ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG
BIỂU TƯỢNG ĐÁ
TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HUẾ - NĂM 2016
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG
BIỂU TƯỢNG ĐÁ
TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Trần Thị An
2. TS. Hà Ngọc Hòa
HUẾ - NĂM 2016
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thà
177 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Luận án Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh được luận án này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ vô cùng quý báu
của nhiều tập thể và cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS. Trần Thị An và TS. Hà Ngọc Hòa
đã tận tình hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận án
trong điều kiện tốt nhất có thể.
Xin trân trọng cảm ơn Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
đã quan tâm, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp,
những người đã luôn động viên, khuyến khích giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực
hiện luận án.
Tác giả
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao. Các tài liệu tham
khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công
trình nghiên cứu của mình.
Huế, tháng 11 năm 2016
Tác giả
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................. 2
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 2
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu .................................................................. 3
5. Đóng góp khoa học của luận án ................................................................................... 5
6. Bố cục luận án ................................................................................................................ 5
NỘI DUNG ......................................................................................................................... 7
Chương 1. LÝ THUYẾT BIỂU TƯỢNG VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU ........................................................................................................ 7
1.1. Lý thuyết biểu tượng và nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng 7
1.1.1. Lý thuyết biểu tượng ....................................................................................... 7
1.1.2. Nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng .................................. 12
1.2. Các công trình nghiên cứu đá ở Việt Nam ...................................................... 17
1.2.1. Công trình về tín ngưỡng thờ đá ................................................................... 17
1.2.2. Công trình nghiên cứu Đá với tư cách biểu tượng........................................ 19
1.2.3. Công trình nghiên cứu motif Đá trong truyện kể dân gian Việt Nam (thần
thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích) ........................................................................ 23
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài ............................... 24
1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu ...................................................................... 24
1.3.2. Hướng triển khai đề tài ................................................................................. 24
Chương 2. BIỂU TƯỢNG ĐÁ VÀ HỆ THỐNG NGHĨA CỦA BIỂU TƯỢNG
ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM ......................................... 26
2.1. Biểu tượng đá và các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa thế giới và
Việt Nam ..................................................................................................................... 26
2.1.1. Biểu tượng đá và các hướng tiếp cận biểu tượng đá ở Việt Nam.................... 26
2.1.2. Các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa thế giới và Việt Nam qua
các công trình nghiên cứu ........................................................................................... 32
2.2. Các lớp nghĩa tiêu biểu của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian
Việt Nam ................................................................................................................. 38
2.2.1. Sự sống trong trạng thái tĩnh ......................................................................... 38
2.2.2. Sự tái sinh trong ngưỡng vọng ...................................................................... 45
2.2.3. Sự hiện diện của thần linh ............................................................................. 55
2.2.4. Ý niệm chuyển vị .......................................................................................... 63
Chương 3. CẤU TRÚC TRẦN THUẬT CỦA DẠNG TRUYỆN KỂ SỬ
DỤNG BIỂU TƯỢNG ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN
VIỆT NAM ............................................................................................................ 70
3.1. Đá trong giấc mơ điềm báo của truyền thuyết dân gian Việt Nam ................. 70
3.1.1. Đá là phần thưởng cho việc tu thân tích đức ................................................ 71
3.1.2. Đá là hiện thân của nhân vật lịch sử trong giấc mơ điềm báo ...................... 76
3.2. Đá trong motif hiển linh của truyền thuyết dân gian Việt Nam .......................... 85
3.2.1. Đá và sự hiển linh của nhân thần .................................................................. 85
3.2.2. Đá và sự hiển linh của nhiên thần ................................................................. 92
3.2.3. Đá – thành tố cấu tạo nên không gian tâm linh ............................................ 96
Chương 4. BIỂU TƯỢNG ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ TÍN
NGƯỠNG DÂN GIAN: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP THAI DƯƠNG
PHU NHÂN VÀ KỲ THẠCH PHU NHÂN ............................................................... 104
4.1. Văn bản và cấu trúc văn bản của truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và
Kỳ Thạch phu nhân ............................................................................................... 105
4.1.1. Truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân nhìn từ
văn bản .................................................................................................................. 106
4.1.2. Truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân nhìn từ
cấu trúc văn bản .................................................................................................... 112
4.2. Biểu tượng đá trong truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch
phu nhân trong mối quan hệ với tín ngưỡng dân gian Chăm ............................... 117
4.2.1. Tín ngưỡng thờ đá ....................................................................................... 119
4.2.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu ................................................................................... 125
4.3. Biểu tượng đá trong truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch
phu nhân trong mối quan hệ với tục thờ đá tại đền Thai Dương phu nhân và
miếu Kỳ Thạch phu nhân ...................................................................................... 130
4.3.1. Hình thức đá thờ ......................................................................................... 131
4.3.2. Hình thức thờ cúng ..................................................................................... 135
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 140
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ .............................. 143
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 144
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đá là sự vật gắn kết với loài người từ thuở hồng hoang bởi con người trú thân
trong hang đá, mượn cạnh sắc của đá để làm công cụ săn bắt, nhờ cái cứng rắn của
đá mà tạo ra lửa sưởi ấm và nấu chín thức ăn, Ngay cả khi con người trở về với
đất, đá là một trong những lựa chọn đầy tin cậy để gởi gắm thể xác hay làm vật
đồng hành trên con đường đến cõi khác. Con người tìm thấy sự an nhiên và sức
mạnh của mình từ đá nên như một điều hiển nhiên, con người tin và thờ phụng vị
thần đá. Có thể nói chính sự gắn bó mật thiết này đã phần nào lý giải vai trò của tục
thờ đá trong đời sống của con người.
Trong văn học dân gian Việt Nam, truyền thuyết là thể loại có sự liên kết chặt
chẽ với những biến thiên lịch sử của dân tộc, đồng thời thể hiện rõ nét nhất cảm
quan lịch sử của người nghệ sĩ dân gian. Bằng khả năng tích hợp nhiều lớp nghĩa
một cách hiệu quả trong chiều dài thời gian lịch sử, biểu tượng đá có mối liên hệ
chặt chẽ với nội dung và nghệ thuật trần thuật của thể loại truyền thuyết. Thông qua
việc lưu giữ biểu tượng đá, tục thờ cúng đá cùng các dạng thức của đá, truyền
thuyết Việt Nam đã lưu lại dấu ấn của sự giao thoa tín ngưỡng, văn hóa ở Việt Nam
và sức mạnh của nhân vật lịch sử, của cộng đồng dân tộc.
Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, có hai truyền thuyết thể hiện những lớp
nghĩa đặc biệt của biểu tượng đá là Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân.
Trong luận án này, sau khi phân tích các vấn đề lý thuyết, chúng tôi lựa chọn
nghiên cứu trường hợp hai truyền thuyết trên bởi các lý do sau: a) Với đặc trưng
của mình, hai truyền thuyết đã phản ánh những biến chuyển về lịch sử và văn
hóa, tín ngưỡng của vùng đất Thừa Thiên Huế, nơi có sự xếp chồng các lớp văn
hóa (Việt, Chăm); b) Đây là những truyền thuyết được ghi chép vào các thư tịch
khá sớm và vẫn đang “sống” tại địa phương với nhiều dị bản; c) Hai truyền
thuyết này có mối quan hệ chặt chẽ với tín ngưỡng dân gian thông qua sự hiện
diện của đền/ miếu và hình thức thờ cúng. Vì vậy, tính đa nghĩa và sợi dây liên
kết của biểu tượng đá từ truyền thuyết đến tín ngưỡng, văn hóa trong Thai
Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân là tương đối dễ nhận ra. Là người đang
2
giảng dạy văn học dân gian tại trường đại học ở Huế, việc nghiên cứu biểu tượng
đá qua hai trường hợp trên không chỉ thuận lợi trong quá trình điền dã cho chúng
tôi mà thông qua việc khảo sát và nghiên cứu trường hợp văn hóa dân gian tại
địa phương, chúng tôi còn có thể mở rộng hiểu biết về văn học dân gian, lịch sử
và văn hóa Thừa Thiên Huế.
Từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài Biểu tượng đá trong truyền thuyết
dân gian Việt Nam để nghiên cứu trong luận án. Chúng tôi hi vọng luận án mang
lại những kiến giải mới về biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam và
đóng góp vào khuynh hướng nghiên cứu các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn
học/ văn hóa dân gian của người Việt.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam đặt mục tiêu
giải mã những lớp nghĩa của biểu tượng đá trong các bản kể truyền thuyết và trong
trầm tích văn hóa của tín ngưỡng dân gian Việt Nam; từ đó, có thể hiểu sâu hơn về
các vấn đề bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa - xã hội qua các giai đoạn lịch sử.
Mục tiêu cụ thể:
- Từ hệ thống phân loại, phân tích các lớp nghĩa của đá để cho thấy sự biến
thiên của biểu tượng đá trong truyền thuyết.
- Đặt biểu tượng đá và nhân vật truyền thuyết trong trường so sánh nhằm đánh
giá vai trò của biểu tượng đá trong quá trình khám phá, nhận diện sức mạnh của
nhân vật lịch sử, của cộng đồng dân tộc.
- Thông qua hoạt động điền dã tại di tích và khảo sát văn bản hai trường
hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân, phân tích làm rõ lớp trầm tích
văn hóa, tín ngưỡng trong biểu tượng đá, xem xét những biến chuyển của tục thờ
đá trong đời sống tâm linh của người dân Việt, cũng như mối quan hệ giữa tín
ngưỡng của người Việt và tín ngưỡng của các dân tộc tiền trú trên mảnh đất
Thừa Thiên Huế.
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Biểu tượng đá
Phạm vi nghiên cứu: Truyền thuyết dân gian Việt Nam
Phạm vi tư liệu được sử dụng chủ yếu để tiến hành nghiên cứu là Tổng tập
3
văn học dân gian người Việt (tập 4 và tập 5: Truyền thuyết) do Kiều Thu Hoạch
chủ biên, xuất bản năm 2004. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng thêm Tổng tập văn
học các dân tộc thiểu số Việt Nam (tập 16: truyện cổ tích thần kỳ, truyền thuyết)
do Nguyễn Thị Yên chủ biên (2009) để hỗ trợ phần tư liệu về truyền thuyết các
dân tộc thiểu số.
- Về truyền thuyết Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân: Phạm vi
tư liệu được sử dụng chủ yếu để tiến hành nghiên cứu, ngoài các bộ tổng tập
trên, là Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế do Tôn Thất Bình chủ biên (1998),
Tổng tập văn học dân gian xứ Huế (tập 1) do Triều Nguyên sưu tầm, biên soạn
(2010), Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế do Lê Văn Chưởng sưu tầm,
biên soạn (2010),
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Thống kê sự xuất hiện của đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, từ đó
phân loại theo các lớp nghĩa. Nói một cách khác, trên cơ sở thống kê, luận án sẽ đi
sâu phân tích, tổng hợp để khẳng định những giá trị của biểu tượng đá nói riêng và
truyền thuyết dân gian Việt Nam nói chung.
- Phân tích cấu trúc trần thuật của truyện kể có sử dụng biểu tượng đá trong
truyền thuyết dân gian Việt Nam. Thao tác này góp phần làm rõ vai trò của biểu
tượng, đồng thời mở ra những lớp nghĩa lớn hơn của biểu tượng đá trong truyền
thuyết dân gian.
- Nghiên cứu hai trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân để
minh chứng cho mối quan hệ của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt
Nam với tín ngưỡng dân gian.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận
Đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam là một biểu tượng mang tính tích
hợp nhiều lớp nghĩa văn hóa, tín ngưỡng nên trong luận án, chúng tôi đặt biểu
tượng đá trong mối liên hệ mật thiết với văn hóa, nhân học, dân tộc học, Để thực
hiện đề tài luận án, chúng tôi sử dụng các cách tiếp cận sau đây:
- Cách tiếp cận văn học dân gian: Từ việc tập hợp truyền thuyết dân gian về đá
trong thư tịch và quá trình điền dã, chúng tôi tiến hành phân tích các truyền thuyết từ
4
hai góc độ: thứ nhất là hệ thống nghĩa và thứ hai là cấu trúc văn bản. Hai vấn đề này
là nội dung chính của luận án được thể hiện trong chương 2 và chương 3.
- Cách tiếp cận văn hóa học: Trên cơ sở khảo sát những dị bản đang được lưu
truyền của hai trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân, chúng tôi
soi chiếu biểu tượng đá trong truyền thuyết từ góc độ tín ngưỡng, cụ thể là tục thờ
đá và tín ngưỡng thờ mẫu. Trên cơ sở đó, luận án chỉ ra một cách rõ ràng nhất giá
trị biểu tượng văn hóa của đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam.
- Cách tiếp cận nhân học: Để thực hiện luận án, chúng tôi tiến hành điều
tra, khảo sát hiện tượng văn hóa dân gian trong đời sống thông qua di tích và
hình thức thờ cúng tại đền Thai Dương phu nhân, miếu Kì Thạch phu nhân. Với
cách tiếp cận này, luận án hy vọng làm rõ mối quan hệ giữa đá của truyền thuyết
và tín ngưỡng thờ đá ở hai trường hợp trên. Đồng thời, công tác điều tra, khảo
sát giúp chúng tôi xác định được vai trò và những biến chuyển của tục thờ đá ở
các di tích.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích tài liệu thứ cấp: Từ văn bản truyền thuyết dân gian đã được sưu
tầm, biên soạn và số liệu thống kê trong nghiên cứu của người đi trước, phương
pháp phân tích giúp chúng tôi xác định các hướng tiếp cận phù hợp với đề tài.
- Điền dã: Đối với hai trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu
nhân, phương pháp điền dã hỗ trợ chúng tôi trong quá trình tìm hiểu thực trạng đá
thờ, kiến trúc đền/ miếu và đời sống tín ngưỡng của cộng đồng.
