trong chính sách của Việt Nam với Lào ...................... 49
1.2.2. Bối cảnh quốc tế giai đoạn 2011-2020 tác động đến chính sách của
Việt Nam với Lào .......................................................................................... 51
1.2.2.1. Các yếu tố quốc tế và khu vực ....................................................... 51
1.2.2.2. Phân tích tác động của các yếu tố bên ngoài đối với chính sách
của Việt Nam với Lào ................................................................................. 56
1.2.3. Tình hình trong nước tác động đến chính sách với Lào (2011-2020) . 57
1.2.3.1. Tình hình chung ............................................................................ 57
1.2.3.2. Nhận thức về lợi ích của Việt Nam trong quan hệ với Lào .......... 58
Tiểu kết ................................................................................................................ 60
CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI
LÀO GIAI ĐOẠN 2011-2020 ........................................................................... 62
2.1. Phân tích định lượng chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 2011-
2020 ................................................................................................................... 62
2.1.1. Nghiên cứu trường hợp: “Vấn đề Biển Đông trong năm Chủ tịch
ASEAN của Lào” .......................................................................................... 62
2.1.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế .................................................... 62
2.1.1.2. Phân tích lợi ích của Việt Nam và Lào trong vấn đề Biển Đông . 63
2.1.1.3. Triển khai chính sách của Việt Nam và Lào trong việc bảo vệ lợi
ích của Việt Nam tại Biển Đông................................................................. 65
2.1.1.4. Nhận xét ........................................................................................ 67
2.1.2. Nghiên cứu trường hợp “Dự án thủy điện Xayabury” ........................ 68
2.1.2.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế .................................................... 68
2.1.2.2. Phân tích lợi ích của Việt Nam và Lào ......................................... 69
2.1.2.3. Các vấn đề đặt ra .......................................................................... 72
2.1.2.4. Đàm phán giải quyết sự khác nhau về lợi ích ............................... 72
2.1.2.5. Nhận xét ........................................................................................ 75
2.1.3. Nghiên cứu trường hợp “Chỉ thị 33 của Thủ tướng Chính phủ về nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho Lào” ......................................... 76
2.1.3.1. Bối cảnh ra đời của Chỉ thị ........................................................... 76
2.1.3.2. Phân tích lợi ích của Việt Nam và Lào trong hợp tác giáo dục ... 77
2.1.3.3. Các vấn đề đặt ra cho Việt Nam ................................................... 80
2.1.3.4. Nội dung và quá trình triển khai Chỉ thị 33 .................................. 81
2.1.3.5. Nhận xét ........................................................................................ 84
2.2. Phân tích định tính chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 2011-
2020 ................................................................................................................... 85
2.2.1. Sự kế thừa chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 1986-2010 ... 85
2.2.1.1. Sự kế thừa về định hướng .............................................................. 85
2.2.1.2. Sự kế thừa về mục tiêu: ................................................................. 87
2.2.1.3. Sự kế thừa về biện pháp ................................................................ 88
2.2.2. Phân tích nội dung chính sách với Lào giai đoạn 2011-2020 ............. 88
2.2.2.1. Về định hướng chính sách ............................................................. 88
2.2.2.2. Mục tiêu chính sách ...................................................................... 90
2.2.2.3. Biện pháp triển khai chính sách .................................................... 93
Tiểu kết .............................................................................................................. 104
CHƢƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ....................... 107
3.1. Đánh giá chính sách với Lào giai đoạn 2011-2020 .............................. 107
3.1.1. Tiêu chí 1. Chính sách với Lào phải phân biệt rõ lĩnh vực nào hợp tác
theo tính chất QHĐB, lĩnh vực nào hợp tác theo thông lệ quốc tế vì
LIQGDT; không gắn QHĐB vào những lĩnh vực hợp tác theo thông lệ quốc
tế, hoặc ngược lại. ........................................................................................ 107
3.1.1.1. Kết quả ........................................................................................ 107
3.1.1.2. Hạn chế ....................................................................................... 111
3.1.2. Tiêu chí 2. Phải xử lý hài hòa giữa hai yếu tố LIQGDT và QHĐB; lựa
chọn CSĐN một cách hợp lý, không vì QHĐB mà hy sinh LIQGDT, nhưng
cũng không vì lợi ích trước mắt mà làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển
QHĐB. ......................................................................................................... 113
3.1.2.1. Kết quả ........................................................................................ 113
3.1.2.2. Hạn chế ....................................................................................... 114
3.1.3. Tiêu chí 3. Hợp tác với Lào trên cơ sở hai bên cùng có lợi, có ưu tiên,
ưu đãi cho Lào ở những lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh, nhưng không được
tiêu hao nhiều nguồn lực để tranh giành ảnh hưởng ở những lĩnh vực mà
Việt Nam không có lợi thế so sánh so với các đối tác thứ ba ..................... 115
3.1.3.1. Kết quả ........................................................................................ 115
3.1.3.2. Hạn chế ....................................................................................... 119
3.2. Triển vọng tình hình trong nƣớc và quốc tế giai đoạn 2021-2030 .... 123
3.2.1. Tình hình trong nước ......................................................................... 123
3.2.2. Tình hình thế giới và khu vực ........................................................... 125
3.3. Cơ hội và thách thức đối với quan hệ Việt Nam-Lào ......................... 129
3.3.1. Cơ hội ................................................................................................ 129
3.3.2. Thách thức ......................................................................................... 131
3.4. Kiến nghị: ............................................................................................... 134
3.4.1. Về định hướng ................................................................................... 134
3.4.1.1. Nhất quán lấy LIQGDT làm cơ sở để hoạch định chính sách
với Lào ...................................................................................................... 134
3.4.1.2. Mở rộng những lĩnh vực hai nước có lợi ích chiến lược chung để
phát triển quan hệ đặc biệt một cách thực chất, bền vững ...................... 134
3.4.1.3. Làm sâu sắc hơn các yếu tố bản sắc chung giữa hai nước để củng
cố nền tảng quan hệ đăc biệt ................................................................... 135
3.4.1.4. Kết hợp, vận dụng linh hoạt yếu tố QHĐB với yếu tố LIQGDT,
kiên quyết bảo vệ LIQGDT mang tính sống còn của Việt Nam ............... 135
3.4.1.5. Phát huy lợi thế so sánh để nâng cao vị thế của Việt Nam tại Lào,
không cạnh tranh ảnh hưởng bằng mọi giá, dẫn đến tiêu hao nguồn lực ... 136
3.4.1.6. Phát triển quan hệ đặc biệt với các đối tác khác ........................ 136
3.4.2. Về mục tiêu ........................................................................................ 137
3.4.2.1. Mục tiêu tổng quát ...................................................................... 137
3.4.2.2. Mục tiêu cụ thể ............................................................................ 137
3.4.3. Về biện pháp ...................................................................................... 138
Tiểu kết .............................................................................................................. 143
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 145
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ................................................ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 152
PHỤC LỤC ....................................................................................................... 170
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT
1. ACMECS
Ayeyawady-Chao Phraya-
Mekong Economic
Cooperation Strategy
Tổ chức Chiến lược hợp tác
kinh tế Ayeyarwady - Chao
Phraya - Mê Kông
2. AEC Asean Economic Community Cộng đồng kinh tế ASEAN
3. AIIB
Asian Infrastructure
Investment Bank
Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ
tầng châu Á
4. APEC
Asia Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn hợp tác châu Á –
Thái Bình Dương
5. ASC ASEAN Security Community Cộng đồng an ninh ASEAN
6. ASCC ASEAN Socio-Cultural
Community
Cộng đồng văn hóa, xã hội
ASEAN
7. ASEAN Association of South East
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
8. BCHTW Ban chấp hành trung ương
9. BRI Belt Road Initiative Sáng kiển vành đai con đường
10. CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
11. CLMV Cambodia-Laos-Myanmar-
Vietnam
Cơ chế Campuchia, Lào,
Myanmar, Việt Nam
12. CLV Cambodia-Laos-Vietnam
Cơ chế Campuchia, Lào, Việt
Nam
13. CNXH Chủ nghĩa xã hội
14. CPC Campuchia
15. CSVN (Đảng) Cộng sản Việt Nam
16. NDCM (Đảng) Nhân dân Cách mạng
(Lào)
17. EEZ Exclusive Economic Zone Vùng đặc quyền kinh tế
18. EU European Union Liên minh châu Âu
19. GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
20. IPS Indo-Pacific Strategy
Chiến lược Ấn Độ Dương-
Thái Bình Dương
21. ISEAS Institute of East Asian Studies Viện nghiên cứu Đông Nam Á
22. LIQGDT Lợi ích quốc gia-dân tộc
23. LMI Lower Mekong Initiative Sáng kiến Hạ nguồn Mê Công
24. MLC Mekong Lancan Cooperation
Cơ chế hợp tác Mê Công –
Lan Thương
25. MOU
Memorandum of
Understanding
Bản ghi nhớ
26. MRC Mekong River Commission Ủy hội sông Mê Công quốc tế
27. NXB Nhà xuất bản
28. OBOR One Belt One Road Một vành đai, Một con đường
29. ODA
Official Development
Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
30. OECD
Organization of Economic
Cooperation and
Development
Tổ chức hợp tác và phát triển
31. PCA
Permanent Court of
Arbitration
Tòa trọng tài thường trực
32. PNPCA
Procedures for Notifications,
Prior Consultations and
Agreements
Thủ tục thông báo, tham vấn
trước và thỏa thuận
33. QHĐB Quan hệ đặc biệt
34. TPP Trans-Pacific Partnership
Hiệp định xuyên Thái Bình
Dương
35. UNCLOS
United Nations Convention on
Law of the Sea
Công ước Liên hợp quốc về
luật biển
36. UNDP
United Nations Development
Programme
Chương trình phát triển Liên
hợp quốc
37. XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Khung tiếp cận LIQGDT của các tác giả Việt Nam ............................ 33
Hình 1.2. Khung tiếp cận lợi ích dựa trên lý thuyết của Nuechterlein ................ 36
Hình 1.3. Khung phân tích sự điều chỉnh chính sách của Hermann .................... 38
Hình 1.4. Khung điều chỉnh chính sách của Hermann (bổ sung) ........................ 39
Hình 1.5. Chu trình điều chỉnh CSĐN theo các tác giả Dương Văn Quảng và
Nguyễn Thị Thìn .................................................................................................. 40
Hình 1.6. Chu trình điều chỉnh CSĐN theo tác giả Nguyễn Vũ Tùng ................ 41
Hình 1.7. Khung phân tích định tính chính sách trong QHĐB ............................ 44
Hình 1.8. Khung phân tích định lượng “1-2-3-4” chính sách với Lào ................ 48
Hình 2.1. Lợi ích của Việt Nam và Lào trong vấn đề Biển Đông ....................... 65
Hình 2.2. Tác động của đập Xayabury đối với lợi ích của Việt Nam và Lào ...... 71
Hình 2.3. Đàm phán giữa Việt Nam và Lào: Trường hợp đập thủy điện
Xayabury .............................................................................................................. 75
Hình 2.4. Lợi ích của Việt Nam và Lào trong hợp tác giáo dục .......................... 78
Hình 2.5. Đầu tư của Việt Nam sang Lào (đơn vị 1000USD) ............................. 99
Hình 3.1. Sự đan xen các kịch bản về tình hình trong nước và thế giới ............ 126
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Phát triển quan hệ với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống nói chung và
quan hệ đặc biệt (QHĐB) với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào nói riêng là ưu
tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại (CSĐN) của Đảng Cộng sản Việt
Nam[41]. Đường biên giới chung dài 2060 km và lịch sử liên minh chiến đấu
dành độc lập dân tộc trong thế kỷ XX đã gắn kết lợi ích chiến lược của hai nước,
hình thành mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, mang ý nghĩa
quan trọng chiến lược đối với cả hai nước. Từ năm 2011, Việt Nam và Lào đều có
chủ trương coi lợi ích quốc gia-dân tộc (LIQGDT) là mục tiêu của CSĐN [42].
Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng CSVN (năm 2011) xác định LIQGDT là
mục tiêu cao nhất của CSĐN. Về phía Lào, từ Đại hội VIII (năm 2006), Đại hội
IX (năm 2011) đến Đại hội X (năm 2016) của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
mục tiêu của CSĐN được xác định là bảo đảm lợi ích chung và lợi ích riêng của
mỗi bên, khẳng định CSĐN „vì lợi ích cao nhất của đất nước‟, sẵn sàng tham gia
vào các liên minh „vì lợi ích chung và lợi ích của mỗi bên‟.
