BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
HOÀNG NGỌC DIỆP
CẤU TẠO VÀ PHƢƠNG THỨC
THỂ HIỆN TIẾNG CƢỜI CỦA TRUYỆN CƢỜI
HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
HOÀNG NGỌC DIỆP
CẤU TẠO VÀ PHƢƠNG THỨC
THỂ HIỆN TIẾNG CƢỜI CỦA TRUYỆN CƢỜI
HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 9220102
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS. TS. ĐỖ THỊ KIM LIÊN
2. TS. NGU
179 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Cấu tạo và phương thức thể hiện tiếng cười của truyện cười hiện đại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UYỄN HOÀI NGUYÊN
NGHỆ AN - 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết
quả nêu trong luận án này chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận án
Hoàng Ngọc Diệp
ii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i
QUY ƢỚC VIẾT TẮT ................................................................................................. iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................................. v
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu ................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 3
5. Đóng góp của luận án ............................................................................................... 4
6. Cấu trúc của luận án ................................................................................................. 4
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
CỦA ĐỀ TÀI .................................................................................................................. 5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 5
1.1.1. Ở nước ngoài .................................................................................................. 5
1.1.2. Ở trong nước ................................................................................................... 8
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài ..................................................................................... 13
1.2.1. Một số vấn đề chung về truyện cười liên quan đến nội dung nghiên cứu .... 13
1.2.2. Một số vấn đề về hội thoại............................................................................ 21
1.2.3. Một số vấn đề về nghĩa và phương tiện từ vựng - ngữ nghĩa thể hiện nghĩa ..... 28
1.2.4. Khái quát về văn bản .................................................................................... 40
1.3. Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 42
Chƣơng 2. CẤU TẠO TRUYỆN CƢỜI HIỆN ĐẠI VIỆT NAM ........................... 44
2.1. Khái niệm và đặc điểm của văn bản truyện cười ................................................ 44
2.1.1. Khái niệm văn bản truyện cười .................................................................... 44
2.1.2. Đặc điểm của văn bản truyện cười ............................................................... 44
2.2. Bố cục của truyện cười hiện đại Việt Nam ......................................................... 45
2.2.1. Tiêu đề .......................................................................................................... 45
2.2.2. Các phần của truyện ..................................................................................... 46
2.2.3. Mối quan hệ giữa tiêu đề và các phần của truyện ........................................ 55
2.3. Đặc điểm lời thoại nhân vật và các đơn vị hội thoại của truyện cười hiện
đại Việt Nam ............................................................................................................... 57
iii
2.3.1. Đặc điểm lời thoại nhân vật của truyện cười hiện đại Việt Nam ................. 57
2.3.2. Đặc điểm các đơn vị hội thoại của truyện cười hiện đại Việt Nam .............. 64
2.3.3. Các dạng hội thoại của văn bản truyện cười hiện đại Việt nam ................... 73
2.4. Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 79
Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC GÂY CƢỜI CỦA TRUYỆN CƢỜI HIỆN ĐẠI
VIỆT NAM ................................................................................................................... 81
3.1. Khái niệm phương thức và phương thức tạo nghĩa gây cười .............................. 81
3.1.1. Khái niệm phương thức ................................................................................ 81
3.1.2. Phương thức tạo nghĩa gây cười ................................................................... 81
3.2. Thống kê và phân tích, mô tả các phương thức tạo nghĩa gây cười trong
truyện cười hiện đại Việt Nam ................................................................................... 82
3.2.1. Thống kê định lượng .................................................................................... 82
3.2.2. Phân tích, mô tả các phương thức tạo nghĩa gây cười trong truyện cười
hiện đại Việt Nam ......................................................................................... 84
3.3. Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 114
Chƣơng 4. ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ - VĂN HOÁ TRONG TRUYỆN CƢỜI
HIỆN ĐẠI VIỆT NAM ............................................................................................. 116
4.1. Khái niệm văn hóa và mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hoá ....................... 116
4.1.1. Khái niệm văn hóa ...................................................................................... 116
4.1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá ..................................................... 117
4.2. Biểu hiện đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá trong truyện cười hiện đại Việt Nam .. 120
4.2.1. Tính “trạng” hóm hỉnh ................................................................................ 120
4.2.2. Tính trí tuệ, uyên bác .................................................................................. 128
4.2.3. Tính mềm mại, uyển chuyển ...................................................................... 136
4.2.4. Tính châm biếm sâu sắc .............................................................................. 142
4.3. Tiểu kết chương 4 .............................................................................................. 147
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ............................................ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 152
TƢ LIỆU TRUYỆN CƢỜI TRÍCH DẪN ............................................................... 163
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
iv
QUY ƢỚC VIẾT TẮT
BTNV : Biểu thức ngữ vi
DT : Danh từ
ĐT : Động từ
ĐTNV : Động từ ngữ vi
HĐ : Hành động
HĐVN : Hiện đại Việt Nam
HSSV : Học sinh, sinh viên
Nxb : Nhà xuất bản
ND : Nội dung
SGK : Sách giáo khoa
SL : Số lượng
Sp : Speaker
ST : Sưu tầm
T1 : Tập 1
T2 : Tập 2
TGĐ : Tiền giả định
TT : Tính từ
TC : Truyện cười
TCDG : Truyện cười dân gian
TCHĐ : Truyện cười hiện đại
TCHĐVN : Truyện cười hiện đại Việt Nam
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Phân biệt văn bản hội thoại với những văn bản khác .............................. 23
Bảng 2.1. Bảng khảo sát số lượng tiếng của tiêu đề................................................. 46
Bảng 2.2. Bảng khảo sát lời tác giả và lời hội thoại trực tiếp .................................. 47
Bảng 2.3. Bảng thống kê lời tác giả ở phần mở đầu ................................................ 48
Bảng 2.4. Bảng thống kê lời hội thoại trực tiếp ở phần mở đầu .............................. 49
Bảng 2.5. Bảng khảo sát phần thân truyện có lời tác giả ......................................... 50
Bảng 2.6. Bảng khảo sát phần thân truyện có lời hội thoại trực tiếp ....................... 52
Bảng 2.7. Bảng khảo sát phần kết thúc truyện có lời tác giả ................................... 54
Bảng 2.8. Bảng khảo sát phần kết thúc có lời hội thoại trực tiếp ............................. 55
Bảng 2.9. Sơ đồ mô hình truyện cười HĐVN .......................................................... 56
Bảng 2.10. Bảng khảo sát số lượng lời thoại nhân vật ............................................... 57
Bảng 2.11. Bảng khảo sát số lượng tiếng (âm tiết) trong lời thoại nhân vật .............. 58
Bảng 2.12. Bảng khảo sát lời thoại sử dụng lớp từ, ngữ mang phong cách sinh
hoạt tự nhiên hàng ngày và lời thoại sử dụng thành ngữ, tục ngữ,
thơ, ca dao ................................................................................................ 61
Bảng 2.13. Bảng khảo sát số lượng lời trao - đáp và các dạng trao - đáp .................. 64
Bảng 2.14. Bảng tổng hợp số lượng cặp thoại có lời thoại trao trần thuật - đáp
trần thuật .................................................................................................. 66
Bảng 2.15. Bảng tổng hợp số lượng cặp thoại có lời thoại trao hỏi - đáp trần thuật ........ 67
Bảng 2.16. Bảng tổng hợp số lượng cặp thoại có lời thoại trao hỏi - đáp hỏi lại ............. 68
Bảng 2.17. Bảng khảo sát số lượng cuộc thoại .......................................................... 69
Bảng 2.18. Bảng khảo sát cuộc thoại có một cặp thoại trao - đáp ............................. 70
Bảng 2.19. Bảng khảo sát cuộc thoại có hai cặp trao - đáp ........................................ 71
Bảng 2.20. Bảng khảo sát cuộc thoại có ba cặp thoại trao - đáp trở lên .................... 72
Bảng 2.21. Bảng khảo sát cuộc thoại dạng song thoại ............................................... 75
Bảng 2.22. Bảng khảo sát cuộc thoại dạng tam thoại ................................................ 76
Bảng 2.23. Bảng khảo sát cuộc thoại dạng đa thoại ................................................... 79
Bảng 3.1. Bảng thống kê các phương thức tạo nghĩa gây cười ................................ 82
Bảng 3.2. Bảng thống kê các phương thức tạo nghĩa gây cười trong 8 tập truyện ............ 83
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Truyện cười Việt Nam (còn gọi là truyện tiếu lâm) là một lĩnh vực truyện
kể dân gian rộng lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng
những danh từ khác nhau như truyện tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện trào phúng,
truyện trạng, giai thoại hài hước. Tiếng cười trong sinh học mang tính bản năng, vô
thức phát ra do phản ứng của cơ thể một cách đơn thuần. Trong khi, tiếng cười tâm lý
xã hội biểu thị thái độ, bộc lộ tư tưởng, tình cảm con người. Thông thường, tiếng cười
tâm lý xã hội có hai loại: tiếng cười tán thưởng và tiếng cười phê phán. Tuy vậy, sau
tất cả, giá trị của nó là phủ nhận cái xấu, cái ti tiện, đáng phê phán, nhằm hướng con
người đến một mục đích sống tốt đẹp hơn, nhân bản hơn. Vì thế, các dân tộc trên thế
giới, trong đó có Việt Nam, thời nào cũng có tiếng cười, truyện cười với ý nghĩa giáo
dục sâu sắc.
1.2. Truyện cười là một thể loại truyện kể dân gian rộng lớn, đa dạng và phức
tạp nhưng cũng hết sức hấp dẫn, thú vị. Tiếng cười trong truyện cười được phát ra từ
cái đáng cười, tức là cái hài, thuộc phạm trù mỹ học, biểu thị tư tưởng, tình cảm, thái
độ của con người trước những sự việc, những hành vi, những cách ứng xử trái tự
nhiên, trái với lẽ sống, bất thường. Thuộc dạng khẩu ngữ, truyện cười thường ngắn
gọn, có kết cấu khá chặt chẽ, chủ yếu bao gồm các cặp thoại trao đáp của các nhân vật.
Theo thời gian, những truyện cười đặc sắc được lưu truyền và phổ biến thường được
một số tác giả sưu tầm, biên soạn và xuất bản thành sách. Đối với truyện cười Việt
Nam, có thể chia thành hai giai đoạn: truyện cười dân gian và truyện cười hiện đại.
Truyện cười dân gian ra đời từ lâu, được công nhận là một thể loại truyện kể và là một
bộ phận của văn học dân gian. Còn truyện cười hiện đại mới xuất hiện gần đây, gắn
với thời đại chúng ta đang sống. Nếu như truyện cười dân gian được đưa vào giảng
dạy trong nhà trường và được nghiên cứu khá đầy đủ thì truyện cười hiện đại, cho đến
nay, vẫn là mảnh đất trống; do đó, rất cần những công trình nghiên cứu góp phần xác
định vị trí, vai trò và giá trị của truyện cười HĐVN.
1.3. So với truyện cười dân gian, truyện cười hiện đại có nhiều điểm khác biệt
về cách tổ chức văn bản, về cấu tạo văn bản, về lời thoại của các nhân vật, về sự tương
tác trong các cặp thoại và liên kết các giữa các cặp thoại thành điểm chốt, nút thắt để
tạo tiếng cười, về sự đa dạng và độc đáo trong việc sử dụng các phương thức gây
cười,Bên cạnh đó, ngày nay việc xem xét ý nghĩa của tiếng cười luôn gắn với ngữ
cảnh, với quan hệ liên nhân giữa các vai giao tiếp và đối chiếu với hàm ý mà người nói
2
muốn hướng đến người nghe, Hệ quả là tiếng cười, phương thức gây cười và ý
nghĩa của nó trong truyện cười HĐVN vừa đa dạng hình thức nhưng cũng rất thâm
trầm, sâu sắc, đậm đà bản sắc dân tộc. Qua truyện cười HĐVN, những nét đặc trưng
ngôn ngữ - văn hóa được thể hiện đậm nét hơn, rỏ ràng hơn.
Từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu cho luận án là “Cấu
tạo và phương thức thể hiện tiếng cười của truyện cười hiện đại Việt Nam”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, chỉ ra cơ chế cấu tạo, các phương thức gây cười hấp dẫn, sinh động
tác động đến người nghe (người tiếp nhận) của truyện cười HĐVN. Thông qua đó,
luận án giúp người nghe biết cách tiếp nhận và tạo lập truyện cười một cách có văn
hóa, có giá trị giáo dục; góp phần xác định vị trí, vai trò và giá trị của truyện cười hiện
đại trong nguồn mạch phát triển nền văn hoá của người Việt; góp phần vào nghiên cứu
ngôn ngữ văn bản và ngôn ngữ hội thoại của nhân vật dưới góc nhìn ngữ dụng học.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài hướng đến thực hiện các nhiệm vụ chính sau đây:
- Tổng quan tình hình hình nghiên cứu của các tác giả ngoài nước và trong nước
về truyện cười (TCDG và TCHĐ); thực hiện xác lập cơ sở lí thuyết của đề tài.
- Miêu tả và phân tích đặc điểm cấu tạo của truyện cười HĐVN, chỉ rõ cách tổ
chức lời thoại, cặp thoại, cuộc thoại, tham thoại gắn với ngữ cảnh để tạo ra điểm chốt,
nút thắt gây cười trong truyện cười HĐVN.
- Tiến hành phân tích, mô tả và lý giải các phương thức thể hiện tiếng cười và
hiệu quả của tiếng cười trong truyện cười HĐVN.
