HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN LỆ THU
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG
GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN LỆ THU
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG
GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1.
179 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 398 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía bắc Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PGS.TS NGUYỄN THỊ NGÂN
2. TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THỦY
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Nguyễn Lệ Thu
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8
1.1. Các nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 8
1.2. Giá trị của các công trình đã tổng quan và những nội dung luận án
cần làm sáng tỏ 28
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA
BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY 31
2.1. Lao động gia đình và bình đẳng giới trong lao động gia đình 31
2.2. Lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc và bình đẳng
giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc 35
2.3. Vai trò của việc thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình
dân tộc thiểu số đối với việc phát triển kinh tế - xã hội miền núi phía
Bắc Việt Nam hiện nay 41
2.4. Một số yếu tố tác động đến việc thực hiện bình đẳng giới trong lao
động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam 50
Chương 3: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC
THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 62
3.1. Thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay 62
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong lao
động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam 105
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN
NÚI PHÍA BẮC HIỆN NAY 119
4.1. Những quan điểm cơ bản thúc đẩy bình đẳng giới trong lao động gia
đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc hiện nay 119
4.2. Một số giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lao động gia đình
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc hiện nay 125
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 166
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐG : Bình đẳng giới
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DTTS : Dân tộc thiểu số
MNPB : Miền núi phía Bắc
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Vai trò của vợ và chồng trong hoạt động sản xuất 63
Bảng 3.2: Mức độ tham gia của vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất 82
Bảng 3.3: Người đại diện cho gia đình tham gia hoạt động cộng đồng 99
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ là lý tưởng mà nhân
loại đã theo đuổi hàng nhiều thế kỷ. Ngày nay, bình đẳng giới (BĐG) là
vấn đề có tính quốc tế, là mối quan tâm của toàn nhân loại, là một trong
tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG). Ở nước ta, sự nghiệp giải
phóng phụ nữ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm ngay từ buổi đầu cách
mạng. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được khẳng định từ Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946). Cho đến nay, Đảng và nhà nước
Việt Nam luôn quan tâm thúc đẩy thực hiện BĐG nói chung và BĐG trong lao
động gia đình nói riêng. Nhiều văn bản quan trọng đã ra đời và quy định cụ thể
về nội dung này như: Hiến pháp, Luật Lao động, Luật Hôn nhân gia đình, Luật
Bình đẳng giới. Như điều 18 Luật BĐG đã quy định: Vợ chồng bình đẳng với
nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia
đình,... các thành viên nam nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc
gia đình.
Những quan điểm, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cùng
với thành tựu của 30 năm đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của các gia
đình Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu,
kết cấu, mối quan hệ của các thành viên trong gia đình. Phụ nữ ngày càng có
nhiều cơ hội tham gia và khẳng định vai trò to lớn của mình trong các hoạt
động kinh tế - xã hội, nhất là trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Bên cạnh đó,
xuất hiện xu hướng ngày càng có nhiều đàn ông đảm nhiệm những công việc
trước đây vốn được coi là của phụ nữ. Với sự thay đổi chức năng của các cá
nhân trong gia đình, khoảng cách của bất BĐG trong lao động gia đình đang
dần dần được thu hẹp. BĐG trong lao động gia đình đã trở thành xu hướng tất
yếu, là thước đo mức độ tiến bộ, hạnh phúc của mỗi gia đình.
2
Tuy nhiên, dù pháp luật quy định trong gia đình, vợ chồng đều bình
đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung,
cùng chia sẻ mọi công việc cũng như chăm lo con cái, cha mẹ, nhưng trên
thực tế thời gian làm việc của phụ nữ trong gia đình thường dài hơn nam giới.
Trong gia đình nam giới vẫn được coi là trụ cột, có quyền quyết định các vấn
đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng, còn các công việc nội trợ, chăm
sóc các thành viên trong gia đình vẫn được coi là “thiên chức” của phụ nữ,
được coi là việc vặt, không tên, không có giá trị.
Vậy là ngoài giờ đi làm, tham gia hoạt động sản xuất như nam giới, phụ
nữ còn phải gánh trách nhiệm chính trong hoạt động tái sản xuất của gia đình,
điều này đã hạn chế cơ hội được tiếp cận và khả năng tìm được chỗ đứng
trong thị trường lao động, ảnh hưởng tới việc học tập, nâng cao trình độ
chuyên môn, sức khỏe, tâm lý và thời gian nghỉ ngơi, giải trí để đảm bảo tái
sản xuất, tham gia hoạt động xã hội của phụ nữ. Ngoài ra, một bộ phận phụ
nữ còn tự ti, an phận, cam chịu, chấp nhận những định kiến giới tồn tại trong
xã hội. Đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số (DTTS), bất BĐG
trong lao động gia đình vẫn đang diễn ra mạnh mẽ, vị thế của người phụ nữ
trong gia đình còn thấp kém.
Miền núi phía Bắc (MNPB) là địa bàn chiến lược của đất nước, nơi
tụ cư của nhiều DTTS, với sự đa dạng về bản sắc văn hóa tộc người. Do
trình độ phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa còn thấp kém, bất BĐG trong
gia đình DTTS MNPB còn khá phổ biến và nặng nề hơn so với nhiều vùng
khác trong cả nước. Tính chất bảo thủ của phân công lao động truyền thống
theo giới, vẫn đang thể hiện rõ nét trong gia đình DTTS. Vì điều kiện sản
xuất và thu nhập thấp, nên phụ nữ tham gia hầu hết các công việc sản xuất.
Hơn nữa việc sử dụng dịch vụ xã hội, phương tiện giúp giảm nhẹ gánh
nặng của công việc nội trợ của gia đình DTTS còn rất ít, chưa đủ sức giải
phóng người phụ nữ ra khỏi những lo toan vất vả của đời sống gia đình
3
hiện nay. Do vậy, phụ nữ DTTS MNPB thường phải lao động với cường độ
lớn, thời gian làm việc kéo dài, điều kiện nghỉ ngơi dường như không có, ít
có cơ hội tiếp cận các nguồn lực để phát triển, nâng cao năng lực của bản
thân, khả năng ra quyết định và hưởng thụ lợi ích của họ nhìn chung thấp
hơn nhiều so với nam giới.
Mặc dù chính phủ đã tiến hành nhiều chương trình nhằm giúp đỡ các
DTTS MNPB, song có lẽ một bộ phận không nhỏ phụ nữ DTTS MNPB vẫn
còn đứng bên lề của sự phát triển. Nghèo đói, rào cản của luật tục, hạn chế
về kiến thức, không chỉ làm gia tăng thêm gánh nặng cho phụ nữ trong lao
động sản xuất, tái sản xuất để duy trì cuộc sống gia đình, mà còn làm cho
những cơ hội để họ tham gia hòa nhập với dòng chảy của xã hội ít hơn so
với nam giới. Vì vậy, phụ nữ DTTS chính là nhóm xã hội cực khổ nhất, chịu
nhiều sự bất bình đẳng nhất ở MNPB, giải quyết bất BĐG trong gia đình
DTTS MNPB để không ai bị bỏ lại phía sau, chính là góp phần thực hiện
mục tiêu phát triển bền vững hiện nay ở MNPB.
BĐG trong lao động gia đình không phải là chủ đề nghiên cứu mới,
nhưng luôn mang tính thời sự, luôn nhận được sự quan tâm của các nhà khoa
học không chỉ trong nước mà cả quốc tế và ngày càng được quan tâm nghiên
cứu trên nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB.
Từ những lí do trên, việc nghiên cứu thực trạng BĐG trong lao động
gia đình DTTS MNPB hiện nay, để đề xuất giải pháp thúc đẩy thực hiện
BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay được đặt ra cấp thiết.
Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sỹ Triết
học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn, những vấn đề đặt ra của
việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB, luận án đề xuất một
số quan điểm, giải pháp chủ yếu để thúc đẩy BĐG trong lao động gia đình DTTS
MNPB Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu BĐG trong lao
động gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng, chỉ ra những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện
BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy BĐG trong
lao động gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu thực trạng BĐG trong lao động gia đình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Trong phạm vi luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
BĐG trong lao động gia đình giữa vợ và chồng.
- Phạm vi không gian: MNPB gồm 14 tỉnh với 30 dân tộc, được chia
thành nhiều nhóm với các trình độ phát triển khác nhau. Trong khuôn khổ luận
án và điều kiện nghiên cứu, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số dân tộc như:
Tày, Thái (nhóm DTTS phát triển); Mông (thuộc DTTS phát triển trung bình);
La Hủ (thuộc nhóm DTTS phát triển kém) ở các tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn, Lào
Cai, Sơn La, Lai Châu.
- Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu về tình hình thực hiện
BĐG trong lao động gia đình DTTSMNPB Việt Nam từ năm 2007 (Luật BĐG
có hiệu lực) cho đến nay.
5
4. Cơ sở lí luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
- Cơ sở lí luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về
vấn đề BĐG, gia đình, DTTS. Ngoài ra, luận án còn vận dụng một số lý thuyết
như: xã hội học về vị thế - vai trò, giới và phát triển, nữ quyền.
- Luận án kế thừa tài liệu, công trình có liên quan đến đề tài của các nhà
nghiên cứu, hoạt động thực tiễn ở Việt Nam, cũng như các tổ chức quốc tế.
- Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB đã xác định ở phạm vi nghiên cứu.
- Luận án sử dụng nhiều số liệu của Tổng cục Thống kê về MNPB (do
DTTS chiếm tỷ lệ lớn của vùng và hiện tại không có số liệu thống kê riêng về
DTTS của vùng), nên các số liệu về MNPB mà tác giả đề cập trong luận án hàm
ý nói về DTTS ở MNPB.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp sau:
- Thu thập tư liệu, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh các tư liệu đã có
làm cơ sở lí luận, thực tiễn tham khảo.
- Điều tra xã hội học là phương pháp nghiên cứu quan trọng, mà luận án
sử dụng để thu thập những bằng chứng khách quan, tin cậy về thực trạng, cũng
như những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp.
Nghiên cứu định tính: được tiến hành thông qua phương pháp phỏng vấn
sâu. Luận án phỏng vấn sâu 20 cuộc.
Các cặp vợ chồng gia đình: dân tộc Thái (3 cuộc), dân tộc Tày (3 cuộc),
dân tộc Mông (6 cuộc), dân tộc La Hủ (2 cuộc), cán bộ lãnh đạo Đảng, chính
quyền và các tổ chức chính trị xã hội (6 cuộc).
6
Với nội dung tập trung vào các vấn đề:
+ Thực trạng phân công lao động trong các hoạt động: sản xuất, tái sản
xuất, cộng đồng.
+ Quan niệm của người dân về việc phân công lao động trong gia đình
như thế nào là hợp lý.
+ Tìm hiểu tác động của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa tới BĐG
trong lao động gia đình DTTS
Nghiên cứu định lượng: Luận án thực hiện 536 phiếu trưng cầu ý kiến.
+ Ở địa bàn: xã Phố cáo, Huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang; xã Tân
Lang huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn; Thị trấn Sa Pa, huyện Sa Pa tỉnh Lào
Cai; xã Pa Ủ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; Thị trấn Phù Yên tỉnh Sơn La.
+ Cơ cấu về giới tính: có 50% là nữ (268) và 50% là nam (268)
+ Dân tộc: Thái (28,3%), Tày (27,6%), Mông (29,9%), La Hủ (14,2%)
+ Cơ cấu về độ tuổi: từ 18 đến 50.
+ Tình trạng hôn nhân: Đầy đủ vợ chồng
+ Cơ cấu về trình độ học vấn: mù chữ: 106; cấp 1: 192; cấp 2:189; cấp 3: 49
+ Cơ cấu nghề nghiệp chính: chủ yếu làm nông nghiệp.
- Quan sát thực địa là một phương pháp, mà tác giả sử dụng trong luận án
nhằm làm sáng tỏ một số phát hiện dựa trên bảng hỏi và thảo luận nhóm.
5. Đóng góp mới của luận án
- Làm rõ hơn lý luận về lao động gia đình DTTS MNPB, nội dung biểu
hiện của BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB.
- Đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của các yếu tố tự nhiên,
kinh tế, văn hóa, chính sách đến việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB.
- Đánh giá một cách cụ thể thực trạng BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB Việt Nam ở các lĩnh vực: sản xuất, tái sản xuất, tham gia hoạt
động cộng đồng.
7
- Phát hiện những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện BĐG trong lao động
gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp để thúc đẩy BĐG trong lao động
gia đình DTTS MNPB.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần khẳng định lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta về BĐG, gia
đình và DTTS, ngoài ra còn khẳng định giá trị của các lý thuyết khác về giới.