Về thực tiễn, chính sách với Lào đã góp phần củng cố và phát triển mối
QHĐB Việt Nam-Lào, nhưng cũng đặt ra sự cần thiết phải làm rõ mối tương quan
giữa QHĐB với LIQGDT. Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, tình hình
thế giới và khu vực Đông Nam Á có những chuyển biến nhanh chóng, QHĐB Việt
Nam-Lào có những thuận lợi cơ bản trên nền tảng vững chắc và kết quả hợp tác
toàn diện của hai nước sau hơn hai thập kỷ đổi mới, nhưng cũng gặp không ít thách
thức. Từ năm 2011 đến nay, trong quan hệ giữa hai bên bắt đầu xuất hiện một số
khác biệt về lợi ích. Ví dụ, trường hợp Lào xây dựng các đập thủy điện trên dòng
chính sông Mê Công và chính sách ngoại giao của Lào trong việc giải quyết vấn đề
Biển Đông đặt ra thách thức nhất định cho CSĐN của Việt Nam.
Về mặt khoa học, việc thực thi CSĐN với Lào dựa trên LIQGDT là đề tài
được giới nghiên cứu quan tâm. Các nghiên cứu về chính sách với Lào của Việt
Nam đến nay chủ yếu sử dụng cách tiếp cận lịch sử, theo ý thức hệ, lợi ích giai
cấp... CSĐN với Lào theo cách tiếp cận LIQGDT chưa được nghiên cứu một cách
thấu đáo và là một khoảng trống cần được nghiên cứu chuyên sâu.
2
Với lý do nêu trên, đề tài nghiên cứu Chính sách của Việt Nam đối với Lào
giai đoạn 2011-2020: Tiếp cận từ góc độ LIQGDT sẽ góp phần vào việc làm rõ
hơn, toàn diện hơn về CSĐN của Việt Nam với Lào, thúc đẩy quan hệ hai nước tiếp
tục phát triển bền vững, vì lợi ích chung của hai dân tộc trong tương lai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Các nghiên cứu về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào
Bộ sách “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam 1930-
2007” do NXB Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2011 tổng kết, phân tích và
đánh giá những đặc điểm, nhân tố tạo nên mối QHĐB Việt - Lào, CSĐN của
Việt Nam qua từng giai đoạn với nội hàm QHĐB được kế thừa và đổi mới, mỗi
giai đoạn vừa có những đặc điểm chung vừa có đặc thù riêng, rút ra bài học lịch
sử cho giai đoạn tiếp theo. Cần làm mới QHĐB Việt Nam – Lào trong bối cảnh
hai nước theo đuổi LIQGDT và thực hiện CSĐN đa phương, mở rộng quan hệ
đối tác, thu hút nguồn lực bên ngoài để phát triển. Chủ trương của Đảng CSVN
phát triển quan hệ hai nước trên tinh thần kết hợp tính chất QHĐB với thông lệ
quốc tế, có ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau. Việc triển khai chính sách với Lào
trong thời gian qua đã đem lại kết quả tốt đẹp, nhưng cũng đặt ra một số vấn đề
mới. QHĐB là ưu tiên trong CSĐN của mỗi đảng, nhà nước. Tuy nhiên, Việt
Nam và Lào đều là những quốc gia nghèo, nguồn lực và sức cạnh tranh của nền
kinh tế còn hạn chế trong khi nhu cầu phát triển rất lớn. Hai nước có nhiều lợi
ích chung, nhưng sự khác biệt về lợi ích riêng trong quá trình phát triển và hội
nhập quốc tế hiện nay là một thực tế.
Cuốn sách “Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào (1930-2017) do Ban Tuyên
giáo Trung ương chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2017 viết về quá
trình hình thành và phát triển, bản chất, thành quả, bài học lịch sử của QHĐB
Việt Nam - Lào. Cuốn sách đúc kết các yếu tố QHĐB Việt Nam - Lào: lòng yêu
nước, chủ nghĩa quốc tế, tình đoàn kết, lòng tin, tình cảm chân thành, sự giúp đỡ
cao nhất dành cho nhau.
Tác giả Lê Đình Chỉnh (2017) trong các cuốn sách “Quan hệ đặc biệt, hợp
tác toàn diện Việt Nam – Lào giai đoạn 1954-2017” và “55 năm quan hệ ngoại
giao Việt Nam – Lào: Nhìn lại và Hướng tới” NXB Thông tin và truyền thông
đã nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của QHĐB Việt Nam – Lào qua
3
các thời kỳ. Lê Đình Chỉnh sử dụng thuật ngữ “hợp tác toàn diện đặc biệt” để mô
tả quan hệ hai nước theo hướng đẩy mạnh hợp tác toàn diện, chặt chẽ, hiệu quả,
lấy hợp tác kinh tế làm trọng tâm; tôn trọng độc lập, chủ quyền, chống tư tưởng
nước lớn hơn, dân tộc hẹp hòi hoặc tự ti, ỷ lại; giải quyết mâu thuẫn phải dựa
trên tinh thần anh em đồng chí. Mệnh đề “kết hợp tính chất QHĐB với thông lệ
quốc tế” được tác giả đề cập như một định hướng quan trọng của quan hệ Việt
Nam – Lào. Tác giả không đề cập mô hình QHĐB khác trên thế giới, coi QHĐB
Việt Nam – Lào là duy nhất giữa các nước có chung đường biên giới.
Phan Văn Rân trong bài viết Triển vọng phát triển quan hệ đặc biệt Việt-
Lào giai đoạn 2017-2025, tầm nhìn 2030, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2017, cho rằng tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ của Việt Nam còn ở
mức độ thấp hơn tương quan với các nước khác sẽ hạn chế việc phát huy lợi thế
so sánh của Việt Nam trong hợp tác với Lào. Hạ tầng kết nối giao thông còn yếu
kém làm cho chi phí trao đổi hàng hóa giữa hai nước tăng cao, hiệu quả kinh tế
thấp, làm cho quan hệ thương mại hai nước chưa tương xứng QHĐB.
2.2. Các nghiên cứu về chính sách của Việt Nam với Lào
2.2.1. Các nghiên cứu về CSĐN của Việt Nam thời kỳ đổi mới
Về đổi mới tư duy đối ngoại, một số tác phẩm như cuốn sách "Đổi mới và
phát triển ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn" do Nguyễn Phú Trọng
(chủ biên), NXB. Chính trị Quốc gia, 2006; “Quá trình đổi mới tư duy lý luận
của Đảng từ năm 1986 đến nay” do Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh biên soạn, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2009; "Lịch sử Bộ Ngoại
giao Việt Nam 1945 - 2010" do Bộ Ngoại giao biên soạn, Nxb. Chính trị Quốc
gia, 2011; Vũ Dương Huân, “Về vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối
ngoại của Việt Nam”, tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1(68), tháng 3/2007 cho
rằng đổi mới tư duy đối ngoại là một quá trình liên tục, từ Đại hội VI (12/1986)
và tiếp nối cho tới nay với việc từng bước đưa ra những quan điểm đối ngoại phù
hợp với sự phát triển của tình hình; cần tiếp tục đổi mới tư duy dám nghĩ, dám
làm, có tinh thần chủ động tiến công, dám vượt ra khỏi những tư duy cũ, những
lĩnh vực quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm
khu vực và quốc tế; xây dựng vị thế và tâm thế mới của Việt Nam trong xử lý
quan hệ với các nước cả về song phương và đa phương. Vấn đề này cũng được
4
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29[22].
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh trong bài “Ðường lối đối ngoại Ðại hội XI và
những phát triển quan trọng trong tư duy đối ngoại của Ðảng ta”, báo Nhân
Dân ngày 19/5/2011 đã chỉ rõ sự phát triển trong tư duy đối ngoại qua các kỳ
Đại hội Đảng, thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam ngày càng
tích cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế, tổ chức, diễn đàn
khu vực, đa phương và toàn cầu.
Cuốn “Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và Thế giới trong 25 năm tới
(1995-2020), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, Cuốn Cục diện thế giới đến
2020, NXB Chính trị Quốc gia, 2010 của tác giả Nguyễn Cơ Thạch; Cuốn Bức
tranh thế giới đương đại”, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2016 của tác giả Vũ
Văn Hiền; Cuốn CSĐN đổi mới của Việt Nam (1986-2015), Nxb. Thế giới 2016
của tác giả Phạm Quang Minh... đề cập đường lối Đổi mới bắt đầu từ sau Đại hội
Đảng lần thứ VI, CSĐN của Việt Nam từng bước được điều chỉnh để thích ứng
với công cuộc Đổi mới trong nước và môi trường quốc tế đang thay đổi nhanh
chóng không có lợi cho cách mạng Việt Nam như sự suy yếu và hệ quả của nó là
sự sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Sau khi các chính
đảng cầm quyền ở Nga và các nước Đông Âu đã chuyển hướng CSĐN, Việt Nam
và Lào buộc phải điều chỉnh CSĐN. Các cuốn sách nói trên trình bày hệ thống quá
trình hình thành và những nội dung cơ bản của CSĐN đổi mới của Việt Nam từ
1986-2015. Các tác giả như Nguyễn Cơ Thạch (Những chuyển biến trên thế giới
và tư duy mới của chúng ta”, trong CSĐN Việt Nam, NXB Thế Giới, Hà Nội,
2007), Phan Doãn Nam (“Ngoại giao Việt Nam sau 20 năm đổi mới”, Tạp chí
Cộng sản, số 14 (760), tháng 7/2006), Đặng Đình Quý (“Bàn thêm về LIQGDT
trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam giai đoạn mới”, trong “Định hướng
chiến lược đối ngoại Việt Nam đến năm 2020”, do Phạm Bình Minh chủ biên,
NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, 2011) cho rằng sự điều chỉnh CSĐN cơ bản nhất
trong giai đoạn này của Việt Nam là sự chuyển đổi từ CSĐN dựa trên ý thức hệ
sang CSĐN thực dụng hơn, với trọng tâm là lợi ích quốc gia.
Đặng Đình Quý, Nguyễn Vũ Tùng (2019) trong bài “Góp phần tìm hiểu
đường lối đối ngoại của Đảng: Sự phát triển trong nhận thức và những vấn đề đặt
5
ra trong thời gian tới”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 3 (118), 9-2019, tr. 7-28,
cho rằng việc bảo đảm LIQGDT phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối
ngoại, là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại, là cơ sở
để xây dựng đồng thuận xã hội đối với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước, là cơ sở “bất biến” để từ đó định hướng cho “vạn biến”. Tuy nhiên, lợi ích
quốc gia – dân tộc của Việt Nam không phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ hẹp
hòi, mà những lợi ích dựa trên luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Hai bên
cùng xây dựng quan hệ trên cơ sở cùng vì lợi ích của nhau, tạo ra tương đồng lợi
ích và tạo cơ sở đấu tranh khi lợi ích không song trùng. Nhận thức mới về vì
LIQGDT cần đặt trong quan hệ với lợi ích của các nước khác và lợi ích chung
(khu vực và quốc tế). Các chủ trương lớn về đối ngoại như hội nhập quốc tế, xây
dựng đan xen lợi ích và nâng tầm đối ngoại đa phương ngày càng đòi hỏi Việt
Nam không những chỉ theo đuổi lợi ích của riêng mình, mà còn phải quan tâm hơn
nữa đến lợi ích chung. Chỉ trên cơ sở hành xử vì lợi ích chung thì Việt Nam mới
có thể chứng minh là “thành viên có trách nhiệm” từ đó nâng cao khả năng “hòa
giải, dẫn dắt và đi đầu” trong một số trường hợp có sự song trùng lợi ích quốc gia
– dân tộc và lợi ích chung với các nước khác. Ngoài ra, các tác giả nhìn nhận
LIQGDT còn có quan hệ với lợi ích của các thành phần tham gia đối ngoại trong
nước. Ở nước ta, quá trình triển khai hội nhập quốc tế, đẩy mạnh đối ngoại đa
phương và tạo đan xen lợi ích trong quan hệ song phương không toàn diện và đều
khắp có một phần lý do từ việc chưa hài hòa LIQGDT và lợi ích nhóm.