4.3. Các thao tác nghiên cứu
- Thống kê: Trên cơ sở khảo sát văn bản, người viết tiến hành thống kê, phân
loại hệ thống nghĩa của đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam nhằm phản ánh
sự đa dạng về nghĩa của biểu tượng đá.
- Phân tích: Thao tác này giúp người viết làm nổi bật những biểu hiện đặc thù
của đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam.
- So sánh loại hình: Bằng cách thu thập mọi loại văn bản có thể có, dựa vào
thao tác so sánh, người viết hệ thống hóa tư liệu và nhận diện được từng dạng thức
của câu chuyện, truy nguyên nguồn gốc, cốt lõi của truyện kể, trên cơ sở liên hệ
với các lĩnh vực khác của con người (lịch sử, triết học, chính trị,).
5
5. Đóng góp khoa học của luận án
Thứ nhất, trên cơ sở thống kê, chúng tôi tiến hành hệ thống hóa tư liệu về
nghiên cứu biểu tượng và biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam,
đem đến những đánh giá tổng quan về tình hình nghiên cứu.
Thứ hai, phân tích biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam từ các
góc độ: ý nghĩa biểu tượng, cấu trúc trần thuật, nhằm khẳng định sự phong phú về
lớp nghĩa của biểu tượng đá. Khảo sát khả năng kết hợp đá với các motif khác của
truyền thuyết dân gian (giấc mơ, hiển linh) để kiến giải vai trò của đá trong cấu trúc
truyện kể và nghệ thuật xây dựng nhân vật truyền thuyết.
Thứ ba, thông qua biểu tượng đá, chúng tôi chỉ ra mối liên hệ giữa truyền
thuyết dân gian (một thể loại văn học dân gian) với tín ngưỡng thờ đá (một bộ phận
của văn hóa). Luận án đã cho thấy sự tương tác giữa văn học và văn hóa dân gian.
Đây chính là hướng nghiên cứu mang lại nhiều kiến giải mới cho các thể loại văn
học dân gian.
Thứ tư, nghiên cứu trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân –
hai truyền thuyết tiêu biểu của Việt Nam trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế có biểu
tượng đá (truyện kể, tín ngưỡng và hình thức thờ cúng) để góp phần minh giải mối
liên hệ truyền thuyết và tín ngưỡng thờ đá mà chúng tôi đề cập ở trên. Với hai
trường hợp này, biểu tượng đá trong truyền thuyết Thừa Thiên Huế đã hình thành
lớp nghĩa riêng và là minh chứng cho sự dung hòa tín ngưỡng trong quá trình sinh
tồn của người Việt.
Sự phân tích cấu trúc trần thuật và các lớp nghĩa của biểu tượng đá cũng như
mối quan hệ mật thiết của truyền thuyết - nghi thức thờ cúng - di tích - lễ hội thờ đá
ở Thừa Thiên Huế sẽ góp phần lí giải các vấn đề bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa -
xã hội qua các giai đoạn lịch sử.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung
chính của luận án được triển khai trong 4 chương:
Chương 1: Lý thuyết biểu tượng và tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Biểu tượng đá và hệ thống nghĩa của biểu tượng đá trong truyền
thuyết dân gian Việt Nam
6
Chương 3: Cấu trúc trần thuật của dạng truyện kể dân gian có sử dụng biểu
tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Chương 4: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian và tín ngưỡng dân gian:
nghiên cứu trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân
7
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT BIỂU TƯỢNG
VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Lý thuyết biểu tượng và nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng
1.1.1. Lý thuyết biểu tượng
Biểu tượng là một thuật ngữ khá quen thuộc trong đời sống thường ngày và
đời sống học thuật. Tính đa nghĩa của biểu tượng đã tạo ra sức hút đối với các nhà
nghiên cứu, vì vậy, mỗi ngành khoa học lại gởi gắm một nội hàm riêng cho thuật
ngữ này. Theo Từ điển Tiếng Việt, biểu tượng là “hình ảnh tượng trưng”, là “hình
thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong
đầu óc khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt” [70, tr. 26]. Từ điển
Biểu tượng văn hóa thế giới lại cho rằng “những gì được gọi là biểu tượng khi nó
được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho
chính bản thân nó” [21, tr. 25].
Tổng kết định nghĩa về thuật ngữ biểu tượng trong các từ điển trên thế giới,
Đinh Hồng Hải, tác giả có nhiều công trình nghiên cứu về biểu tượng trong những
năm gần đây, đã tóm lược: “Biểu tượng có tính đa nghĩa nhưng chúng ta có thể chia
làm hai nghĩa chính là biểu hình và biểu ý. Trên thế giới, thuật ngữ symbology được
nhiều từ điển giải thích với các ý nghĩa: 1- Việc nghiên cứu hoặc sử dụng các biểu
tượng và 2- Tập hợp các biểu tượng (1: the study or use of symbols. 2: symbols
collectively). Các từ điển nghệ thuật có thêm một ý nghĩa là: 3- Nghệ thuật sử dụng
các biểu tượng để nhắc đến một trào lưu nghệ thuật thịnh hành ở Châu Âu vào thế
kỷ XIX. Như vậy, thuật ngữ symbology trong tiếng Anh tương đương với nghiên
cứu biểu tượng (hoặc biểu tượng học) trong tiếng Việt” [34, tr.128]. Đinh Hồng Hải
khẳng định “Nghiên cứu biểu tượng là khoa học có chức năng giải mã các thành tố
văn hóa được sản sinh trong đời sống của con người” [34, tr.30].
Từ chính những định nghĩa trên, dễ dàng nhận ra bản chất của biểu tượng là
khó xác định và sống động, như cách R. de. Becker so sánh: “Có thể ví biểu tượng
8
với một khối tinh thể phục nguyên lại theo cách khác nhau, nguồn sáng tùy theo
từng mặt tinh thể tiếp nhận ánh sáng” [dẫn theo Đinh Hồng Hải, 34, tr.87]. Vậy nên,
giải mã biểu tượng không phải là một hành trình bằng phẳng và con đường thẳng
tắp. Việc xác định ý nghĩa/ giá trị của biểu tượng còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố: nền văn hóa sản sinh, bối cảnh và thời điểm biểu tượng ra đời, cùng với mục
đích sử dụng ở từng thời điểm, Điều đó cho thấy nghiên cứu biểu tượng phải là
ngành khoa học liên ngành với nhiều hướng tiếp cận khác nhau: triết học, văn học,
dân tộc học, mỹ học, phân tâm học, xã hội học Trong đó, các lĩnh vực ngôn ngữ
học, nhân học và ký hiệu học được xem là nền tảng để nghiên cứu biểu tượng.
Trước tiên, với ký hiệu học, theo Claude Levi-Strauss, “Mọi nền văn hóa có
thể được xem như là một tổng thể các hệ thống biểu tượng mà ở hàng đầu là ngôn
ngữ, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật khoa học, tôn giáo. Tất
cả các hệ thống đó nhắm đến sự thể hiện một số mặt của thực tại thể xác và thực tại
xã hội, và hơn thế nữa, thể hiện các quan hệ mà hai loại hình thực tại đó và bản thân
các hệ thống biểu tượng có với nhau” [dẫn theo Đinh Hồng Hải, 34, tr.143]. Biểu
tượng tồn tại dạng ngôn ngữ đặc biệt, có khả năng xóa nhòa khoảng cách về không
gian và thời gian để con người có thể tri nhận những thông điệp cổ xưa qua các di
vật văn hóa. Mang trong mình nhiều tầng lớp nghĩa nhưng lại được biểu đạt dưới
hình thức súc tích của ngôn ngữ, biểu tượng có quan hệ chặt chẽ với ký hiệu. Dựa
trên mô hình cấu trúc nổi tiếng của F.D. Saussure, hai tác giả tiêu biểu của cấu trúc
luận là L. Hjelmslev và R. Barthes đã phát triển để làm rõ mối liên hệ này.
Ký hiệu (Sign) =
Cái biểu đạt (Signifier)
Cái được biểu đạt (Signified)
Mô hình của F.D. Saussure
“Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, mỗi ký hiệu ngôn ngữ có hai phần: cái biểu
đạt (le signifiant) và cái được biểu đạt (le signifié). Cái biểu đạt là một hình ảnh thính
giác, cái được biểu đạt là một khái niệm. Không có mối liên hệ tất yếu nào giữa ký
hiệu với vật được chỉ định, hay như người ta thường nói, liên hệ giữa chúng là võ
đoán” [34, tr. 79]. Trên cơ sở mở rộng nội hàm của thuật ngữ ký hiệu cho nhiều lĩnh
vực (cả trong và ngoài ngôn ngữ học), bao gồm dấu hiệu, tín hiệu, lời nói, cử chỉ,
9
hành động, mang tính thông tin, L.Hjelmslev đã khái quát ba yếu tố cấu thành mỗi
ký hiệu (sự biểu đạt - quan hệ - nội dung) trong mô hình tam giác sau:
Mô hình ký hiệu học của L. Hjelmlev [66, tr.76]
Đóng góp quan trọng nhất của L. Hjelmlev là sự phân biệt “ký hiệu học biểu
thị” với “ký hiệu học hàm nghĩa”. Trong đó, ký hiệu thông thường là hệ thống ký
hiệu biểu thị, còn “ngôn ngữ hàm nghĩa là một ngôn ngữ mà bình diện biểu đạt
(hình thức) của nó cũng là một hệ thống ngôn ngữ thông thường (ký hiệu biểu thị)
và cả hai hệ thống đã lồng vào nhau tạo thành một hệ thống kép – hệ thống siêu ký
hiệu” [34, tr.94].
R. Barthes lại phát triển mô hình cấu trúc của ký hiệu ở mức cao hơn với sơ đồ
cú pháp ký hiệu học hàm nghĩa như sau:
A CBĐ:
Sự biểu thị (HT)
CĐBĐ:
Sự biểu đạt (ND)
B CBĐ:
Sự hàm nghĩa (HT)
CĐBĐ:
Sự hàm nghĩa (ND)
A: Ký hiệu học biểu thị (Semiotic denotative) - Ngôn ngữ thông thường
B: Ký hiệu học hàm nghĩa (Semiotic connotative) – Ngôn ngữ biểu tượng
Mô hình cấu trúc của ký hiệu của R. Barthes [68, tr.78]
Thông qua sơ đồ, R. Barthes đã cụ thể hóa tính “hệ thống kép” hay “hệ thống
trong hệ thống” đặc trưng của ngôn ngữ biểu tượng. Nghĩa là trong ngôn ngữ biểu
tượng, bình diện biểu đạt (hình thức) lại ẩn chứa một ký hiệu biểu thị - ngôn ngữ
thông thường. Đây cũng chính là mô hình mà R. Barthes sử dụng để giải mã cấu
trúc của thần thoại.
10
Trong bài viết “Biểu tượng như là “đơn vị cơ bản” của văn hóa”, Nguyễn Văn
Hậu chuyển đổi sơ đồ của R. Barthes thành sơ đồ giải thích ký hiệu hàm nghĩa
nhằm giải mã ngôn ngữ biểu tượng:
A
Hình thức sự biểu thị
Sự vật, hiện tượng,
cái dùng biểu thị
Nội dung sự biểu thị
nội dung, ý nghĩa, tên
gọi v.v..
B
Hình thứcsự hàm nghĩa
(Ký hiệu biểu thị – hiển ngôn)
Nội dung sự hàm nghĩa
(Ký hiệu ẩn dụ – mật ngôn)
Siêu ký hiệu - ngôn ngữ biểu tượng (Symbol)
A: Ký hiệu học biểu thị (Semiotic denotative) - Ngôn ngữ thông thường
B: Ký hiệu học hàm nghĩa (Semiotic connotative) – Ngôn ngữ biểu tượng
Mô hình chuyển đổi của Nguyễn Văn Hậu [92]
Có thể nói ký hiệu học với phương pháp tiếp cận rõ ràng, cụ thể đã giúp cho
các nhà khoa học hạn chế được tính khó xác định của biểu tượng. Dù khẳng định
vai trò nền tảng cho khoa học nghiên cứu về biểu tượng của ký hiệu học, Đinh
Hồng Hải chỉ ra giới hạn của phương pháp này, đó là “nếu chỉ tiếp cận nghiên cứu
các biểu tượng dưới góc nhìn ký hiệu học thì chúng ta vẫn có thể gặp khó khăn khi
buộc phải giải thích một thành tố văn hóa trong môi trường sống của nó (nghĩa là
trong thời gian và không gian của riêng nó” [34, tr.75].
Bên cạnh ký hiệu học, hướng tiếp cận nhân học trong nghiên cứu biểu tượng
đã được Raymond Firth khái quát thế mạnh trong Biểu tượng: Chung và Riêng: “Nó
liên kết và giải thích về các sự kiện thông qua biểu tượng luận với các cấu trúc xã
hội và các sự kiện xã hội trong những điều kiện cụ thể Theo đó, các nhà nhân học
được trang bị để giải thích ý nghĩa của các biểu tượng trong các nền văn hóa mà họ
đang nghiên cứu, và để sử dụng những lý giải như những phương tiện trung gian để
hiểu xa hơn về các tiến trình trong đời sống xã hội” [34, tr.82]. Đối tượng nghiên
cứu của nhân học biểu tượng là ẩn dụ, ngôn ngữ, hệ thống biểu tượng, nghi lễ, ma
thuật, đời sống, biểu tượng luận, vũ trụ luận, và thần thoại. Với những phương pháp
chuyên biệt như điền dã thực địa (fieldwork) hay quan sát tham dự (participant
11
observation), nhân học đem lại giải pháp để khám phá biểu tượng trong chính môi
trường “sống” của nó một cách tối ưu. Do đó, nhân học được xem là phương pháp
bổ khuyết cho giới hạn của ký hiệu học trong nghiên cứu biểu tượng.
