VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
TĂNG TẤN LỘC
BỨC TRANH NGÔN NGỮ VỀ SÔNG NƯỚC
TRONG TRI NHẬN CỦA NGƯỜI VIỆT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Hà Nội - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
TĂNG TẤN LỘC
BỨC TRANH NGÔN NGỮ VỀ SÔNG NƯỚC
TRONG TRI NHẬN CỦA NGƯỜI VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 62 22 02 40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Sâm
230 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Bức tranh ngôn ngữ về sông nước trong tri nhận của người Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hà Nội - 2017
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô Viện Ngôn ngữ học Việt Nam,
Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, Khoa Ngôn ngữ học, Học viện
KHXH Việt Nam, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường ĐHSP Thành phố
Hồ Chí Minh, Trường Đại học Cần Thơ đã nhiệt tình giảng dạy và cung cấp
cho tôi những tri thức cần thiết về ngôn ngữ học.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo của tôi,
PGS.TS. Trịnh Sâm, người đã hướng dẫn tận tình và tận tâm giúp tôi hoàn
thành luận án này. Đồng thơi, tôi xin được cảm ơn cơ quan, gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã luôn tạo điều kiện, khuyến khích và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu.
Tăng Tấn Lộc
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực. Nếu sai tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 2017
Tác giả luận án
Tăng Tấn Lộc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
1. LÍ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI ...............................................................................1
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.....................................................3
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU......................................................4
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................................5
5. ĐÓNG GÓP MỚI................................................................................................6
6. Ý NGHĨA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN................................................................7
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN ..................................................................................7
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
THUYẾT................................................................................................................9
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................................9
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước...................................................................9
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................12
1.2. CÁC VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..............................19
1.2.1. Khái lược về ngôn ngữ học tri nhận .............................................................19
1.2.2. Bức tranh ngôn ngữ .....................................................................................21
1.2.3. Lí thuyết phạm trù và phạm trù tỏa tia .........................................................29
1.2.4. Ý niệm và ý niệm hóa ..................................................................................39
1.2.5. Lược đồ và điển dạng ..................................................................................41
1.2.6. Tính nghiệm thân.........................................................................................42
1.2.7. Ẩn dụ ý niệm ...............................................................................................44
1.2.8. Khái niệm miền, miền nguồn và miền đích ..................................................49
1.2.9. Khái niệm về “sông nước” ...........................................................................51
1.3. TIỂU KẾT......................................................................................................52
Chương 2 ĐẶC ĐIỂM CHUYỂN DI NGỮ NGHĨA CỦA MIỀN Ý NIỆM
SÔNG NƯỚC TRONG TIẾNG VIỆT ...............................................................53
2.1. DẪN NHẬP ...................................................................................................53
2.2. CÁC DẠNG NƯỚC.......................................................................................54
2.3. ĐỊNH DANH NƯỚC .....................................................................................61
2.3.1. Mô hình: “X + nước” ...................................................................................62
2.3.2. Mô hình: “nước + X”...................................................................................64
2.4. MÔ HÌNH ẨN DỤ Ý NIỆM PHẠM TRÙ SÔNG NƯỚC TRONG TIẾNG
VIỆT .....................................................................................................................70
2.4.1. Cuộc sống là vật chứa nước .........................................................................71
2.4.2. Thực thể sống dưới nước là con người .........................................................78
2.4.3. Công cụ đánh bắt trên sông nước là con người.............................................81
2.4.4. Phương tiện trên sông nước là con người .....................................................82
2.4.5. Hoạt động, trạng thái, tính chất của nước là hoạt động, trạng thái, tính chất của con
người ....................................................................................................................................84
2.5. Giá trị biểu trưng của miền ý niệm sông nước.................................................94
2.5.1. Giá trị biểu trưng của miền ý niệm sông nước và liên quan đến sông nước ..94
2.5.2. Giá trị biểu trưng của vật chứa nước và các yếu tố hữu quan .......................96
2.5.3. Giá trị biểu trưng của loài vật sống trong nước ............................................98
2.5.4. Giá trị biểu trưng của công cụ đánh bắt trên sông nước..............................102
2.5.5. Giá trị biểu trưng của phương tiện di chuyển trên sông nước ..................... 103
2.5.6. Giá trị biểu trưng đặc tính, trạng thái và vận động của nước ...................... 104
2.5.7. Giá trị biểu trưng hoạt động của con người trong nước ..............................109
2.6. TIỂU KẾT.................................................................................................... 114
Chương 3 MIỀN Ý NIỆM SÔNG NƯỚC TRONG TÂM THỨC CỦA NGƯỜI
VIỆT................................................................................................................... 115
3.1. DẪN NHẬP ................................................................................................. 115
3.2. CON NGƯỜI VÀ DÒNG SÔNG ................................................................. 116
3.3. ẨN DỤ Ý NIỆM VỀ SÔNG NƯỚC............................................................. 120
3.3.1. Ẩn dụ “Hành trình đời người là hành trình của dòng sông”........................ 121
3.3.2. Ẩn dụ “Cuộc đời là dòng sông” ................................................................. 123
3.3.3. Ẩn dụ “Ứng xử của con người là vận động của nước” ............................... 130
3.4. TIỂU KẾT.................................................................................................... 134
KẾT LUẬN........................................................................................................ 135
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH................................................................... 139
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............... 139
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................. 140
PHỤ LỤC...150
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
CLB Câu lạc bộ
ĐH Đại học
ĐHKHXH&NV Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
ĐHQG Đại học quốc gia
ĐHQGHN Đại học quốc gia Hà Nội
ĐHSP Đại học sư phạm
HN Hà Nội
ICM Idealized cognitive model
KHXH Khoa học xã hội
MYN Miền ý niệm
MYNSN Miền ý niệm sông nước
NNHTN Ngôn ngữ học tri nhận
Nxb Nhà xuất bản
T/c Tạp chí
THVL Truyền hình Vĩnh Long
Tp.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
VH-TT&DL Văn hóa – Thể thao và Du lịch
VHTT Văn hóa thông tin
VTV Truyền hình Việt Nam
VTC Truyền hình kỹ thuật số Việt Nam
DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng 1. Liệt kê mô hình “X + nước” trong tiếng Việt .................................. 62
Bảng 2. Liệt kê mô hình “nước + X” trong tiếng Việt ................................. 64
Sơ đồ 1. Quá trình phạm trù hóa theo quan điểm kinh nghiệm luận.............. 34
Sơ đồ 2: Sơ đồ mô hình hóa phạm trù tỏa tia................................................ 35
Sơ đồ 3: Sơ đồ tỏa tia phạm trù MẸ.............................................................. 36
Sơ đồ 4. Mô hình tỏa tia CÁC DẠNG NƯỚC trong tiếng Việt .................... 60
Sơ đồ 5: Mô hình tỏa tia của từ NƯỚC trong tiếng Việt............................. 112
Sơ đồ 6: Mô hình tỏa tia MIỀN Ý NIỆM SÔNG NƯỚC trong tiếng Việt .. 113
1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận đã được các học giả trên
thế giới quan tâm từ những năm 70 của thế kỷ XX. Đến nay, xu thế nghiên
cứu ngôn ngữ từ việc khảo sát các ngữ liệu được quan sát trực tiếp dần
chuyển sang nghiên cứu những vấn đề không thể quan sát được của con
người, chẳng hạn như: tri thức, trí tuệ, ý thức, ý niệm, văn hóa, tín ngưỡng,
v.v. Đã có nhiều công trình nghiên cứu có thể được xem là tiên phong trong
lĩnh vực ngôn ngữ học tri nhận: Lakoff and Jonhson, Langacker, Talmy,
Lakoff and Turner, Wierzbicka, Kovecses, v.v.
1.2. Theo quan niệm của triết học phương Đông thì “nước” là một
trong những yếu tố cấu thành nên vạn vật. Nước được hiểu như một thực thể
tự nhiên nuôi dưỡng sự sống. Thực tế đã chứng minh tầm quan trọng của
nước đối với đời sống vạn vật, nước được dùng với mục đích là nguồn sống,
để thanh tẩy, tưới tiêu, hay còn là nơi cung cấp thực phẩm (sản vật dưới
nước), v.v. Chính vì tầm quan trọng của nước mà các cộng đồng dân cư trên
thế giới đều tập trung và phân bố dọc theo các nguồn nước. Từ cơ sở thực tiễn
đó mà ngôn ngữ và văn hóa của các tộc người đều gắn liền với các yếu tố có
liên quan đến “sông nước”.
1.3. Là một quốc gia gắn với nền văn minh nông nghiệp, nước có vai
trò đặc biệt trong văn hóa cũng như trong tâm thức của người Việt. Nước có
mặt trong hầu hết các lĩnh vực, từ ý niệm thiêng liêng đến những điều thông
tục hay hướng đến những khái niệm có tính khái quát cao, đặc biệt là trong
tục ngữ, ca dao: nước chảy đá mòn, nước khe đè nước suối, nước đổ đầu vịt,
nước đổ lá khoai, nước đến chân mới nhảy, uống nước nhớ nguồn, nước sông
công lính, còn nước còn tát, một giọt máu đào hơn ao nước lã, v.v.
2
1.4. Môi trường sông nước với tư cách là đối tượng tri nhận đã hình
thành nên một kho tàng ý niệm đa dạng, phong phú trong ngôn ngữ giao tiếp
của người Việt. Từ việc định danh và tương tác gắn liền với địa hình sông
nước, hoạt động trên sông nước, dần dần ngôn ngữ hình thành nên những
miền ý niệm sông nước. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh sông nước ăn
sâu vào ngôn ngữ Việt: buôn tàu buôn bè không bằng làm ăn hà tiện, chớ
thấy sóng cả mà rã tay chèo, ăn cỗ đi trước lội nước theo sau, “Thuyền về có
nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”,v.v. Người Việt
thường nói: chìm đắm trong suy tư, đắm đuối nhìn nhau, thời gian trôi nhanh,
ăn nói trôi chảy, hồ sơ bị ngâm lâu, mặt trời lặn, v.v.
Ngay cả khi đi trên bộ, người Việt vẫn mượn hình ảnh sông nước để
diễn đạt: lặn lội đến thăm nhau, đi nhờ xe ai một đoạn thì gọi là quá giang
(qua sông), người Nam Bộ gọi xe khách liên tỉnh là xe đò, v.v. và hàng loạt
cách diễn đạt thú vị khác: công việc làm ăn trôi chảy, thuận buồm xuôi gió,
hoặc trong cuộc sống để động viên nhau: nào cố gắng vượt qua gió to sóng
lớn, hành trình đời người lúc khó khăn phải lên thác xuống ghềnh chứ không
phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái, nào hãy vững tay chèo, cùng thoát khỏi
ao làng, sông rạch để hướng ra biển lớn, v.v. Vì sao số lần xuất hiện của từ
ngữ sông nước trên cửa miệng của người Việt nhiều đến như vậy?
1.5. Do nhiều lí do khác nhau, môi trường địa lí từ Nam chí Bắc, từ
Đông sang Tây của Việt Nam, đâu đâu cũng thấy sông nước, và con người
Việt Nam gắn bó thiết thân chẳng những về những ứng xử vật chất mà cả đời
sống tinh thần với chúng. Đó là lí do giải thích vì sao dấu ấn sông nước khá
đậm nét trong tư duy của người Việt. Người Việt đã dùng những hiểu biết về
sông nước để phóng chiếu lên cuộc đời cũng như dùng những trải nghiệm của
chính cơ thể mình để ngược chiếu trở lại sông nước.
Theo chiều hướng ngược lại, dễ dàng tìm thấy nhiều ẩn dụ của sông
nước có nguồn gốc từ thân xác hoặc vận động của con người như lòng sông,
3
mặt sông, chân nước, rốn nước, v.v. hoặc nước nhảy, nước bò, nước lăn, nước
nằm, nước đứng, v.v. Thậm chí, con người còn dùng chính cơ thể mình làm
thước đo: nước dưới lòng bàn chân, nước tới chân mới nhảy, nước tới mắt cá,
nước tới ống quyển, nước tới đầu gối, nước tới lưng quần, nước tới ngực,
nước ngập đầu ngập cổ, v.v.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về sông nước chủ yếu được tiến hành
dưới góc độ văn hóa, các nghiên cứu về sông nước dưới góc nhìn của ngôn
ngữ học nói chung và ngôn ngữ học tri nhận nói riêng bước đầu đã được một
số học giả quan tâm. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào tiến hành
nghiên cứu một cách thấu đáo và bao quát về sông nước dưới góc nhìn của
ngôn ngữ học tri nhận. Vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài “Bức tranh ngôn ngữ
về sông nước trong tri nhận của người Việt” với mong muốn góp thêm những
cái mới và tích cực trong lĩnh vực nghiên cứu phạm trù sông nước.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, luận án hướng đến các
mục đích nghiên cứu sau:
Thứ nhất, khái quát hóa bức tranh ngôn ngữ về sông nước trong tri
nhận của người Việt, đặc biệt là người Việt tại Nam Bộ, trên cơ sở miêu tả
những đặc điểm đặc thù trong tri nhận sông nước.
Thứ hai, làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa ngôn ngữ - tư duy và văn
hóa trong tri nhận của người Việt trên lĩnh vực sông nước.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nói trên, luận án tập trung giải quyết các
vấn đề chính, đó là:
- Tìm hiểu ngôn ngữ học tri nhận, cụ thể là một số vấn đề lí thuyết có
liên quan đến khoa học tri nhận, như: bức tranh ngôn ngữ, phạm trù tỏa tia,
miền nguồn và miền đích, ẩn dụ/hoán dụ ý niệm, v.v.
4
- Tìm hiểu về miền ý niệm sông nước và trên cơ sở đó đi vào thế giới tư
duy của người Việt trong phạm trù sông nước.
- Mô tả và phân tích miền ý niệm sông nước trong tri nhận của người Việt.
- Chỉ ra đặc điểm chuyển di ngữ nghĩa của miền ý niệm sông nước
trong tiếng Việt.
- Tìm hiểu nghĩa biểu trưng các miền ý niệm về sông nước trong tiếng Việt.