Tác giả Trần Nam Tiến trong bài “LIQGDT trong CSĐN của Việt Nam thời
kỳ đổi mới” Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) – 2013, đã phân tích nội
hàm lợi ích quốc gia trong CSĐN của Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Quá trình nhận
thức và xác định nội hàm LIQGDT của Việt Nam đã diễn ra trong khoảng thời gian
hơn 30 năm gần đây bắt đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng CSVN với tiên lượng
là “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tham gia phân công lao động
quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba,
các nước phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài”. Trong giai đoạn
1996-2006 lợi ích quốc gia trong CSĐN của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã được
xác định rõ hơn với những nội dung cơ bản, gắn liền với công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
kinh tế quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
6
Về bối cảnh quốc tế, Vũ Văn Hiền trong cuốn Bức tranh thế giới đương
đại, NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2016, cho rằng trong thập kỷ 2010-2020,
tình hình chính trị khu vực tiếp tục chịu tác động của chính sách tranh giành ảnh
hưởng của các nước lớn trước hết là Mỹ và Trung Quốc. Quan hệ Mỹ-Trung sẽ
chi phối toàn bộ các quan hệ quốc tế trong tương lai trong đó có quan hệ giữa
Việt Nam và Lào. Các nước ASEAN bị ảnh hưởng bởi chính sách tập hợp lực
lượng kiềm chế lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc, gây ra những căng thẳng,
xung đột lợi ích nhất định và đặc biệt là sự nghi kỵ lẫn nhau giữa hai nước cũng
như với các quốc gia khác sẽ ngày càng tăng lên. Mỹ tiếp tục chuyển trọng tâm
chiến lược về khu vực châu Á-Thái Bình Dương bao gồm ASEAN, nhưng ảnh
hưởng của Mỹ tại khu vực có xu hướng giảm tương đối so với nhiều thập kỷ
qua; song song với đó là sự gia tăng sức mạnh của các cường quốc, các trung
tâm quyền lực khác, nhất là sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Yếu tố Trung Quốc trong CSĐN của Việt Nam được phân tích khá kỹ trong các
nghiên cứu của các tác giả trong nước. Trung Quốc không còn chú trọng gắn kết theo
ý thức hệ như trước với Việt Nam, Lào, mà dựa trên những lợi ích đan xen về kinh tế,
chính trị, an ninh với mục tiêu chính là phục vụ cho lợi ích. Tác giả Lê Viết Duyên
trong Luận án Tiến sĩ “Quá trình phát triển của CSĐN của Việt Nam với ASEAN
trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay (2017), đã phân tích yếu tố Trung Quốc trong
CSĐN của Việt Nam. Trung Quốc sẽ tiếp tục lôi kéo, tranh thủ các nước ASEAN
trên cả bình diện đa phương và song phương, sử dụng các biện pháp cứng rắn, kể cả
sức mạnh quân sự, kết hợp với sức mạnh mềm, thông qua lợi ích kinh tế, tương đồng
văn hóa... nhằm xác lập và củng cố ảnh hưởng chi phối khu vực. Các nước ASEAN
tuy có nghi ngại nhưng vẫn chủ trương hợp tác với Trung Quố...h tính phân tích bối cảnh, tình hình trong và
ngoài nước, tổng hợp, đánh giá, làm rõ được khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc,
quan điểm, động cơ chính sách, tiêu chí đánh giá chính sách. Phương pháp luận
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự
do, chủ nghĩa kiến tạo được sử dụng để giải thích các nội dung chính sách.
Phương pháp nghiên cứu định lượng về lợi ích quốc gia và CSĐN sẽ giúp
tăng tính đại diện, độ chuẩn xác, độ tin cậy và tính khách quan trong việc hoạch
định CSĐN. Khung phân tích CSĐN vì lợi ích dân tộc của học giả Mỹ Donald
Nuechterlein (1976), trong đó lợi ích quốc gia được chia thành 4 nhóm và 4 cấp
độ cao thấp khác nhau rất hữu ích đối với mục tiêu định lượng và lựa chọn chính
sách. Luận án sử dụng một số ma trận, thuật toán của lý thuyết trò chơi (game
theory) để so sánh lợi ích của Việt Nam và Lào, từ đó xác định sự song trùng và
khác nhau về lợi ích, tính toán phương án đàm phán và lựa chọn chính sách
trong từng trường hợp cụ thể. Việc sử dụng các ma trận để dự báo các chiều
hướng CSĐN dựa trên các kịch bản của tình hình quốc tế trong và ngoài nước,
tác động đến chính sách với Lào.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study) phân tích các bước đi
và kết quả triển khai CSĐN dựa trên lựa chọn lợi ích của các bên, làm nổi bật
những yếu tố chi phối sự lựa chọn chính sách và quá trình triển khai chính sách
đó. Bối cảnh xảy ra mâu thuẫn, quá trình giải quyết mâu thuẫn, quan điểm giải
quyết mâu thuẫn của mỗi bên trong các trường hợp cụ thể, phân tích lợi-hại về
lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài đạt được sẽ giúp rút ra những bài học về điều
chỉnh CSĐN của Việt Nam. Các nghiên cứu trường hợp sẽ lượng hóa lợi ích,
những lựa chọn chính sách và dự báo phản ứng chính sách của đối tác để điều
chỉnh hành vi của mình, từ đó đưa ra các giả thuyết nghiên cứu khác nhau.
Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm phân tích các tài liệu có được để
chứng minh các giả thuyết, từ đó rút ra các kết luận cần thiết đối với CSĐN và
xây dựng các tiêu chí đánh giá thành công hay hạn chế của CSĐN.
20
Phương pháp so sánh rất cần thiết để so sánh chính sách giai đoạn khác
nhau để hiểu rõ sự kế thừa và điều chỉnh chính sách sau mỗi giai đoạn.
7. Nguồn tài liệu
Tài liệu sử dụng trong luận án gồm các tài liệu gốc, các văn kiện về đường
lối, quan hệ Việt Nam - Lào, CSĐN của Việt Nam, phát biểu của các nhà lãnh
đạo Việt Nam và Lào. Ngoài ra luận án cũng sử dụng các tài liệu, công trình
khoa học đã được công bố của các tác giả trong và ngoài nước về quan hệ Việt
Nam - Lào, CSĐN của Việt Nam nói chung, CSĐN với Lào nói riêng.
8. Những đóng góp của Luận án
Về mặt khoa học, Luận án đã bổ sung thêm công trình nghiên cứu về quan
hệ Việt Nam và Lào cũng như chính sách của Việt Nam đối với Lào vào kho
tàng các công trình nghiên cứu thuộc chuyên ngành quan hệ quốc tế. Luận án đã
có được cách tiếp cận mới về LIQGDT trong phân tích CSĐN nói chung và
trong chính sách QHĐB với Lào nói riêng, làm rõ mối quan hệ giữa LIQGDT và
QHĐB trong CSĐN của Việt Nam. Trên cơ sở lý thuyết hiện có, tác giả bước
đầu xây dựng khung phân tích riêng về CSĐN trong QHĐB tiếp cận từ LIQGDT
dùng để phân tích chính sách với Lào, gồm 2 phần phân tích định lượng và phân
tích định tính. Các nghiên cứu định lượng phân tích, lượng hóa các lợi ích về lý
thuyết, so sánh với các lựa chọn chính sách trên thực tế để tìm ra các giả thuyết
nghiên cứu. Phần nghiên cứu định tính kiểm chứng các giả thuyết, trên cơ sở đó
xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách với Lào. Việc phát triển khung phân
tích về CSĐN trong QHĐB tiếp cận từ LIQGDT này có thể góp phần quan trọng
vào việc thiết kế và xây dựng khung phân tích chính sách trong quan hệ quốc tế
và là nguồn tham khảo quan trọng cho các học viên và nhà nghiên cứu
Về mặt thực tiễn, luận án đã cung cấp một lối tư duy và cách nhìn mới đối
với quan hệ Việt Nam-Lào và chính sách của Việt Nam với Lào. Lào không chỉ
là nước bạn bè truyền thống có QHĐB với Việt Nam, mà còn là một đối tác cạnh
tranh lợi ích với Việt Nam trên trường quốc tế, một yếu tố địa chiến lược mới
nổi tại khu vực, có vai trò và vị thế nhất định trong quan hệ quốc tế. Quan hệ
Việt Nam-Lào ngày nay không là mối QHĐB duy nhất trên thế giới mà cần được
nhìn nhận trong mối tương quan với hàng chục các mối QHĐB khác, mà bản
21
chất của chúng là các quốc gia gắn bó với nhau bằng các yếu tố bản sắc và lợi
ích chung, trong đó lợi ích là yếu tố quyết định. Luận án đã phân tích sự cần thiết
phải đánh đổi lợi ích trong một số trường hợp cụ thể triển khai chính sách của
Việt Nam với Lào, từ đó rút ra rằng cách tiếp cận LIQGDT trong QHĐB là cần
thiết để nhận diện tính chất mới của quan hệ Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam trong
bối cảnh quốc tế hiện nay. Việc đánh giá chính sách của Việt Nam với Lào giai
đoạn 2011-2020, nhận diện cơ hội và thách thức đối với quan hệ Việt Nam-Lào có
căn cứ khoa học, dự báo các chiều hướng chính sách và đề ra một số gợi ý chính
sách là những nội dung có ý nghĩa tham khảo hữu ích đối với các nhà hoạch định
chính sách hiện nay. Kết luận của luận án về việc Việt Nam hoàn toàn có thể đạt
được LIQGDT trong QHĐB với Lào; và LIQGDT, QHĐB là hai yếu tố vừa có
tính thống nhất, lại vừa có tính mâu thuẫn, trong đó LIQGDT được coi là mục
tiêu, QHĐB được coi là phương tiện để đạt được mục tiêu đó là một đóng góp
quan trọng đối với việc điều chỉnh chính sách với Lào trong giai đoạn tới.
9. Bố cục của Luận án
Phần Mở đầu bao gồm: lý do lựa chọn đề tài, lịch sử nghiên cứu vấn đề,
mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu, nguồn tài
liệu, đóng góp của luận án...
Chƣơng 1 “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách của Việt Nam với
Lào giai đoạn 2011-2020” phân tích cơ sở lý thuyết của chính sách, làm rõ mối
quan hệ giữa ba yếu tố: LIQGDT, QHĐB và CSĐN; tiếp thu một số nội dung
của một số mô hình phân tích CSĐN hiện nay, bổ sung nội dung mới nhằm hình
thành mô hình phân tích CSĐN vì LIQGDT trong QHĐB nói chung và với Lào
nói riêng. Cơ sở thực tiễn của chính sách với Lào là bối cảnh thế giới và khu
vực, nhất là yếu tố nước lớn ảnh hưởng đến chính sách của Việt Nam; những vấn
đề rút ra từ chính sách của Lào đối với Việt Nam, tình hình trong nước tác động
đến chính sách của Việt Nam với Lào.
Chƣơng 2 “Phân tích chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 2011-
2020” gồm hai phần phân tích định lượng và phân tích định tính. Phân tích định
lượng về chính sách của Việt Nam đối với Lào qua ba trường hợp nghiên cứu cụ
thể để làm rõ sự tương tác các yếu tố lợi ích đối với sự lựa chọn chính sách của
Việt Nam với Lào. Nghiên cứu “Vấn đề Biển Đông trong năm Chủ tịch ASEAN
22
của Lào” sẽ đi sâu nghiên cứu lợi ích an ninh. Lĩnh vực kinh tế đại diện cho lợi ích
phát triển với nghiên cứu trường hợp “Dự án thủy điện Xayabury trên dòng chính
sông Mê Công”. Lĩnh vực giáo dục đào tạo đại diện cho lợi ích ảnh hưởng với
nghiên cứu trường hợp “Chỉ thị 33 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất
lượng đào tại nguồn nhân lực cho Lào”. Phần này sẽ chẩn đoán các giả thuyết
nghiên cứu về chính sách của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020. Phần phân
tích định tính sẽ phân tích chính sách của Việt Nam với Lào trong giai đoạn 2011-
2020 theo khung phân tích định tính, bao gồm 3 giai đoạn (hoạch định-triển khai-
đánh giá chính sách), 3 loại lợi ích (an ninh, phát triển, ảnh hưởng) và 3 nội dung
chính sách (định hướng, mục tiêu, biện pháp) của Việt Nam với Lào trong một số
lĩnh vực, qua đó chứng minh các giả thuyết rút ra từ nghiên cứu định lượng, khái
quát nội dung chính sách của Việt Nam với Lào giai đoạn 2011-2020;
Chƣơng 3 “Đánh giá và kiến nghị chính sách”, rút ra những kết quả chính
và hạn chế trong triển khai chính sách với Lào từ năm 2011-2020. Việc đánh giá
chính sách dựa trên các giả thuyết đã được chứng minh để xác định thành công
và hạn chế của chính sách. Trên cơ sở kết quả đánh giá, các kịch bản về tình hình
thế giới, tình hình Lào, tình hình Việt Nam, rút ra các cơ hội và thách thức đối
với quan hệ Việt Nam-Lào; khuyến nghị chính sách thúc đẩy QHĐB Việt Nam –
Lào từ góc độ LIQGDT trong thập niên tới.
Phần Kết luận sẽ khái quát kết quả nghiêu cứu đã đáp ứng được các nội
dung câu hỏi nghiên cứu của Luận án như thế nào.