Ngoài ra, nghiên cứu biểu tượng không thể không đề cập đến hướng tiếp cận
từ cấu trúc luận. Claude Levi-Strauss đã có những đóng góp lớn cho việc nghiên
cứu biểu tượng. “Ông cho rằng phân loại nhị nguyên (binary classification) là một
điểm đặc trưng phổ quát của nhận thức con người. Các nghiên cứu mở rộng của ông
đối với thần thoại, nghệ thuật và hệ thống thân tộc đã khám phá ra những hình mẫu
văn hóa khác nhau ở mức độ phức tạp và diện mạo bên ngoài, về bản chất, dựa vào
tính đối ngẫu: tự nhiên/ văn hóa, đàn ông/ đàn bà, tinh khiết/ không tinh khiết, v.v
Hệ thống văn hóa, dưới góc nhìn này, với những nền tảng tinh vi của nó khai hóa
thế giới, xã hội hóa nó, đưa ra sự phân loại tùy theo biểu hiện của tự nhiên. Mối
quan tâm của các nhà cấu trúc luận trong các hệ thống văn hóa của ý nghĩa ở những
gì họ có thể bộc lộ ra và khi nào thì phân tích về tiến trình nhận thức phổ quát của
con người” [dẫn theo Đinh Hồng Hải, 34, tr.130]. Có thể thấy cấu trúc luận đã tạo
nền tảng để ký hiệu học và nhân học (nhân học cấu trúc và nhân học biểu tượng)
nghiên cứu biểu tượng với những hướng tiếp cận hiệu quả khác nhau. Trong công
trình nghiên cứu Nghiên cứu biểu tượng – Một số hướng tiếp cận lý thuyết (2014), ở
phần “Cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng: từ ký hiệu học đến nhân học biểu
tượng”, Đinh Hồng Hải đã đưa ra sơ đồ tóm tắt diễn trình của khoa học nghiên cứu
biểu tượng như sau:
CBĐ
Cái biểu đạt
KH
Ký
hiệu
NNBT
Ngôn
ngữ biểu
tượng
BT
Biểu
tượng
ND
Nội
dung
MĐSD
Mục đích
sử dụng CĐBĐ
Cái được
biểu đạt
HT
Hình
thức
“Diễn trình của khoa học nghiên cứu biểu tượng” (Đinh Hồng Hải) [34, tr.145]
Ý nghĩa của biểu tượng chỉ có thể giải mã được một cách đầy đủ khi đặt nó
trong bối cảnh xuất hiện với những mục đích sử dụng cụ thể. Điều này cho thấy các
12
phương pháp tiếp cận nghiên cứu biểu tượng như triết học, xã hội học, đều góp
phần hỗ trợ tích cực trong việc phân tích mỗi biểu tượng.
Như vậy, nghiên cứu biểu tượng là một trong những phương pháp không chỉ
nhằm tìm hiểu con người mà còn cắt nghĩa thế giới ở những tầng nghĩa sâu xa nhất.
Leslie A. White đã nhận xét rằng “Toàn bộ hành vi ứng xử của con người đều bắt
nguồn từ việc sử dụng các biểu tượng. Chính biểu tượng đã làm biến đổi tổ tiên
vượn người của chúng ta trở thành người và làm cho họ có đặc trưng nhân tính. Mọi
nền văn hoá được tạo ra và trường tồn mãi mãi chỉ từ việc sử dụng các biểu tượng.
Biểu tượng đã làm biến đổi một đứa trẻ của người khôn ngoan (Homo Sapiens) trở
thành con người thực sự. Còn người câm điếc lớn lên, nếu không được sử dụng các
biểu tượng thì họ cũng không trở thành người đúng nghĩa. Tất cả hành vi ứng xử
của con người tạo ra hoặc phụ thuộc vào việc sử dụng các biểu tượng. Hành vi của
con người là hành vi mang tính biểu tượng. Nói cách khác, hành vi mang tính biểu
tượng chính là hành vi của con người. Thế giới biểu tượng là thế giới của bản chất
người (nhân tính)” [dẫn theo Nguyễn Văn Hậu, 92].
Tóm lại, biểu tượng chỉ có thể được giải mã trên cơ sở liên ngành với nhiều
hướng tiếp cận. Hiện nay, ký hiệu học, nhân học và cấu trúc luận được xem là ba
hướng tiếp cận hiệu quả, tối ưu để bóc tách lớp nghĩa của biểu tượng. Tuy nhiên,
chúng tôi thiết nghĩ, sự lựa chọn hướng tiếp cận phải phù thu...rần thuật của dạng truyện
kể có sử dụng biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian người Việt để mở ra
25
những lớp nghĩa lớn hơn của biểu tượng.
Thứ ba, nghiên cứu biểu tượng đá trong truyền thuyết Việt Nam, đặc biệt
trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân trong mối quan hệ với tín
ngưỡng đá, cũng như các tín ngưỡng, văn hóa khác để có thể khám phá một cách
đầy đủ lớp tầng ý nghĩa ẩn sâu trong trầm tích văn hóa của biểu tượng đá.
Thứ tư, dựa vào thực tế điền dã, luận án sẽ phân tích mối quan hệ biện chứng
giữa biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian và đền/miếu thờ đá qua hai trường
hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân.
Tiểu kết chương 1
Từ việc tổng thuật tình hình nghiên cứu vấn đề biểu tượng và biểu tượng đá
trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, có thể nhận thấy rằng, mặc dù hướng
nghiên cứu đá trong truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian từ góc độ biểu tượng
chưa được khai thác nhiều nhưng đã đưa lại những kết quả bước đầu quan trọng để
hiểu sâu hơn chiều sâu văn hóa của truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian. Đặc biệt,
các công trình nghiên cứu đá với tư cách biểu tượng trong văn hóa và truyền thuyết
dân gian Việt Nam đã hỗ trợ tích cực cho chúng tôi trong quá trình xác lập một cách
rõ ràng vai trò của đá - một biểu tượng giàu lớp nghĩa trong thể loại truyền thuyết.
Tiếp tục đi sâu bóc tách các lớp nghĩa của biểu tượng đá như những trầm tích văn
hóa và phân tích cấu trúc nghệ thuật của truyền thuyết dân gian về biểu tượng đá là
việc làm của các chương tiếp theo của luận án.
26
CHƯƠNG 2
BIỂU TƯỢNG ĐÁ VÀ HỆ THỐNG NGHĨA CỦA BIỂU TƯỢNG ĐÁ
TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
2.1. Biểu tượng đá và các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa thế giới
và Việt Nam
2.1.1. Biểu tượng đá và các hướng tiếp cận biểu tượng đá ở Việt Nam
Sự gắn kết của đá với đời sống của con người không chỉ dừng lại ở điểm kết
thúc của thời kỳ đồ đá mà còn hiển hiện trong tất cả những hoạt động của con người
ở thời hiện đại. Không phải đơn giản là những dấu tích còn sót lại, mối quan hệ giữa
người và đá dường như vẫn đang vận động và liên tục tạo ra những móc xích gắn
kết mới. Vậy nên, trong văn hóa, đá tồn tại như là biểu tượng với các lớp nghĩa đa
dạng, phong phú. Trên cơ sở các công trình nghiên cứu chúng tôi đã đề cập đến
trong chương 1, có thể nhận ra, đối với văn học dân gian, đá cũng đã xuất hiện với
tư cách của một biểu tượng ẩn chứa nhiều lớp trầm tích văn hóa.
Trong “Mã và mã văn hóa” (2006) đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian,
Nguyễn Thị Bích Hà phân chia biểu tượng thành hai loại: “Biểu tượng sống là biểu
tượng được giải mã, phân tích, khám phá các lớp nghĩa bên trong của nó. Sự khám
phá đó khiến biểu tượng gợi cảm đến bất tận. Biểu tượng chết là khi người ta đã lí
giải được toàn bộ ý nghĩa của nó, nó trở nên dễ hiểu, được sử dụng theo một số
nghĩa nhất định nào đó và không được người ta dày công khám phá nữa” [31, tr.23].
Xét trên sự phân loại này, chúng tôi thiết nghĩ đá thuộc về biểu tượng sống, vì các
công trình nghiên cứu về đá vẫn chưa dừng lại. Hay nói cách khác, giải mã biểu
tượng đá trong văn học dân gian là một quá trình chưa có hồi kết.
Trước tiên, chúng tôi xuất phát từ những dạng thức tồn tại của đá. Dựa trên thống
kê và phân tích, trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (2002, NXB Đà Nẵng), Jean
Chevalier và Alain Gheerbrant đã liệt kê rất nhiều dạng đá có ý nghĩa biểu tượng trong
văn hóa nhân loại khởi đi từ đá thô và đá đẽo gọt, gồm có: đá hình nón, đá hình lập
phương/ hình lập phương có chỏm nhọn, đá thạch anh, đá thiên thạch, đá lửa (lưỡi tầm
sét), đá cầu mưa, đá dựng đứng, đá thủng, và các dạng đá quý, đá ngầm, Mỗi dạng
27
đá đều có ý nghĩa, giá trị khác nhau trong văn hóa của từng cộng đồng.
Đối với Việt Nam, các tác giả nhắc đến hai dạng thức mà chúng tôi đã đề cập
ở chương 1 (đá dựng đứng và đá chảy máu) và không nêu cụ thể địa phương, cũng
như thời điểm xảy ra hiện tượng. Tuy nhiên, từ thực tế khảo sát, chúng tôi cho rằng
riêng trong truyền thuyết dân gian, đá đã xuất hiện với sự phong phú dạng thức.
Hầu hết truyền thuyết giới thiệu về đá một cách chung chung, không xác định loại/
dạng đá (vật liệu), cũng không chú ý đến màu sắc cụ thể của đá. Theo chúng tôi, có
thể xếp đá trong truyền thuyết thành hai loại lớn: đá thô tự nhiên (đá thô tự nhiên
có/ không có hình dáng cụ thể và đá thô tự nhiên có hình dáng giống con người) và
đá đã được đẽo gọt.
Bên cạnh dạng đá thô và đá đẽo gọt, Jean Chevalier và Alain Gheerbrant cũng
xếp châu báu, kim cương, ngọc lục bảo, ngọc thạch, ngọc trai, vào những dạng
thức khác của đá. Điều này minh chứng cho sự mở rộng của hệ biểu tượng đá trong
văn hóa các nước trên thế giới.
Chính vì vậy, khi khảo sát biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt
Nam, chúng tôi chú ý đến hai dạng thức có tần suất xuất hiện cao và có sự liên hệ
với đá: ngọc (13 lần/ 71 truyền thuyết về đá thiêng) và ngôi sao (15 lần/ 71 truyền
thuyết về đá thiêng). Với ngôi sao, chúng tôi xin có những lý giải cho việc xác định
đây là một dạng thức của đá như sau:
Thứ nhất, trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier, Alain
Gheerbrant đã đưa ra một định dạng đặc biệt của đá, đó là “đá trời”, “những tảng đá
từ trên trời xuống thường là những thiên thạch” [21, tr.268], “đá trời được xem
như một sự hiện hình của thần linh, một sự hiển hiện và một thông điệp của trời,
cũng giống như một tia lửa trời, một hạt giống của thần linh rơi xuống đất” [21,
tr.274]. Hơn thế nữa, trong biểu tượng đá trời, Jean Chevalier, Alain Gheerbrant còn
ghi chép “Theo những tín ngưỡng nguyên thủy, các tinh đẩu đích thị là những thần
linh” [21, tr.274].
Thứ hai, năm 2015, khi giám định để trao bằng Bảo trợ cho di sản văn hóa phi
vật thể Mo Mường Hòa Bình (Việt Nam), khảo sát 282 ông Mo và các công cụ hỗ
trợ liên quan chặt chẽ tới Mo Mường, Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam đã đưa
ra kết luận: “Người Mường đã có tư duy sử dụng: thiên thạch là những thứ trên
28
trời; những viên đá bán quý ở lòng đất; các công cụ lao động sản xuất; các bộ
nhuyễn thể, thiên địa nhân Tất cả hợp nhất cho túi Khót để tạo ra một khái niệm
về quyền lực, dùng làm vật tế khi hành lễ” [99]. Chi tiết trên đã làm sáng tỏ cách
cảm/ nghĩ của người Việt cổ về đá trời, cho thấy sự coi trọng và quyền lực của đá
trời trong đời sống tâm linh.
Thứ ba, truyền thuyết dân gian Việt Nam tồn tại hai cách thể hiện khi đề cập
đến sao: một, được nêu cụ thể là “ngôi sao” (Sự tích Tản viên Sơn thánh, Sự tích
Đức Thiên Cang,) và hai, tác giả dân gian chỉ miêu tả “ánh hào quang như bạch
ngọc” [44, tr.195] (Sự tích Cao Sơn, Quý Minh đánh Thục), “bỗng thấy hai ngôi sao
giáng xuống, ánh sáng tỏa vào thân bà” [44, tr.202] (Sự tích Tản Viên Sơn Thánh
cùng các vị Hiển Công, Minh Công và Phạm Hiếu, Phạm Thành, Phạm Lương đánh
Thục), “đám hào quang rơi xuống [44, tr.441] (Sự tích Thủy Hải và Đăng Quang
thời vua Trưng), “ánh sáng của sao Vũ Khúc” [44, tr.907] (Sự tích Cao Sơn đại
vương thời Lý). Với biểu hiện thứ hai, theo chúng tôi, tác giả nhấn mạnh vai trò ánh
sáng của sao. Đương nhiên ở lối miêu tả trên, sao không thể là một dạng vật chất,
một dạng thức của đá. Do vậy, trong quá trình khảo sát, chúng tôi không xếp định
dạng ánh sáng đó vào dạng thức ngôi sao.