- Luận án có thể làm tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy
những chuyên đề liên quan đến vấn đề phụ nữ, BĐG, gia đình, dân tộc... trong
Chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên ngành liên quan.
- Với việc chỉ ra thực trạng, những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện
BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB, đề xuất một số giải pháp, luận án
góp phần cung cấp tư liệu cho việc hoạch định, hoàn thiện chính sách về phụ nữ
DTTS, BĐG, gia đình, lao động và việc làm, DTTS ở MNPB.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Các nghiên cứu tiêu biểu về bình đẳng giới trong lao động
gia đình
Các tác giả Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn và Nguyễn Linh Khiếu trong
công trình Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [7], đã đi sâu phân tích vai trò của người
phụ nữ trong: tái sản xuất sức lao động gia đình; phát triển kinh tế gia đình;
tiếp cận và quản lý các nguồn lực phát triển; quyền quyết định các vấn đề
quan trọng trong gia đình; sinh hoạt cộng đồng và đã đưa ra kết luận: mặc dù
đã trở thành một người lao động chính cùng với chồng tạo nên nguồn của cải
nuôi sống gia đình, nhưng phụ nữ vẫn là người độc tôn trong việc thực hiện
các công việc nội trợ gia đình. Theo nhóm tác giả, các số liệu thực tế cho
thấy người phụ nữ chưa được tiếp cận, kiểm soát và quản lý các nguồn lực
phát triển, sự bất bình đẳng ở đây không những không tạo cơ hội cho người
phụ nữ tham gia một cách tích cực hơn vào quá trình phát triển, mà còn hạn
chế sự phát triển kinh tế gia đình, cũng vì vậy mà vị thế của người phụ nữ
chưa tương xứng với vai trò của họ. Công trình này đã gợi mở cho tác giả
luận án về một số vấn đề lý luận, thực trạng có thể triển khai trong luận án.
Trong công trình Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình [30], Nguyễn
Linh Khiếu đã phân tích làm sáng rõ vai trò của phụ nữ, cũng như mối
quan hệ giới trong gia đình trên các lĩnh vực như: kinh tế, tiếp cận nguồn
lực, giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Đặc biệt, tác giả nghiên cứu sâu hơn
về vị thế của phụ nữ trong gia đình nông thôn miền núi, những yếu tố văn
hóa đang cản trở quá trình phát triển của họ. Những kết luận được khái
quát của công trình này, đã gợi mở cho tác giả luận án một số vấn đề đặt ra
hiện nay trong thực hiện được BĐG trong lao động gia đình DTTS.
9
Gender and Domestic life của Tony Chapma [12], là công trình nhấn
mạnh đến vai trò giới và công việc gia đình. Tác giả nghiên cứu gia đình và
công việc gia đình trong tương quan giới, để làm rõ sự bất bình đẳng còn
tồn tại trong phân công lao động gia đình. Tony Chapman đã xem xét công
việc gia đình, mà nam giới và nữ giới tham gia ở phạm vi rộng, bao gồm
các công việc được trả lương, công việc nội trợ, chăm sóc và nuôi con, thời
gian nghỉ ngơi, quản lý, chi tiêu và cả kế hoạch của gia đình. Tác giả chỉ ra
rằng, định kiến giới về công việc gia đình và công việc xã hội đã ăn sâu
trong tiềm thức con người, tuy nhiên sự phát triển của kinh tế xã hội cũng
kéo theo sự biến đổi sâu sắc về cuộc sống gia đình và sự phân công lao
động trong gia đình hiện nay. Ngoài ra, tác giả đã làm rõ vai trò và khả
năng của nam giới và phụ nữ trong việc làm thay đổi định kiến giới về lĩnh
vực gia đình trong tương lai. Công trình này đã cung cấp gợi mở giúp tác
giả luận án nhìn nhận rõ hơn lý luận về lao động gia đình.
Trong công trình Định kiến và phân biệt đối xử theo giới: lý thuyết và
thực tiễn [21], Trần Thị Minh Đức đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến định
kiến, phân biệt đối xử với người phụ nữ trong gia đình. Theo tác giả, không
phải chỉ đàn ông định kiến phân biệt đối xử với giới nữ, mà ngay chính bản
thân người phụ nữ, họ cũng định kiến về địa vị của mình trong gia đình và
ngoài xã hội, họ luôn coi mình không có giá trị bằng nam giới và mặc định
rằng những công việc như nội trợ, làm việc nhà là của phụ nữ và hậu quả là
người phụ nữ phải gánh chịu rất nhiều thiệt thòi, không có cơ hội phát triển
bản thân. Công trình đã giúp tác giả luận án nhìn nhận rõ hơn về định kiến
giới - một nguyên nhân dẫn tới bất BĐG trong lao động gia đình DTTS
MNPB hiện nay.
Phạm Thị Ngọc Anh trong công trình Vai trò giới và lượng hóa giá trị
lao động gia đình [1], đã đưa ra cách tiếp cận mới về lao động gia đình từ
góc độ kinh tế, đề cập tới khía cạnh giá trị của lao động gia đình để đề xuất
những giải pháp phù hợp, bao gồm cả các giải pháp về chính sách phúc lợi
gia đình cho phụ nữ, nhằm hỗ trợ gia đình phát triển theo hướng bình đẳng
10
và hiện đại. Nghiên cứu này nhận diện vấn đề lao động gia đình một cách
toàn diện, xác định thực trạng phân công lao động trong gia đình thủ đô hiện
nay, phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ tham gia của mỗi giới để tìm
ra nguyên nhân của thực trạng; đồng thời lượng hóa giá trị công việc lao
động gia đình mà họ đang thực hiện nhằm đánh giá đúng mức giá trị lao
động, làm căn cứ cho các giải pháp được đề xuất. Mặc dù, công trình này chỉ
giới hạn nghiên cứu về gia đình ở thủ đô Hà Nội, nhưng cũng đã cung cấp
thêm cho tác giả luận án lý luận về lao động gia đình, gợi mở một số giải
pháp để thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB.
Quỹ Health Bridege Canada - Viện Nghiên cứu phát triển xã hội với
nghiên cứu Đóng góp kinh tế của phụ nữ thông qua công việc nhà [61], đã
cung cấp những bằng chứng về đóng góp của phụ nữ thông qua công việc
nhà; lượng hóa các giá trị của các công việc đó và đóng góp của nó vào kinh
tế quốc gia. Để đạt được mục đích đó, nhóm tác giả đã: tìm hiểu thực trạng
tham gia vào công việc nhà của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ trên
địa bàn nghiên cứu, quan niệm và thái độ của các cặp vợ chồng về công việc
gia đình; lượng hóa thời gian làm công việc nhà của nam và nữ trong gia
đình và lượng hóa giá trị kinh tế cho những công việc đó. Kết quả nghiên
cứu cho thấy mặc dù người trả lời cả nam và nữ đều chia sẻ rằng ai cũng có
thể làm việc nhà, không kể nam hay nữ và công việc nhà cần được chia đều
cho hai vợ chồng, thì trong cả hai bối cảnh, thành thị và nông thôn, người
phụ nữ vẫn là người dành nhiều thời gian làm các công việc nhà hơn nam
giới. Trong các khuyến nghị đưa ra, thì khuyến nghị cần nâng cao nhận thức
của toàn xã hội về giá trị lao động gia đình và đóng góp của phụ nữ vào kinh
tế gia đình, bên cạnh sự đóng góp thông qua các hoạt động có thu nhập của
họ, là một khuyến nghị chúng ta cần quan tâm, nếu làm được điều này mới
có thể tạo được BĐG trong lao động gia đình đối với người phụ nữ. Nghiên
cứu này là tài liệu quan trọng, gợi mở cho tác giả luận án nhiều vấn đề cần
triển khai.
11
Dựa trên số liệu định lượng từ cuộc “Điều tra cơ bản về thực trạng
BĐG ở Việt Nam” do viện Khoa học xã hội Việt Nam tiến hành từ 2004 -
2006, trong bài Đóng góp kinh tế của vợ chồng [3], Trần Thị Vân Anh đã
tập trung xem xét việc đóng góp kinh tế giữa phụ nữ và nam giới trong gia
đình. Theo tác giả, do chưa đủ điều kiện áp dụng kỹ thuật và phân tích thu
nhập của từng thành viên, cũng như cuộc khảo sát này không cho phép đưa
ra số liệu cụ thể, nên đóng góp vào thu nhập ở đây được hiểu là bằng tiền,
hiện vật sản phẩm chứ chưa đề cập tới những đóng góp bằng công sức cho
việc tái sản xuất sức lao động và chăm sóc các thành viên trong gia đình.
Theo tác giả, kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ tham gia của vợ và chồng
vào việc đóng góp thu nhập gia đình đều khá cao. Tuy nhiên xét về mức độ
đóng góp, thì ở thành thị, tỷ lệ gia đình có vợ là người đóng góp thu nhập
chính cao hơn nông thôn. Tỷ lệ gia đình có vợ đóng góp thu nhập chính tăng
lên cùng với trình độ học vấn. Các phân tích này gợi ra rằng, việc nâng cao
trình độ học vấn là yếu tố có ý nghĩa quan trọng trong việc cải thiện tương
quan thu nhập giữa vợ và chồng, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia
đình, thực hiện BĐG.
Trong công trình Những vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại [31], các
tác giả đã nghiên cứu quan điểm về giới trong tác phẩm kinh điển của C.Mác,
Ph.Ănghen, VI.Lênin, Hồ Chí Minh và khẳng định những tư tưởng, quan
điểm của các nhà mác xít nêu trên là cơ sở lý luận, phương pháp luận quan
trọng để nhận thức và thực hiện BĐG ở nước ta hiện nay. Vấn đề giới trong
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng được
các tác giả đi sâu phân tích và đã đưa ra nhận định: đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh
giá, là rất tiến bộ, tích cực trên phương diện BĐG. Công trình này đã cung
cấp cho tác giả luận án những cơ sở lý luận quan trọng về vấn đề nghiên cứu.
Trong bài viết Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải phóng
phụ nữ [77], các tác giả đã khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
con đường giải phóng phụ nữ ở 5 ý lớn: thứ nhất, làm cho toàn bộ nữ giới trở
12
lại tham gia nền sản xuất xã hội và thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
thứ hai, xã hội hóa công việc gia đình đối với phụ nữ; thứ ba, tạo điều kiện xã
hội giúp phụ nữ khẳng định địa vị của mình trong gia đình, ngoài xã hội; thứ
tư, người phụ nữ phải nâng cao ý thức tự giải phóng mình; thứ 5, thực hiện
quyền bình đẳng dân chủ của phụ nữ một cách thật sự. Bài viết này đã gợi mở
cho tác giả luận án về một số giải pháp, có thể đưa ra để thúc đẩy BĐG trong
lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.
Lê Ngọc Lân với bài viết Vấn đề lao động, việc làm nhìn từ góc độ giới
[34], đã chỉ ra hiện nay vẫn còn nhiều khía cạnh bất BĐG giữa nam, nữ, cụ thể
là tình trạng việc làm có thu nhập cao thường xuyên của nam cao hơn nữ, nam
có nhiều lợi thế trong việc tìm kiếm và lựa chọn ngành nghề cũng như cơ hội
tuyển dụng. Trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, khuôn mẫu giới truyền
thống về phân công lao động vẫn chưa thay đổi nhiều. Có nhiều nguyên nhân
dẫn tới bất bình đẳng, nhưng theo tác giả bài viết nguyên nhân bao trùm là định
kiến giới hiện vẫn còn tồn tại trong tư tưởng của nhiều người trong xã hội.
Trong bài Khía cạnh giới trong phân công lao động gia đình [44],
Nguyễn Hữu Minh đã phân tích thực trạng phân công lao động theo giới trong
gia đình. Theo ông cho đến nay chưa có những số liệu so sánh đủ tin cậy ở
quy mô toàn quốc về xu hướng biến đổi phân công lao động theo giới trong
gia đình, nhưng “sự bình đẳng của xã hội theo hướng công nghiệp hóa đã tạo
thêm nhiều cơ hội việc làm cho phụ nữ, sự tham gia của họ vào lực lượng lao
động xã hội ngày càng tăng. Những yếu tố đó sẽ góp phần dẫn đến việc tăng
sự tham gia của người chồng vào công việc gia đình”. Tác giả đã chỉ ra những
khác biệt chủ yếu có liên quan đến phân công lao động theo giới trong gia
đình là: sống ở khu vực thành thị hay nông thôn; nghề nghiệp; học vấn, chu
trình sống của gia đình và cơ cấu hộ gia đình; sự đóng góp của phụ nữ vào
nguồn thu nhập gia đình và định kiến giới. Tác giả cũng đưa ra một số vấn đề
nghiên cứu cần quan tâm như: hiện nay khi nghiên cứu về phân công lao động
theo giới trong gia đình, thường tập trung vào phân công công việc nội trợ, sự
phân công trong các loại công việc khác như sản xuất, kinh doanh gia đình,
13
giao tiếp còn ít được đề cập; vấn đề lượng hóa giá trị các công việc gia đình
chưa được quan tâm.