23
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH
CỦA VIỆT NAM VỚI LÀO GIAI ĐOẠN 2011-2020
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lợi ích quốc gia dân tộc, quan hệ đặc biệt và chính sách đối ngoại
a) Khái niệm
(i) Lợi ích quốc gia-dân tộc
Theo Từ điển Quan hệ quốc tế, lợi ích quốc gia hay lợi ích của quốc gia
(state‟s interest) là nhu cầu sống còn của quốc gia, là nhu cầu tự vệ, nhu cầu độc
lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và thịnh vượng về kinh tế. Lợi ích quốc
gia trước hết là lợi ích của giai cấp cầm quyền, vì vậy nó là mục tiêu cơ bản và
nhân tố quyết định cuối cùng trong việc hoạch định chính sách ngoại giao của
quốc gia[143;tr.9]. Lợi ích dân tộc (national interest) theo ý kiến của học giả và
nhà ngoại giao Hoa Kỳ Nuechterlein (1979), là một tập hợp các nhu cầu và khát
vọng được thừa nhận của một quốc gia có chủ quyền trong quan hệ với các quốc
gia khác trong môi trường quốc tế; hay là mục tiêu mà quốc gia dân tộc phấn đấu
giành được trên phạm vi thế giới để bảo đảm an ninh, phân biệt với các nhu cầu
và ưu tiên trong nước[147]. Jackson và Sorensen (2003) đồng nhất lợi ích quốc
gia và lợi ích dân tộc khi sử dụng khái niệm lợi ích dân tộc của nhà nước-dân tộc
(national interest of nation-states). Tuy nhiên, lợi ích quốc gia không hoàn toàn
song trùng với lợi ích dân tộc, thậm chí mâu thuẫn khi các quyết định của giới
cầm quyền đi ngược lại lợi ích của nhân dân thậm chí là lợi ích của giai cấp cầm
quyền. Ralph Miliband dẫn chứng quyết định của chính quyền Mỹ phát động
chiến tranh Việt Nam không vì lợi ích của giai cấp tư sản hay giai cấp công nhân
ở Mỹ và đã vấp phải sự chống đối của hầu hết tất cả các tầng lớp nhân dân
Mỹ[185]. Nhìn chung, các học giả nước ngoài ít sử dụng cụm từ “LIQGDT”,
thay vào đó khái niệm lợi ích dân tộc (national interest) được sử dụng nhiều
hơn, vừa là lợi ích quốc gia tương quan với các quốc gia khác. Tuy nhiên, trong
phạm vi luận án này tác giả sẽ sử dụng cụm từ “lợi ích quốc gia - dân tộc” để chỉ
lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc của Việt Nam.
Quan điểm của Đảng CSVN về LIQGDT được hình thành rõ nét sau Đại
hội XI của Đảng, bao gồm: Thứ nhất, độc lập dân tộc tiếp tục được xác định là
24
lợi ích an ninh cơ bản nhất, bao gồm cả bảo vệ an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ[46]. Thứ hai, lợi ích phát triển, bao gồm nâng cao tiềm lực đất nước thông
qua phát triển kinh tế xã hội [89]; tạo môi trường quốc tế thuận lợi để hợp tác,
tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước [46]. Thứ ba, vị thế, uy tín
quốc tế của đất nước cũng được xác định là loại LIQGDT quan trọng [125].
(ii) Chính sách đối ngoại
Từ điển Thuật ngữ Ngoại giao định nghĩa CSĐN là "chủ trương, chiến
lược, kế hoạch và các biện pháp thực hiện cụ thể do một quốc gia đề ra liên quan
đến các mối quan hệ quốc tế mà quốc gia đó thiết lập với các quốc gia và các chủ
thể khác nhằm tăng cường và bảo vệ lợi ích quốc gia của mình"[56]. Theo tác
giả Dương Văn Quảng, CSĐN là tổng thể các quyết sách của một quốc gia phản
ánh lợi ích, cách nhìn nhận của quốc gia đó đối với môi trường quốc tế, cũng như
phương thức ứng xử của họ[29]. Theo Nguyễn Vũ Tùng, CSĐN là phản ứng của
một nước đối với sự thay đổi của tình hình bên ngoài[85; tr37]. Tác giả Marijke
Breuning cho rằng CSĐN là “tổng thể các chính sách và tương tác với môi
trường bên ngoài biên giới quốc gia”[169; tr6]. Theo George Modelski, “CSĐN
là hệ thống những hoạt động nhằm thay đổi hành vi của các quốc gia khác và
điều chỉnh hành động của bản thân nhà nước mình với môi trường quốc tế”[171].
Tác giả James Rosenau quan niệm CSĐN là "sự cố gắng của một xã hội quốc gia
nhằm kiểm soát môi trường bên ngoài bằng cách duy trì bối cảnh thuận lợi và
thay đổi những bối cảnh bất lợi"[187].
Chưa có một định nghĩa thống nhất về CSĐN giữa các học giả, tuy nhiên
các định nghĩa trên đều có các từ khóa: quốc gia, chính sách, quan hệ quốc tế và
lợi ích. CSĐN trong luận án này được hiểu là một phần chính sách quốc gia
trong lĩnh vực quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ LIQGDT.
(iii) Quan hệ đặc biệt
QHĐB dùng để chỉ các mối quan hệ quốc tế giữa các nước có bản sắc
chung và lợi ích chiến lược chung [95]. QHĐB trong đa số trường hợp được dẫn
chiếu tới mối quan hệ song phương hữu nghị, gần gũi, lâu bền và ngoại lệ giữa
hai chủ thể có chủ quyền, hợp tác và cam kết dành cho nhau sự ưu đãi cao hơn
so với các đối tác khác. Các mối QHĐB trên thế giới rất đa dạng, phát triển ở
nhiều cấp độ khác nhau, nhưng có đặc điểm chung là sự hội tụ các yếu tố bản
25
sắc chung (như lịch sử, văn hóa, tư tưởng, lòng tin, đoàn kết đặc biệt) và các lợi
ích chiến lược chung, trong đó lợi ích chi phối bản sắc. Nói cách khác, các mối
QHĐB trên thế giới, không bất biến mà thuận theo quy luật hình thành, phát
triển rồi chấm dứt, nhưng LIQGDT là chiến lược lâu dài. Hiện nay trên thế giới
có hơn 50 mối quan hệ quốc tế gọi là QHĐB (Phụ lục 1), tuy nhiên chưa có một
định nghĩa thống nhất về QHĐB trong quan hệ quốc tế. Một số tác giả theo chủ
nghĩa hiện thực như Glenn Snyder (1990) cho rằng QHĐB là một loại quan hệ
được thể chế hóa trong khuôn khổ đồng minh, theo đó các nước có trách nhiệm
bảo đảm an ninh cho nhau[193; tr103-123]. Một số tác giả khác so sánh QHĐB
với đối tác chiến lược, với một số “ngoại lệ” như mức độ cao hơn về cả đặc
quyền và cường độ so với quan hệ với đối tác thứ ba; quan hệ được phát triển ở
mức cao; nhân dân hai nước có chung những giá trị và tình cảm lẫn nhau, mối
quan hệ giao lưu gắn bó giữa các tầng lớp nhân dân, giới tinh hoa, chính trị gia
hai nước[166]. QHĐB có những đặc điểm chung, nhưng mỗi trường phái lý
thuyết quan hệ quốc tế lại có những quan điểm riêng về các mối quan hệ này
[180]. Đảng CSVN và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào coi QHĐB Việt Nam –
Lào là mối quan hệ dựa trên hệ tư tưởng Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản,
là khối đoàn kết chặt chẽ của hai dân tộc phấn đấu cho những lợi ích cơ bản và
nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước [43;tr.814]. Trong điều kiện
ngày nay, tính chất đặc biệt thể hiện ở sự hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực, có ưu tiên, ưu đãi cho nhau cao hơn các quan hệ song phương khác
[43;tr.862]. Trong bối cảnh Việt Nam và Lào hội nhập quốc tế, các yếu tố bản
sắc tiếp tục gắn kết mối quan hệ truyền thống, trong khi đó LIQGDT quyết định
tính chất mới của QHĐB giữa hai nước. Tổng hợp các định nghĩa trên, luận án
sẽ sử dụng khái niệm QHĐB như một dạng quan hệ đối tác hiện đại giữa hai
quốc gia có chung bản sắc và gắn kết bởi lợi ích chiến lược chung, trong đó, bản
sắc là điều kiện cần, lợi ích là điều kiện đủ của QHĐB.
b) Mối quan hệ giữa ba yếu tố:“Lợi ích quốc gia - dân tộc”, “Chính sách
đối ngoại” và “Quan hệ đặc biệt”
(i) Lợi ích quốc gia - dân tộc và chính sách đối ngoại
Chủ nghĩa Mác-Lênin giải thích mối quan hệ giữa CSĐN và lợi ích thông
qua mâu thuẫn giai cấp bên trong của mỗi quốc gia và giữa các quốc gia với nhau.
26
Nhà nước là chủ thể của chính sách và là một hiện tượng giai cấp ra đời trên cơ sở
dân tộc-tộc người xác định. Do đó, có hai nhóm lợi ích cơ bản xác định nên chính
sách nhà nước là lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Các lợi ích này thông qua ý chí
của nhà nước biến thành lợi ích quốc gia là cơ sở xây dựng và thi hành chính sách
đối nội, đối ngoại. Trong hai hợp phần của lợi ích quốc gia, lợi ích giai cấp thống
trị là yếu tố chủ yếu, cố định, thường xuyên quyết định CSĐN. Mỗi quốc gia đều
do một giai cấp nào đó cầm quyền nên lợi ích của giai cấp thống trị thường có xu
hướng trở thành lợi ích quốc gia. Hay nói cách khác, nhà nước luôn là công cụ của
giai cấp thống trị để thực hiện lợi ích giai cấp của mình. Vì thế CSĐN của quốc
gia thường được đề ra nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị trong quan hệ
với các quốc gia khác. Đồng thời, chính các lợi ích này còn là sự định hướng và
dẫn dắt các hoạt động đối ngoại của quốc gia nhằm thỏa mãn lợi ích của giai cấp
thống trị[55;tr.121-122].Trong lợi ích quốc gia nói chung có thể có lợi ích của các
giai cấp khác trong xã hội nhưng chúng đóng vai trò thứ yếu và phụ thuộc vào lợi
ích của giai cấp cầm quyền. Về sau những người theo chủ nghĩa Mác-Lênin đã bổ
sung thêm lợi ích nhân loại là những vấn đề toàn cầu nhưng vẫn chỉ là hợp phần
thứ yếu trong lợi ích quốc gia.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối ngoại giao được dựa trên những nguyên
tắc căn bản là luôn đặt quyền lợi của quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Hồ
Chí Minh nhấn mạnh quyền độc lập, tự chủ, tự do thực sự, bình đẳng, quyền toàn
vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, quyền được sống trong hòa bình, quyền tự
quyết của dân tộc. Hồ Chí Minh xác định muốn làm gì cũng cần vì lợi ích dân tộc
mà làm và phải luôn vì lợi ích dân tộc mà phục vụ[112;tr.61-62]. Chính sách
ngoại giao độc lập, tự chủ trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi của quốc gia, dân
tộc, nhân dân phải được đặt lên hàng đầu, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, điều
kiện gì cũng không được vi phạm quyền lợi quốc gia, dân tộc hoặc lấy quyền lợi
của quốc gia dân tộc làm điều kiện “đổi chác”. Trong những tình huống đặc biệt,
để thực hiện sách lược cách mạng, chỉ có thể hy sinh quyền lợi của bộ phận,
quyền lợi giai cấp, chứ không được hy sinh quyền lợi quốc gia, dân tộc[112;tr.63].
Tư tưởng này là nền tảng của CSĐN của Việt Nam, trong đó thế giới quan
Hồ Chí Minh đặt Việt Nam vào sự phát triển chung của thế giới [88;tr.14] và đề
cao chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc và lợi ích dân tộc trong quan hệ quốc
27
tế. Kế thừa nghệ thuật ngoại giao của ông cha ta, phương châm “dĩ bất biến, ứng
vạn biến” đã trở thành tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh. Dĩ bất biến là bảo
vệ các LIQGDT căn bản như độc lập, chủ quyền, thống nhất; vạn biến là sách
lược và phương pháp ứng xử, có thể nhân nhượng trong giới hạn nhất định trên
cơ sở đánh giá đúng đối tác, đối thủ cũng như chiều hướng chuyển biến của so
sánh lực lượng, về những thuận ngịch của tình hình quốc tế trong từng giai đoạn,
thời điểm cụ thể để đạt được mục tiêu.
LIQGDT được xác định là mục tiêu của CSĐN của Đảng CSVN. Trong giai
đoạn từ năm 2011 đến nay nhận thức của Đảng về LIQGDT đã được đề cập rõ nét.
Đại hội XI xác định LIQGDT là mục tiêu của CSĐN[39]. Văn kiện Đại hội XII nêu
rõ “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.”[40; tr.153]. Theo quan điểm của
Đảng, lợi ích quốc gia bao gồm cả lợi ích giai cấp cầm quyền[125] và lợi ích dân
tộc là đồng nhất, được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế, bình đẳng và cùng có lợi, phân biệt với những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi.
