VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THỊ HẠNH
BẢN HỘI TRONG ĐẠO MẪU: TẠO LẬP VỐN XÃ HỘI
TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THỊ HẠNH
BẢN HỘI TRONG ĐẠO MẪU: TẠO LẬP VỐN XÃ HỘI
TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI
Chuyên ngành: Văn hóa dân gian
Mã số: 62 22 01 30
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGÔ ĐỨC
236 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 545 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Bản hội trong đạo mẫu: tạo lập vốn xã hội trong bối cảnh chuyển đổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
C THỊNH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Luận án Tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố trong các công
trình nghiên cứu của ai khác.
- Luận án đã được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu
chân thực, cẩn trọng trong luận án.
Tác giả luận án
Mai Thị Hạnh
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án “Bản hội trong Đạo Mẫu: tạo lập vốn xã hội trong
bối cảnh chuyển đổi", tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Tôi xin chân thành cảm GS.TS Ngô Đức Thịnh - người Thầy đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận án.
Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tập thể Khoa Văn hoá học -
Học Viện Khoa học xã hội đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận
án này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TS Lê Hồng Lý, PGS.TS Phạm
Quỳnh Phương, PGS.TS Nguyễn Thị Phương Châm, TS Hoàng Cầm... vì đã góp ý
cho tôi các ý tưởng nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân và bạn bè đã luôn
dành cho tôi sự động viên giúp đỡ trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả luận án
Mai Thị Hạnh
ii
KÍ HIỆU VIẾT TẮT
CNXH Chủ nghĩa xã hội
GS.TS Giáo sư tiến sĩ
EU Liên minh Châu Âu
Nxb Nhà xuất bản
TG Tác giả
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh
TCN Trước công nguyên
Tr Trang
VHTT Văn hóa thông tin
VXH Vốn xã hội
WTO Tổ chức thương mại thế giới
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
KÍ HIỆU VIẾT TẮT iii
MỤC LỤC iv
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
10
LUẬN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 10
1.2. Cơ sở lý luận 24
Tiểu kết 37
CHƯƠNG 2: BẢN HỘI ĐẠO MẪU: MỘT CỘNG ĐỒNG TÔN GIÁO 38
2.1. Sự hình thành bản hội Đạo Mẫu 38
2.2. Cơ cấu tổ chức của bản hội Đạo Mẫu 43
2.3. Thực hành nghi lễ của bản hội Đạo Mẫu 46
2.4. Đặc trưng của bản hội Đạo Mẫu 51
Tiểu kết 66
CHƯƠNG 3: BẢN HỘI ĐẠO MẪU: MÔI TRƯỜNG TÂM LINH
68
ĐẬM MÀU SẮC KINH TẾ
3.1. Màu sắc kinh tế của bản hội Đạo Mẫu: các khía cạnh biểu hiện 68
3.2. Sự gắn kết giữa tâm linh và kinh tế trong bản hội Đạo Mẫu: Những lý giải 84
3.3. Môi trường tâm linh đậm màu sắc kinh tế và cơ sở cho các thành viên
89
bản hội tạo lập vốn xã hội
Tiểu kết 92
CHƯƠNG 4: BẢN HỘI ĐẠO MẪU: MÔI TRƯỜNG TÂM LINH
TRAO QUYỀN LỰC VÀ THỂ HIỆN QUYỀN LỰC CỦA "NHỮNG 93
KẺ BỊ LOẠI TRỪ"
iv
4.1. Bản hội Đạo Mẫu: môi trường tâm linh của những kẻ bị loại trừ 93
4.2. Bản hội Đạo Mẫu: không gian trao quyền lực và thể hiện quyền lực 97
4.3. Môi trường tâm linh trao quyền lực, thể hiện quyền lực của "những kẻ
109
bị loại trừ" và cơ sở cho các thành viên bản hội tạo lập vốn xã hội
Tiểu kết 112
CHƯƠNG 5: TẠO LẬP VỐN XÃ HỘI CỦA CÁC THÀNH VIÊN
BẢN HỘI ĐẠO MẪU: NHẬN DIỆN ĐẶC ĐIỂM, PHƯƠNG THỨC, 113
LỢI ÍCH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
5.1. Nhận diện đặc điểm vốn xã hội của các thành viên bản hội Đạo Mẫu 113
5.2. Phương thức tạo dựng, duy trì và phát triển vốn xã hội của các thành
115
viên bản hội Đạo Mẫu
5.3. Lợi ích của vốn xã hội đối với đời sống của các thành viên bản hội
122
Đạo Mẫu
5.4. Tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội Đạo Mẫu trong bối cảnh
134
chuyển đổi: những vấn đề đặt ra
Tiểu kết 147
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
151
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 167
v
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1 Đạo Mẫu là một loại hình tín ngưỡng có cội nguồn từ căn tính cổ truyền
của dân tộc lựa chọn lối sống theo nguyên lý mẹ, được phát triển từ tín ngưỡng thờ
Mẹ và được nâng lên thành Đạo Mẫu vào thế kỉ XVI trong bối cảnh xã hội phong
kiến Việt Nam có nhiều biến động và trong hoàn cảnh tiếp thu những ảnh hưởng
của Đạo giáo Trung Hoa. Bản hội là không gian của các con nhang đệ tử Đạo Mẫu
quy tụ dưới sự dẫn dắt của một chủ hội (thông thường là đồng Thầy) gắn với một
điện thờ nào đó, chức năng của nó là để cùng nhau thờ phụng và thực hành các nghi
lễ nhà Mẫu. Tuy nhiên, khoảng hai thập kỉ trở lại đây, người ta đang chứng kiến sự
“phục hưng” trở lại nhưng ở những hình thức mới và quy mô lớn hơn rất nhiều của
tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam. Trong bức tranh chung về sự phục hưng đó, sự bộc
phát của Đạo Mẫu và lên đồng trở thành tâm điểm. Chưa bao giờ người ta thấy Đạo
Mẫu phát triển một cách công khai đến thế, cũng chưa bao giờ người ta thấy có
nhiều bản hội xuất hiện và nhiều người tham gia bản hội đến vậy. Quy mô bản hội
được mở rộng hơn cùng với tính chất của bản hội cũng như các mối quan hệ của
bản hội có nhiều biến đổi. Không chỉ là không gian sinh hoạt tín ngưỡng với tình
đồng đạo, bản hội giờ đây còn là không gian để người ta phát triển các dịch vụ tâm
linh, kinh doanh buôn bán, hợp tác làm ăn; nó cũng là không gian của nhiều vấn đề
về giới và quyền lực giới Những điều này gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ về
bản chất của bản hội hiện nay: bản hội có phải chỉ đơn thuần là một cộng đồng
mang tính chất tâm linh không hay sự liên kết giữa các thành viên trong bản hội còn
vì những mục đích và lợi ích khác nữa? Những thành viên trong bản hội đến với
nhau liệu có phải chỉ vì nhu cầu tìm đến sự cộng cảm, vì những vấn đề của tâm sinh
lý hay còn vì vấn đề lợi ích kinh tế? Bối cảnh xã hội nào đã tác động làm đa dạng
hóa bản chất của các mối quan hệ đó? Và các mối quan hệ này giúp gì cho họ trong
cuộc sống? Như vậy, lí do đầu tiên và cũng là quan trọng nhất khiến tôi lựa chọn đề
tài này để nghiên cứu là do tính vấn đề của đối tượng nghiên cứu: bản hội trong xã
hội chuyển đổi.
1.2 Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian đã được các tác giả trong và ngoài
nước dày công nghiên cứu và tiếp cận ở các góc độ khác nhau như văn hóa học,
văn học, tâm lý bệnh học, nhân họcCác cách tiếp cận này đem đến những thành
tựu to lớn trong nghiên cứu về Đạo Mẫu như: cung cấp một cái nhìn tổng quan về
sự hình thành, phát triển của Đạo Mẫu, các yếu tố về nghi lễ, lễ hội Đạo Mẫu; phân
1
tích sâu sắc các giá trị và phản giá trị của Đạo Mẫu; chức năng của nghi lễ Đạo Mẫu
cụ thể là nghi lễ hầu đồng trong việc cân bằng đời sống tâm sinh lý cho những con
nhang đệ tử mắc các chứng bệnh tâm lý như nhiễu tâm, trầm nhược..mà khoa học gọi
chung là “rối loạn cảm xúc”Tuy nhiên, hạn chế dễ nhận thấy trong khi tổng quan tư
liệu về Đạo Mẫu là các nguồn tài liệu thường chỉ tập trung nghiên cứu về bản thân tín
ngưỡng này mà dường như ít quan tâm đến việc nghiên cứu mối quan hệ giữa những
con người cùng thực hành tín ngưỡng đó. Đây là một vấn đề cần tìm hiểu của các nhà
nghiên cứu. Đề tài: “Bản hội trong Đạo Mẫu: tạo lập vốn xã hội trong bối cảnh
chuyển đổi” chính là một cách để nghiên cứu về mối quan hệ này.
1.3 Trong khoảng hai thập niên trở lại đây, vốn xã hội trở thành một đề tài
thu hút sự quan tâm của rất nhiều học giả trên thế giới và trong nước. Mặc dù có
chậm hơn so với các quốc gia khác trong việc tiếp cận khái niệm và khung lý thuyết
này, song tính đến nay, ở Việt Nam đã có khoảng vài chục nghiên cứu về vốn xã hội
bao gồm các bài viết đăng trên các tạp chí, sách, báo và luận án. Hầu hết các nghiên
cứu đề cập đến vốn xã hội trong phát triển kinh tế, giáo dục và xã hội dân sự, thiếu
vắng các công trình nghiên cứu về vốn xã hội trong các tổ chức tôn giáo tín ngưỡng,
và việc tạo lập vốn xã hội trong các nhóm xã hội tâm linh này thì có khác gì so với
các tổ chức và nhóm xã hội bình thường.
Với những lí do trên, tôi chọn “Bản hội trong Đạo Mẫu: tạo lập vốn xã hội
trong bối cảnh chuyển đổi” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là nghiên cứu bản hội và việc tạo lập vốn xã hội của các
thành viên bản hội Đạo Mẫu và thông qua nghiên cứu này như một trường hợp để
hiểu được ý nghĩa, vai trò của tôn giáo tín ngưỡng đối với đời sống con người trong
bối cảnh xã hội chuyển đổi; đồng thời cũng hiểu được sự chuyển mình và những
động thái của xã hội Việt Nam đương đại.
Với những mục đích nghiên cứu trên, luận án đặt ra hai câu hỏi nghiên cứu
chính là:
Thứ nhất, bản hội là một cộng đồng tôn giáo như thế nào, có những đặc
trưng gì nổi bật?
Thứ hai, vì sao bản hội lại là môi trường giúp các thành viên của nó tạo lập
vốn xã hội trong bối cảnh xã hội chuyển đổi? Các thành viên bản hội đã tạo lập vốn
2
xã hội như thế nào trong bối cảnh xã hội chuyển đổi và vốn xã hội ấy đem lại lợi ích
gì cho họ?
Đã có những nghiên cứu chỉ ra các khía cạnh khác nhau của bản hội nhưng
khía cạnh những người đến tham gia bản hội đã tạo lập quan hệ như thế nào và từ
việc tạo lập quan hệ ấy đã tạo nên vốn xã hội cho họ ra sao thì dường như còn ít các
nghiên cứu đề cập đến. Mỗi một cộng đồng với đặc trưng khác nhau sẽ tạo nên cơ
sở giúp các thành viên của nó hình thành nên những dạng vốn xã hội khác nhau.
Bản hội là một cộng đồng đặc biệt, có nhiều điểm khác so với các cộng đồng khác.