- Bước đầu xác định những nét đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá Việt được phản
ánh trong truyện cười HĐVN.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là truyện cười HĐVN - cách tạo lập tiếng
cười trong truyện cười. Luận án xác định, phân tích cấu tạo của truyện cười từ góc
nhìn hội thoại, xác định cái chốt, nút thắt tạo tiếng cười, ngữ nghĩa và phương thức thể
hiện tiếng cười trong truyện cười HĐVN qua các cặp thoại trao - đáp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, qua thống kê, truyện cười HĐVN có tác phẩm và truyền miệng khá
đa dạng. Ngay trong cùng một tập cũng thiếu thống nhất, thiếu chọn lọc về chủ đề, về
mục đích, về sự pha trộn truyện nước ngoài, về thời gian của các truyện... Vì vậy, luận
3
án chúng tôi đã có sàng lọc, chọn lựa chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu với tư liệu 1045
truyện để tìm hiểu cấu tạo của truyện cười HĐVN, các phương thức thể hiện tiếng
cười và đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa Việt của truyện cười HĐVN.
3.3. Nguồn ngữ liệu nghiên cứu
Nguồn ngữ liệu được sử dụng trong luận án là 1045 truyện cười hiện đại. Tư
liệu được thu thập từ hai nguồn: 1/ Những truyện cười sưu tầm từ điều tra điền dã,
gồm 51 truyện (xem Phụ lục); 2/ Những truyện cười của các tác giả sưu tầm, biện soạn
và đã xuất bản thành sách, gồm 994 truyện; chúng tôi chọn từ:
- Đức Anh (2014), Truyện cười Học sinh, sinh viên, tập 1, Nxb Văn hóa thông
tin, H.
- Đức Anh (2014), Truyện cười Học sinh, sinh viên, tập 2, Nxb Văn hóa thông
tin, H.
- Đức Anh (2012), 101 truyện cười nghề nghiệp, Nxb Hồng Đức, H.
- Việt Hùng (2014), Vợ chồng cùng cười, Nxb Văn hóa thông tin, H.
- Thu Hương (2012), 330 truyện cười đặc sắc, Nxb Văn hóa thông tin, H.
- Phương Lan (2012), Truyện cười giao thông, Nxb Thời đại, H.
- Cát Linh (2012), Truyện cười pháp luật, Nxb Thời đại, H.
Những truyện cười nước ngoài chúng tôi dùng để trích dẫn và so sánh với
truyện cười HĐVN được chọn từ:
- Vân Anh (2017), Truyện cười thế giới, tập 1 & 2, Nxb Dân trí, H.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai nội dung của đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên
cứu chính dưới đây:
- Phương pháp điều tra điền dã
Chúng tôi tiến hành thu thập ngữ liệu bằng hai cách: 1/ Thực hiện ghi chép trực
tiếp các truyện cười kể cho nhau nghe trong cuộc sinh hoạt hàng ngày; 2/ Tham khảo,
tuyển chọn những truyện cười hay trong sách vở và trên một số báo.
- Phương pháp thống kê
Cùng với phương pháp điều tra điền dã, chúng tôi còn sử dụng phương pháp thống
kê truyện cười HĐVN từ các sách đã được xuất bản, phát hành. Các truyện cười được
thống kê phân loại theo các chủ đề, sau đó tuyển chọn những truyện cười tiêu biểu.
- Phương pháp miêu tả
Chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả khi xem xét đặc điểm cấu tạo truyện
cười hiện đại; tập trung làm nổi rõ tương tác giữa các cặp thoại, cách liên kết các cặp
thoại gắn với ngữ cảnh để tạo điểm chốt gây cười.
4
- Phương pháp phân tích diễn ngôn
Phương pháp phân tích diễn ngôn được sử dụng trong phân tích ngữ liệu, gồm
các đơn vị từ lớn đến nhỏ: cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại, tham thoại, để làm sáng
tỏ cách thức cấu tạo, các phương thức gây cười và những nét đặc trưng ngôn ngữ - văn
hoá trong truyện cười HĐVN.
Bên cạnh các phương pháp trên, luận án còn sử dụng các thủ pháp mô hình hoá,
thủ pháp so sánh để giải quyết các nhiệm vụ của luận án.
5. Đóng góp của luận án
5.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án là công trình nghiên cứu truyện cười HĐVN một cách hệ thống dưới góc
nhìn lý thuyết hội thoại của Ngữ dụng học. Các kết quả của luận án góp phần bổ sung lý
thuyết hội thoại và định hướng trong việc tạo lập, tiếp nhận truyện cười ở góc độ ngôn
ngữ học.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án là tài liệu để tham khảo, tư liệu để trích dẫn, dẫn chứng cho việc nghiên
cứu, giảng dạy học phần ngữ dụng học (phần ngôn ngữ hội thoại) ở bậc đại học và phần
nghĩa hàm ngôn ở trường phổ thông. Từ việc chỉ ra đặc điểm cấu tạo của truyện cười
HĐVN, xác lập các phương thức gây cười và ý nghĩa của tiếng cười cùng với những nét
đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá Việt trong truyện cười HĐVN, luận án bước đầu khẳng
định vị trí, vai trò và những giá trị của truyện cười HĐVN trong tiến trình phát triển nền
văn hoá của người Việt.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận án
được triển khai thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài
Chương 2. Cấu tạo của truyện cười hiện đại Việt Nam
Chương 3. Phương thức gây cười của truyện cười hiện đại Việt Nam
Chương 4. Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá trong truyện cười hiện đại Việt Nam
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Ở nước ngoài
Các nhà nghiên cứu ở Âu - Mỹ đã quan tâm đến truyện cười từ cuối thế kỉ XIX
và phát triển vào giai đoạn cuối thế kỉ XX. Từ thế kỉ XIX, một số nhà mỹ học có nhiều
công lao trong việc chỉ ra thủ pháp tạo xung đột - yếu tố cơ bản tạo nên cái hài, như:
Emanuen Căng (1724 - 1804) đã khẳng định: “Cái hài nằm ở mâu thuẫn giữa cái nhỏ
nhen và cái cao thượng”.
Sang thế kỉ XX, ngay từ năm 1951, tác giả D. H. Monro trong cuốn Argument
of laughter (Lập luận của tiếng cười), Nxb Đại học Men buốc [178] đã quan tâm đến
lập luận để tạo tiếng cười trong lời nói. Người phương Tây chú ý đến nền kinh tế buôn
bán hàng hóa từ rất sớm nên họ đã chú trọng đến cách diễn đạt tạo lập luận cho có
logic, hệ thống. Từ đó, họ đã quan tâm đến lập luận trong việc tạo ra tiếng cười.
Cuối thế kỉ XX, với sự phát triển về kinh tế, công nghệ, khoa học tự nhiên và xã
hội, giao thoa văn hóa, việc nghiên cứu truyện cười được nhiều tác giả quan tâm
hơn. Năm 1987, W. Chafe, nhà khoa học hành vi Mỹ, đã công bố công trình Humor as
a disabling mechanism (Hài hước như một cơ chế/ thủ pháp vô hiệu hóa) [151, tr.16-
25]. Tác giả cho rằng khi nói năng, người nói có thể cấu tạo truyện cười theo dạng
“không chịu trách nhiệm về mình” đã vô hiệụ hóa quan hệ giữa mình với người nghe,
rằng “tôi không nói như vậy mà là do anh suy ra”. Theo mạch phát triển về hướng này,
năm 2007, tác giả W. Chafe (2007) lại cho ra đời cuốn The importance of not being
earnest: The feeling behind laughter and humor (Tầm quan trọng của việc thiếu
nghiêm túc: cảm giác đằng sau tiếng cười và sự hài hước) [152] cũng đã đề cập đến
tính bất thường - cái chốt để tạo nên tiếng cười.
Năm 1990, tác giả C. Davies đã công bố cuốn Ethnic humor around the world:
A comparative analysis (Hài hước thuộc mỗi dân tộc trên toàn thế giới: phân tích so
sánh) do nhà xuất bản Đại học Indiana phát hành [155]. Trong công trình này, tác giả
đi sâu nghiên cứu truyện cười của nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới và nhận thấy,
giữa các truyện cười thuộc các dân tộc khác nhau đó, chúng có những đặc điểm chung
(về quy tắc cấu tạo, về cái chốt ngữ nghĩa tạo tiếng cười) nhưng vẫn có những đặc
điểm riêng, khác biệt tùy thuộc vào văn hóa, đặc trưng tư duy, tính biểu trưng của mỗi
dân tộc. Có những truyện cười, khi đọc lên, người đọc cười và khẳng định đây không
6
phải là truyện cười xuất xứ từ Việt Nam, vì qui chiếu với văn hóa Việt thì chúng không
diễn ra như vậy. Ví dụ:
Một người đàn bà ngồi trên một chiếc ghế đá ở công viên và một con chó thân
dài nằm đối diện với chiếc ghé. Một người đàn ông tiến đến và ngồi xuống ghế.
Người đàn ông: - Chó nhà bà có cắn không nhỉ?
(Man) (- Does your dog bit?)
Người đàn bà: - Không, chó của tôi không cắn.
(Woman) (- No)
(Người đàn ông với tay âu yếm con chó. Con chó ngoạm vào tay người đàn
ông)
Người đàn ông: - Thế mà bà bảo chó của bà không cắn?
(Man) (Woman! Hey! You said your dog doesn‟t bit.)
Người đàn bà: - Nó không cắn đâu. Nhưng đây không phải là chó nhà tôi.
(Woman) (He doesn‟t bit. But that‟s not my dog).
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu còn đề cập đến truyện cười dưới những góc
nhìn khác nhau, đó là: ngữ nghĩa, cấu trúc, quan hệ đa chiều.
Từ góc nhìn ngữ nghĩa, chuyên khảo của tác giả V. Raskin (1985) với tên gọi
Semantic mechanisms of humor (Cơ chế tạo nghĩa của sự hài hước) [182]. Ở chuyên
khảo này, tác giả đã đề cập đến các cơ chế tạo nghĩa của truyện cười như hàm ý, nói
quá hay nói ngược. Tiếp đó, năm 2001, tác giả S. Coulson công bố tác phẩm nổi tiếng
Semantic leaps: Frame-shifting and conceptual blending in meaning construction
(Bước chuyển về ngữ nghĩa: Sự chuyển đổi và pha trộn nghĩa trong việc tạo nghĩa), do
Nhà xuất bản Đại học Cambridge phát hành [154]. Hai tác giả này đã nhận ra sự
chuyển đổi về nghĩa trong truyện cười là bước nhảy vọt quan trọng, có giá trị, bởi vì sự
chuyển nghĩa nhờ đặt trong tình huống giao tiếp này mới tạo nên tiếng cười đối với
người đọc.
Từ góc nhìn cấu trúc (hay mô hình của văn bản truyện cười), chúng ta gặp
công trình của hai tác giả W. Ruch và F. J. Hehl (1998), A two-mode model of humor
appreciation: Its relation to aesthetic appreciation and simplicity-complexity of
personality (Mô hình hai phương diện của sự đánh giá hài hước: mối quan hệ của nó
với sự đánh giá về mặt thẩm mỹ và sự đơn giản - phức tạp của tính cách) [185, tr.109-
142]. Trong công trình này, hai tác giả trên đã nói đến những khám phá về đặc điểm
tính cách nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật thông qua cảm xúc hài hước.
Từ góc nhìn quan hệ đa chiều, E. Oring (1992) với cuốn Jokes and their
relations (Tiếng cười và những mối quan hệ của chúng), do Nhà xuất bản Đại học
7
Kentucky phát hành [180]; tác giả đã bàn về mối quan hệ giữa truyện cười với tâm lý
con người trong xã hội, để qua đó rút ra sự mỉa mai, diễu nhại, sự chê bai qua tiếng
cười một cách thâm thúy, sâu cay. Cũng theo hướng tiếp cận này, đó là công trình của
C. Davies (1998), Jokes and their relation to society (Truyện cười và mối quan hệ của
chúng với xã hội) [156, tr.16].
Từ góc nhìn chung về ngôn ngữ, G. Richie (2004) trong tác phẩm The linguistic
analysis of jokes (Phân tích ngôn ngữ của truyện cười), London [183], khác với những
tác giả đi trước, tác giả đã phân tích phương tiện ngôn ngữ để tạo tiếng cười trong
những truyện cười bằng tiếng Anh, như đồng âm, đa nghĩa, trái nghĩa.
Đặc biệt, các tác giả nghiên cứu văn học dân gian Nga đã đề cập đến truyện
cười từ rất sớm, như V. IA Prôp (1928, 1970). V.V. Vinôgrađôp (1944, 1963), M.V.
Khrapchenko (1970), M.M. Bakhtin (1965), Bêlinxki (1955), Secnưxépxki (1949),
N.I. Crapxốp (1956), V.Guranních (1961),
Tác giả R. Lupxơ đưa ra ý kiến khẳng định “mâu thuẫn giữa cái trọng đại và cái
vô nghĩa là cái cơ sở của hài kịch”; còn tác giả Phờlorenxơ lại cho “cái hài kịch nằm
giữa cái trọng đại có giá trị và cái huênh hoang tự cho là cái có giá trị” /Dẫn theo Đỗ
Văn Khang [51, tr.62]/. Nhà phê bình Nga Bêlinxki cho rằng “hài kịch là hoa của văn
minh, là quả của dư luận xã hội đã phát triển”. Còn Secnưxépxki thì viết “Khi chế diễu
cái xấu, chúng ta trở nên cao hơn nó” /Dẫn theo Nguyễn An Tiêm, [116, tr.19]/. Như
vậy, ý kiến của cả hai nhà văn Nga đều khẳng định vai trò, tác dụng hết sức quan trọng
của truyện cười trong xã hội phát triển. Xét cho cùng, truyện cười được xây dựng dựa
trên lời của ít nhất là hai nhân vật, tạo nên câu hỏi để người nghe hồi đáp lại lời của
nhân vật trao; hai nhân vật này tồn tại trong cuộc sống hàng ngày, nhưng đi vào tác
phẩm lại do người xây dựng tạo nên. Ngay đối với văn bản nghệ thuật cũng luôn dùng
đến nghệ thuật hỏi đáp. Bêlinxki đưa ra kết luận quan trọng: "Tác phẩm nghệ thuật sẽ
chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau
hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu
hỏi đó” /Dẫn theo Nguyễn An Tiêm [116, tr.88]/,
Nhà văn G.Gogol thì khẳng định vai trò của tiếng cười trong xã hội: “Không!