Trương Thu Trang với bài viết Những yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng
giới trong phân công thực hiện công việc nội trợ giữa vợ và chồng [78], đã đề
cập tới các yếu tố ảnh hưởng đến phân công lao động nội trợ trong gia đình
như: cấu trúc gia đình, độ tuổi của người vợ, nghề của hộ, chênh lệch về thu
nhập và học vấn. Qua khảo sát, tác giả thấy rằng chênh lệch về thu nhập và
học vấn không có mối tương quan đáng kể với mức độ thực hiện công việc
nội trợ, dù chênh lệch về thu nhập thế nào, thì người vợ vẫn phải làm nhiều
loại công việc nhà hơn chồng. Ngoài ra những đóng góp về thời gian, công
sức và tiền bạc của người vợ chủ yếu làm công việc nội trợ hiện nay, đã phần
nào được nhìn nhận đúng đắn, đây là một dấu hiệu tốt để giảm đối xử bất bình
đẳng đối với phụ nữ.
Trong công trình Bình đẳng giới ở Việt Nam [4], Trần Thị Vân Anh và
Nguyễn Hữu Minh, đã đề cập đến việc phân công lao động và quyền quyết định
trong gia đình ở phần II của công trình. Từ việc phân tích số liệu, các tác giả
nhận định phụ nữ tham gia vào tất cả các loại hình sản xuất tạo ra thu nhập như
nông, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp và tất cả các khâu của
một chu trình sản xuất. Tuy nhiên công việc nội trợ trong gia đình vẫn chủ yếu
do phụ nữ đảm nhiệm cho dù gia đình có sự khác nhau về quy mô, độ dài hôn
nhân, về loại hình sản xuất kinh doanh. Về việc ra quyết định trong gia đình,
theo nhóm tác giả hầu hết các công việc đều được bàn bạc và do hai vợ chồng
cùng quyết định. Tuy nhiên có sự khác biệt, tiếng nói của người chồng có tính
quyết định ở các công việc “đối ngoại”, còn người vợ ở những công việc “đối
nội”, phụ nữ ở thành thị có nhiều quyền quyết định trong gia đình hơn so với
phụ nữ nông thôn. Phần IV của công trình, các tác giả đề cập tới khuôn mẫu
giới: phân tích quan niệm về vai trò của vợ và chồng, các phẩm chất mong
muốn ở con trai và con gái, quan niệm tên vợ, tên chồng trong giấy chứng nhận
tài sản, qua số liệu cho thấy định kiến giới trong những vấn đến vẫn còn tồn tại.
14
Công trình này đã gợi mở cho tác giả luận án một số vấn đề cần triển khai trong
luận án.
Nguyễn Thị Ngân, trong hai bài viết Thực hiện quan điểm của Đảng và
chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới [46], Chủ trương của Đảng, Nhà
nước về giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam [47], đã khái quát
lại một số quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về thực hiện
BĐG được thể hiện ở: Chỉ thị 44/TW ngày 7-6-1984 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng, Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 12-4-1993 của Bộ Chính trị, Luật
BĐG. Theo tác giả, trong các văn kiện của Đảng từ Đại hội VI đến đại hội X
đều đề cập tới việc thực hiện BĐG, trong những năm qua Việt Nam đã không
ngừng thực hiện quan điểm đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về
BĐG, do vậy phụ nữ đã có những đóng góp to lớn, tham gia ngày càng tích cực
vào các hoạt động chính trị xã hội. Ngoài ra, trong hai bài viết tác giả còn chỉ ra
một số bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện mục tiêu BĐG như: một số
chủ trương lớn còn thiếu nhạy cảm về giới; định kiến giới còn tồn tại trong
không ít các cơ quan nhà nước; vai trò của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ chưa
thật sự được đề cao; thiếu nguồn lực cũng như kỹ năng lồng ghép giới vào các
hoạt động của từng cơ sở; bản thân phụ nữ còn tự ti, rụt rè. Để đạt được mục
tiêu BĐG, tác giả nhận định “cần có sự chỉ đạo mạnh mẽ, quyết tâm cao và
hành động cụ thể của tất cả các cơ quan nhà nước, các ngành, các cấp. Do vậy,
hướng tới BĐG cần phải có sự lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi
chính sách”. Hai bài viết này đã cung cấp cho tác giả luận án, một số vấn đề về
lý luận, đồng thời cũng gợi mở hướng tiếp cận về nguyên nhân dẫn tới bất
BĐG có thể triển khai trong luận án.
Báo cáo phát triển con người 2010 của UNDP [83], với chủ đề ”dịch
vụ xã hội cho phát triển con người”, đã nhận diện những thách thức mà nhiều
người Việt Nam đang phải đối mặt trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản và đưa ra khuyến cáo về những định hướng chính sách. Ba chỉ số phát
triển con người chính đã được xem xét, bao gồm chỉ số phát triển con người
(HDI), chỉ số phát triển giới(GDI) và chỉ số nghèo đói ở con người (HPI). Báo
15
cáo khẳng định, Việt Nam là quốc gia thực hiện rất tốt về BĐG, nhưng bất
BĐG vẫn tồn tại đặc biệt trong gia đình và thị trường lao động. Theo bản báo
cáo chênh lệch về mức sống giữa các tỉnh giàu nhất và nghèo nhất vẫn còn
khá lớn, đáng chú ý trong khi khoảng cách về giới nói chung đang dần được
thu hẹp, thì một số tỉnh nghèo hơn lại có sự chênh lệch về giới trong giáo dục
tăng lên; trong khi đó, một số tỉnh phát ... như: cơ cấu gia đình, quan hệ trong gia đình, quyền quyết định,
phân công lao động, trình độ văn hóa và hôn nhân gia đình; đã phân tích mối
29
quan hệ giữa trình độ học vấn, nghề nghiệp, kết cấu gia đình, thu nhập với
việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình.
Sáu là, một số công trình đã tổng kết quá trình đổi mới, phát triển của
miền núi, đánh giá những thành tựu, hạn chế của quá trình đó, đồng thời nêu
quan điểm định hướng và nguyên tắc phát triển miền núi và vùng DTTS; đề
cập tới sự phân hoá giàu nghèo ở các tỉnh MNPB, mức độ ảnh hưởng của nó
tới các mặt của đời sống xã hội nói chung, trong đó bao hàm cả sự tác động
đối với BĐG trong lao động gia đình DTTS.
Bảy là, một số công trình đã tập trung phân tích mối liên hệ giữa giới,
nghèo đói và chính sách phát triển, lồng ghép giới vào chính sách vĩ mô, cách
thức giải quyết nghèo đói từ góc độ giới, bất bình đẳng. Từ đó, nêu trách
nhiệm của các nhà hoạch định chính sách cũng như cộng đồng về thực hiện
mục tiêu Thiên niên kỷ.
1.2.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ
Tuy có nhiều công trình nghiên cứu về BĐG, vai trò của phụ nữ trong
gia đình, sự biến đổi quan hệ giới trong gia đình, nhưng đều chỉ nghiên cứu
khía cạnh nào đó của lao động gia đình, mà chưa nghiên cứu một cách đầy đủ
toàn diện về BĐG trong lao động gia đình. Một số luận cứ khoa học, thực tiễn
về ý nghĩa của việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình nói chung và gia
đình DTTSMNPB nói riêng, một số yếu tố cản trở người phụ nữ DTTS phát
huy vai trò của mình, thực hiện BĐG còn chưa được đề cập.
Hiện nay, chưa có tác giả nào, công trình nào nghiên cứu một cách
chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ chính trị - xã hội về BĐG trong lao động
gia đình DTTS MNPB. Đây là một trong những khoảng trống cần được đầu tư
nghiên cứu, nhằm thực hiện BĐG trong gia đình nói chung và DTTS nói riêng,
một cách đầy đủ hơn.
Từ những giá trị của các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, từ
góc độ tiếp cận của chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, từ sự tích lũy
trong nghiên cứu của cá nhân, tác giả sẽ tập trung vào nghiên cứu, luận chứng
và giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:
30
Một là, khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn về sự cần thiết thực hiện BĐG
trong lao động gia đình DTTS MNPB, trong đó tập trung làm rõ:
- Lý luận về lao động gia đình, lao động gia đình DTTS MNPB, nội dung
biểu hiện của BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.
- Vai trò của BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB đối với việc phát
triển kinh tế - xã hội ở MNPB.
- Sự tác động của yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội, chính sách xã
hội tới thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.
Hai là, từ những số liệu thực tế, luận án phân tích thực trạng BĐG trong
lao động gia đình DTTS MNPB, ở các nội dung:
- Hoạt động sản xuất.
- Hoạt động tái sản xuất.
- Hoạt động cộng đồng.
Ba là, nghiên cứu, làm rõ những vấn đề đặt ra, cụ thể là những mâu thuẫn
trong việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.
Bốn là, đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc
đẩy BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB.
31
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG
GIA ĐÌNH
2.1.1. Quan niệm về lao động gia đình
Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất cuốn sách Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước năm 1884, Ph.Ănghen viết:
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến
cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp... Một mặt là
sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những
công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản
xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống [38, tr.44].
Từ quan điểm này của Ph. Ănghen, có thể thấy để tồn tại và phát
triển, mỗi gia đình (tế bào của xã hội) phải tiến hành hai loại lao động, đó
là lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất và lao động “sản xuất ra bản
thân con người”.
Theo Trần Vân Anh và Lê Ngọc Hùng, có thể chia lao động gia đình
thành hai loại: một loại gồm những hoạt động kinh tế tạo ra sản phẩm hàng
hóa hay thu nhập; một loại lao động gồm những công việc không trực tiếp tạo
ra hàng hóa hay thu nhập bằng tiền mà phụ nữ thường đảm đương trong gia
đình [2, tr.219].
Nguyễn Linh Khiếu cho rằng: đời sống gia đình có rất nhiều hoạt động
phong phú và đa dạng khác nhau. Nhưng nhìn chung, các hoạt động đó
thường xoay quanh 3 lĩnh vực sinh sống chủ yếu của gia đình, đó là: sản xuất,
tái sản xuất và hoạt động cộng đồng [30, tr.220].
32
Dương Thị Minh thì nhận định rằng:
Dù trong điều kiện nào, dưới bất cứ hình thức nào, gia đình cũng
phải đảm bảo những nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của
các thành viên. Để thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu ấy, gia đình
đồng thời tiến hành hai loại lao động chủ yếu: các lao động nhằm
trực tiếp tạo ra của cải vật chất và các loại lao động đảm bảo tái
sản xuất ra sức lao động [43, tr.29-30].
Theo giáo sư Lê Thi:
Lao động gia đình là một gánh nặng trên vai người phụ nữ từ xa
xưa đến nay. Nó làm tiêu hao sức lực của phụ nữ, làm cho người
phụ nữ không còn thời gian nghỉ ngơi, hưởng thụ văn hóa nghệ
thuật, nâng cao trình độ. Mặc dù hết sức vất vả, lao động gia đình
vẫn chưa được xã hội và gia đình nhìn nhận đúng. Đó là loại lao
động có giá trị tái sản xuất sức lao động của con người, nhưng
chưa được đánh giá và bù đắp [67, tr.28].
Nguyễn Hữu Minh cho rằng:
Công việc trong gia đình thường được chia thành một số loại như
nội trợ, sản xuất kinh doanh hộ gia đình, chăm sóc thành viên
trong gia đình (con nhỏ, người già, người đau ốm), giao tiếp (cụ
thể như tiếp khách đến, đại diện gia đình giao tiếp với chính
quyền). Các nhóm công việc này, đến lượt mình lại được phân ra
chi tiết hơn. Chẳng hạn, công việc nội trợ thường được hiểu là
công việc tái sản xuất liên quan đến việc chăm sóc và duy trì hộ
gia đình như: nấu ăn, giặt giũ, mua thức ăn, dọn dẹp nhà cửa...
Công việc sản xuất, kinh doanh cũng được chia ra thành các loại
hình trồng trọt, chăn nuôi, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ [44, tr.44].
Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về lao động gia đình, có quan
điểm cho rằng lao động gia đình nghĩa là làm công việc nội trợ trong gia đình,
có quan điểm lại cho rằng lao động gia đình không chỉ là làm công việc nội
33
trợ, mà còn gồm nhiều loại công việc khác nhau trong gia đình như hoạt động
sản xuất, tham gia hoạt động cộng đồng.
