HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN QUÝ LONG
CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIẾP CẬN
GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CỦA TRẺ EM
VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÃ HỘI HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN QUÝ LONG
CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIẾP CẬN
GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CỦA TRẺ EM
VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÃ HỘI HỌC
MÃ SỐ: 9 31 03 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. GS. TS Nguyễn Hữu Minh
2. PGS.
179 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TS Đặng Thị Ánh Tuyết
HÀ NỘI - 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tác giả
Trần Quý Long
ii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH
HƯỞNG ĐẾN TIẾP CẬN GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CỦA
TRẺ EM ................................................................................................................... 17
1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................................ 17
1.2. Nghiên cứu của Việt Nam .......................................................................................... 32
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU TIẾP CẬNG IÁO DỤC
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ................................................................................. 55
2.1. Các khái niệm .................................................................................................. 55
2.2. Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu ........................................................ 62
2.3. Chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về giáo dục trung học phổ thông ......... 69
Chương 3: NHỮNG YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC TRẺ EM ĐI
HỌC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐÚNG TUỔI .............................................. 75
3.1. Đặc điểm và thay đổi trong tỷ lệ trẻ em đi học trung học phổ thông đúng tuổi
................................................................................................................................ 75
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến trẻ em đi học trung học phổ thông đúng tuổi ....... 78
Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC TRẺ EM
TUỔI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG KHÔNG ĐI HỌC ................................... 100
4.1. Đặc điểm và thay đổi trong tỷ lệ trẻ em tuổi trung học phổ thông không đi học
.............................................................................................................................. 100
4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến trẻ em tuổi trung học phổ thông không đi học .... 109
Chương 5: ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG YẾU TỐ XÃ HỘI ĐẾN KHẢ NĔNG
THEO HỌC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CỦA TRẺ EM ............................. 126
5.1. Đặc điểm và thay đổi trong khả nĕng theo học trung học phổ thông của trẻ em
.............................................................................................................................. 126
5.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến khả nĕng trẻ em theo học trung học phổ thôn128
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ....................................................................... 144
1. Kết luận ............................................................................................................. 144
2. Khuyến nghị ..................................................................................................... 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 154
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 166
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BBĐ Bất bình đẳng
BTB&DHMT Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
ĐNB Đông Nam Bộ
DTTS Dân tộc thiểu số
EFA Education for All
Giáo dục cho mọi người
HGĐ Hộ gia đình
KSMS Khảo sát mức sống
LĐ Lao động
LĐ-TB-XH Lao động-Thương binh-Xã hội
MICS Multiple Indicator Cluster Survey
Điều tra đánh giá các mục tiêu về phụ nữ và trẻ em
MNPB Miền núi phía Bắc
NHTG Ngân hàng Thế giới
SAVY The Survey and Assessment of Vietnamese Youth
Điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh Việt Nam
TCTK Tổng cục thống kê
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
PVS Phỏng vấn sâu
UNDP United Nations Development Program
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
UNESCO United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization
Tổ chức Vĕn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên hợp quốc
UNICEF United Nations Children’s Fund
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
OECD Organisation for Economic Co-operation and Development
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Tỷ lệ trẻ em đi học THPT đúng tuổi chia theo giới và dân tộc (%) ......... 80
Bảng 3.2: Tỷ lệ đi học THPT đúng tuổi chia theo giới và vùng (%) ........................ 80
Bảng 3.3: Trẻ em đi học THPT đúng tuổi qua các nĕm chia theo dân tộc (%) ........ 83
Bảng 3.4: Trẻ em đi học THPT đúng tuổi chia theo nghề bố mẹ và nơi cư trú (%) . 88
Bảng 3.5: Mô hình hồi quy đa biến logistic về ảnh hưởng của các yếu tố đến xác
suất trẻ em đi học THPT đúng tuổi ........................................................................... 93
Bảng 4.1: Trẻ em THPT không đi học đã làm việc chia theo học vấn bố mẹ (%) . 107
Bảng 4.2: Trẻ em THPT không đi học chia theo nghề bố mẹ (%) ......................... 114
Bảng 4.3: Mô hình hồi quy quy đa biến logistic về các yếu tố ảnh hưởng đến trẻ em
THPT không đi học ................................................................................................. 119
Bảng 5.1: Xác suất tích lũy trẻ em đi học THPT theo tuổi chia theo giới .............. 129
Bảng 5.2: Xác suất tích lũy trẻ em đi học THPT theo tuổi theo học vấn bố mẹ..... 132
Bảng 5.3: Xác suất tích lũy theo tuổi trẻ em đi học THPT chia theo học vấn bố và
mẹ ............................................................................................................................ 133
Bảng 5.4: Xác suất tích lũy trẻ em THPT đi học theo tuổi chia theo nơi cư trú ..... 135
Bảng 5.5: Mô hình hồi quy đa biến Cox về ảnh hưởng của các yếu tố đến xác suất
tích lũy theo tuổi đi học THPT của trẻ em .............................................................. 140
v
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 1: Khung phân tích ........................................................................................ 6
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ trẻ em Việt Nam đi học THPT đúng tuổi qua các nĕm (%) ........ 76
Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ trẻ em đi học THPT đúng tuổi của Việt Nam và các nhóm nước
chia theo phân loại thu nhập (%)............................................................................... 77
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ trẻ em Việt Nam đi học THPT đúng tuổi ở 5 tỉnh cao nhất và
thấp nhất (2016) ........................................................................................................ 77
Biểu đồ 3.4: Trẻ em đi học THPT đúng tuổi theo giới và nĕm khảo sát (%) ........... 79
Biểu đồ 3.5: Trẻ em đi học THPT đúng tuổi chia theo dân tộc (%) ......................... 84
Biểu đồ 3.6: Trẻ em di học THPT đúng tuổi chia theo học vấn bố mẹ (%) ............. 86
Biểu đồ 3.7: Trẻ em đi học THPT đúng tuổi theo khu vực và nĕm khảo sát (%) ..... 89
Biểu đồ 3.8: Trẻ em đi học THPT đúng tuổi chia theo vùng (%) ............................. 91
Biểu đồ 4.1: Trẻ em tuổi THPT không đi học chia theo tuổi (%) ........................... 101
Biểu đồ 4.2: Trẻ em tuổi THPT không đi học đã làm việc chia theo vùng (%) ..... 108
Biểu đồ 4.3: Trẻ em tuổi THPT không đi học chia theo học vấn bố mẹ (%) ......... 113
Biểu đồ 4.4: Trẻ em tuổi THPT không đi học chia theo vùng (%) ......................... 117
Biểu đồ 4.5: Bất bình đẳng giữa các vùng trong tỷ lệ trẻ em tuổi THPT không đi học
................................................................................................................................. 118
Biểu đồ 5.1: Xác suất tích lũy trẻ em đi học THPT theo tuổi (%) .......................... 127
Biểu đồ 5.2: Xác suất tích lũy trẻ em đi học THPT theo tuổi chia theo dân tộc, 2016
................................................................................................................................. 130
Biểu đồ 5.3: Tỷ lệ tích lũy trẻ em đi học THPT ở tuổi 17 chia theo vùng (%)....... 137
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục giúp cho cuộc sống cá nhân thay đổi bằng cách giảm nghèo, cải
thiện sức khỏe, làm chủ được công nghệ và tĕng cường sự gắn kết xã hội [168].
Giáo dục khuyến khích sự phát triển, khả nĕng linh hoạt và thích ứng, giúp cho con
người phát triển quyền nĕng hơn, thay đổi hành vi và tiếp cận những cơ hội to lớn
trong cuộc sống. Tầm quan trọng của giáo dục đối với cá nhân, cộng đồng và đối
với sự phát triển của một quốc gia được phản ánh bằng cách thừa nhận nó như một
quyền con người. Điều 28 của Công ước Quyền trẻ em công nhận quyền được học
tập là một quyền cơ bản và nhấn mạnh rằng việc thực quyền phải đảm bảo từng
bước và trên cơ sở những cơ hội bình đẳng [84]. Giáo dục không chỉ thỏa mãn nhu
cầu nhận thức nhằm cải thiện đời sống tinh thần con người mà còn là phương tiện
hữu ích nhằm thay đổi hoàn cảnh sống cả về vật chất và tinh thần, nhất là thay đổi
vị trí xã hội của họ trong thực tiễn chứ không chỉ trong thế giới biểu trưng [37].
Giáo dục trung học phổ thông (THPT) hoặc tương đương là một kênh quan
trọng thông qua đó những người trẻ tuổi có được các kỹ nĕng cải thiện cơ hội việc
làm tốt. Giáo dục trung học chất lượng cao phục vụ cho các khả nĕng, sở thích và
nền tảng rộng lớn nhất là điều quan trọng không chỉ để đưa những người trẻ tuổi
vào con đường đến với thế giới công việc, mà còn cung cấp cho các quốc gia lực
lượng lao động có giáo dục mà họ cần để cạnh tranh trong thế giới công nghệ ngày
nay [167]. Trình độ học vấn đạt đến bậc trung học phổ thông có thể giúp cá nhân
thay đổi cuộc sống bằng cách giảm nghèo, cải thiện kết quả sức khỏe, tiến bộ công
nghệ và tĕng sự gắn kết xã hội [170]. Giáo dục trung học phổ thông đã được xem là
rất quan trọng để có việc làm và thoát khỏi vòng nghèo đói. Lợi ích cá nhân và xã
hội của nó đã được nêu bật trong các diễn ngôn về giáo dục. Điều đáng chú ý nhất
của lợi ích cá nhân từ giáo dục trung học là trao quyền, đặc biệt là cho phụ nữ [127].
Giáo dục là nền tảng để phát triển các kỹ nĕng linh hoạt vốn rất cần thiết để
tham gia vào các hoạt động kinh tế có hàm lượng chất xám cao. Những ai không có
điều kiện tiếp cận giáo dục trung học có nguy cơ bị loại khỏi những cơ hội mới
2
[32]. Những người trẻ tuổi chỉ có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông gặp
phải sự hạn chế về cơ hội để phát huy tiềm nĕng và phát triển kỹ nĕng học tập. Họ
phải đối mặt với những bất lợi trong việc làm, có nguy cơ nghèo đói và bị loại trừ
xã hội cao hơn [166]. Hậu quả của trình độ học vấn thấp thật là nghiệt ngã đối với
những người trẻ tuổi và quốc gia nơi họ sinh sống. Nhiều thanh niên sẽ bị buộc phải
nhận lương thấp, làm việc không an toàn và thường có rủi ro, và đất nước của họ sẽ
bị tước đi những loại kỹ nĕng có thể thúc đẩy tĕng trưởng kinh tế. Đảm bảo tất cả
những người trẻ tuổi đạt được ít nhất trình độ giáo dục trung học tốt là rất quan
trọng để cung cấp cho các quốc gia lực lượng lao động lành nghề mà họ cần để
nhận được lợi tức nhân khẩu học cho phát triển [167].
Trẻ em cần phải học hết lớp cuối cùng của bậc trung học phổ thông bởi vì
bậc học này có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển và an sinh của cá
nhân. Để có thể giải quyết thành công rất nhiều các nguy cơ đối với sự phát triển và
các quyền của mình, trẻ em cần được trang bị nhiều kiến thức và kỹ nĕng thiết yếu,
trong đó có kỹ nĕng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, tìm hiểu và đánh giá thông
tin một cách tư duy và giao tiếp hiệu quả [173]. Các cá nhân cần học hết lớp cuối
cấp phổ thông trung học để có một mức kiến thức tốt, đủ để hiểu các vấn đề về công
nghệ, xã hội và kinh tế đang diễn ra trong cuộc sống. Tốt nghiệp trung học phổ
thông cũng giúp cho việc áp dụng các kiến thức này vào cuộc sống hàng ngày [87].
Đầu tư cho giáo dục trong thời kỳ thanh thiếu niên là rất cần thiết để tận dụng
những thành quả của những đầu tư giáo dục thời kỳ thơ ấu [177]. Có học vấn cao
hơn sẽ giúp cho bước chuyển tiếp sang giai đoạn đi làm được thuận lợi hơn và dẫn
đến nhiều thành công hơn trong cuộc sống, nếu thôi học sớm sẽ không giúp trẻ em
Việt Nam làm được điều đó [71]. Việc không tạo cơ hội cho mọi người được quyền
tiếp cận giáo dục một cách bình đẳng sẽ hạn chế những nỗ lực phấn đấu cải thiện
sức khỏe và phúc lợi, tĕng thêm những cơ hội vươn tới một cuộc sống hữu ích hơn
và thúc đẩy xã hội phát triển thành một xã hội đoàn kết, dân chủ, có những quyền
công dân tối thiểu khác [47]. Nếu cá nhân bị tước bỏ cơ hội đi học gây ra hậu quả
xấu trực tiếp trước mắt và lâu dài đối với cuộc sống của họ. Sự bất bình đẳng xã hội
3
trong tiếp cận giáo dục là nguyên nhân của những bất ổn định, mâu thuẫn, xung đột,
nghèo nàn, chậm phát triển [23, 26].