Tiếng cười có ý nghĩa sâu sắc hơn người ta lầm tưởng. Đây không phải là tiếng cười
nảy sinh do một sự bực dọc nhất thời, do tính chất nóng nảy và bệnh hoạn, cũng không
phải là tiếng cười tiêu khiển, nhàn tản, mua vui của một hạng người nào đó. Đấy là
tiếng cười vỗ cánh bay hoàn toàn xuất phát từ bản chất trong sáng của con người. Vỗ
cánh bay, vì nó là ngọn nguồn vĩnh viễn phong phú của tiếng cười, vì tiếng cười này đi
sâu vào đối tượng, buộc những gì lẽ ra thường chỉ lướt nhanh phải hiện lên một cách
rõ rệt, và nếu không có sức mạnh thâm nhập của nó thì những mặt tầm thường và trống
8
rỗng của cuộc sống sẽ không làm con người khiếp sợ đến thế”. /Dẫn theo Đỗ Văn
Khang, [51, tr.21]/. Nhà văn Banzắc cũng cho rằng: “Cười là tinh thần của lòng căm
thù. Cái hài đã xâm nhập vào mặt trái của cuộc sống, phát hiện những gì còn mập mờ
để vạch mặt chỉ tên phanh phui nó” /nt [51, tr.22]/.
1.1.2. Ở trong nước
Ở Việt Nam, có thể chia ra hai hướng chính: Nghiên cứu truyện cười dưới góc
nhìn văn học dân gian và dưới góc nhìn ngôn ngữ học.
a. Dưới góc nhìn văn học dân gian
Trước cách mạng tháng Tám, những nghiên cứu về chuyện cười rất hạn chế.
Trong thời kì này có thể kể đến bài viết của Đặng Thái Mai “Ý nghĩa nhân sinh của
truyện cười nước ta ngày xưa” do Tạp chí Tri Tân xuất bản năm 1943 [72]. Đây là bài
viết về vai trò của truyện cười chứ chưa hề quan tâm đến các phương diện khác của
truyện cười, như thi pháp, cấu tạo, ý nghĩa, phương thức thể hiện văn bản truyện
cười Sau hòa bình 1954, số lượng tác giả công bố bài viết, giáo trình về truyện cười
trong văn học dân gian ngày một nhiều hơn theo thời gian. Năm 1958 có thể kể đến
nhà nghiên cứu văn học dân gian là Văn Tân với Tiếng cười Việt Nam, gồm hai quyển
(quyển thượng, 166 trang, quyển hạ 176 trang) đi vào thống kê sưu tầm truyện cười. Ở
tập I, phần Lời mở đầu, tác giả có nói đến giá trị của truyện cười, chủ yếu là phê phán
thói hư tật xấu, như tính keo kiệt, tính tham ăn, tính khoác lác [100, tr.13].
Năm 1960, nhóm tác giả Nguyễn Hồng Phong, Trương Chính, Đỗ Thiện, Đặng
Việt Thanh, Hoàng Tuấn Phổ công bố cuốn Truyện cười dân gian Việt Nam cũng đã đi
vào sưu tầm tuyển chọn truyện cười dân gian [91]. Theo thời gian, có thể kể đến giáo
trình văn học dân gian của các nhà nghiên cứu, như: Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên
(1973), Văn học dân gian, phần “Truyện cười”, tập 2 [55, tr.187-198], Hoàng Tiến Tựu
(1990), Văn học dân gian Việt Nam, phần Truyện cười [129], nhóm ba tác giả Lê Chí
Quế - Võ Quang Nhơn - Nguyễn Hùng Vĩ (1990) [93] và Vũ Ngọc Khánh (1996) [54]
đều gọi là truyện cười dân gian trong kho tàng truyện cười Việt Nam.
Đặc biệt, năm 1996, với đề tài luận án tiến sĩ Cái hài trong truyện cười dân
gian, Nguyễn An Tiêm đã đi sâu nghiên cứu truyện cười một cách đầy đủ, hệ thống và
phân tích sâu sắc [116]. Chính tác giả đã khẳng định “Truyện cười văn học dân gian
xuất hiện từ rất sớm, có tuổi hàng nghìn năm. Cho đến nay, nó vẫn tươi rói giá trị, vẫn
góp phần giải trí lành mạnh và bồi dưỡng phẩm chất lạc quan cho dân tộc, góp phần
không nhỏ trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc” [116, tr.5]. Trong nội dung luận
án, tác giả đi sâu 6 vấn đề chính về truyện cười: (1) Thi pháp thể hiện cái hài trong
truyện cười dân gian, gồm cái xấu t...].
Hoàng Phê cho rằng cần phân biệt “ý” và “nghĩa”, vì “nghĩa” là nội dung ngữ
nghĩa của từ, ngữ, câu, chỉ làm chức năng định danh, còn “ý” là hiện tượng ngữ nghĩa
khi từ và câu trở thành lời, dùng trong lời nói, thực hiện chức năng thông báo - giao
tiếp [86, tr.29]. Như vậy, từ những năm 1975, Hoàng Phê đã quan tâm đến ngôn ngữ
hội thoại, lời nói. Hoàng Phê viết về vai trò của “ý” như sau: “Ý phức tạp hơn mà cũng
phong phú hơn nghĩa. Nội dung của ý có thể là những điều không diễn đạt trực tiếp mà
là diễn đạt gián tiếp, người nói gợi ra cho người nghe từ một điều diễn đạt trực tiếp
này suy ra mà tự hiểu lấy những gì thật ra người nói muốn nói. Điều diễn đạt gián tiếp
đó thường gọi là hàm ý, ngụ ý”. Như vậy, năm 1975, Hoàng Phê đã nêu rõ “ý” chính là
hàm ngôn (cách gọi của các nhà ngữ dụng) [86].
Nguyễn Hoàng Yến nghiên cứu Hàm ý hội thoại trong truyện cười dân gian
Việt Nam cũng đã quan tâm đến nghĩa hàm ngôn biểu hiện trong lời, tác giả viết: “Phần
nghĩa được diễn đạt bằng câu chữ ít được nhắc đến, trong tiếng Việt thường gọi đó là
phần nghĩa hiển ngôn. Hàm ngôn được quan tâm bởi đằng sau tên gọi đó, qua nhiều
năm, người ta phát hiện ra được những vấn đề khác nhau một cách thú vị, và cũng nhờ
đó, các thuật ngữ trong phạm vi này ngày càng trở nên phân minh” [139, tr.11]. Tìm
hiểu 1045 truyện cười HĐVN, chúng tôi nhận thấy, đa phần nghĩa của truyện cười có
được (để gây cười) đều là nghĩa nhờ suy ý, hay còn gọi là nghĩa hàm ngôn. Chẳng hạn:
Nói thẳng có phải hơn không
Chuyện trò mãi với người yêu bên gốc cây, cô gái muốn được ăn chút gì cho đỡ
đói, bèn gợi ý:
- Anh yêu! kiến bò trong bụng em đây này!
- Chết chửa. Chàng trai hốt hoảng. Thôi ta lại ghế đá ngồi vậy, ở đây chắc có tổ kiến.
Ngồi ghế đá một lúc nàng lại nói:
- Em muốn. ấm bụng một chút!
- Ôi! Anh sơ ý quá để em bị gió lạnh
Buồn thật, cô gái liền chuyển hướng:
- Anh chẳng hiểu gì cả. Em hoa cả mắt rồi!
- À, chắc em không quen với ánh đèn cao áp ấy. Vừa nói chàng trai vừa kéo cô
gái vào bóng tối.
Đến nước này, cô gái đánh liều:
- Anh ạ! Em nhạt mồm nhạt miệng lắm, chỉ muốn
Chưa nghe hết câu, chàng trai như đã hiểu ý vội kéo nàng vào lòng hôn tới tấp.
[IV, tr.52].
21
Ta thấy, cuộc thoại trên tất cả những lời của cô gái đều mang nghĩa hàm ngôn,
với ý “muốn được ăn chút gì cho đỡ đói” nhưng vì tế nhị nên đã sử dụng lời nói hàm
ngôn. Còn chàng trai không hiểu được hàm ý của cô gái, cứ nghĩ “kiến bò trong bụng”
là do ngồi gần tổ kiến, "ấm bụng" là do gió thổi lạnh, "hoa mắt” là do đèn cao áp,
"nhạt mồm nhạt miệng” là nàng muốn "..." nên chàng đã đáp lại bằng những lời hiển
ngôn. Điều đó, làm cuộc hội thoại vận động cho tới khi chàng trai tự ngộ nhận "như đã
hiểu ý" và kết thúc bằng hành động "kéo vội nàng vào lòng hôn tới tấp". Hành động
nhầm lẫn kiểu "như đã hiểu ý" này đã làm cho người đọc, người nghe phải bật cười.
e. Năm là, đích của truyện cười
Bên cạnh hình thức cấu tạo, ý nghĩa của văn bản truyện cười Việt Nam hiện đại,
thì mỗi truyện cười đều có mục đích riêng. Tính hướng đích này làm cho truyện cười
có giá trị khái quát vượt lên tiếng cười thường tình. Nói như nhà văn, nhà nghiên cứu
Gogol: “Không! Tiếng cười có ý nghĩa sâu sắc hơn người ta lầm tưởng. Đây không
phải là tiếng cười nảy sinh do một sự bực dọc nhất thời, do tính chất nóng nảy và bệnh
hoạn, cũng không phải là tiếng cười tiêu khiển, nhàn tản, mua vui của một hạng người
nào đó. Đấy là tiếng cười vỗ cánh bay hoàn toàn xuất phát từ bản chất trong sáng của
con người. Vỗ cánh bay, vì nó là ngọn nguồn vĩnh viễn phong phú của tiếng cười, vì
tiếng cười này đi sâu vào đối tượng, buộc những gì lẽ ra thường chỉ lướt nhanh phải
hiện lên một cách rõ rêt, và nếu không có sức mạnh thâm nhập của nó thì những mặt
tầm thường và trống rỗng của cuộc sống sẽ không làm con người khiếp sợ đến thế”
/Dẫn theo Đỗ Văn Khang, [51, tr.124].
Thật vậy, đích mà truyện cười nói chung và truyện cười Việt Nam hiện đại nói
riêng là vì con người có lương tri trong xã hội. Từ ý nghĩa nhờ suy ý, truyện cười
nhắm đến nhiều đích khác nhau, có khi đồng thời cả hai đích, như nhà ngôn ngữ W.
Ruch và F.J. Hehl (1998) nhận xét: “Truyện cười Hướng đến đích - một mô hình hai
phương diện của sự đánh giá hài hước đó là sự đánh giá về mặt thẩm mỹ cả sự đơn
giản lẫn sự phức tạp của tính cách” [185, tr.109]. Sợi chỉ xuyên suốt thời gian mà bất
cứ thời đại nào cũng cần đến là tiếng cười cất lên để từ chối cái xấu, đê tiện, đề cao cái
cao cả, cái tốt, hành động vì tương lai tươi sáng.
1.2.2. Một số vấn đề về hội thoại
1.2.2.1. Khái niệm hội thoại và văn bản hội thoại
a. Khái niệm hội thoại
Khoảng từ năm 1962 trở lại đây, việc nghiên cứu hội thoại gắn với nhều nội
dung như: ngôn ngữ lời nói, ngữ nghĩa của lời được đặt trong ngữ cảnh để hiểu đúng
(nghĩa tường minh và hàm ẩn), cách sử dụng các dạng hành động ngữ vi... là một
22
mảng đề tài lớn, được nhiều nhà ngôn ngữ học trên thế giới quan tâm, như N.
Chomsky (1962) [153], J.L Austin (1962) [42], G. Yule (1969) [196], O. Ducrot
(1972) [198], A. K.Orechioni (1986) [200] .
Đáng chú ý là những tác giả, tác phẩm tiêu biểu như: J.R Searle (1975), Indirect
Speech Acts [188], H. P. Grice (1975), Logic and Conversation [163], T. A. Dijk (1984),
Dialogue and Cognition [157], J. L. Mey (1993), Pragmatic An introduction [177],
A.Weỉbzbicka (1987), English Act Verbers [194], F. Armengaud (1985), Pragmatics [143],
H.E. Hartruyện cười H & C. Brown (1995), Vocabulary, Semantics and Language
Education [164], F. R. Palmer (1996), Semantics (2nd ed) [181],...
Khi bàn về vấn đề hội thoại, Đỗ Hữu Châu tuy không đưa ra định nghĩa nhưng
ông đã khẳng định: “Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản thường xuyên, phổ biến
của sự hành chức ngôn ngữ. Các hình thức hành chức khác của ngôn ngữ đều được
giải thích dựa vào hình thức hoạt động căn bản này” [14, tr.276].
Hồ Lê thì viết “Phát ngôn hội thoại là kết quả của một hành vi phát ngôn được
kích thích bởi một sự kiện hiện thực (kể cả hội thoại hoặc một xung đột tâm lý của
người phát ngôn), có liên quan đến những người có khả năng trực tiếp tham gia hội
thoại, nó có tác động vào anh ta khiến anh ta phải dùng lời để tác động lại và hướng lời
nói của mình vào những người có khả năng tham gia trực tiếp hội thoại ấy, trên cơ sở
của một kiến thức về cấu trúc câu và về cách xử lí mối quan hệ giữa phát ngôn và ngữ
huống và của một dự cảm về hiệu quả của lời nói ấy đối với người thụ ngôn hội thoại
trực tiếp” [66, tr.180]. Nguyễn Đức Dân (1998) cho rằng “Trong giao tiếp hai chiều,
bên này nói, bên kia nghe và phản ứng trở lại. Lúc đó, vai trò của hai bên thay đổi: bên
nghe lại trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại. Hoạt động
giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất là hội thoại” [27, tr.76].
