Luận án Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH THÂN QUỐC HÙNG CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HÀ NỘI - 2018 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH THÂN QUỐC HÙNG CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã số: 62 38 01

pdf175 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 450 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Luận án Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. TS. NGUYỄN THANH BÌNH 2. TS. TRẦN THANH PHƯƠNG HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Thân Quốc Hùng MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 7 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 7 1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài 17 1.3. Giả thuyết những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay 23 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 30 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh 30 2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh 49 2.3. Các điều kiện bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh 62 Chương 3: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 70 3.1. Thực trạng tổ chức và chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh 70 3.2. Thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh 78 Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 118 4.1. Quan điểm bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh 118 4.2. Các giải pháp bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay 127 KẾT LUẬN 157 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 159 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT HĐND Hội đồng nhân dân HĐXX Hội đồng xét xử HTND Hội thẩm nhân dân HVHC Hành vi hành chính KKHC Khiếu kiện hành chính QĐHC Quyết định hành chính QĐKLBTV Quyết định kỷ luật buộc thôi việc QLHCNN Quản lý hành chính nhà nước TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao THC Tòa hành chính TTHC Tố tụng hành chính UBND Ủy ban nhân dân VAHC Vụ án hành chính VKSND Viện kiểm sát nhân dân VPHC Vi phạm hành chính XHCN Xã hội chủ nghĩa XXHC Xét xử hành chính 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Xét xử là hoạt động chính, có ý nghĩa quyết định đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của hệ thống cơ quan tòa án tất cả các nước trên thế giới. Hoạt động này có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định đến quyền lợi chính trị, kinh tế và nhiều khi là sinh mệnh của con người. Chất lượng, hiệu quả của hoạt động này còn ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của cả xã hội. Ở nước ta, xét xử là chức năng hiến định của Tòa án nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" (Khoản 1, Điều 102). Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chức năng xét xử. Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó, nhân danh nhà nước đưa ra phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc. Do đó, xét xử phải là công cụ sắc bén và đầy hiệu lực của Nhà nước và xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong bảo vệ công lý, triệt để tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Những yêu cầu đó được quán triệt và thực hiện kiên trì, thường xuyên, liên tục trong hoạt động xét xử và đã đạt được kết quả đáng khích lệ, góp phần không nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong suốt hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã ban hành và quán triệt thực hiện nhiều nghị quyết chuyên đề về cải cách tư pháp như Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/202 của Bộ Chính trị Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020... Nghị quyết số 49 đã thể hiện rất rõ quan điểm, yêu cầu của Đảng ta về cải cách tư pháp mà trọng tâm là 2 Tòa án nhân dân: "Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học; trong đó, xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm"; "Hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao"; "Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án"; "Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp"... Do đó, tổ chức thực hiện quyền tư pháp đã có những chuyển biến tích cực. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Tòa án ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được củng cố, kiện toàn. Chất lượng xét xử có chuyển biến tốt, đặc biệt đối với án hành chính được xem xét thận trọng, đúng pháp luật, tình trạng tồn đọng án, sửa án, hủy án cơ bản được khắc phục. Chủ trương "nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa" được triển khai thực hiện, tạo không khí dân chủ trong các phiên tòa, vai trò của các luật sư được nhìn nhận tích cực hơn... Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Hoạt động xét xử vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế như: tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý; chưa có sự phân định chính xác, hợp lý giữa các chức năng cơ bản của tố tụng dẫn đến việc quy định vai trò, thầm quyền cụ thể của từng chủ thể tố tụng và trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng còn chưa rõ ràng; còn thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là cơ chế bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khởi kiện trong tố tụng hành chính... Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc củng cố niềm tin của nhân dân vào tư pháp, công lý, ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng một nền tư pháp "trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý" mà Nghị quyết số 49 đã đề ra. Nguyên nhân chính 3 của những hạn chế, yếu kém trên có thể kể đến như: hệ thống pháp luật có liên quan chưa thực sự hoàn chỉnh, thống nhất và đồng bộ; trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ thẩm phán chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động xét xử; cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ đối với thẩm phán còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với tính chất của công việc... Trên phương diện lý luận, vấn đề chất lượng xét xử nói chung và chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng không phải hoàn toàn mới. Tuy nhiên, những vấn đề lý luận căn bản về chất lượng xét xử các vụ án hành chính đều chưa được nhìn nhận một cách toàn diện và giải quyết thấu đáo. Chính vì vậy, hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh chưa được ghi nhận một cách đầy đủ, thống nhất. Quy định của pháp luật về chức năng của từng chủ thể trong tố tụng cũng chưa được rõ ràng và còn chồng chéo... Cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay đặt ra những yêu cầu mới: Tòa án phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong bảo vệ công lý, triệt để tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Bối cảnh này đòi hỏi hoạt động xét xử của Tòa án phải không ngừng nâng cao chất lượng, bảo đảm hiệu quả, kịp thời, chính xác và đúng pháp luật. Do vậy, nghiên cứu vấn đề chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh lại càng có ý nghĩa hết sức cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Từ những lý do trên đây, nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay" làm luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích của luận án Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam, tác giả đề xuất các quan điểm và đưa ra những giải pháp nhằm bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay. 4 2.2. Nhiệm vụ của luận án Để thực hiện mục đích nêu trên, luận án có nhiệm vụ: - Nghiên cứu, đánh giá tổng quan các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án. Từ đó chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án. - Nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở lý luận liên quan đến đề tài luận án, cụ thể: nghiên cứu đưa ra khái niệm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; chỉ ra và phân tích đặc điểm, vai trò của chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; xây dựng các tiêu chí đánh giá và các điều kiện bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay. - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng tổ chức và tình hình xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ảnh hưởng đến chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. - Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay và chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng đó. - Phân tích, luận chứng các quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Dưới giác độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Vấn đề xét xử và chất lượng xét xử các vụ án hành chính được thực hiện bởi các tòa án khác nhau. Trong luận án chỉ tập trung nghiên cứu chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Luận án không nghiên cứu chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa 5 án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tối cao, cũng như Tòa án quân sự. - Phạm vi về không gian: Luận án phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức Tòa án nhân dân cấp tỉnh và thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi toàn quốc. - Phạm vi về thời gian: Những số liệu thống kê làm cơ sở đánh giá thực trạng tổ chức và chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2017. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác như: thống kê, so sánh, lý thuyết hệ thống... Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở chương 1 nhằm phân tích, đánh giá các công trình khoa học có liên quan đến đề tài. Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở chương 2 nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài. Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, lý thuyết hệ thống được sử dụng ở chương 3 trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác-Lênin, nhằm đánh giá đúng thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp - diễn dịch được sử dụng ở chương 4, để đề xuất các quan điểm, giải pháp phù hợp thực tế, khả thi nhằm bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. 