Bản thân nó vừa là một cộng đồng tâm linh, vừa là cộng đồng kinh tế, lại vừa là
cộng đồng của những người có đời sống tâm sinh lý và giới đặc biệt. Do vậy, vốn
xã hội của các thành viên bản hội Đạo Mẫu cũng rất đặc biệt, nó được sinh ra từ
nhiều khía cạnh: từ việc họ đến bản hội và tham gia vào các hoạt động nghi lễ, các
hoạt động kinh tế. Vốn xã hội cũng nảy sinh từ việc bản thân những người đến bản
hội là những người rất đặc biệt (đặc biệt về khía cạnh giới, đặc biệt về bối cảnh xuất
thân..), nghề nghiệp của họ cũng rất đa dạng (buôn bán, công chức, quân đội),
trình độ cũng đa dạng. Tất cả những yếu tố này đã tạo nên cho các thành viên bản
hội Đạo Mẫu một nguồn vốn xã hội rất đặc biệt, khác với vốn xã hội của các cá
nhân trong các cộng đồng và các tổ chức xã hội khác.
Để hiểu được vốn xã hội của các thành viên bản hội thì luận án của tôi tập
trung trả lời hai câu hỏi trên. Đối với câu hỏi thứ nhất, luận án sẽ trình bày các vấn
đề về sự hình thành, cơ cấu tổ chức, hoạt động và đặc trưng của bản hội.
Để trả lời cho câu hỏi thứ hai, đầu tiên tôi sẽ đi vào từng khía cạnh đặc trưng
của bản hội như khía cạnh cộng đồng tâm linh đậm màu sắc kinh tế (chương 3),
khía cạnh giới và quyền lực giới (chương 4) để đến chương cuối cùng (chương 5)
luận án sẽ nhìn lại một cách tổng thể để thấy được rằng bản hội chính là một cộng
đồng đặc biệt. Các thành viên khi đến với bản hội không chỉ có cơ hội để xây dựng
các mối quan hệ đồng đạo mà còn xây dựng được nhiều mối quan hệ về kinh tế,
giới, nghề nghiệp trình độCác quan hệ này sẽ đem lại lợi ích đa dạng cho họ. Do
đó, bản hội là môi trường tạo cơ sở giúp các thành viên của nó tạo lập vốn xã hội
trong bối cảnh chuyển đổi. Và vốn xã hội mà các thành viên bản hội Đạo Mẫu tạo
lập có những đặc điểm khác với vốn xã hội được tạo lập từ các thành viên thuộc các
cộng đồng khác. Chương cuối cũng phân tích phương thức tạo lập vốn xã hội và lợi
ích mà vốn xã hội đem lại cho các thành viên bản hội Đạo Mẫu.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
3
Thứ nhất: Minh định khái niệm bản hội, mô tả dân tộc học có phân tích về
sự hình thành, cơ cấu tổ chức, hoạt động nghi lễ của bản hội Đạo Mẫu.
Thứ hai: Phân tích và lý giải các đặc trưng nổi bật của bản hội Đạo Mẫu làm
cơ sở cho việc lý giải vì sao bản hội Đạo Mẫu là môi trường giúp các thành viên
của nó tạo lập vốn xã hội.
Thứ ba:Phân tích cách thức tạo lập vốn xã hội và những lợi ích mà vốn xã
hội đem đến cho các thành viên bản hội về kinh tế, văn hóa – xã hội, văn hóa tín
ngưỡng, bản sắc cá nhân
Thứ tư: Nhận diện và phân tích một số vấn đề đặt ra từ việc tạo lập vốn xã hội
của các thành viên bản hội Đạo Mẫu như vấn đề mối quan hệ hai chiều giữa xã hội
chuyển đổi và việc tạo lập vốn xã hội ; vấn đề chuyển hóa giữa các dạng vốn khác nhau
trong quá trình tạo lập vốn xã hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vì nghiên cứu vấn đề tạo lập vốn xã hội nên đối tượng nghiên cứu của luận
án là các quan hệ xã hội, cách thức tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội
Đạo Mẫu.
Luận án đã chọn mẫu nghiên cứu là một bản hội ở Hà Nội với các thành
viên, mối quan hệ giữa các thành viên, bao gồm đồng Thầy, chấp tác, con nhang đệ
tử, cung văn, hầu dâng....Cụ thể, luận án nghiên cứu bản hội Phúc Minh từ1, một
bản hội ở Hà Nội do đồng Thầy Xuyên đứng đầu.
Tuy nhiên, tôi cũng thâm nhập một số bản hội khác ở Hà Nội, Hải Phòng,
Hưng Yên để có cái nhìn so sánh trong khi nghiên cứu về Phúc Minh từ và giúp cho
những kết luận của luận án thêm phần khách quan hơn.
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là một bản hội ở Hà Nội, nghĩa là
một bản hội ở đô thị. Do đó, những kết luận của luận án mang tính chất đặc trưng
cho bản hội ở đô thị. Hơn nữa, bản hội này được đặt trong bối cảnh xã hội chuyển
đổi hiện nay, do đó những kết luận của luận án cũng mang tính chất kết luận về bản
hội đương đại. Bản hội ở các thế kỉ trước chắc chắn sẽ có những điểm khác. Tuy
nhiên, trong luận án này, tôi chưa có điều kiện để đi sâu hơn trong việc tìm hiểu bản
hội ở nông thôn và bản hội ở các thời kỳ trước đây.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
1 Để đảm bảo bảo đạo đức nghiên cứu và đảm bảo danh tính, an toàn cho các thông tín viên, tên đồng Thầy,
tên bản hội và tên tất cả những người chúng tôi phỏng vấn đã được thay đổi trong luận án.
4
Về nội dung: luận án tập trung nghiên cứu về sự hình thành, cơ cấu tổ chức,
hoạt động nghi lễ của bản hội, sự cố kết và xung đột của nó; nghiên cứu các đặc
trưng cơ bản của bản hội trong cái nhìn so sánh với cộng đồng nói chung và cộng
đồng tôn giáo khác nói riêng; nghiên cứu cách thức tạo lập vốn xã hội và những lợi
ích mà vốn xã hội đem lại cho các thành viên bản hội; nghiên cứu mối quan hệ giữa
bối cảnh xã hội chuyển đổi và vấn đề tạo lập vốn xã hội.
Về không gian: Luận án nghiên cứu một bản hội tại Hà Nội với những thành
viên của nó. Các thành viên này thường xuyên hành hương, đi lễ xa. Vì vậy, luận án
không chỉ nghiên cứu những hoạt động và mối quan hệ của họ diễn ra tại Hà Nội
mà ở cả những nơi các thành viên của bản hội tới.
Về thời gian: luận án nghiên cứu về bản hội Phúc Minh từ từ khi nó hình
thành, tuy nhiên sẽ tập trung hơn vào khoảng chục năm trở lại đây khi mà hiện
tượng lên đồng bùng phát, khi những tác động của bối cảnh chuyển đổi mạnh mẽ hơn,
những rủi ro, bất trắc không thể lường trước khiến số lượng thành viên tham gia vào
bản hội nhiều hơn và tính chất của các mối quan hệ trở nên phức tạp.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1 Từ góc độ phương pháp ngành, tôi sử dụng tiếp cận dân tộc học/ nhân
học để có cái nhìn sâu hơn về “quan điểm của người trong cuộc”, quan điểm của
những thành viên trong cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu, bên cạnh đó tôi cũng phối kết
hợp với các cách tiếp cận khác để có cái nhìn liên ngành: chẳng hạn, tôi đã sử dụng
phương pháp tiếp cận tôn giáo học để nghiên cứu bản hội và những thực hành nghi
lễ có chức năng cộng cảm như thế nào đối với các thành viên; tiếp cận tâm lý học
tôn giáo để hiểu sâu hơn những tâm tư, tình cảm, niềm tin, sự tương hỗ lẫn nhau
cũng như những xung đột giữa các thành viên bản hội; tiếp cận kinh tế học để
nghiên cứu sự đầu tư, những phí tổn và lợi ích thu được từ vốn xã hội
4.2 Ở cấp độ phương pháp tiến hành cụ thể, tôi đã sử dụng hai hệ phương
pháp chính:
Thứ nhất: tập hợp và nghiên cứu những tài liệu thứ cấp bao gồm những tư
liệu, tài liệu, sách báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã được in ấn, xuất bản và
đang được lưu trữ tại các thư viện.
Những tư liệu này giúp tôi có một cái nhìn tổng thể về Đạo Mẫu; về bản hội;
về vốn xã hội; về xã hội chuyển đổi; về tình hình phát triển, biến đổi của tôn giáo
tín ngưỡng trong bối cảnh chuyển đổitrên cơ sở đó lên kế hoạch chi tiết cho việc
đi khảo sát thực địa, lập ra hệ thống câu hỏi phỏng vấn, lựa chọn đối tượng để
phỏng vấn. Có thể nói, nguồn tư liệu thứ cấp này có vai trò không kém phần quan
5
trọng, tôi đã kế thừa và vận dụng những kết quả các công trình của các thế hệ đi
trước, từ đó tìm ra những luận điểm mới, cách tiếp cận mới và phát triển nó trong
luận án của mình.
Thứ hai: quan sát tham dự và phỏng vấn sâu. Đây là những phương pháp
quan trọng của ngành dân tộc học/ nhân học. Sử dụng phương pháp này giúp tôi
thâm nhập sâu vào bản hội, vào các mối quan hệ giữa các thành viên trong bản hội,
hiểu sâu hơn bản chất của nó và tiệm cận đến việc “diễn giải văn hóa như người
trong cuộc”, tôn trọng tiếng nói của người trong cuộc.
Tuy nhiên, ban đầu tôi đã gặp rất nhiều khó khăn. Thật khó để xác định
thành viên của bản hội hiện là bao nhiêu người, ngay cả người đứng đầu bản hội
cũng nói với tôi như vậy vì số người ra, vào bản hội thì thường xuyên và rất nhiều.
Bản hội lại cũng không giống các cộng đồng xã hội khác là thường xuyên có các
cuộc họp, hay các hoạt động đòi hỏi tuyệt đối sự có mặt của tất cả các thành viên,
họ lại sống rất xa nhau: người ở Hà Nội, người ở Hưng YênĐiều này, gây khó
khăn cho tôi trong việc tiếp xúc với nhiều thành viên bản hội. Song khó khăn lớn
nhất mà tôi gặp phải là thái độ thờ ơ, lạnh nhạt, bất hợp tác của các thành viên bản
hội. Mỗi khi tôi hỏi một câu hỏi nào đó thì họ trốn tránh câu trả lời và khó để có thể
mở lòng với tôi, họ viện dẫn tới nhiều nguyên nhân khiến họ không trả lời tôi trong
đó nguyên nhân chính là: “Chị nên hỏi thầy Xuyên, thầy biết hết”. Những khó khăn
này làm tôi mệt mỏi và nhiều khi muốn bỏ cuộc giữa chừng.