Tác giả luận án tiếp cận khái niệm lao động gia đình với nội hàm sau
đây: Lao động gia đình là hoạt động có mục đích của các thành viên trong
gia đình, nhằm thực hiện các chức năng của gia đình, để đảm bảo cho sự tồn
tại và phát triển ổn định của gia đình. Lao động gia đình gồm: hoạt động sản
xuất, hoạt động tái sản xuất và hoạt động cộng đồng.
Hoạt động sản xuất: là loại hoạt động được trả công hay tạo ra thu
nhập, liên quan đến sản xuất hàng hóa, dịch vụ, trao đổi hàng hóa và mua bán,
làm ruộng, làm thuê, tự tổ chức công việc.
Hoạt động tái sản xuất: là những hoạt động liên quan đến việc chăm sóc
và duy trì gia đình như: nấu ăn, lấy nước, lấy củi, đi chợ, trông nom nhà cửa,
chăm sóc sức khỏe cho gia đìnhTái sản xuất là loại hoạt động thiết yếu để
duy trì cuộc sống của con người, song lại thường khó quy đổi thành giá trị
kinh tế, vì vậy vẫn được coi là loại lao động không được trả công, là công
việc dành riêng cho phụ nữ.
Hoạt động cộng đồng: là những công việc thể hiện quan hệ của gia đình
với cộng đồng và thiết chế xã hội. Người thực hiện những công việc này là
người đại diện cho gia đình giao tiếp và giải quyết các vấn đề quan trọng của
gia đình với chính quyền và cộng đồng. Hoạt động cộng đồng bao gồm nhiều
nội dung khác nhau như: tham gia các lễ hội tại địa bàn sinh sống, họp thôn
bản, tập huấn, vệ sinh thôn xóm, làm đường, hiếu hỉ....
2.1.2. Quan niệm về bình đẳng giới trong lao động gia đình
Bình đẳng giới là một khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn,
khái niệm này ra đời là kết quả của phong trào phụ nữ và chủ nghĩa nữ
quyền thế giới. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về BĐG, luận án
tiếp cận quan điểm về BĐG theo Luật BĐG của Việt Nam: BĐG là việc
nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng
34
lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như
nhau về thành quả của sự phát triển đó [56, tr.9].
Từ khái niệm lao động gia đình và BĐG có thể hiểu: BĐG trong lao động
gia đình là việc nam giới và nữ giới trong gia đình có vị trí, vai trò ngang nhau,
có cơ hội, điều kiện tham gia vào mọi hoạt động sản xuất, hoạt động tái sản
xuất, hoạt động cộng đồng, để được phát huy hết khả năng, năng lực của mình,
nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình, được hưởng lợi
như nhau từ kết quả của sự đóng góp đó.
Để làm rõ nội hàm khái niệm BĐG trong lao động gia đình, trong luận
án tác giả sẽ dựa vào một số công cụ phân tích giới sau đây:
Thứ nhất, phân công lao động gia đình theo giới: Tìm hiểu phân
công lao động trên cơ sở giới là một cách thức đánh giá tình trạng BĐG tại
một cộng đồng cụ thể, vì nó cho biết các hoạt động của nam và nữ khác
nhau như thế nào trong hoạt động sản xuất, hoạt động tái sản xuất và hoạt
động cộng đồng.
Thứ hai, tiếp cận các nguồn lực: Tiếp cận là nói đến khả năng sử dụng
các nguồn lực, nam giới và nữ giới thường có các cấp độ khác nhau về tiếp cận.
Các nguồn lực đó có thể là đất đai, máy móc, công nghệ, việc làm, vốn, giáo
dục và đào tạo, trợ giúp kỹ thuật, các cơ hội ra quyết định, thông tin, lợi ích,
thu nhập. Tiếp cận nguồn lực là một trong những các phương pháp phân tích
giới, cho phép phát hiện những chênh lệch bất hợp lý về phân bố nguồn lực từ
góc độ giới
Thứ ba, ra quyết định trong gia đình: Đó là việc người chồng hay
người vợ quyết định cho các vấn đề lớn nhỏ trong gia đình? quyết định ở mức
độ nào (tư vấn, quyết định ban đầu và quyết định cuối cùng)? Ai sẽ chịu tác
động của những quyết định này?
Thứ tư, thụ hưởng các lợi ích: Với sự đóng góp cho sự phát triển của
gia đình, liệu nam và nữ thụ hưởng các lợi ích có tương xứng với sự đóng góp
đó của mình không?
35
2.2. LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VÀ
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN
NÚI PHÍA BẮC
2.2.1. Đặc điểm của lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc
Lao động gia đình DTTS MNPB là hoạt động có mục đích của các
thành viên trong gia đình DTTS MNPB, nhằm thực hiện các chức năng của
gia đình, để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình và xã
hội. Lao động gia đình DTTS MNPB có những đặc điểm riêng như sau:
2.2.1.1. Về hoạt động sản xuất
MNPB là vùng có tỷ lệ hộ dân hoạt động ngành sản xuất kinh doanh
dịch vụ phi nông, lâm nghiệp, thủy sản rất thấp, trong đó vùng Tây Bắc là
thấp nhất cả nước (18,4%) [71, tr.382]. Lao động sản xuất của gia đình DTTS
MNPB, có điểm khác biệt so với các vùng khác trong cả nước là chủ yếu diễn
ra trong lĩnh vực nông nghiệp, ngoài ra còn có một số hoạt động sinh kế bổ
trợ như: làm nghề thủ công, săn bắn hái lượm, buôn bán nhỏ, làm thuê.
Xét theo tập quán sinh sống và canh tác của các DTTS, có thể chia
thành một số nhóm: dân tộc Tày, Nùng, Thái... chủ yếu cư trú ở vùng đồi núi
thấp, thung lũng, khe dọc; dân tộc Dao, Mông, Khơ Mú, La Ha, La Hủ, Mảng
chủ yếu cư trú ở vùng lưng chừng núi (vùng giữa) và núi cao (vùng cao).
Những dân tộc sinh sống vùng thấp, vùng thung lũng sớm biết trồng lúa nước,
biết áp dụng các biện pháp thủy lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm
cọn lấy nước tưới ruộng, biết kết hợp làm nương trồng lúa, ngô, hoa màu;
sống quần cư đông đúc thành bản làng có khi tới hàng trăm nóc nhà. Những
dân tộc có tập quán sinh sống ở lưng chừng núi hoặc núi cao có tập quán làm
nương, làm ruộng (bậc thang), trồng ngô, lúa, lúa mạch, cây ăn quả... thường
sống phân tán, rải rác, ít xen kẽ với các dân tộc khác, sống thành từng bản có
vài chục nóc nhà hoặc chỉ trên dưới chục nóc nhà. Trong đó có một số nhóm
dân tộc còn tồn tại cách thức canh tác lạc hậu: du canh du cư, phát rừng, đốt
nương làm rẫy, chọc lỗ, tra hạt, chăn nuôi theo phương thức thả rông như một
36
bộ phận dân tộc Cống, La Ha, La Hủ, Xinh Mun... sinh sống ở những vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
So với các vùng DTTS khác trong cả nước, thì MNPB chỉ tồn tại loại
hình gia đình phụ hệ, nên tính phụ quyền được phản ánh rõ nét, trong gia đình
người nam giới (người chồng) có vai trò chi phối và quyết định mọi vấn đề,
điều khiển mọi công việc từ sản xuất, sinh hoạt đến cúng bái, quan hệ với bên
ngoài, tham gia giải quyết những vấn đề chung của thôn bản... vị thế vai trò
và tiếng nói, cũng như quyền quyết định của nữ giới rất thấp kém, khiến họ về
cơ bản phụ thuộc vào nam giới.
Gia đình các DTTS MNPB đều coi trọng con trai hơn con gái, con trai
vừa là người thờ tổ tiên, lưu truyền huyết thống, vừa là người có trách nhiệm
chăm sóc, nuôi dưỡng bố mẹ lúc về già. Tài sản bố mẹ thường chia đều cho
các con trai, con gái không được hưởng trừ khi cha mẹ cho làm của hồi môn.
Quan niệm cần có con trai của dân tộc Tày, Thái, La Hủ, không quá nặng nề
giống như dân tộc Mông. Với các dân tộc này, nhà nào không có con trai, thì
sẽ lấy rể ở đời cho con gái, con rể ở đời không phải đổi họ, nhưng các con
phải theo họ mẹ và được hưởng gia sản, thờ cúng tổ tiên nhà mẹ. Chính luật
tục này, đã cản trở phụ nữ DTTS được tiếp cận nguồn lực sản xuất, hưởng thụ
lợi ích của gia đình và là một trong những nguyên nhân dẫn tới bất BĐG
trong hoạt động sản xuất ở MNPN hiện nay.
2.2.1.2. Về hoạt động tái sản xuất
Hiện nay ở cả 4 dân tộc (Thái, Tày, Mông, La Hủ) đều tồn tại hai hình
thức gia đình phổ biến là: gia đình nhỏ hai thế hệ gồm bố mẹ và con cái chưa
đến tuổi thành niên và gia đình lớn gồm hai ba cặp vợ chồng cùng sinh sống.
Không giống như người Mông, hầu như người Tày, Thái, La Hủ không sống
theo gia đình lớn, nhiều đời cùng chung sống trong một mái nhà, mà gia đình
nhỏ phụ quyền là loại hình chủ yếu, bao gồm vợ chồng và con cái, tuy nhiên
cũng có những gia đình gồm 3 thế hệ. Dù là hai hay nhiều thế thệ cùng chung
sống, thì như ta biết gia đình có quy mô lớn với số lượng thành viên đông là
đặc trưng trước hết cho cư dân nông thôn và các DTTS. Hơn nữa, ở những
37
dân tộc phụ hệ như Thái, Tày, Mông, La Hủ, do xuất phát từ tư tưởng trọng
nam khinh nữ, nên các gia đình càng nhiều con hơn. Theo số liệu thống kê, tỷ
suất sinh của vùng MNPB là cao nhất nước 2,56 con/phụ nữ (cả nước là 2,09
con/phụ nữ), cho nên số người bình quân trong một hộ gia đình nông thôn của
MNPB cũng cao nhất nước (4,1 người/hộ), có 25,9% hộ có từ 5 - 6 người, 7%
hộ có từ 7 người [73, tr.1]. Trong khi các dịch vụ an sinh xã hội của vùng chưa
phát triển nhiều so với các vùng khác trong cả nước, đặc biệt là ở vùng sâu,
vùng xa. Nếu hệ thống trường học, nhà trẻ, mẫu giáo là một yếu tố góp phần
làm giảm gánh nặng công việc cho phụ nữ, thì hiện nay giáo dục mầm non ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS MNPB còn gặp nhiều khó khăn.
Nhiều thôn, bản cách xa trung tâm xã chưa có lớp mẫu giáo, do đó nhiều trẻ
em trong độ tuổi mầm non không được đến lớp, hơn nữa việc thu hút các cháu
đi học mẫu giáo cũng rất khó khăn vì học sinh thì nhỏ, nhiều gia đình cuộc
sống còn khó khăn, cha mẹ mải lo kiếm cái ăn, cái mặc. Vào ngày mùa, người
dân đi làm nương rẫy từ sáng tới tối hoặc mất vài ngày mới về, nếu cho con đi
học thì phải bỏ việc ở nương rẫy, nên họ thường mang theo con lên rẫy. Việc
các cháu nhỏ không đi nhà trẻ, mẫu giáo, không những làm cho người phụ nữ
mất nhiều thời gian chăm sóc con cái, mà còn ảnh hưởng lớn đến tương lai của
trẻ em gái, vì trẻ em gái thường phải ở nhà trông em nên không có thời gian
học bài. Với những đặc điểm này có thể thấy, khối lượng công việc liên quan
tới hoạt động tái sản xuất, mà người phụ nữ DTTS MNPB phải đảm nhận là rất
lớn, tốn nhiều thời gian và sức lực.
2.2.1.3. Về hoạt động cộng đồng
Gia đình DTTS là tế bào của xã hội các dân tộc, mang đậm tính truyền
thống, có bổn phận thực hiện nhiều chức năng quan trọng, có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển ý thức tộc người. Mặc dù nhiều nhóm tộc người cùng cư
trú đan xen trong một vùng hay một xã, nhưng ở phạm vi một bản làng,
thường bao gồm những người cùng trong một nhóm dân tộc và rất nhiều
trường hợp họ là những người ruột thịt, nên nhiều gia đình trong bản làng có
quan hệ huyết thống ruột thịt với nhau. Họ sống gắn kết chặt chẽ, trong đó
38
mỗi cá nhân là một mắt nối, họ gắn kết với nhau không chỉ vì có quan hệ ruột
thịt láng giềng, mà còn bởi sinh hoạt văn hóa và tôn giáo, đặc biệt là do các
hoạt động sinh kế. Hoạt động sinh kế nương rẫy ở vùng cao, cũng như các
hoạt động trồng lúa nước của một số nhóm cư trú vùng thấp đều gắn với thiên
nhiên, cây cỏ, phụ thuộc vào thời tiết, đòi hỏi có sức lao động tập trung vào
vụ mùa (thu hoạch) tất cả đã buộc cộng đồng phải cố kết và dựa vào nhau
để sinh tồn. Sự gắn bó này giúp họ có thể chia sẻ và phát triển, tích lũy những
tri thức bản địa và kinh nghiệm lao động sản xuất với nhau, khiến mối quan
hệ cộng đồng gắn bó hơn.