Nguyễn Thiện Giáp định nghĩa: “Hội thoại là hoạt động giao tiếp phổ biến nhất,
căn bản nhất của con người. Đó là giao tiếp hai chiều, có sự tác động qua lại giữa
người nói và người nghe với sự luân phiên lượt lời”. [36, tr.64].
Theo Đỗ Thị Kim Liên “Hội thoại là một trong những hoạt động ngôn ngữ
thành lời giữa hai hoặc nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ cảnh nhất định mà
giữa họ có sự tương tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi
đến một đích nhất định” [62, tr.18]. Tác giả cũng nói đến các quy tắc hội thoại là
những quy tắc bất thành văn nhưng được xã hội chấp nhận và những người tham gia
hội thoại phải tuân theo khi thực hiện các vận động hội thoại để cuộc thoại diễn ra
như mong muốn.
23
b. Văn bản hội thoại
Hội thoại thể hiện qua truyện cười đã được hình thức hóa ở dạng văn bản. Vì
thế, chúng tôi cho rằng cần phân biệt văn bản hội thoại (gồm cả truyện cười) với
những văn bản khác, như: chính luận, khoa học, báo chí, hành chính - công vụ, thể
hiện ở những điểm sau: (1) Mục đích, mỗi thể loại (chính luận, khoa học, báo chí,)
khác nhau thì gắn với những mục đích riêng, khác nhau; (2). Trọng điểm thông báo,
văn bản hội thoại thường thể hiện ở trọng tâm qua phương tiện từ để hỏi (ai, gì, nào,
sao, vì sao, bao giờ), còn các văn bản khác thì không; (3). Tính liên kết về hình thức
cấu tạo, mỗi loại văn bản có phương tiện liên kết riêng nhưng văn bản hội thoại thường
có sự tỉnh lược nhờ ngữ cảnh để tạo nên sự ngắn gọn, dễ hiểu với người tiếp nhận; (4).
Tính liên kết và thống nhất về nội dung ngữ nghĩa, văn bản hội thoại cũng như các văn
bản khác đều có sự liên kết về ngữ nghĩa nhưng ở văn bản hội thoại, trong một số
trường hợp, có thể không liên kết về nội dung nghĩa tường minh mà là ngầm ẩn nằm ở
bên ngoài câu chữ (tạo sự bất ngờ); (5). Tính dụng học, đối với các văn bản viết khác
(chính luận, khoa học, báo chí, hành chính - công vụ) được thể hiện thường gắn với ý
đồ người viết: diễn thuyết, thuyết phục, chứng minh nhưng chúng không có sự phản
hồi trực tiếp của vai giao tiếp - hồi đáp - như văn bản hội thoại, trái lại, văn bản hội
thoại luôn có sự hồi đáp trực tiếp [xem 62, tr.24 - 30]. Chúng tôi thể hiện sự khác biệt
giữa văn bản hội thoại với các văn bản khác qua bảng 1.1. sau đây:
Bảng 1.1. Phân biệt văn bản hội thoại với những văn bản khác
Văn bản khác
Văn bản
Văn bản (chính luận, khoa
Đặc điểm học, báo chí, hành
hội thoại
chính - công vụ)
1. Tính mục đích + +
2. Trọng điểm thông báo + -
+ +
3. Tính liên kết về hình thức - cấu tạo
-
+ +
4. Tính liên kết và thống nhất về nội dung ngữ nghĩa
-
5. Tính dụng học (liên quan đến tính tình thái) + +
1.2.2.2. Các nhân tố chi phối hội thoại
a. Vai giao tiếp và cách sử dụng từ xưng hô
Nhân vật đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong hội thoại. Để có được
hội thoại thì phải có ít nhất là hai nhân vật trở lên với hai tư cách: chủ thể đánh giá chủ
24
quan hành vi giao tiếp cụ thể để lựa chọn phương tiện ngôn ngữ tương ứng và chủ thể
chủ động gây nên hoặc tiếp nhận hành vi giao tiếp với những thái độ khác nhau.
Vai giao tiếp là những người tham gia vào quá trình giao tiếp sử dụng ngôn ngữ
để tạo ra lời nói. Quan hệ vai giao tiếp là quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp đối với
chính sự phát ra phát ngôn và tiếp nhận phát ngôn trong quá trình hội thoại. Trong một
cuộc giao tiếp, các nhân vật giao tiếp được chia thành hai phía tương ứng với hai vai:
vai phát (kí hiệu là Sp1- Speaker 1) và vai nhận (kí hiệu là Sp2 - Speaker 2). Hai vai
này thường luân chuyển cho nhau, khi Sp1 nói xong thì Sp2 trả lời và khi trả lời đến
lượt mình, Sp2 lại trở thành Sp1, hai vai cứ luân phiên như vậy cho đến khi kết thúc.
Vai nói và vai nghe trong một cuộc giao tiếp đôi khi không đơn giản.
Theo Hữu Đạt, “Trong hoạt động giao tiếp hằng ngày bao giờ cũng có người
nói và người nghe. Như vậy, bất cứ người nào khi tham gia giao tiếp cũng phải ở một
trong hai cương vị đó. Mỗi cương vị như vậy người ta gọi là vai giao tiếp” [31, tr.116].
Trong hội thoại nói chung và trong truyện cười HĐVN nói riêng, vai giao tiếp
thường sử dụng từ xưng hô thể hiện thành cặp tương tác, hô ứng thông qua chủ đề do
nhà sưu tầm hay người kể chuyện thuật lại, như: chủ đề về học sinh - sinh viên thì cặp
từ xưng hô được dùng, như: cả hai cùng dùng tên riêng với nhau, hoặc tớ, mình/cậu;
giữa thầy giáo - sinh viên thì dùng cặp xưng hô thầy, cô, tôi /em, trò; chủ đề về người
lính thì dùng cặp từ xưng hô theo thứ bậc, chức vụ cá nhân: tôi/ thủ trưởng, đại đội
trưởng, đại đội phó, tiểu đội trưởng, đồng chí; chủ đề về vợ chồng trong gia đình thì
thường dùng cặp từ xưng hô liên quan đến tuổi tác, tình cảm giữa hai người hiện tại:
anh/ em; tôi/ mình, vợ; ông/ bà; chủ đề về giao thông vận tải, thì thường dùng cặp từ
xưng hô liên quan đến chức vụ của người giám sát giao thông tôi/đồng chí, anh, chị,
cô, bác, cụ, bà, cháu; chủ đề về y tế lại thường dùng từ xưng hô liên quan đến người
khám bệnh và bệnh nhân: tôi, con cháu, bệnh nhân/bác sỹ, y sỹ, y tá, hộ lý, cô, chủ đề
về pháp luật lại thường dùng cặp từ liên quan đến người nắm quyền lực khi xử án, xét
xử với người vi phạm, tội phạm, người mắc lỗi: tôi, chúng tôi/ông thanh tra, ông
chánh án, ông, quan tòa.
b. Các đơn vị hội thoại
Các đơn vị hội thoại tính từ nhỏ đến lớn gồm: hành động nói, tham thoại, cặp
thoại (cặp trao đáp), đoạn thoại, cuộc thoại.
b1. Hành động ngôn ngữ
Hành động ngôn ngữ (Speech act) được Đỗ Hữu Châu gọi là hành vi ngôn ngữ
là một loại hành động đặc biệt có phương tiện sử dụng là ngôn ngữ [14, tr.88]. Xét
25
trong hội thoại, thì các hành động ngôn ngữ có thể chia thành hai nhóm: những hành
động có hiệu lực ở lời (Illocutionary act) và những hành động xuyên lời
(Perlocutionary act). Hành động có hiệu lực ở lời có nghĩa là nó có hiệu lực làm thay
đổi quyền lực và trách nhiệm của người hội thoại. Ví dụ, khi thực hiện một hành động
có hiệu lực ở lời là hỏi, thì hiệu lực của nó là sẽ gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương
đương với nó ở người nhận: là hành động trả lời. Đây là cặp thoại chứa hành động mà
chúng ta thường gặp và đi sâu phân tích trong truyện cười. Còn hành động xuyên lời là
hành động gây hiệu lực không đồng nhất ở những người nghe khác nhau nên chúng tôi
không đi sâu.
b2. Tham thoại
Đỗ Hữu Châu quan niệm: “Tham thoại là phần đóng góp của từng nhân vật hội
thoại vào một cặp thoại nhất định” [17, tr.316]. Đồng thời, ông phân biệt cặp thoại và
lượt lời ở chỗ: “Chuỗi đơn vị ngôn ngữ được một nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc
bắt đầu đến lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói chuỗi của mình là một lượt
lời” [17, tr.205] và “Một lượt lời có thể nhiều tham thoại”.
Ví dụ: Áo bác có
Sp1: Này, bác Văn, bác
Sp2: Sao, anh có chuyện gì cần nói ngay với tôi à, đứng đây có tiện không, tôi
có làm phiền anh không?
Sp1: Áo bác có có con rết đang bò
Một lượt lời của của Sp1 bị chia tách thành hai tham thoại, do bị cắt ngang bởi
người nghe Sp2, chúng tạo nên tiếng cười, vì người nghe hỏi lại quá dài khi cần thiết
phải hành động là hất con rết đi chứ không phải nói dài.
b3. Cặp thoại
Cũng theo tác giả Đỗ Hữu Châu, cặp thoại hay cặp trao - đáp (exchange) là đơn
vị lưỡng thoại nhỏ nhất của cuộc thoại do các tham thoại tạo nên” [17, tr.320]. Còn Đỗ
Thị Kim Liên cho rằng: “Cặp thoại là đơn vị lưỡng thoại tối thiểu, cũng tức là cặp
thoại kế cận, gồm hành vi dẫn nhập và hành vi hồi đáp.” [62, tr.231]. Theo Nguyễn
Đức Dân, “hai lượt lời liên quan trực tiếp với nhau và đứng kề nhau tạo nên một cặp
thoại.” [27, tr.70]
b4. Đoạn thoại
Đoạn thoại là do một số cặp thoại liên kết với nhau có chung một đề tài và một
đích hướng đến. Một cuộc thoại có thể bao gồm nhiều đoạn thoại. Đối với những cuộc
26
thoại có tính nghi thức và chuẩn mực thì mỗi cuộc thoại thông thường có trên ba đoạn
thoại: đoạn thoại mở đầu (mở thoại), đoạn thoại thân cuộc thoại (thân thoại), đoạn
thoại kết thúc (kết thoại). Đoạn mở thoại thường có tính công thức với mục đích tạo
lập là cơ bản. Ở phần thân thoại, có thể một hoặc bao gồm nhiều đoạn thoại có sự
thống nhất về chủ đề, nội dung. Đoạn kết thoại nhằm mục đích kết luận một vấn đề
nào đó hoặc là tổng kết cuộc thoại. Xét về mặt hình thức, đoạn mở và kết thoại tương
đối ổn định và dễ nhận biết hơn các đoạn thoại ở phần thân thoại.
b5. Cuộc thoại: Theo Đỗ Hữu Châu, “Cuộc thoại là đơn vị hội thoại lớn nhất,
bao trùm nhất được xác định theo các tiêu chí về:
- Nhân vật hội thoại.
- Thời gian và địa điểm hội thoại.
- Chủ đề hội thoại.
- Các dấu hiệu định ranh giới như: mở đầu, kết thúc.
Để có một và chỉ một cuộc thoại, điều kiện cần và đủ là có một nhóm nhân vật
có thể thay đổi nhưng không đứt quãng trong một khung thời gian - không gian có thể
thay đổi nhưng không đứt quãng nói về một vấn đề có thể thay đổi nhưng không đứt
quãng. Cấu trúc tổng quát của một cuộc thoại có thể là: Đoạn mở thoại, Thân cuộc
thoại, Đoạn thoại kết thúc” [17, tr.299]. Ví dụ:
Bệnh đãng trí
Một người đi gặp bác sĩ để khám sức khỏe định kỳ. Ông bác sĩ hỏi:
Sp1: - Sức khỏe của ông vẫn bình thường chứ?
Sp2: - Nói thật với bác sĩ là tôi dường như bị mắc bệnh đãng trí thì phải. Tôi
không bao giờ chắc chắn được là mình đã đậu xe ở đâu, hoặc đã trả lời thư
chưa, tôi luôn tự hỏi mình đang đi đến đâu và sẽ làm gì khi đến nơi đó. Vì thế,
tôi rất cần sự giúp đỡ của ông, bác sĩ ạ.
Ông bác sĩ trầm ngâm một lát rồi nhẹ nhàng bảo:
Sp1: - Anh đã sẵn sàng chữa bệnh từ hôm nay rồi chứ?
Sp2: - Thưa vâng.
Sp1: - Thế thì ông trả tiền khám bệnh cho tôi trước đi!!! [ III, tr.33]
Các đơn vị từ lớn đến nhỏ của cuộc thoại - Truyện cười Bệnh đãng trí gồm có:
(i) Cuộc thoại (gồm tiêu đề Bệnh đãng trí mang tính chủ hướng và ba đoạn
thoại chính.
(ii) Đoạn thoại, gồm 3 đoạn:
- Mở thoại (Một người hỏi)
27
- Thân thoại: gồm hai cặp thoại (lời nhân vật Sp1, Sp2 xuất hiện hai lần). Trong
mỗi cặp thoại (trong truyện cười trên có 2 cặp thoại) lại có 2 tham thoại, đó là tham
thoại trao (chứa hành đông hỏi) và tham thoại đáp chứa hành động hồi đáp - trả lời
hướng đến tham thoại trao, chúng thường ngắn gọn).
- Kết thoại: chỉ có 1 tham thoại chứa HĐ cầu khiến của Bác sĩ (Thế thì ông trả
tiền khám bệnh cho tôi trước đi!) là “câu chốt” để gây cười xét trong sự liên kết với
những cặp thoại đi trước.
(iii) Cặp thoại: gồm hai cặp thoại (nằm ở phần thân thoại)
(iiii) Tham thoại: gồm lời của các vai giao tiếp Sp1, Sp2 (4 tham thoại cho 2 lần
nói của mỗi cá nhân).