Hình thức xuất hiện của ngôi sao trong truyền thuyết dân gian Việt Nam phần
lớn được miêu tả “sa vào miệng”, “sa vào bụng”, “sa xuống” rất giống với kiểu đá
trên trời rơi xuống mà Jean Chevalier, Alain Gheerbrant trích dẫn và hiện tượng
thiên thạch được giải thích theo vật lý [do tốc độ di chuyển nhanh và áp suất nén
trong khí quyển của Trái Đất đã khiến thiên thạch phát ra ánh sáng – NTQH].
Khi miêu tả quá trình tiếp nhận ngôi sao của người mẹ, sau thời điểm ngôi sao
“sa vào miệng”, tác giả dân gian chú ý hành động “nuốt”, “bỗng thấy trên trời hai
ngôi sao rơi vào miệng, bà nuốt đi” [44, tr.938] (Sự tích hai anh em Phạm Quang,
Phạm Huy thời Lý). Với hành động đặc trưng này, ngôi sao không phải là hư vô, mà
phải thuộc dạng vật chất.
Từ cả ba lý do, chúng tôi cho rằng trong truyền thuyết dân gian Việt Nam,
ngôi sao có thể được tác giả dân gian nhìn nhận như một dạng đá trời. Ngoài ra,
hình thức người mẹ thụ thai thông qua việc nuốt ngôi sao có đầy đủ cả hai biến
dạng của motif sinh nở thần kỳ mà Trần Thị An đã khái quát trong Đặc trưng thể
29
loại và việc văn bản hóa truyền thuyết dân gian Việt Nam: dạng kể trực tiếp (ngôi
sao sa xuống người bà mẹ dẫn đến việc thụ thai) và dạng thụ thai qua giấc mơ (mơ
thấy ngôi sao sa xuống). Ở cả hai biến dạng của motif sinh nở thần kỳ, ngôi sao đều
mang giá trị của một hạt giống, đúng như cách lý giải của Jean Chevalier, Alain
Gheerbrant về đá trời “những mảnh, mẩu mà các tinh cầu tách ra khỏi mình là
những hạt giống” [21, tr.274]. Thậm chí, bên cạnh những nhân vật được sinh ra từ
ngôi sao có đầy đủ cả hai đấng sinh thành cha và mẹ, truyền thuyết Sự tích Ngọn
Côn và Thuấn Nghị đời Lê Thái Tổ còn kể về một cô gái 16 tuổi không thích lấy
chồng, đang tu tại chùa, mơ thấy ngôi sao sa vào miệng và sinh con trai. Nghĩa là
những sinh linh bé nhỏ đó được tạo nên bởi một hạt giống ngôi sao và sự bảo bọc,
nuôi dưỡng của cơ thể người mẹ [giống như phương pháp thụ tinh của y học hiện
đại ngày nay – NTQH].
Vì vậy, chúng tôi đưa ngọc và ngôi sao vào các dạng thức của biểu tượng đá
để khảo sát lớp nghĩa. Có thể dễ dàng nhận ra sự đa dạng về dạng thức tồn tại của
biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, điều này cũng sẽ góp phần
hình thành những sắc thái nghĩa mới cho biểu tượng.
Về hướng tiếp cận biểu tượng đá ở Việt Nam, phần lớn công trình chúng tôi
khảo sát trong chương 1 lý thuyết biểu tượng và tổng quan tình hình nghiên cứu đều
giải mã trên nền tảng liên ngành với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Dù có công
trình chưa định danh cụ thể đối tượng đá là “biểu tượng” nhưng đã phần nào gợi ra
vai trò và giá trị biểu tượng của đá.
Các công trình về tín ngưỡng thờ đá (Văn hóa tín ngưỡng và thực hành tôn
giáo người Việt (2010) của Leopold Cadiere, Tìm hiểu văn hóa dân gian Việt Nam
trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á (1993) của Đinh Gia Khánh, Tín ngưỡng
thành hoàng Việt Nam (Nguyễn Duy Hinh, 1996), “Thờ đá trong tín ngưỡng dân
gian Việt Nam” (2004) của Nguyễn Việt Hùng,) đều giải mã đá từ hướng tiếp cận
văn hóa dân gian và nhân học nhằm lý giải đời sống/ đối tượng của tín ngưỡng.
Những truyện kể của văn học dân gian được các tác giả giới thiệu, liệt kê chỉ giữ vai
trò minh họa cho tín ngưỡng. Chỉ trong chuyên luận Sự tích vọng phu và tín ngưỡng
thờ đá ở Việt Nam (2011) và bài viết “Thử nhận diện dấu vết tín ngưỡng Chăm qua
nhóm truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa” (2001), hai tác giả sử dụng truyện kể dân
30
gian như là một bước đệm/ không gian đối sánh để soi chiếu vào tín ngưỡng; hướng
tiếp cận từ văn học dân gian đã được kết hợp với nền tảng văn hóa và nhân học để
nghiên cứu tín ngưỡng thờ đá.
Trong hầu hết những công trình nghiên cứu đá với tư cách là biểu tượng như
Những đỉnh núi du ca – một lối tìm về cá tính H’Mông (2014, NXB Thế giới) của
Nguyễn Mạnh Tiến, “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết dân
gian người Việt” (1999) của Trần Thị An hay “Truyền thuyết dân gian xứ Bắc về
các thần tự nhiên” và “Truyền thuyết Thạch tướng quân trong mối quan hệ với tín
ngưỡng thờ đá” của Nguyễn Huy Bình, các tác giả lại lựa chọn hướng tiếp cận trên
cơ sở liên ngành văn học và văn hóa để bóc mở các lớp nghĩa của đá, tăng tính kết
nối, thể hiện mối quan hệ giữa tín ngưỡng và văn học. Sự kết hợp này giúp bổ
khuyết những giới hạn của mỗi cách tiếp cận và sở hữu nhiều thuận lợi trong việc
chỉ ra khả năng tích hợp nghĩa của biểu tượng đá. Chính vì thế, thời gian gần đây,
khuynh hướng liên ngành văn học – văn hóa được ứng dụng rộng rãi trong nghiên
cứu biểu tượng của văn học.
Khác với các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ đá, ở những chuyên
luận và bài viết trên, hướng tiếp cận văn học dân gian giữ vai trò chủ đạo: Trong
Những đỉnh núi du ca – một lối tìm về cá tính H’Mông (2014, NXB Thế giới), trên
cơ sở văn hóa tộc người, Nguyễn Mạnh Tiến thống kê và phân tích ca dao dân ca H’
Mông để thấy rõ hơn tâm thức mà người H’Mông gởi gắm qua biểu tượng đá. Còn
với “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt”
(1999), từ những định hướng nghĩa của biểu tượng đá trong Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới (J. Chevalier và A. Gheerbrant), Trần Thị An tiến hành khảo sát và
phân tích truyền thuyết người Việt nhằm khám phá bản chất của đá – không gian
thiêng ở thể loại tự sự dân gian này.
Hai bài viết khác nghiên cứu về biểu tượng đá trong truyền thuyết là của
Nguyễn Huy Bỉnh: “Truyền thuyết dân gian xứ Bắc về các thần tự nhiên” và
“Truyền thuyết Thạch tướng quân trong mối quan hệ với tín ngưỡng thờ đá”. Đặc
biệt trong tiểu luận về Thạch tướng quân, kết hợp phân tích văn bản và phương
pháp điền dã, dựa vào nền tảng văn hóa học và nhân học, tác giả đã cho thấy mối
quan hệ chặt chẽ giữa truyền thuyết về đá thiêng và tín ngưỡng thờ đá của người
31
dân xứ Bắc tồn tại trong biểu tượng đá. Đồng thời ở hiện tượng thờ cúng Thạch
tướng quân, tác giả cũng đã chỉ ra sự dung hòa của hai hình thức tín ngưỡng thờ đá
và thờ Thành hoàng trong tâm thức dân gian. Chúng tôi cho rằng thực trạng hiện
nay mà Nguyễn Huy Bỉnh nêu ra là điểm chung của tục thờ đá ở rất nhiều địa
phương khác trên lãnh thổ Việt Nam: “người dân nơi đây không còn lưu giữ các
nghi thức ma thuật, hay các hình thức cúng tế, các trò diễn dân gian liên quan đến vị
thần đá trong khi thực hành nghi lễ của mình. Điều đó chứng tỏ rằng, trong quá
trình tồn tại, đến nay hiện tượng thờ thần đá chỉ còn lại tàn dư của nó, thay vào đó là
hình thức thờ cúng vị thần mang niềm tin và mơ ước mới” [17, tr. 30]. Có thể nói
với hướng tiếp cận liên ngành, Nguyễn Huy Bỉnh đã soi chiếu đá từ nhiều góc độ:
văn bản, đời sống tín ngưỡng và tâm lý của con người.
Trong công trình Đá và Người, Trần Sỹ Huệ đem đến cho người đọc một từ điển
về đá ở Phú Yên. Bằng việc thống kê, phân loại và chú giải mang tính địa chí tất cả
những sự vật, sự việc và hiện tượng liên quan đến đá, Trần Sỹ Huệ minh chứng vai trò
và biên độ phổ biến của đá trong đời sống/ văn hóa. Theo chúng tôi, ở Đá và người,
hướng tiếp cận văn hóa học được tác giả chú trọng hơn trong quá trình nghiên cứu.
Với “Môtíp đá thiêng/hóa đá và tín ngưỡng thờ đá trong truyện kể dân gian
Nam Đảo” (2007), Phan Xuân Viện gợi mở các dạng thức tồn tại của đá trong
truyện kể dân gian từ việc phân tích các motif đá. Hướng tiếp cận từ thi pháp học đã
giúp tác giả phần nào nghiên cứu sự đa dạng, phong phú về dạng thức của biểu
tượng đá trong văn học dân gian nói chung và truyện kể Nam Đảo nói riêng.
Do đó, trên cơ sở hoàn toàn đồng thuận với tác giả Nguyễn Thị Bích Hà trong
nhận định “Biểu tượng cổ nhất và đơn giản nhất bao giờ cũng gần với thực tế
Giải mã biểu tượng cũng chính là bóc tách các lớp lịch sử bồi đắp, che phủ biểu
tượng, làm cho nó biến đổi” [31, tr. 26], chúng tôi nhận thấy biểu tượng đá xuất
hiện sớm trong văn học dân gian, ở những văn bản truyền thuyết gần như thuộc thời
kỳ đầu, gắn với tín ngưỡng thờ đa thần. Để giải mã được các ý nghĩa của đá trong
truyền thuyết, việc đặt biểu tượng trong mối quan hệ với tín ngưỡng thờ đá và tín
ngưỡng, văn hóa khác là điều đương nhiên phải đối sánh. Theo thiển ý của chúng
tôi, hướng tiếp cận liên ngành (văn học dân gian, văn hóa dân gian và nhân học) là
giải pháp tối ưu để bóc mở các lớp nghĩa ẩn giấu trong biểu tượng đá của truyền
32
thuyết dân gian Việt Nam.
2.1.2. Các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa thế giới và Việt Nam qua
các công trình nghiên cứu
“Biểu tượng phong phú hơn là một dấu hiệu, ký hiệu đơn thuần: hiệu lực của
nó vượt ra ngoài ý nghĩa, nó phụ thuộc vào cách giải thích và cách giải thích thì phụ
thuộc vào một thiên hướng nào đó. Nó đầy gợi cảm và năng động” [21; tr.XX]. Thế
nên việc cụ thể hóa tất cả các lớp nghĩa của biểu tượng dường như là một điều bất
khả thi. Tuy nhiên, ở tiểu mục 2.1, ngoài ý muốn phác họa con đường hình thành
nghĩa của biểu tượng đá, hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giải nghĩa,
chúng tôi dựa vào việc tổng kết những lớp nghĩa của biểu tượng đá của kho tàng
văn hóa thế giới trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của Jean Chevalier và
Alain Gheerbrant và các công trình nghiên cứu biểu tượng đá ở Việt Nam để nhận
diện các lớp nghĩa của đá trong văn hóa Việt Nam. Sự tổng hợp này sẽ tạo nền tảng
để chúng tôi kế thừa và triển khai cho mục 2.2. Các lớp nghĩa tiêu biểu của biểu
tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam.
Những đặc điểm của đá thường được con người chú ý đến gồm có: cứng rắn,
độ bền vững cao, khả năng bị mài mòn thấp, không thể bẻ cong, Tất cả có thể
được xem là những nét riêng khu biệt đá với các dạng vật chất khác. Song khi
chúng ta đề cập đến biểu tượng đá, nghĩa là đá không chỉ còn là một dạng vật chất,
một dấu hiệu mà đã có sự gắn kết với tín ngưỡng, với huyền thoại, để ẩn giấu giá
trị biểu tượng. Đương nhiên, các đặc trưng riêng của đá cũng trở thành “cái tâm
điểm quanh đó vận hành toàn bộ hoạt động tâm trí mà nó khơi động” [21, tr.XX],
hay nói cách khác, đây chính là những cơ sở để trí tưởng tượng của con người được
bay bổng và liên kết, hình thành các lớp nghĩa của biểu tượng đá. Vậy nên, với rất
nhiều nét đặc trưng, đá đã là một biểu tượng đa nghĩa.
Hơn thế nữa, “biểu tượng luôn luôn đa chiều” [21, tr.XXVIII] và có “khả
năng thâm nhập lẫn nhau” [21, tr.XXVIII]. Điều đó cho thấy một thực tế, các lớp
nghĩa của đá không phải chỉ được xây dựng nên từ mỗi nét đặc trưng riêng biệt mà
đôi khi còn là kết quả của sự liên hệ, xâu chuỗi đậm tính “tương quan” hay sự liên
kết những mặt “đối kháng”/ “lưỡng cực” giữa các đặc điểm, thậm chí là những lớp
nghĩa đầu tiên của đá. Ngoài ra, sự hình thành lớp nghĩa còn phụ thuộc vào văn hóa
33
và quan niệm của mỗi cộng đồng. Nghĩa của biểu tượng đá luôn ở dạng vận động,
ngày càng được mở rộng và càng khó xác định hơn. Có lẽ chính vì những lý do trên
nên Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, ngay từ phần giới thuyết về biểu tượng, đã
nhấn mạnh công trình không phải là tập hợp tất cả nghĩa của biểu tượng, mà chỉ là
những định hướng nghĩa.