6 5. Những điểm mới của luận án Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện và hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay; vì vậy, luận án có một số điểm mới về mặt khoa học như sau: 1. Luận án đã xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm và vai trò chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. 2. Luận án xây dựng được các tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. 3. Luận án phân tích, chỉ ra được những kết quả, hạn chế và nguyên nhân thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay. 4. Luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận về chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. - Về thực tiễn: Những kết quả của luận án sẽ góp phần nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, luận án là nguồn tư liệu tham khảo tốt cho công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4 chương, 10 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam theo định hướng XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã và đang thực hiện cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó, các hoạt động nghiên cứu khoa học được tiến hành mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực nghiên cứu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND nói chung và TAND cấp tỉnh nói riêng. Trên thực tế đã có được khối lượng đáng kể các công trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn liên quan tổ chức và hoạt động xét xử của TAND cấp tỉnh. Nghiên cứu về chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh ở nước ta có một số công trình ở cấp độ khác nhau. Những công trình này đặt nền móng và có những bước phát triển đáng kể mà tác giả có thể tiếp thu, phát triển trong luận án này. Khi tham khảo những công trình đã được công bố của các tác giả trong nước, tác giả tìm thấy nhiều điểm tương đồng về quan điểm lý luận và phát triển những vấn đề mới về chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh mà các công trình khác nghiên cứu ở mức độ hạn chế, chưa toàn diện về chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. 1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Liên quan mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ của TAND nói chung phải kể đến Đề tài “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân” [58]. Công trình này có chất lượng rất cao về vấn đề lý luận của nhiệm vụ cải cách tư pháp, về khối lượng thủ tục tư pháp nói chung cần và đủ cho giải quyết án và đặc biệt là các giải pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án, mà thực là chất lượng xét xử trong đó có xét xử án hành 8 chính của TAND các cấp. Tác giả tiếp thu được nhiều quan điểm khoa học hợp lý của đề tài để nghiên cứu đưa vào luận án. Đề tài khoa học cấp bộ: “Đổi mới chế độ Thẩm phán - Hội thẩm nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp” của Nguyễn Mạnh Lân [48]. Đề tài tập trung giải quyết các vấn đề lý luận về tuyển dụng, bổ nhiệm, các tiêu chí tuyển dụng Thẩm phán; thực trạng đội ngũ Thẩm phán, chế độ đãi ngộ như: lương, phụ cấp ngành, những bất cập của chế độ đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (HTND). Đề tài cũng đã chỉ ra những nguyên nhân khách quan, chủ quan của việc xây dựng chính sách, chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán và HTND với tư cách là một ngành nghề có tính chất khá đặc biệt trong hệ thống quyền lực nhà nước. Là những người duy nhất có chức năng xét xử, phán quyết các vấn đề bức xúc trong xã hội, giải quyết các tranh chấp trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, đề tài cũng đưa ra được một số kiến nghị, giải pháp thiết thực để bảo đảm chế độ đối với Thẩm phán và HTND một cách hợp lý trong tổng thể chế độ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta hiện nay. Những vấn đề trong đề đề cập và giải quyết có ý nghĩa thiết thực liên quan đến chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. Bởi vì, khi chế độ của Thẩm phán, HTND được bảo đảm sẽ góp phần tích cực vào việc hạn chế tiêu cực trong ngành, đạo đức nghề nghiệp xét xử được tăng cường, Thẩm phán, HTND yên tâm công tác tập trung cao độ vào công tác chuyên môn xét xử. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ:“Tài phán hành chính - thể chế bảo vệ bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức” của Hoàng Thị Kim Quế [70]. Qua nghiên cứu công trình này, tác giả có được sự đánh giá tổng quan nhất về vị trí, vai trò của Tòa hành chính (THC) trong cơ chế giải quyết các khiếu kiện hành chính ở nước ta. Vai trò của Tòa án trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Mối liên hệ giữa thiết chế THC với tài phán hành chính, giữa thiết chế giải quyết khiếu nại hành chính với xét xử hành chính (XXHC) thông qua con đường tư pháp. Mặt khác, cũng tham khảo được một số điểm khái quát về khiếu nại, khiếu kiện hành chính ở nước ta thời kỳ phong kiến và từ năm 1945 đến trước đổi mới năm 1986. Sự hình thành và phát triển của Tòa án trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, 9 những nguyên tắc hoạt động của Tòa án,Trên cơ sở đó, xác định rõ hơn về vị trí, vai trò, chức năng của THC nói chung và THC thuộc hệ thống TAND. Đề tài cấp bộ: “Nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành Tòa án” của Nguyễn Tường Linh [52]. Đề tài đã làm sáng tỏ được những vấn đề về lý luận và thực tiễn của công tác quản lý, sử dụng đội ngũ lãnh đạo của ngành TAND. Đáng chú ý nhất là đề tài đã đã giải quyết được những vấn đề căn bản về việc sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo thuộc TAND các cấp sao cho có hiệu quả nhất. Trong đó, các nội dung quan trọng về đánh giá cán bộ lãnh đạo như: mục tiêu đánh giá, phương pháp đánh giá, các tiêu chí đánh giá cần có những thay đổi căn bản để đảm bảo nguyên tắc đánh giá cán bộ một cách khách quan, chính xác, không thiên vị. Vấn đề quy hoạch cán bộ lãnh đạo, thành công của đề tài là đã chỉ ra được những bất cập trong quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng nguồn quy hoạch. Cơ chế luân chuyển cán bộ lãnh đạo trong ngành Tòa án là phù hợp cả về phương diện lý luận và thực tiễn, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đề tài đã làm rõ được ý nghĩa, vai trò và sự cần thiết của việc luân chuyển. Đồng thời đã đưa ra được những tiêu chí, giải pháp, cách thức luân chuyển cán bộ khá hợp lý. Đề tài khoa học cấp bộ “Khiếu nại hành chính và giải quyết khiếu nại hành chính trong quản lý và sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội - thực trạng và giải pháp” do Lê Tiến Hào [27]. Công trình đã này đã căn bản phân tích được cơ sở lý luận quyền khiếu kiện của tổ chức và công dân khi bị xâm hại đến quyền sử dụng đất, nhất là trên địa bàn Hà Nội, vốn dĩ công tác quản lý nhà nước về đất đai khá nhậy cảm và phức tạp. Đề tài đã chỉ rõ những bất cập trong công tác giải quyết khiếu nại liên quan đến quyền sử dụng đất của các chủ thể sử dụng đất. Bên cạnh quyền khiếu nại theo thủ tục hành chính công trình đã đề cập đến nhiều nội dung về quyền khởi kiện, trình tự thủ tục, thẩm quyền giải quyết theo trình tự, thủ tục tư pháp. Sách chuyên khảo: “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” của Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Trí [9]. Mặc dù cuốn sách tham khảo được phát hành khá lâu, nhưng một số vấn đề được giải quyết trong sách vẫn còn giá trị thực tiễn và giá trị tham khảo đối với luận án. Nhiều vấn đề được luận 10 giải khá thuyết phục như: quan điểm, mục tiêu, phương hướng cải cách; mô hình tổ chức TAND ở địa phương; vấn đề con người thực thi quyền tư pháp về tiêu chuẩn, tiêu chí, quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp. Sách chuyên khảo: “Những điểm mới của của Luật Tố tụng hành chính năm 2015” của Nguyễn Văn Cường. Đây là cuốn sách mà tác giả đã thống kê đầy đủ những điểm mới được Luật Tố tụng hành chính (TTHC) năm 2015 bổ sung, sửa đổi so với Luật TTHC năm 2010. Luật đã sửa đổi, bổ sung 198 Điều/372 Điều; bổ sung 111 Điều mới; giữ nguyên 63 Điều của Luật TTHC năm 2010. Chẳng hạn sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc đối thoại, thẩm quyền xét xử của Tòa án, quyền, nghĩa vụ của Chánh án, Thẩm phán, kiểm sát viên, người đại diện, người bảo vệ Những thông tin và luận giải trong cuốn sách có giá trị so sánh, giá trị tham khảo về những căn cứ thay đổi, sửa đổi, bổ sung những quy định mới. Đồng thời lý giải được tại sao phải sửa đổi, sự cần thiết sửa đổi và nhằm đáp ứng những yêu cầu gì về mô hình tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa hành chính và trong quá trình xét xử các VAHC. Luận án Tiến sĩ: “Tòa hành chính trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Trần Kim Liễu [49]. Luận án đã làm rõ được những vấn đề về lý luận liên quan đến Tòa hành chính trong hệ thống TAND. Đồng thời chỉ ra những bất cập của mô hình tổ chức, bất cập về phạm vi thẩm quyền xét xử các VAHC của TAND, trong đó có TAND cấp tỉnh. Tuy nhiên, nhiều vấn đề luận án đặt ra cũng đã được giải quyết trong Luật TTHC năm 2015. Mặc dù vậy, giá trị của những vấn đề về lý luận, về mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ, cũng như một số bất cập về bảo đảm tính độc lập của Tòa án trong xét xử các VAHC chưa được giải quyết một cách cơ bản trong Luật TTHC năm 2015, như thành lập Tòa hành chính khu vực. Luận án đã tập trung phân tích vị trí, vai trò THC trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đặc biệt luận án cũng đã đưa ra được một số đảm bảo pháp lý cho tổ chức và hoạt động của THC; phân tích, đánh giá, bình luận thực trạng tổ chức, hoạt động của THC, những ưu điểm trong hoạt động, một số hạn chế, nguyên nhân của hạn chế về bảo đảm pháp lý đối với việc tổ chức và hoạt động của THC. Tuy nhiên luận án chỉ đề cập và giải quyết những vấn đề chung về THC, chưa chuyên sâu về THC trong TAND cấp tỉnh 11 với chức năng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp huyện khi có kháng cáo, kháng nghị. Bên cạnh các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên, còn một số công trình cũng đã giải quyết phần nào về lý luận, thực trạng và đưa ra những giải pháp thiết chế mô hình tổ chức của THC có những nét khác nhau như: Đề tài khoa học “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân” [58]. “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền” của