(ii) Lợi ích quốc gia-dân tộc và quan hệ đặc biệt
Đề cập về sự tương đồng lợi ích giữa các dân tộc - một yếu tố cốt lõi của
QHĐB giữa các quốc gia ngày nay, Mác viết: “Muốn cho các dân tộc có thể thực sự
đoàn kết lại thì họ phải có những lợi ích chung. Muốn cho những lợi ích của họ trở
thành lợi ích chung thì những quan hệ sở hữu hiện có phải bị thủ tiêu”. Ăng-ghen
viết: “Liên minh giữa các nhà nước của giai cấp vô sản có sự tương đồng cao về lợi
ích dân tộc”[72;tr.87-88]. Quan điểm Mác-xít về lợi ích đề cao chủ nghĩa quốc tế và
sự bình đẳng giữa các chủ thể, cơ bản không phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa hiện
thực về lợi ích là yếu tố quan trọng chi phối QHĐB, hay quan điểm tự do về sự phụ
thuộc lẫn nhau và động lực hợp tác giữa các quốc gia, nhưng nhấn mạnh vào sự coi
trọng các lợi ích chung, vượt lên lợi ích dân tộc hẹp hòi.
Hồ Chí Minh sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc tăng cường
đoàn kết, hợp tác giữa Việt Nam với các nước láng giềng có chung đường biên
giới để giữ an ninh và ổn định, từ đó mở rộng quan hệ với các nước trong khu
vực và thế giới. Quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng là Trung Quốc,
Lào, Campuchia tuy khác nhau về nội hàm, nhưng đều là những mối QHĐB so
với bất kỳ quốc gia khác trên thế giới. Chung sống hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác
28
cùng phát triển với các nước láng giềng là một yêu cầu, một nguyên tắc đối
ngoại, mà giá trị của nó như nhau đối với mọi quốc gia có cùng chung biên giới,
dù lớn hay nhỏ. Với Trung Quốc, Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa về lợi ích dân tộc
trong việc xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt Nam - Trung
Quốc trên tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em”[59;tr.82]. Cho dù quan hệ
hai nước thăng trầm, nhưng Việt Nam vẫn xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp
tác bình đẳng, cùng có lợi với Trung Quốc, nhằm đem lại lợi ích và thịnh vượng
cho hai dân tộc, vì hòa bình, ổn định và phát triển[112;tr.73-74].
Hồ Chí Minh đề cao độc lập, chủ quyền của Lào và Campuchia và mong
muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền, cùng
có lợi, trên năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình [61;tr.523]. Hơn nữa, Người có
cách tiếp cận về hài hòa, đan xen LIQGDT trong quan hệ với Lào và Campuchia.
Luận điểm quan trọng nhất trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về QHĐB là sự gắn bó
vận mạnh giữa các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, với quan điểm cùng thắng
về lợi ích. Người nêu rõ: “Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính
trị, v.v. mà ta với Miên, Lào như môi với răng. Hai dân tộc Miên, Lào hoàn toàn
giải phóng thì cuộc giải phóng của ta mới chắc chắn hoàn toàn”[62;385]. Người
đặt lợi ích chung của ba dân tộc lên trên lợi ích riêng của Việt Nam. Người viết:
“Chúng ta kháng chiến, dân tộc bạn Miên, Lào cũng kháng chiến. Vì vậy, ta phải
giúp đỡ anh em Miên, Lào, giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào. Và tiến hành thành
lập Mặt trận thống nhất các dân tộc Việt-Miên-Lào” [62;tr.385]. Hồ Chí Minh đề
ra phương châm giúp bạn là tự giúp mình và không đứng trên lợi ích Việt Nam
mà làm công tác Miên, Lào, không đem chủ trương, chính sách, nguyên tắc của
Việt Nam ứng dụng vào Lào, Miên như lắp máy mà phải giúp đỡ để bạn tự làm,
tự quyết định lấy [112;tr.76-77].
Báo cáo chính trị Đại hội VI nêu rõ “củng cố và phát triển liên minh đặc
biệt với hai nước Lào và Campuchia là nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược
gắn liền với lợi ích sống còn của độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội ở nước ta và
trên toàn bán đảo Đông Dương”. Đại hội VII (1991) của Đảng tiếp tục đường lối
của Đại hội VI đối với Lào, nhấn mạnh yếu tố lợi ích, chủ trương “không ngừng
củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt giữa Đảng và nhân dân
ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia anh em. Đổi mới
29
phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng
độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau”[35;tr.78]. Quan điểm gắn
QHĐB với LIQGDT xuyên suốt trong các kỳ đại hội của Đảng CSVN. Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng tuy không nêu trực tiếp mối liên hệ giữa QHĐB với
LIQGDT, nhưng việc khẳng định lại đường lối vừa coi LIQGDT là mục tiêu cao
nhất của CSĐN, vừa khẳng định ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng
giềng, bạn bè truyền thống [40]; một lần nữa khẳng định chủ trương nhất quán
của Đảng gắn QHĐB với LIQGDT của Việt Nam.
(iii) Chính sách đối ngoại và quan hệ đặc biệt
Nếu quan hệ quốc tế là cái khung thì CSĐN là toàn thể các bộ phận cấu thành
cái lõi, cái nhân bên trong [29]. Quan hệ quốc tế vừa là cơ sở vừa là kết quả của
CSĐN [85; tr.70]. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đề cao chủ nghĩa
quốc tế trong mối quan hệ giữa CSĐN và QHĐB. QHĐB chỉ có thể là quan hệ giữa
các quốc gia cùng ý thức hệ, không tồn tại mâu thuẫn giai cấp, trong đó quan hệ
giữa các nhà nước của giai cấp công nhân với nhau được xây dựng trên nền tảng
chủ nghĩa quốc tế vô sản sẽ có mức độ tương đồng lợi ích giai cấp và dân tộc cao
nhất [72; tr.87-88]. QHĐB giữa hai chủ thể quan hệ quốc tế dựa trên sự thống nhất
rất cao về mục tiêu, lý tưởng và lợi ích giai cấp-dân tộc được chứng minh trong một
quá trình lịch sử lâu dài. Thắng lợi của cách mạng vô sản tất yếu sẽ dẫn đến mối
quan hệ hữu nghị giữa các nhà nước XHCN. Quan hệ giữa các nước đế quốc và các
thuộc địa không thể là mối quan hệ bình đẳng, lâu bền và có cùng lợi ích giai cấp,
lợi ích dân tộc. Chỉ có quan hệ giữa các nhà nước XHCN có cùng chung lợi ích giai
cấp và cơ bản không khác biệt về lợi ích dân tộc, trên nền tảng đoàn kết giai cấp
theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản thì mới thực sự là quan hệ hữu nghị, lâu
bền, thống nhất lợi ích và tương trợ nhau một cách đặc biệt hơn so với các đối tác
khác. Các nhà nghiên cứu Mác-xít không phủ nhận lợi ích là yếu tố quan trọng chi
phối QHĐB, hay sự phụ thuộc lẫn nhau là động lực hợp tác giữa các quốc gia,
nhưng nhấn mạnh tính chất bình đẳng và lợi ích chung, vượt lên các lợi ích dân tộc
hẹp hòi, sự đoàn kết, tin cậy lẫn nhau trong CSĐN[95].
Tư tưởng Hồ Chí Minh cho rằng sự chung sống hòa hiếu, hợp tác cùng phát
triển với các nước láng giềng là một yêu cầu, một nguyên tắc đối ngoại, mà giá
trị của nó như nhau đối với mọi quốc gia có chung biên giới. Lào, Campuchia,
30
Việt Nam là ba dân tộc cùng sống trên dải đất núi sông liền một dải, có sự đoàn
kết gắn bó lâu đời về lịch sử, văn hóa, đã từng giúp nhau trong đấu tranh chống
kẻ thù chung, chính vì thế phải ưu tiên xây dựng mối quan hệ keo sơn, gắn bó
bền chặt với nhau [112;tr.74]. Tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tới
Liên hợp quốc lời kêu gọi trong đó nêu rõ: “Đối với Lào và Miên, nước Việt
Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác
trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền”[61;tr.523].
Đối với QHĐB với các nước bạn bè truyền thống, Đảng khẳng định tiếp tục
củng cố liên minh chiến lược với cả Lào và CPC là nhân tố có ý nghĩa chiến lược đối
với an ninh và hòa bình trên bán đảo Đông Dương, cam kết tiếp tục thực hiện nghĩa
vụ quốc tế với Lào và CPC, qua đó tăng cường thế và lực của cách mạng 3 nước [34].
Đảng chủ trương “phát triển và củng cố mối QHĐB giữa ba nước Đông Dương, đoàn
kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy luật sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh
em. Việt Nam trung thành với nghĩa vụ quốc tế của mình đối với cách mạng Lào và
cách mạng Campuchia, coi mỗi thành tựu trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc của hai nước anh em như thành tựu của chính mình, cũng như mỗi thành tựu
của chúng ta đều không tách rời tình đoàn kết, sự ủng hộ và giúp đỡ của hai nước anh
em”[45]. Đại hội VIII (1996) và Đại hội IX (2001) của Đảng tiếp tục chính sách củng
cố và phát triển QHĐB với Lào. Phần “Chính sách đối ngoại” của Nghị quyết Đại hội
VIII tuy không nêu đích danh Lào, nhưng nhấn mạnh nhiệm vụ “tăng cường quan hệ
với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN, không ngừng củng cố
quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển
và các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới, đồng thời luôn luôn nêu cao tinh thần
đoàn kết anh em với các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Mỹ latinh, với
Phong trào không liên kết”[36]. Phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế của Nghị quyết Đại hội IX đề ra nhiệm vụ “phát triển quan hệ
hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng” [37].
Nghị quyết Đại hội X (2006) xác định nhiệm vụ đưa các quan hệ quốc tế đã
được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các
nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ
31
của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và
tranh chấp thông qua thương lượng; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi[38].
Tư tưởng chỉ đạo của Đảng phát triển và củng cố mối QHĐB, xem đây là
nhiệm vụ có tầm chiến lược to lớn, thiết thực phục vụ lợi ích đảm bảo an ninh
chính trị và phát triển của mỗi nước. QHĐB Việt Nam – Lào vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy hợp tác toàn diện, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong hợp
tác quốc phòng an ninh, kinh tế, giáo dục và các lĩnh vực khác cho ngang tầm
với quan hệ truyền thống giữ hai nước[3].
Tóm lại, các trường phái lý thuyết đều cho rằng LIQGDT và QHĐB có mối
quan hệ mật thiết với nhau tạo thành hai trụ cột quan trọng trong CSĐN giữa các
nước có quan hệ hữu nghị mật thiết, lâu dài (Phụ lục 2. Tóm tắt quan điểm của
chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa kiến tạo về mối quan hệ giữa
chính sách đối ngoại, LIQGDT và QHĐB). CSĐN phát huy sự tương đồng về
các yếu tố lợi ích, đồng thời phát huy giá trị của các yếu tố bản sắc tạo nên
QHĐB. Các yếu tố bản sắc đóng vai trò là điều kiện cần, còn các yếu tố lợi ích là
điều kiện đủ của chính sách phát triển QHĐB[95]. QHĐB vừa là mục tiêu vừa là
điểm xuất phát của chính sách. Nói cách khác, ngoài các yếu tố quốc tế và trong
nước, các yếu tố QHĐB là một loại bối cảnh tạo ra sự điều chỉnh CSĐN.
1.1.2. Cách tiếp cận chính sách đối ngoại từ góc độ lợi ích quốc gia-dân tộc
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng về ba lợi ích an ninh, phát triển và vị thế
Về lợi ích an ninh, Đại hội XII của Đảng CSVN đã đề cập 5 khái niệm của
việc bảo vệ an ninh Tổ quốc. Văn kiện Đại hội XII lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa.”[40, tr.153] Lần đầu tiên Đảng cụ thể hóa nội hàm bảo vệ Tổ quốc,
đồng nghĩa bảo v... Sa, Hệ thống thủy lợi Đông-phu-xỉ và
Thà-phạ-nông-phông tỉnh Viêng Chăn và Hệ thống thủy lợi Nậm Long tỉnh Hủa
Phăn. Trong giai đoạn 2011-2020, Việt Nam tiếp tục giúp Lào xây dựng Trung
tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp tỉnh Xiêng Khoảng, Trung tâm dịch vụ kỹ
13
Tính đến cuối năm 2016 Chính phủ Việt Nam đã cho Chính phủ Lào vay 6 khoản tín dụng trị giá 152 triệu
USD. Giai đoạn 2011-2015 giá trị hai khoản vay VL05 và VL 06 cho phía Lào là 51 triệu USD, với lãi suất
là 1,5%, kỳ hạn 10-15 năm bao gồm 3 năm ân hạn.