Riêng với biểu tượng đá, chúng tôi xin được lập bảng hệ thống những định
hướng nghĩa chính mà Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới đã thống kê để có thể
thấy rõ lớp nghĩa, dạng thức đá và cộng đồng quan niệm. Ở đây, chúng tôi chỉ liệt
kê các định hướng nghĩa của biểu tượng đá, không kể các dạng thức khác: đá ngầm,
đá trời, ngọc thạch, ngọc trai.
STT NGHĨA BIỂU TRƯNG CỘNG ĐỒNG DẠNG THỨC
1 Liên hệ giữa trời và đất Một số dân tộc ở châu Úc,
Bắc Mỹ, Inđônêxia, Hy Lạp
Cự thạch, đá
thần, mô đá
2 Sự hiện diện của thần linh Hy Lạp, Ailen, Việt Nam Tảng đá dựng
đứng, phiến đá
3 Đất mẹ Hy Lạp, Trung Hoa, Việt
Nam
Hòn đá, tảng đá
4 Phục sinh linh hồn nhờ ân
huệ của Chúa/ Sự cứu
chuộc linh hồn
Đạo Kitô Đá
5 Sự sống ở trạng thái tĩnh Vùng Altai, người Mãn Châu Đá
6 Phì nhiêu Châu Phi Mảnh đá lửa
7 Giải phóng khỏi chất tự
nhiên thô lậu
Các bộ tộc Chorti ở Mêhicô Lưỡi rìu đá mài
nhẵn,
8 Vong hồn tổ tiên hóa đá Mêhicô, Mông Cổ Đá cầu mưa, đá
tình yêu,
9 Sự có mặt đích thực của
thánh thần
Miền Tiểu Á, Rome Tảng đá đen,
10 Cầu sinh Ấn Độ, Bretagne Đá dựng đứng
11 Cầm giữ các hồn vía lành Dravidien, châu Úc Hòn đá, đá
34
hoặc dữ thủng, đá,
12 Sự nhận thức thế giới Bộ tộc Peul Phiến đá dẹt
13 Linh hồn của cộng đồng Pêru, Xibia Đống đá,
14 Chuyển vị từ trạng thái
đục thành trong mờ
Thành Jérusalem Đá quý,
15 Khôn ngoan, anh minh Đạo Kitô Đá thần,
Thống kê của tác giả luận án về các định hướng nghĩa chính của biểu tượng đá
trong văn hóa thế giới [21, tr.268 - 274]
Đối với từng lớp nghĩa/ dạng thức của đá, Jean Chevalier và Alain
Gheerbrant đưa ra những dẫn chứng cho thấy sự biến chuyển trong nghĩa của biểu
tượng ở mỗi cộng đồng. Ví dụ người Do Thái xem đá được đẽo gọt để xây dựng
đền thờ là “dấu hiệu về sự định cư của dân tộc mà Chúa đã chọn” [21, tr.269], thì
hòn đá hình lập phương của hội Tam Điểm cũng thể hiện “tính ổn định, trạng thái
cân bằng, hoàn tất và tương ứng với muối giả kim” [21, tr.269], trong khi đó hòn đá
hình lập phương có chỏm nhọn là “biểu tượng của thứ đá tạo vàng: khối tháp nhọn
ở bên trên khối vuông là hình ảnh của bản nguyên tinh thần đặt trên nền tảng của
muối và đất” [21, tr.269]. Cũng có trường hợp cùng một loại đá nhưng sẽ có những
nghĩa biểu trưng khác nhau: lưỡi tầm sét ở châu Phi là các mảnh đá trời rơi xuống
biểu trưng cho sự “phì nhiêu” [21, tr.270], với bộ tộc Chorti lại là “biểu tượng của
sét” [21, tr.270], hay bộ tộc Fang ở miền Gabon có truyền thống “đặt đá tầm sét vào
giữa hai cẳng chân của người sản phụ để cho dễ đẻ” [21, tr.270], Tác giả đã minh
chứng cho sự giao thoa, đồng nhất/ khác biệt các nét nghĩa về đá ở nhiều tín
ngưỡng, dân tộc, cộng đồng trên thế giới. Trong đó, mỗi cộng đồng kiến tạo và bảo
lưu một nét nghĩa, mạch chảy riêng trong nguồn chung, góp phần làm nên sự phong
phú và sống động của biểu tượng đá.
Từ câu chuyện về “vật được cắt làm đôi” [21, tr.XXIII] để những người chủ/
khách, người cho vay/ người đi vay, cha mẹ/ con, hai người sắp chia tay nhận ra
mối giao hảo ngày trước, “phân ly và tái hợp” [21, tr.XXIII] đã trở thành một đặc
tính của biểu tượng. Vì vậy, việc xác định/ “tái hợp” nghĩa của biểu tượng trong bất
kỳ văn bản nào sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và có một khả năng rất dễ xảy ra,
35
đó là nghĩa được người đọc “tái hợp” không đồng nhất với nghĩa được gởi gắm ban
đầu. Ví dụ nhìn từ truyền thuyết dân gian Việt Nam, sự xuất hiện của biểu tượng đá
trong văn bản, trên bề mặt ngôn ngữ, có thể chỉ đơn thuần là một dấu hiệu chỉ dẫn,
có thể đơn lẻ hoặc mang tính lặp lại (motif người hóa đá, đá hóa người, vật hóa đá,
đá thiêng,). Theo chúng tôi, đây chính là một hình thức phân ly/ chia tách biểu
tượng trong văn bản. Để giải mã một/ nhiều nét nghĩa được tác giả dân gian gói
ghém trong tầng sâu của dấu hiệu chỉ dẫn, chúng tôi sẽ nhìn nhận từ nhiều góc độ:
Thứ nhất, khả năng tiếp nhận của người đọc dựa vào vốn tri thức họ có.
Người đọc, “kẻ cảm nhận được một quan hệ biểu tượng sẽ đứng ở vị trí trung tâm
của vũ trụ” [21, tr.XXVIII] để có thể nhận diện được tất cả các chiều nghĩa của biểu
tượng. Những điều chưa biết có thể sẽ vẽ ra một khoảnh không gian hạn định trí
tưởng tượng của con người về “tiềm năng” nghĩa của biểu tượng. Do vậy, trong quá
trình kiến giải nghĩa, người tiếp nhận phải ý thức “tránh cho là ngông cuồng tất cả
những gì vượt quá sự hiểu biết của chúng ta” [21, tr.XXX]. Bên cạnh tri thức, ở sự
tiếp nhận của người đọc, cảm quan cá nhân về thế giới và khuynh hướng cảm xúc
cũng sẽ ảnh hưởng đến việc định hình nghĩa cho biểu tượng. Chính bởi những lý do
trên, mặc dù cùng tiếp cận một biểu tượng, giữa các cá nhân người đọc sẽ có độ
chênh khác nhau trong kiến giải nghĩa.
Thứ hai, nghĩa quy ước của cộng đồng hay là nghĩa thống nhất mà cả cộng
đồng đã đồng thuận và bảo lưu cho biểu tượng. Đây là nghĩa mà cá nhân người đọc
phải truy tìm trong tổng phổ văn hóa của cộng đồng. Song cũng có trường hợp với
người đọc, là một cá nhân sinh ra và trưởng thành trong không gian của cộng đồng,
nghĩa quy ước dường như đã ảnh hưởng một cách vô thức, trở thành nếp nghĩ/ nếp
cảm của người đọc trước biểu tượng. Điều này ẩn chứa cả hai mặt: tích cực và tiêu
cực. Tích cực khi người đọc có được nền tảng tốt để tiếp cận và kiến giải nghĩa biểu
tượng, và tiêu cực khi sự tự do, sáng tạo của người đọc bị giới hạn bởi chính nếp
nghĩa đó. Tuy nhiên, không thể loại trừ nghĩa quy ước trong quá trình nghiên cứu
biểu tượng bởi vì nó tồn tại như là phông văn hóa của biểu tượng.
Thứ ba, sự liên kết giữa dấu hiệu chỉ dẫn của biểu tượng với các chi tiết khác
trong văn bản. Thật ra, không chỉ gói gọn trong những chi tiết khác của văn bản mà
ngay cả tín ngưỡng, văn hóa cũng được xem là “bè đệm hiện sinh” [21, tr.XXVIII] của
36
biểu tượng. Người ta gọi đó là “vầng hào quang sáng rỡ trong đó biểu tượng được phát
hiện” [21, tr.XXIX]. Nếu bỏ qua các mối quan hệ này và không đặt biểu tượng trong
tổng thể môi trường sống của nó thì khó có thể nắm bắt được nghĩa của biểu tượng.
Từ cả ba điểm trên, chúng tôi nhận ra việc “tái hợp” nghĩa của biểu tượng đá
trong bất kỳ văn bản nào sẽ vừa mang tính khách quan vừa đậm dấu ấn cá nhân. Có
thể thấy hệ thống nghĩa của biểu tượng đá đã được các nhà nghiên cứu “tái hợp”
trong các công trình đề cập đến ở chương 1 là cả một hành trình bị chi phối bởi rất
nhiều yếu tố. Ở đó, sự giao thoa về nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa Việt Nam
và văn hóa nhân loại cũng thể hiện rất rõ.
Thờ đá xuất phát từ tín ngưỡng thờ thần tự nhiên, nghĩa là niềm tin mọi sự
vật xung quanh đều có một vị thần an trú. Các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng
thờ đá từ Văn hóa tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt (Leopold Cadiere),
Tìm hiểu văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á (Đinh
Gia Khánh), Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam (Nguyễn Duy Hinh) cho đến “Thờ
đá trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam” (Nguyễn Việt Hùng) đều khẳng định đá có
một nét nghĩa đầu tiên, đó là sự hiện diện của thánh thần. Khi xem đá biểu trưng
cho “sự có mặt đích thực” [21, tr.271] thì đồng thời các nhà nghiên cứu cũng để
người đọc ngầm hiểu về đá – nơi trú ngụ của vị thần. Vì lẽ này, đá luôn được người
Việt thờ phụng ở nơi tôn nghiêm, tránh những sự đụng chạm được coi là vô lễ với
đá/ vị thần đá, nếu không sẽ bị thần quở trách.
Tương tự những công trình trên, cũng từ tín ngưỡng thờ đa thần, trong tiểu
luận “Truyền thuyết dân gian xứ Bắc về các thần tự nhiên”, Nguyễn Huy Bỉnh nối
tiếp nét nghĩa sự hiện diện của vị thần đá trong truyền thuyết dân gian. Ngoài ra, kết
nối tín ngưỡng thờ đá và văn học dân gian, chuyên luận Sự tích vọng phu và tín
ngưỡng thờ đá ở Việt Nam của Nguyễn Việt Hùng, bài viết “Thử nhận diện dấu vết
tín ngưỡng Chăm qua nhóm truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa” của Hồ Quốc Hùng
nhấn mạnh một lần nữa vai trò của vị thần trong đá. Song đá không chỉ gói gọn
trong biểu trưng về “vong hồn các tổ tiên đã hóa đá” [21, tr.270] mà ở chuyên luận
và bài viết trên, đá biểu hiện cho sự “cố định và an ủi, giữ lấy vong hồn tổ tiên, để
tạo nên màu mỡ cho đất và thu hút nước mưa” [21, tr.270], đồng thời cũng là hình
ảnh của thần linh phù trợ. Đặc biệt, ý nghĩa đá cầu mưa đã chứng tỏ sự liên hệ mang
37
tính sức mạnh thiêng liêng giữa đá và nước. Ở hai công trình, Nguyễn Việt Hùng và
Hồ Quốc Hùng đều phản ánh sự tiếp nhận văn hóa Chăm trong tín ngưỡng thờ đá/
truyện cổ của người Việt. Trong khi đó, với “Truyền thuyết Thạch tướng quân trong
mối quan hệ với tín ngưỡng thờ đá”, Nguyễn Huy Bỉnh đã nói lên sự có mặt của
thần Thạch tướng quân trong những di vật đá thiêng tại xã Tiên Lát, huyện Việt
Yên, Bắc Giang. Điều đáng chú ý là đá thiêng ở Tiên Lát hội tụ cả hình ảnh của
thần linh và tổ tiên.
Riêng trường hợp đá mồ côi Nguyễn Mạnh Tiến nhắc đến trong Những đỉnh
núi du ca – một lối tìm về cá tính H’Mông là một nét nghĩa khác, được quy định bởi
cộng đồng người H’Mông. Họ lấy chính tâm thức của mình để kiến tạo một lớp
nghĩa cho đá, như là một công cụ để giải tỏa cảm xúc và nỗi đau mồ côi. Ở nghĩa
biểu thị này, chúng tôi chưa tìm được sự giao thoa với hệ thống định hướng nghĩa
của biểu tượng đá mà Jean Chevalier và Alain Gheerbrant nêu ra trong Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới.
Khác với tất cả các tác giả trên, Trần Thị An lại định hình giá trị biểu trưng
của đá cụ thể ngay trong bài viết “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền
thuyết dân gian người Việt”: không gian đá – sự sống trong trạng thái tĩnh. Theo cá
nhân chúng tôi, đây có thể được xem là nghĩa tổng quát, phổ biến nhất của biểu
tượng đá bởi lẽ dưới cái vỏ đá tưởng vô tri vô giác lại ẩn chứa bóng dáng của một vị
thần, những phép thiêng với sức mạnh vô biên để liên kết trời – đất, con người –
thần linh và thậm chí nắm giữ quyền năng sinh sản. Đương nhiên sự sống không chỉ
hạn hẹp trong việc giãn nở/ mài mòn của đá mà ngầm truyền thông điệp về cái vĩnh
cửu và bất biến của biểu tượng đá.
“Ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ vừa là nối kết
những phần của nó đã vỡ ra” [21, tr.XXIII] cho nên việc truy tìm nghĩa của biểu
tượng trong văn học dường như càng khó khăn hơn. Trong tình hình nghiên cứu về
đá hiện nay ở Việt Nam, số lượng công trình khá giới hạn, đặc biệt tiếp cận từ
hướng biểu tượng lại càng ít, do đó các lớp nghĩa được chúng tôi thống kê sơ lược ở
trên chỉ mới là sự bắt đầu cho quá trình khám phá biểu tượng đá. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu về đá đã định hướng cho chúng tôi trong hành trình tái hợp
nghĩa cho biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam.
38
2.2. Các lớp nghĩa tiêu biểu của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian
Việt Nam
Trên cơ sở khảo sát 71 truyền thuyết có biểu tượng đá và định hướng nghĩa
của Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (Jean Chevalier và Alain Gheerbrant),
chúng tôi cho rằng biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam có bốn lớp
nghĩa tiêu biểu: sự sống trong trạng thái tĩnh, sự tái sinh trong ngưỡng vọng, sự hiện
diện của thần linh, ý niệm chuyển vị. Tất nhiên, như chúng tôi đã đề cập đến trong
mục 2.1, sự sống trong trạng thái tĩnh là lớp nghĩa phổ quát nhất và có khả năng bao
hàm cả những lớp nghĩa khác. Song chúng tôi vẫn muốn tách các lớp nghĩa thành
những phần riêng biệt vì hai lý do: 1. Mỗi lớp nghĩa đều biểu thị phong phú và khá
rõ trong văn bản, 2. Chúng tôi có thể đi sâu phân tích kỹ hơn, nhằm làm rõ những
... quả của chúng
tôi từ quá trình khảo sát và thống kê văn bản. Sự vay mượn tính chất và giá trị từ đá
của tác giả dân gian đã mở ra những trường nghĩa mới cho nhân vật của truyền
thuyết: tạo nguồn gốc thiên thần, sự kỳ vĩ trong hành trạng, và tượng đài bất tử của
cộng đồng. Đồng thời, cũng chính những nhân vật có liên quan đến đá đã quay
ngược trở lại, hình thành thêm những giá trị cho đá. Do đó, về phương diện lớp
nghĩa, đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam sở hữu sự biến thiên khá sống
141
động. Dựa vào hệ thống lớp nghĩa của đá mà Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đề
cập đến trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (2002, NXB Đà Nẵng) và thực tế
khảo sát, sự so sánh đối chiếu hỗ trợ chúng tôi trong việc nhận diện điểm giống và
dị biệt của đá trong truyền thuyết/ văn hóa Việt với văn hóa nhân loại.
- Thứ hai, với cấu trúc trần thuật của dạng truyện kể có sử dụng biểu tượng
đá, chúng tôi nhận ra đá có sự tương tác với các motif khác của truyền thuyết (giấc
mơ, hiển linh) để hình thành mạch kết cấu của truyện kể. Từ đó, đá góp phần
thiêng hóa nhân vật truyền thuyết bởi lẽ nhân vật không chỉ là báu vật trời ban, mà
còn là đứa con được hưởng ân đức của cả gia đình, dòng họ. Đá trong truyền
thuyết dân gian Việt Nam mang đậm màu sắc tâm linh, vừa là hiện thân của thần
linh vừa là yếu tố cấu thành không gian tâm linh của truyền thuyết. Đương nhiên,
với không gian tâm linh, đá được tác giả dân gian duy trì các tính chất đặc trưng,
nhằm tôn vinh nhân vật lịch sử.
3. Thông qua mối quan hệ giữa văn bản với di tích, tục thờ cúng, luận án đã
phân tích mối quan hệ giữa truyền thuyết và tín ngưỡng thờ đá của người Việt. Có
thể nói, qua thời gian, truyền thuyết dân gian Việt Nam đã minh chứng cho sự kết
hợp rất hài hòa của các tín ngưỡng và văn hóa khác trong biểu tượng đá. Từ cái gốc
là những quan niệm về giá trị biểu hiện của đá, truyền thuyết dân gian đã xây nên
những biểu tượng hàm chứa nhiều lớp nghĩa, vừa đúc kết vừa mở rộng các tầng
nghĩa của đá theo quan niệm người kể, vừa đan thoa, kết nối với các tín ngưỡng
khác (tín ngưỡng thờ Mẫu), của các dân tộc khác nhau (Việt-Chăm) để trở thành
phức thể mới có giá trị kiến tạo bản sắc của con người và vùng đất.
4. Trong luận án, với mối quan hệ giữa truyền thuyết và tín ngưỡng thờ đá,
chúng tôi đã nghiên cứu hai trường hợp: Kì Thạch phu nhân và Thai Dương phu
nhân. Kết quả của sự phân tích này gồm:
- Luận án đã làm rõ hơn mối quan hệ Việt - Chăm trong lịch sử dân tộc, cụ thể
là sự tiếp nhận tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ đá của văn hóa Chăm trong đời sống tâm
linh của người Việt. Ở đây, chúng tôi vừa dự cảm cách tiếp nhận vừa khẳng định
yếu tố Việt trong biểu tượng đá của truyền thuyết và hình thức thờ đá tại đền/ miếu.
- Luận án cũng đã chỉ ra sự lên ngôi của tín ngưỡng thờ Mẫu trong hình thức
thờ cúng và di tích đền Thai Dương phu nhân và miếu Kì Thạch phu nhân. Nghĩa là,
142
tín ngưỡng thờ đá bị che lấp đi, người dân chỉ còn biết đến vị được thờ là Mẫu, hay
nữ thần mà thôi.
5. Các vấn đề chưa thực hiện được trong luận án, chúng tôi hi vọng sẽ có điều
kiện để tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới:
- So sánh lớp nghĩa của biểu tượng đá trong truyền thuyết với các thể loại văn
học dân gian khác của Việt Nam. Với đặc trưng riêng của mỗi thể loại, chúng tôi
cho rằng biểu tượng đá mang các giá trị và lớp nghĩa riêng. Trên cơ sở đó, cũng sẽ
nhận diện được sự đậm nhạt và biến chuyển trong mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ
đá với các thể loại khác của văn học dân gian.
- So sánh lớp nghĩa của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
với truyền thuyết của một số quốc gia khác ở Đông Nam Á và Châu Á. Đương
nhiên, xu hướng trên giải mã các lớp nghĩa giống/ khác nhau mà biểu tượng đá sở
hữu, không chỉ trong một thể loại văn học dân gian mà cả văn hóa. Điều này sẽ
chứng thực có sự giao thoa về tín ngưỡng thờ đá giữa Việt Nam với các nước
trong khu vực.
- Nghiên cứu trường hợp biểu tượng đá của Thai Dương phu nhân trong phạm
vi khu vực miền Trung, vì ở Huế hay Quảng Nam cũng có di tích mang tên miếu/
đền Thai Dương phu nhân. Đây là hướng nghiên cứu mang tính chất vùng miền có
khả năng soi chiếu được phạm vi lưu truyền của văn bản này, và góp phần khẳng
định sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm.
143
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Motif đá thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt, 2015, Tạp chí Khoa học
công nghệ, Đại học Đà Nẵng, tập 95, số 10, tr. 40 – 44.
2. Motif vật hóa đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, 2016, Bản tin Đại học
Huế, số 98, tr.103 - 106
3. Đá thiêng hiển linh trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, 2016, Tạp chí Nghiên
cứu văn học, số 3 (529), tr. 108 – 118.
4. Hình tượng ngọc trong truyền thuyết dân gian người Việt, 2016, Tạp chí Khoa
học (Đại học Huế), số 8 (122), tr.99 - 110.
144
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu văn bản
I. Tiếng Việt
1. Dương Văn An (1961), Ô Châu cận lục, NXB Văn hóa Á Châu.
2. Phan Thuận An (2008), Huế xưa và nay: di tích và danh thắng, NXB Thuận
Hóa, Huế.
3. Trần Thị An (1992), “Sự vận động của truyền thuyết về Mẫu qua những truyện
kể về Liễu Hạnh và truyền thuyết về nữ thần Chăm”, Tạp chí Văn học (5), tr.44
– 49.
4. Trần Thị An (1999), “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết
dân gian người Việt”, Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Viện Văn học,
Hà Nội, tr.732 - 759.
5. Trần Thị An (2001), “Truyền thuyết vùng Luy Lâu với tiến trình lịch sử dân
tộc”, Tạp chí Văn học (6), tr.24 – 30.
6. Trần Thị An (2008), “Tìm hiểu sự hình thành truyền thuyết Tứ vị thánh nương
(qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết dân gian và tục thờ cúng)”, Kỷ yếu Hội
thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba.
7. Trần Thị An (2008), “Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif –
Những khả thủ và bất cập”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7, tr. 88 – 104.
8. Trần Thị An (2014), Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết dân
gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Trần Thị An (2015), “Thích ứng với biển của người Việt – nhìn từ khía cạnh
sinh kế và tín ngưỡng thờ thần biển của cư dân ven biển (Khảo sát từ một số
cộng đồng ngư dân ven biển Bắc Trung Bộ, Việt Nam)”, Tạp chí Văn hóa dân
gian, số 6, tr.3-14.
10. Chiêng Xom An (1992), “Bàn thêm về thể loại truyền thuyết”, Văn hóa dân gian
(2), tr.32 - 40.
11. Đào Duy Anh (1942), “Những truyền thuyết đời thượng cổ nước ta”, Tạp chí Tri
Tân (30), tr.2 - 4.
12. Nguyễn Sơn Anh (2005), Truyền thuyết Lam Sơn, NXB Thanh Hóa, Thanh Hóa.
145
13. Phan Điệp Anh (1986), “Truyền thuyết Hùng Vương”, Tạp chí Văn hóa dân
gian (1), tr. 73.
14. Tôn Thất Bình (chủ biên) (1998), Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế, NXB
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
15. Nguyễn Huy Bỉnh (2004), “Truyền thuyết về Thủy thần ở Thuận Thành, Bắc
Ninh”, Thông báo Văn hóa dân gian, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Nguyễn Huy Bỉnh (2009), “Truyền thuyết dân gian xứ Bắc về các thần tự
nhiên”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (4), tr.90-104.
17. Nguyễn Huy Bỉnh (2013), “Truyền thuyết Thạch tướng quân trong mối quan hệ
với tín ngưỡng thờ đá”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (6), tr. 24 – 31.
18. Lévy Bruhl (2008), Kinh nghiệm thần bí và biểu tượng ở người nguyên thủy,
NXB Thế giới, Hà Nội.
19. Leopold Cadiere (2010) Văn hóa tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người
Việt, tập II (Đỗ Trinh Huệ dịch), NXB Thuận Hóa.
20. Võ Phúc Châu (2010), Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống
Pháp ở Nam Bộ (1858 - 1918), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Thành phố Hồ Chí
Minh.
21. Chevalier J., Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
22. Mai Ngọc Chừ (1999), Văn hóa Đông Nam Á, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
23. Lê Văn Chưởng (2010), Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế, NXB Trẻ,
TP. Hồ Chí Minh.
24. Nguyễn Thị Duyên (2006), Ý nghĩa biểu trưng của hệ biểu tượng con số trong
ca dao người Việt, Luận văn thạc sĩ Văn học dân gian, Hà Nội.
25. Jean Duvignaud (2011), Những tiếng nói đã mất, NXB Thế giới, Hà Nội.
26. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
27. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, NXB Hội Nhà văn,
Hà Nội.
146
29. Carl Gustav Jung (2007), Thăm dò tiềm thức, NXB Tri thức, Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Bích Hà (2002), “Qua truyện Tấm Cám ở vùng Kinh Bắc, tìm hiểu
con đường truyền thuyết hóa truyện cổ tích”, Tạp chí Văn hóa dân gian (6), tr.3-
8.
31. Nguyễn Thị Bích Hà (2006), “Mã và mã văn hoá”, Tạp chí Văn hoá dân gian
(1), tr. 21-27.
32. Nguyễn Thị Bích Hà (2010), “Đã đến lúc kể lại truyền thuyết Gióng”, Kỷ yếu
Hội thảo quốc tế Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong xã hội Việt Nam
đương đại, Hà Nội, tr. 46 - 50.
33. Nguyễn Thị Bích Hà (2014), Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa, NXB
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
34. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng – một số hướng tiếp cận lý
thuyết, NXB Thế giới, Hà Nội.
35. Đinh Hồng Hải (2015), Các vị thần, NXB Thế giới, Hà Nội.
36. Dương Quảng Hàm (1993), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Tổng hợp, Đồng
Tháp.
37. Đào Thái Hanh (1997), “Chuyện Thánh mẫu Thai Dương phu nhân”, Những
người bạn Cố đô Huế (Đặng Như Tùng dịch), tập 1, NXB Thuận Hóa, Huế, tr.
256 - 262.
38. Đào Thái Hanh (1997), “Sự tích nữ thần Kì Thạch phu nhân”, Những người bạn
Cố đô Huế (Đặng Như Tùng dịch), tập 2, NXB Thuận Hóa, Huế, tr. 144 – 147.
39. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam. NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
40. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2005), Sự phát triển ý nghĩa trong hệ biểu tượng trang
phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
41. Kiều Thu Hoạch (1971), “Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến”,
Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, tr. 172 – 232.
42. Kiều Thu Hoạch (1983), “Những đặc điểm tư tưởng của truyền thuyết chống
ngoại xâm”, Tạp chí Văn hóa dân gian (3,4), tr.6 - 18.