Đỗ Thị Ngọc Tuyết [115]; các bài viết trong sách tham khảo: “Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Như Phát, Nguyễn Thị Việt Hương [66]; “Thực trạng và yêu cầu kiện toàn đội ngũ Thẩm phán hành chính ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Văn Cương, Nguyễn Hữu Xương [11]; Sách tham khảo như: "Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Lê Minh Thông [94]; “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” của Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí [9]. “Các mô hình tài phán hành chính và kinh nghiệm cho Việt Nam” của Vũ Thư [95]; “Vấn đề đổi mới hệ thống cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Cửu Việt [124]; Luận án Tiến sĩ Luật học liên quan đến vấn đề này gồm một số công trình như: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của Lê Thành Dương [17]; “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền” của Trần Huy Liệu [50]. Các bài nghiên cứu được đăng trong các báo và tạp chí chuyên ngành như: “Cải cách tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước”, của Nguyễn Đăng Dung [14]; “Cải cách tư pháp: ý nghĩa, mục đích và trọng tâm”, của Đào Trí Úc [117]. “Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp” của Phạm Văn Hùng [39]. “Bàn về quản lý Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp” của Đỗ Gia Thư [15]. “Yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp” của Nguyễn Mạnh Cường [12]; “Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính 12 của Tòa án, sự bảo đảm công lý trong quan hệ giữa nhà nước và công dân” của Nguyễn Thanh Bình [3]; “Cơ chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính” của Đặng Thanh Sơn [86]. Nhận xét chung, các công trình và bài viết nghiên cứu đã phần nào làm rõ được một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tư pháp, về hoạt động tố tụng ở Việt Nam hiện nay thông qua việc đưa ra những đánh giá tổng quát về yêu cầu của quá trình cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta, về mối quan hệ giữa hệ thống cơ quan tư pháp với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước và các cơ quan trong hệ thống cơ quan tư pháp với nhau, về cơ chế giám sát của cơ quan đại diện đối với hoạt động của Tòa án các cấp; những đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động của các Tòa án ở Việt Nam; đã làm rõ một số yếu tố tác động đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của các THC; đã đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong quá trình cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đề xuất một số kiến nghị về đổi mới và hoàn thiện các THC ở nước ta. Một vấn đề rất cơ bản là các công trình khoa học (nhất là của các tác giả: Nguyễn Thị Kim Quế; Lê Minh Thông; Đào Trí Úc; Lê Cảm; Đỗ Gia Thư) đã có những đề xuất khoa học, đóng góp qua trọng vào việc thay đổi về tư duy chính trị - pháp lý, cách tiếp cận khoa học trong việc xác định thẩm quyền, quyền lực Tư pháp trong cấu trúc chung của quyền lực nhà nước, góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức TAND năm 2014, luật TTHC năm 2015. Nhiều tinh thần của đề tài cũng đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ: “Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp” (khoản 1, Điều 112, Hiến pháp 2013). Hay nói cách khác, quyền tư pháp đã được xác định rõ và cụ thể giao cho cơ quan Tòa án đảm nhiệm. Điều này tương thích với các nhánh quyền lực nhà nước khác như: quyền Lập pháp và quyền Hành pháp. Theo đó, các luật khác có liên quan như Luật Tổ chức Tòa án, các luật tố tụng... đều thể chế hóa quan điểm, tư tưởng này thành các quy định cụ thể. Mặt khác, các công trình khoa học này cũng đã đưa ra các cơ sở lý luận và thực tiễn về các mô hình tổ chức tòa án khác nhau để tổ chức thực hiện quyền tư pháp đảm bảo tính độc lập và hiệu quả nhất như: Mô hình tổ chức Tòa khu vực; mô hình tòa trung thẩm, thượng thẩm... Tuy nhiên, một số quan điểm khoa học được 13 đưa ra nhưng cũng không đủ tính thuyết phục. Chẳng hạn, quan điểm về đối tượng khởi kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc (QĐKLBTV) chỉ giới hạn trong phạm vi công chức là chưa đủ. Theo quan điểm lập luận của Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Trần Kim Liễu thì: nếu quy định chỉ công chức mới có thể kiện QĐKLBTV theo thủ tục TTHC thì sẽ không công bằng đối với viên chức. Bởi lẽ, theo Điều 2 Luật viên chức: “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc là, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. Trong khoa học pháp lý hành chính, từ lâu đã thừa nhận hoạt động của viên chức là hoạt động phục vụ lợi ích công như hoạt động công chức (chỉ khác nhau ở mức độ quyền lực). Điều 59 Luật Viên chức năm 2010 về “quy định chuyển tiếp” cho thấy chế độ của viên chức được tuyển dụng trước hoặc sau ngày 01/7/2003 hầu như không khác biệt so với công chức. Điểm d, khoản 1, Điều 52 Luật viên chức 2010 quy định các hình thức kỷ luật với viên chức bao gồm hình thức “buộc thôi việc”. Vì sao cùng là chủ thể hoạt động the...o đức nghề tư pháp, những bất cập của hệ thống pháp luật tập trung nghiên cứu về thực trạng và kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử các VAHC của Tòa án nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu, phân tích, chỉ rõ các nguyên nhân căn bản của chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh, để trên cơ sở đó có những giải pháp căn cơ nhằm giải quyết triệt để tận “gốc” vấn đề của tình trạng những phán quyết của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp hành chính hiệu quả chưa như mong muốn. Thứ hai: Về năng lực của Thẩm phán, HĐXX, những người tiến hành TTHC các công trình nghiên cứu cũng đã rất quan tâm đề cập, đánh giá, nhận xét, luận giải và kiến nghị những giải pháp để nâng cao năng lực xét xử, năng lực giải quyết các tranh chấp hành chính khi có khiếu kiện. Một yếu tố quan trọng là chính đội ngũ công chức của Tòa án làm công tác xét xử hành chính chưa được đào tạo bài bản chuyên về xét xử hành chính, mà chủ yếu tăng cường từ những lực lượng giải quyết án hình sự, dân sự, lao động sang xét xử hành chính. Mặt khác, về kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng QLHCNN nói chung, và nhất là QLHC ở địa phương 27 của Thẩm phán hầu như chưa có, cho nên khi được phân công giải quyết án hành chính thường “sợ” là phần nhiều. Đây là nhiệm vụ quan trọng cần được giải quyết thấu đáo trong luận án này. Thứ ba: Một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng là phân tích, đánh giá một cách sâu sắc về mối quan hệ giữa TAND cấp tỉnh với các cơ quan hành chính cùng cấp, với Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh và quan hệ với UBND cấp huyện cùng địa phương, các công trình khoa học được công bố chưa luận giải vấn đề này một cách thỏa đáng với tính chất của THC trong TAND cấp tỉnh. Về lý thuyết, cơ chế tổ chức, chức năng nhiệm vụ TAND cấp tỉnh độc lập với chính quyền cấp tỉnh, không chịu sự quản lý trực tiếp của UBND cùng cấp. Mối quan hệ giữa TAND cấp tỉnh với UBND là quan hệ phối hợp trong hoạt động. Tuy nhiên, xét về một số góc độ nhất định thì TAND cấp tỉnh vẫn có phần “lép vế”, phụ thuộc UBND cùng cấp. Chẳng hạn về kinh phí đầu tư, kinh phí hỗ trợ, TAND là thành viên trong khối Nội chính của UBND, việc xét xử phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương Bởi vậy, để hoạt động của TAND cấp tỉnh được tốt cần phải làm sáng tỏ cả phương diện lý luận và thực tiễn của mối quan hệ này. Với vai trò quan trọng của hoạt động xét xử các VAHC ở nước ta hiện nay, tác giả muốn đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về chất lượng xét xử của TAND cấp tỉnh. Bởi vì, trong xét xử hành chính Luật TTHC đã và đang trao cho các cấp được xét xử gồm: TAND cấp huyện (xét xử sơ thẩm); TAND cấp tỉnh (vừa xét xử sơ thẩm, vừa xét xử phúc thẩm); TAND cấp cao (xét xử phúc thẩm, Giám đốc thẩm). Trong cấu trúc phân định quyền lực của hệ thống TAND như vậy cho thấy, TAND cấp tỉnh có vị trí và vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Vì TAND cấp tỉnh vừa xét xử sơ thẩm những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền, vừa xét xử phúc thẩm các VAHC mà cấp huyện xét xử khi có kháng cáo hoặc kháng nghị. Xét xử phúc thẩm của TAND cấp tỉnh là thẩm tra lại, đánh giá lại, thẩm định lại một cách cẩn trọng cả về việc thực hiện, áp dụng pháp luật TTHC, pháp luật nội dung của TAND cấp huyện để đưa ra phán quyết thuyết phục. Mặt khác, THC thuộc TAND cấp tỉnh thuộc một trong những Tòa án chuyên trách, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức khác với các Tòa khác, phạm vi giải quyết án hành chính có đặc thù riêng biệt của cấp tỉnh. 28 Giả thuyết nghiên cứu đặt ra từ góc độ chuyên ngành lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật. Vấn đề chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh đã được nghiên cứu đến đâu cả về lý luận và thực tiễn. Luận án cần tiếp tục nghiên cứu những gì. Nhiệm vụ cơ bản của luận án cần tiếp tục nghiên cứu: - Luận chứng cơ sở khoa học, các căn cứ đánh giá chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay; - Phương diện lý luận cần làm rõ thế nào là chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của việc bảo đảm hiệu quả của chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. - Có những tiêu chí nào đánh giá và có những yếu tố nào bảo đảm cho chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. - Về thực trạng, chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh có những ưu điểm/ kết quả gì, những hạn chế và nguyên nhân nào? Để nâng cao chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh hiện nay cần triển khai, thực hiện những quan điểm nào và cần kiến nghị thực hiện những giải pháp gì. - Quan điểm và các giải pháp cụ thể, thiết thực để nâng cao chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh trong tình hình hiện nay. Tiểu kết chương 1 Mặc dù xét xử hành chính bằng con đường tư pháp ở nước ta đã thực hiện được gần 20 năm nay, so với lịch sử hoạt động xét xử của Tòa án trong các lĩnh vực khác như: hình