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa bộ ba ngôn ngữ - tư duy và văn hóa của
người Việt được thể hiện trong bức tranh ngôn ngữ về sông nước.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Dựa vào cơ sở lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, chúng tôi sẽ tiến hành
nghiên cứu bức tranh ngôn ngữ về sông nước trong tri nhận của người Việt, cụ
thể luận án bàn đến là: định danh nước, phạm trù tỏa tia của sông nước, biểu
trưng sông nước, các miền ý niệm, ẩn dụ/hoán dụ ý niệm về sông nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án khảo sát phạm vi nguồn cứ liệu chính trong ca dao, thành ngữ,
tục ngữ (nhất là tại Nam Bộ) có liên quan đến phạm trù sông nước. Bên cạnh
đó, chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ đời sống bao giờ cũng sinh động hơn nhiều
so với từ điển. Và theo lí thuyết, ẩn dụ ý niệm về sông nước tồn tại khắp mọi
nơi trong cuộc sống đời thường, không chỉ trong ngôn ngữ mà cả trong tư duy
và hành động.
Do vậy, để phục vụ nghiên cứu bức tranh ngôn ngữ về sông nước,
chúng tôi còn tiến hành khảo sát ngữ liệu rút ra từ lời ăn tiếng nói hàng ngày,
các website, các trang mạng xã hội, các báo điện tử, các tạp chí, tác phẩm văn
học, đặc biệt là ngữ liệu được thu thập tại Nam Bộ. Vì đây là vốn văn hóa
phản chiếu những kinh nghiệm từ đời sống hàng ngày của cả cộng đồng bản
ngữ, là nguồn tư liệu phong phú để có thể nhận rõ đặc thù tư duy - văn hóa -
dân tộc làm nên linh hồn bên trong ngôn ngữ của dân tộc.
5
Lựa chọn phạm vi nguồn cứ liệu như vậy mục đích là để có các căn cứ
khảo sát và bao quát toàn cảnh bức tranh ngôn ngữ về sông nước trong tri
nhận của người Việt, chúng tôi đặc biệt chú ý đến những ẩn dụ/hoán dụ ý
niệm về sông nước trong tiếng Việt, nhất là tiếng Việt tại Nam Bộ.
3.3. Nguồn ngữ liệu
Luận án trích dẫn nguồn từ các ngữ liệu sau đây:
[1*] Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị
(1984), Ca dao dân ca Nam Bộ, Nxb. Văn nghệ Tp. HCM.
[2*] Ngân Hà (tuyển chọn), (2009), Nguyễn Khuyến – Thơ, Nxb. VHTT.
[3*] Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Thúy Loan, Phan Lan Hương,
Nguyễn Luân (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt (tập 1 và 2), Nxb. VHTT.
[4*] Bảo Ninh (2005), Thân phận của tình yêu, Nxb. Hội Nhà văn.
[5*] Hoàng Phê (chủ biên), (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Từ điển
Bách khoa.
[6*] Trịnh Công Sơn (1998), Tuyển tập những bài ca không năm tháng,
Nxb. Âm nhạc.
[7*] Thơ tình Xuân Diệu tuyển chọn (2008), Nxb. Thanh niên.
[8*] Truyện ngắn 5 cây bút nữ (2004), Nxb. Hội Nhà văn.
[9*] Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam (2001), Nxb. Phụ nữ.
[10*] Lê Ngọc Tú (2006), Từ điển thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn, Nxb.
KHXH.
[11*] Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (1993),
Từ điển thành ngữ Việt Nam, Nxb. Văn hóa.
Cùng một số website, các trang báo điện tử, các trang mạng xã hội, v.v.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong luận án này, chúng tôi sử dụng các thủ pháp và phương pháp
nghiên cứu sau:
6
- Thủ pháp thống kê, phân loại: đây là thủ pháp giúp chúng tôi tập hợp
và phân loại các miền ý niệm sông nước trong tri nhận của người Việt trên cơ
sở các ngữ liệu được khảo sát, từ đấy rút ra những nhận xét, hữu quan.
- Phương pháp miêu tả: đây là phương pháp chính cùng với phương
pháp phân tích ý niệm để giải quyết các vấn đề của luận án. Từ nguồn ngữ
liệu thu thập được, chúng tôi tiến hành phân tích miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa
và nghĩa biểu trưng của từ thuộc miền ý niệm “sông nước” trong tiếng Việt.
Phương pháp này được chúng tôi sử dụng chủ yếu ở chương 2 và chương 3.
- Phương pháp phân tích ý niệm: luận án tiến hành phân tích các biểu
thức ngôn ngữ gắn với ngữ cảnh cụ thể, hướng đến tìm hiểu các đặc trưng văn
hóa tư duy ẩn sau chúng, được thể hiện rõ nhất trong chương 3.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: luận án kết hợp tri thức của các
ngành khoa học khác cùng với tri thức ngành ngôn ngữ học để tìm hiểu thấu
đáo hơn về đặc trưng văn hóa – tư duy của dân tộc. Phương pháp này được sử
dụng ở chương 2 và chương 3 của luận án.
5. ĐÓNG GÓP MỚI
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu và khảo sát toàn diện bức tranh
ngôn ngữ về sông nước trong tri nhận của người Việt. Vì vậy, luận án có thể
có những đóng góp sau:
Thứ nhất, luận án góp phần giải quyết được một số vấn đề quan trọng
liên quan đến việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận trên sự khoanh vùng ngữ
liệu nhất định – phạm trù “sông nước”.
Thứ hai, luận án có những đóng góp mới trong việc mô tả các miền ý
niệm trong bức tranh ngôn ngữ về sông nước, đồng thời miêu tả và phân tích
bức tranh ấy trong tâm thức của người Việt.
Thứ ba, kết quả luận án có thể ứng dụng vào thực tiễn dạy học Ngữ
văn, nghiên cứu tiếng Việt nói chung và tiếng Việt tại Nam Bộ nói riêng.
7
6. Ý NGHĨA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Về lí luận, góp phần về mặt phương pháp nghiên cứu sông nước trong
ngôn ngữ và văn hóa người Việt, góp phần tìm hiểu về các cách thức tri nhận
sông nước của người Việt, từ đó nhận thức rõ hơn về “bức tranh ngôn ngữ
sông nước” có tính chất qui ước xã hội, có tính chất văn hóa, có tính chất mô-
típ của cộng đồng người Việt.
Ngoài ra, thông qua khảo sát, luận án cũng góp phần giải thích tính
tương tác giữa con người với tư cách là chủ thể kinh nghiệm với thiên nhiên
sông nước với tư cách là khách thể hiện thực. Bởi vì, trong quá trình cộng
sinh, hiện thực sông nước không thể không ảnh hưởng đến cách thức tư duy
của con người và ngược lại, con người không thể không phóng chiếu hình
bóng của chính mình lên hiện thực.
Về thực tiễn, góp phần tìm hiểu vấn đề tri nhận sông nước trong tiếng
Việt trên cơ sở lí thuyết tri nhận, đồng thời góp phần tìm hiểu qui luật sử dụng
ngôn ngữ trong việc diễn đạt các ý niệm có liên quan đến “sông nước” của
người Việt. Từ đó nêu lên một số gợi ý về phân tích, giảng dạy các chủ đề
liên quan đến sông nước.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
gồm ba chương sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết
Chương này bao gồm phần tổng quan về tình hình nghiên cứu sông
nước trong tiếng Việt cũng như các nội dung lí thuyết liên quan trực tiếp đến
những vấn đề cụ thể mà luận án sẽ đề cập như: bức tranh ngôn ngữ, phạm trù
tỏa tia, miền ý niệm, miền nguồn và miền đích, ẩn dụ/hoán dụ ý niệm, v.v.
Chương 2: Đặc điểm chuyển di ngữ nghĩa của miền ý niệm sông
nước trong tiếng Việt
8
Trình bày sự phân lập các dạng của nước, liệt kê và phân tích hai kết
cấu có liên quan đến “nước”: mô hình “X + nước” và mô hình “nước + X”.
Vận dụng lí thuyết phạm trù tỏa tia của Lee (2001), Evan & Green (2006) để
tìm hiểu sự chuyển di ý niệm từ miền sông nước sang các miền ý niệm khác,
cũng như bước đầu mô tả một số biểu thức sông nước có giá trị biểu trưng
trong tiếng Việt.
Chương 3: Miền ý niệm sông nước trong tâm thức của người Việt
Tập trung nghiên cứu vai trò, chức năng và sự chi phối trong suy nghĩ
cũng như hành động của người Việt đối với sông nước với tư cách là miền ý
niệm nguồn cũng như hệ thống ánh xạ một số vấn đề trừu tượng trong miền ý
niệm đích.
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.1.1.1. Từ góc độ văn hóa
Lĩnh vực sông nước được đề cập nhiều nhất có lẽ là trong các tài liệu
về văn hóa học, có thể kể: Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (bản dịch) của
Chevalier, Jean & Alain Gheerbrant, 2002 [6]. Trong công trình này, “sông”
và “nước” như là một đặc tính của văn hóa được mô tả thông qua một số nền
văn hóa. Tương tự, Amanach những nền văn minh thế giới, Nxb. Văn hóa
Thông tin, 2006 [1], “sông” và “nước” tuy không phải là chủ đề riêng biệt,
nhưng cũng được đề cập đến, nhiều nhất là trong sinh hoạt, trong giao thông
và cả trong phong thủy.
1.1.1.2. Từ góc độ ngôn ngữ học
Một số tác giả đã tiến hành nghiên cứu trường nghĩa “nước” như:
Laurel J. Brinton và Donna M. Brinton trong “The Linguistic Structure of
Modern English”, phần nghĩa của từ, bài tập 6.4 về các trường từ, mục (c)
Nước. Các tác giả đã phân trường “nước” thành 5 tiểu trường sau:
(i) các dạng thức tồn tại của nước (forms): băng (ice), nước (water),
hơi nước nóng (steam), hơi nước, hơi sương (vapor), mưa tuyết (sleet), (mưa)
rain, (tuyết) snow, mưa đá (hail).
(ii) không gian chứa nước (bodies of water): hào, rãnh, mương (ditch),
đầm lầy (slough), khu đầm lầy, nơi có nhiều cây cối mọc (swamp), eo nước
(narrows), eo biển (strait), vịnh, lạch (inlet), eo sông, biển (bight), nhánh
sông, biển (bayou), (dùng trong văn chương), vịnh hẹp, cửa sông trong địa
danh Scotland (firth), hồ, vịnh ở Scotland (loch), hồ nhỏ trên núi (tarn), giếng
10
(well), hồ nước tự nhiên hoặc nhân tạo (reservoir), bể bơi (pool), biển (sea),
đại dương (ocean), hồ (lake), ao, hồ tự nhiên và nhân tạo (pond), vịnh (bay),
cửa sông, cửa biển (estuary), vịnh hẹp, nhất là ở Na Uy (fjord), cửa sông, biển
(sound), vịnh (gulf), phá (lagoon), vịnh nhỏ (cove), cảng (harbor).
(iii) nước trong thế vận động (water in motion): lạch biển (creek), sông
(river), sóng (waves), hơi nước (billows), suối (stream), mưa (rain), sông nhỏ
(brook), sông, suối nhỏ (rivulet), sông, suối nhánh (tributary), giếng phun (spring).
(iv) nước đóng băng (frozen water): băng (ice), tuyết (snow), tinh thể
(crystal), mưa tuyết (sleet), mưa đá (hail), nhũ băng (icicle), núi, đảo băng trôi
(iceberg), sự đóng băng (rime), sương muối (hoarfrost), băng hà (băng trôi từ
núi xuống thung lũng) (glacier).
(v) thể khí của nước (gas): hơi nước, hơi sương (vapor), hơi nước nóng
(steam) [95].
Ngoài ra, phân lập trường “nước” và các yếu tố liên quan đến “nước”
còn có thể kể đến công trình của các tác giả ở trường đại học Texas [96].
Trước khi bàn đến bức tranh ngôn ngữ về sông nước, cần thiết phải có cái
nhìn tổng quan về ngôn ngữ học tri nhận. Với tư cách là một khuynh hướng
nghiên cứu mới, ngôn ngữ học tri nhận đã được các học giả nghiên cứu từ những
năm 70 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, các thuật ngữ như: ngôn ngữ học tri nhận
(cognitive lingguistics), ngữ nghĩa học tri nhận (cognitive semantics), và ngữ
pháp tri nhận (cognitive grammar) thì mới xuất hiện trong một số công trình,
đáng chú ý là Cơ sở của ngữ pháp tri nhận của R. W. Langacker.
Các tác phẩm góp phần đặt nền móng cho ngôn ngữ học có thể kể đến
như: Metaphors we live by của G. Lakoff và M. Jonhson, Chicago - London,
University of Chicago Press, 1980, The Body in the Mind: The Body Basis of
Meaning, Imagination and Reason của M.Johnson, 1987, Chicago, University
of Chicago Press, 1987, Women, fire, and danggerous things của G. Lakoff,
11
Chicago, London, University of Chicago Press, 1987, Foundation of Cognitive
Grammar của R. W. Langacker, Stanford University Press, 1987, v.v.
Trong Metaphors we live by, George Lakoff and Mark Johnson đã bắt
đầu quiển sách của mình bằng quan niệm mới về ẩn dụ rất khác với truyền
thống: “Chúng tôi thấy rằng ẩn dụ tồn tại khắp nơi trong cuộc sống hằng
ngày, không chỉ trong ngôn ngữ mà cả trong tư duy và hành động. Hệ thống
khái niệm thông thường của chúng ta - thể hiện qua suy nghĩ cũng như hành
động - về bản chất mang tính ẩn dụ” [102, 3].
Sau đó, ngôn ngữ học tri nhận chính thức ra đời vào năm 1989 tại Hội
nghị khoa học được tổ chức tại Duisbury (Đức). Cũng tại hội nghị, Hội Ngôn
ngữ học tri nhận quốc tế được thành lập và cho phát hành Tạp chí Ngôn ngữ
học tri nhận.
Ngôn ngữ học tri nhận hiện đang rất phát triển trên thế giới, đã có nhiều
công trình nghiên cứu trên cứ liệu nhiều ngôn ngữ được công bố. Ở Trung
Quốc, từ cuối thế kỷ XX, giới ngôn ngữ học của nước này đã bắt đầu quan
tâm đến ngôn ngữ học tri nhận. Không chỉ nghiên cứu về lí thuyết, các học
giả Trung Quốc còn đặc biệt quan tâm đến tính ứng dụng trong giảng dạy
ngoại ngữ, giảng dạy tiếng Hán, nghiên cứu trí tuệ nhân tạo.
Có thể nói, ngôn ngữ học tri nhận đã đã thúc đẩy sự ra đời của ngành
Từ vựng học tri nhận tiếng Hán. Lĩnh vực ngữ pháp học, Trương Mẫn đã cho
ra mắt quiển Ngôn ngữ học tri nhận và danh ngữ tiếng Hán, Đái Hạo Nhất và
Trương Mẫn với cuốn Ngữ pháp chức năng tri nhận tiếng Hán, Triệu Diễm
Phương với Dẫn luận ngôn ngữ học tri nhận.