Tôi phát hiện ra sai lầm của mình, rằng tần suất xuất hiện thưa thớt cũng như
những hành động cử chỉ của tôi chưa đủ để tạo nên sự thân thiết cũng như niềm tin
trong họ. Tôi quyết định sẽ phải kiên trì, bình tĩnh, tìm cách để xuất hiện thường
xuyên và gặp gỡ càng nhiều người trong bản hội càng tốt. Sự xuất hiện nhiều đó
giúp tôi quan sát được nhiều hơn các hoạt động của bản hội, cả những chia sẻ cộng
cảm cũng như những mâu thuẫn trong lòng nó và điều đặc biệt hữu hiệu là các
thành viên trong bản hội dần quên việc tôi đang hiện diện để nghiên cứu họ và
không cảnh giác với tôi nữa. Cụ thể:
+ Quan sát tham dự: tôi đã tham dự và quan sát một số hoạt động của bản
hội trong những ngày sóc vọng hàng tháng ( vào ngày mùng một và ngày rằm hàng
tháng, các con nhang đệ tử đến thắp hương tại bản điện nhà đồng Thầy, điều này là
không bắt buộc nhưng các đệ tử cảm thấy trách nhiệm phải đến của mình. Tuy
nhiên, họ không đến cùng một lúc mà lẻ tẻ, rải rác cả ngày); tham gia “sử dụng”
và quan sát một số nghi lễ như giải hạn đầu năm, làm lễ đổi tiền âm lấy tiền dương
để bán nhà; tham dự và quan sát mối quan hệ của các thành viên trong nghi lễ lên
đồng; quan sát tham dự các hoạt động mang tính chất cố định một năm 4 kì của bản
6
hội như lễ Thượng Nguyên, lễ vào hạ, lễ tán hạ, lễ cuối năm; tham dự và quan sát
các cuộc họp đầu năm và cuối năm của bản hội; tham gia và quan sát hoạt động đi
lễ xa của bản hội; tham gia và trở thành một trong những người tiêu thụ sản phẩm
đa cấp Amway
+ Phỏng vấn sâu: về cơ bản có thể hình dung, bản hội Phúc Minh từ là một
cộng đồng của những tín đồ Đạo Mẫu trong đó đứng đầu và điều hành bản hội là đồng
Thầy Xuyên. Dưới đồng Thầy và giúp việc cho đồng Thầy là các chấp tác (có 6 người),
và các đệ tử, các hầu dâng, cung văn. Vì vậy, để hiểu sâu về bản hội và các quan hệ
trong bản hội, tôi đã phỏng vấn các đối tượng sau:
Đồng Thầy Xuyên: Phỏng vấn đồng Thầy là để hiểu về lịch sử hình thành
và phát triển của bản hội (vì bản hội được hình thành và phát triển gắn liền với hoạt
động phục vụ thánh của đồng Thầy); hiểu về cơ cấu, cách thức vận hành của bản hội;
cách đồng Thầy tổ chức lãnh đạo và tổ chức các hoạt động của bản hội; mối quan hệ
của đồng Thầy với các thành viên bản hội; việc sử dụng vốn văn hóa và vốn kinh tế để
tạo dựng vốn xã hội của đồng Thầy
Nhóm những người chấp tác : Tôi đã phỏng vấn cả 06 người làm nhiệm
vụ chấp tác trong bản hội, bao gồm 02 người đàn ông và 04 người phụ nữ trong độ
tuổi từ 23 đến 57.
Nhóm đệ tử: Đệ tử của Phúc Minh từ bao gồm các bà đã quy y theo Phật
nhưng có lòng mến mộ Đạo Mẫu, các thanh đồng, các tín chủ, nhang tử, bán tử....
Về các bà đi quy, tôi đã phỏng vấn 04 người ( từ độ tuổi 55 đến 76). Về thanh đồng,
tôi đã phỏng vấn 12 người (04 nam và 08 nữ từ độ tuổi 26 đến 52)
Nhóm cung văn và hầu dâng: tôi đã phỏng vấn 06 người. Những người
chấp tác, đệ tử, cung văn, hầu dâng là nhóm đối tượng phỏng vấn rất quan trọng.
Việc phỏng vấn họ giúp tôi hiểu được nhiều vấn đề: nguyên nhân, mục đích và cách
thức họ tham gia vào bản hội; vì sao họ gia nhập vào bản hội này mà lại không phải
bản hội khác; cách họ thiết lập và duy trì quan hệ với đồng Thầy và những người
trong bản hội; họ đã sử dụng và khai thác các mối quan hệ trong bản hội như thế
nào trong thực hành nghi lễ cũng như trong cuộc sống đời thường
Ngoài ra, tôi còn phỏng vấn các đồng Thầy và các thanh đồng của các bản
hội khác biết đồng Thầy Xuyên và bản hội Phúc Minh từ để có nguồn tư liệu so
7
sánh, để biết thêm những cảm nhận khác về đồng Thầy Xuyên và bản hội Phúc
Minh từ
Tất nhiên, để đảm bảo đạo đức nghiên cứu và để đảm bảo danh tính, an toàn
cho các “thông tín viên”, tên của bản hội và những người chúng tôi phỏng vấn đã
được thay đổi trong luận án.
Để hỗ trợ cho các phương pháp trên, tôi còn sử dụng phương pháp điều tra
bằng bẳng hỏi. Cụ thể, trong buổi lễ đầu năm tại điện nhà đồng Thầy với sự hiện
diện đông đảo các thành viên bản hội, tôi đã phát bảng hỏi cho 81 người hiện có mặt
để khảo sát các thông tin liên quan đến việc gia nhập bản hội, các mối quan hệ của họ
trong bản hội và những lợi ích mà họ nhận được khi là thành viên của bản hội .
Đối với những tư liệu thu được từ phỏng vấn sâu và quan sát tham dự, tôi đã
chuyển thể thành Nhật kí thực địa và biên bản phỏng vấn sâu qua việc gỡ băng. Đó là
những tư liệu định tính có giá trị thực được dùng để trích dẫn trong luận án. Đối với
bảng hỏi, tôi đã chuyển thành số liệu định lượng và được dùng hỗ trợ cho các tư liệu
định tính khi chứng minh một vấn đề nào đó. Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng, với
một đề tài quan tâm nhiều đến thái độ, tình cảm, suy nghĩ, quan niệm của chủ thể
văn hóa về quan hệ xã hội và vốn xã hội của họ thì luận án này coi trọng hơn các
phương pháp nghiên cứu định tính. Những số liệu định lượng được dẫn dụ trong luận
án mang tính chất tham khảo và bổ sung cho các phương pháp định tính.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
+ Đây là luận án đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về bản hội Đạo
Mẫu trong bối cảnh xã hội chuyển đổi. Cung cấp một cái nhìn tổng quan về cộng đồng
tín đồ Đạo Mẫu trên các phương diện từ sự ra đời, cơ cấu tổ chức, hoạt động nghi lễ,
đặc trưng, các quan hệ xã hội và việc tạo lập vốn xã hội giữa các thành viên
+ Luận án bổ sung thêm một cách tiếp cận về Đạo Mẫu đó là cách tiếp cận từ
cộng đồng tín đồ của tín ngưỡng này bên cạnh cách tiếp cận quen thuộc từ trước
đến nay ta vẫn thường thấy là tập trung nghiên cứu bản thân tín ngưỡng này với
nghi lễ, lễ hội và giá trị
+ Trong bối cảnh phần lớn những nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam
được tiếp cận từ góc độ kinh tế học, chính trị- xã hội thì luận án góp thêm một cách
tiếp cận vốn xã hội từ góc nhìn văn hóa. Luận án cũng phản ánh mối quan hệ và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các loại vốn: vốn xã hội, vốn kinh tế và vốn văn hóa.
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1 Ý nghĩa lý luận của luận án
8
+ Luận án góp phần vào nhận diện một cách khá toàn diện về bản hội Đạo
Mẫu trong bối cảnh xã hội chuyển đổi từ các khía cạnh tâm linh, kinh tế, giới và
quyền lực giới. Đặc biệt là luận án góp phần nhận diện đặc điểm vốn xã hội của các
thành viên bản hội Đạo Mẫu, cách thức tạo lập và lợi ích của vốn xã hội đối với đời
sống của họ.
+ Với những kết quả nghiên cứu, luận án góp phần khẳng định một vấn đề có
ý nghĩa lý luận: trong bối cảnh chuyển đổi, Đạo Mẫu nói riêng và tôn giáo tín
ngưỡng nói chung đang có sự phục hồi, phát triển và tiếp tục khẳng định vai trò của
nó trong đời sống của cá nhân và cộng đồng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
+ Luận án góp thêm luận cứ về tầm quan trọng của vốn xã hội và việc tạo lập
vốn xã hội cho sự phát triển của con người trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, điều
đó có ý nghĩa thực tiễn không chỉ đối với cá nhân mà đối với cả các cộng đồng, tổ
chức trong việc đưa ra chiến lược phát triển của mình.
+ Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu cho các nhà nghiên cứu về văn
hóa, tín ngưỡng tôn giáo và vốn xã hội.
+ Kết quả của luận án cũng có thể gợi mở cho các nhà quản lí tôn giáo tín
ngưỡng trong việc quản lí hoạt động của bản hội Đạo Mẫu nói riêng và hoạt động
tâm linh nói chung.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được kết
cấu thành 5 chương sau đây:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý luận
Chương 2: Bản hội Đạo Mẫu: một cộng đồng tôn giáo
Chương 3: Bản hội Đạo Mẫu: môi trường tâm linh đậm màu sắc kinh tế
Chương 4: Bản hội Đạo Mẫu: môi trường tâm linh trao quyền lực và thể hiện
quyền lực của “những kẻ bị loại trừ”
Chương 5: Tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội Đạo Mẫu : nhận
diện đặc điểm, phương thức, lợi ích và những vấn đề đặt ra.
9
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về Đạo Mẫu
Có thể chia lịch sử phát triển của những nghiên cứu về Đạo Mẫu thành hai
giai đoạn: trước và sau năm 1986. Trước năm 1986, những nghiên cứu về Đạo Mẫu
và các khía cạnh của nó còn rất thưa thớt, chủ yếu là những tác phẩm mang tính
chất sưu tầm, ghi chép về thần tích và truyền thuyết các nữ thần và các Thánh Mẫu.
Có một số công trình nghiên cứu về Đạo Mẫu trong giai đoạn này nhưng không
phải của các tác giả người Việt Nam mà lại là người Pháp như Technique et
panthéon dé Médiem Vietnamiens (Kỹ thuật lên đồng ở Việt Nam) (M.Durand
1959)[148], “Hau dong, un culte vietnamien de possession trangsplanté en
France” (Hầu đồng, một tín ngưỡng của người Việt di cư sang Pháp) (P.J Simson
1973). Cả hai công trình này đều tiếp cận Đạo Mẫu từ tục lên đồng. Từ năm 1986 ,
từ khi Đổi mới, sự cởi mở trong chính sách của Đảng và Nhà nước làm cho đời
sống tôn giáo tín ngưỡng có nhiều khởi sắc. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu về
Đạo Mẫu Việt Nam cũng có nhiều nét mới hơn và trở nên sôi động gắn liền trước
hết với những tâm huyết của các nhà nghiên cứu của Viện văn hóa dân gian. Số
lượng các nghiên cứu và các hội thảo về Đạo Mẫu ngày càng nhiều hơn, đồng thời
Đạo Mẫu cũng được sự quan tâm chú ý hơn của nhiều học giả nước ngoài. Qua tổng
quan tài liệu về Đạo Mẫu mà chúng tôi có được, có thể thấy, Đạo Mẫu đã được tiếp
cận từ các góc độ tiêu biểu dưới đây:
Những ghi chép, sáng tác từ góc độ văn học
Những tác phẩm đầu tiên có vai trò đặt nền móng cho những nghiên cứu về
Đạo Mẫu sau này chính là các văn bản ghi chép về các nữ thần, Thánh Mẫu từ góc
độ văn học như các ghi chép các thần tích, huyền thoại, truyện kể dân gianCó thể
kể đến những ghi chép về Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong các sách như Việt điện u
linh của Lý Tế Xuyên [134], Sự thờ cúng các vị thần tiên ở Việt Nam của Nguyễn
Văn Huyên [54], Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi [14], Các
nữ thần Việt Nam của Đỗ Thị Hảo, Mai Ngọc Chúc [37]
Cùng với việc sưu tầm, không ít tác giả mà trong các trường hợp này là các trí
thức Nho học thời phong kiến (thế kỉ X đến đầu thế kỉ XX) tiến hành ghi chép lại, sáng
tác thêm những huyền thoại, truyền thuyết đã được sưu tầm ghi chép từ trước . Việc
sưu tầm, ghi chép và sáng tác thêm các huyền thoại, truyền thuyết Thánh mẫu Liễu
10
Hạnh là một điển hình, trong đó Vân cát thần nữ in trong tập sách Truyền kỳ tân phả
của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705- 1748) [30] là được coi là sớm nhất. Một xu
hướng khác trong việc truyền bá lai lịch của các nữ thần đó là phóng tác tiểu thuyết
hóa. Đó là trường hợp Thánh Mẫu Liễu Hạnh với hai cuốn tiểu thuyết Bà Chúa Liễu
của Hoàng Tuấn Phổ [90] và Liễu Hạnh công chúa của Vũ Ngọc Khánh [60].