sự, dân sự thì còn quá non trẻ. Khi nghiên cứu về lĩnh vực này các công trình khoa học trong nước cũng như nước ngoài còn có những vấn đề, những quan điểm, ý kiến, cách thức tổ chức, thực hiện khác nhau về mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền của TAND. Ở nước ta, một mặt THC mới được thành lập, mặt khác về mô hình tổ chức, phương thức hoạt động chưa thực sự ổn định và hợp lý. Tuy nhiên, các công trình khoa học trong nước và nước ngoài cũng đã luận giải được nhiều góc độ về lý luận, đưa ra được những luận cứ khoa học với nhiều góc độ, phương diện khác nhau về mô hình tổ chức và hoạt động xét xử hành chính 29 (tài phán hành chính) rất có giá trị lý luận cũng như thực tiễn. Như mô hình tổ chức và hoạt động tài phán hành chính của các quốc gia: Cộng hòa Pháp; Cộng hòa Liên bang Đức, Anh, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc Các công trình khoa học trong nước như: Đề tài “Tài phán hành chính - thể chế bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức” của Hoàng Thị Kim Quế [70]; "Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tòa án, sự bảo đảm công lý trong quan hệ nhà nước và công dân" của Nguyễn Thanh Bình [3]; “Tòa hành chính trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Trần Kim Liễu [49]; hoặc luận án "Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay" của Lê Xuân Thân [93]... Trên cơ sở kế thừa những thành tựu khoa học trong nước và nước ngoài, tác giả đã tham khảo và kế thừa một cách có chọn lọc những nhân tố hợp lý, phù hợp với nội dung đề tài nghiên cứu để làm cơ sở nghiên cứu giải quyết thấu đáo những vấn đề mà nội dung luận án đặt ra. Bởi vì, các công trình khoa học được nghiên cứu dưới những góc độ, lĩnh vực, cấp độ khác nhau, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên khảo, có hệ thống về chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh ở nước ta. Trong khi chất lượng xét xử của Tòa án nói chung và THC nói riêng vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục phải được nghiên cứu một cách thấu đáo mới đáp ứng được yêu cầu cả về lý luận lẫn thực tiễn ở nước ta hiện nay. 30 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 2.1.1. Khái niệm Tòa hành chính, xét xử hành chính và chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh 2.1.1.1. Khái niệm Tòa hành chính và xét xử các vụ án hành chính Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tư pháp là bảo đảm để Tòa án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Trong hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử được coi là khâu trọng tâm vì ở đây biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, là nơi trên cơ sở kết quả điều tra, truy tố và bào chữa, Tòa án nhân danh Nhà nước đưa ra phán xét một người có tội hay không có tội. Tòa hành chính: Tòa án trong tiếng Latinh là Forum, nghĩa là nơi công đường, nơi hoạt động cộng đồng được tiến hành. THC ở nước ta nằm trong hệ thống TAND gồm: TAND cấp huyện, THC TAND cấp tỉnh, THC TAND cấp cao, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh, Hội đồng thẩm phán TANDTC. Nhìn chung THC có những dấu hiệu đặc trưng đó là: (1) Là cơ quan xét xử các tranh chấp hành chính; (2) Đối tượng xét xử mang tính đặc thù mà một bên bao giờ cũng liên quan đến công quyền; (3) Hoạt động tuân thủ thủ tục tố tụng hành chính; (4) Hoạt động theo nguyên tắc độc lập chỉ tuân theo pháp luật. Có thể định nghĩa THC như sau: Tòa hành chính là cơ quan xét xử thuộc hệ thống Tòa án nhân dân, thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp hành chính, để bảo vệ công lý, được tổ chức và hoạt động theo luật định. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của xét xử hành chính khác với các hoạt động xét xử khác được thể hiện ở chỗ: (1) Xét xử hành chính là xét xử các tranh chấp trong quan hệ hành chính giữa một bên là tổ chức, công dân và một bên bao giờ cũng 31 mang quyền lực công (cơ quan, nhân viên nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ). (2) Đối tượng xét xử của VAHC có tính đặc thù riêng biệt, là các QĐHC, hành vi hành chính (HVHC), QĐKLBTV đối với công chức từ cấp Tổng cục trưởng trở xuống. (3) Quá trình xét xử các VAHC phải tuân theo trình tự thủ tục của TTHC, chứ không theo thủ tục hành chính thông thường. Xét xử hành chính: Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về xét xử. Theo Từ điển tiếng Việt thì: xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng của các Tòa án, các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do các Tòa án tuyên đều phải qua xét xử, không ai có thể bị buộc tội mà không qua xét xử của Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố bằng bản án [67]. Xét xử là việc đưa ra các phán quyết dưới hình thức một bản án hoặc quyết định của Tòa án có thẩm quyền nhằm giải quyết các xung đột, tranh chấp hoặc những phát sinh trong các quan hệ pháp lý cụ thể do pháp luật quy định nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Như vậy có thể thấy xét xử là một hoạt động nhà nước đặc biệt do Tòa án thực hiện nhằm giải quyết các vụ án trong đó có các VAHC. Xét xử hành chính là loại án cho đến nay vẫn còn khá mới ở Việt Nam về cả phương diện lý luận và thực tiễn so với án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình đã có từ lâu đời trong lịch sử tố tụng tư pháp Việt Nam. Nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về loại án hành chính và trình tự thủ tục tố tụng giải quyết loại án này là nhu cầu thiết thực, quan trọng nhằm hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, cơ quan trước những khả năng có thể bị xâm phạm bởi các QĐHC, HVHC của cơ quan công quyền. Ngày 28/10/1995, Quốc hội nước ta thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức TAND, trong đó TAND được trao thêm chức năng xét xử "các VAHC", tiếp đến pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/1996, thì án hành chính mới bắt đầu xuất hiện và trở nên ngày càng nhiều hơn, nhất là từ khi Luật TTHC có hiệu lực từ ngày 1/7/2011. Trước khi ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức TAND, việc KKHC 32 của công dân, tổ chức đều do cơ quan hành chính thụ lý, giải quyết theo TTHC, chứ không có thủ tục tố tụng tư pháp hay nói cách khác là Tòa án chưa có thẩm quyền, chức năng thụ lý giải quyết loại án hành chính này. Việc trao cho Tòa án thêm chức năng xét xử các VAHC là nhằm tạo ra cơ chế pháp lý, độc lập, khách quan, công khai, dân chủ, công bằng hơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức trước khả năng bị xâm hại bởi QĐHC, HVHC của cơ quan công quyền; bên cạnh đó, thông qua việc thực hiện chức năng xét xử các VAHC của Tòa án còn có tác dụng giám sát từ nhánh quyền lực tư pháp đối với nhánh quyền lực hành pháp nhằm tăng cường tinh thần trách nhiệm, chất lượng công tác, thái độ tận tụy phục vụ nhân dân, nâng cao chất lượng trong việc ban hành QĐHC hoặc thực hiện HVHC của các cơ quan hành chính. Mặt khác, nguyên tắc phân công (phân chia) quyền lực nhà nước được quy định trong Hiến pháp và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác còn bao hàm nội dung mọi hoạt động hành chính của cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ theo pháp luật và có sự giám sát từ nhiều phương diện, trong đó có sự giám sát của hệ thống Tòa án - thông qua xét xử các VAHC - với tư cách độc lập về tổ chức và hoạt động. Từ góc độ tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thẩm quyền giải quyết VAHC được khái niệm: Thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Tòa án là phạm vi quyền lực nhà nước được trao cho Tòa án, cho phép Tòa án được tiến hành các hoạt động tố tụng, nhằm đưa ra những phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện. Vụ án hành chính là vụ án phát sinh khi cá nhân, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của QĐHC, HVHC, QĐKLBTV đối với công chức, việc lập danh sách cử tri của cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể khái niệm về xét xử VAHC như sau: Xét xử vụ án hành chính là quan điểm, ý chí của Tòa án nhằm giải quyết các tranh chấp hành chính khi có yêu cầu của khởi kiện của các chủ thể theo quy định của pháp luật. 33 2.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Khái niệm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Để có thể nâng cao chất lượng xét xử nói chung, chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh nói riêng cần phải làm rõ và luận giải về nội hàm của chất lượng xét xử vụ án. "Chất lượng" là một phạm trù trừu tượng, phức tạp và khó định nghĩa, thậm chí khó nắm bắt. Hiện nay có nhiều định nghĩa và nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng. Một số định nghĩa về chất lượng đã được đưa ra như sau: Cách tiếp cận thứ nhất: "Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu" (Juran - một Giáo sư người Mỹ). "Chất lượng là sự phù hợp với các yêu cầu hay đặc tính nhất định" (Giáo sư Crosby). Từ góc độ tiêu chuẩn hay các thông số kỹ thuật có nguồn gốc từ ý niệm kiểm soát chất lượng trong các ngành sản xuất và dịch vụ thì “chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chuẩn (thông số kỹ thuật)” [91]. Cách tiếp cận này có nguồn gốc từ ý niệm kiểm soát chất lượng trong các ngành sản xuất và dịch vụ. Trong bối cảnh này tiêu chuẩn được xem là công cụ đo lường hoặc bộ thước đo - một phương tiện trung gian để miêu tả những đặc tính cần có của một sản phẩm hay dịch vụ. Chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ được đo bằng sự phù hợp của nó với các thông số hay tiêu chuẩn được quy định trước đó. Nhược điểm của cách tiếp cận này là nó không nêu rõ các tiêu chuẩn này được xây dựng trên cơ sở nào. Và xét tương ứng với đối tượng là hoạt động xét xử thì các tiêu chuẩn này khó có thể định lượng và không mang tính khả thi trên thực tế. Cách tiếp cận thứ hai đó là “Chất lượng là sự phù hợp với mục đích”. Chất lượng được đánh giá bởi mức độ mà sản phẩm, dịch vụ hay hệ thống, quá trình đáp ứng được mục đích đã tuyên bố [91]. Cách tiếp cận này cho phép cung cấp một hình mẫu để xác định các tiêu chí mà một sản phẩm, dịch vụ hay hoạt động cần có. Nó là một khái niệm động, phát triển theo thời gian, tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và tùy thuộc vào đặc thù của từng đối tượng và có thể sử dụng để phân tích chất lượng ở các cấp độ khác nhau. Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS 9000:2000, đã đưa ra định nghĩa sau: "Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một 34 sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan" [91]. Có thể thấy trong mỗi lĩnh vực khác nhau, tùy từng mục đích và đối tượng sử dụng khác nhau mà có nhiều quan điểm về chất lượng khác nhau. Tuy nhiên về cơ bản từ những định nghĩa trên có thể rút ra một số đặc điểm sau đây của khái niệm chất lượng: + Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, sự phù hợp mục đích của đối tượng đang được xem xét. + Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn luôn biến động nên chất lượng cũng luôn luôn biến động theo thời gian, không gian, điều kiện sử dụng. + Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, nhất là chất lượng xét xử của Tòa án thì cần xem xét đến mọi đặc tính của đối tượng có liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể. Các nhu cầu này không chỉ từ phía đối tượng thụ hưởng mà còn từ các bên có liên quan, ví dụ như các yêu cầu mang tính pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội. + Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy định, tiêu chuẩn nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng chỉ có thể cảm nhận chúng hoặc có khi chỉ phát hiện được chúng trong quá trình sử dụng. + Chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa mà chất lượng có thể áp dụng cho một hệ thống, một quá trình. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, tùy từng mục đích và đối tượng sử dụng khác nhau mà có những quan điểm khác nhau về chất lượng. Trên cơ sở những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh là những kết quả của quá trình đánh giá, sử dụng chứng cứ, áp dụng pháp luật của Tòa án để đưa ra những phán quyết đúng đắn, khách quan phù hợp với quy định của pháp luật, với chuẩn mực đạo đức xã hội nhằm giải quyết kịp thời các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính. 35 2.1.2. Đặc điểm xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Thứ nhất: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước tác động đến nguyên tắc độc lập xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh Hiến pháp năm 2013 bổ sung thêm một nguyên tắc kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (khoản 3, Điều 2) [79]. Đây là bước tiến lớn về tư duy trong tổ chức quyền lực nhà nước, “dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực”. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên xác định rõ cơ quan TAND có chức năng thực hiện quyền tư pháp (khoản 1, Điều 102, Hiến pháp năm 2013) [79]. Theo quy định tại khoản 3, Điều 32 LTTHC năm 2015 thì TAND cấp tỉnh xét xử: các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó. Việc trao quyền cho TAND cấp tỉnh như vậy, về thực chất bên cạnh việc bảo đảm quyền của tổ chức và công dân thì vai trò kiểm soát hoạt động của hầu hết các hoạt động trong hệ thống hành chính của chính quyền địa phương, thông qua việc xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh (trừ những khiếu kiện đối với các cơ quan thuộc cấp huyện và cấp xã thuộc chức năng của TAND cấp huyện). Hoạt động xét xử của Tòa án thực chất là việc thẩm định lại, đánh giá lại tính hợp lý, hợp pháp các hoạt động QLNN của chính quyền địa phương nhằm vừa chỉ ra những sai sót, khuyết điểm để buộc hành chính phải khắc phục, vừa kiểm soát, hạn chế sự lạm quyền trong hoạt động quản lý và điều hành của chính quyền địa phương. Hệ thống chính trị ở địa phương, đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy kiêm Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Các Phó chủ tịch UBND cấp tỉnh, các thành viên UBND đều là Tỉnh ủy viên, trong đó có một số là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy. Trong trường hợp, UBND hoặc Chủ tịch UBND có QĐHC hoặc HVHC bị khởi kiện mà TAND cấp tỉnh phải xem xét và có căn cứ xác định QĐHC hoặc HVHC đó là trái pháp luật cần phải hủy thì vấn đề đặt ra Tòa án sẽ phán quyết thế nào? Trong khi Chánh án TAND cấp tỉnh cũng là Tỉnh ủy viên (Theo Báo cáo tổng kết năm 2017 của TANDTC thì hiện nay có 56 chánh án, phó chánh án TAND cấp 36 tỉnh tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ cấp tỉnh (bằng 89%) [101]. Về lý thuyết pháp lý QĐHC, HVHC đó phải được hủy là phù hợp pháp luật. (Nguyên tắc xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật). Tuy nhiên, trong thực tiễn là một vấn đề, hoạt động xét xử của Tòa án, một trong những chức năng là phải đảm bảo và phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương. Giả sử, trường hợp hủy QĐHC đó sẽ ảnh hưởng tới tình hình chính trị, an ninh - xã hội của địa phương thì Tòa sẽ phán quyết ra sao? chưa tính đến các yếu tố tác động, ảnh hưởng khác mà thực tiễn đã và đang diễn ra trong hoạt động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh hiện nay. Đây là một trong những đặc thù riêng biệt chỉ có trong hoạt động xét xử VAHC của TAND cấp tỉnh. Thứ hai: Người khởi kiện và người bị kiện trong VAHC của TAND cấp tỉnh có tính đặc thù * Đặc điểm của người khởi kiện trong vụ án hành chính So sánh với các loại án khác thì người khởi kiện trong VAHC có tính đặc thù riêng biệt. Người khởi kiện là thuật ngữ chỉ tư cách của cá nhân hay cơ quan, tổ chức khi tham gia tố tụng trong VAHC. Tại khoản 8 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện VAHC đối với QĐHC, HVHC, QĐKLBTV, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; danh sách cử tri”. Điều 5 cũng quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện VAHC để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. Như vậy, theo những quy định trên thì người khởi kiện trong VAHC là những cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thỏa mãn các điều kiện: (1) Đối tượng khởi kiện (QĐHC, HVHC, QĐKLBTV) phái có liên quan trực tiếp đến người khởi kiện; (2) Người khởi kiện cho rằng đối tượng khởi kiện trái pháp luật, quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm; (3) Người khởi kiện phải có năng lực hành vi hành chính (khả năng tham gia quan hệ pháp luật hành chính của người khởi kiện: tuổi, năng lực hành vi dân sự). Cần lưu ý là các QĐHC, HVHC này phải tác động gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức thì họ mới có thể trở thành người khởi kiện. Bên cạnh đó, người khởi kiện phải thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 54 Luật TTHC. Nghĩa là phải có năng lực TTHC bao gồm năng lực pháp luật 37 TTHC và năng lực hành vi TTHC. Năng lực pháp luật TTHC là tổng thể những quyền và nghĩa vụ tố tụng mà pháp luật quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm quyền khởi kiện VAHC, những quyền và nghĩa vụ tố tụng khác sau khi vụ án đã phát sinh năng lực hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong TTHC là khả năng tự thực hiện việc khởi kiện VAHC hoặc ủy quyền cho người khác tham gia TTHC. Năng lực hành vi TTHC của cá nhân sẽ khác nhau tùy theo độ tuổi và khả năng nhận thức. Người từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong TTHC hoặc có thể ủy quyền cho bất cứ người nào đại diện cho mình tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 48 và Điều 54 Luật TTHC (trừ những người không được làm người đại diện theo khoản 6, khoản 7 Điều 54). * Đặc điểm của người bị kiện trong vụ án hành chính Người bị kiện trong VAHC là chủ thể đặc biệt có đặc điểm hoàn toàn khác với các quan hệ pháp luật khác như trong hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại Người bị kiện trong VAHC dù là tổ chức hay cá nhân luôn liên quan đến quyền lực nhà nước, họ phải thỏa mãn điều kiện phải là người thực hiện nhiệm vụ, công vụ QLHCNN theo quy định. Người bị kiện trong VAHC luôn luôn liên quan đến quyền lực công (công quyền). Nói cách khác là họ có chức năng, thẩm quyền, có trách nhiệm để thi hành công vụ trong lĩnh vực QLHCNN theo quy định của pháp luật. Đây là đặc trưng cơ bản để xác định đó là án hành chính. Trong trường hợp người có thẩm quyền không thực hiện nhiệm vụ, công vụ hoặc họ thực hiện không liên quan gì đến quyền lực hành chính công, dù có bị khởi kiện tại Tòa án thì cũng không trở thành chủ thể người bị kiện trong VAHC. Thứ ba: Đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính mang tính đặc thù Đây là một loại đối tượng xét xử đặc biệt mà các bên tranh chấp ban đầu có vị trí bất bình đẳng với nhau (quản lý và đối tượng quản lý) và sau đó, trong quan hệ tố tụng pháp luật lại đặt các bên vào vị trí bình đẳng, ngang nhau về quyền và nghĩa vụ trước tòa. Hoạt động HCNN do cá nhân và một số cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện. Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao thì các chủ thể quản lý thông qua chủ yếu các phương tiện QĐHC và HVHC. Theo quy định của Luật TTHC thì đối tượng khởi kiện trong VAHC bao gồm: 38 - Khiếu kiện QĐHC, HVHC trừ các QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. - Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). - Khiếu kiện QĐKLBTV công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống. - Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh [82]. Thứ tư: Đặc điểm của trình tự, thủ tục giải quyết các VAHC Thủ tục hành chính được xem là một dạng của hoạt động tài phán tư pháp. Theo nghĩa rộng thì tài phán là quyền lực của Chính phủ trong việc xem xét tính đúng sai của các hoạt động diễn ra trên phạm vi lãnh thổ nhất định; theo nghĩa hẹp thì thuật ngữ này dùng để chỉ thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét, đánh giá và ra các phán quyết đối với vụ việc cụ thể và với các đối tượng xác định. Theo khái niệm này thì tài phán được hiểu bao gồm hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án và hoạt động giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính [66]. Chúng ta thừa nhận cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính bằng thủ tục tố tụng, tuy nhiên không thành lập một hệ thống THC độc lập mà thành lập các THC với tư cách là tòa chuyên trách thuộc hệ thống TAND. Vậy, TTHC là việc giải quyết các KKHC bằng các trình tự, thủ tục tố tụng, được giải quyết bởi THC thuộc hệ thống TAND theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi ngành Luật TTHC. Xét về bản chất, TTHC là một phương thức giải quyết các KKHC, nó tồn tại song song với cơ chế giải quyết các khiếu nại, tố cáo hành chính. So với cơ chế giải quyết các KKHC bằng thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính, TTHC có ưu điểm lớn đó là các khiếu kiện được giải quyết bởi một hệ thống cơ quan chuyên trách độc lập - đó là các THC thuộc TAND. Không những thế, TTHC còn bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án, đây là điều không thể có được khi giải quyết theo TTHC các KKHC. Chính vì vậy, đây là một cơ chế hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi 39 những quyền lợi của họ bị xâm phạm bởi các QĐHC, HVHC của các cơ quan công quyền [125]. Trình tự, thủ tục giải quyết các VAHC được thể hiện ở một số điểm sau đây: Về cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động tố tụng; Về người tham gia tố tụng; Về các hoạt động cụ thể được tiến hành trong hoạt động tố tụng. Thứ năm: Đặc điểm về chủ thể tham gia xét xử các vụ án hành chính Do có những đặc thù về người khởi kiện và người bị kiện trong VAHC, cho nên, trong quá trình giải quyết các VAHC có nhiều nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự vô tư, khách quan của Thẩm phán và Hội thẩm nói riêng cũng như sự độc lập của Tòa án nói chung. Các biểu hiện tác động đến sự khách quan ấy trên thực tế có rất nhiều, phức tạp, đa dạng và xuất phát từ các chủ thể khác nhau, làm cho quá trình giải quyết vụ án thiếu khách quan từ đó các quyền và lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân không được bảo vệ một cách thỏa đáng [41]. Sự tương quan quyền lực giữa chủ thể tham gia xét xử và người bị kiện trong VAHC. Theo quy định của pháp luật thì người ra các QĐHC hay có HVHC đa số là những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước. Theo như các số liệu thống kê, thì đa số các vụ KKHC ở Việt Nam đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cơ quan quản lý HCNN ở địa phương - UBND. Nếu xét về tổ chức trong bộ máy nhà nước, TAND nói chung và THC nói riêng không phụ thuộc nào vào cơ quan HCNN ở địa phương. Tuy nhiên, với vai trò là một cơ quan quản lý HCNN tại địa phương thì thẩm quyền của UBND bao trùm lên rất nhiều mặt, lĩnh vực trong đời sống xã hội tại địa phương. Với vị trí, vai trò to lớn như vậy, cơ quan HCNN ở địa phương có ảnh hưởng lớn lao đến đội ngũ cán bộ công chức nói chung và đội ngũ Thẩm phán, HTND trong địa phương mình nói riêng [54]. Khi người dân khởi kiện yêu cầu hủy bỏ quyết định trái pháp luật của chính quyền địa phương thì việc có Thẩm phán “e ngại”, nể nang, né tránh, không dám ra phán quyết khẳng định tính bất hợp pháp của QĐHC, HVHC là khó tránh khỏi [103]. Về HTND, hiện nay các HTND ở nước ta thường là các cán bộ, công, viên chức của các cơ quan nhà nước hoặc đương chức hoặc đã về hưu, do Mặt trận Tổ quốc giới thiệu nên tính nhân dân cũng ở mức độ nhất định. Vì là cán bộ, công chức và nhiều khi trong số đó là những người chưa được đào tạo chuyên sâu về pháp lý, nên quá trình giải quyết còn mang tính chủ quan và không tránh khỏi “cả nể” các cơ 40 quan nhà nước. Mặt khác, thực tiễn cho thấy quan điểm giải quyết án của HTND chủ yếu dựa vào ý chí của Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa [46]. 2.1.3. Đặc điểm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của TAND cấp tỉnh được thể hiện ở một số lĩnh vực cơ bản sau đây: Thứ nhất: Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hoạt động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh được phản ánh thông qua chất lượng của các bản án, quyết định của Tòa án. Để có được phán quyết Tòa án phải thực hiện một chuỗi hoạt động kế tiếp và có tính logic của HĐXX và các đương sự ...hường bị gây sức ép, thậm chí bị mua chuộc, đe dọa khi thi hành công vụ trong quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử các loại vụ án cần được xem là những điểm đặc thù cần được tính đến khi xử lý các vấn đề có liên quan đến chế độ chính sách và các điều kiện bảo đảm khác đối với Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án. Chỉ khi giải quyết được một cách hài hòa mối quan hệ giữa trách nhiệm nghề nghiệp với quyền lợi được hưởng thì mới có tác dụng tích cực đến hiệu quả và chất lượng công tác của người lao động. Đối với Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án, thời gian qua, chế độ, chính sách kể cả chế độ tiền lương và các điều kiện bảo đảm khác của họ bị cào bằng như đối với cán bộ, công chức nhà nước khác. Do đó, rõ ràng là không tương xứng với tính chất lao động và yêu cầu về trách nhiệm nghề nghiệp của Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án. Vì vậy, đây là vấn đề cần được tiếp tục đặt ra để nghiên cứu, giải quyết trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương cải cách tư pháp nói chung và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Tòa án nói riêng. Vấn đề cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có TAND trong những năm gần đây được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và được coi như là một nội dung của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Vấn đề cần được quan tâm hàng đầu trong việc tăng cường cơ sở vật chất cho ngành Tòa án chính là đầu tư xây dựng cơ bản. Như đã phân tích ở trên về thực trạng cơ sở vật chất của ngành Tòa án hiện nay, các mẫu thiết kế trụ sở TAND các 155 cấp, đặc biệt là của Tòa án cấp huyện, hiện nay không còn phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của hoạt động xét xử đặt ra. Theo yêu cầu của công cuộc đổi mới của đất nước, quá trình cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, việc trang bị cho các Tòa án các phương tiện kỹ thuật phải có tính hiện đại, tính hiệu quả. Trước mắt cần trang bị cho Tòa án các cấp đầy đủ các phương tiện làm việc tối thiểu như: tủ, bàn ghế làm việc, máy vi tính, máy photocopy, máy in, hệ thống loa đài, âmly, micrô, camera giám sát ở hội trường xét xử phục vụ cho công tác xét xử. Theo đó là có kế hoạch nâng cấp công nghệ thông tin để có đủ khả năng xác minh, thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ vụ án. Đồng thời với việc đầu tư mở rộng trụ sở, mua sắm trang thiết bị, TANDTC cần có kế hoạch phân bổ hợp lý kinh phí hoạt động cho các Tòa án. Đối với THC, ngoài các điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc chung, còn cần được cung cấp đầy đủ các loại văn bản quy phạm pháp luật về chuyên môn nghiệp vụ và về quản lý nhà nước chuyên ngành. Theo tác giả, TAND các cấp cần có tủ sách pháp luật và không thể không. Cần nhanh chóng áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý và xét xử của ngành. Vấn đề về chế độ chính sách đối với cán bộ các cơ quan tư pháp nói chung và các cơ quan Tòa án nói riêng, hiện nay đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng chỉ rõ phải “Cải cách cơ bản chế độ tiền lương, nâng cao đời sống người hưởng lương, chống đặc quyền đặc lợi”. Giải pháp cho giai đoạn tới đây TANDTC đã xác định: Đề xuất đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho hệ thống Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó tập trung đổi mới về định mức chi, chế độ chi, chế độ tiền lương, định mức trang cấp phương tiện làm việc và quy mô xây dựng trụ sở nhằm nâng cao điều kiện làm việc, nâng cao đời sống cán bộ, công chức, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội cũng như bắt kịp các nền tư pháp hiện đại của các nước trong khu vực và thế giới. Xây dựng và trình các cơ quan các cơ quan có thẩm quyền xem xét phê duyệt Đề án quy hoạch tổng thể trụ sở Tòa án nhân dân các cấp giai đoạn 2020 - 2030 tầm nhìn 2050 [101]. 156 Tiếp tục nghiên cứu và cải tiến thang lương đối với ngạch Thẩm phán TAND, đặc biệt là đối với Thẩm phán địa phương cho phù hợp, nhằm đảm bảo cho Thẩm phán có thu nhập không chỉ đủ nuôi sống bản thân, mà còn có điều kiện góp phần nuôi dưỡng gia đình. Trước mắt cần điều chỉnh sự cách biệt vô lý giữa mức lương của Thẩm phán các cấp, điều chỉnh tăng hệ số lượng cho Thẩm phán Tòa án; điều chỉnh hệ số lượng cho Thẩm tra viên, chuyên viên, Thư ký Tòa án... Nên quy định phụ cấp lương vượt khung đối với các trường hợp đã hưởng hệ số lượng tối đa, phụ cấp trách nhiệm cho cán bộ ngành Tòa án. Cần có chế độ chính sách ưu đãi để thu hút, động viên những người đến nhận công tác tại các Tòa án vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Chẳng hạn như có chế độ trợ cấp lần đầu ba tháng lương tối thiểu; quy định về thời gian công tác tối thiểu của các cán bộ là người miền xuôi đến công tác tại Tòa án ở các địa bàn trên, để có thể được xem xét việc chuyển vùng công tác; chính sách đào tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho các Tòa án vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Sớm có chính sách, chế độ nhà công vụ cho các Thẩm phán để thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ trong ngành Tòa án theo chủ trương luân chuyển cán bộ của Đảng. 157 KẾT LUẬN Trong cấu trúc quyền lực nhà nước thì hoạt động kiểm soát quyền lực (dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực) là hoạt động tất yếu của bất kỳ bộ máy nhà nước nào. Vấn đề là ở chỗ phương thức kiểm soát, đối trọng thế nào cho hiệu quả là một vấn đề cần được nghiên cứu nghiêm túc, phù hợp với điều kiện của từng quốc gia. Ở nước ta, kể từ thời điểm năm 1996 đến nay chúng ta đã chính thức có cơ chế pháp lý để nhánh quyền lực Tư pháp được kiểm soát (xét xử) hoạt động hành chính nhà nước trên một số lĩnh vực. Cho tới nay thì Tòa án được xét xử cơ bản các hoạt động quản lý hành chính nhà nước trừ một số lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ngoại giao và nội bộ. Xung quanh vấn đề tổ chức và hoạt động của Tòa án có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập dưới nhiều giác độ, phạm vi và cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay ở nước ta chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về