147
43. Kiều Thu Hoạch (2000), “Thể loại truyền thuyết dưới mắt các nhà nghiên cứu
folklore Nhật Bản và Trung Quốc”, Tạp chí Văn học (2), tr.39 - 50.
44. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 4
(Truyền thuyết), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 5
(Truyền thuyết), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Trần Sỹ Huệ (2008), Đá và Người (Tức là Đá trong đời sống văn hóa dân gian ở
Phú Yên), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
47. Hồ Quốc Hùng (1998), “Về nhóm truyền thuyết khẩn hoang ở một vùng đất
mới”, Tạp chí Văn học (4), tr.71 - 78.
48. Hồ Quốc Hùng (1999), “Thử nhận diện dấu vết tín ngưỡng Chăm qua nhóm
truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa”, Tuyển tập 40 năm Viện Văn học Tập 1,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tr.584 - 595.
49. Nguyễn Việt Hùng (2004), “Thờ đá trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam”, Tạp
chí Văn hóa dân gian (1), tr.23 – 31.
50. Nguyễn Việt Hùng (2011), Sự tích vọng phu và tín ngưỡng thờ đá ở Việt
Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
51. Nguyễn Thị Thu Huyền (2012), Hình tượng đá trong dân ca H’mông, Luận văn
thạc sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
52. Hà Xuân Hương (2012), Mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội về
người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc, Luận án thạc sĩ văn
học dân gian, Hà Nội.
53. Inrasara (2008), Văn hóa – xã hội Chăm: nghiên cứu và đối thoại, NXB Văn
học, Hà Nội.
54. Inrasara (2011), Văn học Chăm khái luận, NXB Tri thức, Hà Nội.
55. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa
Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Phạm Tiết Khánh (2007), Khảo sát truyện kể dân gian Khơ me Nam Bộ (qua
thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích), Luận án tiến sĩ văn học dân gian, Hà
Nội.
57. Nguyễn Xuân Kính (1993), Thi pháp ca dao, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
148
58. Lê Văn Kỳ, Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và lễ hội các anh hùng,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996, tr. 101.
59. Nghiêm Thị Mai Lan (2006), Khảo sát truyền thuyết và một số phong tục, lễ hội
ở vùng đảo Hà Nam, Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Hà Nội.
60. Nguyễn Thị Thanh Lưu (2011), “Từ truyền thuyết rồng Thăng Long khám phá
biểu tượng rồng trong truyền thuyết dân gian Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
văn học (1), tr.51 – 58.
61. Nguyễn Thị Thanh Lưu (2012), Khảo sát và nghiên cứu truyền thuyết dân gian
xứ Nghệ, Luận án Tiến sĩ Văn học dân gian, Hà Nội.
62. Marcel Mauss (2011), Luận về biếu tặng, NXB Tri thức, Hà Nội.
63. E.M. Meletinski (2005), Thi pháp của huyền thoại, NXB ĐHQG, Hà Nội.
64. Vũ Duy Mền (2000), Hương ước cổ làng xã đồng bằng Bắc bộ, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
65. Phan Ngọc (2006), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
66. Triều Nguyên (2010), Tổng tập văn học dân gian xứ Huế, tập 1, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
67. Nhiều tác giả (1990), Truyện cổ xứ Bắc, NXB Bảo tàng Hà Bắc, Hà Bắc.
68. Đái Xuân Ninh (1986), Ngôn ngữ học: khuynh hướng - lĩnh vực - khái niệm, Tập
2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. Phân viện Văn hóa miền Trung tại Huế (2000), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền
Trung Việt Nam, NXB Thuận Hóa, Huế.
70. Hoàng Phê (chủ biên, 1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
71. Trần Duy Phương (2008), Truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả Lục Ngạn –
Bắc Giang, Luận án Tiến sĩ Văn học, Thái Nguyên.
72. Quốc sử quán triều Nguyễn (1961, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch), Đại Nam nhất
thống chí: Thừa Thiên phủ, tập thượng, Nha văn hóa Bộ quốc gia giáo dục xuất
bản, Sài Gòn.
73. Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1990), Lĩnh Nam chích quái, NXB Văn học, Hà Nội.
74. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Viện Nghiên cứu văn hóa, Sở Văn hóa -
Thông tin Quảng Ngãi, Hội Văn học nghệ thuật Kiên Giang (2008) Văn hoá
biển miền Trung và văn hoá biển Tây Nam bộ, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
149
75. Quách Tấn (1969), Xứ trầm hương, NXB Lá Bối, Sài Gòn.
76. Nguyễn Mạnh Tiến (2014), Những đỉnh núi du ca – một lối tìm về cá tính
H’Mông, NXB Thế giới, Hà Nội.
77. Ngô Đức Thịnh (chủ biên, 2000), Văn hoá dân gian làng ven biển, NXB Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.
78. Ngô Đức Thịnh (chủ biên, 2001), Đạo Mẫu ở Việt Nam, NXB Văn hoá Thông
tin, Hà Nội.
79. Đỗ Lai Thúy (2007), Phân tâm học và tính cách dân tộc, NXB Tri thức, Hà Nội.
80. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
81. Trung tâm KHXH&NV Quốc gia (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam, Văn học
dân gian các dân tộc thiểu số, tập 2, quyển 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
82. Viện Văn học, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia (2002), Tổng tập văn học các
dân tộc thiểu số Việt Nam, Truyện cổ dân gian, tập 2, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
83. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
84. Viện nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh Thuận (2000), Truyện cổ dân gian Chăm,
NXB VHDT, Hà Nội.
85. Viện Nghiên cứu văn hóa, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2009), Tổng tập văn
học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, tập 16: truyện cổ tích thần kỳ,
truyền thuyết, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
86. Phan Xuân Viện (2007), “Môtip đá thiêng/ hóa đá và tín ngưỡng thờ đá trong
truyện kể dân gian Nam Đảo”, Truyện kể dân gian các tộc người Nam Đảo ở
Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tr.46 - 57.
87. Trần Đại Vinh (1995), Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hoá, Huế.
88. Trần Quốc Vượng (1969), “Từ việc nghiên cứu một số tên riêng trong các
truyền thuyết nói về thời kỳ dựng nước”, Tạp chí Văn học (2), tr.63 - 77.
89. Lý Tế Xuyên (2001), Việt điện u linh, NXB Văn học, Hà Nội.
II. Tiếng Anh
90. Stith Thompson (1932), Motif-index of Folk-Literature, A Classification of
narrative elements in folk-tale, ballads, myths, fables, medieval, romances,
exempla, local legends, Indiana University Press.
150
B. Tài liệu mạng
91. Trần Đình Hằng, Tiếp xúc văn hóa Việt – Champa ở miền Trung: nhìn từ làng
xã vùng Huế, library/
get_file?uuid=55bc965f-852f-45f9-8d80-0bb4611f562e&groupId =13025.
92. Nguyễn Văn Hậu (2009),“Biểu tượng như là “đơn vị cơ bản” của văn hóa”,
chung/1186-nguyen-van-hau-bieu-tuong-nhu-la-don-vi-co-ban-cua-van-
hoa.html.
93. Hội Văn nghệ dân gian thành phố Đà Nẵng (2012), Giao lưu văn hóa Việt –
Chăm nhìn từ tín ngưỡng dân gian,
2012/11/g iao-thoa-van-hoa-viet-cham-nhin-tu-tin.html.
94. Inrasara (2015), Biển trong ngôn ngữ và văn hóa Chăm,
van-nghe/bien-trong-ngon-ngu-va-van-hoa-cham-
900149.tpo.
95. Võ Văn Thắng (2009), Giao lưu văn hóa Việt Chăm ở Quảng Nam – Đà Nẵng,
moi-truong-xa-hoi/1457-vo-van-thang-giao-luu-van-hoa-viet-cham-o-quang-
nam-da-nang.html
96. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2010), Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu nước trong văn
chương Việt Nam,
van-hoa/1144-phe-binh-co-mau-va-co-mau-nuoc-trong-van-chuong-viet-
nam.html
97. Nhị thập bát tú, =25
98. Thiên văn,
99. Tục thờ Kut của người Chăm Bàlamôn, https://petruspaulusthong.
wordpress.com/s%E1%BB%AD-van-ng%E1%BB%8Dc/t%E1%BB%A5c-
th%E1%BB%9D-kut-c%E1%BB%A7a-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-cham-
balamon/
100. Mo Mường Hòa Bình và bài toán hậu Bảo trợ,
muong-hoa-binh-va-bai-toan-hau-bao-tro-p276064.html
P1
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
Phụ lục các truyền thuyết dân gian Việt Nam có biểu tượng đá
Khảo sát trong 2 tài liệu:
- Tổng tập văn học dân gian người Việt (tập 4 và tập 5: Truyền thuyết) do Kiều
Thu Hoạch chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
- Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế do Tôn Thất Bình chủ biên, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội, 1998.
Số
thứ tự
Tên truyền thuyết Nguồn
1. Sự tích vua bà Bến nước và vua ông Cội cây TTVHDGNV
2. Sự tích hai vị thiên thần và hai vị thủy thần triều Hùng
Duệ Vương
TTVHDGNV
3. Sự tích Thổ Thống và Nại Nương thời Hùng Vương TTVHDGNV
4. Truyện Tản Viên Sơn Thánh TTVHDGNV
5. Sự tích Tản Viên Sơn Thánh cùng các vị Hiển Công,
Minh Công và Phạm Hiếu, Phạm Thành, Phạm Lương
đánh Thục
TTVHDGNV
6. Sự tích Cao Sơn, Quý Minh TTVHDGNV
7. Sự tích Hùng Hải, Đô Huy thời Hùng Vương TTVHDGNV
8. Sự tích đức Thiên Cang thời Hùng Vương TTVHDGNV
9. Sự tích ông Dục thời Hùng Vương TTVHDGNV
10. Sự tích Tiên Lạp Thạch tướng quân TTVHDGNV
11. Truyện Đổng Thiên Vương TTVHDGNV
12. Sự tích Thiên Đá và Đường Lô đánh giặc Ân TTVHDGNV
13. Sự tích Vũ Lang danh tướng triều Hùng đánh giặc Ân TTVHDGNV
14. Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ Vương TTVHDGNV
P2
15. Truyện Rùa Vàng TTVHDGNV
16. An Dương Vương lập cột đá thề TTVHDGNV
17. Sự tích Doãn công dẹp giặc Tô Định TTVHDGNV
18. Nói về sự tích bà Trưng Trắc, bà Trưng Nhị TTVHDGNV
19. Sự tích đức Thánh Hưng Phúc thời Hai Bà Trưng TTVHDGNV
20. Truyện tam vị thiên thần thời Trưng Vương TTVHDGNV
21. Xuân Nương công chúa TTVHDGNV
22. Doãn Công – Đào Nương TTVHDGNV
23. Thần miếu Độ Mi TTVHDGNV
24. Sự tích thần Đình Tào TTVHDGNV
25. Truyện Man Nương TTVHDGNV
26. Truyện cái khiên TTVHDGNV
27. Sự tích Luy Ông TTVHDGNV
28. Sự tích hai mẹ con đánh giặc Lương TTVHDGNV
29. Bài ký về Hưởng Lãm Mai Hắc Đế TTVHDGNV
30. Núi Phượng Hoàng TTVHDGNV
31. Mã Yên Sơn TTVHDGNV
32. Truyện mộ ở dưới nước TTVHDGNV
33. Truyện bốn anh em một nhà có công phò tá Đinh Tiên Hoàng TTVHDGNV
34. Quán đá, chó vàng TTVHDGNV
35. Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không TTVHDGNV