Trong công trình sau, đã được dịch ra tiếng Việt, Triệu Diễm Phương
đã giới thiệu một cách tổng quát các thành tựu của ngôn ngữ học tri nhận,
đồng thời trình bày một số nghiên cứu và những kiến giải riêng của mình về
một số vấn đề của khoa học này. Điều đặc biệt là, tác giả đã cố gắng truy tìm
ngọn nguồn của những tư tưởng cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận, đồng thời
12
chỉ ra được những ứng dụng của nó đối với việc nghiên cứu và giảng dạy
ngôn ngữ, nhất là ứng dụng nghiên cứu tiếng Hán dưới góc nhìn của ngôn
ngữ học tri nhận.
Liên quan trực tiếp đến đề tài đang bàn ở đây, theo quan sát bước đầu của
luận án, ẩn dụ sông nước trong các ngôn ngữ biến hình xuất hiện không nhiều.
Theo Trịnh Sâm (2016), trong văn hóa phương Tây, nó chỉ xuất hiện một vài ẩn
dụ: GIAO THÔNG LÀ MỘT CON SÔNG, VẤN ĐỀ LÀ MỘT CƠ THỂ
NƯỚC/MỘT VŨNG NƯỚC, VẤN ĐỀ LÀ MỘT VẬT CHỨA NƯỚC.
Riêng trong giới học giả Trung Quốc cũng có hai bài bàn về “nước”:
bài của Rong Chen (Water networks, the Chinese radical, and beyond in
Languages and Linguistics, Compendium of cognitive linguistics research,
Thomas Fuyin Li (ed), Nova publishers, New York, 2012) và Y. Nie and R.
Chen (Water metaphors and metonymies in Chinese, A semantics network,
Pragmatics and cognition, volume 16, number 3, 2008). Trong đó, nghiên
cứu về cấu tạo chữ Hán có bộ “thủy” và một số ẩn dụ về nước. Cũng theo
Trịnh Sâm (2016), tuy về mặt văn hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam có
những đặc điểm gần gũi nhưng tri nhận sông nước rất khác biệt.
Như vậy, nói không quá rằng, với tư cách là một miền nguồn, sông
nước có thể xuất hiện ở một số ngôn ngữ nhưng đậm đặc và phong phú nhất
có lẽ là trong tiếng Việt. Điều này cũng dễ hiểu vì với người Việt Nam từ
Nam chí Bắc sông nước là một thực thể rất thân thuộc và gần gũi.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.2.1. Từ góc độ văn hóa
Ngay từ những năm 70 của thế kỉ XX, Cao Xuân Huy khi đề cập đến
lịch trình tư tưởng dân tộc đã nhắc đến “đặc tính nước” như một biểu tượng
khái quát cho đặc trưng của dân tộc Việt. Ông cho rằng: “Sức sống của nước
là ở nguồn, sức mạnh của nước là ở chỗ rất nhiều hạt nhỏ cấu kết lại với
nhau một cách mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động, có thể uốn theo
13
đường cong, đường thẳng, chỗ lồi, chỗ lõm của đối tượng” [34, 363]. Tuy
nhiên, cần thấy tính chất uyển chuyển, mềm mại, linh hoạt, lưu động không có
nghĩa là mềm yếu. Tác giả khẳng định: “Đó không phải là vì nó không có cá
tính. Trái lại, đó là khả năng thích ứng vô hạn của nó mà chính cái khả năng
thích ứng đó là cái tính ưu việt, cái bí quyết sinh tồn của dân tộc ta” [34, 364].
Trong Cơ sở văn hóa Việt Nam (1995), Trần Ngọc Thêm đánh giá rất
cao vai trò của “làng nước” trong tâm thức cũng như ứng xử của người Việt.
Tác giả khai thác nhiều tính chất thiên về âm tính của nước. Tuy không biện
giải một cách tường minh, nhưng theo tác giả, nước (chất lỏng) và nước (quốc
gia) trong “đất nước” là cùng một nguồn gốc. Trần Ngọc Thêm cho rằng:
“Nước không chỉ phản ánh điều kiện địa lí và đặc điểm kinh tế, nó còn nói lên
những đặc tính đặc trưng nhất của văn hóa Việt Nam: Đó là thiên...ng đối với màu sắc mang tính
chất văn hoá này rất quan trọng trong việc thể hiện bức tranh ngôn ngữ của
cộng đồng diễn ngôn. Ngôn ngữ học tri nhận xem hình thái chính có chức
năng hình thành và cố định kiến thức của chúng ta về thế giới là ngôn ngữ tự
nhiên của con người và đó cũng chính là cái nguồn để nghiên cứu bản thân
những kiến thức này thông qua những bức tranh ngôn ngữ về thế giới.
29
1.2.3. Lí thuyết phạm trù và phạm trù tỏa tia
1.2.3.1. Phạm trù và phạm trù hóa
a) Phạm trù
Phạm trù là đối tượng quan tâm của tất cả các khoa học. Triết học định
nghĩa phạm trù là khái niệm chung nhất và nền tảng nhất phản ánh những
thuộc tính và những quan hệ cơ bản và phổ biến của các hiện tượng của hiện
thực và nhận thức.
Phạm trù là thành phần cốt yếu tạo nên tri thức nhân loại giúp con
người kết nối các trải nghiệm trong quá khứ với những kinh nghiệm hiện tại.
Sự phát triển trong bất cứ xã hội nào đều liên quan đến các phạm trù có tính
quan hệ với từng cộng đồng văn hóa – dân tộc cụ thể.
Như vậy, phạm trù là kết quả của sự khái quát hoá sự phát triển lịch sử
của nhận thức và của thực tiễn xã hội. Những phạm trù chính của chủ nghĩa
duy vật biện chứng: vật chất, vận động, không gian, thời gian, chất lượng, số
lượng, mâu thuẫn và thống nhất, nguyên nhân và hậu quả, tất yếu và ngẫu
nhiên, nội dung và hình thức, khả năng và hiện thực, bản chất và hiện tượng,
v.v. Cùng với sự phát triển của hiện thực khách quan và tri thức khoa học, các
phạm trù cũng phát triển và trở nên phong phú.
Trong ngôn ngữ học tri nhận, phạm trù là một trong nhưng hình thái
nhận thức của tư duy con người, cho phép khái quát hóa kinh nghiệm để phân
loại các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Điều này có nghĩa là một
phạm trù phải được dựa trên những gì mà con người tri giác và trải nghiệm về
sự vật hiện tượng đó chứ không phải chính bản thân nó.
Không chỉ trong khoa học chúng ta mới dùng đến khái niệm phạm trù.
Trong đời sống thường nhật, con người luôn luôn phải động chạm đến phạm
trù, bởi lẽ con người suy nghĩ bằng phạm trù.
Người Việt Nam thông qua tiếng Việt đã tiến hành phạm trù hoá thế
giới một cách rất độc đáo. Bắt đầu từ hai từ “cái” và “con”, người Việt đã
30
phân chia thế giới thành hai lớp phạm trù lớn: phạm trù sự vật tĩnh (cái nhà,
cái bàn, cái cây, cái máy, v.v.) và phạm trù sự vật động (con người, con chó,
con chim, con sông, con suối, con quay, v.v.). Tĩnh/động là những phạm trù
tri nhận phản ánh đặc điểm tư duy của người Việt.
Lakoff (1986) trích dẫn cách phân loại các loài động vật mà Borges
(1966) cho là của người Trung Hoa cổ xưa như sau: các loài động vật được
chia ra thành: a) động vật thuộc Hoàng đế, b) động vật đã được ướp xác, c)
động vật có thể thuần hoá, d) các loại heo sữa, đ) tiên cá, e) chó hoang, g)
những động vật được vẽ bằng cây bút lông lạc đà, h) các loài động vật trong
truyện cổ tích.
Tất nhiên đây không phải là những phạm trù tự nhiên của tư duy con
người. Có chăng thì chúng được chấp nhận trong lĩnh vực nghệ thuật.
Có hai thuyết về phạm trù: thuyết cổ điển và thuyết hiện đại.
Từ thời Aristotle đến những công trình sau này của Wittgenstein, phạm
trù được hiểu như những thiết chế rất rõ ràng, không che dấu trong nó những
vấn đề đặc biệt nào, chúng là những cái chứa đựng trừu tượng: một số sự vật
nằm trong vật chứa - phạm trù, một số khác thì nằm ngoài.
Người ta cho rằng những sự vật được xếp vào một phạm trù khi và chỉ
khi chúng có những thuộc tính chung nhất định. Và những thuộc tính chung
này qui định phạm trù nói chung.
Lí thuyết phạm trù cổ điển này nảy sinh không phải là kết quả của việc
nghiên cứu mang tính kinh nghiệm. Thậm chí nó cũng không phải là đối
tượng của những cuộc thảo luận kéo dài. Thực tế, trước mắt chúng ta là một
giả thuyết triết học được hình thành trên cơ sở những suy nghĩ tiên nghiệm.
Nhiều thế kỉ qua việc giải thích phạm trù theo kiểu cổ điển đã đi vào hệ
thống những quan điểm xuất phát như một bộ phận của nó và được chấp nhận
như một tiền đề trong đa số các bộ môn khoa học. Về thực chất, cho đến tận
ngày nay những cách biện giải về phạm trù cổ điển người ta không coi là lí
31
thuyết nữa. Trong đa số các bộ môn khoa học, nó được xem không phải là
một lí thuyết kinh nghiệm, mà là một chân lí tuyệt đối bất khả kháng.
Trong một thời gian rất ngắn, mọi sự đã hoàn toàn thay đổi. Nhờ có
việc tiến hành những nghiên cứu rộng rãi mang tính kinh nghiệm trong rất
nhiều lĩnh vực khác nhau, việc phạm trù hóa từ lĩnh vực tiên đề đã chuyển
hướng sang lĩnh vực thực nghiệm. Trong tâm lí học tri nhận, việc phạm trù
hóa đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu rất quan trọng trước hết là nhờ
những công trình đi tiên phong của E. Rosch, người đã nhìn thấy trong việc
phạm trù hóa một loại đối tượng đặc biệt để phân tích. Bà tập trung chú ý vào
hai hệ quả của lí thuyết cổ điển:
Nếu phạm trù chỉ được qui định bởi những thuộc tính mà tất cả các yếu
tố đều phải có, thì không thể có những tình huống khi một trong số những yếu
tố đó phù hợp ở mức độ nhiều hơn với quan niệm về phạm trù đó so với
những yếu tố khác.
Nếu phạm trù được qui định chỉ bởi những thuộc tính vốn có trong nội
bộ các yếu tố của nó, thì bản thân các phạm trù phải độc lập đối với những đặc
điểm cấu tạo của những bản thể thực hiện việc phạm trù hóa, cụ thể là chúng
cần phải thoát khỏi ảnh hưởng của sinh lí - thần kinh của con người, thoát khỏi
sự vận động của cơ thể con người và những năng lực đặc trưng của con người
có thể tri giác, tạo ra những hình ảnh tinh thần, năng lực dạy học, năng lực nhớ,
năng lực tổ chức những sự kiện đã nắm được và năng lực giao tiếp có hiệu quả.
Những nghiên cứu của E. Rosch và các đồng nghiệp của bà chứng
minh rằng nói chung phạm trù nào cũng có những đại diện tốt nhất của
nó (chúng được gọi là những “điển dạng”) và tất cả những khả năng đã liệt kê
ở trên đều tham gia thực tế vào các quá trình phạm trù hóa.
Theo quan điểm hiện nay, những kết quả này cũng không gây ngạc
nhiên cho lắm. Song, một loạt những chi tiết đề cập có tính bản thể so với
cách lí giải truyền thống thì có những nét rất mới.
32
b) Phạm trù hóa
Kinh nghiệm của con người được phân loại, sắp xếp thành những
“ngăn/khu” riêng để giúp con người hiểu và có thể tương tác với thế giới xung
quanh. Quá trình phân loại gần như vô thức này chính là sự “phạm trù hóa”
(categorization).
Theo Lakoff (1987), (1989) và Johnson (1987), trong phạm vi nghiên
cứu của ngôn ngữ học tri nhận, lược đồ hình ảnh (image-schema) là những
cấu trúc nổi bật được tổ chức trong sự cảm tri của con người và là kết quả của
sự tương tác giữa con người với thế giới bên ngoài. Lược đồ hình ảnh chính là
những cấu trúc kiểu dạng thức (gestalt) được tổ chức mạch lạc và nhất quán
trong phạm vi trải nghiệm cơ thể con người.
Phạm trù hoá là một trong những khái niệm then chốt trong việc miêu
tả hoạt động nhận thức của con người liên quan đến hầu hết những năng lực
và hệ thống tri nhận trong bộ máy tri nhận của nó và với cả những thao tác
được thực hiện trong các quá trình tư duy như so sánh, đồng nhất, thiết lập sự
giống nhau và tương đồng.
Với nghĩa hẹp phạm trù hoá là việc đưa những hiện tượng, đối tượng,
quá trình, v.v. vào phạm vi kinh nghiệm, vào phạm trù và thừa nhận nó là một
thành tố của phạm trù này, song với nghĩa rộng hơn thì đó là quá trình cấu tạo
và phân suất chính bản thân các phạm trù, là quá trình phân chia thế giới bên
ngoài và thế giới bên trong của con người, quá trình sắp xếp các hiện tượng
theo thứ tự số lượng ít hơn hoặc hợp nhất chúng lại, đồng thời đó là kết quả
của hoạt động phân loại.
Cùng với sự phát triển cách tiếp cận tri nhận, các quan điểm về bản
chất của quá trình phạm trù hoá đã thay đổi về cơ bản. Nguồn gốc về cách
hiểu mới này gắn liền với tên tuổi của Wittgenstein (1969), người đã phân
tích một cách độc đáo những ý nghĩa của từ “trò chơi” và chỉ ra rằng tất cả
33
các nghĩa tương đồng chỉ có mối liên hệ với nhau qua “sự giống nhau về dòng
tộc”, nghĩa là ở mỗi cặp nghĩa so sánh có một nét nghĩa chung nào đó.
Chẳng hạn, một người bà con có thể giống với một người khác ở chỗ
họ có tính khí giống nhau, lại có thể giống với một người khác nữa về ngoại
hình. Những tư tưởng này về sau được Lakoff phát triển và phân tích rất
thuyết phục và được phản ánh trong trào lưu phương pháp điển dạng và ngữ
nghĩa học điển dạng.