vấn đề này. Vì vậy "Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay” là công trình đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ tiến sĩ, có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Luận án đã rút ra một số kết luận sau: Trên thế giới, ở các nước phát triển cũng có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến tổ chức và hoạt động của hệ thống THC, nhất là hệ thống tài phán hành chính ở Cộng hòa Pháp, về cấu trúc hệ thống THC, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền... có nhiều yếu tố phù hợp với điều kiện của nước ta có thể tiếp tục nghiên cứu vận dụng vào Việt Nam. Ở nước ta lý luận về chất lượng xét xử cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, thấu đáo, toàn diện về chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh với những đặc thù riêng biệt như: khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, vai trò, tiêu chí đánh giá, các yếu tố tác động đến chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. Thực trạng về chất lượng xét xử nói chung và chất lượng xét xử các vụ án hành chính nói riêng, luận án đã đề cập và phân tích thực trạng về mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ của TAND cấp tỉnh và THC thuộc TAND cấp tỉnh, đây là yếu 158 tố quan trọng tác động đến chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. Đồng thời, cũng đã phân tích tình hình xét xử, đánh giá chất lượng xét xử bao gồm kết quả xét xử, hạn chế, bất cập về: đạo đức nghề nghiệp; nhận thức pháp luật; kỹ năng áp dụng pháp luật... của Tòa án, nhất là Thẩm phán và HĐXX; xác định các nguyên nhân chủ quan, khách quan của những hạn chế, bất cập trong xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. Trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm, giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh hiện nay. Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh trong những năm qua, trọng tâm là 07 năm gần đây (2011 - 2017), luận án đã xác định các quan điểm bảo đảm chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, đồng thời luận án cũng đưa ra các giải pháp bảo đảm chất lượng xét các VAHC nói chung và chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh nói riêng. Với phạm vi nghiên cứu của đề tài, mặc dù khả năng hiểu biết vẫn còn những hạn chế nhất định, với sự nỗ lực của mình, tác giả cũng đã cố gắng phân tích làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. Đồng thời đưa ra những quan điểm, giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh hiện nay. Hy vọng rằng, các kết quả nghiên cứu của luận án được nhìn từ giác độ của người hoạt động thực tiễn xét xử sẽ có những đóng góp nhất định vào việc nâng cao chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay./. 159 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Thân Quốc Hùng (2015), "Một số ý kiến về thẩm quyền của Tòa án trong xét xử vụ án hành chính", Tạp chí Nghề luật, (6), tr.3-6. 2. Thân Quốc Hùng (2016), "Nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh", Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, (292), tr.46-50. 160 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Bí thư (2011), Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/12/2011 về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay, Hà Nội. 2. Ban Chấp hành Trung ương (2010), Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện Kiểm sát và cơ quan điều tra theo nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Kết luận của Bộ Chính trị số 79-KL/TW, Hà Nội. 3. Nguyễn Thanh Bình (2009), Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tòa án, sự bảo đảm công lý trong quan hệ nhà nước và công dân, NXB Tư pháp. 4. Trương Hoà Bình (2010), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Toà án", tại trang [truy cập ngày 20/10/2017]. 5. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội. 6. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 7. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến 2020, Hà Nội. 8. Bộ Chính trị khóa XI (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc tiếp tục thực hiện Nghị Quyết số 49-NQ/TW, Hà Nội. 9. Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên) (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 10. Bùi Kim Chi (2012), “Ý nghĩa của việc nghiên cứu mô hình nhân cách người Thẩm phán trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục, (29), tr.33-37. 11. Nguyễn Văn Cương, Nguyễn Hữu Xương (2012), Thực trạng và yêu cầu kiện toàn đội ngũ Thẩm phán hành chính ở Việt Nam hiện nay, Hà Nội. 161 12. Nguyễn Mạnh Cường (2002), “Yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (10). 13. Nguyễn Văn Cường (2016), Những điểm mới của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Chánh tòa hành chính Tòa án nhân dân tối cao. 14. Nguyễn Đăng Dung (2009), “Cải cách tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, (25). 15. Hoàng Ngọc Dũng (2015), Giải quyết khiếu nại hành chính trong điều công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 16. Trịnh Hồng Dương (1996), Vị trí, vai trò và chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, Đề tài cấp Nhà nước, mã số 95-98-048/ĐT, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội. 17. Lê Thành Dương (2002), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành trung ương khóa XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Nguyễn Minh Đoan (2004), "Góp phần nhận thức về cải cách tư pháp ở nước ta", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (06), tr.27-31. 22. Nguyễn Thị Hà (2017), Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật Học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 23. Phạm Hồng Hải (2003), "Đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả của hoạt động tư pháp", Tạp chí Luật học, (02), tr.16-19. 24. Lê Thu Hằng (Chủ biên) (2012), Kỹ năng tranh tụng trong vụ án hành chính, Tập bài giảng, Học viện Tư pháp, Hà Nội. 162 25. Nguyễn Thị Tố Hằng (2008), “Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ & pháp luật, (6), tr.37-39. 26. Trần Thu Hạnh (2009), “Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ Thẩm phán trong tố tụng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Khoa học, (32), tr.32-33. 27. Lê Tiến Hào (Chủ nhiệm) (2015), Khiếu nại hành chính và giải quyết khiếu nại hành chính trong quản lý và sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội - thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội. 28. Trần Quang Hiển (2013), Cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 29. Nguyễn Văn Hiện (2001), Cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội. 30. Nguyễn Văn Hiện (2001), "Tiêu chuẩn thẩm phán - Thực trạng và những yêu cầu đặt ra trong thời kỳ mới", Tạp chí Tòa án nhân dân, (04), tr.23-26. 31. Trương Thị Hòa (2004), "Cải cách tư pháp và việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cho các cán bộ tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (09), tr.11-15. 32. Tô Văn Hòa (2007), Tính độc lập của Tòa án, NXB Lao động, Hà Nội. 33. Vũ Thị Hòa (2015), Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử các vụ án Hành chính ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 34. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2011), Nghị quyết số 01/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 56/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội về “thi hành luật tố tụng hành chính năm 2010, Hà Nội. 35. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2011), Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 về hướng dẫn thi hành một số quy định của luật tố tụng hành chính năm 2010, Hà Nội. 163 36. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2015), Nghị quyết 01/2015/NQ-HĐTP ngày 15/01/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn thi hành một số quy định của luật tố tụng hành chính”, Hà Nội. 37. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao (2015), Nghị quyết số 04/2015/NQ-HĐTP ngày 24/12/2015 hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật về xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại tòa án nhân dân, Hà Nội. 38. Nguyễn Cảnh Hợp, Thực trạng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò tài phán hành chính của Tòa án nhân dân, Hà Nội. 39. Phạm Văn Hùng (2006), “Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (135). 40. Nguyễn Thị Thu Hương (2009), Đào tạo Thẩm phán của Học viện Tư pháp theo yêu cầu của cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 41. Nguyễn Thị Thu Hương (Chủ biên) (2012), Kỹ năng giải quyết các vụ án hành chính, Giáo trình của Học viện Tư pháp, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 42. Nguyễn Thị Thu Hương (Chủ nhiệm) (2013), Áp dụng án lệ tại Việt nam và giải pháp phát triển hoàn thiện chương trình đào tạo các chức danh Tư pháp tại Học viện Tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, mã số: 09/2013/NCKH, Hà Nội. 43. Nguyễn Thị Thu Hương (Chủ biên) (2014), Giáo trình Kỹ năng giải quyết các vụ án hành chính, Học viện Tư pháp, Hà Nội. 44. Josef Thesing (2002), Sách tham khảo trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới, Sách tham khảo Nhà nước pháp quyền, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 164 45. Dương Thị Khảm (2000), "Niềm tin nội tâm của người thẩm phán", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (01), tr.10-13. 46. Vũ Gia Lâm (2009), “Đổi mới chế độ Thẩm phán - Hội thẩm Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (21), tr.20-24. 47. Trần Thị Lâm (2015), Pháp luật về căn cứ thụ lý vụ án hành chính ở Việt nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội, Hà Nội. 48. Nguyễn Mạnh Lân (2007), Xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 49. Trần Kim Liễu (2011), Tòa hành chính trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 50. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, Đại học Luật Hà Nội 51. Nguyễn Tường Linh (2009), Hoàn thiện pháp luật về quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 52. Nguyễn Tường Linh (2012), Nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành Tòa án nhân dân, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội. 53. Nguyễn Thắng Lợi (2011), "Bàn về một số đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính tại Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về luật tố tụng hành chính, tr.105-114. 54. Nguyễn Thắng Lợi (2014), “Giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (10), tr.39-45. 55. Nguyễn Thắng Lợi (2015), Giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai ở nước ta hiện nay, Đề tài, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam. 165 56. Phạm Văn Lợi (1997), Hệ thống Tòa án Việt Nam - những phương hướng chính của việc hoàn thiện, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 57. Phạm Văn Lợi (2001), Những vấn đề lý luận và thực tiễn góp phần xây dựng quy chế thẩm phán, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Hà Nội. 58. Uông Chu Lưu (Chủ nhiệm) và các cộng sự (2006), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của, do dân, vì dân, Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số: KX 04.06. 59. Dương Thanh Mai (2002), Quy chế thẩm phán trong pháp luật của một số nước, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Đề tài khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội. 60. Hồ Chí Minh (1976), Về đạo đức cách mạng, NXB Sự thật, Hà Nội. 61. Đinh Văn Minh (2001), Tài phán hành chính ở một số nước trên thế giới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 62. Cao Thị Nga (2014), Văn hóa pháp luật của Thẩm phán trong lĩnh vực Tố tụng hành chính, Luận văn tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm hoa học xã hội, Hà Nội. 63. Nguyễn Đức Nguyên (2013), Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân ở tỉnh Nam Định, theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 64. Nguyễn Thị Như (2012), Tòa hành chính - thiết chế cơ bản bảo vệ quyền công dân, Luận văn thạc sĩ Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 65. Nguyễn Như Phát (2004), "Một số ý kiến về cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (03), tr.29-31. 166 66. Nguyễn Như Phát, Nguyễn Thị Việt Hương (Đồng chủ biên) (2010), Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 67. Hoàng Phê (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng. 68. Trần Quốc Phú (2001), “Đối thoại và tổ chức đối thoại trong giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (3), tr.20-23. 69. Đinh Văn Quế (2000), "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân: Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (08), tr.13-16. 70. Hoàng Thị Kim Quế (Chủ nhiệm) (2010), Tài phán hành chính - thể chế bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Đề tài khoa học cấp trọng điểm, mã số: PUF.08.05, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 71. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp năm 1992, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 72. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1999, NXB Tư pháp, Hà Nội. 73. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 74. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 75. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, NXB Tư pháp, Hà Nội. 76. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005, NXB Tư pháp, Hà Nội. 77. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Tố tụng hành chính năm số 64/2010/QH11 ngày 24/11/2010, Hà Nội. 78. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Khiếu nại, Hà Nội. 79. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội. 167 80. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Hiến pháp năm 2013, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 81. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm số 62/2014/QH13, ngày 24/11/2014, Hà Nội. 82. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tố tụng hành chính số 93/2015/QH13, ngày 25/11/2015, Hà Nội. 83. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Nghị quyết 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về thi hành luật tố tụng hành chính năm 2015, Hà Nội. 84. Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KX.04.01, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội. 85. Nguyễn Văn Sản (1996), Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý Thẩm phán Tòa án địa phương, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội. 86. Đặng Thanh Sơn (2011), “Cơ chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề. 87. Bùi Ngọc Sơn (2003), "Sự độc lập của Tòa án trong Nhà nước và pháp quyền", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (03), tr.17-19. 88. Hoàng Thị Sơn (1996), "Tìm hiểu nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", Tạp chí Luật học, (05), tr.36-39. 89. Nguyễn Sơn (2013), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng quy định pháp luật Tố tụng hành chính về thủ tục xét xử sơ thẩm. Đề tài khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội. 90. Nhữ Văn Tâm (2006), Xây dựng đội ngũ Thẩm phán theo hướng nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, liên hệ vào thực tiễn của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 168 91. Trần Thị Tâm (2009), Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán ở ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hiện nay, Luận văn Cử nhân chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 92. Thanh tra Chính phủ (2014), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bằng phương thức giải quyết khiếu nại hành chính, Tài liệu hội thảo chuyên đề. 93. Lê Xuân Thân (2004), Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 94. Lê Minh Thông (Chủ biên) (2001), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 95. Đỗ Gia Thư (2006), Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 96. Nguyễn Thành Thuộc (2010), “Xây dựng đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân cần kiệm liêm chính, chí công vô tư", Tạp chí Toà án nhân dân, (9), tr.39-42. 97. Đào Xuân Tiến (2002), "Đào tạo thẩm phán", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (10), tr.9-12. 98. Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2003), Thông tư số 01/2003/TTLT ngày 01/04/2003 hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, Hà Nội. 99. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo số 48/TC-TK ngày 17/3/2010 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao về việc trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội tại phiên họp lần thứ 29 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hà Nội. 100. Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ (2011), Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-TANDTC-BQP-BNV ngày 20 tháng 10 năm 2011 về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, Hà Nội. 169 101. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết năm 2011, Hà Nội. 102. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết năm 2012, Hà Nội. 103. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Báo cáo số 04/BC- TANDTC tổng kết 3 năm thi hành Luật Tố tụng hành chính, Hà Nội. 104. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Báo cáo tổng kết năm 2013, Hà Nội. 105. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết năm 2014, Hà Nội. 106. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Báo cáo tổng kết năm 2015, Hà Nội. 107. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo tổng kết năm 2016, Hà Nội. 108. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Quyết định số 120/QĐ-TATC ngày 19/6/2017 về việc ban hành quy định xử lý trách nhiệm đối với người giữ chức danh tư pháp trong ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội. 109. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết năm 2017, Hà Nội. 110. Đặng Ngọc Toàn (2010), Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 111. Nguyễn Danh Tú (2013), Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội, Hà Nội. 112. Trần Văn Tú (2004), Đổi mới công tác quản lý, đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương, Kỷ yếu khoa học, Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội. 113. Lê Tuấn Tú (2014), Chất lượng đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân ở tỉnh Tuyên Quang theo yêu cầu cải cách tư pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 114. Nguyễn Minh Tuấn (2003), "Vai trò của thẩm phán trước yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (09), tr.10-13. 115. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 116. Đào Trí Úc (2000), “Quan điểm và những đặc trưng cơ bản của mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (3). 170 117. Đào Trí Úc (2003), “Cải cách tư pháp: ý nghĩa, mục đích và trọng tâm”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (2). 118. Đào Trí Úc (2006), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội. 119. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2005), Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp, hiện đại hóa, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KX.04.02, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội. 120. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2011), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 được sửa đổi bổ sung năm 2011, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 121. Nguyễn Tất Viễn (1991), Cải cách tư pháp, phần: Đổi mới tổ chức, hoạt động của Tòa án, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Hà Nội. 122. Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp, Hà Nội. 123. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (2012), Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01/8/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định của luật tố tụng hành chính về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính, Hà Nội. 124. Nguyễn Cửu Việt (2012), Vấn đề đổi mới hệ thống cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 125. Võ Khánh Vinh (2003), “Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (8).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chat_luong_xet_xu_cac_vu_an_hanh_chinh_cua_toa_an_nh.pdf
Tài liệu liên quan