36. Truyện Cao Sơn đại vương thời Lý TTVHDGNV
37. Sự tích Thiên Bồng nhà Lý TTVHDGNV
38. Sự tích hai anh em Phạm Quang, Phạm Huy thời Lý TTVHDGNV
39. Sự tích Phượng Hoàng công chúa thời Lý TTVHDGNV
40. Truyện bốn anh em cùng một bọc có công chống ngoại
xâm thời Lý Thánh Tông
TTVHDGNV
41. Đền thiêng ở cửa biển TTVHDGNV
42. Truyện Trâu Canh TTVHDGNV
43. Sự tích bà Quý Minh thời Trần TTVHDGNV
P3
44. Sự tích Hạc Lai và Vũ Cố giúp Lê Lợi đánh giặc Minh TTVHDGNV
45. Sự tích Ngọn Côn và Thuấn Nghị thời Lê Thái Tổ TTVHDGNV
46. Sự tích Lê Thánh Tông TTVHDGNV
47. Lương Thế Vinh TTVHDGNV
48. Truyện Phúc Công thời Lê TTVHDGNV
49. Đại vương Ồ TTVHDGNV
50. Truyện tích Thai Dương phu nhân TTVHDGNV
51. Kỳ Thạch phu nhân TKDGTTH
52. Truyện chùa Quang Minh TTVHDGNV
53. Sự tích Hoàng Việt đại vương – Đông Bảng đại vương
thời Lê
TTVHDGNV
54. Truyện Ngư tinh TTVHDGNV
55. Thần Trấn Vũ TTVHDGNV
56. Truyện Hồ Tinh TTVHDGNV
57. Sự tích núi Sậu TTVHDGNV
58. Sự tích núi thần Tam Đảo TTVHDGNV
59. Sự tích suối Rắn TTVHDGNV
60. Truyện lái buôn phương Bắc giấu vàng TTVHDGNV
61. Truyền thuyết tượng Nghè TTVHDGNV
62. Sự tích hòn đá núi La Hán TTVHDGNV
63. Chú voi què hóa núi TTVHDGNV
64. Chuyện con giải thần ở Khê Hạ TTVHDGNV
65. Ông Tả Giám Đàn TTVHDGNV
66. Thần Độc Cước và đền Độc Cước TTVHDGNV
67. Sự tích núi Sầm Sơn TTVHDGNV
68. Cầu làng Sải TTVHDGNV
69. Đôi voi đá ở đền Cao TTVHDGNV
70. Sự tích sông Kinh Thầy TTVHDGNV
71. Núi Bà Đội Om TTVHDGNV
P4
PHỤ LỤC 2
Phụ lục ảnh đá thờ và di tích
ở đền Thai Dương phu nhân và miếu Kỳ Thạch phu nhân
1. Đá thờ tại miếu Kỳ Thạch phu nhân:
A. Phụ bản hình ảnh đá thờ tại miếu Kỳ Thạch phu nhân in trong bài viết
“Truyện Nữ thần Kỳ Thạch phu nhân” của Đào Thái Hanh
B. Đá thờ tại miếu Kỳ Thạch phu nhân (2015)
P5
2. Phụ bản về đền Thai Dương phu nhân trong Huế xưa và nay: di tích và danh
thắng của Phan Thuận An:
P6
3. Hình ảnh đá thờ và kiến trúc đền Thai Dương phu nhân:
A. Đá thờ tại đền Thai Dương phu nhân (2015)
B. Kiến trúc đền Thai Dương phu nhân (2015)
P7
PHỤ LỤC 3
Phụ lục ảnh các trường hợp núi xuất hiện trong motif người hóa đá
và vật hóa đá của truyền thuyết dân gian Việt Nam
nhưng không được ghi chú rõ núi đá
1. Núi Nhân (thôn Bồng Lạng, xã Thanh Nghi, huyện Thanh Liêm, Hà Nam)
xi-mang.html
chuyen-co-that-o-ha-nam.html
P8
2. Núi Sầm Sơn (Núi Trường Lệ, thị xã Sầm Sơn, Thanh Hóa)
thanh-hoa
truong-le/
P9
3. Núi Bà Đội Om (huyện Tịnh Biên, An Giang)
4. Núi Sậu (xã Khánh Thượng, huyện Yên Mô, Ninh Bình)
“Tài nguyên đá vôi: Đá vôi là nguồn tài nguyên khoáng sản lớn nhất của Ninh
Bình. Với những dãy núi đá vôi khá lớn, chạy từ Hoà Bình, theo hướng tây bắc –
đông nam, qua Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, thị xã Tam Điệp, Yên Mô, tới tận
biển Đông, dài hơn 40 km, diện tích trên 1.2000ha, trữ lượng hàng chục tỷ mét khối
đá vôi và hàng chục triệu tấn đôlômít. Đây là nguồn nguyên liệu lớn để sản xuất xi
măng và vật liệu xây dựng và một số hóa chất khác.” (
ninhbinh.vn/gioi-thieu/gioi-thieu-chung)
P10
Hình ảnh khai thác đá tại núi Sậu hiện nay (Núi Sậu nằm ở nơi giáp ranh của xã
Khánh Thượng và xã Mai Sơn của huyện Yên Mô)
20100803092700000p0c77.htm
5. Núi An Phụ (xã An Sinh, huyện Kinh Môn, Hải Dương)
“Ông Nguyễn Đức Đạt – Trưởng ban quản lý di tích Kinh Môn cho biết: Núi
An Phụ dài khoảng 17km, là dãy núi đất pha sa thạch và sỏi kết, thoai thoải dễ leo,
có thể lên từ bất cứ hướng nào”
afb6-8d57b6a43920
P11
BẢNG KHẢO SÁT CÁC DẠNG THỨC CỦA BIỂU TƯỢNG ĐÁ
TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
Số
thứ
tự
Tên truyện
Đá được hóa từ người/
Người được hóa từ đá
Đá được hóa
từ vật
Đá thiêng Ngọc Ngôi
sao
Nguồn
Người
được
hóa từ
đá
Đá
được
hóa từ
người
Người
hóa đá
và đá
hóa
người
Vật
mang
tính
thiện
Vật
mang
tính
ác
Đá thô tự nhiên Đá
đã
được
đẽo
gọt
Có/không
có hình
dạng cụ
thể
Hình
dáng
giống
con
người
1. Sự tích vua bà Bến nước và vua ông
Cội cây
X TTVH
DGNV
2. Sự tích hai vị thiên thần và hai vị thủy
thần triều Hùng Duệ Vương
X TTVH
DGNV
3. Sự tích Thổ Thống và Nại Nương thời
Hùng Vương
X TTVH
DGNV
4. Truyện Tản Viên Sơn Thánh X TTVH
DGNV
5. Sự tích Tản Viên Sơn Thánh cùng các vị
Hiển Công, Minh Công và Phạm Hiếu,
Phạm Thành, Phạm Lương đánh Thục
X TTVH
DGNV
6. Sự tích Cao Sơn, Quý Minh X TTVH
DGNV
7. Sự tích Hùng Hải, Đô Huy thời Hùng
Vương
X TTVH
DGNV
8. Sự tích đức Thiên Cang thời Hùng
Vương
X TTVH
DGNV
9. Sự tích ông Dục thời Hùng Vương X TTVH
P12
DGNV
10. Sự tích Tiên Lạp Thạch tướng quân X TTVH
DGNV
11. Truyện Đổng Thiên Vương X TTVH
DGNV
12. Sự tích Thiên Đá và Đường Lô đánh
giặc Ân
X TTVH
DGNV
13. Sự tích Vũ Lang danh tướng triều
Hùng đánh giặc Ân
X TTVH
DGNV
14. Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ
Vương
X TTVH
DGNV
15. Truyện Rùa Vàng X TTVH
DGNV
16. An Dương Vương lập cột đá thề X TTVH
DGNV
17. Sự tích Doãn công dẹp giặc Tô Định X TTVH
DGNV
18. Nói về sự tích bà Trưng Trắc, bà Trưng
Nhị
X TTVH
DGNV
19. Sự tích đức Thánh Hưng Phúc thời Hai
Bà Trưng
X TTVH
DGNV
20. Truyện tam vị thiên thần thời Trưng
Vương
X TTVH
DGNV
21. Doãn Công – Đào Nương X TTVH
DGNV
22. Thần miếu Độ Mi X TTVH
DGNV
23. Sự tích thần Đình Tào X TTVH
DGNV
24. Truyện Man Nương X TTVH
P13
DGNV
25. Truyện cái khiên X X TTVH
DGNV
26. Sự tích Luy Ông X TTVH
DGNV
27. Sự tích hai mẹ con đánh giặc Lương X TTVH
DGNV
28. Bài ký về Hưởng Lãm Mai Hắc Đế X TTVH
DGNV
29. Núi Phượng Hoàng X TTVH
DGNV
30. Mã Yên Sơn X TTVH
DGNV
31. Truyện mộ ở dưới nước X TTVH
DGNV
32. Truyện bốn anh em một nhà có công
phò tá Đinh Tiên Hoàng
X TTVH
DGNV
33. Quán đá, chó vàng X X TTVH
DGNV
34. Truyện Cao Sơn đại vương thời Lý X TTVH
DGNV
35. Sự tích Thiên Bồng nhà Lý X TTVH
DGNV
36. Sự tích hai anh em Phạm Quang, Phạm
Huy thời Lý
X TTVH
DGNV
37. Sự tích Phượng Hoàng công chúa thời
Lý
X TTVH
DGNV
38. Truyện bốn anh em cùng một bọc có
công chống ngoại xâm thời Lý Thánh
Tông
X TTVH
DGNV
P14
39. Đền thiêng ở cửa biển X TTVH
DGNV
40. Truyện Trâu Canh X TTVH
DGNV
41. Sự tích bà Quý Minh thời Trần X TTVH
DGNV
42. Sự tích Hạc Lai và Vũ Cố giúp Lê Lợi
đánh giặc Minh
X TTVH
DGNV
43. Sự tích Ngọn Côn và Thuấn Nghị thời
Lê Thái Tổ
X TTVH
DGNV
44. Sự tích Lê Thánh Tông X TTVH
DGNV
45. Lương Thế Vinh X X TTVH
DGNV
46. Truyện Phúc Công thời Lê X TTVH
DGNV
47. Truyện tích Thai Dương phu nhân X TTVH
DGNV
48. Kỳ Thạch phu nhân X TKDG
TTH
49. Sự tích Hoàng Việt đại vương – Đông
Bảng đại vương thời Lê
X TTVH
DGNV
50. Truyện Ngư tinh X TTVH
DGNV
51. Sự tích núi Sậu X TTVH
DGNV
52. Sự tích suối Rắn X TTVH
DGNV
53. Truyền thuyết tượng Nghè X TTVH
DGNV
P15
54. Sự tích hòn đá núi La Hán X TTVH
DGNV
55. Chú voi què hóa núi X TTVH
DGNV
56. Chuyện con giải thần ở Khê Hạ X TTVH
DGNV
57. Ông Tả Giám Đàn X TTVH
DGNV
58. Thần Độc Cước và đền Độc Cước X TTVH
DGNV
59. Sự tích núi Sầm Sơn X TTVH
DGNV
60. Cầu làng Sải X TTVH
DGNV
61. Đôi voi đá ở đền Cao X TTVH
DGNV
62. Sự tích sông Kinh Thầy X TTVH
DGNV
63. Núi Bà Đội Om X TTVH
DGNV
P16
BẢNG KHẢO SÁT CẤU TRÚC TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆN KỂ SỬ DỤNG BIỂU TƯỢNG ĐÁ
TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
Số
thứ
tự
Tên truyện
Kết hợp với các motif
khác của truyền thuyết
Đá - thành tố cấu tạo
nên không gian tâm linh
Nguồn
Giấc
mơ
Hiển linh Không
gian
thiêng
Không
gian
thờ
cúng
Không
gian
giấc mơ
Nhiên
thần
Nhân
thần
1. Sự tích hai vị thiên thần và hai vị thủy thần triều Hùng Duệ Vương X TTVH
DGNV
2. Sự tích Thổ Thống và Nại Nương thời Hùng Vương X X X X TTVH
DGNV
3. Truyện Tản Viên Sơn Thánh X TTVH
DGNV
4. Sự tích Tản Viên Sơn Thánh cùng các vị Hiển Công, Minh Công và
Phạm Hiếu, Phạm Thành, Phạm Lương đánh Thục
X TTVH
DGNV
5. Sự tích Cao Sơn, Quý Minh X TTVH
DGNV
6. Sự tích ông Dục thời Hùng Vương X TTVH
DGNV
7. Sự tích Tiên Lạp Thạch tướng quân X TTVH
DGNV
8. Sự tích Vũ Lang danh tướng triều Hùng đánh giặc Ân X TTVH
DGNV
9. Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ Vương X TTVH
P17
DGNV
10. An Dương Vương lập cột đá thề X TTVH
DGNV
11. Sự tích đức Thánh Hưng Phúc thời Hai Bà Trưng X TTVH
DGNV
12. Truyện tam vị thiên thần thời Trưng Vương X TTVH
DGNV
13. Xuân Nương công chúa X TTVH
DGNV
14. Thần miếu Độ Mi X X TTVH
DGNV
15. Sự tích thần Đình Tào X TTVH
DGNV
16. Truyện Man Nương X TTVH
DGNV
17. Sự tích Luy Ông X TTVH
DGNV
18. Sự tích hai mẹ con đánh giặc Lương X TTVH
DGNV
19. Bài ký về Hưởng Lãm Mai Hắc Đế X TTVH
DGNV
20. Núi Phượng Hoàng X TTVH
DGNV
21. Mã Yên Sơn X TTVH
DGNV
22. Truyện mộ ở dưới nước X TTVH
P18
DGNV
23. Truyện bốn anh em một nhà có công phò tá Đinh Tiên Hoàng X TTVH
DGNV
24. Quán đá, chó vàng X TTVH
DGNV
25. Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không X TTVH
DGNV
26. Sự tích hai anh em Phạm Quang, Phạm Huy thời Lý X TTVH
DGNV
27. Sự tích Phượng Hoàng công chúa thời Lý X TTVH
DGNV
28. Đền thiêng ở cửa biển X TTVH
DGNV
29. Truyện Trâu Canh X TTVH
DGNV
30. Sự tích Hạc Lai và Vũ Cố giúp Lê Lợi đánh giặc Minh X TTVH
DGNV
31. Sự tích Ngọn Côn và Thuấn Nghị thời Lê Thái Tổ X TTVH
DGNV
32. Lương Thế Vinh X TTVH
DGNV
33. Đại vương Ồ X TTVH
DGNV
34. Truyện tích Thai Dương phu nhân X X TTVH
DGNV
35. Kỳ Thạch phu nhân X X TKDG
P19
TTH
36. Truyện chùa Quang Minh X TTVH
DGNV
37. Sự tích Hoàng Việt đại vương – Đông Bảng đại vương thời Lê X TTVH
DGNV
38. Truyện Ngư tinh X TTVH
DGNV
39. Thần Trấn Vũ X TTVH
DGNV
40. Truyện Hồ Tinh X TTVH
DGNV
41. Sự tích núi Sậu X TTVH
DGNV
42. Sự tích núi thần Tam Đảo X TTVH
DGNV
43. Sự tích suối Rắn X TTVH
DGNV
44. Truyện lái buôn phương Bắc giấu vàng X TTVH
DGNV
45. Truyền thuyết tượng Nghè X X TTVH
DGNV
46. Sự tích hòn đá núi La Hán X TTVH
DGNV
47. Chú voi què hóa núi X TTVH
DGNV
48. Chuyện con giải thần ở Khê Hạ X TTVH
P20
DGNV
49. Thần Độc Cước và đền Độc Cước X TTVH
DGNV
50. Sự tích núi Sầm Sơn X TTVH
DGNV
51. Đôi voi đá ở đền Cao X TTVH
DGNV
52. Sự tích sông Kinh Thầy X TTVH
DGNV
53. Núi Bà Đội Om X TTVH
DGNV
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_bieu_tuong_da_trong_truyen_thuyet_dan_gian_viet_nam.pdf