Rosch (1975) đã áp dụng phương pháp điển dạng trong việc phân định
các cấp độ phạm trù hoá, trong đó có cấp độ cơ sở được xem là trung tâm để
nghiên cứu các dạng khác nhau của hoạt động tri nhận.
Thực tế đã có rất nhiều công trình tâm lí học cũng như ngôn ngữ học
nghiên cứu hiện tượng phạm trù hoá các màu. Rosch (1970, 1971, 1972), Berlin
và Kay (1969), v.v. nhận định rằng khi phạm trù hoá các màu sắc, chúng ta dựa
vào một số điểm qui chiếu để định hướng trong việc lựa chọn thẻ màu nào là
đúng nhất, là “tâm điểm” nhất của một màu nào đó (thí dụ màu “đỏ”) và dựa vào
“các màu trung tâm” vốn không những được người bản ngữ dễ dàng đồng tình
trong sự phân loại mà còn rất nhất quán giữa các ngôn ngữ khác nhau. Các tâm
điểm hay các màu trung tâm này có một tôn ti nhất định mang tính phổ quát (chứ
không phải mang tính tương đối) rất rõ qua khảo sát các từ chỉ màu cơ sở (basis
colour terms) của 98 ngôn ngữ trên thế giới. Cụ thể là với 11 phạm trù màu cơ sở
(trắng, đen, đỏ, xanh lá cây, xanh da trời, vàng, nâu, tía, hồng, da cam, xám).
Trong tiếng Việt, theo Berlin và Kay, có 9 từ chỉ màu cơ sở.
Lakoff (1986) tổng kết những nguyên tắc chung của việc phạm trù hoá
như sau: a) Tính trung tâm, b) Mối liên hệ dây chuyền, c) Miền kinh
nghiệm, d) Những mô hình lí tưởng, đ) Kiến thức chuyên môn, e) Không có
những đặc tính chung.
Sơ đồ sau đây chỉ ra khái niệm về quá trình phạm trù hóa theo quan điểm
kinh nghiệm luận (experientialism). Theo đó, lược đồ hình ảnh được hình thành
34
thông qua những trải nghiệm cơ thể và sự tương tác với thế giới bên ngoài. Các
hoạt động thân thể với tư cách là chất kiến tạo sẽ hình thành nên quá trình phạm
trù hóa, mang lại cho chúng ta ý niệm về thế giới với lược đồ cụ thể.
Sơ đồ 1. Quá trình phạm trù hóa theo quan điểm kinh nghiệm luận
1.2.3.2. Phạm trù tỏa tia
Khái niệm tỏa tia hay lan tỏa (radiality) là một khái niệm trọng tâm của
ngôn ngữ học tri nhận được Lee (2001) và Evan & Green (2006) đề cập tới trong
cuốn Cognitive linguitics – An introduction [105] và cuốn Cognitive linguitics:
An introduction [90]. (Luận án nhất quán dùng thuật ngữ tỏa tia theo bản dịch
cuốn Dẫn luận ngôn ngữ học tri nhận của Lee (2001) bởi dịch giả Nguyễn Văn
Hiệp và Nguyễn Hoàng Anh). Theo đó, hình thức thể hiện của phạm trù tỏa tia là
các lưới lan tỏa (radial network). Các lưới này được cấu thành từ một thành viên
trung tâm mang nghĩa trung tâm, gọi là điển mẫu (prototype), xung quanh là các
thành viên phụ (phạm trù bậc dưới) với nghĩa chuyển.
Theo Lakoff (1980), từ vựng là những phạm trù có thể được mô phỏng và
nghiên cứu thông qua thuyết mô hình tri nhận lí tưởng hóa (idealized cognitive
models-ICMs). Nói rõ hơn, các đơn vị từ vựng đại diện cho một kiểu loại phạm
trù phức hợp mà ông gọi là phạm trù tỏa tia (radial categories) bao gồm một điển
TƯ DUY
CƠ THỂ
THẾ GIỚI
Ý niệm tri nhận
Năng lực cảm tri
Thực thể trong thế giới thực
Lược đồ hình ảnh
Trải nghiệm thân thể
35
dạng và các thành viên khác liên quan đến điển dạng bởi những qui ước vốn có
chứ không phải do những qui tắc có thể dự đoán trước được.
Phạm trù tỏa tia được Evan & Green (2006) mô hình hóa dưới dạng lưới
như sơ đồ số 2 dưới đây. Trong sơ đồ này, mỗi nghĩa đặc trưng đều được minh
họa bằng một điểm mốc thể hiện bởi một chấm tròn. Các mũi tên có vai trò liên
kết các điểm mốc thể hiện mối liên hệ gần hay xa giữa các nghĩa thành viên.
Sơ đồ 2: Sơ đồ mô hình hóa phạm trù tỏa tia
36
Sơ đồ 3: Sơ đồ tỏa tia phạm trù MẸ
1. MOTHER: MẸ
2. Quan hệ cùng
huyết thống
3. Quan hệ
không cùng
huyết thống
Surrogate mother:
mẹ mang thai hộ
Birthmother:
mẹ đẻ
Mother-in-law:
mẹ chồng/vợ
Step mother:
mẹ kế
Adoptive mother:
mẹ nuôi
Foster mother:
mẹ nuôi dưỡng
Godmother:
mẹ đỡ đầu
37
Lakoff (1987) chỉ ra rằng những biến thể này không được tạo sinh từ
mẫu trung tâm (hay chính là điển dạng – prototype) bởi các qui tắc chung
chung, chúng được tạo nên bởi những qui ước và cần được lĩnh hội với tư
cách từng cá thể ngôn ngữ riêng biệt. Cách mở rộng nghĩa này hoàn toàn
không ngẫu nhiên. Nghĩa trung tâm quyết định khả năng chuyển nghĩa của
các thành phần ngoại biên cũng như mối quan hệ có thể có giữa chúng.
Theo Evan & Green [90], những nghĩa phái sinh không thể đoán được
một cách hoàn toàn từ điển dạng mà chúng còn là sản phẩm có ảnh hưởng từ
yếu tố văn hóa. Ví dụ: những phạm trù bậc dưới của MẸ (MOTHER) liệt kê
sau đây đều được hiểu tùy theo từng hoàn cảnh văn hóa đặc thù.
1. STEP MOTHER (mẹ kế): kết hôn với người bố nhưng không sinh ra
mình, không có quan hệ huyết thống.
2. ADOPTIVE MOTHER (mẹ nuôi): chăm sóc, nuôi dưỡng và là người
giám hộ hợp pháp, không sinh ra và không có quan hệ huyết thống.
3. BIRTH MOTHER (mẹ đẻ): sinh ra và có quan hệ huyết thống nhưng
cho đứa trẻ làm con nuôi, không nuôi dưỡng và không có trách nhiệm về mặt
pháp luật.
4. FOSTER MOTHER (mẹ nuôi dưỡng): được pháp luật chỉ định nuôi
dưỡng đứa trẻ nhưng không phải là người giám hộ hợp pháp.
5. SURROGARE MOTHER (mẹ mang thai hộ): sinh ra đứa trẻ nhưng
không có quan hệ về gen di truyền và không có trách nhiệm nuôi dưỡng hay
giám hộ đứa trẻ, nhưng có vai trò quan trọng trong việc mang thai và sinh ra
đứa bé.
6. GODMOTHER (mẹ đỡ đầu): không sinh ra đứa trẻ, được gia đình
lựa đứa trẻ lựa chọn và tuyên thệ trong buổi lễ thánh cho đứa trẻ mới chào đời
về việc có trách nhiệm dạy dỗ đứa trẻ những vấn đề về tôn giáo, lễ nghi.
7. MOTHER - IN - LAW (mẹ chồng, mẹ vợ): người sinh ra vợ/chồng
của một người, có mối quan hệ thông gia, có trách nhiệm về mặt pháp lí.
38
Theo Evan & Green (2006), một đặc điểm quan trọng của phạm trù tỏa
tia là không có tính “sản sinh”. Tức là, bản thân thành tố trung tâm không sản
sinh ra các nghĩa mới phái sinh mà các phạm trù bậc dưới được hình thành từ
điển dạng và là kết quả của những trải nghiệm mang tính văn hóa của chúng
ta. Trong trường hợp phạm trù MOTHER (MẸ) nói trên, phạm trù bậc dưới
SURROGARE MOTHER (mẹ mang thai hộ) là một yếu tố nghĩa mới, xuất
hiện vào khoảng nửa cuối thế kỷ XX khi những thành tựu trong ngành y học
cho phép con người thực hiện những hình thức sinh sản tưởng chừng như
không thể có được.
GODMOTHER (mẹ đỡ đầu) là minh chứng tiêu biểu cho hiện tượng
ngôn ngữ liên quan đến văn hóa tôn giáo. Thuật ngữ này chỉ có ở những nước
người dân theo Công giáo (mẹ đỡ đầu, cha đỡ đầu). Đây là người khá quan
trọng, được cha mẹ đứa trẻ lựa chọn khi đứa trẻ sắp ra đời. Người này có trách
nhiệm làm lễ thánh rửa tội cho đứa trẻ ngay sau khi chào đời, đồng thời còn có
trách nhiệm dạy dỗ và giáo huấn đứa trẻ những vấn đề lễ nghi, tôn giáo.
Sơ đồ tỏa tia của ý niệm là sự khái quát biến chuyển ý nghĩa của một
đơn vị ngôn ngữ dựa trên sự phân biệt của các thành tố nghĩa và mối liên hệ
giữa ý nghĩa của nguyên mẫu, ý nghĩa chính và các nghĩa phái sinh. Theo Lee
(2001), khái niệm tỏa tia hoàn toàn đối lập vơi quan điểm truyền thống từ thời
Aristotel về bản chất của các phạm trù, vốn cho rằng, mỗi thành viên của một
phạm trù đều chia sẻ một tập hợp các đặc tính cần và đủ để định nghĩa phạm
trù. Theo quan điểm truyền thống này, thực thể nào sở hữu các đặc tính cần
đều là thành viên của phạm trù, những thực thể nào thiếu một hoặc vài đặc
tính này sẽ bị loại ra. Trái ngược lại, mô hình dựa trên điển mẫu lại thể hiện
rằng thành viên trong phạm trù là hiện tượng giảm dần, tức là một số thành
viên trong phạm trù mang nghĩa gần với nghĩa trung tâm của phạm trù hơn
các thành viên khác. Cũng theo David Lee, mô hình lưới xuyên tâm đã soi
39
dẫn đáng kể vào việc giải thích các ý niệm cụ thể và các khu vực ý niệm liên
quan đế nhau như thế nào trong tâm trí người nói, với một ngôn ngữ cụ thể.
1.2.4. Ý niệm và ý niệm hóa
1.2.4.1. Ý niệm
Sự khác biệt cơ bản giữa ngôn ngữ học truyền thống và ngôn ngữ học
tri nhận là: ngôn ngữ học truyền thống tập trung nghiên cứu ý nghĩa, trong khi
ngôn ngữ học tri nhận hướng tới nghiên cứu ý niệm.
Theo Từ điển tâm lí học Oxford, ý niệm (concept) là một biểu hiện tinh
thần, một ý tưởng, hay một tư tưởng tương ứng với một thực thể riêng biệt hay
một lớp các thực thể, hoặc đó là việc định nghĩa hay là những thuộc tính điển
dạng của thực thể hay lớp các thực thể đó, vốn có thể là cụ thể hay trừu tượng.
Theo Lý Toàn Thắng (2009), “Ý niệm không phải và không chỉ là kết
quả của quá trình tư duy mà là sản phẩm của hoạt động tri nhận, nó là cái
chứa đựng kiến thức/tri thức hay sự hiểu biết của con người trên cơ sở kinh
nghiệm từ đời này qua đời khác”. Ý niệm không chỉ mang tính phổ quát toàn
nhân loại mà còn mang tính đặc thù văn hóa dân tộc do được gắn với ngôn
ngữ và văn hóa của mỗi cộng đồng nhất định.
Ngôn ngữ học tri nhận cho rằng ý niệm là đơn vị tinh thần hoặc tâm lí
của ý thức chúng ta, là đơn vị nội dung của bộ nhớ động, của từ vựng tinh
thần và của bộ não, của toàn bộ bức tranh thế giới được phản ánh trong tâm lí
con người.
Đặc điểm của ý niệm có thể tóm lược trong mấy ý chính sau đây:
a) Ý niệm không nhất thành bất biến mà có sự biến đổi do hoạt động tri
nhận của con người biến đổi theo điều kiện lịch sử xã hội. Ví dụ: ý niệm về
“đẹp” thay đổi theo thời gian.
b) Ý niệm không tồn tại riêng lẻ mà chúng liên kết với nhau tạo thành
một hệ thống ý niệm. Mỗi một hệ thống ý niệm có những ý niệm cơ sở (ý
niệm xuất phát) và ý niệm thứ cấp (ý niệm phái sinh).
40
c) Các ý niệm trong hệ thống ý niệm không có ranh giới rõ rệt, tức có
hiện tượng ranh giới mờ, thậm chí một số ý niệm trong hệ thống ý niệm này
lại nằm trong hệ thống ý niệm khác.
Theo Langacker [104], cấu trúc của ý niệm thường bao gồm hai thành
tố: hình bóng ý niệm (concept profile) và hình nền ý niệm (concept base,
concept frame). Hình bóng ý niệm là ý niệm được biểu đạt bởi từ đã cho.
Hình nền ý niệm được hiểu là tri thức hay cấu trúc ý niệm được tiền giả định
bởi ý niệm hình bóng, hình bóng ý niệm sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có
hình nền ý niệm. Ví dụ, với một ý niệm như weekend (ý niệm hình bóng),
chúng ta sẽ không thể hiểu được nếu không có tri thức nền (ý niệm hình nền)
về dương lịch (ở lịch phương Tây, một tuần chia ra làm bảy ngày) và những
qui ước văn hóa xã hội của phương Tây (một tuần chia ra: ngày làm việc –
workday và ngày nghỉ - weekend).
Do vậy, ý nghĩa của đơn vị ngôn ngữ phải được xác định có tính đến cả ý
niệm hình bóng lẫn hình nền. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ tri nhận có nhiều ý
kiến khác nhau về việc phân loại ý niệm, tựu trung có thể chia làm ba nhóm:
i) Nhóm ý niệm thuộc phạm vi cá nhân lịch sử, những sự kiện xã hội,
các tổ chức quốc gia,
ii) Nhóm ý niệm thuộc về địa danh,
iii) Nhóm ý niệm thuộc về đời sống tinh thần và cảm xúc của con người.