Trong khi phổ cập giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở là một trong
những mục tiêu cốt lõi của các nước đang phát triển thì phổ cập giáo dục trung học
phổ thông lại là mục tiêu tiếp theo của các nước công nghiệp phát triển. Giáo dục
trung học phổ thông được xem là yếu tố rất quan trọng để các nước xây dựng và
duy trì khả nĕng cạnh tranh trong nền kinh tế tri thức toàn cầu. Bằng tốt nghiệp
trung học phổ thông được coi là mức độ giáo dục tối thiểu cần thiết để gia nhập lực
lượng lao động ở Hoa Kỳ [105]. Tương tự, chính phủ Trung Quốc nhận ra rằng phổ
cập giáo dục cơ bản (tiểu học và trung học cơ sở) chứng tỏ không còn đủ để duy trì
sự phát triển kinh tế và xã hội và đã hướng đến phổ cập giáo dục trung học phổ
thông ở các thành phố lớn và các khu vực phát triển kinh tế kể từ những nĕm 1990
[106]. Mục tiêu của các quốc gia thuộc khối OECD về giáo dục dành cho người trẻ
tuổi rất tham vọng bằng cách cung cấp các cơ hội học tập phong phú cho tất cả mọi
người từ những nĕm đầu tiên và cho đến khi ít nhất là kết thúc giáo dục trung học
phổ thông [140].
Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong việc cải thiện điều kiện
sống trong những nĕm qua. Ngoài sự tĕng lên về thu nhập và tiêu dùng còn có sự
tĕng cường đáng kể mức độ tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em. Mức
độ tiếp cận với giáo dục ngày một tĕng đồng nghĩa với việc các hộ gia đình và bản
thân trẻ em đã nhận thức được giáo dục là một đầu tư có hiệu quả cũng như một
phương thức để giảm nghèo đói [24]. Tuy vậy, một trong những thách thức lớn nhất
trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay của giáo dục Việt Nam là chất lượng
nguồn nhân lực thấp. Mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực tạo ra các cơ hội tiếp cận
giáo dục trung học phổ thông (bao gồm cả việc phân luồng học vĕn hóa bậc trung
học phổ thông tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp) cho trẻ em nhưng sự bất bình
đẳng xã hội trong giáo dục vẫn còn tồn tại. Việt Nam vẫn phải đối mặt với những
thách thức lớn về tình trạng trẻ em bỏ học đang gia tĕng [164], nhiều trẻ em ở lứa
tuổi vị thành niên không học trung học [84]. Tỷ lệ đi học của thanh thiếu niên ở độ
tuổi 15-19 tương ứng 54,6% cho thấy gần một nửa thanh niên ở độ tuổi này trong
4
Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009 không học tiếp ở bậc cao hơn sau khi
hoàn thành bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông [82]. Còn trong Điều tra
quốc gia Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ hai nĕm 2009 (SAVY 2)
cho biết, khoảng một nửa trong nhóm dân số 14-25 đã thôi học, 24% trong số đó đã
thôi học khi chưa đến 15 tuổi [61]. Có nhận thức chung cho rằng sự bất bình đẳng
trong giáo dục sẽ là một yếu tố làm trầm trọng thêm những khoảng cách xã hội ở
Việt Nam. Bất bình đẳng trong đĕng ký nhập học và thành tựu học tập sẽ biến thành
những bất bình đẳng lớn hơn về thu nhập và các cơ hội nghề nghiệp trong xã hội.
Trẻ em trong độ tuổi học trung học phổ thông (15-17 tuổi) cũng là trẻ em ở
nhóm tuổi vị thành niên. Đây là một nhóm xã hội đặc biệt, có sự thay đổi rất lớn về
tâm sinh lý trong quá độ phát triển từ trẻ em lên người trưởng thành. Một trong
những thay đổi rõ nét của nhóm dân số tuổi vị thành niên là có nhu cầu độc lập với
cha mẹ rất cao [72]. Lứa tuổi trung học phổ thông cũng có mức độ trưởng thành
đáng kể trong hoạt động học tập. Các em có hứng thú tìm hiểu nội dung, kiến thức,
khát vọng muốn tìm hiểu và làm một việc gì đó thực sự, đồng thời cũng muốn tự
mình xây dựng kết hoạch cho tương lai. Khác với giai đoạn nhỏ tuổi, trẻ em trong
độ tuổi trung học phổ thông có nhiều mối quan hệ xã hội hơn, sự giao tiếp xã hội
cũng nhiều hơn. Vì thế, việc tìm hiểu tiếp cận giáo dục trung học phổ thông trong
giai đoạn tuổi vị thành niên của trẻ em là một yêu cầu quan trọng và cấp thiết.
Có nhiều yếu tố xã hội ảnh hưởng đến quá trình tiếp cận giáo dục trung học
phổ thông của trẻ em. Việc tìm hiểu các yếu tố xã hội có ảnh hưởng như thế nào đến
tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em là một yêu cầu quan trọng và là
nhiệm vụ chính của luận án. Dựa trên những luận điểm đã phân tích, luận án lựa
chọn vấn đề: “Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến tiếp cận giáo dục trung học phổ
thông của trẻ em Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. Thông qua cách tiếp cận xã
hội học, đặc biệt là tiếp cận xã hội học giáo dục, luận án mong muốn nhận diện đặc
điểm, tính chất, các yếu tố ảnh hưởng, xu hướng biến đổi về tiếp cận giáo dục trung
học phổ thông của trẻ em Việt Nam. Qua đó góp phần cung cấp bằng chứng cho
việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chính sách về giáo dục trung học phổ thông cho
trẻ em ở Việt Nam.
5
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nhận diện thực trạng, đặc điểm, và những khác biệt trong tiếp cận giáo dục trung
học phổ thông của trẻ em.
- Xác định những yếu tố xã hội ảnh hưởng đến tiếp cận giáo dục trung học phổ
thông của trẻ em.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các lý thuyết nghiên cứu về tiếp cận giáo dục và làm rõ các khái
niệm công cụ như: tiếp cận giáo dục, giáo dục trung học phổ thông, trẻ em và một
số khái niệm có liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận án.
- Tìm hiểu thực trạng, đặc điểm và những khác biệt về tiếp cận giáo dục trung học
phổ thông của trẻ em Việt Nam.
- Xác định những yếu tố xã hội ảnh hưởng đến tiếp cận giáo dục trung học phổ
thông của trẻ em.
- Đề xuất một số khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao tiếp cận giáo dục trung học
phổ thông của trẻ em Việt Nam.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Trẻ em trong độ tuổi 15-17.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em trên phạm vi toàn quốc nĕm 2016
và 2006.
5. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu, khung phân tích, biến số
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em Việt Nam có đặc điểm như thế
nào?
- Các yếu tố xã hội tác động và biến đổi vai trò tác động như thế nào đến việc tiếp
cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em Việt Nam?
- Những khuyến nghị đặt ra trong vấn đề tiếp cận giáo dục THPT của trẻ em là gì?
6
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em có sự khác biệt theo
các yếu tố xã hội mang tính đặc trưng cá nhân và gia đình.
Giả thuyết 2: Không có sự bất bình đẳng giới trong tiếp cận giáo dục trung học phổ
thông của trẻ em.
Giả thuyết 3: Trẻ em ở những nhóm yếu thế (dân tộc thiểu số, gia đình đông người,
cư trú ở khu vực nông thôn, vùng xa, miền núi) có khả nĕng tiếp cận giáo dục trung
học phổ thông thấp hơn so với trẻ em khác.
Giả thuyết 4: Trẻ em có bố mẹ với học vấn cao hơn và làm nghề chuyên môn có
mức độ tiếp cận giáo dục trung học phổ thông cao hơn trẻ em có bố mẹ với học vấn
thấp và làm nghề lao động giản đơn.
5.3. Khung phân tích
Biểu đồ 1: Khung phân tích
5.4. Các nhóm biến số
5.4.1. Nhóm biến số phụ thuộc
Tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em được nghiên cứu qua 3
biến số phụ thuộc như sau:
Đặc điểm cá nhân
+ Giới
+ Dân tộc
Đặc điểm HGĐ
+ Học vấn bố mẹ
+ Nghề nghiệp bố mẹ
+ Quy mô hộ gia đình
TIẾP CẬN
GIÁO DỤC
TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG
CỦA TRẺ EM
CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
Đặc điểm cộng đồng
+ Thành thị-Nông thôn
+ Vùng
- Đi học THPT
đúng tuổi
- Không đi học
- Theo học THPT
7
1. Đi học trung học phổ thông đúng tuổi: Biến số này có hai giá trị: 1 = Trẻ em
đi học trung học phổ thông và các loại hình giáo dục tương đương đúng tuổi;
2 = Trẻ em không đi học trung học phổ thông và các loại hình giáo dục tương
đương đúng tuổi.
2. Trẻ em tuổi trung học phổ thông không đi học (ngoài nhà trường): Giá trị của
biến số này bao gồm: 1 = Trẻ em tuổi trung học phổ thông không đi học bất
kỳ loại hình giáo dục nào; 2 = Trẻ em tuổi trung học phổ thông đi học ở tất
cả các loại hình giáo dục.
3. Theo học trung học phổ thông: Biến số này được tính toán theo tỷ lệ tích lũy
đi học các loại hình giáo dục ở từng độ tuổi trong tổng số trẻ em tuổi trung
học phổ thông.
5.4.2. Nhóm biến số độc lập
Để phân tích sự khác biệt, mức độ chênh lệch trong các chỉ báo về tiếp cận
giáo dục trung học phổ thông của trẻ em, các yếu tố được sắp xếp theo trật tự như
sau:
- Giới: 1 = Nam, 2 = Nữ.
- Dân tộc: 1 = Dân tộc thiểu số, 2 = Dân tộc Kinh.
- Học vấn bố và mẹ (sắp xếp từ nhóm có trình độ học vấn thấp nhất đến trình độ học
vấn cao nhất): 1 = Tiểu học trở xuống, 2 = Trung học cơ sở, 3 = Trung học phổ
thông trở lên.
- Nghề nghiệp bố và mẹ: 1 = Chuyên môn, 2 = Công nhân viên, 3 = Lao động giản
đơn. Trong phân tích hồi quy, biến số này được gộp lại với 2 giá trị: Chuyên môn và
không chuyên môn.
- Số thành viên gia đình (sắp xếp từ đơn vị nhỏ nhất đến lớn nhất).
- Nơi cư trú: 1 = Nông thôn, 2 = Thành thị. Biến số này cho phép xác định địa bàn
nơi cư trú hiện tại của gia đình được khảo sát là nông thôn hay thành thị. Nó có thể
trực tiếp kiểm soát được ảnh hưởng của địa bàn nơi cư trú đến các hoạt động tiếp
cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em trong mô hình thống kê.
- Vùng: Khái niệm vùng được dùng để chỉ 6 vùng địa lý, kinh tế - xã hội ở Việt
Nam hiện nay, trong mỗi vùng đều bao gồm cả thành thị và nông thôn. Biến số
8
vùng là một thước đo hữu hiệu để xem xét ảnh hưởng của điều kiện địa lý, kinh tế -
xã hội, phong tục tập quán đến tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em
Việt Nam. Các vùng được phân chia bao gồm: 1 = Đồng bằng sông Hồng, 2 =
Trung du và miền núi phía Bắc, 3 = Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ, 4
= Tây Nguyên, 5 = Đông Nam Bộ, 6 = Đồng bằng sông Cửu Long.
6. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu, số liệu
6.1. Phương pháp luận
Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quan điểm
của một số lý thuyết xã hội học trên thế giới và Việt Nam về tiếp cận giáo dục trung
học phổ thông của trẻ em.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Trước khi phân tích số liệu thứ cấp, luận án sử dụng phương pháp phân tích
tài liệu nhằm khảo cứu lại các nghiên cứu trước đây liên quan đến việc tiếp cận giáo
dục trung học phổ thông của trẻ em; Các vĕn bản chính sách, các số liệu thống kê
kinh tế - xã hội về giáo dục. Kết quả của phương pháp này là xác định được tổng
quan vấn đề cần nghiên cứu. Đồng thời, phương pháp này giúp cho việc tìm hiểu
những khía cạnh mà biến phụ thuộc đưa ra và khám phá tìm kiếm những khía cạnh
nghiên cứu chưa được đề cập. Qua việc áp dụng phương pháp phân tích tài liệu,
luận án sẽ áp dụng được các phương pháp thu thập, kỹ thuật xử lý thông tin thích
hợp để phân tích các nội dung cơ bản.
Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng nhằm thu thập các thông tin để
xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về thực trạng tiếp cận giáo dục trung học phổ
thông của trẻ em. Để thực hiện phương pháp này, các loại tài liệu cần thu thập gồm:
- Các vĕn kiện, đường lối, chủ trương, chiến lược của Đảng và Nhà nước đối
với vấn đề giáo dục cũng như xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
- Các vĕn bản pháp luật và chính sách như Luật Giáo dục, Luật trẻ em, Luật
Bình đẳng giới; Những chiến lược về phát triển trẻ em,giáo dục và các vĕn bản
9
hướng dẫn thi hành khác;
- Các nghiên cứu, đề tài; các cuộc khảo sát, điều tra về giáo dục, trẻ em ở Việt
Nam và ở nước ngoài.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng
Đây là phương pháp tập hợp các quy tắc, kỹ thuật hướng đến phân tích, xem
xét khía cạnh lượng của các hiện tượng, quá trình và các mối quan hệ xã hội được
nghiên cứu. Nó tìm hiểu mức độ của các phản ứng, thái độ của con người đối với
một vấn đề nào đó trong những khung cảnh xã hội nhất định [56].