Thực ra, các sưu tầm, ghi chép và sáng tác thêm trên chưa phải là những
công trình nghiên cứu, tuy nhiên nó vẫn có giá trị to lớn. Đây chính là nguồn tư liệu
quan trọng để các nhà nghiên cứu về Đạo Mẫu sau này tiếp thu và có cơ sở để phân
tích nhiều chiều cạnh của Đạo Mẫu.
Những nghiên cứu từ góc độ văn hóa học
Từ góc độ văn hóa học, các tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu các
khía cạnh văn hóa khác nhau của Đạo Mẫu. Có thể kể đến những nghiên cứu quan
trọng được tiếp cận từ góc độ này như: Tiếp cận tín ngưỡng dân dã (Nguyễn Minh
San 1998) [97], Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam (Nguyễn Hữu Thông
2001) [114], Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng (Ngô Đức Thịnh 2001) [111], Đạo
Mẫu ở Việt Nam (Ngô Đức Thịnh 2002) [110], Đạo Mẫu và các hình thức Shaman
trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á (Ngô Đức Thịnh chủ biên 2004) [108],
Văn hóa Thánh Mẫu (Đặng Văn Lung 2004) [72]. Đây là những công trình nghiên
cứu tổng quan về Đạo Mẫu.
Bên cạnh đó, còn có những công trình nghiên cứu chuyên sâu vào những
yếu tố riêng lẻ của Đạo Mẫu như điện thờ, nghi lễ, âm nhạc, lễ vật thờ
cúngnhư:, Quanh tín ngưỡng dân giã Mẫu Liễu và điện thờ (Trần Lâm Biền
1990) [12], Hát văn (Ngô Đức Thịnh 1992) [107], Lên đồng – hành trình của
thần linh và thân phận (Ngô Đức Thịnh 2010) [112], Đồ mã trong điện thờ Mẫu
(Trương Minh Hằng, Giang Ánh Nguyệt 2013) [38], Lên đồng và hành trình nhận
...iệt Nam
22
Trong lĩnh vực văn hóa, cho đến thời điểm hiện nay, phải kể đến“Quà và vốn
xã hội ở hai cộng đồng nông thôn Việt Nam” của Lương Văn Hy (2010) [56] và “Sổ
nợ đời- Vốn xã hội: Định đề giới hạn về trao đổi xã hội hay những mối liên hệ liên
chủ thể” của Nguyễn Anh Tuấn (2011) [121]. Lương Văn Hy qua so sánh đối chiếu
về dòng quà tặng ở hai cộng đồng nông thôn Việt Nam là làng Hoài Thị ở Bắc Ninh
và làng Khánh Hậu ở Long An đã lập luận rằng dòng quà tặng có vai trò quan trọng
trong việc tạo dựng, duy trì và phát triển VXH, vì khi tặng quà thì phải tính đến
những nguồn lực như tiền, công sức và thời gian. Những người giàu có một lợi thế về
VXH. Tuy nhiên, việc vốn kinh tế có đưa đến nhiều VXH hay không thì lại còn phải
tùy thuộc vào cơ cấu của mạng lưới xã hội, thân tộc ở địa phương và việc là một hộ
nào đó có hòa nhập mạnh vào mạng lưới xã hội này không [56; tr420]. Từ kết quả
nghiên cứu của mình, Lương Văn Hy cũng chỉ ra rằng VXH có sự khác biệt giữa các
vùng và những giai tầng xã hội có tính đặc thù vùng “Sổ nợ đời” được phản ánh
trong bài viết của Nguyễn Anh Tuấn là một cuốn sổ ghi chép lại việc phúng viếng
biếu tặng bằng tiền hay hiện vật trong việc tang của gia đình. Trên thực tế thì cuốn sổ
này ghi chép nhiều vấn đề liên quan đến quan hệ xã hội, trao đổi xã hội và vai trò của
nó, không chỉ liên quan đến việc tang, mà cả việc mừng cưới, mừng thọ, giỗ gia tiên
hay những việc khác như xây mộ gia tiên, hội hè đình đám “Sổ nợ đời” cũng phản
ánh tính gắn kết liên chủ thể trong mạng lưới xã hội không phân biệt thành phần tộc
người và văn hóa bản thân mỗi chủ thể thuộc về [121; tr 30].
1.1.4 Những vấn đề luận án kế thừa và những vấn đề nghiên cứu đặt ra
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới cộng đồng, cộng đồng tôn giáo,
bản hội và VXH trên nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó có nhiều khía cạnh là
những sự gợi ý cho ý tưởng nghiên cứu trong luận án của tôi.
Từ những nghiên cứu về cộng đồng nói chung, tôi quan tâm nhiều đến luận
điểm của D.W.McMillan và D.M.Chavis về “ý thức cộng đồng”, cảm giác thuộc về
cộng đồng (sense of community) bởi nó là một gợi ý cho tôi trong việc nghiên cứu
cái ý thức gì, cảm giác gì đã tạo nên cộng đồng bản hội và làm cho họ gắn kết với
nhau. Mặt khác, luận điểm của Robert D.Putnam về cộng đồng được xem như là
nguồn VXH thực sự là một ý tưởng tuyệt vời. Xuyên suốt luận án của mình, tôi
cũng nhìn nhận bản hội là một cộng đồng trong đó các thành viên của nó tạo
lậpVXH .Tuy nhiên, nếu như Robert D.Putnam nhìn nhận VXH từ góc nhìn kinh tế
học thì trong luận án của mình tôi sẽ nhìn nhận nó từ góc độ nhân học văn hóa,
nghiên cứu một đối tượng văn hóa.
23
Những nghiên cứu về cộng đồng tôn giáo nói chung (như nghiên cứu của
Đào Thế Đức, Nguyễn Hồng Dương, Lưu Bành) và những nghiên cứu về cộng
đồng bản hội nói riêng (như nghiên cứu của Claire Chauvet, Nguyễn Ngọc Mai, Vũ
Thị Tú Anh) giúp tôi quan tâm đến các khía cạnh của bản hội như: sự hình thành,
các hoạt động nghi lễ, đặc trưng của nó.
Những nghiên cứu về VXH của cả các học giả nước ngoài và Việt Nam (đặc
biệt là các nghiên cứu của Pierre Bourdieu, Robert Putnam, Lương Văn Hy, Lưu Bành,
Khúc Thị Thanh Vân, Nguyễn Anh Tuấn ) đã giúp tôi quan tâm đến các khía cạnh
của VXH như: những phí tổn về thời gian, công sức và tiền bạc trong việc tạo lập VXH,
vai trò của VXH trong cuộc sống của con người
Tuy nhiên, có nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ về cộng đồng bản hội
trong các nghiên cứu đó như khái niệm bản hội, đặc trưng của bản hội có gì đặc biệt
khác với các cộng đồng tôn giáo khác và đặc biệt trong bối cảnh xã hội chuyển đổi
cộng đồng ấy như thế nào? Tại sao nó lại giúp các thành viên tạo lậpVXH? Họ tạo
lập VXH ra sao? VXH ấy có những lợi ích gì cụ thể đối với các thành viên? Các vấn đề
này sẽ được nghiên cứu trong khuôn khổ nội dung của luận án.
1.2. Cơ sở lý luận
Với câu hỏi nghiên cứu chính “Bản hội là một cộng đồng tôn giáo như thế nào,
có những đặc trưng gì nổi bật? Vì sao trong bối cảnh chuyển đổi bản hội lại là môi
trường giúp các thành viên tạo lập vốn xã hội? Các thành viên bản hội đã tạo lập vốn
xã hội như thế nào và vốn xã hội ấy đem lại những lợi ích gì cho họ? ”, luận án đã tìm
kiếm cơ sở lý luận từ những quan điểm lý thuyết khác nhau có liên quan. Sử dụng cách
tiếp cận nhân học văn hóa như một cách tiếp cận tổng thể trong luận án, chúng tôi coi
“văn hóa như là các mối quan hệ”, quan hệ giữa con người với tự nhiên, quan hệ giữa
con người với con ngườiTrong luận án này, tôi nghiên cứu quan hệ giữa con người với
con người trong một cộng đồng tôn giáo đó là bản hội.Vì vậy, trong phần này, tôi sẽ trình
bày các lý thuyết và khái niệm được sử dụng như nền tảng cơ sở lý luận để giải quyết các
vấn đề trong luận án. Cụ thể, tôi sẽ trình bày các khái niệm “bản hội”, “môi trường tâm
linh”, “vốn xã hội”, “tạo lập vốn xã hội”, “cộng đồng”, “cộng đồng tôn giáo”, “xã hội
chuyển đổi” cũng như hướng tiếp cận lý thuyết của luận án.
1.2.1. Các khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án
1.2.1.1. Khái niệm cộng đồng và cộng đồng tôn giáo
Khái niệm cộng đồng
Có nhiều quan niệm khác nhau về cộng đồng nhưng trong luận án này tôi
quan niệm rằng: cộng đồng là một tập hợp người có sức bền cố kết nội tại cao, với
24
những tiêu chí nhận biết và quy tắc hoạt động, ứng xử chung dựa trên sự đồng thuận
về ý chí, tình cảm, niềm tin và ý thức cộng đồng, nhờ đó các thành viên của cộng đồng
cảm thấy có sự gắn kết họ với cộng đồng và với các thành viên khác của cộng đồng.
Nói đến cộng đồng, người ta phải nhắc đến các yếu tố sau đây:
+ Cộng đồng phải là tập hợp của một số đông người
+ Mỗi cộng đồng phải có một bản sắc/ bản thể riêng
+ Các thành viên của cộng đồng phải tự cảm thấy có sự gắn kết với cộng
đồng và với các thành viên khác của cộng đồng.
+ Có thể có nhiều yếu tố tạo nên bản sắc và sức bền gắn kết cộng đồng,
nhưng quan trọng nhất chính là sự thống nhất ý chí và chia sẻ về tình cảm, tạo nên ý
thức cộng đồng.
+ Mỗi cộng đồng đều có những tiêu chí bên ngoài để nhận biết về cộng đồng
và có những quy tắc chế định hoạt động và ứng xử chung của cộng đồng.
Khái niệm cộng đồng tôn giáo.
Trong luận án này, tôi định nghĩa cộng đồng tôn giáo là một loại hình cộng
đồng gắn kết với nhau chủ yếu dựa trên sự có chung một niềm tin tôn giáo hay tín
ngưỡng. Cộng đồng tôn giáo có thể trùng khớp với cộng đồng cư trú nhưng cũng có
thể không, thậm chí mang tính toàn cầu. Theo định nghĩa này, các cộng đồng thờ
Chúa, Thánh Ala, cộng đồng thờ Thành Hoàng làng, cộng đồng thờ vua Hùng, cũng
như cộng đồng thờ Mẫu đều được coi là cộng đồng tôn giáo.
Qua định nghĩa này thì cộng đồng tôn giáo khác với các loại hình cộng đồng
khác vì cộng đồng này tồn tại dựa trên niềm tin trong khi các cộng đồng khác lại
dựa trên các yếu tố riêng của nó. Chẳng hạn, cộng đồng láng giềng là loại cộng
đồng hình thành trên cơ sở sự sinh sống, cư trú gần gũi nhau của các cá thể/các hộ
gia đình tạo nên. Sự gắn kết của loại hình cộng đồng này chủ yếu là do sự tương tác,
giao lưu tiếp xúc thường xuyên, gần gũi giữa các thành viên cộng đồng mà hình thành.