Trần Văn Cơ [10] dựa vào thành tựu nghiên cứu của người đi trước đã
đề xuất phân loại ý niệm theo sơ đồ bộ ba: con người - vận động trong thời
gian - vận động trong không gian.
Thực ra, có thể thấy rằng hệ thống ý niệm là kết quả của sự tương tác từ
3 nguồn: (i) tương tác với chính cơ thể con người, (ii) tương tác với môi
trường, và (iii) tương tác với người khác, dưới sự chi phối của một nền văn
hóa nhất định [59].
41
1.2.4.2. Ý niệm hóa
Cũng theo tác giả cuốn Từ điển tâm lí học Oxford, ý niệm hóa là một
quá trình mà trong đó có một ý niệm được thụ đắc hay được học hỏi, thường
là nhờ vào các thí dụ của thực thể thuộc phạm trù và của các thực thể không
thuộc về phạm trù đó. Nói chung, nó bao gồm sự học hỏi để phân biệt và nhận
biết những thuộc tính cần chủ yếu mà theo đó các thực thể được phân loại
cũng như các qui tắc chế ước sự kết hợp các thuộc tính cần yếu vẫn có thể
tách biệt nhau. Ý niệm hóa bao hàm các quá trình tư duy, hay bất cứ sự trải
nghiệm tinh thần nào.
Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng ý niệm là một mảng của thế
giới do con người “cắt” ra bằng “lát cắt ngôn ngữ” để ý niệm hóa thế giới.
Nói một cách khác, ngôn ngữ của mỗi cộng đồng dân tộc chia cắt thế giới
theo những cách khác nhau, phản ánh cách ý niệm hóa thế giới khác nhau,
nhờ đó mà chúng ta có được những “bức tranh đa dạng” về thế giới, trong đó
có “bức tranh ngôn ngữ về sông nước” qua tri nhận của người Việt.
1.2.5. Lược đồ và điển dạng
1.2.5.1. Lược đồ
Lược đồ là khái niệm không mang tính cụ thể mà được khái quát hóa từ
các kinh nghiệm trong sự tương tác với thế giới khách quan, dựa trên các kinh
nghiệm được lặp đi lặp lại. Các lược đồ hình ảnh thường được dùng để mô tả
hiện tượng ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm. Lược đồ chính là cơ sở để các ý
niệm nảy sinh và trong ngôn ngữ chúng được thể hiện ra thông qua các biểu
thức ngôn ngữ. Do các lược đồ hình ảnh luôn lấy nền tảng từ sự trải nghiệm
của cơ thể con người, cho nên về bản chất, chúng mang tính nghiệm thân.
1.2.5.2. Điển dạng
Khi tìm hiểu về sự phạm trù hóa, các học giả như G. Lakoff, Penelope
Brown, Eleanor Rosch, Anne Wierrzbicka nghiên cứu về điển dạng và các
học giả này định nghĩa điển dạng như là “ví dụ đạt nhất của các phạm trù”,
42
“trường hợp rõ nhất trong các phạm trù”, “thành viên trung tâm và điển hình”,
v.v. Có thể kể ra một số đặc điểm cơ bản của tính điển dạng như sau:
a) Cấu trúc điển dạng tiềm ẩn trong tất cả phạm trù,
b) Các loại điển dạng không thể căn cứ vào một hệ thống tiêu chí vì các
thành viên khác trong cùng phạm trù có khả năng không có một số tiêu chí
nào đó, trường hợp “đà điểu”, “chim cánh cụt” được xếp vào loại “chim”
chẳng hạn,
c) Cùng loại có thể không hoàn toàn giống với điển dạng khi chúng ở vị
trí ngoại biên,
d) Thành viên của các phạm trù được xếp theo nhiều mức độ khác nhau,
e) Cấu trúc ngữ nghĩa của phạm trù thường có tính tập trung và trùng
lặp về mặt nghĩa,
Như vậy, mỗi phạm trù đều gắn liền với tính điển dạng. Trong đó, mỗi điển
dạng là một hệ thống tôn ti trật tự trong nhận thức của con người, và được mô tả
trên hai chiều: chiều đứng chỉ loại, chiều ngang chỉ cấu trúc giữa các loại.
Chiều đứng chỉ loại có ba cấp bậc: cấp bậc trên (superordinate level),
cấp bậc cơ bản (basic level) và cấp bậc dưới (subordinate level).
CẤP BẬC TRÊN ĐỘNG VẬT ĐỒ NỘI THẤT
CẤP BẬC CƠ BẢN Chó Bàn (table)
CẤP BẬC DƯỚI
Chó bẹc-giê
Chó bẹc-giê Đức
Bàn bếp (kitchen table)
Bàn ăn (dinning-room table)
1.2.6. Tính nghiệm thân
Theo kinh nghiệm luận, kinh nghiệm là nguồn duy nhất của mọi tri
thức và quan niệm của con người. Nói khác, mọi kiến thức về thế giới của
chúng ta bắt nguồn từ cảm giác - kinh nghiệm, được tạo ra bởi khả năng cảm
giác - kinh nghiệm. Mặt khác, theo khách quan luận, thế giới có thể được mô
tả một cách khách quan, không bị lệ thuộc bởi màu sắc văn hóa hay quan
43
điểm của người quan sát. Như vậy, nghĩa của từ là mối quan hệ trừu tượng
giữa biểu trưng và thực thể, ký hiệu ngôn ngữ là vô nghĩa và không tự nó
mang tính qui ước, chỉ khi biểu trưng cho một sự vật mang những sắc thái và
đặc điểm khác với các sự vật khác trong thế giới thực tại thì ký hiệu mới có
nghĩa. Kết quả là từ ngữ không bao giờ có nghĩa bóng hay nghĩa ẩn dụ. Trong
khi đó, với sự phát triển của khoa học tri nhận, các nhà khoa học đã chứng
minh rằng tâm trí hoạt động và phát triển nhờ những khả năng của thân thể.
Nghiên cứu của khoa học tri nhận cho rằng các ý niệm của con người không
chỉ là các phản ánh của thực tại bên ngoài mà cơ bản chúng được hình thành
từ thân thể và não bộ của con người.
Lakoff (1987) đã kế thừa những thành quả trên hình thành nên khái
niệm trải nghiệm luận. Năm 1999, ông đã cho ra mắt cuốn Philosophy in the
Flesh (triết lí về thân thể). Lakoff đã chỉ ra rằng sự nghiệm thân bao gồm
những trải nghiệm thực tế hay tiềm tàng của cá thể hay cộng đồng người, sự
tương tác giữa cá thể với môi trường vật lí xã hội, bao gồm sự cảm tri môi
trường, di chuyển cơ thể, phát ra lực và cảm thụ lực. Trong công trình này,
Lakoff và Jonhson đã đưa ra những đúc kết quan trọng: (i) lí trí của con người
là một dạng lí trí động vật, bị ràng buộc với thân thể con người và cấu trúc
phức tạp đến kỳ lạ của bộ não con người, (ii) thân thể, bộ não và sự tương tác
của con người với môi trường xung quanh là nền tảng cho sự cảm nhận một
cách gần như vô thức của chúng ta hằng ngày.
Tính tương tác trong quá trình trải nghiệm của con người bao hàm các
mặt sinh học, xã hội, văn hóa, kinh tế, đạo đức, chính trị, v.v. rất nhiều kinh
nghiệm nghiệm thân của con người được bắt rễ trong bối cảnh văn hóa xã hội
cụ thể, bị ảnh hưởng bởi một chế ước văn hóa cụ thể. Ở mỗi nền văn hóa, rất
nhiều trải nghiệm cơ bản của con người được tạo ra từ tập tục văn hóa bản
địa, do đó, có thể xem tính nghiệm thân của tâm trí được sản sinh từ mối
tương tác giữa con người với thế giời khách quan và bị giới hạn trong bối
44
cảnh văn hóa cộng đồng. Vì vậy, khi xem xét kinh nghiệm trải nghiệm của
con người là phải xem xét cả kinh nghiệm của cá thể và kinh nghiệm cộng
đồng của người nói cùng ngôn ngữ.
Dựa trên cơ sở sự trải nghiệm, nhất là sự trải nghiệm của cơ thể con
người với thế giới xung quanh, các ý nghĩa được tạo nên và quyết định
phương thức con người tri nhận thế giới. Do vậy, cơ sở tri nhận của con người
phải được hiểu thông qua tính nghiệm thân.
1.2.7. Ẩn dụ ý niệm
1.2.7.1. Khái niệm về ẩn dụ ý niệm
Theo G. Lakoff và M. Johnson (1980) thì lối nói ẩn dụ là một cơ chế
nhận thức mà thông qua nó, logic của những khái niệm có tính trừu tượng
được thay bằng logic của những khái niệm có tính cụ thể hơn. Và dưới góc
nhìn của tri nhận luận, ẩn dụ ý niệm là một sự chuyển di (transfer) hay một
sự ánh xạ (mapping) cấu trúc và các quan hệ nội tại của một miền hay mô
hình tri nhận nguồn (source) sang một miền hay mô hình tri nhận đích
(target). Ví dụ như trong ẩn dụ ý niệm THỜI GIAN LÀ TIỀN BẠC (TIME IS
MONEY) thì thời gian được xem như một miền ý niệm đích, tiền bạc được
xem như một miền ý niệm nguồn.
Theo Trần Văn Cơ (2007), ẩn dụ ý niệm (còn gọi là ẩn dụ tri nhận) “là
một trong những hình thức ý niệm hóa, một quá trình tri nhận có chức năng
biểu hiện và hình thành những ý niệm mới và không có nó thì không thể nhận
được tri thức mới. Về nguồn gốc, ẩn dụ tri nhận đáp ứng năng lực của con
người nắm bắt và tạo ra sự giống nhau giữa những cá thể và những lớp đối
tượng khác nhau” [8, 293].
Ẩn dụ ý niệm có những đặc điểm sau đây:
(i) Ẩn dụ chủ yếu là vấn đề thuộc về lĩnh vực tư duy và hành động và chỉ
được phái sinh trên lĩnh vực ngôn ngữ. Điều này cho thấy rằng ẩn dụ không chỉ
45
là hiện tượng ngôn ngữ mà còn là một hiện tượng ý niệm, ẩn dụ không chỉ là
biện pháp tu từ mà còn là quá trình tự nhiên của nhận thức và tư duy,
(ii) Ẩn dụ không chỉ căn cứ vào sự giống nhau (simile),
(iii) Chức năng của ẩn dụ là nhằm giúp con người hiểu rõ hơn về các ý niệm,
(iv) Ẩn dụ được sử dụng một cách tự nhiên có tính định ước hay không
định ước của một cộng đồng ngôn ngữ,
(v) Ẩn dụ vừa có tính phổ quát vừa có tính riêng biệt mang tính văn hóa
dân tộc.
Nói về mối quan hệ giữa miền nguồn và miền đích trong ẩn ý niệm, Z.
Kovecses [98] cho rằng trong một số ẩn dụ ý niệm, miền nguồn là nguồn gốc
(origin, root) của miền đích, có thể là nguồn gốc sinh học hay nguồn gốc lịch
sử văn hóa. Ẩn dụ ý niệm có thể chia thành hai cấp: ẩn dụ cơ sở (primary
metaphor) và ẩn dụ phức hợp (complex metaphor). Ẩn dụ cơ sở xuất phát từ
những trải nghiệm mang tính chủ quan của con người, phần lớn là vô thức và
mang tính phổ quát.
1.2.7.2. Ánh xạ trong ẩn dụ ý niệm
Ánh xạ vốn là một thuật ngữ liên quan đến khái niệm tập hợp của toán
học, là một hệ thống cố định của các tương ứng giữa các yếu tố hợp thành
miền nguồn và miền đích. Khi những tương ứng này được kích hoạt, các ánh
xạ có thể phóng chiếu từ miền nguồn sang miền đích. Do vậy, hiểu được một
ẩn dụ ý niệm có nghĩa là hiểu được hệ thống ánh xạ của một cặp nguồn - đích.
Ánh xạ ẩn dụ (metaphorical mapping) được xây dựng trên mối quan hệ
giữa miền ý niệm nguồn và đích theo một hướng duy nhất từ nguồn sang đích
mà không phải là ngược lại và miền ý niệm nguồn được ý niệm hóa có sự liên
hệ gần hơn với trải nghiệm vật lí hay những nhận thức có sẵn của con người
so với miền ý niệm đích.
Không như miền ý niệm đích, miền ý niệm nguồn liên quan đến nội
dung hình ảnh (image content) bị ràng buộc đối với sự tri nhận và cảm nhận
46
của cơ thể con người và do vậy, nó thiết lập một nguồn phong phú đối với
những sự qui chiếu được phóng chiếu vào miền đích. Những sự phóng chiếu
này kéo theo những khuôn mẫu phù hợp với cấu trúc miền đích. Ánh xạ có
thể là những ánh xạ cơ sở (primary) hay phức hợp (complex).
1.2.7.3. Sơ đồ hình ảnh trong ẩn dụ ý niệm
Theo Z. Kovecses (2002), sơ đồ hình ảnh được rút ra từ sự tương tác
của chúng ta đối với thế giới khách quan. Những sự tương tác như thế cứ xảy
ra và lặp đi lặp lại trong trải nghiệm của con người. Những trải nghiệm vật lí
cơ bản này đã đưa đến cái mà chúng ta gọi là sơ đồ hình ảnh và sơ đồ hình
ảnh cấu trúc nhiều ý niệm trừu tượng của chúng ta một cách ẩn dụ.
Có thể nói rằng hệ thống sơ đồ hình ảnh (sơ đồ vật chứa, trung tâm -
ngoại biên, chu kỳ, gần - xa, mức độ, bộ phận - toàn thể, v.v.) là một trong
những yếu tố quan trọng để hình thành tư duy ẩn dụ của con người. Khi nói
về thời gian, bằng nhiều cuộc khảo nghiệm, Gentner cũng như Lera
Boroditsky chứng minh rằng sơ đồ hình ảnh không gian đóng một vai trò
quan trọng trong việc cấu trúc tư duy về ...ững vàng bước chân
Lòng người đang độ mùa xuân
Trào dâng niềm vui đánh Mỹ
Dẫu hiểm nguy em không nề.
198
Quả pháo ơi sao mà yêu như đứa trẻ
Suốt đêm ngày ta bế trên vai
Đường về đô thị còn xa
Ngày nay đi diệt thù cứu nước có ta có mình.
18. ĐÀN SÁO HẬU GIANG
Tác giả: Trần Long Ẩn
Từ trên những rạng đông, con chim sáo nó bay ra đồng
Theo con nước đang xuôi dòng ra đồng ruộng xa.