Phương pháp định lượng của luận án được tiến hành bằng cách sử dụng số
liệu thứ cấp (secondary data) từ khảo sát mức sống (KSMS) dân cư nĕm 2016 và
2006. Việc phân tích số liệu từ khảo sát mức sống dân cư nĕm 2016 và 2006 cho
phép luận án nhận biết mức độ tồn tại của đối tượng nghiên cứu thông qua các con
số phản ánh những đặc trưng cần nghiên cứu của tổng thể. Các số liệu có sẵn cho
phép luận án trình bày cái nhìn chung, bao quát về toàn bộ đối tượng nghiên cứu.
Mục tiêu hướng đến của phân tích định lượng trong luận án là phải giải thích được
các đặc điểm, thực trạng của đối tượng nghiên cứu thông qua trả lời các câu hỏi
“như thế nào?”, “bao nhiêu?”.
Vì đưa ra được các con số đo lường được các chỉ báo của đối tượng nghiên
cứu nên kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có tính khẳng định mang tính chất khách
quan và cung cấp được các bằng chứng để khái quát các lý thuyết, chứng minh,
kiểm nghiệm các giả thuyết.
6.2.3. Phương pháp nghiên cứu định tính
Phương pháp định tính được tiến hành nhằm tìm hiểu sâu về đặc tính, tính
chất, bản chất của đối tượng nghiên cứu. Trong nghiên cứu xã hội, nghiên cứu định
tính thường nhằm tìm hiểu sâu các phản ứng từ bên trong các suy nghĩ, tình cảm
của con người đã tạo ra những cách ứng xử khác nhau trong cuộc sống. Về thực
chất nghiên cứu định tính hướng đến việc xác định các khía cạnh, các nguyên nhân
của thái độ hay phản ứng của người đó. Việc thu thập thông tin định tính thường tập
trung vào một số đại diện nhất định của tổng thể nghiên cứu chứ không bao hàm
trên một mẫu lớn như nghiên cứu định lượng [56].
10
Việc tiến hành thu thập thông tin định tính cho phép luận án thực hiện một
cách linh động cả về trình tự và cách đặt câu hỏi. Các phương pháp định tính của
luận án sẽ tập trung vào việc tìm hiểu các quá trình, các hành vi và điều kiện của
khách thể nghiên cứu. Vì được làm trên quy mô nhỏ nên luận án có thể tìm hiểu
được một cách sâu sắc, kỹ càng về thân thế, vị thế và các nguyên nhân hành vi của
khách thể nghiên cứu. Bên cạnh đó, thu thập thông tin định tính của luận án được sử
dụng như một phương tiện hữu ích để làm rõ nguyên nhân, những yếu tố sâu xa,
giải thích những vấn đề từ các kết quả thu được qua phân tích số liệu định lượng.
Phương pháp thu thập thông tin định tính được sử dụng trong luận án chủ yếu là
phương pháp phỏng vấn sâu.
Việc sử dụng cả hai phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính trong
luận án sẽ tạo ra sự kết hợp có giá trị và đạt được những kết quả nhất định. Nghiên
cứu định lượng cho phép có sự khái quát chung, hợp lệ về mặt thống kê về các chỉ
báo tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ em Việt Nam; Nghiên cứu định
tính nhằm xác định những nguyên nhân sâu xa, lý giải hợp cụ thể về những hành vi,
tác động của các yếu tố, góp phần cho kết quả nghiên cứu sinh động và có tính hợp
lý hơn. Nếu phân biệt các phương pháp nghiên cứu thành hai nhóm lớn là phương
pháp nghiên cứu định lượng và định tính thì xã hội học giáo dục cần sử dụng cả hai
loại phương pháp này một cách phù hợp với đối tượng nghiên cứu của mình. Xã hội
học giáo dục hoàn toàn có khả nĕng và cần thiết phải tham khảo, lựa chọn và vận
dụng những phương pháp thích hợp để thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu đã
được xác định [26].
6.3. Phương pháp phân tích
6.3.1. Phân tích mô tả
Trong nghiên cứu xã hội học, mô tả các số liệu thu thập được là phương
pháp rất phổ biến, được thực hiện đầu tiên nhằm thể hiện tính tất yếu của quá trình
nhận thức thực tế xã hội của một nghiên cứu. Phân tích mô tả là tiền đề quan trọng
cho các hình thức phân tích tiếp theo trong việc chỉ ra bản chất, quy luật của các
hiện tượng, quá trình xã hội.
11
Phân tích mô tả được sử dụng trong luận án nhằm cung cấp những thông tin
chung, ban đầu về các khía cạnh của tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ
em Việt Nam như tỷ lệ đi học đúng tuổi, tỷ lệ không đi học, tỷ lệ bỏ học, xác suất
tích lũy đi học theo tuổi.
6.3.2. Phân tích hai biến (tương quan hai chiều)
Đây là phương pháp kiểm định mối quan hệ giữa các yếu tố đặc trưng cộng
đồng, hộ gia đình và cá nhân với các chỉ báo thành phần về tiếp cận giáo dục trung
học phổ thông của trẻ em. Qua đó có thể xem xét, dự báo những yếu tố đó có mối
quan hệ/ ảnh hưởng như thế nào với tiếp cận giáo dục trung học phổ thông của trẻ
em. Kỹ thuật này đo lường thực trạng các chỉ số về tiếp cận giáo dục của trẻ em. Tỷ
lệ (đối với biến số phân loại) và trung bình hoặc trung vị (đối với biến số liên tục)
được so sánh giữa các nhóm dân số khác nhau. Phương pháp này cho chúng ta thấy
rõ được sự phân bố biến số cần nghiên cứu giữa các nhóm dân cư khác nhau. Tùy
theo biến số phụ thuộc, các kiểm định mối quan hệ giữa biến số phụ thuộc và biến
số độc lập được dùng bao gồm các phương pháp ước lượng Chi-square, Anova, và
Log-rank.
Đường cong bất bình đẳng: Đường cong bất bình đẳng được sử dụng để mô
tả mức độ bất bình đẳng, công bằng về các chỉ báo nghiên c...ặc các vấn
đề sức khỏe, họ thường thiếu các nguồn lực để đối phó mà không cắt giảm chi tiêu
25
trong các lĩnh vực quan trọng, bao gồm cả giáo dục của trẻ em. Giáo dục có thể
đóng vai trò là chất xúc tác mạnh mẽ trong việc phá vỡ các vòng nghèo đói. Nhưng
chính nghèo đói là một hạn chế mạnh mẽ đối với các cơ hội giáo dục, thúc đẩy sự
bất lợi qua các thế hệ [166].
Những hộ gia đình nghèo nhất không thể đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng
hiện tại nếu không có nguồn thu nhập do lao động trẻ em mang lại, vì vậy học vấn
của trẻ em và triển vọng thoát nghèo phải nhường chỗ cho sự tồn tại trước mắt
[177]. Nghiên cứu của Schultz (1993) hỗ trợ giải thích tại sao sự đóng góp kinh tế
của trẻ em lại khuyến khích cha mẹ sinh thêm con và không khuyến khích đầu tư
vào việc đi học. Có lẽ điều này cũng giải thích tỷ lệ lao động trẻ em cao ở Pakistan
và Nam Á [155]. Hoàn cảnh nghèo khó của gia đình có thể lôi kéo trẻ em vào công
việc. Do đó, lao động trẻ em gắn liền với những chậm trễ trong việc nhập học, giảm
tỷ lệ tham gia và bỏ học sớm [165]. Nghiên cứu của Jackline Wahba (2006) nhận
xét rằng, trình độ học vấn thấp ở các nước đang phát triển thường liên quan đến
mức độ lao động trẻ em cao. Những gia đình rất nghèo có con ở tuổi đi học không
đủ khả nĕng từ bỏ thu nhập mà những đứa trẻ này có thể mang về nhà [115]. Giáo
dục chịu chi phí cơ hội ở các gia đình nghèo, vì trẻ em đi học thay vì đóng góp vào
thu nhập hộ gia đình. Chi phí cơ hội này tĕng lên khi trẻ lớn hơn và có thể kiếm
được tiền lương cao hơn, do đó làm tĕng áp lực cho những người trẻ này bỏ học
[107]. Một yếu tố giải thích cho tỷ lệ nhập học thấp là cha mẹ lao động nghèo
khuyến khích con cái từ 10 tuổi trở lên được tuyển dụng trong một số loại lao động
trẻ em ở cả thành thị và nông thôn. Trẻ em từ 15 đến 18 tuổi có nhu cầu lao động
nhiều nhất và đây là độ tuổi mà trẻ nên học trung học. Thực tế này giải thích tại sao
một số trẻ em từ các hộ nghèo không đi học trung học. Vì vậy, lao động trẻ em là
một yếu tố khác trong việc đi học thấp và tỷ lệ bỏ học cao ở Pakistan [150].
Ở một nước đang phát triển có thu nhập thấp như Pakistan, cha mẹ ảnh
hưởng đến con cái không chỉ bằng lao động trẻ em để có thêm thu nhập mà họ còn
tận dụng con cái của họ, đặc biệt là anh chị lớn hơn, trong các trách nhiệm nuôi
dưỡng trẻ em. Thực tiễn này có tác động tiêu cực cả về đi học cũng như sự tiến bộ
trong giáo dục của trẻ em [150]. Nhiều trẻ em và thanh thiếu niên từ các hộ nghèo
26
không có lựa chọn nào khác giữa trường học hoặc giúp đỡ các công việc nhà và
chĕm sóc trẻ em để giải phóng cho cha mẹ đi làm. Trong một số trường hợp, các
hoạt động của gia đình đụng độ với lịch học và dẫn đến sự vắng mặt cao, thành tích
học tập kém và (thường) bỏ học [111].
1.1.6. Yếu tố quy mô hộ gia đình
Bên cạnh đặc điểm kinh tế - xã hội của cha mẹ, cấu trúc nhân khẩu học của
hộ gia đình cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình tiếp cận giáo dục của trẻ em. Số
lượng thành viên hộ gia đình có mối quan hệ với khả nĕng được đi học của trẻ em
đã được nghiên cứu và kiểm chứng trên toàn thế giới. Một quan điểm rất có ảnh
hưởng khi cho rằng trẻ em trong các gia đình lớn nhận được đầu tư ít hơn từ cha mẹ
so với trẻ em từ các gia đình nhỏ hơn. Trong các hộ gia đình lớn hơn, cha mẹ đầu tư
vào việc đi học của con cái ít hơn vì thu nhập trên đầu người có thể rất thấp do tỷ lệ
phụ thuộc cao hơn [109]. Các nghiên cứu đáng chú ý sau đó từ các nước phát triển
kinh tế, đặc biệt là Hoa Kỳ đã kế thừa ý tưởng này và cho ra đời mô hình lý thuyết
‘sự pha loãng tài nguyên’. Khung lý thuyết ‘sự pha loãng tài nguyên’ đưa ra một lời
giải thích đơn giản về những ảnh hưởng tiêu cực của số lượng thành viên gia đình
đến hiệu suất giáo dục của trẻ em. Khi số lượng trẻ em tĕng lên, các nguồn lực gia
đình có sẵn cho một đứa trẻ giảm. Nguồn lực được định nghĩa rộng rãi bao gồm thời
gian của cha mẹ, sự chú ý và đầu tư cảm xúc cũng như tài sản vật chất và tài chính.
Bắt đầu với giả định rằng nguồn lực tài nguyên của cha mẹ là hữu hạn nhưng khi số
lượng trẻ em trong gia đình tĕng lên, tỷ lệ tài nguyên tích lũy của cha mẹ sẽ giảm và
do đó trẻ em sẽ ít có cơ hội đi học hơn [126].
Các nghiên cứu khác nhau ở cả các nước phát triển và đang phát triển đã liên
tục khẳng định mối quan hệ nghịch đảo giữa số anh chị em và giáo dục trẻ em. Điều
này có lẽ là do thực tế là những gia đình có nhiều trẻ em có thể dành ít thời gian và
nguồn lực hơn cho mỗi cá nhân trẻ em [104]. Kết quả khảo sát ở hai vùng nông thôn
ở Thái Lan cho thấy quy mô gia đình có tác động quan trọng đến giáo dục của trẻ
em. Số trẻ em trong một gia đình và khả nĕng trẻ sẽ học vượt mức giáo dục bắt
buộc có liên quan nghịch đảo ngay cả khi các yếu tố quyết định quan trọng khác
được kiểm soát. Kết quả khảo sát và dữ liệu định tính được thu thập thông qua các
27
thảo luận nhóm cho thấy trách nhiệm chính trong việc đầu tư cho giáo dục trẻ em ở
Thái Lan phụ thuộc trực tiếp vào cha mẹ. Do đó, nguồn lực của cha mẹ giảm khi có
nhiều trẻ em và do đó trẻ em ít có cơ hội tiếp cận giáo dục hơn [124].