(iiiii) Hành động: Bốn tham thoại chứa bốn HĐ, trong số đó có hai HĐ hỏi
(không chứa động từ ngữ vi hỏi) nhưng có TTTT chứ kèm dấu chấm hỏi cuối tham
thoại) và hai HĐ giải trình hồi đáp, hướng đến trọng tâm thông báo ở HĐ hỏi.
1.2.2.3. Cặp thoại trao - đáp chứa hành động hỏi ở tham thoại trao và hành
động tương tác ở tham thoại hồi đáp trong hội thoại
Lâu nay, cùng với sự ra đời của ngữ pháp chức năng và dụng học, nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm đến câu hỏi - câu đáp (hay phát ngôn hỏi, phát ngôn đáp), trong
số đó có thể kể đến Lê Đông với luận án Tiến sỹ (1996) chỉ nghiên cứu sâu về phát
ngôn hỏi dưới tiêu đề Ngữ nghĩa - ngữ dụng phát ngôn hỏi chính danh [34]. Cùng đó,
tác giả có một số bài viết về câu hỏi - câu đáp trong giao tiếp, như: “Câu trả lời và câu
đáp của câu hỏi” [32, tr.23] và “Vai trò của TGĐ trong cấu trúc ngữ nghĩa - ngữ dụng
của câu hỏi” [33, tr.41]. Tiếp sau, một số luận văn, luận án đã đi vào nghiên cứu hành
động hỏi và trả lời trong truyện ngắn và tiểu thuyết.
Văn Thị Nga (2009) đã thực hiện đề tài So sánh - đối chiếu biểu thức ngữ vi thể
hiện hành động hỏi của nhân vật nữ trong truyện ngắn trước 1945 và sau 1975 [74].
Đối tượng của đề tài này gồm 356 HĐ hỏi trực tiếp và gián tiếp qua lời thoại của nữ
nhân vật trong một số truyện ngắn của các tác giả Việt Nam. Ngoài việc xác lập căn cứ
từ lời thoại, nội dung và hình thức, tác giả còn đưa ra hai tiêu chí như: (1) HĐ hỏi
được thể hiện qua lời đối thoại trực tiếp của nhân vật nữ và các nhân vật khác trong tác
phẩm, và (2) HĐ hỏi được tái hiện trong suy nghĩ, hồi tưởng của nhân vật. Loại HĐ
hỏi tái hiện trong suy nghĩ hồi tưởng này chỉ được thể hiện trong tác phẩm văn học.
Kết quả đề tài đã rút ra được: a) Những điểm giống nhau: Các nhân vật nữ sử dụng HĐ
hỏi như một phương tiện để thực hiện mục đích, chiến lược giao tiếp của mình. Nhóm
nhân vật nữ là những người nông dân vẫn giữ được nét thẳng thắn, thuần phác, ít vòng
vo, và thể hiện tình yêu thương nồng hậu; b) Những điểm khác nhau: Vị trí, vai trò của
người phụ nữ; cách dùng từ xưng hô; nội dung của lời nhân vật nữ
28
Đàm Thị Ngọc Ngà (2016) trong luận án tiến sỹ Cặp thoại hỏi - trả lời, cầu
khiến - hồi đáp trong kịch Lưu Quang Vũ [76] đã nghiên cứu cấu tạo và ngữ nghĩa cặp
thoại hỏi - trả lời của các cặp đôi nhân vật trong kịch Lưu Quang Vũ, đó là: Hỏi - trả
lời về nhận thức, thái độ, tình cảm của đối tượng; Hỏi - trả lời về thông tin đời tư của
đối tượng; Hỏi - trả lời về nội dung công việc của đối tượng; Hỏi - trả lời về tư tưởng,
quan điểm của đối tượng. Đồng thời, từ bình diện ngữ nghĩa, tác giả đã chỉ rõ vai trò
cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, gồm: góp phần tạo nên cao trào, làm
gia tăng tính kịch cho tác phẩm; tạo nên tính chất “mở” cho tác phẩm; nội dung ngữ
nghĩa của lời đáp luôn hướng đến người đọc vẻ đẹp hoàn mỹ; gián tiếp thể hiện thái
độ, quan điểm của nhà văn - hướng đến cái thiện, cái cao cả.
Như vậy, việc đi vào nghiên cứu luận án, luận văn, bài viết của các tác giả về
câu hỏi hay phát ngôn hỏi đứng độc lập hoặc chúng xuất hiện trong cặp thoại tương tác
hỏi - đáp (hỏi trực tiếp hay gián tiếp) trên đây là có đóng góp nhưng chưa có tác giả
nào đề cập đến cặp thoại hỏi - đáp, trao - đáp trong truyện cười HĐVN. Đó cũng là cơ
sở để chúng tôi đi sâu tìm hiểu các dạng cặp thoại trao - đáp như là một cách thức cấu
tạo và đặc trưng hội thoại của truyện cười HĐVN.
1.2.3. Một số vấn đề về nghĩa và phương tiện từ vựng - ngữ nghĩa thể
hiện nghĩa
1.2.3.1. Một số vấn đề về nghĩa
Điểm qua một số công trình nghiên cứu về nghĩa học, chúng tôi nhận thấy có
nhiều tác giả nước ngoài quan tâm đến lĩnh vực này, như: C.D.Fillmore - D. T.
Langendoen (1971), Studies in Linguistics Semantics [159], Paul. H. Grice, (1975),
Syntax and Semantics [163], F.R. Palmer (1981), Semantics [181], J.R.Hurford - B.
Heasley (1984), Semantics - a Course Book [166], Paul.H. Grice (1981), Studies in the
way of words [162], J. Lyons (1996), Linguistics Semantics [175], Asher. R.E. The
Ensyclopedia of Language and Lingustics (First edition), Publisher of Elsevier Social
Science [143].
Ở Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu về nghĩa như: Giáo trình Việt
ngữ [Đỗ Hữu Châu (1962),12]; Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng [Đỗ Hữu Châu (1998),
15]; Từ vựng học tiếng Việt [Nguyễn Thiện Giáp (19 (194)86; 2002), 37]; Từ vựng học
tiếng Việt hiện đại [Nguyễn Văn Tu (1968), 125], Tiếng Việt - Mấy vấn đề Ngữ âm -
Ngữ pháp - Ngữ nghĩa [Cao Xuân Hạo (2006), 43], Cơ sở ngôn ngữ học [Mai Ngọc
chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2009), 21], [38], “Phân tích ngữ nghĩa”
[Hoàng Phê (1975), 86], “Tín hiệu và biểu trưng” [Hoảng Tuệ (1977), Văn nghệ, số 1,
29
tr.7], “Hiện tượng mơ hồ trong nghệ thuật gây cười” [Nguyễn Đức Dân (1987), 26],
Ngữ nghĩa học [Lê Quang Thiêm (2017), 110], Từ trái nghĩa tiếng Việt [Phạm Văn
Lam (2019) 61]... Các công trình trên đã nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nghĩa
học như: nghĩa sở chỉ, nghĩa sở thị, nghĩa liên tưởng, nghĩa biểu trưng, các hiện tượng
đa nghĩa, đồng nghĩa, trái nghĩa, mơ hồ về nghĩa, nghĩa tường minh, nghĩa câu mô
phỏng, câu kéo theo
Bàn về nghĩa, giai đoạn đầu, các nhà từ vựng học chủ yếu nghiên cứu nghĩa
trong phạm vi từ (khác các nhà ngữ pháp lại quan tâm đến nghĩa trong câu): Nguyễn
Văn Tu (1968) [125], Đỗ Hữu Châu (1962) [12], Trương Văn Chình (1962) [23],
Nguyễn Thiện Giáp (1986) [37],...
Giai đoạn sau, khi ngôn ngữ học phát triển, chính Đỗ Hữu Châu (1982) đã rút
ra những nhận xét có tính định hướng “Ngữ nghĩa học hiện đại có những đặc trưng
sau: a) Những đơn vị mang nghĩa - đối tượng của ngữ nghĩa học - được mở rộng đến
cả những đơn vị cấu trúc trên từ, đến các phát ngôn, đơn vị của giao tiếp, đến các yếu
tố kèm ngôn ngữ (Paralinguistique) và cả các hành vi ngôn ngữ; b) Nếu như ngữ
nghĩa học truyền thống chỉ quan tâm tới ý nghĩa tường minh thì các ý nghĩa hàm ẩn
đang được ngữ nghĩa học hiện đại chú ý một cách đặc biệt” [20, tập 1, tr.141] (Bản
gốc Ngôn ngữ, số 3, tr.18-23).
Còn tác giả Lê Quang Thiêm (2017) cho rằng “Trong đời sống hàng ngày,
chúng ta thường gặp các từ nghĩa, ý nghĩa. Nội dung của các từ này thường là khó xác
định Về đại thể, phạm vi ngôn ngữ học quan tâm là giải thích, là trả lời câu hỏi: từ
có nghĩa là gì? Câu có nghĩa là gì? Nếu liệt kê cho đầy đủ thì đó là: Các hình thức
ngôn ngữ, các biểu thức ngôn ngữ, các văn bản, diễn ngôn có nghĩa gì?” [110,
tr.54]. Và tác giả khẳng định: “Nghĩa là một thực thể tinh thần trừu tượng tồn tại
trong mọi biểu hiện, cấp độ của ngôn ngữ để ngôn ngữ thực hiện chức năng công cụ
giao tiếp và tư duy cũng như mọi loại chức năng cụ thể, đa dạng khác, đặc biệt trong
lời nói, trong văn bản diễn ngôn?” [110, tr.11]. Cách quan niệm về nghĩa này đã mở
rộng so với thời kì trước khi ngữ dụng học ra đời chỉ xem xét nghĩa của từ ngữ, câu
một cách cố định, tách rời ngữ cảnh, người sử dụng muốn nói gì, đích cần hướng đến.
Tác giả đề xuất các tầng chức năng tương ứng ngữ nghĩa gồm: “a. Tầng chức năng -
ngữ nghĩa trí tuệ; b. Tầng chức năng - ngữ nghĩa phản ánh, miêu tả ; c. Tầng chức
năng - ngữ nghĩa tương tác; d. Tầng chức năng - ngữ nghĩa biểu cảm văn hóa” [110,
tr.99-100].
Theo tác giả, chức năng không phải là nghĩa mà là cơ sở, là biểu hiện của nghĩa,
nói một cách cụ thể: “Nghĩa là cái được tổng hợp từ một chuỗi, một loại lớp chức
30
năng. Nghĩa cũng không phải là cách dùng mà là sự tổng hợp từ cách dùng. Nghĩa gắn
với hoạt động chức năng, nghĩa có mối liên hệ bản chất với giao tiếp, tư duy, hoạt
động có ý thức của con người. Nghĩa có mối liên hệ bản chất với giao tiếp, tư duy và
chức năng của các loại đơn vị, yếu tố, biểu thức của ngôn ngữ trong cấu tạo cũng như
trong hoạt động của chúng thể hiện ở các loại hình phong cách chức năng ngôn ngữ đa
dạng khác nhau mà trước đây dưới góc nhìn tu từ học và nay là ngữ dụng học chú ý
khám phá” [110, tr.100].
1.2.3.2. Khái niệm nghĩa và các phương tiện từ vựng - ngữ nghĩa thể hiện nghĩa
a. Khái niệm nghĩa
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, nghĩa được hiểu: 1. Sự phản
ánh đối tượng của hiện thực (các hiện tượng, các quan hệ, phẩm chất, quá trình) vào
trong nhận thức, trở thành một yếu tố của ngôn ngữ nhờ việc tạo nên mối liên hệ
thường trực, liên tục với môt chuỗi âm thanh nhất định nhờ đó sự phản ánh hiện thực
trong nhận thức được hiện thực hóa. Sự phản ánh hiện thực này tham gia trong cấu
trúc của từ như là mặt bên trong, mặt nội dung trong quan hệ với với mặt âm thanh
như là vỏ vật chất cần thiết không chỉ để biểu hiện nghĩa và thông báo nó cho người
khác, mà còn cần thiết cho chính sự hình thành, nảy sinh, tồn tại và phát triển của nó;
2. Toàn bộ các chức năng của các đơn vị ngôn ngữ; tất cả những điều được các đơn vị
ngôn ngữ này biểu hiện, phản ánh là mặt nội dung của chúng. Ví dụ: Nghĩa chuyển;
nghĩa số lượng; nghĩa nguyện nhân.
Nghĩa của từ không phải là một thực thể độc lập với ngôn ngữ trong đó nó tồn
tại, mà chỉ là một khái niệm về sự vật khách quan được phản ánh vào trong ngôn ngữ.
Mặt được biểu đạt, tức nghĩa của từ được xác định bởi bởi những mối quan hệ của
chúng với những từ khác trong hệ thống. Nói cách khác nghĩa của từ là một tập hợp
các nét nghĩa khu biệt (còn gọi là nét nghĩa hay nghĩa vị). Đó là những tiêu chí mà
tiếng nói giữ lại để nhận biết một loại đối tượng nào đó trong những vật thể của hiện
thực. Như vậy, nghĩa của một từ là một cấu trúc có thê phân xuất xuất ra những yếu tố
cấu tạo nhỏ nhất, giống như các nét nghĩa khu biệt trong âm vị học. Ví dụ: Nghĩa của
từ “anh” trong tiếng Việt gồm các nghĩa vị “đàn ông”, “sinh trước”, “trong quan hệ gia
đình với người cùng thế hệ” v.v[135, tr.143]
Theo Đại từ điển tiếng Việt, khái niệm nghĩa được hiểu: dt. 1. Nội dung diễn
đạt của một kí hiệu: nghĩa của từ - nghĩa của câu. 2. Cái nội dung tạo nên có giá trị:
Tiếng hát làm cho cuộc sống thêm có nghĩa. [136 , tr.1112]
Như vậy, cả hai ý kiến trên đều gặp nhau về khái niệm nghĩa, đó là: Nghĩa là
mặt thứ hai (mặt nội dung) của tín hiệu ngôn ngữ (hay của từ).