Cộng đồng gia đình, dòng họ lại được hình thành dựa trên cơ sở huyết thống và đó là
yếu tố quan trọng nhất tạo nên bản chất và sự bền vững cũng như cấu trúc điển hình
của gia đình dòng họ. Cộng đồng kinh tế, kinh doanh như phường hội, công ty, xí
nghiệp, tập đoàn kinh tế dựa trên sự chia sẻ về lợi ích và ở đây, ý thức cộng đồng đã
được phát triển để trở thành một phương tiện, một lợi thế cạnh tranh
1.2.1.2. Khái niệm bản hội
Dường như chưa có một nguồn tư liệu nào đưa ra định nghĩa xác đáng về bản
hội mặc dù trong thực tế bản hội là một khái niệm đã xuất hiện từ xa xưa trong dân
25
gian2. Các nhà nghiên cứu đi trước hầu hết nhắc đến nó như một khái niệm đã được
định vị ngữ nghĩa không cần bàn luận. Tuy nhiên, đây là khái niệm có tính chất thao
tác của luận án, do vậy trong phần này tôi cố gắng tìm hiểu xem bản hội có nghĩa là
gì và nó còn có những tên gọi nào khác không?
Nghiên cứu từ nguồn tư liệu thứ cấp cùng những tư liệu phỏng vấn các đồng
Thầy, các con nhang đệ tử- những người thực hành nghi lễ Đạo Mẫu được coi là các
“mắt xích” của bản hội, tôi nhận thấy có ba quan niệm chủ yếu về bản hội: 1) Bản
hội là một mạng lưới của những người lên đồng (M.Durand, G.Coulet, Claire
Chauvet); 2) Bản hội là một tập hợp những người do đồng Thầy đứng đầu, xung
quanh có các đệ tử. Chẳng hạn, tác giả Nguyễn Ngọc Mai trong công trình nghiên
cứu về sự biến đổi của lên đồng hầu bóng dưới tác động của kinh tế thị trường cũng
đã đề cập đến khái niệm bản hội: “Bản hội là một tập hợp người xung quanh đồng
Thầy và trợ giúp đồng Thầy trong việc thực hành nghi lễ” [78; tr80]. Định nghĩa về
bản hội của Nguyễn Ngọc Mai một lần nữa được tái khẳng định thông qua những tư
liệu phỏng vấn của tôi tại các địa bàn Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng
“Bản hội là như kiểubề trên giao cho mỗi chủ nhang đồng đền một trọng trách để cứu
những đứa con Cha con Mẹ, những người đang cơ hàn vận hạn, hướng người ta từ cái tà
sang cái thiện. Tức là khi mà mỗi người chung một bản hội là phải do đồng Thầy đứng
đầu. Em cứ hình dung đi bộ đội ấy, sẽ có nhiều sư đoàn, mỗi sư đoàn sẽ có người đứng
đầu. Mỗi bản hội cũng là một sư đoàn mà người đứng đầu là đồng Thầy “ (Thanh đồng
Nguyễn Thi L, Hà Nội)
Và quan điểm nữa là: 3) Bản hội là tập hợp những người có chung một
nguồn gốc. Có ba người trong số nhiều người được phỏng vấn đã trả lời tôi như vậy và
tất cả họ là những người ít nhiều biết chữ Hán, do đó họ đã giải thích nghĩa của bản hội
theo lối chiết tự của từ này. Cậu Hạ – chủ nhang đền Đ (Hà Nội), người tôi đã phỏng
vấn ngay sau vài ngày gặp mặt lần đầu tiên tại Liên hoan diễn xướng nghi lễ chầu văn
ở Hải Phòng 2015 là một ví dụ tiêu biểu cho quan niệm này:
“Bản là gốc, gốc của tổ chức đó. Hội là lớn bao gồm nhiều người tập trung lại thành hội. Ví
dụ nói bản hội đền Hàng Bạc tức là gốc của những người đó là đền Hàng Bạc. Trong chữ
Nho, “bản” là gốc, ví dụ cô là thành viên của bản hội đền Hàng Bạc nghĩa là gốc của cô là
con nhang của đền Hàng Bạc này. Nhưng cô chỉ là một, nhiều cái số một gộp lại với nhau
thì thành bản hội. Hội là hội tụ mà đúng không? Người ta gọi là bản hội đền Hàng Bạc
nghĩa là các đệ tử đền Hàng Bạc này đang hội tụ với nhau, đấy gọi là bản hội- cái nguồn
gốc, cái sa môn của bản hội chúng tôi. Mỗi một sa môn như thế người ta tập hợp được
nhiều con người thành bản hội” (Cậu Hạ- Đền Đ, Hà Nội)
2 Nhiều đồng cựu 70,80 tuổi ở Hà Nội và Nam Định mà tác giả gặp đã trả lời rằng “Từ ngày xưa tôi đã được
nghe các cụ gọi là bản hội rồi”
26
Những quan niệm về bản hội của các nhà nghiên cứu và của cả những người
trải nghiệm đời sống của mình trong bản hội cho thấy bản hội là một khái niệm khó
cắt nghĩa. Quan điểm thứ nhất cho rằng bản hội là mạng lưới của những người lên
đồng đã vô tình loại bỏ nhiều người khác cũng được coi là thành viên của bản hội.
Khi thâm nhập một số bản hội ở Hà Nội, Nam Định, Hưng Yêncả những bản hội ở
điện tư gia và bản hội ở đền phủ, tôi nhận thấy ngoài những người lên đồng, bản hội
còn bao gồm cả thầy cúng, cung văn, hầu dâng, “con nhang, con khoán, con bán, con
cầu” – những người này thậm chí không có căn đồng và cũng không có khả năng lên
đồng hầu Thánh. Quan niệm thứ hai lại gạt ra ngoài nhiều loại hình bản hội khác. Sự
tồn tại của nhiều hình thức bản hội mà tôi đã thâm nhập cho thấy không phải chỉ có
bản hội của đồng Thầy- tức người có khả năng “đẻ đồng” (trình đồng mở phủ cho
con nhang đệ tử) mà còn có bản hội của những người là thanh đồng (tức họ chỉ lên
đồng mà không đẻ đồng), thậm chí có người hoàn toàn không phải là thanh đồng, đơn
thuần họ chỉ là người có niềm tin vào Thánh Mẫu, có điện thờ Mẫu tại gia và thường
xuyên “sở cầu” cho các tín chủ Quan niệm thứ ba nghe có vẻ “bác học” hơn bởi sự
cắt nghĩa theo lối chiết tự từ Hán Việt và không phải ai cũng có đủ trình độ để làm
được điều này. Tuy nhiên, quan điểm này dường như còn khá mơ hồ: nơi hội tụ đó là
gì và những người hội tụ ở đây là ai? Vì sao họ lại tụ hội? Tôi cho rằng những câu hỏi
này vô cùng quan trọng, cần phải tính đến khi minh định khái niệm bản hội.
Theo từ điển Hán Việt của Viện khoa học xã hội, Viện Ngôn ngữ học, Nxb
Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh 2008, từ “bản” có nhiều nghĩa. Thứ nhất, bản có
nghĩa là “cái gốc, cái thân, tức là cội nguồn”. Thứ hai, bản là “của tôi, của chúng ta”
[132; tr72,73]. Hội cũng có nhiều nghĩa: hội là hội tụ, cũng có nghĩa là “hiểu, hiểu
được, hiểu biết, thông hiểu, thạo, giỏi” [132; tr660]. Từ đây tôi có thể đưa ra định
nghĩa như sau về bản hội Đạo Mẫu: Bản hội Đạo Mẫu là một cộng đồng tín đồ Đạo
Mẫu bao gồm nhiều thành viên dưới sự dẫn dắt của một chủ hội3, có cùng một chốn
tổ; có sự hiểu biết, đồng cảm lẫn nhau và có cùng niềm tin vào sự độ trì của các vị
thần Đạo Mẫu. Như vậy, bản hội Đạo Mẫu có những nội hàm sau:
- Bản hội phải có nhiều người tập hợp lại dưới sự dẫn dắt của chủ hội. Chủ
hội ở đây, có thể là đồng Thầy hoặc cũng có thể chỉ đơn thuần là chủ nhang, người
có điện thờ Mẫu tại giaBên cạnh chủ hội còn có các đệ tử khác bao gồm tín chủ,
nhang tử, bán tửĐiều này trả lời cho câu hỏi “những người hội tụ là ai?”
3 Chủ hội ở đây với nghĩa là người đứng đầu bản hội, thường là đồng Thầy, ngoài ra có thể còn là các thanh
đồng, các nhà sư có căn số hầu đồng
27
- Những người trong bản hội là những người cùng một gốc. Nhiều thành viên
bản hội đã gọi cái gốc nơi họ được “sinh ra”, nơi họ gắn bó một cách thân thương là
“chốn tổ”. Chốn tổ ấy có thể là một đền, một phủ, hoặc một điện tư gia nào đó gắn
liền với một chủ nhang. Chính cái chốn tổ ấy sẽ phân biệt bản hội này với bản hội
khác. Điều này lại trả lời cho câu hỏi “nơi hội tụ đó là gì?”
- Những người trong bản hội là những người có cùng niềm tin vào sự chở
che, phù trợ của các vị thần Đạo Mẫu cho những vấn đề trong cuộc sống hiện sinh
của họ. Các thành viên bản hội cũng là những người có nhiều sự đồng dạng
(Homophily): đồng dạng về niềm tin, tâm lý tình cảm, về những vấn đề mà họ gặp
phải trong cuộc sống trần tục Chính sự đồng dạng này khiến họ đồng cảm, cộng
cảm (communitas ) với nhau. Đó cũng là lý do vì sao nhiều người lựa chọn gia nhập
bản hội Đạo Mẫu mà không phải là một tổ chức của một tôn giáo nào khác. Điều
này giải thích cho câu hỏi “vì sao họ hội tụ?”
Khi thâm nhập bản hội, tôi còn được nghe các thành viên gọi bản hội là “cơ
cánh”. Tuy nhiên, theo tôi, từ “cơ cánh” thường được dùng để chỉ một nhóm người
của bản hội khác phân biệt với bản hội “mình”. Chẳng hạn, các thành viên của một
bản hội thường nói với nhau “hôm nay cơ cánh nhà bà H đi lễ xa”. Hơn nữa, từ “cơ
cánh” không bao hàm toàn bộ các thành viên mà nhiều khi nó được dùng để chỉ
nhóm thanh đồng trong bản hội mà thôi.
1.2.1.3 Khái niệm môi trường tâm linh
Môi trường tâm linh là một từ ghép bởi hai danh từ “môi trường” và “tâm
linh”. Theo Từ điển Tiếng Việt môi trường có nghĩa “1. Nơi xảy ra một hiện tượng
hoặc diễn ra một quá trình, trong quan hệ với hiện tượng, quá trình ấy. 2 Toàn bộ
nói chung những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay một sự vật tồn
tại, phát triển trong mối quan hệ với con người, với sự vật ấy” [131; tr 639-640].
Theo Nguyễn Đăng Duy trong cuốn “Văn hóa tâm linh”: “Tâm linh là cái thiêng liêng
cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng
tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu
tượng, những hình ảnh, ý niệm” [26; tr11].
Trong luận án này, tôi quan niệm, môi trường tâm linh là nơi diễn ra các hoạt
động thờ phụng thần thánh, diễn ra sự tương tác giữa con người với thần thánh và giữa
những con người cùng niềm tin tôn giáo. Bản hội Đạo Mẫu chính là một môi trường
tâm linh như vậy.