Tại Nam Á, gia đình đông con đã làm giảm khả nĕng đến lớp của cả trẻ em
trai và trẻ em gái, nhưng mức độ ảnh hưởng lớn nhất là đối với những đứa con cả và
con gái. Đứa con cả thường phải làm việc để bổ sung thu nhập cho gia đình hoặc
phải trông em, nhất là đối với những bé gái là chị cả trong gia đình [162]. Nghiên
cứu ở Ấn Độ cho thấy, quy mô hộ gia đình có sự ảnh hưởng tiêu cực đến giáo dục
của cả trẻ em trai và trẻ em gái. Điều này khẳng định một tiên nghiệm rằng với sự
gia tĕng quy mô gia đình, có xu hướng những đứa trẻ được giữ ở nhà để làm những
công việc nhà khác nhau. Tác động cho thấy lớn hơn đối với việc đi học của trẻ em
gái. Trẻ em gái cần ở nhà để thực hiện các công việc gia đình khác nhau và chĕm
sóc anh chị em khi quy mô gia đình tĕng lên [174]. Một nghiên cứu ở khu vực đô
thị Pakistan có kết luận rằng, khi thêm một thành viên trong gia đình lại làm giảm
khả nĕng trẻ đi học (đối với trẻ em, trẻ em trai và trẻ em gái). Điều này khẳng định
giả thuyết các hộ gia đình đầu tư ít hơn vào con cái do tỷ lệ phụ thuộc cao hơn trong
gia đình và trẻ em được giữ ở nhà để chia sẻ các công việc gia đình đa dạng [160].
1.1.7. Yếu tố thành thị - nông thôn
Bất bình đẳng trong giáo dục trung học phổ thông giữa nông thôn và thành
thị diễn ra phổ biến trên toàn cầu. Có sự khác biệt lớn giữa cơ hội tiếp cận và chất
lượng giáo dục ở nông thôn so với đô thị. Tất cả các nghiên cứu đều có điểm chung
khi cho rằng, trẻ em trong độ tuổi trung học phổ thông ở khu vực nông thôn được
tiếp cận với giáo dục ít hơn so với trẻ em ở khu vực thành thị. Khu vực nông thôn ở
nhiều nước có xu hướng nghèo đói cao hơn và rơi vào nhóm ngoài lề hơn trong giáo
dục [166]. Sackey (2007) phát hiện ra rằng có sự khác biệt theo địa phương trong
việc đi học tại trường của trẻ em ở Ghana. Trẻ em sống ở khu vực nông thôn, nổi
tiếng với tỷ lệ nghèo đói tương đối cao, có nhiều khả nĕng không đến trường hơn
những trẻ em sống ở thành thị [112].
Công việc nông nghiệp ở khu vực nông thôn thường theo mùa nên dễ bị
trùng với thời khóa biểu học, dẫn đến việc rút trẻ em ra khỏi trường học. Mặc dù
28
những lần huy động trẻ em tham gia vụ mùa là tạm thời, tuy nhiên nghiên cứu cho
thấy nó có thể dẫn đến việc rút trẻ em ra khỏi trường học lâu dài hơn [107, 151].
Ngoài ra, cha mẹ nông thôn có xu hướng ít học hơn nên việc cho trẻ em đi học cũng
ít hơn [166].
Giữa nông thôn và thành thị có sự khác nhau trong việc cha mẹ kỳ vọng vào
giáo dục của trẻ em. Cha mẹ thành thị mong đợi trình độ học vấn cho con cái nhiều
hơn cha mẹ nông thôn. Trẻ em thành thị cũng nhận được sự quan tâm của cha mẹ về
giáo dục nhiều hơn so với trẻ em nông thôn. Hơn nữa, nhiều trẻ em thành thị mong
muốn có được giáo dục cao hơn so với bạn bè nông thôn [179]. Đối với những
người nông dân, việc đi học được coi là không đáng vì họ nghi ngờ nó không liên
quan đến triển vọng trong tương lai (thường là nông dân) của trẻ em [107]. Các bậc
cha mẹ nông dân thường không gửi con đến trường vì họ nghĩ rằng sẽ không có
việc làm vào cuối chương trình học tập và vì thế, hạn chế lợi nhuận khoản đầu tư
của họ [151].
Đối với trẻ em nông thôn, mối quan hệ lỏng lẻo trong gia đình chủ yếu do
cha mẹ di cư lao động dẫn đến việc ít tương tác với cha mẹ và nhận thức kém tích
cực về mối quan hệ với cha mẹ, do đó dẫn đến không có nguồn vốn xã hội dồi dào
trong quá trình học tập. Trong khi mối quan hệ với cha mẹ của trẻ em thành thị có
chất lượng cao hơn nhờ vốn xã hội cao hơn trong gia đình và do đó củng cố thêm
lợi thế của họ trong giáo dục [179].
Thiếu các cơ sở giáo dục có tác động đến cả thời gian và nĕng lượng cần
thiết của trẻ em để đến trường [166]. Một nghiên cứu ở Campuchia nhận xét, các
yếu tố có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ chuyển tiếp lên trung học phổ thông là khả nĕng
tiếp cận của các cơ sở giáo dục trung học phổ thông của trẻ em. Các trường trung
học phổ thông được đặt tại các trung tâm đô thị, thủ phủ của tỉnh và một số trung
tâm huyện. Trẻ em từ nông thôn và vùng sâu vùng xa thường phải sống xa nhà để
được vào học trung học phổ thông [136]. Sự bất bình đẳng liên quan đến địa điểm
trường học trong các cơ hội giáo dục cũng có thể là hậu quả của mức độ nghèo của
gia đình ở các địa phương khác nhau và các cơ hội học tập không đồng đều ở các
trường khác nhau [149]. Do sự thiếu hụt các trường trung học trong khu vực lân cận
29
nhà ở, tỷ lệ học sinh bỏ học rất cao sau khi học tiểu học, đặc biệt là ở các tiểu bang
miền bắc Ấn Độ [127].
Chất lượng trường học có thể là một yếu tố quyết định quan trọng trong việc
đạt được giáo dục [118]. Khi các trường nông thôn được đầu tư thấp và chi tiêu giáo
dục cho mỗi học sinh thấp, cơ sở vật chất trường học không có sẵn, trẻ em nông
thôn sẽ phải vật lộn để cạnh tranh với các bạn ở thành thị trong các kỳ thi để vào
trung học phổ thông [179].
Bố trí không công bằng các giáo viên giỏi có thể làm trầm trọng hơn sự bất
bình đẳng giáo dục. Điều đó được ghi nhận rằng các giáo viên có trình độ tốt, đặc
biệt là giáo viên nữ, ít có khả nĕng chuyển đến và ở trong khu vực nông thôn hoặc
các trường thu nhập thấp trong khu vực nội thành [170]. Một nghiên cứu ở Trung
Quốc nhận xét, trong khi các trường học ở thành thị thường có đội ngũ giáo viên
được đào tạo tốt, các trường học ở các vùng nông thôn hẻo lánh thường gặp khó
khĕn trong việc tuyển dụng và giữ chân các giáo viên có trình độ. Nhiều giáo viên
nông thôn thiếu động lực để ở lại những ngôi làng nghèo và hẻo lánh thậm chí
không thể đảm bảo chi phí sinh hoạt cơ bản. Họ sẵn sàng di chuyển đến các khu vực
đô thị ngay khi họ tìm thấy cơ hội [179].
Trẻ em gái phải đối mặt với rủi ro lớn hơn trẻ em trai nếu khoảng cách và
thời gian đến trường mất nhiều thời gian. Ngoài ra còn phải đối mặt với quấy rối
tình dục, tấn công và/hoặc buôn bán. Nhiều bậc cha mẹ giữ con gái ở nhà vì những
lo ngại về an toàn, điều này thường dẫn đến việc đi học muộn cho đến khi trẻ em
gái được đánh giá là đủ tuổi để tự đi đến trường. Những vấn đề này thường xảy ra
hơn ở khu vực nông thôn và ở cấp giáo dục trung học [148]. Mật độ dân số thấp ở
khu vực nông thôn có nghĩa là trẻ em thường phải đi xa để đến trường, đôi khi trên
những địa hình rất khó khĕn [166]. Vì khoảng cách là rất quan trọng trong việc
quyết định liệu trẻ em sẽ đi học hay không, nên việc cung cấp phương tiện giao
thông như xe đạp, phương tiện giao thông miễn phí hoặc ký túc xá là rất quan trọng
cho trẻ em ở Ấn Độ đi học [127]. Xe buýt trường học phổ biến ở các nước phát
triển và do đó khoảng cách đến trường học thường không phải là một yếu tố ảnh
30
hưởng đến tỷ lệ đi học. Ở các khu vực nông thôn của Pakistan không có hệ thống xe
buýt như vậy nên dẫn đến tỷ lệ đi học của trẻ em thấp [150].
Một khía cạnh có thể làm cho khu vực thành thị có tỷ lệ trẻ em đi học cao
hơn khu vực nông thôn là do có sự đóng góp tích cực của các trường tư vào hoạt
động giáo dục. Các trường tư có thể vừa giảm bớt vừa gây bất bình đẳng. Ở nhiều
quốc gia, các trường tư nhân giải quyết nhu cầu của dân số đô thị tĕng và cung cấp,
phục vụ giáo dục với chất lượng cao hơn thực tế so với hệ thống công cộng, và cung
cấp dịch vụ giáo dục khi hệ thống công cộng không mở rộng để đáp ứng nhu cầu
dân số [170]. Thêm vào đó, ở khu vực thành thị của Thổ Nhĩ Kỳ, ngoài việc cơ sở
hạ tầng giao thông và đường bộ có xu hướng tốt hơn còn có sự ảnh hưởng của nhà
nước mạnh mẽ hơn và có thể có nhiều áp lực hơn đối với bố mẹ và trẻ em trong
việc đi học [94].
1.1.8. Yếu tố vùng địa lý
Nghiên cứu của Wagenaar (1987) chỉ ra rằng những người bỏ học được đặc
trưng bởi sự không chuẩn mực và sự cô lập xã hội. Điều này cho thấy rằng sự tương
tác cộng đồng và nhận truyền đạt các chuẩn mực và giá trị phù hợp với giáo dục có
khả nĕng tạo ra cho trẻ em ý thức hòa nhập xã hội lớn hơn và khả nĕng bỏ học thấp
hơn. Môi trường cộng đồng có liên quan đến kết quả giáo dục không chỉ về mặt hữu
hình như đầu tư vào cơ sở vật chất trường học, mà còn về các mô hình tương tác xã
hội [133].
Các tập quán và thái độ vĕn hóa truyền thống của cộng đồng đóng một vai
trò quan trọng trong lĩnh vực tiếp cận giáo dục [166]. Các tiêu chuẩn cộng đồng
cũng đóng một vai trò quan trọng. Cộng đồng cư trú là một yếu tố dự báo quan
trọng về việc mong muốn đi học của trẻ em, ngay cả sau khi kiểm soát các đặc điểm
ở cấp độ hộ gia đình. Nếu có ít người trong làng học trung học, bất kỳ cá nhân học
sinh nào cũng không có khả nĕng được yêu cầu đi học [147].
Việc thiếu các nguồn lực ở những khu vực cộng đồng nghèo thường dẫn đến
các trường học có chất lượng thấp hơn, điều này có thể làm giảm lợi nhuận của giáo
dục và không khuyến khích trẻ em đi học [144]. Một nghiên cứu ở Trung Quốc cho
biết, tỷ lệ nhập học và hoàn thành giáo dục rất khác nhau trên khắp đất nước này.
31
Địa hình, thu nhập bình quân đầu người và dân tộc giải thích một số khác biệt, tuy
nhiên, sự khác biệt về địa điểm các vùng đơn giản là vì chất lượng giáo dục được
cung cấp và đầu tư của địa phương [147]. Theo nhận xét của một nghiên cứu khác,
giáo dục ở Trung Quốc đang bộc lộ nhiều bất bình đẳng, có sự di chuyển giáo viên
giỏi đến các vùng phát triển và trường chất lượng cao làm cho chất lượng giáo dục
mất cân đối giữa các vùng miền [69].
Một số nghiên cứu khác ở Trung Quốc cho thấy, trong các thị trường lao
động phân khúc, lợi nhuận của giáo dục ở các vùng nghèo, hẻo lánh có thể rất thấp
vì thế không khuyến khích gia đình đầu tư cho giáo dục [144, 147]. Thiếu triển
vọng việc làm có nghĩa là giáo dục không còn gắn liền với sự giàu có, địa vị hoặc
an toàn. Như có thể giải thích bởi lý thuyết lựa chọn hợp lý nhận ra rằng mối đe dọa
thua lỗ có thể thúc đẩy mọi người đầu tư cho giáo dục ít hơn [106].
Những nghiên cứu khác trên thế giới cho thấy, những người sống ở vùng xa
xôi và những vùng dân cư thưa thớt phải chịu thiệt thòi do thiếu tiếp cận trực tiếp
trường học và điều này vẫn xảy ra với nhiều quốc gia, nhất là ở cấp trung học [162].
Một nghiên cứu ở Thổ Nhĩ Kỳ nhận xét, các địa phương có thể không có sẵn trường
trung học hoặc chúng có thể nằm cách xa nơi những người nghèo nhất định cư. Nó
có thể nguy hiểm hoặc có thể được cha mẹ cho là nguy hiểm khi trẻ em phải đi bộ
trên đoạn đường dài [94]. Trẻ em Pakistan không thể đi bộ với khoảng cách lớn và
trong trường hợp không có hệ thống giao thông đầy đủ thì cha mẹ sẽ không sẵn lòng
cho trẻ em đến trường. Việc thiếu các trường học ở các khu vực nông thôn xa xôi và
khoảng cách đến trường học lớn như vậy là một yếu tố dẫn đến tỷ lệ trẻ em đi học
thấp và tỷ lệ bỏ học cao hơn [150]. Ngoài ra, những khu vực nghèo cho thấy rằng,
tỷ lệ biết chữ và mức độ đi học của người lớn thấp do đó dẫn đến việc trẻ em đi học
thấp [174].