31
Giai đoạn sau này, khi ngữ dụng học ra đời và phát triển, các nhà nghiên cứu đã
mở rộng việc hiểu khái niệm nghĩa sang cả cấp độ văn bản, như: Lê Đông (1996) [34],
Nguyễn Đức Dân (1993) [25], Diệp Quang Ban (2003) [5]; Diệp Quang Ban (2009)
[6], Nguyễn Thiện Giáp (2000) [36], Lê Quang Thiêm (2017) [110].
b. Các phương tiện từ vựng - ngữ nghĩa thể hiện nghĩa
Thứ nhất, giai đoạn đầu, từ năm 1962, các tác giả nghiên cứu về Từ vựng -
ngữ nghĩa thường đề cập đến 5 nhóm:
b1) Từ đa nghĩa (Polysemy)
Đỗ Hữu Châu (1962) trong Giáo trình Việt ngữ cho rằng: “Từ trong trạng thái
tự nhiên của nó, thường gắn liền với nhiều thuộc tính khái quát của đối tượng hay của
hiện tượng làm cơ sở cho đa nghĩa tính của từ, bởi vì một vài thuộc tính của sự vật này
cũng là thuộc tính chung của một số sự vật khác” [12, tr.28] /dẫn theo Nguyễn Như Ý,
135, tr.84/. Đây là kết quả của sự phát triển xã hội, kéo theo ngôn ngữ trong sử dụng
cũng phát triển và thay đổi theo, trong đó nảy sinh từ đa nghĩa: đa nghĩa là kết quả của
quá trình chuyển nghĩa.
Theo Nguyễn Thiện Giáp (1986), đa nghĩa là “kết quả của các quá trình chuyển
nghĩa mà thực chất chuyển nghĩa là quá trình biểu trưng hóa của tín hiệu, một quá
trình vốn có nguồn gốc tâm lý của nó trong đời sống xã hội và được ghi lại một cách tế
nhị, độc đáo trong ngôn ngữ” [37, tr.176]. Hiện tượng nhiều nghĩa (đa nghĩa) xảy ra
với cả ý nghĩa biểu vật, biểu niệm và biểu thái.
Phạm Văn Lam (2019) cho: “Quan hệ đa nghĩa là quan hệ giữa nội bộ các cái
được biểu hiện với nhau trong cùng một hình thức kí hiệu, cùng một cái biểu hiện. Các
cấu trúc ngữ nghĩa của các cái được biểu hiện trong một cái biểu hiện đa nghĩa có tính
đồng hình, khi cái biểu hiện đa nghĩa này chưa bị chuyển phạm trù ngữ pháp. Vì tính
đồng hình trong cấu trúc ngữ nghĩa của các cái được biểu hiện trong cùng một cái biểu
hiện, quan hệ đa nghĩa được xem là một trong những biểu hiện có tính lí do quan trọng
nhất đi ra ngoài quy luật võ đoán của ngôn ngữ tự nhiên. Trong nội bộ quan hệ đa
nghĩa, người ta tiếp tục nhận diện nhiều loại quan hệ ngữ nghĩa khác nhau giữa những
cái được biểu hiện, như quan hệ phái sinh, quan hệ thứ bậc,Quan hệ đa nghĩa cùng
với quan hệ đồng nghĩa, trái n...n, Phan Cự Đệ tuyển chọn và giới thiệu, trong Đặng Thái Mai tác
phẩm, Nxb Văn học, H. 1978, tập 1.
73. Từ Thị Thu Mai (1997), Đặc điểm ngữ dụng của truyện cười dân gian Việt Nam,
Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Huế.
74. Văn Thị Nga (2009), Biểu thức ngữ vi thể hiện hành động hỏi của nhân vật trong
truyện ngắn sau 1975, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Vinh.
75. Đinh Thị Ngọc Ngà (2011), Hành động hỏi và cầu khiến qua lời thoại nhân vật
nam và nữ trong tiểu thuyết Đi tìm nhân vật, Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn, Trường
Đại học Vinh.
76. Đàm Thị Ngọc Ngà (2016), Cặp thoại hỏi - trả lời, cầu khiến - hồi đáp trong kịch
Lưu Quang Vũ, Luận án Tiến sỹ, Trường Đại học Vinh.
77. Hoàng Kim Ngọc, Hoàng Trọng Phiến (2011), Ngôn ngữ văn chương, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, H.
78. Trần Châu Ngọc (2011), Truyện cười tiếng Việt nhìn từ lý thuyết hội thoại, Luận
văn Thạc sỹ Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh.
156
79. Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh
niên, H.
80. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, H.
81. Nguyễn Hoài Nguyên (2013), Thực hành văn bản tiếng Việt, Nxb Đại học Vinh, NA.
82. Triều Nguyên (1999), “Các phương thức lạ hóa trong nghệ thuật biểu đạt truyện
cười”, Tạp chí Sông Hương, 63-69.
83. Triều Nguyên (2000), Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt, Nxb Thuận Hoá.
84. Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn, Nguyễn Nghĩa Dân, Lý Hữu Tấn, Hoàng
Tiến Tựu, Đỗ Bình Trị, Lê Trí Viễn (1961), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam,
tập 1, phần Văn học dân gian, Nxb Giáo dục, H.
85. Palmer. F.R.T. (2019), Thức và tình thái, Nguyễn Văn Hiệp, Phan Trang, Nguyễn
Khánh Hà dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
86. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”, Ngôn ngữ, số 2, 10-26.
87. Hoàng Phê (1990), “Ý nghĩa hàm ngôn trong lời nói”, Ngôn ngữ, số 6, 8-10.
88. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ
điển học, H.
89. Hoàng Phê (2003), Logic ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, H.
90. Hoàng Trọng Phiến (1981), “Đặc trưng ngôn ngữ nói tiếng Việt”, trong cuốn Một
số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
91. Nguyễn Hồng Phong, Trương Chính, Đỗ Thiện, Đặng Việt Thanh, Hoàng Tuấn
Phổ (1964), Truyện cười dân gian Việt Nam, Nxb Văn học, H.
92. Nguyễn Hồng Phong (1990), Truyện tiếu lâm Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
93. Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (1990), Văn học dân gian Việt
Nam, Tủ sách Đại học tổng hợp Hà Nội xuất bản, 142- 162.
94. Nguyễn Tú Quyên (2009), “Chức năng của biểu thức sở chỉ biểu thị nhân vật
trong tác phẩm văn chương”, Ngôn ngữ, số 8, 57-64.
95. Nguyễn Thị Quyết (2001), “Ẩn dụ ý niệm về cuộc đời trong thơ tiếng Anh và
tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 6, 22-28.
96. Saussure, F. de (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học xã
hội, H.
97. Trần Đình Sử (chủ biên) ( 2000), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb
Đại học Sư phạm, H.
98. Đoàn Thị Tâm (2006), Một số phương thức tạo hàm ngôn trong truyện cười tiếng
Việt, Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh.
99. Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Cơ sở lý giải nghĩa hàm ẩn của các hành vi ngôn ngữ
gián tiếp trong hội thoại, Luận án TS Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, H.
157
100. Văn Tân (1958), Tiếng cười Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa, H, quyển thượng (166
trang), quyển hạ (176 trang).
101. Lê Xuân Thại (1980), “Câu văn của Bác Hồ”, trong cuốn Học tập phong cách
ngôn ngữ Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, H. 67-80.
102. Lê Xuân Thại (1984), “Về việc hiện thực hóa tiền giả định tổ hợp của động từ
và tính từ (trên cứ liệu tiếng Việt)”, Ngôn ngữ, số 3.
103. Đào Thản (1990), “Lối nói phóng đại trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 4.
104. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ tự nhiên đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb Khoa
học xã hội, H.
105. Phạm Văn Thấu (2000), Cấu trúc liên kết các cặp thoại (trên ngữ liệu tiếng
Việt), Luận án Tiến sỹ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
106. Trần Ngọc Thêm (1996), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, Nxb Văn hóa
Văn nghệ.
107. Trần Ngọc Thêm (2013), “Ngữ dụng học và văn hoá - Ngôn ngữ học”, Ngôn
ngữ, số 4, 2 - 10.
108. Trần Ngọc Thêm (2002), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
109. Lê Quang Thiêm (2019), Văn hóa, văn minh và văn hóa truyền thống Hàn, Nxb
Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
110. Lê Quang Thiêm (2017), Ngữ nghĩa học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
111. Lê Quang Thiêm (2000), Ngôn ngữ học đối chiếu, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, H.
112. Trần Thị Thìn (1994), Câu nghi vấn tiếng Việt - một kiểu câu nghi vấn dùng để
hỏi, Luận án TS Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội, H.
113. Trần Thị Thìn (1973), “Những phương tiên đánh dấu hiệu lực tồn tại lời gián
tiếp trong câu nghi vấn gián tiếp”, Ngôn ngữ, số 2, 29-34.
114. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt, Nxb Giáo dục, H.
115. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, H.
116. Nguyễn An Tiêm (1996), Cái hài trong truyện cười dân gian, Luận án TS Ngữ
văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
117. Nguyễn An Tiêm (2015), Cái hài trong truyện cười dân gian người Viêt, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
118. Trần Bá Tiến (2012), Nghiên cứu thành ngữ biểu thị tâm lý tình cảm trong tiếng
Anh và tiếng Việt, Luận án TS Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.
158
119. Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng (1997), Tiếng Việt thực hành, Nxb Giáo
dục, H.
120. Bùi Minh Toán (2012), Ngôn ngữ với văn chương, Nxb Giáo dục, H.
121. Tzvetan Todorov (2002), “Thi pháp học”, Trịnh Bá Đĩnh dịch, trong Chủ nghĩa
cấu trúc và văn học, Nxb Văn học - Trung tâm nghiên cứu quốc học, H.
122. Tzvetan Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm
dịch, Nxb Đại học sư phạm, H.
123. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngữ và
tư duy người Việt (Trong sự so sánh với các dân tộc khác), Nxb ĐHQG Hà Nội, H.
124. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy,
Nxb Khoa học xã hội, H.
125. Nguyễn Văn Tu (1968), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, H.
126. Nguyễn Tuân toàn tập (2000), Nxb Văn học, H.
127. Lê Văn Tùng (2019), Đi tìm văn hóa của văn học, Nxb Hội nhà văn, H.
128. Vũ Thị Tuyết (2015), “Tiền giả định về biện pháp chơi chữ và phương ngữ
trong ca dao tình yêu của người Việt”, trong Đỗ Hữu Châu - Hành trình và
sáng tạo, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, H.
129. Hoàng Tiến Tựu (1990), Văn học dân gian Việt Nam, phần Truyện cười, Nxb
Giáo dục, H.
130. UNESCO (1989), Tạp chí “Người đưa tin UNESCO”, số 11.
131. UBKHXH Việt Nam (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, H.
132. Nguyễn Khắc Viện (1980), “Tiếng cười qua phong cách ngôn ngữ của Bác qua
tác phẩm bằng tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2,1-8.
133. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb TP Hồ Chí
Minh.
134. Phạm Hùng Việt (1994), “Vấn đề tình thái với việc xem xét chức năng ngữ
nghĩa của trợ từ tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2, 48-53.
135. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (2003), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,
Nxb Giáo dục, H.
136. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2007), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb TP Hồ Chí Minh.
137. Yule George (2003), Dụng học - Một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
138. Nguyễn Hoàng Yến (2007), Nhận diện hàm ý hội thoại, Ngữ học trẻ, 147-152.
139. Nguyễn Hoàng Yến (2010), Hàm ý hội thoại trong truyện cười dân gian Việt
Nam, Luận án TS Ngữ văn, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ
học, H.
159
140. Nguyễn Hoàng Yến (2005), Truyện cười dân gian Việt Nam dưới góc độ dụng
học, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
141. Nguyễn Hoàng Yến (2006), “Hàm ý hội thoại trong các truyện cười dân gian:
Khoe của và Hai chiếc áo”, Ngôn ngữ và Đời sống, số 3, 5-7.
Tiếng Anh
142. Austin. J.L. (1962), How to Do thing with Words, Oxford University Press.
143. Asher. R.E. The Ensyclopedia of Language and Lingustics (First edition),
Publisher of Elsevier Social Science [143].
144. Attardo, S. (1994), Linguistic Theories of Humor, Berlin and New York:
Mouton de Gruyter.
145. Bach K. and Harnish R.M. (1979), Linguistic Communicational Speech Acts
Library of Congress Cataloging in Publication Data.
146. Bates, D.C.F. (1990), Cultural Anthropology, New York - Mc Graw - Hill .
147. Brown. H.D.V. (1986), Learning a Second Culture in Culture Bound - edited by
Joyce Merrill Vaddes, Cambridge University Press.
148. Brown P. and Levinson S.C. (1979), Some Universal in Language Usage,
Cambridge University Press.
149. Brown G. and Yule G. (1983), Discourse Analysics, Cambridge.
150. Brown. P. & Levinson. S.C. (1978), Politeness: Some Universals in Language
usage, Cambridge, Cambridge University Press.
151. Chafe, W. (1987), Humor as a Disabling Mechanism, American Behavioral
Scientist 30 (1), 16-25.
152. Chafe W. (2007), The Importance of not Being Earnest: The Feeling Behind
Laughter and Humor, Amsterdam: John Benjamins.
153. Chomsky, N. (1965), Aspects of Spoken Chinese, Berkeley and Los Angeles.
154. Coulson, S. (2001), Semantic Leaps: Frame-shifting and Conceptual Bending
in Meaning Construction, Cambridge: Cambridge University Press.
155. Davies C. (1990), Ethnic Humor Around the World: A Comparative Analysis,
Bloomington: Indiana University Press. Davies.
156. Davies C. (1998), Jokes and their Relation to Society, Berlin and New York:
Mouton de Gruyter. 16.