28
1.2.1.4. Khái niệm vốn xã hội và tạo lập vốn xã hội
* Khái niệm vốn xã hội
Cho đến nay, khái niệm vốn xã hội được thảo luận, phát triển với nhiều cách
giải thích và định nghĩa khác nhau được đề cập trong nhiều công trình và bài viết
nổi tiếng như: The forms of Capital (Các hình thức của vốn) (Bourdieu 1986) [154];
Social Capital in the creation of Human capital (VXH trong việc sáng tạo vốn con
người ) (Coleman 1988) [139] ; Bowling alone: America’s declining social capital
(Bowling một mình: sự suy giảm của VXH Mỹ)(Putnam 1995) [95]; Social capital:
Its origins and applications in modern sociology (VXH: nguồn gốc và những áp
dụng của nó trong xã hội học hiện đại) (Portes 1998) [8]; Social capital and civil
society (VXH và xã hội dân sự) (Fukuyama 1999) [143], Social Capital, Civil
society and development (VXH, xã hội dân sự và phát triển) (Fukuyama 2001)
[144]; Social capital: A theory of social structure and action (VXH: một lý thuyết
về cấu trúc và hành động xã hội) (Lin 2001) [151] Bourdieu (1986) định nghĩa
rằng VXH là tập hợp những nguồn lực hiện hữu hoặc tiềm tàng, gắn với việc có một
mạng lưới bền vững những quan hệ quen biết hoặc thừa nhận lẫn nhau ít nhiều được
thể chế hóa. Jame Coleman lại hiểu VXH bao gồm những đặc trưng trong đời sống xã
hội như các mạng lưới xã hội, các chuẩn mực (norms), và sự tin cậy trong xã hội
(social trust)- là những cái giúp các thành viên có thể hoạt động chung với nhau một
cách có hiệu quả nhằm đạt tới những mục tiêu chung. Trong khi đó, Putnam lại cho
rằng: VXH nói tới những khía cạnh đặc trưng của tổ chức xã hội như các mạng lưới
(xã hội), các chuẩn mực, và sự tin cậy trong xã hội vốn tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phối hợp và sự hợp tác nhằm đạt đến lợi ích hỗ tương
Mặc dù có những ý kiến khác nhau song có thể thấy các tác giả có sự đồng
thuận cao về các vấn đề sau đây khi nói về VXH:
Thứ nhất: VXH gắn bó trực tiếp với mạng lưới xã hội. Bourdieu cho rằng
VXH kết nối với mạng lưới xã hội tương đối bền vững, còn Coleman nói VXH nằm
trong mạng lưới xã hội và quan hệ xã hội. Trong khi đó Putnam lại coi mạng lưới xã
hội là một thành tố của VXH.
Thứ hai: VXH có sự tương đồng nhất định với khái niệm “nguồn lực”. Nếu
Bourdieu quan niệm VXH là nguồn lực dựa trên mạng lưới được thừa nhận hoặc
quen biết thì Lin lại định nghĩa VXH là nguồn lực nằm trong mạng lưới xã hội.
Thứ ba: VXH được tạo ra thông qua việc đầu tư vào các quan hệ xã hội,
hoặc mạng lưới xã hội, và các cá nhân có thể sử dụng VXH để tìm kiếm lợi ích. Với
29
Bourdieu, VXH là kết quả của sự đầu tư trong thời gian ngắn hạn hoặc dài hạn, kết
quả đó có thể được sử dụng để chuyển thành các loại vốn khác, chẳng hạn vốn kinh
tế. Trong khi đó, Fukuyama nhấn mạnh cá nhân có thể tạo ra và sử dụng VXH để
phục vụ mục đích của mình.
Thứ tư: VXH dựa trên sự tin cậy và quan hệ qua lại hay sự có đi có lại (trust
and recipocity) được nhiều tác giả đề cập đến khi bàn về VXH. Nếu Coleman khẳng
định trách nhiệm, sự mong đợi và lòng tin là các hình thức của VXH thì Fukuyama
quan niệm VXH gồm có chuẩn mực của sự có đi có lại và VXH biểu thị sự tin cậy.
Trong khi Portes phát biểu: sự trao đổi qua lại và lòng tin là những nguồn gốc của
VXH, Putnam lại cho rằng VXH gồm các chuẩn mực của quan hệ trao đổi qua lại
và sự tin cẩn.
Trên cơ sở tiếp thu các quan điểm trên về VXH, tôi đưa ra cách hiểu của luận
án về VXH như sau: Vốn xã hội là nguồn lực mà một người nào đó có được
thông qua việc tham gia vào một cộng đồng và sở hữu các mối quan hệ, sử dụng
chúng để đem lại lợi ích (cả vật chất lẫn tinh thần)
* Khái niệm tạo lập vốn xã hội
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học năm 2001, “tạo lập” là một
khái niệm được ghép từ hai động từ “tạo ” và “lập”. “Tạo ” là “làm cho từ không có
trở thành có và tồn tại” và “lập” là “tạo ra, xây dựng nên cái thường là quan trọng,
có ý nghĩa lớn mà trước đó chưa có”. Nói chung, “tạo lập” có nghĩa là “tạo ra, gây
dựng nên” [131; tr891] . Vậy, tạo lập VXH tức là tạo ra, gây dựng nên VXH. Mà
VXH như tôi vừa định nghĩa ở trên là nguồn lực mà một người nào đó có được sử
dụng để đem lại lợi ích (cả vật chất lẫn tinh thần) thông qua việc tham gia vào một
cộng đồng và sở hữu các mối quan hệ. Như vậy, muốn có VXH cần : Tham gia vào
cộng đồng -> có nguồn lực (các quan hệ xã hội, sự tin cậy, sự tương hỗ có đi có lại,
chuẩn mực, giá trị) -> sử dụng nguồn lực để đem lại lợi ích. Để tạo lập VXH cần
trải qua các bước:
- Tham gia vào cộng đồng (tham gia vào bản hội)
- Đầu tư, xây dựng các mối quan hệ
- Sử dụng các nguồn lực để đem lại lợi ích
1.2.1.5 Khái niệm xã hội chuyển đổi
Khái niệm luận án sử dụng là “xã hội chuyển đổi” chứ không phải là “xã hội
biến đổi”. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa khá giống nhau về hai khái niệm này:
“biến đổi” là “thay đổi thành khác trước” [131; tr 64] còn “chuyển đổi ” là: a) “đổi
30
từ một loại này sang loại khác”, b) Thay đổi từng bước từ cái này sang cái khác.
Tuy nhiên, theo tác giả, “chuyển đổi” và “biến đổi” khác nhau về nội hàm biểu đạt.
Người ta thường nói “xã hội chuyển đổi từ phong kiến sang tư bản” chứ không nói
“xã hội biến đổi từ phong kiến sang tư bản” và như vậy khái niệm “xã hội chuyển
đổi” đã bao hàm ý nghĩa là đánh dấu một bước ngoặt, thay đổi mang tính chất đột
biến. Rất nhiều yếu tố của xã hội cũ cấu trúc bị giải thể, cái mới lại chưa được hoàn
thành, đó là giai đoạn giao thời. Vì là giai đoạn giao thời nên nhiều yếu tố cũ bị phá
vỡ, đứt gẫy, xáo trộn; trong khi người ta chưa quen với những yếu tố mới khiến bị
sốc, hoang mang, sợ hãi, thất vọng, khủng hoảngMột quy luật đã diễn ra trong
lịch sử nhân loại cũng như ở Việt Nam là cứ khi nào xã hội có sự bất ổn thì con
người lại tìm đến với tôn giáo, tín ngưỡng để làm chỗ dựa về mặt tinh thần nhiều
hơn, đưa tới sự nở rộ của các hình thức tôn giáo. Sự xuất hiện hiện tượng “các ông
đạo” ở miền Nam đầu thế kỉ XX, hay sự xuất hiện của “những hiện tượng tôn giáo
mới” trên thế giới cũng như ở Việt Nam (Đạo Chân không, Long Hoa Di Lặc, Ngọc
Phật Hồ Chí Minh, Ngũ Tuần nói tiếng lạ..) chính là sự phản ánh những bất ổn
của con người trong xã hội thời kỳ chuyển đổi.
Trong lịch sử, sẽ có nhiều giai đoạn chuyển đổi. Tuy nhiên, bối cảnh xã hội
chuyển đổi được đề cập trong luận án này là từ năm 1986 đến nay khi Nhà nước ta
thực hiện chính sách đổi mới toàn diện với ba trụ cột chính là: chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường; phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan
trọng; chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả và phù hợp
với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Giai đoạn chuyển đổi này vô cùng gay go,
phức tạp và quyết liệt so với những lần chuyển đổi khác trong lịch sử, đưa xã hội ta
chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Tuy nhiên, theo tôi có hai nấc
rất quan trọng trong sự chuyển đổi của xã hội Việt Nam từ 1986 đến nay, trong đó:
nấc một từ 1986 đến 2006 và nấc thứ hai bắt đầu từ năm 2007- năm Việt Nam gia
nhập WTO đánh dấu sự hội nhập sâu rộng với thế giới rộng lớn. Có thể nói, quyết
định đổi mới toàn diện từ kinh tế, văn hóa, xã hội mà trọng tâm là đổi mới kinh tế
của Đảng (được bổ sung tiếp theo bởi các Đại hội VII4, Đại hội VIII5, Đại hội
4 Tại Đại hội VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991) của
Đảng đã xác định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”; xem đó là một trong bảy phương hướng cơ bản trong quá
trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với thực tiễn của công cuộc đổi
mới, nhận thức của Đảng ta về vấn đề này ngày càng rõ ràng và đầy đủ hơn.
31
IX6.) cũng như chủ trương tăng cường công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập
sâu rộng với thế giới mà mốc quan trọng là gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) thực sự đã tạo nên một sự chuyển biến vô cùng quan trọng trong mọi mặt
đời sống của Việt Nam. Sự chuyển đổi của nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần khiến nền kinh tế Việt Nam như được
bung tỏa, người ta được tự do làm kinh tế, làm giàu đưa tới sự xuất hiện của hàng
loạt các loại hình dịch vụ đề cao lợi nhuận len lỏi vào trong các mặt của đời sống.
Mặt khác, toàn bộ nền kinh tế cũng như được hiện đại hóa nhờ sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Xã hội chuyển đổi đã tạo nên nhiều thành tựu cho Việt Nam về mọi mặt,
thực sự đem đến nhiều cơ hội phát triển cho cá nhân và cộng đồng song phải thừa
nhận rằng những hệ lụy mà nó mang lại cũng không phải là ít. Ở cấp độ quốc gia,
sự chuyển đổi có thể tạo nên sự khủng hoảng kinh tế, văn hóa, xã hội mà sự khủng
hoảng kinh tế kéo dài ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay là một ví dụ sống động.
Cuộc khủng hoảng trở nên trầm trọng hơn từ năm 2009: tỉ trọng tăng trưởng của
nền kinh tế giảm sút, các thị trường tài chính, thị trường địa ốc, thị trường chứng
khoán “vỡ tan như bong bóng”, hàng ngàn doanh nghiệp giải thể, rất nhiều ngân
hàng bị đóng cửa hoặc phải sáp nhậpRất nhiều nhà đầu cơ đã trắng tay chỉ trong
một thời gian ngắn, nhiều người đã gặp cú sốc lớn khi trở thành con nợ “sống dở,
chết dở”. Rất nhiều cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phải tinh
giản lao động dẫn đến sự gia tăng mạnh của tỉ lệ thất nghiệpVà kết quả là công
nhân viên chức, trí thức, những người kinh doanh lâm vào cuộc sống khó khăn,
bất an và tạm bợ Ở cấp độ cá nhân, xã hội chuyển đổi với nhiều rủi ro, bất trắc
trong đời sống kinh tế, sức khỏe, bệnh tật, trong mối quan hệ với con người đã tạo
nên những lo lắng, sợ hãi, thất vọng mà nói như Oscar Salemink [89] là đe dọa đến
an ninh tinh thần của con người.