Cuối cùng, các yếu tố chính trị cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự
phát triển của giáo dục giữa các vùng khác nhau. Các lựa chọn của lãnh đạo liên
quan đến các ưu tiên đầu tư và chiến lược hỗ trợ có tác động mạnh mẽ đến sự bất
bình đẳng trong giáo dục giữa các tỉnh của Trung Quốc [113].
32
1.2. NGHIÊN CỨU CỦA VIỆT NAM
1.2.1. Yếu tố giới
Các cuộc khảo sát quốc gia đều cho thấy có những thành tựu rõ rệt về bình
đẳng giới trong tiếp cận giáo dục và trẻ em gái được đi học với tỷ lệ cao hơn trẻ em
trai. J. Knodel và cộng sự (1996) đã sử dụng Việt Nam như một trường hợp nghiên
cứu để lập luận rằng khoảng cách giới trong giáo dục không còn là vấn đề nữa ở hầu
hết các nước đang phát triển. Các tác giả đã nhấn mạnh sự khác biệt quan trọng hơn
đáng kể giữa các nhóm kinh tế - xã hội hơn là sự khác biệt giữa nam và nữ. Nhóm
tác giả này kêu gọi các chính sách nhằm giảm nghèo thay vì giảm chênh lệch giới
và cho rằng, với mức sống ngày càng tĕng và mức sinh thấp hơn, bất bình đẳng giới
trong giáo dục sẽ được giải quyết [125]. Một báo cáo nĕm 2008 cho biết, trong giáo
dục mầm non và giáo dục phổ thông về cơ bản đã đạt được bình đẳng giới [8].
Một số nghiên cứu đã có những giải thích khác nhau về tỷ lệ trẻ em gái đi
học trung học phổ thông cao hơn trẻ em trai. Phân tích số liệu Tổng điều tra dân số
nhà ở Việt Nam nĕm 2009 bằng mô hình hồi quy đa biến, một nghiên cứu khẳng
định trong cùng một điều kiện chịu tác động của nhiều yếu tố khác, trẻ em gái có
xác suất đi học ở bậc trung học cao hơn trẻ em trai. Qua đó cho thấy, có nhiều cơ
hội hoặc áp lực hơn liên quan đến việc đi làm cũng như ít hạn chế hơn đối với việc
thoát ly có thể làm giảm khả nĕng duy trì học vấn của trẻ em trai [73]. Tỷ lệ bỏ học
của trẻ em trai cao hơn trẻ em gái có thể là do áp lực kinh tế, xã hội đã bắt buộc các
trẻ em trai phải nghỉ học để giúp gia đình hoặc tìm việc làm kiếm tiền [78]. Con gái
học tập chĕm chỉ hơn và/hoặc áp lực kinh tế, xã hội nhiều hơn buộc các em trai phải
nghỉ học để đi làm ở cuối cấp hai [79]. Một số trẻ em ở độ tuổi vị thành niên bỏ học
để đi lao động kiếm tiền tại địa phương hoặc tới các khu đô thị và các tỉnh lân cận.
Trên thực tế, có vẻ như tỷ lệ các em trai trung học phổ thông bỏ học nhiều là do nhu
cầu hoặc mong muốn đi kiếm việc làm được trả lương [80].
Có lẽ do việc cải thiện mức sống gia đình, giảm số con của mỗi cặp vợ
chồng, gia tĕng sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế và tích cực triển
khai các chương trình bình đẳng giới đã góp phần giảm bớt những định kiến giới và
tạo nên cơ hội đi học ngày càng bình đẳng hơn cho trẻ em gái [30]. Thậm chí xuất
33
phát từ thực tế cuộc sống gần đây, nhiều bậc cha mẹ có tâm lý lo ngại con gái sẽ
khó lấy chồng nếu không được học hành tử tế, không có công ĕn việc làm ổn định
[22]. Theo lý giải của Chương trình nghiên cứu ‘Những cuộc đời trẻ thơ’, trẻ em
trai ở độ tuổi 15 bỏ học nhiều hơn không nhất thiết phản ánh sự phân biệt giới (đối
với các em học sinh nam) của cha mẹ mà có lẽ được giải thích bởi vì trẻ em gái
thường có học lực và điểm thi chuyển cấp vào trung học phổ thông tốt hơn trẻ em
học trai [90]. Một nghiên cứu khác đưa ra kết luận, việc thực hiện các chính sách
của chính phủ về bình đẳng giới và thay đổi nhận thức của mọi người về bình đẳng
giới đã có ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ em gái đi học cao hơn trẻ em trai ở bậc trung học
phổ thông [99].
Một số nghiên cứu đã xác nhận ảnh hưởng của bạn bè cùng trang lứa và cùng
giới trong vấn đề tiếp cận giáo dục của trẻ em. Một nghiên cứu đã phát hiện, áp lực
bạn bè làm giảm giá trị giáo dục là một vấn đề đối với trẻ em nhóm Hmông và
Bahnar. Giáo viên và các phụ huynh tham gia nghiên cứu khẳng định rằng việc có
một trẻ em gái nghỉ học cũng sẽ có ảnh hưởng đến việc tiếp tục theo học của các trẻ
em gái khác. Những trẻ em gái người Bahnar bày tỏ việc không thích đi học vì các
bạn gái khác cũng bỏ học, vì thế các em không muốn đi học một mình [5]. Những
người tham gia một nghiên cứu ở An Giang đã thừa nhận có những ảnh hưởng xấu
của bạn bè lên các hành vi học tập của trẻ em. Cụ thể, tại một xã khảo sát trong thời
gian một vài nĕm vừa qua, số trẻ em trai bỏ học nhiều hơn số trẻ em gái và lý do
của việc bỏ học đó là từ những hành vi quậy phá xã hội như rượu chè, đánh lộn và
nghiện trò chơi điện tử [59].
1.2.2. Yếu tố dân tộc
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với nhiều nhóm dân tộc vẫn còn lưu giữ
ngôn ngữ và vĕn hóa đặc trưng riêng của mình. Có những khác biệt rõ rệt về vĕn
hóa, kinh tế và sự tham gia vào xã hội hiện đại trong số các nhóm dân tộc thiểu số.
Mặc dù gần đây đã có nhiều cải thiện về điều kiện kinh tế - xã hội ở vùng miền núi
và vùng xa vùng sâu, nhưng dân tộc thiểu số vẫn là nhóm dân số nghèo nhất và biệt
lập nhất, dẫn đến trẻ em của các gia đình dân tộc thiểu số vẫn còn gặp nhiều khó
khĕn trong việc tiếp cận với giáo dục. Kết quả phân tích đa biến từ số liệu Tổng
34
điều tra dân số và nhà ở Việt Nam nĕm 2009 cho thấy, sau khi tính đến sự ảnh
hưởng của các biến số độc lập khác có trong mô hình, khả nĕng đi học của trẻ em ở
nhóm dân tộc thiểu số thấp hơn gần một nửa so với trẻ em nhóm dân tộc Kinh [73].
Những nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ đi học của trẻ em dân tộc thiểu số
thấp hơn trẻ em dân tộc Kinh ở Việt Nam là do những rào cản về định kiến, quan
niệm. Có bằng chứng cho thấy khi hộ gia đình dân tộc thiểu số phải lựa chọn cho
con trai hay con gái đi học thì nhìn chung con gái sẽ không được đi học. Việc này
hiển nhiên dẫn đến tỉ lệ giáo dục trung học thấp và sự thiếu nĕng lực của phụ nữ.
Đồng thời, nó cũng làm cho tỉ lệ lao động nữ trong các ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp và ngư nghiệp tĕng cao, và vắng mặt phụ nữ trong các vị trí quản lý và lãnh
đạo [5]. Báo cáo phân tích tình hình trẻ em Lào Cai cho thấy, một số cộng đồng dân
tộc thiểu số có tư tưởng trọng nam khinh nữ, sự ưu tiên học hành của các gia đình
thường dành cho con trai hơn, do con trai là người nối dõi, đặc biệt là các dân tộc ít
người và kém phát triển [86].
Một số nghiên cứu khác cho rằng, trẻ em người dân tộc thiểu số có khả nĕng
tiếp cận giáo dục thấp hơn người Kinh là do những rào cản về nghèo đói, phải làm
việc, cơ sở vật chất nhà trường thiếu thốn và chất lượng dạy học thấp. Các tỷ lệ
nhập học thấp hơn ở nhóm dân tộc thiểu số là do các chi phí cơ hội và chi phí tiền
mặt cao hơn và thiếu nhận thức phù hợp về giáo dục [2]. Tỷ lệ nhập học của trẻ em
dân tộc thiểu số đặc biệt nhạy cảm với yếu tố không ổn định trước mắt. Điều đó cho
thấy những gia đình này phải nỗ lực rất lớn để có đủ tiền thanh toán các khoản chi
phí học tập “trước mắt”, ở bậc trung học phổ thông học phí và các chi phí sẽ cao
hơn rất nhiều [35]. Một nghiên cứu cho thấy, bất bình đẳng trong giáo dục giữa
nhóm dân tộc thiểu số và người Kinh là do một trong những nguyên nhân chính là
bất bình đẳng trong tiền công và thu nhập. Những người chủ có xu hướng thuê lao
động là người Kinh hơn vì thế không tạo động lực tham gia giáo dục của người dân
tộc thiểu số [96].
Phân tích nguyên nhân trẻ em bỏ học trong cộng đồng người Khơ me ở tỉnh
An Giang, một nghiên cứu nhận định, các tấm gương thành đạt từ học hành đặc biệt
thiếu ở cộng đồng dân tộc thiểu số này. Có rất ít người tốt nghiệp từ các lớp đại học,
35
cao đẳng để làm gương cho những thế hệ tiếp theo. Tại một xã được khảo sát, chỉ có
một vài trẻ em gái người Khơ me đã tốt nghiệp các lớp trung cấp, cao đẳng, nhất là
các lớp sư phạm, sau đó có nghề nghiệp ổn định. Đại biểu trong nhóm thảo luận với
cha mẹ học sinh cho rằng đó là những tấm gương, những ví dụ tích cực để các thể
hệ trẻ em lứa sau noi theo [59]. Điều này cũng xảy ra tương tự đối với người dân
tộc thiểu số gốc Tây Nguyên. Báo cáo phân tích tình hình trẻ em và phụ nữ tỉnh
Kon Tum nhận xét, tỷ lệ nghỉ học cao của trẻ em trai dân tộc thiểu số cũng có thể
liên quan đến việc không có những tấm gương thành đạt từ việc học hành trong các
cộng đồng địa phương, nhất là ở các vùng sâu, xa [79]. Những cán bộ quản lý giáo
dục tham gia trong một nghiên cứu tiến hành khảo sát ở Ninh Thuận cũng cho rằng,
còn thiếu những gương điển hình của trẻ em người dân tộc thiểu số để góp phần xóa
đi các định kiến xã hội và để tiếp tục động viên việc học tập của trẻ em dân tộc
thiểu số [7].
Tình trạng bất bình đẳng trong cơ hội tiếp cận giáo dục của trẻ em dân tộc
thiểu số gia tĕng là do kết hợp cả yếu tố thành phần dân tộc và điều kiện địa lý tự
nhiên, cư trú ở vùng sâu vùng xa, giao thông đi lại khó khĕn, phương tiện đi lại
không sẵn có. Việc người dân tộc thiểu số sống tập trung ở các vùng miền núi, vùng
sâu, vùng xa làm cho trẻ em gặp phải những khó khĕn đặc thù riêng ở những vùng
này [47]. Theo số liệu khảo sát 53 dân tộc thiểu số nĕm 2015, trung bình một học
sinh trung học phổ thông cần di chuyển qua quãng đường 17,6km để có thể đến
trường. Khoảng cách trung bình gần nhất dưới 9,6km trong khi khoảng cách xa nhất
trung bình trên 23,3km. Cá biệt có nhóm trẻ em dân tộc thiểu số phải di chuyển rất
xa mới có thể đến trường trung học phổ thông như Ơ Đu (70km), Rơ Mĕm (60km),
Hà Nhì (39km), Giẻ Triêng (23,5km), Cơ Tu (20km) [85]. Dân cư thưa thớt, khoảng
cách tới trường xa, đường xá đi lại khó khĕn cộng thêm điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt là một rào cản đối với trẻ em ở Lào Cai. Khó khĕn này tác động xấu đến việc
huy động trẻ em đi học, ngay cả đối với thành phố Lào Cai, nơi có số xã khó khĕn ít
nhất trong tỉnh [86].
Giải thích về sự tham gia học đường thấp của trẻ em dân tộc thiểu số, một số
nghiên cứu đã nhận định rằng, các nhóm dân tộc thiểu số nhiều nhưng nói chung
36
không đông, gắn bó lâu đời về mặt địa lý và ở những vùng đôi khi hẻo lánh, rất gắn
bó về vĕn hóa và ngôn ngữ, trẻ em có những nhiệm vụ đặc trưng trong phân công
lao động vì thế mà có những hạn chế trong việc đi học [48]. Con trai Raglay thường
được giao nhiệm vụ chĕn gia súc - gắn liền với viễn cảnh sinh kế của chính bản thân
các em trong tương lai. Xét từ góc độ tác động trực tiếp, đây là những nguyên nhân
chính gây ra cho tỷ lệ bỏ học cao của trẻ em trai người Raglay [80]. Các em gái có
nhiều khả nĕng sẽ bị nghỉ học ở độ tuổi sớm hơn, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển
tiếp từ trung học cơ sở lên trung học phổ thông, để hỗ trợ công việc nhà trong gia
đình. Khi cần chĕm sóc cho các thành viên gia đình, em gái thường xuyên bị cha mẹ
ép trở về nhà [60]. Điều đó cho thấy, các giá trị truyền thống vẫn ưu tiên hoàn thành
việc học cho con trai, mặc dù đầu tư vào giáo dục của trẻ em gái đã được cho là một
quyết định kinh tế quan trọng, vì các em gái được học tập sẽ có khả nĕng mang lại
thu nhập tốt hơn, lập gia đình muộn hơn và có ít con hơn nhưng khỏe mạnh hơn.