Con chin sáo nghe trong lòng bay bổng lời ca
Hò hò hơ, hới hơi hơi hò, hò hò hơ hơ, hới hơi hò hơi.
Đời vui sáo bay gọi bầy.
Về miền Tây thăm đất Hậu Giang.
Thương câu hát để ru bao đời.
Thương cây lúa lớn nhanh theo người.
Dầm mưa dãi nắng, tưới xanh ruộng đồng.
Đời vui, nước trôi ngược dòng.
Tình phù sa tuy đục mà trong.
Trông con nước nó trôi lạnh lùng.
Ôi thương chín nhánh sông quê mình.
Cần Thơ gạo trắng, nước trong là đây.
Người con gái Hậu Giang, xưa như cánh sáo bay xa làng,
Nay như những đóa sen hồng bên dòng phù sa.
Em yêu quý những con đường mang nặng những lời ca
Mùa xuân sang, sáo bay theo đàn vào mùa xuân.
Em hát vui đời vui.
Vì nhau cắn đôi hạt gạo,
Nhường cho nhau chiếc áo mặc ngày xuân.
Thương câu hát để ru bao đời.
Thương cây lúa lớn nhanh theo người.
Dầm mưa dãi nắng, tưới xanh ruộng đồng.
Đời vui, nước trôi ngược dòng.
Tình phù sa tuy đục mà trong.
Trông con nước nó trôi lạnh lùng.
Ôi thương chín nhánh sông quê mình.
Cần Thơ gạo trắng, nước trong là đây.
Chào Hậu Giang hôm nay, những con đường phơi phới đang bay xa.
199
19. ĐAU XÓT LÝ CHIM QUYÊN
Tác giả: Vũ Đức Sao Biển
Ngày xưa khi chưa lớn khôn
Đã nghe câu hát lý chim quyên
Chim quyên ăn trái nhãn lồng,
Chiều nay qua sông Cửu Long
Lại nghe câu hát lý chim quyên
Chim quyên ăn trái nhãn lồng.
Chim quyên chim ăn trái nhãn lồng
Lia thia quen chậu vợ chồng quen hơi.
Mà đôi ta không là tình nhân,
Không phải vợ chồng
Chưa hề bén tiếng chưa hề quen hơi
Như chim quyên chưa ăn trái nhãn lồng
Như lia thia chưa quen với chậu vàng.
Nên dầu biệt ly cũng chẳng ai buồn chi
Chẳng ngậm ngùi đâu dù phải nghe câu hát lý chim quyên.
Vàng rơi mênh mông sóng xô
thoảng nghe trong gió thoáng hương cau
Hương cau vui nhớ mùi trầu
Chiều nay qua sông Cửu Long
Chợt nghe ai hát lý thương nhau
Thương nhau sao lỡ nhịp cầu?
Chim quyên không ăn trái nhãn lồng
Qua không thương bậu, bậu đừng thương qua.
20. ĐÊM GÀNH HÀO NGHE ĐIỆU HOÀI LANG
Tác giả: Vũ Đức Sao Biển
Dưới trăng, dòng sông trôi rất dịu dàng.
Như dải tơ vàng xuôi về biển Đông.
Gành Hào ơi nửa đêm ai hát lên câu hoài lang.
Vầng trăng nghiêng xuống trên vạt rừng tràm.
Xề u xế u liu phạm.
Dây tơ đàm kìm buông thiết tha.
Xề u xề u liu phạn. Đưa cung đàn về trên bến xưa.
200
Đường dù xa ong bướm, xin đó đừng phụ nghĩa tào khang.
Đêm luống trông tin nhạn, ngày mỏi mòn như đá vọng phu.
Vọng phu vọng, luống trôn tin chàng.
Lời ai ca, dưới ánh trăng này.
Rừng đước mênh mông đêm
Gành Hào chơt thương nhớ ai.
Ngày ấy ra đi, con sông buồn tím một dòng trôi.
Bạc Liêu ơi, có nhớ chăng người.
Thuở ấy thanh xuân, trăng
Gành Hào tròn như chiếc gương.
Giờ tóc pha sương, qua Gành hào tiếc một vầng trăng
21. ĐIỆU BUỒN PHƯƠNG NAM
Tác giả: Vũ Đức Sao Biển
Về phương Nam lắng nghe cung đàn
Thổn thức vọng dưới trăng mơ màng
Rồi theo sông Cửu Long nhớ nhung dâng tràn
Chợt thương con sáo bay xa bầy
Sương khói buồn để lại lòng ai.
Con sáo sang sông, sáo đã sổ lồng
Bay về Bạc Liêu, con sáo bay theo phương người
Bay về Trà Vinh, con sáo bay qua đời tôi.
Câu hát ngân nga, tiếng tơ giao hòa
Cháy lên trong dạ muôn ngàn tâm sự
Hát lên một lần, để một đời xa nhau sáo ơi!
Đàn thiên thu đứt dây tơ rồi
Theo sóng vàng cát lỡ sông bồi
Còn chi nữa, biển dâu đã bao đổi dời
Về phương Nam ngắm sông ngậm ngùi
Thương những đời như lục bình trôi.
201
22. ĐỪNG VÍ EM LÀ BIỂN
Tác giả: Trần Thanh Tùng
Đừng ví em là biển
Sâu thẳm và bao la
Thuyền nan em bé nhỏ
Không xa được bến bờ
Đừng ví em là biển
Nước mặn chát chân trời
Giữa mênh mông vẫn khát
Không uống được anh ơi
Đừng ví em là biển
Ngàn năm sóng xô hoài
Suốt cuộc đời không gặp
Bến bờ nào tàn phai
Vị mặn dâng cho đời
Buồn vui đầy lại vơi
Em không là biển khơi
Em chỉ là em thôi
Đừng ví em là biển
Càng rộng càng cô đơn
Mỗi năm ngàn trận bão
Tan nát cả tâm hồn.
23. ĐƯỜNG VỀ HAI THÔN
Tác giả: Phạm Thế Mỹ
Đường về thôn em duyên dáng bên ven sông con thuyền xuôi mái
Nhịp cầu băng qua men lối đi quanh co, cỏ hoa nối dài
Nhà em cuối xóm ghép đôi mái tranh nâu trăng cài trước sau
Có tằm mến thương dâu, có trầu vấn vương cau
Và đào tơ thơm ngát, ngát hương trinh ban đầu.
Đường về thôn anh con sáo ru êm êm trên đồng xanh lúa
Nhịp cầu băng qua đưa lối sân rêu xưa thắm hoa bốn mùa
Nhà anh mái lá tháng năm vẫn chưa nghe duyên tròn ước mơ
202
Có giàn mướp xanh lơ, có hồ cá nên thơ
Mà lòng quê vẫn hát hát bao câu mong chờ.
Mỗi đêm trăng thanh ngà hội mùa lên tiếng ca góp tay cần lao
Ôi hai thôn giao đầu nhịp cầu tre bước chung êm vui dường bao
Tình ta lên men rồi còn chi ngăn cách lòng mà chưa trao giấc mơ xuân cùng nhau
Chày dâng lên trăng màu, bà con đang mong cầu
Đường Về Hai Thôn
Rằng đôi ta sớm nên duyên ban đầu.
Đường về hai thôn mai mốt đôi uyên ương qua cầu soi bóng
Nhủ thầm sông ơi gương nước chưa phôi pha ta còn vui hoài
Trời quê bát ngát sẽ trông thấy tương lai qua tình lứa đôi
Lúa đồng mãi xanh tươi, mướp cà thắm nơi nơi
Và vành môi trai gái góp bao câu ca yêu đời.
Nhịp cầu đưa lối, chung bước hai thôn ta đón trăng về mừng duyên quê.
24. EM BỎ DÒNG SÔNG
Tác giả: Thanh Sơn
Về thăm chốn xưa nắng chiều nghiêng nghiêng vàng úa
Dòng sông lững lơ vẫn con đò ngày trước hẹn hò
Nhớ biết bao là nhớ xa quê hương bỏ quê bỏ làng
Kỷ niệm ơi ôm ấp không nguôi ai thấu lòng xao xuyến bùi ngùi.
[ĐK:]
Ôi còn đâu nữa nhớ ngày xưa đón đưa nhau chiều mưa
Gập ghềnh chân quen trống trường tan dắt nhau trên đường đê
Nhà em trắng xóa hoa cau rụng
Ai hát ru con, tiếng ầu ơ nghe sao não nùng
Buồn riêng ai không nói nên lời.
Đời như giấc mơ, trở về đây mang thêm sầu nhớ
Người xưa bỏ đi, để con đò ngày tháng bơ vơ
Bến nước xưa còn đó thương cây đa lũy tre đã già
Nhịp cầu tre ai bắt qua sông, đem nỗi buồn chôn kín vào lòng.
203
25. EM VỀ MIỆT THỨ
Tác giả: Hà Phương
Từ ngày xa đất Tiền Giang
Em theo anh về xứ cảnh đờn
Muỗi kêu mà như sáo thổi
Đĩa lềnh tựa bánh canh
Em yêu anh nên đành xa xứ
Xuôi ghe chèo miệt thứ Cà Mau.
Gió lao xao thổi vào mái lá
Như ru tình cô gái Tiền Giang
Yêu quê hương thương miền cổ cựu
Vấn vương tình đất tổ quê cha
Đêm đêm ra đứng hàng ba
Trông về quê mẹ lệ sa buồn buồn.
[ĐK:]
À ài ơi bông bần rụng trắng bờ sông
Lấy chồng xa xứ khó mong ngày về
Xa xưa con ở vựa kề
Bên ba mà bên má vỗ về ca dao.
Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu mà vượng hú biết nhà má đâu
Sương khuya ướt đẫm giàn bầu
Em về miệt thứ bỏ sầu cho ai.
26. GỬI EM Ở CUỐI SÔNG HỒNG
Tác giả: Thuận Yến
1. Anh ở biên cương nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt
Ở trên anh mùa này con nước lắng phù sa in bóng đôi bờ
Anh ở biên cương biết rằng em năm ngóng tháng chờ
Cứ chiều chiều ra sông mà gánh nước
Nên ngày ngày cùng bạn bè trên chốt
Anh lại xuống sông Hồng cho thỏa lòng em mong.
204
Em ở phương xa, nghe đài báo gió mùa đông bắc
Em thương anh nơi chiến hào gặp rét
Mà em thương anh chiều nay đang đứng gác
Lo canh giữ đất trời, áo ấm có lành không
Hỡi anh yêu, người chiến sĩ biên thùy.
[ĐK:]
Có gì đâu tấm lòng người chiến sĩ
Có tình yêu bốn mùa sưởi ấm
Dù gió mưa, dù mùa đông
Vì rằng em luôn ở bên anh.
2. Em ở phương xa nơi con sông Hồng chảy về với biển
Ở trên anh đầu nguồn biên giới
Cuối dòng sông nơi ấy quê nhà
Em ở phương xa, cách mười sông ba núi bốn đèo
Cứ chiều chiều ra sông mà gánh nước
Đem lòng mình gửi về miền biên giới
Dẫu chẳng nói nên lời nhưng nặng tình yêu thương.
Anh ở biên cương, sương lạnh giá biết mùa đông tới
Nơi quê hương em bước vào vụ mới
Rằng anh thương em đồng quê chưa cấy hết
Tay em ngập dưới bùn, lúa cấy thẳng hàng không
Hỡi em yêu ở cuối sông Hồng.
[ĐK:]
Thấy dòng sông sóng ngầu lên sắc đỏ
Biết là em nhớ về anh đó
Nhớ về anh đó
Là chiến công, là niềm tin
Anh gửi cho em
(Em gửi cho anh
Anh gửi cho em
Ta gửi cho nhau)
205
27. HÀNH TRÌNH TRÊN ĐẤT PHÙ SA
Tác giả: Thanh Sơn
Chim tung bay hót vang trong bình minh,
Chân cô đơn, áo phong sương hành trình.
Từ Long An, Mộc Hóa, Mỹ Tho, xuôi về Gò Công,
Tiền Giang ngút ngàn như một tấm thảm lúa vàng.
Thương em tôi áo đơn sơ bà ba,
Trên lưng trâu nước da nâu mặn mà
Hò hò ơi! Cây lúa tốt tươi thơm mùi phù sa
Đẹp duyên Tháp Mười, quên đời tảo tần vui cười.
Quýt Cái Bè nổi tiếng ngọt ngây,
Ai ăn rồi nhớ mãi miền Tây
Ngồ ngộ ghê, gái miền Tây má hây hây,
Với các cô đời bao thế hệ
Phù sa ơi đậm đà hương quê hương...
Qua Long Xuyên đến Vĩnh Long, Trà Vinh,
Sông quê tôi thắm trong tim đậm tình
Phù sa ơi! ngây ngất bước chân, tôi về không nỡ
Ở cũng chẳng đành, thương miền đất ngọt an lành.
Quê hương tôi vẫn bên sông tên Cửu Long,
Dân quê tôi sống quanh năm quen ruộng đồng
Từ ngàn xưa, cây lúa đã nuôi dân mình no ấm
Phù sa mát ngọt như dòng sữa mẹ muôn đời.
Đêm trăng thanh chiếu trên sông Cần Thơ,
Vang xa xa thoáng câu ca hò lơ
Về Tây Đô nhớ ghé Sóc Trăng nghe điệu Lâm Thôn
Dù Kê hát đình như tình cảm gần như mình.
Nắng sớm về trái chín thật mau,
Cơn mưa chiều tưới mát ruộng sâu
Phù sa ơi! bốn mùa cây trái đơm bông,
Gái bên trai tình quê thắm nồng,
Điệu dân ca ngọt ngào mênh mông.
Sông quê ơi, nắng mưa bao ngàn xưa,
Tôi không quên lũy tre xanh hàng dừa
Về Bạc Liêu nghe hát cải lương, rao đờn vọng cổ
Cà Mau cuối nẻo đôi lời gửi lại chữ tình
206
28. HÌNH BÓNG QUÊ NHÀ
Tác giả: Thanh Sơn
Về tới đầu làng con chim sáo nhỏ hát vang rộn ràng
Qua nhịp cầu tre, qua mấy con đê thắm đượm tình quê
Bao năm qua cách trở đường xa xuôi ngược bôn ba
Ôi kỷ niệm yêu, mái tranh nghèo toả khói lam chiều.