Song sự chuyển đổi của xã hội không chỉ đơn thuần là sự chuyển đổi của
kinh tế mà còn là sự chuyển đổi của các hệ giá trị: giá trị mới đang lên và các giá trị
cũ đang mất dần. Cuộc đấu tranh giữa những giá trị cũ và mới là một cuộc đấu tranh
gay go và phức tạp. Cái mới không dễ đi lên vì sự kìm hãm của cái cũ, cái cũ không
dễ mất đi vì đã “sâu rễ bền gốc” từ bao đời. Vì thế, xã hội chuyển đổi còn là sự phá
5 Tại Đại hội VIII, Đảng ta có quan niệm rất quan trọng, khi khẳng định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập
với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công
cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”.
6 Đến Đại hội IX, khái niệm Kinh tế thị trường định hướng XHCN được chính thức đưa vào văn kiện của
Đại hội; và Đảng ta coi “Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH”.
32
rào của những cá nhân, sự bất chấp của những chuẩn mực để khẳng định mình. Để
làm được điều đó, con người phải đấu tranh với những định kiến cũ, dám vượt rào
và bứt pháTuy nhiên, cuộc đấu tranh đôi khi không đơn giản khiến họ bị tổn
thương, thất vọng, khủng hoảng bản sắc và phải tìm đến nhiều phương thức “cứu
chữa” khác nhau, trong đó có cả phương thức tìm đến tôn giáo tín ngưỡng.
Nói đến xã hội chuyển đổi, không chỉ nói đến sự chuyển đổi của kinh tế, xã
hội mà còn là sự chuyển đổi của đời sống tôn giáo tín ngưỡng và cú hích của sự
chuyển đổi này phải nhắc tới đầu tiên chính là Nghị quyết 24 của Bộ chính trị năm
1990. Trong Nghị quyết này, lần đầu tiên sau những năm tháng đồng nhất tôn giáo
tín ngưỡng với mê tín dị đoan cần phải xóa bỏ, Bộ Chính trị xác định: tôn giáo tín
ngưỡng là vấn đề còn tồn tại lâu dài; tôn giáo tín ngưỡng là nhu cầu của một bộ
phận nhân dân và công nhận tôn giáo tín ngưỡng có giá trị văn hóa và đạo đức.
Quan điểm này tiếp tục được duy trì và bổ sung trong các nghị quyết tiếp theo của
Đảng và nhà nước Việt Nam. Chẳng hạn, nghị quyết số 25 của Hội nghị lần thứ 7
Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ IX (2003) cũng khẳng định rằng: Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại
cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do, tín ngưỡng, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật.
Bối cảnh xã hội chuyển đổi từ năm 1986 đến nay (chuyển đổi về kinh tế- xã
hội, về chính sách tôn giáo tín ngưỡng, hệ giá trị) đã tác động và làm cho đời
sống tôn giáo tín ngưỡng có sự thay đổi lớn. Trước hết, xã hội chuyển đổi dẫn tới
nhu cầu tôn giáo của người dân tăng cao. Đặc trưng của bối cảnh xã hội chuyển là
một mặt nó tạo nên sự phát triển mọi mặt nhưng mặt khác lại tạo nên sự chênh
vênh, bấp bênh, với rất nhiều đau khổ và bất trắc. Trong bối cảnh đó, con người tìm
đến nhiều phương cách để đối mặt. Một trong những phương cách nhiều người lựa
chọn là tìm đến với tôn giáo tín ngưỡng: một mặt là để cầu xin sự trợ giúp của thần
linh cho sự phát triển thịnh vượng, mặt khác là để tìm kiếm sự bảo hiểm của thần
linh cho cuộc sống đầy rủi ro về kinh tế, sức khỏe, hạnh phúc gia đình Nhu cầu
này cộng với cuộc cách mạng trong chính sách tôn giáo tín ngưỡng của Đảng và
Nhà nước khiến đời sống tâm linh của người dân như được hồi sinh, bung tỏa. Việc
hồi sinh, phát triển trong bối cảnh mới cũng làm cho tôn giáo tín ngưỡng cũng có
những đặc trưng khác trước. Bên cạnh đó, trong bối cảnh mới, tôn giáo tín ngưỡng
cũng có những chức năng vai trò mà trước đây nó không có (hoặc có nhưng chưa đậm
33
nét). Ngày càng nhiều người gia nhập vào các cộng đồng tôn giáo và việc tham gia
cộng đồng tôn giáo cũng không chỉ đơn thuần vì mục đích tâm linh mà còn vì những
mục đích khác như tìm kiếm các mối quan hệ để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Luận án này sẽ đặt Đạo Mẫu và bản hội Đạo Mẫu vào trong bối cảnh xã hội
... duyên gọi là một li một
lai. Một li một lai để thêm lộc.Cái lộc san sẻ ra để lan tỏa thêm một chút.
Không phải vì người ta nghèo mà trợ duyên mà bất cứ ai hầu mà người ta
đến cũng được trợ duyên hết. Ví dụ bây giờ thầy hầu vào hè, em đến em trợ
duyên cũng được. Em khó khăn thì em đóng 300, có điều kiện em đóng 500,
mà có hơn nữa em đóng 1 triệu cũng được. Trước tiên là lạy Thánh, sau là
chung với bách gia. Không nhất thiết mà cũng chả nhất quán. Không bắt
buộc và cũng không ép buộc.
- Thế mình trợ duyên vào những cuộc hầu như thế nào ạ ?
211
- Ví dụ như người ta hầu đầu năm cuối năm. Bất cứ trợ duyên lúc nào cũng
được. Từ lúc người ta hầu khai phủ cho đến lúc bách nhật trăm ngày.
- Thông thường ở bản hội người ta thường trợ duyên nhau bao nhiêu tiền ?
- Thường thì người có thì đi 300, người không có thì đi 200. Còn nếu người
nào xông xênh thì cũng 500, 1 triệu. Nếu bạn thân thiết, thì người ta đến bảo
thôi hôm nay bạn bắc ghế thì mình có 1 li 1 lai để hầu Thánh.
- Trong bản hội có rất nhiều thanh đồng. Có người nào đến dự mà không trợ
duyên không ?
- Có chứ. Vì 1 là người ta không thân, hai là người ta không được mời, vô tình
người ta đến có hầu thì người ta dự. Nhưng đã xác định đến dự hầu là có trợ
duyên. Hoặc bần cùng không có đi nữa thì người ta mua thùng nước hoặc
thùng bia để xin dâng. Cái đấy là cái tiền lệ, thông lệ.
- Khi một người nào đó mà muốn gia nhập cái bản hội nào đấy thì người ta lựa
chọn cái gì ?
- Ví dụ bây giờ em muốn tham ra vào 1 bản hội. Điều đầu tiên mà em muốn
lựa chọn là cái gì ? Điều đầu tiên là em phải xem bản hội đó có đông vui ?
Có lớn mạnh, bản hội đó có sự hòa đồng, gắn kết với nhau hay không ? Đấy
là điều đầu tiên mà nhãn quan trông thấy. Qua đó em cảm nhận được sự gắn
kết. Người ta chuyên có sự đóng bè tạo phúc để tạo nên các sự kiện. Người ta
gắn kết để tạo nên sự hoàn hảo. Mình chỉ cần đi đến 3 đến 5 lần là mình phải
phát hiện được. Mình đi vào thực tế rồi mình mới quyết định lựa chọn xem
có vào hay không. Mình xem cho rõ ràng, cung cách như thế nào để mình lựa
chọn. Chứ không phải thầy bảo sao làm vậy. Nếu thầy bảo sao làm vậy thì
mình là người quá thật thà, bị người khác lợi dụng. Mình có quyền lựa chọn.
Ví dụ bây giờ mình căn quan chẳng hạn mà để cho thầy hàng căn cô mở cho
mình. Hàng thấp hơn mà mở cho hàng cao hơn thì nó bị lộn tùng phèo. Mà
bản thân cái người căn quan đấy chỉ có đi cúi đầu thôi chứ không bao giờ
được ngẩng đầu.
- Thế bây giờ cái bản hội đông vui thì đến hay không là biết rồi. Nhưng lớn
mạnh là như thế nào ?
- Lớn mạnh là như thế này. Em chỉ 1, 2 lần tiếp xúc vào trong công việc. Ví dụ
ngày hôm nay bản hội Thượng nguyên, em đến em kiểm soát. Sau đó đến 3
tháng sau, là vào hè, em đến tiếp tục 1 lần nữa. Em phải điểm danh xem
những cái mặt này đã gặp chưa hay có sự thay đổi hàng ngày. Ví dụ ngày
212
Thượng nguyên đầu năm, em đến em gặp thằng Hưng, con Nhàn, con Thắm,
con Ngần chẳng hạn. Nhưng đến hôm vào hè, em đến em lại chỉ gặp Nhàn
mới Hưng, xong lại thêm 2 thành viên mới nữa, đấy là cái bản hội bị lộn xộn.
Tức là những thành viên cũ mình đã gặp rồi phải gắn bó lại và trong những
lần sau mình gặp lại còn hay mất. Nghĩa là thành viên ở đây phải gắn kết,
không xa rời. Ví dụ vừa rồi em đến em không thấy anh Thú chẳng hạn, em
không thấy chị Vân chẳng hạn, đấy là một sự xa rời dần dần, từ từ. Không
phải lớn mạnh là do giàu có. Mà đây là xây một cái tiểu, sẽ tích nên một cái
đại. Chứ không thể mang một cái đại ra để chia làm nhiều nhỏ. Mà cái bản
hội đông, vui hay không là mình nhìn vào cung cách ban bệ từ trên xuống
dưới và đồ lễ. Nếu cái nhãn quan của mình tinh tường. Là lọ hoa cắm phải
tràn lan. Vì hoa của mình cắm là phải có rồi. Nhưng bách gia đến cũng sẽ có
hoa. Ví dụ bây giờ em ở nhà đến em cũng phải có bó hoa. Cái đền này hôm
nay có bao nhiêu khách đến thì em nhìn vào những lọ hoa nhỏ nhỏ xinh xinh
là biết nhiều hay ít người đến. Vì khi nhà đền người ta hầu là người ta cắm
vào cái lẵng, cái bồn lớn rồi thì mình đến mình chỉ cắm vào lọ nhỏ. Em xem
những lọ to lọ nhỏ chỗ này chỗ kia, chỉ nhìn quang cảnh bên công đồng là
em biết hết.
- Ngoài ra còn cái gì nữa anh ?
- Ví dụ người ta đến, người ta mua chùm vải, người ta bày ra đĩa đặt trên công
đồng. Người ta dâng Thánh, người ta đang thầy đâu, dâng bản hội đâu.
Người ta đến để người ta dâng thầy. Nhìn qua nhãn quan là nhiều lọ hoa nhỏ,
nhiều đĩa hoa quả như thế là nhiều người đến lễ. Có thể nhìn quanh không
thấy ai nhưng có thể là người ta đến lễ xong người ta về. Có lễ vật ở trên mà
không có người ý là người ta đến lễ cho phải phép xong người ta về chứ
người ta không dự. Chứ còn đến mà đông đúc người là người ta đến để dự
hầu chứ người ta không dâng hoa quả, người ta đến phong bì.
- Như vậy, ngoài việc chọn điện ra, thì họ phải chọn thầy nữa chứ đúng không
anh ?
- Cái chọn thầy là quan trọng chứ ai chọn được điện. Ví dụ thầy Xuyên căn
quan thì thầy mở cho tất cả các căn đa dạng được. Nhưng những người căn
cô, căn cậu mà lại đi mở đồng ngược. Với lại xem có hợp duyên không ? Cái
căn cái mệnh của mình có hợp thầy đấy không.
- Nhưng họ phải đi với thầy bao lâu thì họ mới lựa chọn chứ anh nhỉ ?