Mặc dù các cấp chính quyền đã có nhiều cố gắng để hòa nhập các nhóm dân tộc
thiểu số vào xu thế chung, kể cả việc miễn học phí cũng như việc lập các trường nội
trú, việc đi học của nhóm xã hội này vẫn ở mức thấp và tình trạng mù chữ vẫn còn ở
mức cao. Mối quan tâm gìn giữ phương thức sản xuất và các định hướng vĕn hóa đã
duy trì thái độ né tránh việc đi học của các nhóm dân tộc thiểu số [48].
Nhìn từ góc độ khác, ảnh hưởng của phong tục truyền thống trong cộng đồng
dân tộc thiểu số cũng có mối quan hệ với khả nĕng được tiếp cận giáo dục trung học
phổ thông của trẻ em. Chẳng hạn, tệ nạn tảo hôn trong các cộng đồng dân tộc thiểu
số đã gây ra hiện tượng bỏ học của trẻ em. Trong giai đoạn chuyển tiếp từ tiểu học
lên trung học cơ sở, các em gái có nhiều khả nĕng sẽ bị nghỉ học ở độ tuổi sớm hơn,
một phần là các em thường kết hôn ở độ tuổi sớm hơn em trai [60]. Tục lệ tảo hôn
xuất phát từ việc các gia đình cần người để lao động sản xuất. Các dân tộc Dao và
Hmông còn có phong tục lấy vợ nhiều tuổi hơn để về làm được nhiều việc cho nhà
chồng [42]. Đối với một số nhóm dân tộc thiểu số, nhu cầu thiếu người lao động
bên nhà trai muốn lấy thêm lao động về làm hơn là việc xây dựng hạnh phúc cho
con cái. Một số gia đình khi hỏi vợ cho con, cô dâu vẫn đang học lớp 7-8. Sau khi
về nhà chồng, cô dâu không được đi học nữa mà chỉ ở nhà làm nội trợ [86].
37
Teerawichitchainan và đồng nghiệp (2007) thực hiện một nghiên cứu sâu tại hai xã
vùng cao ở Thái Nguyên cho thấy nhiều trẻ em gái dân tộc thiểu số đang học trung
học phổ thông phải bỏ học để lấy chồng vì mang thai, một số em gái khác phải nạo
thai [157]. Báo cáo phân tích tình hình trẻ em ở Ninh Thuận cho biết, chế độ mẫu hệ
của người Raglay cộng với các nhu cầu kinh tế, xã hội của trẻ vị thành niên đang
nổi lên như là những nguyên nhân mang tính ‘trước mắt’ cũng như mang tính
‘nguồn gốc cơ bản’ gây ra việc bỏ học của cả trẻ em trai và trẻ em gái. Với trẻ em
gái, có thể có nhiều áp lực trong việc lấy chồng sớm, nguyên do là sau đám cưới sẽ
có người nhà trai đến ở cùng nhà với cô dâu và như vậy sẽ bổ sung thêm nĕng lực
lao động, sản xuất cho gia đình [80].
Những phong tục tập quán khác cũng có ảnh hưởng đến quá trình tiếp cận
giáo dục trung học phổ thông của trẻ em người dân tộc thiểu số. Người Dao ở miền
núi phía Bắc có những tục kiêng kỵ vào rất nhiều ngày trong một nĕm và các gia
đình thường bắt con cháu ở nhà. Ngày giỗ ông bà, con cháu cũng không được rời
khỏi nhà. Không chỉ vậy, người Dao còn có tục lệ ĕn cưới trong nhiều ngày và cả
gia đình đi ĕn cưới và khi đó trẻ em phải nghỉ học 6-7 ngày [42]. Đối với người
Chĕm, một khía cạnh bất lợi của truyền thống đó là tục lệ phải có lễ vật lớn cho cả
đám ma và đám cưới với những chi phí lớn về tài sản và tiền bạc. Việc này có thể
đẩy một số gia đình vào cảnh nợ nần và từ đó ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống cũng
như giáo dục của trẻ em [80].
Một nguyên nhân dẫn đến trẻ em dân tộc thiểu số luôn có khả nĕng thấp hơn
trẻ em người Kinh trong tiếp cận giáo dục là do nhận thức của bố mẹ. Hầu hết dân
tộc thiểu số sinh sống ở các vùng nông thôn tương đối sâu và xa, rất ít người tìm
được việc làm trong các ngành côn...n thiết nghiên cứu vốn xã hội
ở nông thôn Việt Nam hiện nay”, Hội thảo quốc tế: Đóng góp của khoa học
xã hội - nhân vĕn trong phát triển kinh tế - xã hội, Hà Nội.
46. Nguyễn Xuân Mai, Trịnh Thái Quang (2013), “Bất bình đẳng về cơ hội giáo
dục ở Việt Nam”, Tạp chí Xã hội học, (4), tr. 60-72.
47. Nhóm hành động chống đói nghèo (2002), “Cung cấp giáo dục cơ bản có
chất lượng cho mọi người”, Báo cáo chung của các nhà tài trợ, Hà Nội.
48. Nolwen Henaff, Jean-Yves Martin (2001), “Chiến lược cá nhân và gia đình”,
Nolwen Henaff, Jean-Yves Martin (Biên tập khoa học). Lao động, việc làm
và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 nĕm Đổi mới, NXB Thế giới, Hà Nội.
49. Nolwen Henaff, Jean-Yves Martin (2001), “Tổ chức lại nền kinh tế và cơ cấu
lại xã hội”, Nolwen Henaff, Jean-Yves Martin (Biên tập khoa học). Lao
157
động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 nĕm Đổi mới, NXB Thế
giới, Hà Nội.
50. Nolwen Henaff và Marie-France Lange (2012), “Các mối quan hệ giữa giáo
dục và đói nghèo - Lý thuyết và ảnh hưởng đến các chính sách giáo dục”,
Tạp chí Xã hội học, (2), tr. 111-119.
51. OXFAM (2017), “Thu hẹp khoảng cách cùng giảm bất bình đẳng ở Việt
Nam”, NXB Lao động & Xã hội, Hà Nội.
52. Oxfam, ActionAid (2012), “Theo dõi nghèo theo phương pháp cùng tham
gia tại một cộng đồng dân cư nông thôn Việt Nam”, Hà Nội.
53. Phạm Quyết (1999), “Sự khác biệt giới trong giáo dục ở một vùng công
giáo”, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, (4), tr. 21-26.
54. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (1998), “Xã hội học”, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
55. Phạm Thị Vân (2007), “Đầu tư của gia đình cho giáo dục của con cái”.
Chương trình hợp tác nghiên cứu Việt Nam-Thụy Điển 2004-2007: Dự án
nghiên cứu liên ngành "Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi" (VS-
RDE-05)-Kết quả nghiên cứu khảo sát tại Yên Bái nĕm 2004, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
56. Phạm Vĕn Quyết, Nguyễn Quý Thanh (2001), “Phương pháp nghiên cứu xã
hội học”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
57. Quốc Hội (2019), “Luật Giáo dục”, Luật 43/2019/QH14, Hà Nội.
58. Thủ tướng Chính phủ (2012), “Quyết định phê duyệt ''Chiến lược phát triển
giáo dục 2011 - 2020"”, Số: 711/QĐ-TTg, ngày 13 tháng 6 nĕm 2012, Hà
Nội.
59. Tỉnh An Giang, UNICEF Việt Nam (2012), “Phân tích tình hình trẻ em ở An
Giang”.
60. Tỉnh Điện Biên, UNICEF Việt Nam (2010), “Phân tích tình hình trẻ em tỉnh
Điện Biên”, Hà Nội.
61. Tổng cục DS-KHHGĐ, Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Phát triển Châu Á
(2010), “Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ
2”, Hà Nội.
62. Tổng cục Thống kê (2006), “Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình Việt
Nam nĕm 2006”, NXB Thống kê, Hà Nội.
63. Tổng cục Thống kê (2011), “Tổng điều tra dân và nhà ở Việt Nam 2009 -
Giáo dục ở Việt Nam: Phân tích các chỉ chủ yếu”, Tổng cục Thống kê và
Quỹ Dân Liên hợp quốc tại Việt Nam, Hà Nội.
64. Tổng cục Thống kê (2015), “Điều tra dân và nhà ở giữa kỳ thời điểm
1/4/2014: Các kết quả chủ yếu”, NXB Thống kê, Hà Nội.
65. Tổng cục Thống kê (2017), “Kết quả chủ yếu Điều tra biến động dân và kế
hoạch hóa gia đình thời điểm 1/4/2016”, NXB Thống kê, Hà Nội.
158
66. Tổng cục Thống kê (2018), “Kết quả Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam
nĕm 2016”, NXB Thống kê, Hà Nội.
67. Tổng cục Thống kê và UNICEF (2015), “Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ
em và phụ nữ Việt Nam 2014, Báo cáo cuối cùng”, Hà Nội.
68. Tony Bilton, Kenvin Bonnett, Philip Jones, Michelle Stanworth, Ken Shear,
Andrew Webster (1993), “Nhập môn xã hội học”, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
69. Trần Quốc Toản, Đặng Ứng Vận, Đặng Bá Lãm, Trần Thị Bích Liễu (2012),
“Phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Trần Quý Long (2009), “Trẻ em và sự tham gia lao động đóng góp thu nhập
cho gia đình”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, (4), tr. 44-55.
71. Trần Quý Long (2013), “Các yếu tố gia đình ảnh hưởng đến tuổi thôi học của
thanh thiếu niên Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, (2), tr.
29-42.
72. Trần Quý Long (2014), “Sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái vị thành
niên trong đời sống tâm lý, tình cảm ở khu vực Bắc Trung bộ”, Tạp chí
Nghiên cứu Gia đình và Giới, (5), tr. 84-93.
73. Trần Quý Long (2014), “Tiếp cận giáo dục của trẻ em Việt Nam và các yếu
tố ảnh hưởng”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, (4), tr. 48-58.
74. Trần Quý Long (2016), “Tiếp cận giáo dục của trẻ em gái ở nhóm tách biệt
xã hội về điều kiện sống”, Võ Khánh Vinh, Nguyễn Hữu Minh (Đồng chủ
biên). Các chiều cạnh giới của sự tách biệt xã hội hướng tới chính sách toàn
diện hơn đối với phụ nữ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 201-216.
75. Trần Quý Long (2018), “Tác động của các yếu tố đối với tiếp cận giáo dục
trung học của trẻ em Việt Nam”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, (9), tr.
22-30.
76. Trịnh Duy Luân (2004), “Xã hội học đô thị”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
77. Trịnh Duy Luân (2005), “Một vấn đề xã hội trong giáo dục phổ thông ở đô
thị hiện nay (Qua khảo sát tại Đà Nẵng, Nam Định và Hải Phòng)”, Tạp chí
Xã hội học, (3), tr. 52-62.
78. UBND tỉnh Gia Lai, UNICEF Việt Nam (2015), “Phân tích tình hình trẻ em
tỉnh Gia Lai”.
79. UBND tỉnh Kon Tum, UNICEF Việt Nam (2015), “Phân tích tình hình trẻ
em và phụ nữ tỉnh Kon Tum”.
80. UBND tỉnh Ninh Thuận, UNICEF Việt Nam (2012), “Phân tích tình hình trẻ
em tỉnh Ninh Thuận”.
81. UNDP (2011), “Báo cáo quốc gia về phát triển con người nĕm 2011: Dịch vụ
xã hội phục vụ phát triển con người”, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc.
159
82. UNFPA (2011), “Thanh niên Việt Nam: Tóm tắt một chỉ thống kê từ Tổng
điều tra dân và nhà ở Việt Nam nĕm 2009”, Quỹ Dân Liên hợp quốc tại Việt
Nam, Hà Nội.
83. Unicef, UBND thành phố Hồ Chí Minh (2017), “Phân tích tình hình trẻ em
thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam nĕm 2017”.
84. UNICEF Việt Nam (2008), “Phân tích tình hình trẻ em ở Việt Nam sử dụng
cách tiếp cận dựa vào quyền”, Hà Nội.
85. Ủy ban Dân tộc, UNDP, Irish Aid (2017), “Tổng quan thực trạng kinh tế-xã
hội của 53 dân tộc thiểu (Dựa trên kết quả phân tích liệu điều tra thực trạng
kinh tế-xã hội của 53 dân tộc thiểu nĕm 2015)”, Hà Nội.
86. Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai, UNICEF Việt Nam (2016), “Phân tích tình
hình trẻ em tỉnh Lào Cai”, Hà Nội.
87. Võ Thanh Sơn, Trương Thị Kim Chuyên, Đoàn Thuận Hòa, Nguyễn Thị
Thùy, Đỗ Vĕn Hợi, Hồ Thanh Bình, Lê Ngọc Can (2001), “Đi học và bỏ học
của học sinh”, Dominique Haughton, Jonathan Haughton, Nguyễn Phong
(chủ biên). Mức sống trong thời kỳ bùng nổ kinh tế Việt Nam, NXB Thống
kê, Hà Nội.