Còn nhớ nụ cười, câu ca mát rượi chứa chan lòng người
Đâu rồi ngày xưa, ai đón ai đưa nắng đượm chiều mưa
Quê hương ơi, ấm mãi đời tôi uống ngọt đôi môi
Thương quá là thương, tuổi thơ nào ngọt đắng vui buồn.
[ĐK:]
À ơi, con nước lớn chảy xuôi
Đưa con thuyền chao nghiêng
Theo nhịp chèo bơi ai ngân nga câu hò
Hò ơi, gió đưa gió đẩy, về rẩy ăn còng
Về sông ăn cá, về sông ăn cá, về đồng ăn cua.
Từ lúc vào đời, chân quen đất nẻ sớm trưa chiều hè
Ôi đẹp làm sao, đêm sáng trăng cao gõ nhịp chày mau
Nghe quê hương tiếng gọi mời thương những ngày tha phương
Trong cõi đời ta, giữ bên lòng hình bóng quê nhà.
29. HỒ TRÊN NÚI
Tác giả: Phó Đức Phương
Núi ...hư ... núi
Thuyền ...hư .. thuyền
Mây ... hư ... mây
Nước ... hư ... nước
Thuyền ta ngược thuyền ta xuôi giữa dòng nước bạc nhịp chèo ta bơi
Ai đắp đập ?
Ai phá núi ?
Cho hồ nước đầy là mặt gương soi
207
Non xanh mà nước biếc ối a
Khoan nhạt mái chèo ( hừ là )
Khoan nhặt mái chèo ( ối a )
Núi ( hưa ) núi
Thuyền ( hưa ) thuyền ( hư )
Mây ( hư ) mây
Nước ( hư ) nước
Hư...... hư .......hư ........
Nhìn bóng chiều in ngấn nước
Ta nhìn đất trời một dòng nghiêng soi
Nghe tiếng rừng
Nghe tiếng suối xôn xang mái chèo nhịp đời sinh sôi
Thuyền về mà bến mới ôi a
Cá nặng lước đầy ( hừ là )
Cá nặng lưới đầy ( ối a ) ...
Núi ( hưa núi
Thuyền ( hưa ) thuyền ( hư )
Mây ( hư ) mây
Nước ( hư ) nước
Hư......hư ..........hư..............
30. KHÚC HÁT SÔNG QUÊ
Tác giả: Nguyễn Trọng Tạo
Qua nửa đời phiêu dạt
Con lại về úp mặt vào sông quê
Ơi! Con sông dạt dào như lòng mẹ.
Chở che con đi qua chớp bể mưa nguồn
Từng hạt phù sa của tháng ba, rồi tháng bảy
Từng vị heo may trên má em hồng
Ơi! Con sông quê, con sông quê.
Ơi! Con sông quê, con sông quê
Sông còn nhớ chăng nơi ta ngồi ngóng mẹ
208
Vời vợi tuổi thơ một xu bánh đa vừng
Ơi! Con sông quê, con sông quê.
Ơi! con sông quê, con sông quê
Con cá dưới sông, cây trồng trên bãi.
Lúa gặt rồi còn để lại rơm thơm
Cùng một bến sông con trâu đằm, sóng vỗ
Bầy trẻ thơ tắm mát giữa thượng nguồn
Một dòng xanh trong trẻ mãi tới vô cùng
31. KIÊN GIANG MÌNH ĐẸP LẮM
Tác giả: Lê Giang
Chiều xuống đứng bên cầu nghe sóng biển
Nắng thu vàng chiếu rạng bến bờ
Kiên Giang mình đẹp làm sao!
Bóng mây sánh đôi bóng núi
Con chim nhạn hát điệu tình quê
Một biển trời như có mẹ cất tiếng ru
Trăng nhú lên bến cảng quê hương
Trăng cũng đẹp, đất cũng đẹp sao đâu đâu cũng đẹp
Trăng lấp lánh lung linh bến nước
Đoàn tàu về loang loáng trên sông
Màn trời đêm êm ả thanh bình
Đêm bình yên hương lúa ngạt ngào
Đêm bình yên nghe sóng biển vỗ về
32. MIỀN TÂY QUÊ TÔI
Tác giả: Cao Minh Thu
Miền Tây quê hương ai về ai nhớ ai thương
Vừa qua Long An, chợ Đào hương lúa còn vương
Tiền Giang, Mỹ Tho, Cái Bè, Gò Công, Tân Phước
Rạch Miễu xây cầu đường về Bến Tre gần hơn.
Đường đi Vĩnh Long không còn những chuyến phà xưa
Xe ta bon bon trên cầu Mỹ Thuận gió đưa
209
Trà Vinh, Trà Cú đón chào mời nhau bánh tét
Sa Đéc rạng ngời yếu dấu Tháp Mười, Tràm Chim.
[ĐK:]
Ghé bến Ninh Kiều, qua cầu Cần Thơ
Nối vui đôi bờ sông Hậu Giang
Sóc Trăng đón chờ
Nghe lời rao của nàng bán bánh ngon
Mua dùm em bánh pía Vũng Thơm.
Từ chối đành sao lời rao chân thật
Từ chối đành sao vị ngọt đất quê mình.
Bạc Liêu xứ sở tôi yêu
Nghe tiếng ai đàn lã lơi câu vọng cổ
Về thăm mảnh đất An Giang
Châu Đốc vía Bà hai mươi ba tháng tư
Đi lễ dâng hương cầu cho gia đạo bình an.
Về thăm Kiên Giang, Giồng Riềng, miệt thứ An Biên
Chiều qua Hà Tiên, Đông Hòa, Hòn Đất, Gò Quao
Cà Mau mến yêu cuối trời U Minh xóm Mũi
Ngọc Hiển, Rạch Tàu cho nhớ thương nhiều Cà Mau
Ruộng xanh tốt tươi bao đời nuôi ta khôn lớn
Vựa lúa quê mình đó là Miền Tây quê tôi.
33. NHƯ LỤC BÌNH TRÔI
Tác giả: Thanh Sơn
1. Một chiều, một chiều về thăm chốn xưa
Phút giây sống lại những ngày gió mưa
Sao trong lòng dường như dậy sóng
Thương dòng sông nước lớn nước ròng
Có người chờ mong giấc mơ ấm nồng.
Lặng nhìn, lục bình gửi thân theo nước trôi
Dẫu xa, dẫu gần số phận thế thôi
210
Khi xa rồi thời gian vô nghĩa
Mai ngày kia, nếu vẫn chia lìa
Khóc tình dở dang nước mắt đầm đìa.
[ĐK:]
Về đây tưởng mình ngon giấc ngủ say
Biết đâu ai chờ héo gầy khi thương nhớ
Thương từng cây lúa bờ đê
Giữ nguyên lời thề, nhớ nhau gọi về
Một người lặng thinh, phải đâu vong ân
Phải đâu bạc tình.
2. Lặng nhìn, ngồi nhìn tuổi xuân lướt qua
Nỗi vui, nỗi buồn những ngày vắng xa
Chưa phai nhòa tình quê thương quá
Như bài ca hát lên mượt mà
Có một dòng sông xót thương lục bình.
34. NHỮNG CÔ GÁI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tác giả: Huỳnh Thơ
Những đầm sen, những dòng sông lấp lánh trăng sao,
những xóm thôn đồng xanh trải rộng,
nhịp cầu tre lắt lẻo dòng kênh,
in dáng hình người con gái quê tôi.
Áo bà ba súng quàng vai hôm sớm ra đi,
mái tóc xanh quyện hương trái ngọt,
mặt như hoa sáng đẹp tình yêu,
son sắt thuỷ chung giữ quê nhà.
Dưới đạn bom xanh xanh lúa vẫn vượt lên,
ngày đêm trên khắp xóm thôn,
ghi chiến công giết giặc lẫy lừng.
Đẹp thay tuổi xuân con gái quê tôi
đang cùng toàn dân viết đẹp những bài anh hùng ca.
Sóng Cửu Long đã trào lên dâng khắp nơi nơi,
nối tiếp nhau làng quê nổi dậy,
đồn giặc tan thắm lại màu xanh
211
trên cánh đồng rộn vang tiếng chim ca.
Gái cùng trai lái thuyền đi sông nước reo vui,
mái tóc xanh vờn trong gió lộng.
Đời tự do có gì đẹp hơn,
sông núi này thề giữ đến cùng.
Nắng bừng lên lung linh nét mặt làng quê,
trào dâng sông nước Cửu Long,
nâng tiếng ca thắm đượm nghĩa tình,
đẹp thay tuổi xuân đi gìn giữ quê hương,
cây súng giữ bên mình cũng đẹp như em.
35. PHẢI LÒNG CON GÁI BẾN TRE
Nhạc: Phan Ni Tấn
Thơ: Luân Hoán
Bậu sang phà Rạch Miễu, qua lẽo đẽo theo sau
Đội bóng trăng trên đầu tưởng như áo cô dâu
Áo bậu đỏ cánh kiến da bậu vàng phù sa
Mắt ngời xanh nước biển, tim bậu hồng lòng qua
Bậu sang phà Rạch Miễu, ngoe nguẩy xuống Bến Tre
Về Cái Mơn, Lương Hoà hay là, về Sơn Đốc, Ba Tri
Guốc bậu rụng tiếng lá, thoang thoảng mùi làm duyên
Thoáng mùi thương quá đỗi mùi tình Lục Vân Tiên
Đợi ánh trăng lên đầu cầu soi bước em về
Lòng qua như con nước/ Lênh đênh vào trong mong nhớ
Vịnh Bến Tre tim bồi hồi lòng muốn theo người ơi
Bậu sang phà Rạch Miễu, vô Chợ Giữa nhởn nhơ
Về Trúc Giang đang chờ hay về/ Cù Lao Ống trăng mơ
Tức bàn chân quấn quýt, quanh quẩn vòng thuỷ chung
Bóng dừa vương áo mỏng, in đậm chùm yêu thương
Bậu sang phà Rạch Miễu, thăm trường cũ Nam Xương
Lư lắc lư xe thổ mộ/ Chèn ơi quá dễ thương
Quyết lòng theo bén gót, năn nỉ hoài hổng nghe
Ước gì đương trắc trở/ Gặp nụ cười Bến Tre
Bến Tre, ơi Bến Tre ơi/ Có nhớ gã thương hồ
Khua dầm trong nắng đục/ Lận đận sầu bản thân
Bến Tre, ơi Bến Tre Bến Tre, ơi Bến Tre
212
36. QUÊ EM MÙA NƯỚC LŨ
Tác giả: Tiến Luân
Không còn con sông, nước dâng tràn lên bãi bờ!
Anh về quê em, khắp nơi như là biển khơi!
Chập chờn mái tranh ngoi lên giữa ngọn triều dâng!
Những đàn gà con bơ vơ đứng nhìn trời xanh!
Bao ngày trôi qua lũ cao dân thêm nữa rồi!
Không còn nhận ra tiếng ai đi tìm người trôi!
Mẹ ngồi dưới mưa tay ôm ấp trẻ lạnh căm!
Xóm làng chìm trong bao la những nỗi đau này
Ôi ! Nước lũ dâng cao dâng cao dâng theo bao nỗi sầu đau
Ôi ! Nước tràn bờ đê nước tràn bờ đê tang thương khắp một miền quê!
Bên bờ đê cao mái tranh tạm che kiếp người!
Ơi đồng bằng ơi, biết bao thân phận nổi trôi!
Còn một trái tim ai ơi nhớ lại Miền Tây
"Nhiễu điều" mà thương dân ta lắm nỗi đoạn trường.
37. SÔNG QUÊ
Tác giả: Đynh Trầm Ca
Hò .... ơ ... sông quê nước chảy đôi bờ
Để anh chín dại mười khờ thương em...
Có một dòng sông chảy tràn trong trí nhớ
Làng em bến lở, làng anh ở bến bồi
Mỗi ngày em qua bên này sông đi học
Dưới bến con đò chờ trong nhóng mù u
Nhánh mù u con bướm vàng quanh quẫn
Anh bao nhiêu chiều tàn thơ thẩn qua sông
Em tan trường về con đò lên bến lở
Áo lụa như mây bay ngược gió sông chiều
Ôi, con sông quê, bao năm đã lở đã bồi
Đời bể dâu nên anh cũng dạt quê người
213
Chiều nay bỗng nhớ cây mù u
Dòng sông in bóng em chiều thu
Về đây mới biết
Bên sông không còn mái nhà ngày xưa
Sóng đời cuốn trôi lỡ rồi sông bên đó
Nhà em đã bỏ làng đi mãi không về
Mỗi ngày bên sông không còn em đi học
Ngọn gió reo buồn, buồn trong nhánh mù u
Nhánh mù u, con bướm vàng quanh quẩn
Câu ca từ thuở thơ dại ru sang
Sông quê, trường làng con đò trên cát lở
Cũng vì em xa mà thành điệu hát não lòng...!
38. TÁT NƯỚC ĐẦU ĐÌNH
Tác giả: Y Vân
Ðêm qua tát nước í a chứ đầu đình
Trời đêm sáng tỏ ấy cái đêm trăng rằm
Bỏ quên chiếc áo chứ trên cành là hoa sen
Là cành hoa sen ớ ơ.
Em được thì cho anh xin
Hay là em để chứ làm tin, làm tin trong nhà.
Ơi hỡi chàng ơi chứ tình rằng ơi hỡi chàng ơi
Áo anh sứt chỉ chứ đường tà chứ biết rằng
Vợ anh chưa có chứ mẹ già, mẹ già chưa khâu
Mẹ già chưa khâu chứ tình rằng tình vẫn chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mới mượn cô ấy về khâu cho cùng
Khâu rồi anh sẽ trả công
Đến khi lấy chồng, anh sẽ giúp cho.
Giúp em một thúng xôi vò
214
Một con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp em chứ giúp em mà đôi chiếu chứ em nằm
Ðôi chăn em đắp í a chứ đôi trầm, chứ đôi trầm
Là trầm em đeo, là trầm em đeo í a.
Giúp em quan tám, quan tám chứ tiền treo
Quan năm tiền cưới lại đèo lại đèo buồng cau
Lại đèo lại đèo buồng cau, í a a.
39. THUYỀN VÀ BIỂN
Tác giả: Phan Huỳnh Điểu
Thơ: Xuân Quỳnh
Chỉ có thuyền mới hiểu biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết thuyền đi đâu về đâu
Những ngày không gặp nhau biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau lòng thuyền đau rạng vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi biển chỉ còn sóng vỗ
Nếu phải cách xa em anh chỉ còn bão tố
Nếu phải cách xa em anh chỉ còn bão tố
Những ngày không gặp nhau biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau lòng thuyền đau rạng vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi biển chỉ còn sóng vỗ
Nếu phải cách xa em anh chỉ còn bão tố
Nếu phải cách xa em anh chỉ còn bão tố.