194
thuật nông nghiệp tỉnh Hủa Phăn, Quy hoạch nông nghiệp tại hai tỉnh Hủa Phăn-
Xiêng Khoảng, Hệ thống thủy lợi tỉnh Khăm Muộn, Hệ thống thủy lợi Nam
Hang tỉnh Hủa Phăn, Hỗ trợ phát triển nông nghiệp và sản xuất hàng hóa tại
Thà-phạ-nong-phông và Đông-phu-xỉ...
Trong lĩnh vực xã hội và giảm nghèo, Việt Nam đã giúp Lào xây dựng các
mô hình thí điểm phục vụ nông nghiệp tại Phun Sủng, Chăm-pa-sắc, Lắc-sao và
Hạt Siều; chuyển đổi giống cây trồng thông qua các dự án: Hỗ trợ phát triển
giống ngô lai; Quy hoạch vùng cây ăn quả huyện Xiềng-Ngân, Nặm-Bạc (Luông
Pha Băng) và vùng trồng rau Văng Viêng (Viêng Chăn), xây dựng Bệnh viện
tỉnh Bò Kẹo, hệ thống nước sạch Xay-xổm-bun... Giai đoạn 2011-2020 Việt
Nam hỗ trợ Lào các dự án Làng Hữu nghị thanh niên biên giới Việt-Lào, xây
dựng Trung tâm chỉnh hình và phục hồi chức năng cho thương binh và người tàn
tật 686 tại Bản Cân, tỉnh Viêng Chăn; xây dựng Trung tâm huấn luyện thể thao
quốc gia Lào; xây dựng hai bệnh viện lớn trên 500 giường ở Xiêng Khoảng và
Hủa Phăn với số vốn hơn 1.000 tỷ VNĐ.
Phát triển nguồn nhân lực là lĩnh vực được hai nước quan tâm, chiếm
43,25% viện trợ không hoàn lại giai đoạn 1994-2010 cho đào tạo cán bộ, học
sinh Lào tại Việt Nam và 12,61% viện trợ để hình thành hệ thống trường phổ
thông dân tộc nội trú U-đôm-xay, Hủa Phăn, Xiêng-Khoảng, Viêng Chăn, Xa-
va-na-khét, Chăm-pa-sắc, A-ta-pư, xây dựng các cơ sở bồi dưỡng cán bộ và đào
tạo nghề tại Viêng Chăn, Bò Kẹo, các trường đào tạo cao đẳng và đại học như
Trường Cao đẳng Tài chính Đông-khăm-xạng, Trường Âm nhạc Quốc gia Lào...
Từ năm 1997 hai bên chuyển sang ưu tiên cho đào tạo dài hạn, chính quy, nhưng
vẫn duy trì tỉ lệ nhất định cho các khóa bồi dưỡng và đào tạo ngắn hạn. Trong 5
năm 2006-2010, Việt Nam cấp 3.518 suất học bổng với kinh phí 520 tỷ VNĐ
tương đương với 30 triệu USD. Trong giai đoạn 2011-2020, kinh phí dành cho
đào tạo trên 2.100 tỷ VNĐ chiếm khoảng 32% tổng số vốn viện trợ. Việt Nam
dành cho Lào trên 1000 suất học bổng/năm tại các trường đại học khắp cả nước;
đầu tư trên 20 dự án xây dựng học viện chính trị, học viện hành chính, trường
195
dân tộc nội trú, trung học, trường năng khiếu tại Viêng Chăn, Hủa Phăn, Xiêng
Khoảng, Luông Nậm Thà, Luông Pha Băng, Trường dạy nghề tại U-đôm-xay,
Bò Kẹo, Trường Âm nhạc quốc gia Lào, Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý khoa
học công nghệ...
Trong lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, trong giai đoạn 2011-2020 Việt Nam
giúp Lào hàng chục dự án có ý nghĩa chính trị như Dự án biên soạn lịch sử liên
minh chiến đấu, quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Dự án sửa chữa và nâng cấp
Bảo tàng Cay-sỏn Phôm-vi-hản; Đầu tư xây dựng khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí
Minh tại Khăm Muộn, 04 dự án xây dựng Đài phát thanh và truyền hình khu vực
Chăm-pa-sắc, Luông Pha Băng, Xa-va-na-khẹt, U-đôm-xay, Xây dựng Công
viên Hồ Chí Minh tại Viêng Chăn...
Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam giúp Lào xây dựng hạ tầng giao thông
bằng nguồn vốn vay ưu đãi. Tuyến đường 18B ở Nam Lào và tuyến đường 2E ở
Bắc Lào và dành 2,8 viện trợ không hoàn lại trong những năm 2001-2005 để
giúp Lào nghiên cứu khảo sát các tuyến đường sắt, đường bộ và đầu tư xây dựng
các cửa khẩu của Lào với Việt Nam. Trong giai đoạn 2011-2020, Việt Nam giúp
Lào Dự án điều tra khoáng sản và lập bản đồ địa chất tỷ lệ 1:200.000 vùng Bắc
Viêng Chăn-Nam Luôn Nậm Thà, Chiến lược phát triển giao thông vận tải quốc
gia Lào tới năm 2020 và tầm nhìn đến 2030; xây dựng tuyến đường bộ nối tỉnh
Hủa Phăn với Thanh Hóa; nghiên cứu khả thi Dự án đường bộ cao tốc Hà Nội –
Viêng Chăn, Trạm kiểm soát tần số Lào...
Các khoản viện trợ chính thức và không chính thức của Việt Nam dành
cho Lào là tương đối lớn so với khả năng của Việt Nam vẫn còn là nước vay nợ
nước ngoài. Hiện tượng một nước vừa là nước nhận viện trợ đồng thời là nước
cung cấp viện trợ không phải là mới, tuy nhiên trong trường hợp điều kiện còn
khó khăn như Việt Nam hàng năm vẫn dành một khoản ngân sách đáng kể để
viện trợ cho Lào là một trường hợp chính sách đối ngoại cần được nghiên cứu để
rút ra một số bài học về lý luận và thực tiễn.
196
3. Viện trợ trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với Lào
Tại Hội nghị Trung ương III (Khóa II), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Sự
thật thì chưa tìm ra chữ gì để thay thế chữ “giúp” nên dùng chữ giúp, thực ra
không phải là giúp mà là làm một nhiệm vụ quốc tế”. “Mà giúp nước bạn tức là
tự giúp mình nên phải ra sức giúp đỡ một cách tích cực, thiết thực hơn”14. Kế
thừa Tư tưởng Hồ Chí Minh, nghĩa vụ quốc tế đối với Lào luôn được khẳng định
trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam các thời kỳ. Với Tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng của chính sách đối ngoại, Việt Nam coi viện trợ dành cho
Lào là nghĩa vụ quốc tế và ưu tiên trong chính sách với Lào.
Theo Thỏa thuận giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ
CHDCND Lào về quy chế tài chính và quản lý sử dụng vốn viện trợ không hoàn lại
của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào, vốn viện trợ là các khoản viện
trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào được ghi
trong Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ thuật 5 năm và
hàng năm, hoặc các khoản viện trợ không nằm trong Hiệp định giữa hai Chính phủ.
Chiến lược hợp tác với Lào giai đoạn 2011-2020 xác định vốn viện trợ không hoàn
lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào là nguồn lực cần thiết tạo
động lực thúc đẩy hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, tăng cường quan hệ
đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước. Vốn viện trợ được sử dụng cho các lĩnh
vực (i) đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, học sinh, sinh viên Lào học tập tại Việt Nam; (ii)
các dự án đầu tư xây dựng tại Lào, các dự án, công việc viện trợ khác trong lĩnh vực
hành chính, kinh tế sự nghiệp theo quyết định của hai Chính phủ.
Các nguồn tài liệu chính thức của Việt Nam cho rằng viện trợ không hoàn lại
của Việt Nam dành cho Lào có đặc điểm riêng so với nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) của các nước phát triển dành cho Lào, thể hiện sự giúp đỡ lẫn nhau, vô
tư vì sự ổn định và phát triển của mỗi nước, không gắn với lợi ích hay chiến lược
của nước tài trợ, không tạo tiền đề cho chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực
quan tâm hoặc có lợi thế. Viện trợ không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn được
14
Hồ Chí Minh. Toàn tập, T6, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1986.
197
xem xét dưới góc độ nghĩa vụ quốc tế có tác động toàn diện về chính trị, xã hội, an
ninh, quốc phòng, môi trường... Quan điểm này có nhiều điểm đồng với quan điểm
của chủ nghĩa hiện thực về trách nhiệm đặc biệt của nước lớn hơn trong việc đảm
bảo an ninh và viện trợ kinh tế nước nhỏ hơn trong quan hệ đặc biệt.
Chính sách viện trợ là một phần trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Giai đoạn 2011-2020, vốn viện trợ cho Lào đã đạt được mục tiêu về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, tăng cường sự phát triển ổn định biên giới giữa hai nước; giải
quyết một phần khó khăn của Lào về cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục-đào
tạo, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, phát thanh truyền hình, y tế.... góp phần
nâng cao nhận thức của Đảng và nhân dân Lào về sự giúp đỡ của Việt Nam, yếu
tố gắn kết quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Nguồn hỗ trợ của các bộ, ngành, địa
phương đã góp phần củng cố sự hợp tác tốt đẹp giữa các bộ ngành địa phương
hai nước, góp phần củng cố quan hệ đặc biệt. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào
Bun Nhăng Vô La chít đã thay mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân các dân tộc Lào
đã cảm ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam anh em đã luôn dành sự giúp
đỡ quý báu, kịp thời và có hiệu quả đối với công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát
triển đất nước của Lào ngày nay15. Trong các phát biểu của lãnh đạo Lào đều
nhấn mạnh mặc dù Việt Nam còn rất khó khăn nhưng đã và đang dành nguồn
ngân sách để viện trợ không hoàn lại cho Lào, thể hiện chủ nghĩa quốc tế vô tư
trong sáng và quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng và hai nhà nước.
Box 1. Câu chuyện thành công: Dự án xây dựng Trung tâm đào tạo cán
bộ quản lý khoa học công nghệ Lào
Tại kỳ họp lần thứ 35 Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam - Lào ngày
19/12/2012, Chính phủ Việt Nam đã giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam
phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ Lào triển khai Dự án xây dựng Trung tâm
đào tạo cán bộ quản lý khoa học công nghệ Lào nhằm hỗ trợ phát triển tiềm lực khoa
học công nghệ cho Lào.
15
Phát biểu của TBT Bun-nhăng Vô-la-chít tại Lễ kỷ niệm 55 QHNG và 40 năm Hiệp ước HNHT, ngày
18/7/2017 tại Viêng Chăn, Lào.
198
Dự án có tổng quy mô xây dựng 5,256 m2, trong đó bao gồm 1 khối nhà 2
tầng, diện tích 3,600 m2, khu ký túc xá cho học viên với 2 tòa nhà 2 tầng, diện tích
1,620 m2 cùng với các trang thiết bị cơ bản khác. Tổng mức đầu tư xây dựng công
trình được chủ đầu tư tính toán ban đầu là 250 tỷ đồng dựa trên một số tính toán về
nhu cầu đào tạo cán bộ KHCN của các cơ quan trung ương và địa phương Lào. Quá
trình thẩm định của Phân ban Việt Nan – Lào và các cơ quan bộ, ngành liên quan của
Việt Nam diễn ra khá dài nhưng với tinh thần nghiêm túc, khoa học, thận trọng và đã
dự báo lại lại nhu cầu đào tạo cho sát với thực tế hơn. Rút kinh nghiệm mô hình
không thành công của Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý kinh tế tại Thủ đô Viêng
Chăn đã không sử dụng được đúng mục tiêu ban đầu, các cơ quan tham mưu của
Chính phủ và Phân ban Việt Nam đã đóng góp ý kiến điều chỉnh lại thiết kế tòa nhà
cho phù hợp với một trung tâm KHCN đa năng tầm quốc gia của Lào, nơi vừa đào tạo
cán bộ, vừa có thể là trung tâm của các cơ quan công nghệ cao của Lào hoặc có thể sử
dụng vào mục đích triển lãm KHCN sao cho sử dụng tối đa công suất thiết kế. Thiết
kế cũ theo mẫu nhà truyền thống của Lào không thực sự phù hợp với các chức năng
của Trung tâm. Các cơ quan Việt Nam và Lào đã nhiều lần trao đổi bàn bạc đi đến
thống nhất về mục đích và thiết kế công trình theo mô hình của trung tâm hiện đại
trên thế giới. Về vốn viện trợ, tổng mức đầu tư đã được tính toán lại từ 250 tỷ đồng
rút xuống hơn 98 tỷ đồng, trong đó vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt
Nam dành cho Chính phủ Lào là gần 90 tỷ đồng, và vốn đối ứng từ nguồn ngân sách
của Lào là gần 9 tỷ đồng.