157. Dijk T.A. (1975), Issues in the Pragmatics of Discourse. University of
Amsterdam, Mimeorg. Dẫn theo : Cái mới trong ngôn ngữ học nước ngoài.
Ngôn ngữ học văn bản. Tập VIII. Moskva, 1978, tr.259 - 336 (Bản dịch tiếng Nga).
160
158. Dik C.S. (1989), The Theory of Function Grammar, Part I, “Structure of the
Clause”, Foris Publications
159. Fillmore C. J. & Langendoen D. T (1971), Studies in Linguistics Semantics,
London: London.
160. Forabosco G. (1992), Cognitive Aspects of the Humor Process: The Concept of
Incongruity, Humor 5 (1/2), 45-68.
161. Green G. (1989), Pragmatics and Nature Languistics Semantics, New York.
162. Grice Paul. H. (1981), Studies in the Way of Words, Cambridge, M.A: Havard
University Press.
163. Grice Paul. H. (1975), Logic and Conversation, in: P.J.L.Cole & J.L. Morgan
(eds) Syntax and Semantics, Vol 9, Pragmatics, New York, Akademic Press.
164. Hartch E.V. & Brown C. (1995), Vocabulary, Semantics and Language
Education, Cambridge: Cambridge University Press, 1995. Print.
165. Humer D. (1972), Foundation in Sociolingustics, Univerrsity of Resylvania
Press, Tom.1.
166. Hurford, J.R. Heasley, B. & Smith, M.B. (1984, 2007), Semantic: a Course
Book. New York: Cambridge.
167. King G. (2000), Good Grammar. Glasgow: Harper Collins Publishers, Print.
168. Kroeber A.L. & Kluckhohn (1952), Culture, a Critical Review of Concept and
Definitions, Vintage Books, A Division of Random House, New York, p.35.
169. Kovecses Z. (2010), Metaphor: A Practical and Introduction, Oxford
University Press.
170. Lakoff George (1987), Women, Fire, and Dangerous Things, Chicago
University Press, Chicago.
171. Lakoff G. & Johnson M. (1980), Metaphors we Live by, Chicago University
Press, Chicago.
172. Langacker R. (1987), Foundations of Cognitive Grammar, Vol. 1: "Theoretical
Prerequisites", Stanford University Press, Stanford, California.
173. Langacker R. (1991), Foundations of Cognitive Grammar, Vol. 2: "Descriptive
Application", Stanford University Press, Stanford, California.
174. Leech G. (1983), Principles of Pragmatics, London and New York.
175. Lyon, J. (1996), Linguistic Semantics, London: Cambridge.
176. Maalej Z. (ed.) (2005), Metaphor, Cognition and Culture, Manouba, Tunis,
Print. 133 - 162.
161
177. Mey L. (1993), Pragmatic an Introduction, Blackwell.
178. Monro D.H. (1951), Argument of Laughter, Melbourne: Melbourne University Press
179. Ogden C.K. and Richards I.A. (1923), The Meaning of Meaning. A Study of the
Influence of Language upon thought and the Science of Symbolism, Magdalene
College, University of Cambridge.
180. Oring E. (1992), Jokes and their Relations, Lexington: University of Kentucky Press.
181. Palmer F.R. (1996), Semantics (2nd ed), Cambridge: Cambridge University
Press
182. Raskin V. (1985), Semantic Mechanisms of Humor, Dordrecht: Reidel.
183. Ritchie G. (2004), The Linguistic Analysis of Jokes, London: Routledge.
184. Recarati F. (2000), Some Remarks on Explicit Performatives, Indirect Speech
Act, Locutionary Meaning and Truth - Value.
185. Ruch W. and Hehl F.J. (1998), “A two-mode Model of Humor Appreciation:
Its Relation to Aesthetic Appreciation and Simplicity - Complexity of
Personality”, In W. Ruch (Ed.). The Sense of Humor: Explorations of a
Personality Characteristic (pp. 109-142), Berlin: Mouton de Gruyter.
186. Sapir. E (1991), Language, Harcourt, NewYork.
187. Scovel J. (1991), Why Languages do not Shape Cognition: Psylo-and
Leurolinguistic Evidence, JALT, 13 (1).
188. Searle J.R. (1975), Indirect Speech Acts, The Philosophy of Language,
Miarrtinich A.p. (ed.) Oxford University Press.
189. Searle J.R. and Vandervecken D. (1985), Foundation of Illocutionary Logic,
Cambridge.
190. Searle J.R - Kiefer F. - Bierwisch M. (1980), Speech Act Theory and
Pragmatics, Dordrecht, Netherlands
191. Sperber. D. and Wilson. D (1986), Relevance: Communication and Ognition,
Blackwell, Oxford.
192. S‟Tenning K. and Van Lambalgen M. (2004), Human Reasoning and Cognitive
Science, MIT University Press, Cambridge.
193. Sweetser E. (1990), From Etymology to Pragmatics, Cambridge University
Press, Cambridge.
194. Weỉbzbicka A. (1987), English Act Verbers, Sydney: Akademic Press.
195. Wierzbika A. (1992), Semantics, Culture, and Cognition, Oxford University Press.
196. Yule G (1969), Pragmatics, Oxford University Press.
162
Tiếng Pháp
197. Armengaud. F (1985), Pragmatics, Presses Universitaire de France.
198. Ducrot. O (1972), Dire et ne pas Dire, Principes de Semantique Linguistique,
Paris.
199. Orecchioni A.K (1990), Les Interaction Verbales, Armand Colin, Tom I,
II (1992), III (1994).
200. Orecchioni A.K (1986), L’ Implicite, Armand Colin.
Tiếng Nga
201. Araeb A.Г (1968), функции языка как этнического признакa, M.
163
TƢ LIỆU TRUYỆN CƢỜI TRÍCH DẪN
A.Truyện cƣời hiện đại Việt Nam
I. Đức Anh (2014), Truyện cười Học sinh, sinh viên, tập 1, Nxb Văn hóa thông tin, H.
II. Đức Anh (2014), Truyện cười Học sinh, sinh viên, tập 2, Nxb Văn hóa thông tin, H.
III. Đức Anh (2012), 101 truyện cười nghề nghiệp, Nxb Hồng Đức, H.
IV. Việt Hùng (2014), Vợ chồng cùng cười, Nxb Văn hóa thông tin, H.
V. Thu Hương (2012), 330 truyện cười đặc sắc, Nxb Văn hóa thông tin, H.
VI. Phương Lan (2012), Truyện cười giao thông, Nxb Thời đại, H.
VII. Cát Linh (2012), Truyện cười pháp luật, Nxb Thời đại, H.
VIII. (2019), Truyện cười tác giả sưu tầm.
B. Truyện cƣời nƣớc ngoài
IX. Vân Anh (2012), Truyện cười thế giới, tập 1 & 2, Nxb Dân trí, H.
164
PHỤ LỤC 1
Truyện cƣời có 38 lời thoại
Truyện: Hỗ trợ hết nỗi
Một người đàn ông gọi điện thoại đến cho phòng chăm sóc khách hàng của một
hãng máy tính, nhân viên trực nhấc máy:
(1) Sp1: - A lô!... Đây là phòng chăm sóc khách hàng. Tôi có thể giúp gì được
cho ông?
(2) Sp2: - Vâng, tôi gặp rắc rối với phần mềm Word. Tôi đang gõ thì đột nhiên
tất cả chữ nghĩa biến mất.
(3) Sp1: - Biến mất? Thế màn hình của ông bây giờ trông ra sao?
(4) Sp2: - Chẳng có gì cả! Trống trơn! Nó không hiển thị bất cứ chữ nào khi tôi gõ.
(5) Sp1: - Ông vẫn còn ở trong chương trình Word hay thoát ra ngoài rồi?
(6) Sp2: - Làm sao biết được cơ chứ!
(7) Sp1: - Ông có nhìn thấy dấu nhắc C: trên màn hình không?
(8) Sp2: - Dấu nhắc C: là cái gì vậy?
(9) Sp1: - Thôi, bỏ qua! Ông có thể di chuyển con trỏ quanh màn hình không?
(10) Sp2: - Không có con trỏ nào hết. Tôi chẳng bảo cậu rồi là gì đấy, máy
không nhận bất cứ lệnh nào cả.
(11) Sp1: - Thế monior của ông có đèn báo nguồn không?
(12) Sp2: - Minitor là gì cơ?
(13) Sp1: - Hừm! Nó là một thiết bị có màn hình, trông giống cái máy thu hình.
Nó có cái đèn nhỏ để báo đang ở chế độ hoạt động không?
(14) Sp2: - Tôi không biết!
(15) Sp1: - Thế thì, nhìn vào đằng sau minitor và tìm dây cấp nguồn của nó.
Ông nhìn thấy chưa?
(16) Sp2: - Thấy rồi!
(17) Sp1: - Tốt! Hãy lần theo sọi dây điện đến phích cắm. Nó có nằm trong ổ
điện không đấy?
(18) Sp2: - Có!
(19) Sp1: - Ông lưu ý cho, sau monitor có tới 2 sợi cáp chứ không phải chỉ có
một đâu nhé!
(20) Sp2: - Không! Làm gì có!
(21) Sp1: - Nhất định là phải có chứ. ông xem lại coi.
165
(22) Sp2: - À, tôi thấy rồi
(23) Sp1: - Một cáp là cáp điện đã kiểm tra rồi. ông hãy lần theo cáp còn lại
xem nó có cắm chặt vào CPU không.
(24) Sp2: - Tôi không với tới được.
(25) Sp1: - Thế thì ông quan sát kỹ xem giắc cắm đã ổn chưa.
(26) Sp2: - Không nhìn thấy gì cả.
(27) Sp1: - Thử quỳ xuống và cúi người hết cỡ về phía trước xem!
(28) Sp2: - Không phải tại góc nhìn. Tôi không nhìn thấy gì vì ở đây tối quá.
(29) Sp1: - Tối?
(30) Sp2: - Phải! Đèn văn phòng tắt hết rồi và nguồn sáng duy nhất bây giờ là
ánh sáng bên ngoài chiếu qua cửa sổ.
(31) Sp1: - Thế thì bật đèn lên!
(32) Sp2: - Không được!
(33) Sp1: - Tại sao không?
(34) Sp2: - Mất điện rồi!
(35) Sp1: - Mất điện? à, thế là mọi chuyện giải quyết xong. Ông còn giữ hộp
xốp, bản hướng dẫn và các thứ để đóng gói chiếc máy không?
(36) Sp2: - Còn! Để làm gì vậy?
(37) Sp1: - Ông hãy rút giắc cắm, đóng gói chiếc máy lại đúng như lúc mua nó
rồi mang tới nơi đã bán máy cho ông.
(38) Sp2: - Vâng. Tôi làm ngay đây [III, tr.157]
166
PHỤ LỤC 2
Truyện cƣời có dạng hội thoại đa thoại (15 truyện)
1. Nghề thuốc vất vả
Ba đứa trẻ vào tiệm thuốc bắc. Đứa thứ nhất bảo:
- Ông bán cho cháu 500 đồng cam thảo.
- Đợi tý!
Ông thầy thuốc dù đã rất già nhưng vẫn vui vẻ bắc thang leo lên trên kệ ở tuốt trên cao
bê cái thẩu thuốc xuống. Bán xong, ông leo thang trở lên cẩn thận cất cái thẩu thuốc lại chỗ
cũ. Trở xuống, ông hỏi đứa bé thứ hai:
- Còn cháu muốn mua thuốc gì?
- Cháu mua 500 đồng cam thảo.
Ông thầy bực mình, nhưng cũng đành chiều khách, lại bắc thang leo lên lấy thẩu cam
thảo xuống bán. Sợ như lần trước, ông hỏi luôn đứa thứ ba:
- Còn mày mua 500 đồng cam thảo luôn hả?
Đứa bé lắc đầu. Ông thầy yên chí, bắc thang leo lên cất cái thẩu cam thảo, rồi leo
xuống, hỏi nó mua gì. Thằng bé nói:
- Dạ ông bán cho cháu 1000 đồng cam thảo.
2. Chịu chết
Một thầy giáo, một người nhặt rác và một luật sư đang đứng đợi bên ngoài cổng thiên
đường. Thánh hiển linh nói với họ rằng để qua được cổng mỗi người phải trả lời được một
câu hỏi. Thánh chỉ thầy giáo rồi hỏi:
- Tên con tàu đụng vào một tảng băng là gì? Người ta mới làm một bộ phim về nó.
- Đó là tàu Titanic. Thầy giáo trả lời ngay.
- Anh được đi qua.
Thánh quay sang người nhặt rác và quyết định đặt một câu hỏi khó hơn một chút:
- Bao nhiêu người bị chết trong vụ chìm tàu đó?
Không may cho Thánh là anh chàng nhặt rác đã xem bộ phim trên và trả lời:
- Khoảng 1.500 người.
- Đúng rồi! Anh có thể đi qua.
Lúc này, Thánh quay sang anh chàng luật sư và nói:
- Hãy kể họ tên của họ.
- Lạy Thánh! Con trở về địa ngục đây ạ.
3. Kính áp tròng
Giám đốc cần tuyển nhân viên, đúng lúc có 3 cô tóc vàng hoe đến ứng cử. Để thử trí
thông minh của các cô, giám đốc đưa ra một bức ảnh nhìn nghiêng của một người đàn ông và
bảo từng cô cho biết họ nhìn thấy gì ở đó.
167
Cô thứ nhất nói:
- Tôi thấy anh ta chỉ có một mắt.
Giám đốc cáu:
- Nhìn nghiêng thì tất nhiên anh ta chỉ có một mắt rồi. Và cô này bị loại.
Cô thứ hai:
- Tôi thấy anh ta có một tai.
Giám đốc càng ngán ngẩm hơn và hỏi đến cô thứ ba. Cô này nghĩ một lúc rồi nói:
- Tôi nghĩ anh ta mang kính áp tròng.
Giám đốc rất ngạc nhiên và cho kiểm tra lại thì quả nhiên người trong ảnh mang kính
áp tròng. Ông bèn hỏi cô thứ ba:
- Vì sao cô biết được điều đó?