40. THƯƠNG LẮM CÀ MAU
Tác giả: Quốc Thuận
Sao nhớ thương nhớ thương dạt dào ngày mưa anh tới Cà Mau
Nhớ chiều mưa anh ghé Tắc Vân lần đầu gặp em anh biết nghe lòng bâng khuâng
Bao nhiêu lá tràm lòng anh bấy nhiêư xao xuyến
Xôn xao lá dừa anh tưởng tiếng bước em qua
Thương lắm con đò nặng tình phù sa sông nước
Thương lắm câu hò đêm buồn sông nước Cà Mau.
Nhớ chiều về U Minh, đậm tình phù sa bên lỡ bên bồi biển mặm lòng em
215
Thương ngày buồn Đầm Dơi bạc ngàn rừng đướt nghe tiếng em cười sao tình nghe vui
Nhớ cạnh đền ngày nao chiều về trên sông nghe nước lên đầy trở nặng tình quê
Thương tràm dìu dạt đưa mà lòng sao nhớ thương những nhịp cầu tre về bên em.
Sao nhớ thương tím bông lục bình mà em đã hái tặng anh
Nhớ chiều xưa áo tím bay bay, rượu Cà Mau say hay mắt em làm anh say
Mưa trên lá tràm mưa ơi đừng làm cho ướt tóc
Thương sao tiếng hò êm đềm theo sóng trôi xa
Thương lắm bên chờ đêm nào trăng rơi trên nước
Thương má em hồng như lòng thương lắm Cà Mau
Thương lắm con đò nặng tình phù sa sông nước
Thương lắm câu hò đêm buồn sông nước Cà Mau.
41. THƯƠNG VỀ MIỀN TRUNG
Tác giả: Minh Kỳ
Đã bao lâu rồi không về Miền Trung thăm người em
Nắng mưa đêm ngày cách trở, giờ xa xôi đôi đường
Người hỡi! Có về miền quê hương Thùy Dương
Nước chảy còn vương bao niềm thương
Cho nhắn đôi lời.
Dẫu xa muôn trùng
Tôi vẫn còn thương sao là thương
Nhớ ai xuôi thuyền Bến Ngự đẹp trăng soi đêm trường.
Và nhớ tiếng hò ngoài Vân Lâu chiều nao
Ước nguyện đẹp duyên nhau dài lâu
Xa rồi còn đâu?
[ĐK:]
Em ơi! Chờ anh về
Đừng cho năm tháng xóa mờ thương nhớ
Đêm nao trăng thề
Đá vàng ước hẹn đẹp lòng người đi
Em biết chăng em?
216
Đã bao thu rồi
Vắng lạnh lòng trai đi ngàn phương
Mỗi khi sớm chiều
Xóa nhòa phồn hoa nơi phố phường.
Người ơi! Nếu còn vầng trăng soi dòng Hương
Núi Ngự còn thông reo chiều buông
Tôi vẫn còn thương.
42. TÌNH ẤM CHIỀU QUÊ
Tác giả: Nguyễn Ngọc Thiện
Hò...ơ...chiều chiều ngư phủ đi câu,
Cá đâu chẳng thấy mà đọng tay bèo,
Buông câu ông cũng ngó dùm kẻo câu ông máng vào xuồng của ai.
Hò...ơ... kẻo câu ông máng vào xuồng của em
Trên ven sông chiều nay tiếng ai hò nghe bâng khuâng
Con nước xuôi êm đềm chợt xôn xao,
Ơi cô em làng quê tóc phiêu bồng trong nắng gió có hay
Không người lòng anh muốn quên lối về.
Thôi anh ơi đừng khen nắng se hồng trên môi em,
Em chỉ như hoa đồng mọc ven sông,
Ơi cô em dể thương biết cho lòng trai tha phương sóng xô dâng trào
Dường như kiếp nào ta gặp nhau.
Ơi chiều ơi nắng vàng soi đẹp tình ta,
Anh muốn quên đi bao ngày dãi dầu mưa nắng ngược xuôi,
Nhớ nghe anh mối tình nồng nàng duyen trao,
Anh chớ quên bao câu thề muôn đời ta mãi gần nhau.
Em không mong gì hơn có anh kề bên sớm tối như tiếng ve sau hè gọi vang vang,
Ơi em thương thật thương chớ nghi ngờ tình anh trao gió mây
Xin đừng gọi ta lãng du trời xa
43. TÌNH EM THÁP MƯỜI
Tác giả: Thanh Sơn
Sông nước quê em sáng lớn trưa ròng
Cây lúa trên đồng mát rượi đầy bông
217
Thương từng giọt mồ hôi
Thương mùa nước nỗi vẫn không xa rời
Phù sa nuôi lớn tình quê mấy đời.
Em gái Nha Mân ước muốn đôi lần
Đang tuổi xuân thì có được tình nhân
Bao giờ mình thành đôi cho đời biến đổi
Nắng mưa vẫn cười, gọi tên Sa Đéc
Tình em Tháp Mười.
[ĐK:]
Hò ơi nhớ nhau về Cao Lãnh tìm
Mối duyên thề thắm đượm tình quê
Cao Lãnh ơi biết ai trông chờ
Lấp Vò thương nhớ
Về đây nghe khúc dân ca
Hỏi người xa xứ nhớ thương quê nhà.
Anh nói yêu em mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo anh cũng qua
Thương Hồng Ngự thật xa, sông đò mấy ngả
Dáng em mỉm cười chờ nhau đám cưới tình em Tháp Mười.
44. TÌNH TA BIỂN BẠC ĐỒNG XANH
Tác giả: Hoàng Sông Hương
Thuyền anh ra khơi khi chân mây ửng hồng
Thuyền anh ra khơi đâu có ngại chi sóng gió
Trên đoàn thuyền hải âu vui sóng xô
Anh nhớ đồng làng quê cánh cò bay trên thảm lúa
Đời tự do chan chứa bao tình,
Vì tương lai ta đổ giọt mồ hôi
Ruộng đồng quê ta em hăng say sớm chiều
Ruộng đồng thâm canh em có ngại chi mưa nắng
Em hỏi rằng vì sao anh ra khơi
Bám biển ngày đêm để màu da anh nắng sạm
218
Hỏi mà chi sao em cứ bông đùa
Thuyền anh mai về có cá bạc đầy khoang
Cá bạc đầy khoang để màu da anh rám hồng
Lúa vàng trĩu bông cho má hồng em tươi thắm
Đôi ta chừ thương nhau cho lúa xanh đồng
Cho thuyền vượt biển dẫu muôn trùng mà băng qua
Đây ruộng đồng ta vun trồng
Đây biển khơi kéo lưới nào.
45. TÌNH YÊU CỦA ĐẤT VÀ NƯỚC
Tác giả: Hoàng Vân
Đất ơi có nhớ những ngày đồng khô cỏ cháy
Nước ơi đồng trũng quê mình từ bao giờ ngập úng
Câu hỏi ngàn năm xưa ơ hơ
Hỏi trời trời chẳng thấu, hỏi đất đất không hay.
Nay từ châu thổ sông Hồng tới đồng bằng Cửu Long
Trời của ta, đất của ta tấc đất tấc vàng chỉ khi nào đủ nước
Không úng không hạn tưới tiêu mặc lòng
Nước của ta làm giàu đất của ta
Nước phù sa đẹp màu lúa đồng ta.
[ĐK:]
Đôi ta yêu nhau như đất và nước
Đẹp mùa hò hẹn như trăng đêm rằm mà trăng tròn
Như cánh đồng hạn nước về
Như cánh đồng úng nước đi
Nhịp nhàng phơi phới ơ hơ
Đẹp mùa lúa mới ơ hơ.
Thoảng bay trong gió
Mùi xăng dầu gợi những ước mơ xa
Nước ơi từ nay nước trong tay ta
Đất ơi từ nay đất trong tay ta
219
Lúa ơi hẹn những mùa vàng ấm no
Lúa ơi hẹn những mùa vàng ấm no
46. TRỞ VỀ DÒNG SÔNG TUỔI THƠ
Tác giả: Hoàng Hiệp
Quê tôi ai cũng có một dòng sông bên nhà
Con sông quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi
Bao năm xa quê ấy trong mơ tôi vẫn thấy
Hôm nay tôi trở về lòng chợt vui thấy sông không già
Sông vẫn in màu mây
Vẫn khi vơi đầy vẫn mang phù sa làm đẹp thêm làng quê yêu dấu
Sông vẫn như thuở ấy
Vẫn con đò ngang đón đưa người sang và từng đêm hát ru đôi bờ
Trong tim ai cũng có một dòng sông riêng mình
Tim tôi luôn gắn bó với dòng sông tuổi thơ
Con sông tôi tắm mát
Con sông tôi đã hát
Con sông cho tôi đậm một tình yêu nước non quê nhà
Sông cũng như người ấy
Có khi vui buồn có khi hờn ghen chỉ tình yêu tuổi thơ mới thấy
Ôi những con thuyền giấy những năm tuổi thơ đã đi về đâu?
Ðể mình tôi nhớ nhung bây giờ.
47. VÀM CỎ ĐÔNG
Tác giả: Trương Quang Lục
Ở tận sông Hồng em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết
Vàm Cỏ Đông , ơi Vàm Cỏ Đông
Ơ .. ơi Vàm Cỏ Đông , ơi hỡi dòng sông
Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng
Đuổi Pháp đi rồi nay đuổi Mĩ xâm lăng
220
Giặc đi đời giặc sông càng xanh trong
Vàm Cỏ Đông đây, Vàm Cỏ Đông đây,
Ta quyết giữ từng mái xuồng tấm lưới cây dầm
Từng con người làm nên lịch sử
Và dòng sông trong mát quanh năm
Ở tận sông Hồng em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết
Vàm Cỏ Đông ơi Vàm Cỏ Đông
Vàm Cỏ Đông ơi Và Cỏ Đông
Ơ ơi Vàm Cỏ Đông ơi hỡi dòng sông
Có anh du kích dũng cảm kiên cường
Lẫn ánh trăng mờ băng lửa đạn qua sông
Diệt tan tàu giặc giữ gìn quê hương
Diệt tan tàu giặc giữ gìn quê hương
Vàm Cỏ Đông đây, Vàm Cỏ Đông đây
Ta quyết giữ từng mái nhà nép dưới rặng dừa
Từng thửa ruộng ngời đen màu mỡ
Từng mối tình hò hẹn sớm trưa
Ở tận sông Hồng em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết :
Vàm Cỏ Đông ơi Vàm Cỏ Đông ,
Vàm Cỏ Đông ơi Vàm cỏ Đông
48. VỀ MIỀN TÂY
Tác giả: Tô Thanh Tùng
Miền Cần Thơ gạo trắng nước trong
Vui niềm vui ấm no cuộc sống
Miền Đồng Tháp ruộng lúa mênh mông
Yêu tình yêu thắm duyên mặn nồng.
Ai qua Tiền Giang xuống phà Mỹ Thuận
Ai đi Hậu Giang đến bắc Cần Thơ
Đi về Minh Hải hay đi về Kiên Giang
Đi về Sa Đéc hay đi về An Giang.
221
Miền Tây ơi vựa lúa Việt Nam hai mùa mưa nắng
Miền Tây ơi sông nước Cửu Long chín nhánh phù sa
Đất lành khắp chốn nở hoa
Vun bồi mạch sống mượt mà môi em.
Vầng trăng lên theo bước chân đi
Qua đường quê mấy nhịp cầu tre
Hàng cây xanh in bóng nghiêng che
Quanh vườn ao đóm khuya lập lòe.
Ai đi miền xa nhớ về quê nhà
Thăm con đường xưa bến cũ miền Tây
Tiếng cười giọng nói trong có tình thân thương
Câu hò câu hát nghe dạt dào quê hương.
49. VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG TÔI
Tác giả: Đỗ Nhuận
1. Bạn ơi hãy đến quê hương chúng tôi
Ngắm mặt biển xanh xa tít chân trời
Nghe sóng vỗ dạt dào biển cả
Vút phi lao gió thổi trên bờ.
Buồm vươn cánh vượt sóng ra ngoài khơi
Trong nắng hồng bừng lên sáng ngời.
2. Miền Nam đất nước quê hương chúng tôi
Có rừng dừa xanh xa tít chân trời
Người thiếu nữ dạt dào tình trẻ
Dáng xinh tươi đang tuổi yêu đời.
Lòng trai tráng rộng lớn như biển khơi
Với cánh tay dựng nên đất trời.
3. Mùa xuân đã tới quê hương chúng tôi
Mía ngọt chè xanh bông trắng lưng đồi
Đồng xanh lúa rập rờn biển cả
222
Tiếng ai ru con ngủ ru hời.
Đồng xanh lúa thẳng cánh bay cò bay
Đưa nước về làng quê sáng rồi.
4. Việt Nam yêu dấu xanh xanh lũy tre
Suối đổ về sông qua những nương chè
Dòng sông cuốn dồn về biển cả
Lứa thanh niên vui thỏa cuộc đời.
Mùa xuân tới nguồn sống dâng sục sôi
Đất nước tôi Việt Nam sáng ngời.
50. XÓT XA BÔNG SÚNG ĐỢI CHỜ
Tác giả: Võ Đảm
Em có còn thương, thương mùa nước nổi lên đồng
Em có còn thương đò ngang đưa khách sang sông
Em có còn thương nhớ mùa bông súng năm nào
Con sóng xô dạt dào trên chiếc xuống anh trước em sau.
Bông súng tình anh còn xanh ước vọng hôm nào
Bông súng tình em lời yêu sao nỡ quên mau
Bông súng chờ nhau xanh xao lá úa phai màu
Em có nhớ đêm nào trăng tàn đượm thắm môi trao.
(Vậy mà người đành tâm quên lời thề hẹn trăm năm)
[ĐK:]
Trăng gầy trăng đắm men nồng giọt sầu mênh mông
Con đường chung lối mơ mộng cầm bằng như không
Bao mùa bông súng nở rồi tàn người vẫn xa mây ngàn
Bỏ lại miền quê sầu anh riêng mang.
Như là cơn gió vô tình cuốn mình bay xa
Như là con sóng theo dòng thủy triều bao la
Nơi phố thị ngọc ngà làm sao em nhớ quê nhà
Nhớ mùa bông súng tình duyên đậm đà.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_buc_tranh_ngon_ngu_ve_song_nuoc_trong_tri_nhan_cua_n.pdf
- Trichyeu_TangTanLoc.pdf