88. Vũ Đức Khánh, Vũ Thị Thu Thủy, Bùi Kim Loan, Lê Hồng Phong, Nguyễn
Quang Phương (2001), “Lao động và việc làm”, Dominique Haughton,
Jonathan Haughton, Nguyễn Phong (chủ biên). Mức sống trong thời kỳ bùng
nổ kinh tế Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
89. World Bank (2012), “Báo cáo đánh giá nghèo Viêṭ Nam 2012”, Ngân hàng
Thế giới taị Việt Nam, Hà Nội.
90. Young Lives (2011), “Báo cáo điều tra vòng 3: Trẻ em lớn lên như thế nào
trong thiên niên kỷ mới? Những kết quả ban đầu của Việt Nam”, Chương
trình Những cuộc đời trẻ thơ, Hà Nội.
Tiếng Anh
91. Alan R. Sadovnik (2001), “Theories in the sociology of education”,
Ballantine and Joan Z Jeame H, Spade (eds.). Schools and Society - A
sociological approach to education, Wadsworth.
92. Andrew J. Houtenville and Karen Smith Conway (2008), “Parental effort,
school resources, and student achievement”, The Journal of Human
Resources, (43), pp. 437-453.
93. Arnold, C., Bartlett, K., Gowani, S., Merali, R. (2007), “Is every-body
ready? Readiness, transition and continuity: Reflections and moving forward.
Working Paper 41”, Bernard van Leer Foundation, The Hague, Netherlands:
Bernard van Leer Foundation.
94. Aysit Tansel (2002), “Determinants of school attainment of boys and girls in
Turkey: Individual, household and community factors”, Economics of
Education Review, (21), pp. 455-470.
160
95. Barker, G., Verma, R., Crownover, J., Segundo, M., Fonseca, V., Contreras,
J., Heilman, B., Pawlak, P. (2012), “Boys and education in the global south:
Emerging vulnerabilities and new opportunities for promoting changes in
gender norms”, Journal of Boyhood Studies, (6), pp. 137-150.
96. Baulch, B., K.C. Truong, D. Haughton, J. Haughton (2007), “Ethnic
minority development in Vietnam”, Journal of Development Studies, (43),
pp. 1151-1171.
97. Chansopheak Keng (2004), “Household determinants of schooling
progression among rural children in Cambodia”, International Education
Journal, (5), pp. 552-561.
98. Chris Barker (2000), “Cultural Studies - Theory and Practice”, Sage
Publications Ltd., London.
99. Cuong Nguyen (2016), “Determinants of children's education in Vietnam:
Evidence from the 2014 Intercensal Population and Housing Survey. MPRA
Paper No. 81828”, Munich Personal RePEc Archive.
100. Danièle Bélanger and Jianye Liu (2004), “Social policy reforms and
daughters’ schooling in Vietnam”, International Journal of Educational
development, (24), pp. 23-38.
101. Diane Reay (2001), “Finding or losing yourself? working-class relationships
to education”, Journal of Education Policy, (16), pp. 333-346.
102. Diane Reay (2004), “Education and cultural capital: The implications of
changing trends in education policies”, Cultural Trends, (13), pp.73–86.
103. Diane Reay (2005), “Doing the dirty work of social class? Mothers' work in
support of their children's schooling”, The Sociological Review, (53), pp.
104-116.
104. Douglas B. Downey (1995), “When bigger is not better: Family size,
parental resources, and children's educational performance”, American
Sociological Review, (60), pp. 746-761.
105. Edward B. Fiske and Barbara O’Grady (2000), “A report of the United States
to the international consultative forum on Education for All”, The Academy
for Educational Development, Washington, D.C.
106. Fengshu Liu (2004), “Basic education in China’s rural areas: a legal
obligation or an individual choice?” International Journal of Educational
Development, (24), pp. 5-21.
107. Frances Hunt (2008), “Dropping out from school: A cross country review of
literature”, Research Monograph No.16. Centre for International Education,
Sussex School of Education, University of Sussex, Brighton, United
Kingdom.
108. Gary S. Becker (1993), “Human capital: A theoretical and empirical analysis,
with special reference to education (Third edition)”, The University of
Chicago Press, Chicago and London.
161
109. Gary S. Becker and Nigel Tomes (1976), “Child endowments and the
quantity and quality of children”, The Journal of Political Economy, (84), pp.
143-162.
110. George Ansalone (2010), “Tracking: Educational differentiation or defective
strategy”, Educational Research Quarterly, (34), pp. 3-17.
111. Gita Subrahmanyam (2016), “Gender perspectives on causes and effects of
school dropouts”, Sida, Stockholm.
112. Harry A. Sackey (2007), “The determinants of school attendance and
attainment in Ghana: A gender perspective”, AERC Research Paper 173,
Nanaimo, Canada.
113. Henan Cheng (2009), “Inequality in basic education in China: A
comprehensive review”, International Journal of Educational Policies, (3),
pp. 81-106.
114. Hepworth, F. (2013), “Why are boys under-performing in education? Gender
analysis of four Asia-Pacific countries”, United Nations Girls’ Education
Initiative, New York.
115. Jackline Wahba (2006), “The influence of market wages and parental history
on child labour and schooling in Egypt”, Journal of Population Economics,
(19), pp. 823-852.
116. James S. Coleman (1968), “Equality of educational opportunity”, Journal
Equity & Excellence in Education, (6), pp. 19-28.
117. James S. Coleman (1988), “Social capital in the creation of human capital”,
The American Journal of Sociology, (94), pp. 95-120.
118. James S. Coleman, Ernest Q. Campbell, Carol J. Hobson, James McPartland,
Alexander M. Mood, Frederic D. Weinfeld, Robert L. York (1966),
“Equality of educational opportunity”, U.S. Department of Health,
Education, and Welfare, Washington, D.C.
119. Jeanne H. Ballantine (1989), “The sociology of education: A systematic
analysis”, Prentice Hall Inc., New Jersey.
120. Jere R. Behrman and James C. Knowles (1999), “Household income and
child schooling in Vietnam”, The World Bank Economic Review, (13), pp.
211-256.
121. John Conlisk (1969), “Determinants of school enrollment and school
performance”, The Journal of Human Resources, (4), pp. 140-157.
122. John J. Macionis (1997), “Sociology (Sixth Edition)”, Prentice-Hall, Upper
Saddle River, New Jersey.
123. John Knight and Li Shi (1996), “Educational attainment and the rural-urban
divide in China”, Oxford Bulletin of Economics and Statistics, (58), pp. 83-
117.
162
124. John Knodel, Napaporn Havanon, Werasit Sittitrai (1990), “Family size and
the education of children in the context of rapid fertility decline”, Population
and Development Review, (16), pp. 31-62.
125. John Knodel and Gavin W. Jones (1996), “Post-Cairo population policy:
Does promoting girls' schooling miss the mark?” Population and
Development Review, (22), pp. 683-702.
126. Judith Blake (1981), “Family size and the quality of children”, Demography,
(18), pp. 421-442.
127. Karuna Chanana (2014), “Inclusive secondary education in India: Challenges
and future directions”, Journal of International Cooperation in Education,
(vol.16), pp. 121-138.
128. Kathleen V. Hoover-Dempsey and Howard M. Sandler (1997), “Why do
parents become involved in their children's education?” Review of
Educational Research, (67), pp. 3-42.
129. Kristoffer Halvorsrud (2017), “Student dropout in upper secondary education
in Norway: A challenge to the principles of the welfare state?” London
Review of Education, (15), pp. 302-316.
130. Lao Statistics Bureau (2018), “Lao social indicator survey II 2017: Survey
findings report”, Lao Statistics Bureau and UNICEF, Vientiane.
131. Lawrence J, Sara (2011), “Sociology of education, 21st century education: A
reference handbook”, Sage Publication.
132. Leodinito Cañete (2012), “When boys are pushed-pulled out of school:
Empirical evidence from the Philippines”, CNU Journal of Higher
Education, (6), pp. 11-24.
133. Mark H. Smith, Lionel J. Beaulieu, Glenn D.lsrael (1992), “Effects of human
capital and social capital on dropping out of high school in the South”,
Journal of Research in Rural Education, (8), pp. 75-87.
134. Minh Phuong Luong and Wolfgang Nieke (2013), “Minority status and
schooling of the Hmong in Vietnam”, Hmong Studies Journal, pp. 1-37.
135. National Statistical Office and UNICEF (2016), “Thailand multiple indicator
cluster survey 2015-2016, final report”, NSO and UNICEF, Bangkok.
136. NEFAC (2007), “Education for all: National mid-decade assessment report”,
National education for all Committee, Phnom Penh.
137. Nicola Jones, Elizabeth Presler-Marshall, Tran Thi Van Anh (2014), “Early
marriage among Vietnam's Hmong: How unevenly changing gender norms
limit Hmong adolescent girls' options in marriage and life”, Overseas
Development Institute, London.
138. OECD (2011), “Education at a Glance 2011: OECD Indicators”, OECD
Publishing.
139. OECD (2012), “Closing the gender gap: Act now”, OECD Publishing, Paris.
163
140. OECD (2012), “Equity and quality in education: Supporting disadvantaged
students and schools”, OECD Publishing.
141. Paul Glewwe & Hanan G. Jacoby (2004), “Economic growth and the
demand for education: Is there a wealth effect?” Journal of Development
Economics, (74), pp. 33-51.
142. Paul Glewwe and Harry Anthony Patrinos (1999), “The role of the private
sector in education in Vietnam: evidence from Vietnam living standards
survey”, World Development, (27), pp. 887-902.
143. Peg Tyre (2008), “The trouble with boys: A surprising report card on our
sons, their problems at school, and what parents and educators must do”,
Three Rivers Press, New York.
144. Philip H. Brown and Albert Park (2002), “Education and poverty in rural
China”, Economics of Education Review, (21), pp. 523-541.
145. Pierre Bourdieu (1986), “The forms of capital”, Richardson, J. G. (Eds.).
Handbook of theory and research for the sociology of education, Greenwood
Press, New York.
146. Pushkar Maitra (2003), “Schooling and educational attainment: Evidence
from Bangladesh”, Education Economics, (11), pp. 129-153.
147. Rachel Connelly and Zhenzhen Zheng (2003), “Determinants of school
enrollment and completion of 10 to 18 year olds in China”, Economics of
Education Review, (22), pp. 379-388.
148. S. M. Shahidul and A. H. M. Zehadul Karim (2015), “Factors contributing to
school dropout among the girls: A review of literature”, European Journal of
Research and Reflection in Educational Sciences, (3), pp. 25-36.
149. Shouping Hu (2003), “Educational aspirations and postsecondary access and
choice: Students in urban, suburban, and rural schools compared”, Education
Policy Analysis Archives, (11), pp. 1-13.
150. Siddiqui Anjum and Iram Uzma (2007), “Socioeconomic determinants of
school progression in Pakistan”, Applied Econometrics and International
Development, (7), pp. 179-196.
151. Siobhan Boyle, Andy Brock, John Mace, Mo Sibbons (2002), “Reaching the
poor - The ‘costs’ of sending children to school: A six country comparative
study”, Synthesis Report. DFID, London.
152. Sonia Omer and Sadia Jabeen (2016), “Exploring Karl Marx conflict theory
in education: Are Pakistani private schools maintaining status quo?” Bulletin
of Education and Research, (38), pp. 195-202.
153. Stephen Ball (1993), “Education markets, choice and social class: The
market as a class strategy in the UK and the USA”, British Journal of
Sociology of Education, (14), pp. 3-19.
154. Stephen L. Morgan and Mark W. McKerrow (2006), “Human capital
development and the frontiers of research in the sociology of education”,
Canadian Policy Research Networks Inc.
164
155. T. Paul Schultz (1993), “Investments in the schooling and health of women
and men: Quantity and Returns”, Journal of Human Resources, (28), pp.
694-734.
156. Tatyana P. Soubbotina (2004), “Beyond economic growth: An introduction
to sustainable development (Second Edition)”, World Bank Publications,
Washington, D.C.
157. Teerawichitchainan Bussarawan, Hac Van Vinh, Nguyen Thi Phuong Lan
(2007), “Changing transitions to adulthood in Vietnam’s remote northern
uplands: A focus on ethnic minority youth and their families”, Population
Council, Hanoi.
158. Theodore W. Schultz (1960), “Capital formation by education”, Journal of
Political Economy, (68), pp. 571-583.
159. Torberg Falch and Bjarne Strøm (2013), “Schools, ability, and the
socioeconomic gradient in education choices”, Journal of Socio-Economics,
(43), pp. 49-59.
160. Toseef Azid and Rana Ejaz Ali Khan (2010), “Who are the children going to
school in urban Punjab (Pakistan)?” International Journal of Social
Economics, (37), pp. 442-465.
161. Truong Si Anh, John Knodel, David Lam, Jed Friedman (1998), “Family size
and children’s education in Vietnam”, Demography, (35), pp. 57-70.
162. UNESCO (2003), “Gender and education for all: The leap to equality”, The
United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization, Paris.
163. UNESCO (2005), “Education for all - The quality imperative”, The United
Nations Educational, Scientific and Cultural Organization, Paris.
164. UNESCO (2007), “Education for All by 2015 - Will we make it?” The
United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization, Paris.