Ngày 01/6/2015, Phân ban hợp tác Lào-Việt Nam đã ký Quyết định phê duyệt
Dự án và giao Bộ Khoa học và Công nghệ Lào phối hợp với Bộ KH&CN Việt Nam
triển khai Dự án. Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý KHCN của Lào sau khi được xây
dựng sẽ đáp ứng việc đào tạo, bồi dưỡng cho khoảng 600 đến 800 lượt cán bộ/năm.
Sau năm 2020, Trung tâm cần được nâng cấp trở thành Học viện Quản lý KH&CN để
có năng lực đào tạo, bồi dưỡng cho khoảng từ 2.000 – 2.500 lượt cán bộ/năm. Dự án
được khởi công vào tháng 9/2015 và hoàn thành, nghiệm thu vào tháng 12/2017 theo
đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu và quy định đề ra.
Đây là Dự án mang tính chiến lược lâu dài nhằm tăng cường cơ sở hạ tầng và
nguồn lực về KH&CN cho Lào. Mục tiêu trước mắt là để Bộ KH&CN Lào có được cơ
199
sở vật chất hoàn thiện và có thể chủ động tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng và chuyên môn cho đội ngũ cán bộ
KH&CN từ Trung ương đến địa phương và các doanh nghiệp của Lào. Việc đầu tư xây
dựng dự án là bước đầu tiến tới đầu tư xây dựng đồng bộ Trung tâm đào tạo cán bộ
quản lý KH&CN của Lào là đầu tư cho chiều sâu, cho chất lượng nguồn nhân lực để
đạt được mục tiêu chiến lược phát triển KH&CN của đất nước Lào anh em. Sự kiện
khởi công Dự án đầu tư xây dựng Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý KH&CN của Lào
là một trong các hoạt động hợp tác trọng tâm của Bộ KH&CN hai nước Việt Nam và
Lào, góp phần chào mừng Quốc khánh nước CHDCND Lào lần thứ 40, Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ XII và Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ X.
Chiều 4 tháng 2 năm 2018, tại thủ đô Viêng Chăn (Lào), Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc và Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith cùng tham dự lễ khánh thành
Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý khoa học và công nghệ của Lào và chứng kiến lễ ký
biên bản bàn giao giữa Bộ Khoa học và Công nghệ hai nước. Dự án hoàn thành đảm
bảo hạ tầng phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ quản lý khoa học
công nghệ của Lào, đáp ứng quy mô 600-800 lượt người/năm; là nơi làm việc cho
khoảng 70 cán bộ, nhà khoa học, giáo viên giảng dạy; nơi làm việc của Viện Khoa
học và Công nghệ quốc gia Lào, một số cơ quan nghiên cứu, phòng thí nghiệm, góp
phần đạt mục tiêu chiến lược phát triển khoa học và công nghệ của Chính phủ Lào
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Việt Nam Chu Ngọc Anh bày tỏ tin tưởng Bộ
Khoa học và Công nghệ Lào sẽ quản lý, giữ gìn và phát huy hiệu quả dự án, góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ của Lào. "Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam với trách nhiệm
và tình cảm đặc biệt của mình, trong phạm vi nhiệm vụ được giao sẽ tiếp tục phối hợp
với Lào trong quá trình khai thác sử dụng dự án”, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn
mạnh. Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Lào Boviengkham Vongdara cảm ơn sự
giúp đỡ, ủng hộ của Việt Nam với nhân dân Lào nói chung và ngành khoa học công
nghệ nói riêng. "Chúng tôi hứa sẽ quản lý, giữ gìn và khai thác hiệu quả dự án theo
mục tiêu đã đề ra", Bộ trưởng Boviengkham cam kết. Trao đổi với tác giả, bà Lâm
Hồng, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế của Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết
Bộ KHCN Lào sử dụng khu nhà để tổ chức các lớp đào tạo tập huấn của cán bộ. Một
200
số cơ quan nghiên cứu như Viện Khoa học và Công nghệ Lào, các phòng thí nghiệm,
một số đơn vị chức năng của Bộ, cũng được bố trí tại Trung tâm. Trung tâm cũng là
nơi tổ chức các cuộc hội thảo trong nước và quốc tế về KHCN. Bà Hồng cho rằng
công trình thực sự có ý nghĩa thiết thực với Lào, đáp ứng rất kịp thời nhu cầu của Bộ
KHCN Lào. Bạn rất biết ơn Việt Nam về món quà biểu hiện của tình hữu nghị Việt -
Lào này và hào hứng sau khi Trung tâm được đưa vào sử dụng. Phía Chính phủ Lào
tổ chức các cuộc tham quan đến trung tâm coi đây là một trong dự án thành công sử
dụng vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào. Đến nay sau gần 2 năm sử dụng công
trình vẫn bảo đảm chất lượng, không có hiện tượng hư hỏng nào đáng kể.
Tuy nhiên, viện trợ của Việt Nam tạo ta chưa nhiều công trình lớn, mang
dấu ấn của mối quan hệ đặc biệt. Nhân dân Lào chưa biết nhiều về sự giúp đỡ
của Việt Nam ngoài các dân cư sử dụng trực tiếp các công trình viện trợ. Nhà
nghiên cứu Lào Xayasane (2018) đưa ra nhận xét việc thực hiện những hiệp định
thỏa thuận hợp tác giữa Lào và Việt Nam còn chậm, sự phối hợp giữa các bộ,
ngành, địa phương hai nước còn thiế chặt chẽ nên cưa đạt được kết quả mong
muốn. Việc sử dụng vốn viện trợ của từ Việt Nam của Lào còn nhiều bất cập,
nhiều dự án hợp tác cũng được chậm được triển khai và không hoàn thành theo
tiến độ đề ra. Tiêu biểu Lào và Việt Nam thỏa thuận đầu tư xây dựng hệ thống
đài phát thanh truyền hình chuyển tiếp tại 4 điểm của Lào là Chăm-pa-sắc,
Xavanakhet, Luông Pha Băng, U-đôm-xay tiến tới phát chuyển tiếp kênh Việt
Nam phụ đề tiếng Lào, với dự kiến phục vụ cho 40,29% dân Lào, góp phần nâng
cao hiểu biết của nhân dân Lào về Việt Nam. Tuy nhiên, sau 10 năm triển khai
và nhiều lần điều chỉnh kinh phí thì đến tận cuối năm 2009 mới có đài phát thanh
và truyền hình Chăm-pa-sắc được thông qua các thủ tục đầu tư và bắt đầu xây
dựng. Sự chậm trễ trong hợp tác giữa hai nước là phổ biến dẫn đến hiệu quả hợp
tác không cao. Souphanouvong (2017) cũng cho rằng các dự án sử dụng vốn
viện trợ của Việt Nam cho Lào được triển khai chậm, dàn trải. Phần lớn các dự
án có quy mô nhỏ, phân tán theo các vùng lãnh thổ. Một số dự án chậm tiến độ,
chất lượng thấp, xuống cấp nhanh, một số dự án xây xong không triển khai được
201
theo mục tiêu ban đầu. Một số dự án thực hiện theo quy trình thí điểm giao cho
phía Lào thực hiện thường có tổng mức đầu tư cao. Một số dự án để xảy ra thất
thoát, lãng phí. Những bất cập trong sử dụng vốn viện trợ phần nào ảnh hưởng
đến hiệu quả viện trợ và uy tín của Việt Nam.
Box 2. Câu chuyện thất bại: Dự án Hệ thống thủy lợi Nậm Long
Dự án Hệ thống thủy lợi Nậm Long tại huyện Xộp Bấu, tỉnh Hủa Phăn có tổng
mức đầu tư là 27 tỷ đồng (tương đương 1,7 triệu USD), được Phân ban hợp tác Lào-
Việt Nam phê duyệt vào năm 2003. Chủ đầu tư phía Lào là Cục Thủy lợi thuộc Bộ
Nông Lâm Lào và Sở Nông Lâm nghiệp tỉnh Hủa Phăn. Chủ đầu tư phía Việt Nam là
Tổng công ty xây dựng nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2003-2005 và
sau đó là Ban quản lý dự án thủy lợi giai đoạn 2005-2007. Công trình phục vụ tưới tiêu
cho khoảng 309 ha đất canh tác và cấp nước sinh hoạt cho 6 bản dân tộc thiểu số trong
khu vực được hưởng lợi. Hạng mục Dự án bao gồm hệ thống đầu mối (đập dâng bê
tông, cống tràn, bể tiêu năng); 14 km kênh chính và 1,2km kênh nhánh, công trình trên
kênh và nhà quản lý. Dự án được khởi công tháng 10 năm 2003 thi công theo tiến độ
cấp vốn, năm 2003-2004 mỗi năm được cấp 3 tỷ đồng, năm 2005 được cấp 7 tỷ đồng,
năm 2006 được cấp 14 tỷ đồng. Các hạng mục được hoàn thành gồm hệ thống đầu mối
(đập dâng, cống lấy nước); hệ thống kênh (4 km kênh chính và các công trình trên
kênh). Đến năm 2006 còn 10km kênh chính và 1,2 km kênh nhánh, các công trình trên
kênh, nhà quản lý và một số hạng mục khác chưa được xây dựng. Từ năm 2006-2009
dự án tạm dừng. Giá trị dự án thực hiện đến năm 2007 được phía Lào nghiệm thu là 27,
3 tỷ đồng. Đến năm 2010 phía Lào bố trí vốn trong nước để xây dựng 12 km kênh
chính còn lại với kinh phí tương đương 40 tỷ đồng. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, công trình đã phục vụ tưới cho 200 ha lúa và hoa màu. Tuy nhiên dự án
chưa được hai bên bàn giao nghiệm thu theo quy định của Quy chế tài chính và quản lý
vốn viện trợ giữa hai nước. Sa một thời gian sử dụng, đến thời điểm 2013-2014 một số
hạng mục đã xuống cấp trong đó công trình cống đập không đáp ứng yêu cầu lấy nước
do bị bồi lắng, thượng lưu đập dâng, cửa cống lấy nước bị bồi lắng, lưới chắn rác bị hư
hỏng, cống xả cát bị bồi lấp. Hệ thống kênh tưới nhiều đoạn bị xuống cấp và bồi lấp,
ảnh hưởng đến lưu lượng và mực nước cuối kênh; cầu máng số 1 có hai trụ bị lũ gây
202
xói lở, 1 trụ giữ bị cuốn trôi về hạ lưu; các cầu cống qua đường bị xuống cấp; tấm đan
bị vỡ gãy; do phần lớn kênh men theo sườn núi, thiết kế không có tấm nắp nên khi bị
mưa lớn đất đá từ sườn núi sạt lở gây bồi lấp lòng kênh; một số đoạn kênh nằm trên ta
luy của đường giao thông có nguy cơ sạ lở.
Để khắc phục tình trạng trên, vào đầu năm 2015 các chủ đầu tư Việt Nam và
Lào trình phê duyệt Dự án nâng cấp và sửa chữa hệ thống thủy lợi Nậm Long đề nghị
hai Chính phủ tiếp tục cấp vốn viện trợ với số vốn nhiều hơn gấp đôi dự án cũ để thực
hiện dự án mới. Trao đổi với tác giả, đồng chí Khăm Hùng, Tỉnh trưởng tỉnh Hủa
Phăn bày tỏ sự không hài lòng của lãnh đạo và nhân dân tỉnh Hủa Phăn đối với dự án
trên, cho rằng việc thực hiện của các chủ đầu tư đã làm giảm hiệu quả của vốn viện
trợ của Chính phủ Việt Nam dành cho Lào, cần sớm có biện pháp khắc phục.
Nguyên nhân của các yếu kém trong quản lý và sử dụng vốn viện trợ
trước hết là nhận thức và quan điểm về sự giúp đỡ của Việt Nam với Lào nói
chung và về viện trợ không hoàn lại nói riêng còn nhiều vấn đề bất cập, ảnh
hưởng đến mục tiêu, phương thức và hiệu quả viện trợ. Một số ý kiến cho rằng
không nên đặt vấn đề gắn viện trợ cho Lào với lợi ích chiến lược của ta tại Lào.