Trong gia đình truyền thống của DTTS MNPB, có rất nhiều quy định
khắt khe đối với phụ nữ. Trong gia đình dân tộc Mông, con dâu khi bước chân
về nhà chồng, thì đã trở thành ‘‘ma’’ của dòng họ nhà chồng, nên con dâu
vĩnh viễn không được phép đi lấy chồng dòng họ khác. Con dâu không được
phép ngồi ăn chung mâm với bố chồng, hoặc không được ăn chung bát thức
ăn, chung nồi với bố chồng. Đối với người Tày, giữa con dâu và các bậc trên
có sự cách biệt nghiêm ngặt như: không được ngồi ngang hàng, ăn cùng mâm,
ngồi cùng chiếu với bố chồng và anh chồng, không được tới chỗ ngủ và nơi
dành riêng cho bố, chú, bác, anh chồng... Với người Thái, riêng bàn thờ con
dâu không được phép đến. Ở trong nhà, con dâu và khách nữ không được ngồi
cạnh cửa sổ, vì chỗ đó chỉ dành cho các cụ tuổi cao và nam giới, đặc biệt con
dâu về nhà chồng chỉ được ngồi trên ghế mang từ nhà bố mẹ đẻ về, không được
ngồi vào các chiếc ghế nhà chồng. Có thể thấy, trong gia đình DTTS MNPB
truyền thống có nhiều yếu tố cản trở phụ nữ tiếp cận nguồn lực, phát huy vai
trò của mình trong hoạt động cộng đồng.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, đời sống gia đình
DTTS MNPB đang diễn ra những thay đổi đáng kể về vai trò và vị trí của
người chủ gia đình, ở một mức độ nhất định đang bước đầu xóa dần sự bất
bình đẳng giữa nam và nữ, tạo ra sự tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng, giữa
anh em, cha con trong đời sống gia đình cũng như xã hội. Các việc như: làm
nhà mới, cưới xin, ma chay... đều được đưa ra bàn bạc thảo luận giữa các
39
thành viên trưởng thành của gia đình (không phân biệt nam, nữ, dâu, rể...),
nam giới đã tham gia vào nhiều công việc mà trước đây được coi là việc của
phụ nữ như: thu dọn nhà cửa, giặt giũ nấu nướng, lợn gà, tùy theo thời gian và
điều kiện, việc tổ chức đời sống trong gia đình cũng không như trước nữa.
Với nàng dâu trong nhiều DTTS ở MNPB trước đây còn có sự cách biệt
nghiêm ngặt, như không được phép ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu với bố
chồng và anh chồng. Ngày nay tục lệ này hầu như đã đi vào dĩ vãng, tuy
nhiên ở nơi này nơi khác người ta vẫn bảo lưu nó ở một chừng mực nhất định.
Những quan hệ mới về chất giữa các thế hệ ông bà, cha mẹ và con cái
được xác lập, quan hệ giữa vợ chồng theo xu hướng bình đẳng hơn, các
thành viên chung sống với nhau hòa thuận, vui vẻ, ít xảy ra những xung
khắc nghiêm trọng trong gia đình. Sự phát triển và biến đổi của những mỗi
quan hệ hôn nhân và gia đình, có liên quan chặt chẽ với sự thay đổi về địa vị
của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, tác động lớn đến thực hiện BĐG
trong lao động gia đình.
2.2.2. Nội dung biểu hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Theo tác giả luận án: BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB là
việc nam giới và nữ giới trong gia đình DTTS MNPB có vị trí, vai trò ngang
nhau, có cơ hội, điều kiện để tham gia vào mọi hoạt động sản xuất, hoạt động
tái sản xuất, hoạt động cộng đồng, để được phát huy hết khả năng, năng lực
của mình nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình và
được hưởng lợi như nhau từ kết quả của sự đóng góp đó.
Bình đẳng giới trong lao động gia đình DTTS MNPB có nội dung biểu
hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, BĐG trong hoạt động sản xuất của gia đình DTTS MNPB
biểu hiện ở các khía cạnh sau:
+ Phân công lao động giữa vợ và chồng trong: nông nghiệp, nghề thủ
công, buôn bán hàng hóa và dịch vụ, làm thuê (bốc vác).
40
+ Tiếp cận các nguồn lực sản suất như: đất đai, vay vốn, dịch vụ
khuyến nông.
+ Quyền ra quyết định trong hoạt động sản xuất: thay đổi hướng sản
xuất, sử dụng vốn.
+ Thụ hưởng lợi ích: Thừa kế tài sản, giáo dục.
Thứ hai, BĐG trong hoạt động tái sản xuất của gia đình DTTS MNPB
biểu hiện ở các khía cạnh sau:
+ Phân công lao động giữa vợ và chồng trong các hoạt động như: nấu
ăn, giặt giũ, đi chợ, giữ tiền, chăm sóc dạy con học, chăm sóc người già, lấy
nước, giã gạo, thu lượm chất đốt, sửa chữa đồ dùng trong nhà.
+ Tiếp cận các nguồn lực trong hoạt động tái sản xuất: quản lý tiền
trong gia đình, các biện pháp kế hoạch hóa gia đình.
+ Quyền ra quyết định trong hoạt động liên quan tới tái sản xuất: các
khoản chi tiêu trong gia đình, số con và sử dụng biện pháp tránh thai.
+ Thụ hưởng lợi ích liên quan tới hoạt động tái sản xuất: chăm sóc sức
khỏe, giải trí.
Thứ ba, BĐG trong hoạt động cộng đồng của gia đình DTTS MNPB
biểu hiện ở các khía cạnh sau:
+ Phân công lao động giữa vợ và chồng trong các hoạt động như: dự
đám hiếu/hỉ, giao tiếp với chính quyền, họp bản làng, tiếp khách, làm vệ sinh
làng, xóm, tham gia cúng giỗ của làng.
+ Quyền tiếp cận các hoạt động cộng đồng của vợ và chồng.
+ Quyền ra quyết định tham gia hoạt động cộng đồng.
+ Thụ hưởng lợi ích từ hoạt động cộng đồng.
Việc làm rõ BĐG ở các khía cạnh trên, sẽ góp phần nhận diện thực
trạng BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay, đồng thời chỉ ra
các vấn đề cần quan tâm giải quyết, từ đó tìm ra những giải pháp để thúc đẩy
BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.
41
2.3. VAI TRÒ CỦA VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO
ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY
2.3.1. Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số sẽ góp
phần phát triển kinh tế vùng miền núi phía Bắc
Thứ nhất, bình đẳng giới trong lao động gia đình thúc đẩy tăng năng
suất lao động
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, xã hội loài người tồn tại và phát triển là
do hai loại sản xuất quyết định, sản xuất ra con người và sản xuất ra của cải
vật chất. Bởi vậy, hoạt động kinh tế là chức năng của gia đình trong mọi thời
đại (tất nhiên với mức độ không giống nhau), làm cho gia đình không những
là đơn vị kinh tế tiêu dùng, mà còn là đơn vị sản xuất ra của cải vật chất để
thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong gia đình và làm giàu cho xã hội.
Cùng với quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất ở từng lúc, từng nơi, kinh tế
gia đình biến đổi phong phú và có vị trí khác nhau: có thể là một đơn vị kinh
tế cơ sở chủ động và tự chủ dưới dạng kinh tế hộ gia đình, hay gia đình làm
kinh tế không hoạt động như một đơn vị kinh tế độc lập tự chủ, mà các thành
viên của gia đình sản xuất làm việc ở các đơn vị quốc doanh, tập thể hay xí
nghiệp tư nhân. Dù trong điều kiện nào, dưới bất kỳ hình thức nào gia đình
vẫn đảm bảo nhu cầu sinh hoạt vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia
đình, làm giàu cho xã hội.
Bình đẳng giới trong lao động gia đình đồng nghĩa với việc nữ giới và
nam giới có cơ hội được tiếp cận, ra quyết định đối với các nguồn lực sản
xuất bình đẳng như nhau. Việc cải thiện khả năng tiếp cận của người phụ nữ
với các nguồn lực trên, có thể đem lại các tiềm năng sản xuất mới, nâng cao
hiệu quả quản lý, phân phối đều thu nhập hơn, phát triển nguồn nhân lực,
những tác động tích cực này sẽ thúc đẩy tăng trưởng mạnh nền kinh tế.
C.Mác từng nhận định: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang
xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi. Hay Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng đã từng nói:
42
Bây giờ toàn dân ta ai cũng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải làm gì? Nhất định phải tăng
gia sản xuất thật nhiều. Muốn sản xuất nhiều thì phải có nhiều sức
lao động. Muốn có nhiều sức lao động thì phải giải phóng sức lao
động của phụ nữ. Nói phụ nữ là nói phân nửa của xã hội. Nếu
không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người.
Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ
một nửa [40, tr.110].
Tổ chức Nông Lương (FAO) đã ước tính rằng, nhờ bình đẳng hóa mức
tiếp cận với các nguồn lực sản xuất giữa nam và nữ ở nông thôn, sẽ tăng sản
lượng nông nghiệp ở các nước đang phát triển lên tới 2,5% - 4%. Xóa bỏ
những rào cản khiến phụ nữ không thể tham gia một số ngành nghề nhất định,
cũng đem lại kết quả tương tự, giảm cách biệt về năng suất giữa nam và nữ
công nhân tới 1/3 - 1/2 và tăng năng suất lên 3% - 25% ở một loạt các quốc
gia [100, tr.17].
Báo cáo quốc gia về phát triển con người năm 2011, chỉ ra có mối
liên hệ chặt chẽ trong việc xếp hạng GDI và GDP của các tỉnh MNPB.
Những tỉnh có chỉ số phát triển giới (GDI) cao, là tỉnh có thứ hạng cao về
HDI và chỉ số tổng sản phẩm nội địa. Các tỉnh xếp hạng dưới cùng về GDI
cũng là những tỉnh nghèo nhất, như Điện Biên, Lai Châu ở Tây Bắc và Hà
Giang ở Đông Bắc [83, tr.55]. Có thể nhận định rằng, một trong những
nguyên nhân dẫn tới tình trạng đói nghèo của MNPB, chính là do bất BĐG,
chưa phát huy được sức lao động sáng tạo của phụ nữ nói chung và phụ nữ
DTTS nói riêng, cho nên MNPB hiện nay vẫn là vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao
nhất cả nước.
Ở MNPB, kinh tế hộ gia đình là một bộ phận đông đảo có tiềm năng to
lớn, có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế vùng. Hoạt động kinh tế hộ
gia đình có những mức độ và hình thức khác nhau ở mỗi dạng gia đình cụ thể,
nhưng đều vì mục đích tăng thu nhập làm giầu chính đáng, tạo lên nhiều loại
sản phẩm vật chất để thúc đẩy sự phát triển của gia đình và xã hội. Trong kinh
43
tế hộ gia đình DTTS, vai trò của người phụ nữ là rất to lớn, họ không chỉ
tham gia các hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất, góp phần quan
trọng vào bảo đảm các nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần của gia đình, mà
còn đóng góp to lớn vào sự phát triển sản xuất, phát triển kinh tế xã hội của
vùng. Thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS, tạo điều kiện giải
phóng sức lao động của phụ nữ, nâng cao cơ hội tiếp cận, quyền ra quyết
định của phụ nữ với các nguồn lực sản xuất của gia đình là một trong
những việc làm cần thiết hiện nay ở MNPB. Thực hiện BĐG trong lao
động gia đình, phụ nữ DTTS có cơ hội nâng cao trình độ, có nhiều cơ hội
được tiếp cận với các nguồn lực, được bình đẳng trong việc thụ hưởng các lợi
ích, sẽ làm thay đổi vị thế, tạo ra những cơ hội để họ thoát khỏi những cản trở,
đem hết khả năng của mình cống hiến cho sự phát triển gia đình, vì lợi ích,
tiến bộ của xã hội, trong đó có nam giới, điều này có ý nghĩa quan trọng trong
việc tăng năng suất lao động, thúc đẩy kinh tế của vùng phát triển.