- Thì anh ta làm sao mà đeo kính có gọng được, khi chỉ có một tai.
4. Thong manh
Trong giờ thảo luận về ứng xử tình huống. Thầy giáo đưa ra đề tài như sau:
- Nếu trót bước lầm vào một phòng vệ sinh khác giới, đối mặt với đám đông đang
“online”, anh chị sẽ xử trí thế nào?
Sinh viên nhao nhao:
- Rất tiếc, xin quý vị cứ tự nhiên.
- Xin lỗi các bạn, mình đãng trí quá!
- Lao nhanh ra ngoài hoán vị hai tấm biển trước cửa.
- Lặng lẽ quay ra ấp khăn lạnh trên mặt.
- Sai bét cả. Thầy giáo sư ngắt lời: - Cách tốt nhất để hóa giải tình huống này, chúng ta
cần sử dụng kịch bản gọi là “thong manh” như sau: Lập tức cố định tròng mắt, giữ nguyên
hướng nhìn, sau đó chuyển mắt sang trạng thái dài dại, mất phản ứng. Tiếp theo, tay quờ
quạng, chân dò dẫm, môi mấp máy, và từ từ lần theo tường quay ra.
5. Bác sĩ trẻ
Có một bác sĩ trẻ mới chuyển đến thị trấn nhỏ thay việc cho bác sĩ già đã nghỉ hưu.
Bác sĩ già gợi ý sẽ giúp bác sĩ trẻ tiếp xúc làm quen với cộng đồng nhỏ này. Đầu tiên, họ đến
căn nhà của một phụ nữ hay than phiền.
- Tôi đang bị đau dạ dày đây này. Bà ta nói.
Bác sĩ già:
- Có thể cô dư axit do ăn quá nhiều hoa quả lên men. Tại sao cô không giảm số lượng
hoa quả xuống và xem sự thể sẽ ra sao.
Ngay sau khi họ rời căn nhà, bác sĩ trẻ hỏi:
168
- Tại sao bác chưa cần khám bệnh mà đã chuẩn đoán được bệnh nhanh thế?.
- Tôi cần gì phải khám. Cậu có thấy tôi làm rơi ống nghe xuống sàn không? Lúc tôi
cúi nhặt, tôi để ý thấy phải 20 cái vỏ chuối trong thùng rác. Chắc chắn nó là thứ khiến bà ấy
phát ốm.
- Ôi, bác thật là thông minh. Cháu sẽ thử khám như thế ở nhà tiếp sau.
Cuối cùng họ đã đến căn nhà tiếp sau, nói chuyện vài phút với bà lão chủ nhà. Bà lão
than phiền:
- Gần đây tôi chẳng còn chút năng lượng sống nào cả.
- Có thể bà làm quá nhiều cho công việc mộ đạo đấy ạ!” - bác sĩ trẻ kết luận: “Bà nên
cắt giảm công việc đó đi, như thế sẽ giúp ích nhiều đấy ạ.”
Khi họ ra về, bác sĩ già đầy vẻ cảm kích:
- Chuẩn đoán của cậu hoàn toàn chính xác. Nhưng làm sao cậu có được nó?
- Dạ, thì cũng như cách bác làm ở căn nhà trước thôi, cháu cũng làm rơi ống nghe. Lúc
cháu cúi xuống nhặt nó lên, cháu thấy ông tu sĩ dưới gầm giường.
6. Tai hại
Trong trại cai rượu, bác sĩ hỏi mấy con sâu rượu:
- Các anh hãy cho tôi biết tác hại của việc uống rượu xem?
Chàng 1: - Hôm đó em say quá nên đi nhầm vào nhà hàng xóm và bị dần cho một trận.
Chàng 2: - Còn em say quá không làm chủ được tay lái tông vào cột đèn đầu ngõ.
Chàng 3: - Ối giời, như em mới là tai hại. Hôm trước em quá chén đến nỗi hỏi cưới
một cô gái mà khi tỉnh rượu em mới nhận ra đó là cô vợ vừa mới li dị của em.
7. Độc quyền
Một chiếc xe chở toàn trọng tài bóng đá vượt đèn đỏ. Cảnh sát giao thông đuổi
theo và ra hiệu cho xe dừng lại. Lái xe hỏi:
- Giờ phải làm sao?
Trọng tài thứ nhất:
- Cứ cho chạy tiếp đi, lỗi nhỏ mà.
Trọng tài thứ hai:
- Nên dừng lại, phải có bài học để rút kinh nghiệm chứ!
Giọng một trọng tài nào đó ở góc xe lên tiếng:
- Theo tôi, nên cho xe chạy vào sân vận động, ở đó chúng ta sẽ không sợ ai cả.
- Cả xe vỗ tay. Đúng thế đúng thế
8. Cẩn thận vẫn tốt hơn
Trong cuộc họp tiếp nhận nhân sự mới, Trưởng phòng cảnh sát điều tra xét hỏi
phổ biến kinh nghiệm cho anh em:
169
- Nghề của chúng ta đòi hỏi phải hết sức cẩn thận, sơ ý là bị kiện cáo lôi thôi
như chơi ấy. Vì vậy, khi lập biên bản thu giữ bất cứ vật gì, chúng ta cũng tránh những
ý kiến võ đoán. Chẳng hạn, khi tang vật là vàng, chúng ta không thể giám định ngay
đó là vàng thật hay vàng giả. Trong trường hợp này, cần ghi biên bản: “Thu giữ 5 vòng
kim loại có màu vàng”. Hiểu chưa?
- Dạ hiểu! - Các chiến sĩ mới đồng thanh đáp.
Cuối tuần đó, trên bàn của Trưởng phòng có một tập báo cáo.
Báo cáo 1: - Ngăn chặn một vụ thanh toán của xã hội đen ở phường X, tang vật
thu giữ là 12 thanh kim loại có mũi nhọn, có cạnh sắc và có cán.
Báo cáo 2: - Phá một vụ trộm ở phường Y, tang vật thu giữ là một cục kim loại
màu đen có hình đầu máy khâu.
Báo cáo 3: - Ngăn chặn một vụ hôi của khi hỏa hoạn ở phường Z, tang vật thu
được là 3 cục sứ có hình bồn cầu.
9. Trùng hợp
Năm người đàn ông đang nóng lòng đứng ở ngoài phòng đợi tại bệnh viện chờ đợi vợ
họ sắp sinh con. Một lát sau, nữ y tá mở cửa và thông báo.
Cô nói với người thứ nhất:
- Chúc mừng anh! Chị nhà đẻ sinh đôi!
- Ôi! Thật trùng hợp! Tôi làm việc tại toà tháp đôi.
Cô y tá quay về người thứ hai và nói:
- Anh là cha của 3 nàng công chúa xinh đẹp.
- Trùng hợp thật! Tôi đang công tác tại tập đoàn Tam Dương!
Cô y tá quay sang người thứ ba thông báo:
- Vợ anh sinh tư.
- Một sự trùng hợp không thể tin được! Tôi là chủ sở hữa của khách sạn Bốn mùa
Người y tá hướng về người thứ tư:
- Gia đình anh có thêm 7 thành viên nữa.
- Ôi kỳ lạ thật! Tôi làm đại lí cho hãng 7-up!
Người cuối cùng không giữ được bình tĩnh thốt lên:
- Không thể như vậy được. Tôi đang đạo diễn cho bộ phim 101 chú chó đốm. Chẳng lẽ
vợ tôi...
10. Tóc vàng đi máy bay
Trên chuyến bay Hà nội - Sài gòn, một cô gái tóc vàng đang ngồi ở ghế hạng nhất. Cô
tiếp viên đến gần và nói:
- Chào cô, xin cô vui lòng chuyển xuống hạng thường vì cô đã mua vé ở đó.
170
Cô gái tóc vàng nói:
- Tôi tóc vàng, tôi đẹp, tôi trẻ, tôi đang đi Sài Gòn và tôi sẽ không chuyển đi đâu cả.
Không muốn cãi với hành khách, cô tiếp viên đến báo cho anh phi công phụ. Anh này
đến bên cô gái và lặp lại:
- Chào cô, xin cô vui lòng chuyển xuống hạng thường vì cô đã mua vé ở đó.
Cô ta lại đáp:
- Tôi tóc vàng, tôi đẹp, tôi trẻ, tôi đang đi Sài Gòn và tôi sẽ không chuyển đi đâu cả.
Anh phi công phụ đến báo cho cơ trưởng, anh này bảo:
- Để tôi, tôi có một bà vợ tóc vàng, tôi biết cách.
Anh ta đến nói nhỏ vào tai cô gái. Ngay lập tức cô ta rời ghế chuyển xuống hạng bình
thường. Quá ngạc nhiên, cô tiếp viên và anh phi công phụ hỏi cơ trưởng:
- Anh nói gì mà hay thế, có bí quyết gì không?
Cơ trưởng nói:
- Đơn giản thôi! Tôi bảo cô ta ghế hạng nhất không đi Gài Gòn.
11. Tôi chả có nguyện vọng gì
Trong một toa tàu hoả, có ba người. Một người đàn ông đang đọc báo. Còn hai phụ nữ
thì ngồi không, bỗng một bà đứng lên và nói:
- Nóng quá! Nếu không mở cửa sổ lên thì tôi đến ngạt thở mất
- Không được đâu. Bà thứ hai lên tiếng. - Tôi sẽ chết vì gió lạnh thôi. Hãy đóng cửa lại.
Cuộc tranh cãi ngày càng gay gắt. Người soát vé chạy đến:
- Tôi không thể cùng một lúc vừa đóng cửa lại vừa mở cửa được.
Và ông ta hỏi người đàn ông:
- Ông này, ông có nguyện vọng gì không ?
Người đàn ông đáp:
- Tôi chả có nguyện vọng gì. Xin ông cứ lần lượt thực hiện nguyện vọng của hai bà
này. Đầu tiên đóng cửa lại và một bà sẽ chết. Sau đó mở cửa ra bà thứ hai cũng chết nốt. Như
vậy là tôi yên thân.
12. Nhiều lắm
Ba chàng trai cùng đi du lịch trên một chiếc máy bay, đang ở giữa biển khơi, máy bay
bỗng có trục trặc. Nhân viên máy bay thông báo:
- Máy bay bị sự cố về động cơ, đề nghị hành khách vứt bỏ các hành lý không cần thiết
để chúng ta có thể bay đến sân bay gần nhất.
Anh người Mỹ ném một cái balo to đùng ra cửa sổ máy bay. Anh Việt Nam hỏi:
- Cậu vứt gì thế? Người Mỹ trả lời:
- Đô la ấy mà, cái này ở nước tôi thiếu gì, vứt đi cho nhẹ.
171
Anh người Nhật ném một cái túi to đùng ra cửa sổ máy bay. Anh Việt Nam hỏi tiếp:
- Cậu vứt gì thế? Người Nhật trả lời:
- Kim cương ấy mภnước tôi thứ này nhiều lắm.
Anh Việt Nam đến cửa sổ tung chân đá... Nhân viên đến hỏi:
- Anh vứt gì thế?
- Người ấy mà. Nước tôi mấy thằng thế này nhiều lắm.
13. Tai nạn máy bay
Trên máy bay có chở tổng thống Mỹ, Bill Gates, Đức giáo hoàng và một anh Việt
Nam, đang bay qua Đại Tây Dương thì máy bay có sự cố. Viên phi công chạy ra nói:
- Phải nhảy dù thôi, máy bay hỏng nặng quá không sửa được
Rồi lấy một cái dù phóng xuống ngay. Lúc đó kiểm tra lại mới biết hiện chỉ còn 3 cái
dù. Tổng tống Mỹ nói:
- Tôi là người quan trọng nhất nên tôi phải sống!
Rồi lấy một cái dù nhảy ra ngoài. Bill Gates nói :
- Tôi là người thông minh nhất, tôi cũng cần sống!
Rồi quơ vội cái dù nhảy ra ngoài. Lúc này Đức Giáo Hoàng nói với anh Việt Nam:
- Cha sống đã lâu rồi nên con hãy lấy dù nhảy ra ngoài đi
Anh Việt Nam trả lời:
- Không cần vậy đâu cha ơi! Thằng thông minh nhất thế giới vừa ôm cái màn con đưa
nhảy ra ngoài rồi!
14. Thơ bên bàn nhậu
Trong quán cóc bên đường, ba ông mặt đỏ phừng phừng đang nốc bia, tức bụng làm
thơ: Một ông đọc:
- Ngồi trong quán nhậu buổi chiều,
Trông ra đường phố thấy nhiều ô tô.
Ông kia tiếp:
- Xe lớn chở sắn chở ngô,
Xe con thì chở mấy cô tân thời.
Ông thứ 3:
- Vỉa hè đi lại đông người,
Có hai cụ móm đang cười nhe răng.
Tên đánh giày đi qua thấy thế chêm vào:
- Các ông cứ nói lăng nhăng,
Uống say về vợ cắt cu quăng bây giờ.
Cả quán cười tung bia. Dzô dzô!...
172
15. Nhờ chòm xóm cả
Đôi vợ chồng trẻ làm ngôi nhà to. Trong buổi liên hoan có người nói:
- Anh chị biết làm ăn, nên dù có trẻ cũng đã làm được nhà to đẹp!
Người vợ nhanh nhảu nói:
- Ấy là nhờ chòm xóm cả đấy ạ!
Có anh tên Nạnh đưa chuyện này về kể cho vợ mình nghe và khen:
- Vợ anh ấy ứng xử thật khôn ngoan.
- Thế ạ!!!
Ít lâu sau vợ của anh Nạnh sinh con trai. Bà con đến thăm có người khen:
- Đứa bé trông xinh trai quá
Vợ anh Nạnh mở lời đáp luôn:
- Ấy là nhờ chòm xóm cả đấy ạ!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_cau_tao_va_phuong_thuc_the_hien_tieng_cuoi_cua_truye.pdf