Đây là điểm khác biệt giữa viện trợ của Việt Nam so với quan điểm của các
nước cung cấp ODA trên thế giới. Hai là, viện trợ chưa gắn chặt với việc triển
khai chính sách đối ngoại của Việt Nam tại Lào. Trên thực tế vai trò của các cơ
quan ngoại giao trong quy trình cam kết, phân bổ và đánh giá hiệu quả vốn viện
trợ của Việt Nam dành cho Lào là không tương xứng, do đây là thẩm quyền của
Phân ban hợp tác Việt Nam-Lào do Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm cơ quan thường
trực. Ba là, thiếu các tiêu chí, quy định chặt chẽ về lựa chọn dự án, nhà đầu tư,
quy trình thẩm định, xét duyệt, thực hiện, đánh giá hiệu quả một cách chặt chẽ;
một số cơ quan chưa thực hiện nghiêm thỏa thuận tài chính và quản lý sử dụng
vốn viện trợ dành cho Lào. Bốn là chưa quan tâm đúng mức đến truyền thông về
ý nghĩa của vốn viện trợ cả Việt Nam đối với việc phát triển kinh tế - xã hội Lào;
tư duy khiêm tốn về sự hỗ trợ của Việt Nam với bạn và ngại nói về sự giúp đỡ
của chính mình (trong khi trên thực tế tổng số vốn viện trợ của Việt Nam cho
203
Lào qua các kênh khác nhau là không hề nhỏ), làm ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu lực và hiệu quả của vốn viện trợ với ý nghĩa là một công cụ của chính sách
đối ngoại của Việt Nam.
2.2.5.4. Một số vấn đề chính sách rút ra từ viện trợ của Việt Nam cho Lào
Viện trợ là một bộ phận không tách rời của chính sách đối ngoại của Việt
Nam với Lào nhưng trên thực tế được triển khai như một lĩnh vực tương đối độc
lập. Viện trợ có thể đem lại hiệu quả đối ngoại rất lớn nếu được sử dụng hiệu
quả; ngược lại nếu dự án viện trợ kém chất lượng thậm chí thất bại thì ảnh hưởng
rất tiêu cực đến hình ảnh và uy tín của Việt Nam tại Lào. Nói về hiệu quả về vị
thế của Việt Nam tại Lào, người dân Việt Nam có rất ít thông tin đối với việc sử
dụng vốn viện trợ của Việt Nam cho Lào. Sự đánh giá và ghi nhận của dư luận
Lào đối với ý nghĩa của nguồn vốn viện trợ của Việt Nam không cao. Ngược lại
một số dự án như dự án thủy lợi Nậm Long ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả
chính trị của nguồn vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào, trong khi nguồn
vốn này thực chất là sự “nhường cơm sẻ áo” cho Lào vì các địa phương Việt
Nam rất thiếu kinh phí để xây dựng trường học và chăm sóc ý tế cho con em
đồng báo vùng sâu vùng xa.
Chính sách đối ngoại của nhà nước ta là vì lợi ích của quốc gia dân tộc, do
đó, viện trợ của ta đối với nước ngoài tất yếu phải gắn với lợi ích quốc gia, dân
tộc. Vì vậy cần xem xét lại quan điểm viện trợ hiện nay của một số cơ quan quản
lý vốn viện trợ của Việt Nam (coi vốn viện trợ không gắn với lợi ích hay chiến
lược của nước tài trợ, không tạo tiền đề cho chính sách riêng hướng vào một số
lĩnh vực quan tâm hoặc có lợi thế) có còn phù hợp với tình hình mới hiện nay.
Cần sớm tưu duy lại chiến lược về viện trợ của Việt Nam theo hướng gắn viện
trợ với lợi ích quốc gia dân tộc một cách chính đáng, cùng thắng, nhưng không
vì lợi ích dân tộc vị kỷ hẹp hòi16, coi chiến lược này là cơ sở để hoạch định chính
sách viện trợ.
16
Tư duy phổ biến hiện nay coi vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào là một trường hợp đặc biệt, không
gắn với lợi ích của Việt Nam, khác với bản chất của viện trợ của các nước khác trên thế giới.
204
Đến nay tiềm lực kinh tế của Lào ngày càng được cải thiện so với năm
2011. Nhu cầu về vốn viện trợ của Lào không còn bức xúc như giai đoạn trước.
Về phía Việt Nam số lượng dự án viện trợ trong giai đoạn trước đang được sử
dụng. Trung Quốc đã trở thành nước cung cấp viện trợ lớn nhất cho Lào. Do nhu
cầu trong nước về vốn an sinh xã hội và vấn đề nợ công, Việt Nam không nhất
thiết cạnh tranh về viện trợ với các nước khác tại Lào. Vì vậy, cần đánh giá lại
hiệu quả chính sách viện trợ của Việt Nam trong bối cảnh quốc tế, khu vực đã
thay đổi và Lào ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc. Trong mọi trường hợp,
viện trợ của Việt Nam cần điều chỉnh theo hướng ưu tiên sử dụng cho việc đào
tạo nguồn nhân lực có chất lượng, tăng mức học bổng để duy trì số lượng và cải
thiện căn bản điều kiện sống của sinh viên Lào; dành phần vốn viện trợ để duy tu
bảo dưỡng các công trình đã bàn giao cho Lào. Chỉ triển khai mới các dự án viện
trợ trên cơ sở chọn lọc, đáp ứng đủ tiêu chí lợi ích của cả hai nước./.
Nguồn: Tài liệu của Vụ Quan hệ quốc tế, Văn phòng Chính phủ.
205
PHỤ LỤC 7
Sự khác biệt giữa QHĐB và quan hệ đối tác trong ASEAN
QHĐB VN-Lào Quan hệ thành viên ASEAN
Lịch sử Lịch sử kháng chiến giành độc
lập dân tộc, liên minh chiến đấu
chống kẻ thù chung, đoàn kết đặc
biệt thực chất, cùng chung hệ tư
tưởng, tính giai cấp
CSĐN đa dạng hóa đa phương
hóa, toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế và khu vực, đoàn kết
hình thức, phi giai cấp
Tính chất
đối tác
Bất cân đối về sức mạnh và tiềm
lực, chênh lệch về trách nhiệm, giúp
đỡ lẫn nhau, dành ưu đãi đặc biệt
Bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ, có đi có lại, đề cao lợi ích
Mục tiêu
chiến lƣợc
Cùng mục tiêu xây dựng và bảo
vệ tổ quốc, bảo vệ đảng, chế độ
XHCN, phát triển kinh tế xã hội,
củng cố an ninh quốc phòng.
Tạo môi trường hòa bình để
phát triển, thoát thế bao vây cô
lập, hội nhập khu vực, củng cố
thế và lực đất nước, đối ngoại
đa phương.
Lợi ích
chiến lƣợc
Lợi ích an ninh, quốc phòng, ổn
định biên giới, lợi ích kinh tế
song trùng
Lợi ích nâng cao vị thế đất
nước, lợi ích đối ngoại cơ bản
song trùng, lợi ích trong vấn
đề Biển Đông khác nhau
Tính chất
hợp tác
Toàn diện, lâu dài, không vì lợi
ích trước mắt, giúp bạn là giúp
mình
Hợp tác cùng có lợi, đề cao lợi
ích và chi phối bởi lợi ích,
theo đồng thuận ASEAN
Chủ thể
hợp tác
Lãnh đạo Đảng, nhà nước, bộ
ngành, địa phương, doanh
nghiệp, các tầng lớp tổ chức xã
hội, giới tinh hoa
Chính phủ, bộ ngành, doanh
nghiệp
Lĩnh vực
hợp tác
Hợp tác toàn diện, trong đó an
ninh quốc phòng là trụ cột, kinh
tế là then chốt
Hợp tác 3 trụ cột: chính trị an
ninh, kinh tế và văn hóa xã hội
206
Cƣờng độ
quan hệ đối
tác
Trao đổi đoàn các cấp với số
lượng lớn, ngoại giao cấp cao
thường xuyên, đặc biệt
Ngoại giao cấp cao tối thiểu
hai lần trong năm, các cuộc
họp thường xuyên, dày đặc
Hạ tầng
quan hệ
Vị trí địa lý liền kề, kết nối hạ
tầng hợp tác tốt. Hạ tầng mềm
(hệ thống văn bản pháp lý) đầy
đủ trên mọi lĩnh vực.
Hạ tầng mềm gồm hệ thống
văn bản ASEAN
Bầu không
khí quan
hệ
Tin cậy thực sự, chân tình, thử
thách trong lịch sử, tình hữu nghị
tốt đẹp, không có tranh chấp hay
mâu thuẫn đáng kể
Ngoại giao đa phương trong
một số trường hợp làm khó
quan hệ song phương. Khác
nhau về lập trường giải quyết
Ý thức hệ Chủ nghĩa Mác Lê-nin, đoàn kết
đặc biệt
Phi ý thức hệ
Hệ giá trị Nhiều điểm tương đồng về hệ giá
trị giữa hai đảng và nhân dân hai
nước, cả lịch sử và hiện tại
Giá trị ASEAN
Hiệu quả
hợp tác
Nhiều về số lượng, hiệu quả cao Nhiều về số lượng, hiệu quả
thấp
(Tác giả tự tổng hợp).
207
PHỤ LỤC 8
Sự khác biệt trong QHĐB và quan hệ đối tác trong MRC
QHĐB VN-Lào Quan hệ thành viên MRC
Xuất xứ và
nền tảng
quan hệ
Lịch sử kháng chiến giành độc
lập dân tộc, liên minh chiến đấu
chống kẻ thù chung, đoàn kết đặc
biệt thực chất, cùng chung hệ tư
tưởng, tính giai cấp
Việt Nam tiếp quản tư cách
thành viên của Việt Nam
Cộng hòa trong Ủy ban Mê
Công thành lập năm 1957, ký
mới Hiệp định hợp tác năm
1995 thành lập Ủy hội sông
MK
Tính chất
đối tác
Bất cân đối sức mạnh và tiềm
lực, chênh lệch về trách nhiệm,
giúp đỡ lẫn nhau, dành ưu đãi
đặc biệt
Bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ, có đi có lại, đề cao lợi ích,
tôn trọng chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ
Mục tiêu
chiến lƣợc
Cùng mục tiêu xây dựng và bảo
vệ tổ quốc, bảo vệ đảng, chế độ
XHCN, phát triển kinh tế xã hội,
củng cố an ninh quốc phòng.
Vì sự phát triển/sử dụng bền
vững nguồn tài nguyên lưu
vực sông Mê Công
Lợi ích
chiến lƣợc
Lợi ích an ninh, quốc phòng, ổn
định biên giới, lợi ích kinh tế
song trùng
Khai thác sử dụng bền vững
nguồn tài nguyên của sông Mê
Công để phát triển.
Tính chất
hợp tác
Toàn diện, lâu dài, không vì lợi
ích trước mắt, giúp bạn là giúp
mình
Hợp tác theo lĩnh vực tài
nguyên và môi trường, cùng
có lợi, đề cao lợi ích và chi
phối bởi lợi ích
Chủ thể
hợp tác
Lãnh đạo Đảng, nhà nước, bộ
ngành, địa phương, doanh
nghiệp, các tầng lớp xã hội, giới
tinh hoa
Bộ TNMT, ủy ban sông Mê
Công quốc gia của các nước
thành viên.
Lĩnh vực Hợp tác toàn diện, với an ninh Thủy lợi, thủy điện, giao
208
hợp tác quốc phòng là trụ cột, kinh tế là
then chốt
thông, kiềm chế lũ lụt, đánh
cá, du lịch...
Cƣờng độ
quan hệ đối
tác
Trao đổi đoàn các cấp với số
lượng lớn, ngoại giao cấp cao
thường xuyên, đặc biệt
Các phiên họp cấp cao 2 năm,
cấp bộ trưởng hàng năm, cấp
kỹ thuật nhiều cuộc trong năm
họp thường xuyên
Hạ tầng
quan hệ
Vị trí địa lý liền kề, kết nối hạ
tầng hợp tác tốt. Hạ tầng mềm
gồm hệ thống văn bản pháp lý
đầy đủ trên mọi lĩnh vực.
Hiệp định hợp tác vì sự phát
triển bền vững của lưu vực
sông Mê Công và các văn bản
khác
Bầu không
khí quan
hệ
Tin cậy thực sự, chân tình, thử
thách trong lịch sử, tình hữu nghị
tốt đẹp, không có tranh chấp hay
mâu thuẫn đáng kể
Hợp tác quốc tế Ngoại giao
nhiều bên đa phương trong
một số trường hợp làm khó
quan hệ song phương. Khác
nhau về lập trường giải quyết.
Ý thức hệ Chủ nghĩa Mác Lê-nin, đoàn kết
đặc biệt
Phi ý thức hệ
Hệ giá trị Nhiều điểm tương đồng về hệ giá
trị giữa hai đảng và nhân dân hai
nước, cả lịch sử và hiện tại
Sử dụng bền vững sông Mê
Công, con sông chung của các
nước thành viên
Hiệu quả
hợp tác
Nhiều về số lượng, hiệu quả
tương đối cao
Giải quyết tranh chấp về lợi
ích không hiệu quả
(Tác giả tự tổng hợp).
______________