Có thể thấy, khi lao động của phụ nữ bị lãng phí hay sử dụng sai mục
đích, mà lý do là sự phân biệt đối xử trên thị trường, hay các thể chế xã hội
khiến phụ nữ học hành dang dở, phải làm một số nghề nhất định, không có
được thu nhập như nam giới, thì kết quả là sẽ làm thất thoát kinh tế, kìm hãm
sự phát triển kinh tế. Vì vậy, BĐG trong lao động nói chung và trong lao động
gia đình nói riêng có tác động to lớn đến tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, bình đẳng giới trong lao động gia đình ảnh hưởng gián tiếp
đến tăng trưởng kinh tế thông qua việc giảm tỷ lệ sinh
BĐG một mặt được coi là mục tiêu chủ yếu của những nỗ lực phát triển
xã hội, mặt khác nó lại chính là nguyên lý cơ bản của phương pháp phát triển
trên cơ sở thực hiện quyền bình đẳng. BĐG trong lao động gia đình làm tăng
cơ hội học tập, việc làm và phát triển bản thân cho phụ nữ, đồng thời làm thay
đổi nhận thức cộng đồng xã hội, những tiến bộ này thường gắn liền với việc
giảm mức sinh, tăng cường sức khỏe của trẻ em và phụ nữ và vì vậy sẽ gián
tiếp tác động tới tăng trưởng kinh tế.
44
Khi trong lao động gia đình có sự bình đẳng, phụ nữ sẽ có điều kiện để
nâng cao trình độ, chi phí cơ hội thời gian của họ sẽ tăng lên, đồng thời họ
cũng có khả năng thương thuyết trong gia đình hơn, hai yếu tố này đều góp
phần làm giảm tỷ lệ sinh. Số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2013
cho thấy, tỷ lệ phần trăm phụ nữ sinh con thứ ba trở lên trong năm của những
phụ nữ chưa đi học là 45,4%, giảm dần xuống còn 27,4% đối với phụ nữ chưa
tốt nghiệp tiểu học, 21,1% đối với phụ nữ tốt nghiệp tiểu học, 16,2% đối với
phụ nữ tốt nghiệp trung học cơ sở và chỉ còn 5,7% đối với phụ nữ có trình độ
học vấn từ trung học phổ thông trở lên [73, tr.41]. Giữa trình độ học vấn của
người mẹ và tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên có mối quan hệ tỷ lệ nghịch: trình độ
học vấn càng cao, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên càng thấp.
Tỷ lệ sinh giảm sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế, vì tỷ lệ sinh thấp
hơn sẽ làm giảm gánh nặng nuôi con, tăng tỷ lệ tiết kiệm, chính tỷ lệ tiết kiệm
cao hơn sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ sinh thấp hơn, đồng nghĩa với
tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng lên và nếu tất cả các lao động gia tăng
thêm đề...mình để họ góp phần xây dựng
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Muốn thực hiện được BĐG trên các lĩnh vực khác, thì trước hết phải
thực hiện được BĐG trong gia đình, vì gia đình là “tế bào” của xã hội. Và
trong gia đình để có BĐG thì thực hiện BĐG trong lao động gia đình lại có ý
nghĩa quyết định. BĐG trong lao động gia đình không những là chìa khóa để
đảm bảo cho sự ổn định bền chặt, êm ấm của gia đình, mà còn tạo điều kiện
cho sự phát triển toàn diện của cả nam và nữ về mặt xã hội, cải thiện dần địa
vị của mỗi giới, đặc biệt là địa vị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Lệ Thu (2012), "Tâm lý tự ti, an phận của phụ nữ và sự bất bình
đẳng giới trong gia đình dân tộc HMông ở Hà Giang", Tạp chí Dân tộc
và thời đại, (146), tr.8-14.
2. Nguyễn Lệ Thu (2015), "Tâm lý tự ti, an phận và sự bất bình đẳng giới với
phụ nữ trong gia đình Hmông vùng Đông Bắc", Kỷ yếu hội thảo khoa
học quốc gia Nữ quyền những vấn đề lý luận và thực tiễn, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, Nxb Đại học Sư phạm, tr.500-505.
3. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Triết lý nhân sinh trong nghi lễ tang ma của người
Tày ở miền núi phía Bắc", trong cuốn Triết lý nhân sinh trong văn hóa
Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Nxb Lý luận chính trị,
tr.464-469.
4. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Đào tạo sinh viên ngành Giáo dục công dân kiến
thức về giới đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
mới", Kỷ yếu hội thảo Trường Sư phạm trong phát triển năng lực nghề
nghiệp cho giáo viên phổ thông đáp ứng chương trình giáo dục mới,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội, tr.207-213.
5. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Bình đẳng giới và xóa đói giảm nghèo ở miền núi
phía Bắc", Tạp chí Dân tộc và thời đại, (187), tr.55-60.
6. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Cung cấp kiến thức về giới cho sinh viên sư phạm
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay", Kỷ yếu hội thảo khoa học
sinh viên và cán bộ trẻ các trường Sư phạm toàn quốc năm 2016 toàn
văn, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh, tr.325-331.
7. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Tác động của phong tục tới thực hiện bình đẳng giới
trong lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc", Tạp chí Lao
động và công đoàn, (605), tr.18-19.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Ngọc Anh (2006), Vai trò giới và lượng hóa giá trị lao động
gia đình, Trường Cán bộ phụ nữ Trung ương, Hà Nội.
2. Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng (2000), Phụ nữ và gia đình, Nxb Phụ
nữ, Hà Nội.
3. Trần Thị Vân Anh (2007), “Đóng góp kinh tế của vợ chồng”, Tạp chí
Nghiên cứu gia đình và giới, (5), tr.3-14.
4. Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh (chủ biên) (2008), Bình đẳng giới ở
Việt Nam (phân tích số liệu điều tra), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Do Thi Binh (1999), Cao Bang - Bac Kan - Rural Development project:
Gender Studies on Tay Nung ethnic minorities in Cao Bang, Ha Noi.
6. Đỗ Thị Bình (2001), “Mấy vấn đề về vai trò giới trong gia đình nông
thôn hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp các xã phía Bắc), Tạp chí
Khoa học về phụ nữ, (3), tr.20-33.
7. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn và Nguyễn Linh Khiếu (2002), Gia đình Việt
Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Bộ Chính trị (1993), Nghị quyết số 04, ngày 12-7-1993 về đổi mới và tăng
cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, Hà Nội.
9. Bộ Chính trị (2007), Nghị quyết số 11, ngày 27-4-2007, về công tác phụ
nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
10. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Chiến lược phát triển (2010), Các vùng,
tỉnh thành phố trực thuộc trung ương: Tiềm năng và triển vọng đến
năm 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2010), Chiến lược Quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2010 - 2020, Hà Nội.
12. Tony Chapman (2004), Gender and Domestic life (changing Pratices in
family and Household), Palgranve Macmillan.
153
13. Chính phủ (2006), Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 về việc
lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội,
Hà Nội.
14. Chính phủ (2011), Báo cáo tổng kết thực hiện dự án “trồng mới 5 triệu
hecsta rừng” và kế hoạch bảo vệ phát triển rừng giai đoạn 2011 -
2020, Hà Nội.
15. Chính phủ (2011), Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14-1-2011 về
Công tác dân tộc, Hà Nội.
16. Chương trình hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên hợp quốc
về bình đẳng giới (2011), Hệ thống các văn bản quy định hiện hành
về bình đẳng giới và phòng, chống Bạo lực gia đình, Nxb Thời đại,
Hà Nội.
17. Đại học Thái Nguyên (2014), Phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo
cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi, Nxb Đại học Thái
Nguyên, Thái Nguyên.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 47, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Sa Trọng Đoàn (2000), Phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá
trình chuyển dịch sang cơ chế thị trường, Luận án tiến sĩ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
21. Trần Thị Minh Đức (2006), Định kiến và phân biệt đối xử theo giới: lý
thuyết và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Hà (2012), Quan hệ giới trong gia đình dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
23. Lương Thị Thu Hằng (2002), “Vài nét về người phụ nữ trong xã hội
Thái” (Nghiên cứu tại huyện Thanh Luông, tỉnh Lai Châu), Tạp chí
Khoa học về phụ nữ, (5), tr.21-29.
154
24. Trần Minh Hằng (2001), “Một số phong tục tập quán ảnh hưởng tới
chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ các dân tộc tỉnh Hà Giang”,
Tạp chí Dân số và phát triển, (2), tr.35-40.
25. Bế Văn Hậu (2014), “Gia đình người Tày ở Việt Nam - truyền thống và
đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (2).
26. Phạm Thu Hiền (2013), “Tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu đối
với cộng đồng dân tộc thiểu số phía Bắc - nhìn từ lăng kính giới”,
Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (2), tr.56-66.
27. Đặng Thị Hoa (2001), “Vị thế của người phụ nữ H’Mông trong gia đình
và xã hội”, (Nghiên cứu ở bản Hang Kia, xã Hang Kia, huyện Mai
Châu, Hòa Bình), Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (1), tr.33-36.
28. Đặng Thị Hoa, Phạm Thị Kim Oanh (2008), “Vấn đề bạo lực gia đình ở
vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam”(nghiên cứu
trường hợp dân tộc Mông), Tạp chí Dân tộc học, (4).
29. Nguyễn Linh Khiếu (2002), “Khía cạnh quan hệ giới trong gia đình
nông thôn” (Nghiên cứu trường hợp xã Cát Thịnh, Văn Chấn, Yên
Bái), Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (1), tr.25-29.
30. Nguyễn Linh Khiếu (2003), Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch (đồng chủ biên) (2007), Những vấn đề
giới - từ lịch sử đến hiện đại, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
32. Knud Knudsen and Kari Waerness (2008), National context and spouses’
Housework in 34 countries (bối cảnh đất nước và công việc gia đình
của vợ chồng tại 34 quốc gia), Europian Sociological Review,
Volume 24. Number 1.
33. Lê Ngọc Lân (2005), “Phụ nữ các dân tộc miền núi phía Bắc: về hôn
nhân, văn hóa giáo dục và chăm sóc sức khỏe”, Tạp chí Khoa học về
phụ nữ, (6), tr.34-44.
34. Lê Ngọc Lân (2007), “Vấn đề lao động, việc làm nhìn từ góc độ giới”,
Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới,(2).
155
35. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, NXb Tiến bộ, Matxocova.
36. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxocova.
37. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Matxocova.
38. C.Mác, Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Phan Thị Thanh Mai (2009), “Thực trạng và vai trò của phụ nữ dân tộc
thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc trong chăm sóc sức khỏe sinh
sản”, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (1).
40. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
43. Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Hữu Minh (2008), “Khía cạnh giới trong phân công lao động gia
đình”, Tạp chí Xã hội học, (4), tr.44-56.
45. Nguyễn Thị Nga, Phạm Anh Hùng (2015), “Lao động nữ không được.
trả công ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 1 (86).
46. Nguyễn Thị Ngân (2008), “Thực hiện quan điểm của Đảng và chính sách
của Nhà nước về bình đẳng giới”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (3),
tr.42-45.
47. Nguyễn Thị Ngân (2008), “Chủ trương của Đảng, Nhà nước về giải
phóng phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng,
(3), tr.48-55.
48. Lê Tuấn Ngọc (2015), “Phát triển nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay”,
Tạp chí Triết học, số 4 (287), tr.65-70.
49. Phan Thị Nhiệm (2009), “Tác động của gia nhập WTO tới phụ nữ dân
tộc thiểu số nông thôn tại một số tỉnh miền núi phía Bắc”, Tạp chí
Kinh tế và phát triển, (142), tr.36-42.
156
50. Trần Thị Vân Nương (2013), “Phân công lao động theo giới trong gia
đình: cách nhìn mới cho một chủ đề cũ”, Tạp chí Nghiên cứu giới và
gia đình, (3).
51. Oxfarm actionaid, Oisee, Caritas (2010), Báo cáo hiện trạng bất bình
đẳng giới trong cộng đồng người dân tộc thiểu số.
52. Oxfarm - Actionad (2013), Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng
dân tộc thiểu số điển hình ở Việt Nam.
53. Lò Giàng Páo (2010), Điều tra, đánh giá tăng trưởng và giảm nghèo ở một
số vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
54. Lò Giàng Páo (2010), Điều tra đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội tuyến
biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Báo cáo dự án điều tra cấp bộ, Ủy
ban dân tộc, Hà Nội.
55. Nguyễn Hồng Quang (2003), “Gia đình DTTS và lao động trẻ em”, Xã
hội học, số 1 (81), tr.41-50.
56. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Bình
đẳng giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đất
đai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn
nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Lê Thị Quý (2004), “Vấn đề giới trong các dân tộc ít người ở Sơn La -
Lai Châu hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 1 (85).