165. UNESCO (2009), “Overcoming inequality: why governance matters”, The
United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization, Paris.
166. UNESCO (2010), “Reaching the marginalized”, UNESCO, Paris.
167. UNESCO (2012), “Youth and Skills - Putting education to work”, UNESCO,
Paris.
168. UNESCO (2013), “Teaching and learning - Achieving quality for all”, The
United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization, Paris.
169. UNESCO (2015), “Education for all 2000-2015: Achievements and
challenges”, The United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization, Paris.
170. UNESCO (2016), “Education for people and planet: Creating sustainable
futures for all”, The United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization, Paris.
171. UNESCO (2017), “Accountability in education: Meeting our commitments”,
The United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization, Paris.
165
172. UNFPA (2005), “The promise of equality gender equity, reproductive health
and the millennium development goals”, United Nations Population Fund,
New York.
173. UNICEF (2011), “Adolescence - An age of opportunity”, The United
Nations Children's Fund, New York.
174. Usha Jayachandran (2002), “Socio-economic determinants of school
attendance in India”, Working Paper No. 103. Centre for Development
Economics, Delhi School of Economics.
175. Vu Hoang Linh (2012), “An overview of access to and inequality in the
education system of Viet Nam”, Asia-Pacific Development Journal, (19), pp.
37-62.
176. Vu Huy (2012), “Determinants of educational expenditure in Vietnam”,
International Journal of Applied Economics, (9), pp. 59-72.
177. World Bank (2006), “Development and the next generation”, The World
Bank, Washington, D.C.
178. World Bank (2018), “Learning to realize education’s promise”, Washington,
D.C.
179. Zhang Li (2009), “Disparity between rural and urban education in China”,
Institute for Education Research.
166
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Phân bố mẫu phân tích
Bảng 1. Cơ cấu mẫu phân tích
Yếu tố Giá trị 2006 2016
N Tỷ lệ N Tỷ lệ
Giới Nam 1.332 47,3 753 50,6
Nữ 1.487 52,7 734 49,4
Tuổi 15 466 16,5 242 16,3
16 985 34,9 530 35,6
17 954 33,8 467 31,4
18 414 14,7 248 16,7
Dân tộc DTTS 565 20,0 353 23,7
Kinh 2.254 80,0 1.134 76,3
Học vấn mẹ =< Tiểu học 1.582 56,1 540 36,3
THCS 878 31,1 571 38,4
THPT+ 359 12,7 376 25,3
Học vấn bố =< Tiểu học 1.462 51,9 635 42,7
THCS 934 33,1 535 36,0
THPT+ 423 15,0 317 21,3
Nghề nghiệp mẹ Chuyên môn 475 16,8 90 6,1
Công nhân viên 701 24,9 622 41,8
Lao động giản đơn 1.643 58,3 775 52,1
Nghề nghiệp bố Chuyên môn 814 28,9 105 7,1
Công nhân viên 677 24,0 726 48,8
Lao động giản đơn 1.328 47,1 656 44,1
Nơi cư trú Thành thị 563 20,0 382 25,7
Nông thôn 2.256 80,0 1105 74,3
Vùng ĐBSH 532 18,9 291 19,6
Trung du và MNPB 582 20,6 254 17,1
Bắc Trung Bộ và DHMT 632 22,4 353 23,7
Tây Nguyên 254 9,0 161 10,8
Đông Nam Bộ 333 11,8 165 11,1
Đồng bằng sông Cửu Long 486 17,2 263 17,7
Tổng 2.819 100,0 1.487 100,0
167
Bảng 2. Trẻ em đi học THPT đúng tuổi
Yếu tố Giá trị 2006 2016
N Tỷ lệ N Tỷ lệ
Giới Nam 270 51,5 458 60,8
Nữ 229 57,2 517 71,4
Tuổi 15 96 51,1 167 69,0
16 183 48,7 350 66,0
17 206 62,2 300 64,2
18 84 55,3 158 63,7
Dân tộc DTTS 72 34,0 142 40,2
Kinh 497 59,5 833 73,5
Học vấn mẹ =< Tiểu học 214 41,3 259 48,0
THCS 248 66,1 414 72,5
THPT+ 107 69,5 302 80,3
Học vấn bố =< Tiểu học 195 41,1 307 48,3
THCS 248 62,9 398 74,4
THPT+ 126 70,8 270 85,2
Nghề nghiệp mẹ Chuyên môn 125 60,7 81 90,0
Công nhân viên 147 60,5 465 74,8
Lao động giản đơn 297 49,7 429 55,4
Nghề nghiệp bố Chuyên môn 204 61,6 97 92,4
Công nhân viên 148 63,5 522 71,9
Lao động giản đơn 217 44,9 356 54,3
Nơi cư trú Thành thị 163 68,8 306 80,1
Nông thôn 406 50,1 699 60,5
Vùng ĐBSH 137 66,2 204 80,3
Trung du và MNPB 108 51,2 155 53,3
Bắc Trung Bộ và DHMT 158 55,8 257 72,8
Tây Nguyên 40 40,0 93 57,8
Đông Nam Bộ 67 62,0 111 67,3
Đồng bằng sông Cửu Long 59 42,8 155 58,9
Tổng 569 54,3 975 65,5
168
Bảng 3. Trẻ em tuổi THPT không đi học
Yếu tố Giá trị 2006 2016
N Tỷ lệ N Tỷ lệ
Giới Nam 697 65,0 267 35,5
Nữ 812 61,0 188 25,6
Tuổi 15 278 59,7 49 20,2
16 609 61,8 147 27,7
17 623 65,3 162 34,7
18 269 65,0 97 39,1
Dân tộc DTTS 355 62,8 175 49,6
Kinh 1.424 63,2 280 24,7
Học vấn mẹ =< Tiểu học 1.068 67,5 245 45,4
THCS 505 57,5 139 24,3
THPT+ 206 57,4 71 18,9
Học vấn bố =< Tiểu học 987 67,5 294 46,3
THCS 545 58,4 118 22,1
THPT+ 247 58,4 43 13,6
Nghề nghiệp mẹ Chuyên môn 271 57,1 10 11,1
Công nhân viên 459 65,5 145 23,3
Lao động giản đơn 1.049 63,8 300 38,7
Nghề nghiệp bố Chuyên môn 487 59,8 9 8,6
Công nhân viên 446 65,9 184 25,3
Lao động giản đơn 846 63,7 262 39,9
Nơi cư trú Thành thị 329 58,4 76 19,9
Nông thôn 1.450 64,3 379 34,3
Vùng ĐBSH 325 61,1 113 38,8
Trung du và MNPB 372 63,9 48 18,9
Bắc Trung Bộ và DHMT 354 56,0 92 26,1
Tây Nguyên 154 60,6 60 37,3
Đông Nam Bộ 225 67,6 46 27,9
Đồng bằng sông Cửu Long 349 71,8 96 36,5
Tổng 1.779 61,3 455 30,6
169
Phụ lục 2. Biến số sử dụng
Mục 1. Danh sách thành viên hộ gia đình
Ký hiệu Câu hỏi Thang đo
ttnt Khu vực 1= Thành thị, 2= Nông thôn
vung Vùng 1= Trung du và miền núi phía Bắc, 2=
Đồng bằng sông Hồng, 3= Bắc trung bộ
và Duyên hải miền trung, 4= Tây
Nguyên, 5= Đông Nam Bộ; 6= Đồng
bằng sông Cửu Long
m1ac2 Giới tính của [TÊN]? 1= nam, 2= nữ
m1ac5 Tuổi của [TÊN] là bao
nhiêu?
Tuổi tính tròn đến tháng phỏng vấn
tsnguoi Tổng số người Theo số thực tế
dantoc Dân tộc 0= DTTS, 1= Kinh
m2ac2a Bằng cấp cao nhất của
[TÊN]
0=Không bằng cấp, 1=Tiểu học,
2=THCS, 3=THPT, 4=Sơ cấp nghề,
5=Trung cấp nghề, 6=Trung học chuyên
nghiệp, 7=Cao đẳng nghề, 8=Cao đẳng,
9=Đại học, 10=Thạc sĩ, 11=Tiến sĩ
Biến số này được dùng để xây dựng biến
số học vấn của người bố. Biến số này sẽ
được nhóm lại: 1= Tiểu học trở xuống,
2=THCS, 3=THPT trở lên.
170
Mục 2. Giáo dục, đào tạo và dạy nghề
Ký hiệu Câu hỏi Thang đo
ma2c1 Đã học hết lớp mấy ? Số lớp theo thực tế
m2ac4 Hiện nay có đi học không ? 1=Có; 2=Nghỉ hè; 3=Không
Biến này sẽ được tạo thành
biến giả (dummy variable):
0=Không, 1=Có (Phương án 1
và 3).
m2ac5
Trong 12 tháng qua có đi học
không ?
1=Có, 2=Không
m2ac7 [TÊN] đang học lớp mấy? Số lớp học từ 1 đến 12
171
Phụ lục 3. Hướng dẫn phỏng vấn sâu
1. Hướng dẫn phỏng vấn sâu cha mẹ
Thông tin chung: Họ tên, nĕm sinh, học vấn, nghề nghiệp.
- Đặc điểm gia đình: Số thế hệ, số thành viên, mức sống, số con đi học.
- Những mong muốn của bố mẹ đối với con đường học vấn của con cái là gì? Bố
mẹ có thường bàn bạc với nhau về việc học của con không? Ý kiến được thống nhất
hay trái ngược, mâu thuẫn hoặc xung đột trong quan điểm và phương pháp dạy dỗ
con cái?
- Định hướng cho việc học tập của trẻ được thể hiện như thế nào?
- Ai đảm nhiệm việc theo dõi, hướng dẫn việc học của con cái? Có sự phân công
khác nhau đối với việc dạy con trai và dạy con gái không? Cách thức hướng dẫn,
theo dõi học tập của con cái như thế nào? [thời gian, mức độ kiểm tra, ]. Hoạt
động cùng tham gia học tập với con được thể hiện như thế nào?
- Gia đình tạo điều kiện cho con cái học hành như thế nào? Thời gian học của trẻ
như thế nào? Chi phí học tập? Học thêm? Đồ dùng học tập? Đồng phục? Góc học
tập? Sự tham gia lao động đóng góp thu nhập, làm việc nhà của trẻ? Sự ảnh hưởng
của hoạt động này đến việc học hành của trẻ?
- Những thuận lợi của gia đình trong việc cho trẻ đến trường?
- Những khó khĕn của gia đình trong việc cho trẻ đến trường? Gia đình có những
hành động gì để vượt qua những khó khĕn?
- Sự phù hợp của chương trình học? Những bất cập của chương trình học [thời
lượng, giáo cụ, phương pháp, đối tượng].
- Mối quan hệ của con với giáo viên ở trường được thể hiện như thế nào? Cách nhìn
nhận của con về giáo viên? Tấm gương về học tập và đạo đức của giáo viên được
thể hiện như thế nào?
- Gia đình trao đổi với giáo viên bằng cách thức nào? Hiệu quả của các cách thức
liên lạc.
- Những điều gì của trường lớp mà bố mẹ cho rằng chưa phù hợp, chưa đáp ứng
hoặc phù hợp/đáp ứng với mong muốn của học sinh và của bố mẹ?
- Những mong muốn của gia đình trong vấn đề tiếp cận giáo dục của con cái?
172
2. Hướng dẫn phỏng vấn sâu trẻ em
Thông tin chung: Họ tên, nĕm sinh, lớp học, học lực.
- Đặc điểm gia đình: Số thế hệ, số thành viên, mức sống, số con đi học.
- Những lý do đi học của cháu là gì? Những cảm tưởng về việc đi học của cháu?
Môn học nào được ưa thích hoặc không? Những môn học không ưa thích? Cách
thức đối phó với môn học không ưa thích?
- Những mong muốn của bố mẹ đối với con đường học vấn của cháu là gì? Những
mong muốn đó có ảnh hưởng như thế nào đối với cháu?
- Sự tin tưởng vào con đường học tập của cháu như thế nào?
- Gia đình tạo điều kiện cho cháu đi học như thế nào? Sự đáp ứng các nhu cầu học
tập của cháu được gia đình thực hiện như thế nào? Ai là người theo dõi, giúp đỡ
việc học tập của cháu?
- Những ảnh hưởng của các hoạt động khác đến việc học là gì? [làm việc nhà, lao
động, vui chơi giải trí].
- Những nguyện vọng, mong muốn của cháu trong vấn đề học tập được bố mẹ giải
quyết như thế nào? Mức độ hài lòng của cháu về những giải quyết đó.
- Khi gặp những khó khĕn trong vấn đề học tập thì cháu giải quyết như thế nào?
- Những vấn đề của gia đình, bố mẹ ảnh hưởng đến việc học hành của cháu như thế
nào? [Điều kiện sống, trình độ học vấn của bố mẹ, thời gian lao động của bố mẹ].
- Mối quan hệ với bạn bè được thể hiện như thế nào? Ảnh hưởng của mối quan hệ
với bạn bè đến việc học của cháu?
- Cách thức bố mẹ liên hệ với giáo viên của cháu được thể hiện như thế nào? Đánh
giá về những cách thức đó?
- Các bạn cùng lớp/trang lứa được học hành như thế nào? Những mong muốn của
cháu trong việc học tập để được như bạn bè?
- Những mong muốn và đề nghị gì đối với bố mẹ, nhà trường?