60. Lê Thị Quý (2013), “Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, (2).
61. Quỹ Health Bridege Canada - Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (2007),
Women’s Economic Contribution through their Unpaid Work in
Vietnam (Đóng góp kinh tế của phụ nữ thông qua công việc nhà).
62. Roberta Satow (2001), Gender and social life (Giới và đời sống xã hội),
Nxb Allyn and Bacon, Boston.
157
63. Nguyễn Thị Thanh Tâm và nhóm nghiên cứu (2005), Thu nhập, việc
làm và địa vị của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường - những phân tích qua lăng kính giới (nghiên cứu
trường hợp Lào Cai và Lạng Sơn), Viện Gia đình và giới, Hà Nội.
64. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Lê Việt Nga và Phan Thị Thanh Mai (2007),
Một số vấn đề giới của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, Viện
Gia đình và giới, Hà Nội.
65. Lê Ngọc Thắng (1998), “Phụ nữ dân tộc và miền núi trong đời sống
kinh tế - văn hóa các dân tộc”,Tạp chí Cộng sản, (539).
66. Lê Ngọc Thắng (2001), “Mấy vấn đề về sự phát triển của phụ nữ
Hmông (từ thực tiễn ở Mộc Châu, Sơn La và Quản Bạ, Hà Giang)”,
Tạp chí Dân tộc học, (1).
67. Lê Thi (1996), Gia đình Việt Nam ngày nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
68. Lê Thi (1998), Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
69. Nguyễn Thị Phương Thủy (2014), Gia đình và giáo dục gia đình, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Tổng cục Thống kê (2011), kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp
và thủy sản năm 2011, Nxb Thống kê, Hà Nội.
71. Tổng cục Thống kê (2012), Điều tra mức sống, Hà Nội.
72. Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê, Hà Nội.
73. Tổng cục Thống kê (2013), Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa
gia đình thời điểm 1/4/2013, Hà Nội.
74. Tổng cục Thống Kê (2014), Kết quả chủ yếu Điều tra dân số và nhà ở
giữa kỳ thời điểm 1/4/2014, Hà Nội.
75. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê tóm tắt 2014, Hà Nội.
76. Tổng cục Thống kê, UNICEF (2015), Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ
em và phụ nữ Việt Nam 2014, Báo cáo cuối cùng, Hà Nội.
158
77. Nguyễn Thị Mỹ Trang, Nguyễn Lê Tâm (2007), “Quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ”, Tạp chí Giáo dục lý luận,
(5), tr.7-11.
78. Trương Thu Trang (2008), “Những yếu tố ảnh hưởng đến BĐG trong
phân công thực hiện công việc nội trợ giữa vợ và chồng”, Tạp chí
Thông tin khoa học xã hội, (4).
79. Trung tâm Nghiên cứu gia đình và phụ nữ (1998 - 2000), Điều tra cơ
bản về gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Nội.
80. Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2008), Khoa học giới -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận - Hành chính, Hà Nội.
81. UN (2002), Tóm tắt tình hình giới.
82. UN (2009), Báo cáo tiến độ thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ,
xóa bỏ khoảng cách thiên niên kỷ.
83. UNDP (2010), Human Development Report 2010 (Báo cáo phát triển con
người 2010).
84. UNDP (2013), Thewomen’s access to land in contemporary Viet Nam
(Tiếp cận đất đai của phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện nay).
85. UN Women (2010), Pháp luật của chúng ta có thúc đẩy bình đẳng giới,
Sổ tay nghiên cứu rà soát pháp luật dựa trên công ước CEDAW, (Dịch
ra tiếng Việt: Hà Ngọc Anh), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
86. UN Women (2011), Thúc đẩy quyền của phụ nữ tại Việt Nam.
87. UN Women (2012), Những phát hiện chính từ Báo cáo An sinh xã hội
cho phụ nữ và trẻ em gái ở Việt Nam.
88. UN Womem (2015), Tóm tắt tình hình phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số.
89. Ủy ban dân tộc (2011), Nghèo của DTTS ở Việt Nam - thực trạng và
thách thức ở các xã thuộc Chương trình 135 - II, Hà Nội.
90. Ủy ban Dân tộc (2012), Báo cáo nghiên cứu thực trạng quản lý và sử
dụng đất đai ở vùng dân tộc và miền núi, Hà Nội.
159
91. Ủy ban dân tộc (2013), Báo cáo đánh giá và triển khai thực hiện chính
sách dân tộc và miền núi, Hà Nội.
92. Ủy ban Dân tộc (2014), Đề án giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân
cận huyết thống trong đồng bào DTTS (dự thảo), Hà Nội.
93. Ủy ban Dân tộc (2015), Kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân
tộc thiểu số năm 2015, Hà Nội.
94. Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (2004), Hướng dẫn lồng
ghép giới trong hoạch định và thực thi chính sách, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
95. Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ (2010), Chiến lược quốc gia vì sự
tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
96. Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) (2010), Báo cáo
đánh giá tiếp cận và sử dụng các dịch vụ pháp lý của phụ nữ dân tộc
thiểu số, Hà Nội.
97. Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) (2010), Giới,
tăng quyền và phát triển: quan hệ giới từ góc nhìn của người dân tộc
thiểu số, Hà Nội.
98. Word Bank (2009), Country Social Analysis - Ethnic and Development in
Viet Nam (Phân tích xã hội về tộc người và phát triển ở Việt Nam.
99. Word Bank (2011), Gender Assessment in Viet Nam (đánh giá Giới tại
Việt Nam).
100. Word Bank (2012), TheWord Development Report 2012: Gender Equality
and Development (Báo cáo phát triển thế giới: BĐG và phát triển).
160
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
PHIẾU HỎI
Kính thưa Ông (bà) !
Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện BĐG trong gia
đình dân tộc thiểu, chúng tôi triển khai đề tài: Bình đẳng giới trong lao động
gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam
Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi xin trân trọng kính
nhờ ông, bà giúp đỡ cung cấp thông tin bằng cách hoàn thành phiếu hỏi này.
Sự giúp đỡ của ông bà sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công
đề tài nghiên cứu nói trên.
Việc cung cấp thông tin này là hoàn toàn tự nguyện. Vì vậy, chỉ xin
ông, bà vui lòng trả lời câu hỏi mà không cần ghi tên. Xin trân trọng cảm ơn
ông, bà đã giành thời gian giúp đỡ chúng tôi hoàn thành phiếu trưng cầu ý
kiến này.
Câu 1: Ông/bà có biết về Luật BĐG không? (khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Có 2. Không
Câu 2: Ông/bà có cho rằng cả hai vợ chồng phải làm các công việc
như nhau mới là bình đẳng không? (khoanh tròn 1 lựa chọn).
1. Rất đồng ý 2. Đồng ý 5. Ý khác
3. Không đồng ý 4. Khó trả lời
161
Câu 3: Trong gia đình ông/bà ai là người làm chính các công việc
sau đây (Tích dấu X vào lựa chọn)
Người làm chính
Công việc
Vợ Chồng
Cả hai
vợ chồng
Người
khác
Cầy bừa
Gieo trồng, cấy
Chăm sóc, làm vườn
Phun thuốc sâu
Thu hoạch
Bảo quản sản phẩm
Chăm sóc gia súc, gia cầm
Làm chuồng nuôi gia súc
Bán sản phẩm (nông sản, thủ công)
Dệt
Rèn
Làm thuê
Câu 4: Theo ông/bà việc sản xuất do nam giới đảm nhận đem lại lợi
ích kinh tế lớn hơn so với nữ giới? (khoanh tròn lựa chọn)
1. Đồng ý 2. Không đồng ý
Câu 5: Trong gia đình ông/bà ai là người thường xuyên làm những
công việc sau?(Tích dấu X vào lựa chọn)
Người làm chính
Công việc
Vợ Chồng
Cả hai vợ
chồng
Như nhau
Nấu ăn
Giặt giũ
Đi chợ
Giữ tiền
Chăm sóc, dạy bảo con
Chăm sóc người già
Lấy nước
Giã gạo
Thu lượm chất đốt
Sửa chữa đồ dùng
162
Câu 6: Ông/bà có thể cho biết, trong gia đình ông/bà ai là người
tham gia các hoạt động cộng đồng dưới đây? (Tích dấu X vào lựa chọn)
Các công việc cộng đồng Vợ Chồng Cả hai Người khác
Dự đám hiếu/ hỉ
Giao tiếp với chính quyền
Họp thôn bản
Tiếp khách
Làm vệ sinh làng, xóm
Cũng giỗ của làng
Câu 7: Theo ý kiến của ông/bà, sự phân công giữa vợ và chồng
trong hoạt động sản xuất trong gia đình như hiện nay có hợp lý không?
(khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Rất hợp lý2. Hợp lý3. Chưa hợp lý, cần thay đổi
Câu 8: Theo ý kiến của ông/bà, sự phân công giữa vợ và chồng
trong công việc nội trợ của gia đình như hiện nay có hợp lý không?
(khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Rất hợp lý2. Hợp lý3. Chưa hợp lý, cần thay đổi
Câu 9: Theo ý kiến của ông/bà, sự phân công giữa vợ và chồng
trong việc tham gia hoạt động cộng đồng như hiện nay có hợp lý không?
(khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Rất hợp lý2. Hợp lý3. Chưa hợp lý, cần thay đổi
Câu 10: Trong hoạt động sản xuất, gia đình ông bà có sử dụng các
loại máy móc nào? (Khoanh các máy móc có dùng)
1. Máy cày 2. Máy bừa 3.Máy xát 4. Máy tẽ ngô
Câu 11: Trong gia đình ông (bà) ai là người đứng tên giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà đất(tích X vào 1 lựa chọn).
Người đứng tên
Loại hình giấy tờ
Vợ Chồng Cả hai Người khác
Giấy sở hữu nhà đất
163
Câu 12: Trong gia đình ông (bà) hiện nay, ai là người sử dụng biện
pháp tránh thai? (khoanh tròn lựa chọn)
1. Vợ 2. Chồng
Câu 13: Theo ông/bà, vợ hay chồng sử dụng biện pháp tránh thai
sẽ tốt hơn? (khoanh tròn lựa chọn)
1. Vợ 2. Chồng
Câu 14: Trong gia đình ông/bà ai là người quyết định trong sản
xuất và đời sống? (tích dấu X vào lựa chọn)
Quyết định Vợ Chồng Cả hai Người khác
Sử dụng vốn
Chuyển hướng SX
Chi tiêu hàng ngày (gạo, thực phẩm)
Mua sắm đồ đắt tiền
Học hành của con cái
Xây sửa nhà cửa
Số con
Câu 15: Trong 12 tháng qua ông/bà có vay tiền để làm ăn không?
(Khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Có 2. Không
Câu 16: Nếu gia đình có nhu cầu vay vốn bên ngoài, ai là người đi
vay? (khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Vợ 2. Chồng 3. Cả hai vợ chồng
Câu 17: Ông/bà từng tham gia khóa tập huấn về khuyến nông nào
chưa?(khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Có 2. Không
Câu 18: Khi có giấy mời tham dự lớp tập huấn khuyến nông, trong gia
đình ông/bà ai là người thường xuyên tham gia? (khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Vợ 2. Chồng 3. Người khác
164
Câu 19: Khi gia đình ông/bà được mời họp đại diện tại xã ai là
người trong gia đình thường xuyên tham gia? (tích dấu X vào lựa chọn)
Mức độ
Người tham gia
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Không
bao giờ
Ý kiến khác
Phụ nữ
Nam giới
Câu 20: Trong cuộc họp mà ông/bà thường xuyên tham dự, ông bà
có: (khoanh tròn 1 lựa chọn)
1.Tham gia phát biểu ý kiến
2. Im lặng lắng nghe
3.Không quan tâm tới nội dung cuộc họp
Câu 21: Ông/bà dự định chia tài sản cho con sau này thế nào?
(khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Chỉ chia cho con trai 3. Chia đều cho các con
2. Chỉ chia cho con gái 4. Chia cho con trai nhiều hơn
Câu 22: ông/bà có nhận xét gì về mối quan hệ nam nữ trong gia
đình dân tộc mình hiện nay? (khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Rất bình đẳng 4. Rất không bình đẳng
2. Bình đẳng 5. Không trả lời
3. Chưa bình đẳng
Câu 23: Ông/bàdự định đầu tư cho con trai và con gái học hết bậc
học nào sau đây? (Tích X vào lựa chọn)
Giới tính Tiểu học
Trung học
cơ sở
Trung học
phổ thông
Đại học
Con trai
Con gái
165
Câu 24: Quan niệm truyền thống cho rằng “con gái không cần học
cao”. Theo ông/bà quan niệm trên có còn phù hợp trong xã hội hiện nay
không? (Khoanh tròn lựa chọn)
1. Phù hợp 2. Phù hợp một phần 3.Không phù hợp
Câu 25: Nếu gia đình gặp khó khăn, ông/bà ưu tiên cho con nào
được đi học trước? (Khoanh tròn lựa chọn)
1. Con trai 2. Con gái
Câu 26: Thời gian rỗi ông/bà thường tham gia những hoạt động
nào sau đây? (Tích X vào lựa chọn)
Mức độ
Các dạng hoạt động
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Hiếm khi
Không
bao giờ
Nghỉ ngơi ở nhà
Đi chơi bản/xóm
Đọc sách báo
Nghe đài/ xem tivi
Chơi thể thao
Trông con
Dọn dẹp nhà cửa
Thêu thùa, may thổ cẩm
Câu 27: Trong 12 tháng qua, ông/bà có đi khám bệnh không?
(Khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Có 2. Không
Câu 28: Ông/bà thường đi khám bệnh ở đâu? (Khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Cơ sở y tế ở bản 2. Tại huyện
3. Tỉnh 4. Trung ương
Thông tin chung về bản thân Ông/ Bà:
a. Giới tính:
b. Dân tộc: Tôn giáo:
c. Tuổi:
d. Trình độ học vấn:
e. Công việc chính:
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà
166
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Vai trò của vợ và chồng trong sản xuất nông nghiệp xét theo tương quan dân tộc
Người tham gia
Loại hình công việc
Vợ Chồng Cả hai Người khác
Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ
Cày bừa 3,3 3,4 7,6 7,9 60,5 60,1 56,9 56,6 30,9 30,4 29,4 30,3 5,3 6,1 6,2 5,3
Gieo trồng, cấy 33,6 34,5 37,5 36,8 16,4 16,9 15,0 13,2 46,7 45,9 44,4 44,7 3,2 2,7 3,1 5,3
Chăm sóc, làm vườn 45,4 45,3 47,5 50,0 20,4 19,6 18,8 17,1 29,6 29,1 28,1 27,6 4,6 6,1 5,6 5,2
Phun thuốc sâu 11,2 10,8 16,3 14,5 60,5 60,2 56,2 55,3 18,4 18,2 16,9 17,1 9,9 10,8 10,6 13,1
Thu hoạch 32,9 32,4 34,4 35,5 18,4 18,2 16,9 15,8 42,8 42,6 41,3 39,5 5,9 6,8 7,5 9,2
Bảo quản 19,1 19,6 20,6 22,4 7,9 7,4 6,9 6,6 69,7 69,6 67,5 67,1 3,3 3,4 5,0 3,9
Làm chuồng 5,2 4,7 9,4 6,6 62,5 62,8 58,7 60,5 30,9 30,4 30,0 28,9 1,3 2,0 1,9 3,9
Chăm sóc gia súc 26,3 26,3 28,1 28,9 16,4 16,2 15,0 11,8 51,3 51,4 49,4 47,4 5,9 6,1 7,5 11,8
Bán sản phẩm 39,5 39,9 40,6 43,4 36,2 35,8 34,4 35,5 20,4 20,3 18,8 17,1 3,9 4,1 6,3 3,9
Dệt 59,2 60,1 67,5 50,0 7,2 6,8 6,3 5,3 14,5 14,2 12,5 9,2 19,1 18,9 13,8 35,5
Rèn 3,2 4,1 4,4 1,3 72,4 72,3 76,9 82,9 12,5 12,2 10,6 10,5 11,9 11,5 8,1 5,3
Làm thuê 18,4 18,2 17,5 15,8 36,8 37,2 38,8 38,2 32,9 32,4 30,6 30,3 11,8 12,2 13,1 15,7
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
167
Phụ lục 2
Người đứng tên quyền sở hữu nhà đất
Vợ Chồng Cả hai Người khác Người đứng tên
Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
Tổng chung (536) 48 9,0 405 75,5 74 13,8 9 1,7
Thái 16 10,5 113 74,3 22 14,5 1 0,7
Tày 15 10,1 111 75,0 21 14,2 1 0,7
Mông 13 8,1 123 76,9 21 13,1 3 1,9
La Hủ 4 5,3 58 76,2 10 13,2 4 5,3
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Phụ lục 3
Người đi vay vốn
Vợ Chồng Cả hai Người đi vay
Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL%
Tổng chung (536) 110 20,5 212 39,6 214 39,9
Thái 32 21,1 59 38,8 61 40,1
Tày 31 21,0 57 38,5 60 40,5
Mông 32 20,0 65 40,6 63 39,4
La Hủ 15 19,7 31 40,8 30 39,5
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
168
Phụ lục 4
Người quyết định trong chuyển hướng sản xuất
Vợ Chồng Cả hai Người khác Người quyết định
Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
Tổng chung (536) 110 20,5 184 34,3 217 40,5 25 4,7
Thái 35 23,0 45 29,6 65 42,7 7 4,7
Tày 33 22,3 47 31,8 60 40,5 8 5,4
Mông 30 18,7 60 37,5 62 38,8 8 5,0
La Hủ 12 15,8 32 42,1 30 39,5 2 2,6
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Phụ lục 5
Dự kiến chia tài sản thừa kế
Chỉ chia cho con trai Chỉ chia cho con gái Chia bằng nhau
Chia cho con trai
nhiều hơn
Chia tài sản
Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
Tổng chung (536) 340 63,4 12 2,2 75 13,9 109 20,5
Thái 95 62,5 5 3,3 22 14,5 30 19,7
Tày 93 62,8 4 2,7 21 14,2 30 20,3
Mông 103 64,3 2 1,3 22 13,8 33 20,6
La Hủ 49 64,5 1 1,3 10 13,1 16 21,1
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
169
Phụ lục 6
Mức độ tham gia của vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất xét theo tương quan dân tộc
Người tham gia
Loại hình
công việc
Vợ Chồng Cả hai Người khác
Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ
Nấu ăn 64,5 64,9 68,8 69,7 8,6 8,8 6,3 2,6 17,1 16,9 15,6 14,5 9,8 9,4 9,3 13,1
Giặt giũ 65,1 67,6 68,8 68,4 6,6 6,1 4,4 3,9 22,4 22,3 18,1 17,1 5,9 4,0 8,7 10,5
Đi chợ 74,3 75 77,5 77,6 5,9 5,4 5,0 4,0 17,2 16,9 14,4 11,8 2,6 2,7 3,1 6,5
Giữ tiền 73,0 74,3 68,8 73,7 13,8 12,1 18,8 14,5 12,5 12,8 11,3 11,8 0,7 0,7 1,2 0,0
Chăm sóc và dạy con 38,2 38,5 41,3 46,1 5,9 5,4 4,4 2,6 53,3 52,7 51,3 50,0 2,6 3,4 3,0 1,3
Chăm sóc người già 27,6 27,7 29,4 30,3 15,8 15,5 13,1 14,5 53,3 52,7 51,3 50,0 3,3 4,1 6,3 5,2
Lấy nước 79,6 81,1 82,5 84,2 5,9 5,4 3,8 2,6 12,5 12,1 10,0 10,5 1,9 1,4 3,7 2,7
Giã gạo 38,8 39,2 41,3 43,4 13,2 12,8 11,9 11,8 43,4 43,2 41,3 39,5 4,6 4,7 5,6 5,3
Thu lượm chất đốt 58,6 59,5 61,3 63,2 5,3 4,7 3,8 3,9 29,6 29,1 27,5 27,6 6,6 6,8 7,5 5,3
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
170
Phụ lục 7
Người quyết định trong gia đình
Chồng Vợ Cả hai Người khác Tổng Người quyết định
Việc SL TL SL TL SL TL SL TL SL
Mua sắm đồ đắt tiền 185 34,5 79 14,7 262 48,9 10 1,9 536
Xây sửa nhà cửa 185 34,5 68 12,7 273 51,0 10 1,8 536
Việc học hành của con 128 23,9 110 20,5 293 54,7 5 0,9 536
Đi chợ 38 7,1 211 39,4 278 51,9 9 1,6 536
Số con 264 49,3 82 15,3 180 33,6 10 1,9 536
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
171
Phụ lục 8
Người quyết định trong gia đình theo tương quan dân tộc
Người quyết định
Loại hình công việc
Vợ Chồng Cả hai Người khác
Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ
Mua sắm đồ đắt tiền 15,8 15,5 13,8 13,2 33,6 33,8 33,8 39,5 50,0 49,3 48,1 47,4 0,7 1,4 4,3 0,0
Xây dựng nhà cửa 13,8 13,5 11,9 10,5 33,6 33,8 33,8 39,5 52,0 51,4 50,0 50,0 0,7 1,4 4,4 0,0
Việc học hành của con cái 21,1 20,9 20,0 19,7 23,0 23,0 24,4 26,3 55,3 54,7 54,4 54,0 0,7 1,4 1,3 0,0
Số con 16,4 16,2 14,4 13,2 48,0 48,6 50,0 51,3 34,9 34,5 32,5 31,6 0,7 0,7 3,1 3,9
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Phụ lục 9
Các hoạt động ngoài thời gian sản xuất
Vợ (268) Chồng (268) Dân tộc
Hoạt động Thái Tày Mông La hủ chung Thái Tày Mông La Hủ Chung
Nghỉ ngơi ở nhà 78,7 78,4 75,0 73,5 77,0 82,9 82,4 82,5 84,2 82,8
Đi chơi bản/xóm 48,7 48,6 46,3 44,7 47,4 55,3 55,4 56,3 57,9 55,9
Đọc sách/ báo 7,9 8,1 2,5 2,6 5,6 28,9 28,4 22,5 18,4 25,4
Nghe đài/ xem tivi 38,2 37,8 33,8 28,9 35,4 39,5 39,2 35 34,2 37,5
Chơi thể thao 2,6 1,4 1,3 2,6 1,9 6.6 6,8 6.3 5,3 6,3
Trông con 40,8 41,9 45,0 50,0 43,7 23,7 23,0 21,3 21,1 22,4
Dọn dẹp nhà cửa 65,8 67,6 70,0 73,7 68,7 28,9 28,4 26,3 26,3 27,6
Thuê thùa, may thổ cẩm 47,4 41,9 47,5 44,7 45,5 3,9 2,7 2,5 2,6 3,0
Bán hàng, làm thuê 19,7 24,3 23,8 21,1 22,4 7,9 12,2 12,5 5,3 10,1
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
172
Phụ lục 10
Người đại diện cho gia đình tham gia hoạt động cộng đồng xét theo tương quan dân tộc
Người tham gia
Loại hình công việc
Vợ Chồng Cả hai Người khác
Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ
Dự đám hiếu hỉ 17,1 16,9 15,6 15,8 34,9 35,1 35,6 35,5 46,1 45,9 43,1 42,1 2,0 2,0 5,6 6,6
Giao tiếp với chính quyền 22,4 21,6 19,4 19,7 46,1 46,6 48,1 51,3 30,3 29,7 28,8 28,9 1,3 2,0 3,8 0,0
Họp bản làng 21,1 20,9 19,4 19,7 45,4 45,3 46,9 48,7 32,2 32,4 31,3 30,3 1,3 1,4 2,5 1,3
Tiếp khách 23,0 22,9 21,9 21,1 36,8 37,2 38,8 42,1 38,8 37,8 37,5 35,5 1,3 2,0 1,9 1,3
Làm vệ sinh làng, xóm 28,9 28,4 30,0 32,9 22,4 22,3 20,6 18,4 39,5 39,2 37,5 34,2 9,2 10,1 11,9 14,5
Cúng giỗ làng 3,3 2,7 2,5 1,3 57,9 58,1 58,8 59,2 38,2 37,8 36,9 36,8 0,7 1,3 1,9 2,6
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Phụ lục 11
Tham gia tập huấn của nam/ nữ theo các nội dung
Vợ Chồng Cả hai
Các lớp tập huấn
SL (%) TL (%) SL (%) TL (%) SL (%) TL (%)
Kỹ thuật nông lâm 122 22,8 217 40,5 197 36,7
Công tác dân số 233 43,5 121 22,6 182 33,9
Chăm sóc sức khỏe 245 45,7 126 23,6 165 30,7
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
173
Phụ lục 12
Tham gia tập huấn xét theo tương quan dân tộc
Người tham gia Vợ Chồng Cả hai
Dân tộc
Lớp tập huấn
Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ
Kỹ thuật nông lâm 23,7 23,6 21,9 21,1 38,8 39,2 41,9 43,4 37,5 37,2 36,3 35,5
Công tác dân số 42,8 42,6 44,4 44,7 23,0 23,0 21,9 22,4 34,2 34,4 33,7 32,8
Chăm sóc sức khỏe 44,1 43,9 46,9 50,0 24,3 24,3 22,5 22,4 31,6 31,7 30,6 27,6
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án