213
- Tất nhiên phải có 1 là thâm niên, 2 là gắn kết. Chuyện mở phủ khai phủ, có
những người đã quá nặng rồi. Cái duyên của người ta chỉ được như thế thôi.
Người ta sát quá rồi, người ta không tìm tòi học hỏi.
- Em thấy có nhiều người không phải đến cái là theo thầy đó luôn mà phải có
sự kiểm chứng chứ đúng không anh ?
- Thực ra mà nói thế này, lúc trước, mấy năm trước còn có sự kiểm chứng.
Nhưng mấy năm về đây anh hoàn toàn không thấy có một sự kiểm chứng
nào hết. Ví dụ người này là người đã đi năm nơi bảy chốn rồi. Thế thì đến
đây là người thứ 4, thứ 5 nói trùng lại là đúng chẳng hạn mà bị dọa cho 1 cái
là lại vâng, lại dạ rối rít.
- Anh ơi, thế họ tham gia như vậy, họ có lựa chọn giá cả của bản điện như thế
nào không ạ ?
- Cũng có sự lựa chọn vì đồng ngân đồng xuyến người ta eo hẹp thì người ta
lựa chọn. Hoặc người ta không mở phủ ở đây mà người ta sang Bắc Ninh
người ta mở. Về các vùng dân thôn người ta mở. Dân thôn bao giờ giá nó
cũng bình dân hơn. 25,30 triệu cũng có.
- Hoặc người ta chọn mở phủ ở cái đền nhỏ hơn để mở ?
- Không. Tiền cung tiền sở của đền không nhiều. Nếu đền to phủ lớn như thế
trên Đội Cấn mới có 1 cái như thế. Một mình mà một ngày có 1 triệu. Tiền
dầu đèn ở Đại Lộ trước là 500, giờ lên 600 một cung hầu.
- Thực ra như vậy giá cả cũng là 1 trong những sự lựa chọn của họ đúng
không ?
- Anh ơi thế thầy làm thế nào để mở rộng được bản hội ?
- Thầy muốn mở rộng bản hội thầy phải tâm huyết với các con nhang. Có
đông con nhang mới sang đệ tử được chứ. Bây giờ thầy cứ bỏ bê công việc
như thế này làm sao con nhang nó gắn kết được với nhau. Đã không gắn kết
được với nhau rồi thì với những công việc khác nó cũng bị mai một.
- Ý em là có cách nào không ? Ví dụ giá cả ít để cho người ta tham gia vào
bản hội nhiều hơn ?
- Không. Cái đấy thì các thầy lên giá rồi thì khó thay đổi lắm. Có những
trường hợp khai phủ hàng trăm triệu, 200 triệu. Như ở dưới Đại Lộ, cậu T
bản đền của Đại Lộ người ta khai phủ toàn 80 triệu trở lên, 80 triệu nói thật
ra là đồng tiền phù du thôi. Vì gặp những con nhang đệ tử người ta có hoặc
214
gặp những bọn đua đua đòi đòi ý. Bây giờ đồng đú, đồng đua, đồng rồ rất là
nhiều. Nó có thật tâm căn quả mới ra đồng đâu.
- Thế bản hội có phép tắc gì không ?
- Có chứ. Người ta bảo làm lính có công làm đồng có phép. Trong làm đồng
phải có phép tôn sư trọng đạo như thế nào ? Nếu mà đã đến gặp thầy thì phải
chào thầy, con lạy thầy. Kể cả lớn tuổi hơn. Quy định trong bản tự có 1 cái
bản, ví dụ những ngày lễ Phật Thánh, có 1 cái bản quy định như thế này.
Ngày nào lễ ví dụ như là đây. Ví dụ thế này, những ngày dự tiệc trong tháng
tiệc của ai thì nó ghi ngày này ngày này. Một năm có 4 vấn cố định ra sao thì
nó ghi hết ở trên đầu trên gối. Các con nhang đệ tử đến nhìn vào cái bảng
này. Ngày xưa là có treo đấy chứ. Ai nhớ thì đến, ai có tâm thì đến chứ
không bắt buộc.
- Anh ơi, mỗi một người có 1 cách tham gia vào bản hội khác nhau. Trong bản
hội em thấy ngoài thanh đồng còn có bán tử, nhang tử, các bà bồ tát
- Mỗi người có 1 cách tham gia vào bản hội khác nhau. Như thanh đồng thì
phải trình đồng mở phủ.
- Thế họ làm thế nào để bán khoán ?
- Bán khoán là trong những đàn vào hè ra hè. Bán khoán là bán cho ông
Thánh. Ông thầy Pháp muốn đưa con vào trong bản tự thì ông thầy pháp phải
làm 1 cái trại bằng vải viết chữ nho. Họ phải đến gặp từ một vài hôm trước.
Để làm sao, cái chữ tiệp bán khoán này không phải người ta ngồi người ta
viết ngay được. Người ta phải tĩnh. Hai nữa là bút viết trên phông vải là
người ta phải có thời gian.
- Thế còn những bà bồ tát làm thế nào để gia nhập vào bản hội này ạ ?
- Các bà bồ tát là do thế này : người ta chỉ đến chợ niệm cho bản tự thêm đông
vui,đông đúc thôi. Nhưng mà họ vẫn là thành viên của bản hội.
- Có phải sử dụng nhiều tiền để đi lễ trong một năm không anh ?
- Cũng tùy theo. Có người có, có người không. Ví dụ người có người ta vung
vẩy, te tẩn, phấn khởi. Còn người không có, mặt người ta khó đăm đăm,
người ta chìm vào im lặng. Ví dụ có người người ta đi lễ xa người ta chuẩn
bị các đồng tiền đặt vào các ban các sở. Có người là tiền mới. Có người
không có là tiền cũ. Nó vô cùng tận. Nói thế này là vô cùng tận. Có những
ngày tiệc 12.6 chẳng hạn. Những người có căn cô chẳng hạn. Cứ đến ngày
đó người ta ốm lả ốm lướt ra. Thế người ta muốn được khỏe mạnh thì người
215
ta lại đi kêu cầu, dâng tiền xin cô để chữa bệnh. Như chị Dung xiêm này, cứ
đến tháng 6 này mà không hầu là như kiểu người điên. Có những trường hợp
bất khả kháng mà không thể nói trước được điều gì cả.
- Anh ơi đệ tử có giúp gì cho thầy trong việc mở rộng bản hội không ?
- Có chứ. Đã là đệ tử thì giúp để mở mang bản điện phải do thầy trò tác hợp
kết hợp. Tức là như thế này, công to việc lớn gì là thầy phải biết bàn bạc,
thảo luận với em. Con nhang đệ tử như thế mới gọi là gắn kết được. Hai nữa
là đi công đức ở đâu là phải có sự bàn bạc, thảo luận. Không có sự là thầy ấn
định ở đâu là đi đấy.
- Ý em hỏi là thế này. Ví dụ bản hội giờ có 10 người thôi. Nhưng muốn mở
rộng ra nghĩa là thêm các thành viên khác vào bản hội của mình ý. Từ 10
người lại lên 80, 90, 100 người ý. Thế những thành viên cũ có giúp gì thầy
trong việc thu nạp thêm các thành viên mới vào không ?
- Không. Thu nạp, thêm hay không là do thầy hết. Còn các thành viên chỉ có
thể này. Ví dụ em chơi với anh. Em đang ở bản điện nhà cô Xuyên, em dắt
anh đến chơi. Nếu như anh hợp cảnh thì anh lại xin làm thành viên tiếp theo.
Đấy như kiểu một dạng bán hàng đa cấp. Mình chơi với bạn. Mình đến thấy
bản điện có lễ hoan hỉ vui vẻ thì mình rủ thêm bạn mình. Nó như kiểu hệ đa
cấp. Chứ bây giờ em đến một cái bản điện đang rũa mọt, em đến em cảm
nhận thấy thì em có muốn rủ bạn em không ?
- Đúng là nó giống như bán hàng đa cấp ý anh nhỉ ?
- Đúng rồi. 1 tạo 3, 3 tạo 5, 5 tạo 7, 7 tạo 9. Dễ chùm dễ cái. Giống như các
bạn của mình đến bản tự thấy hoan hỉ. Trước lạ sau quen, tay bắt mặt mừng
rồi sau quen nhau ngay. Anh đã từng bán hàng đa cấp nên anh ví chỉ có
chuẩn thôi.
216
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SỐ 4
Người được phỏng vấn : em Hưng, nam, thanh đồng
Ngày phỏng vấn : 15/11/2014
Nội dung phỏng vấn :
- Sao em lại gặp được thầy Xuyên?
- Em gặp thầy thông qua anh Tú béo. Em quen anh ấy cách đây 2 năm, hôm đó
anh ấy khai phủ ở nhà thầy và em đến cùng anh ấy. Khi em đến dự lễ mở phủ
của anh Tú, lần đầu tiên trong cuộc đời em bị ốp bóng như thế. Trước đó em
đã tôn nhang bản mệnh ở chỗ thầy Thắng ở Nghi Tàm rồi. Trước đó khi đi
dự hầu em vẫn biết đầu mình quay quay và gồng mình lên dừng thì dừng lại
được nhưng mà cứ thả lỏng ra thả lỏng theo điệu múa tay, thả lỏng theo tiếng
nhạc nhưng đến cái hôm mở phủ của anh Tú thì em không thể điều khiển
được, thầy hầu 3 tòa Mẫu này, Trần Triều, đến giá Chúa, đến các giá Quan,
bắt đầu là Quan Đệ nhất mắt em cứ trợn lên, thở phì phò, đầu cứ lắc lắc thế
này, mở mắt ra thì nó chóng mặt, chóng mặt như kiểu say xe ấy. Gồng mình
lên thì thấy chóng mặt, đảo như là cái quạt quay. Đến Quan Đệ Nhị- Quan
Giám sát, nóng giận, em không thở được nhé, nước mũi cứ chảy ra, hai mắt
trợn ngược lên, không thể nhắm được mắt vào, cảm giác nó kinh khủng luôn.
Đến giá quan Đệ Tam thì nhẹ hơn một tí những vẫn đảo và thở phì phò.
Quan Đệ Tứ thì nhẹ hơn một tí nữa, chỉ hơi lắc lắc nhưng mở mắt ra là chóng
mặt. Đến Quan Đệ Ngũ thì trong tâm trí của em vẫn biết nhưng em cứ thấy
trong lòng nó buồn, nó rầu rầu, tủi thân như kiểu mình oan ức, lại thả lỏng
tiếp chứ gồng mình lên thì đau đầu, hai bên thái dương nó cứ nhói nhói giật
giật như có người lấy cái đinh đóng vào đầu ấy. Thôi thì thả lỏng, thả lỏng
thì cứ thế khóc nấc. Đến đoạn cao trào của hát văn là Sông Tranh ơi hỡi
Sông Tranh đấy thì thôi kệ, kệ mọi người suy nghĩ gì thì suy nghĩ, mình cứ
phải khóc cho nó đã cái đã thế là bung thành tiếng lên để khóc, nước mắt
chảy ròng ròng. Trong cuộc đời em chưa bao giờ khóc đã đời như thế, khóc
mà cảm thấy nó đã nó sướng trong lòng ấy. Một lúc sau thấy có ai xốc nách
khiêng lên sập công đồng, thế là thầy ngậm rượu phun vào mặt thì tỉnh lại
mình thường, em đi ra ghế ngồi vừa ra vừa lau nước mắt. Đến giá tiếp theo
em múa dẻo ơi là múa dẻo mà cuộc đời em chưa bao giờ biết múa là gì cả.
Tự nhiên dạo đó em mới mở công ty (công ty bất động sản và tài chính. Em hùn
vốn cùng với một anh nữa mở, anh đó cũng lại là giám đốc của mọt công ty khác
217
rồi, ông ấy việc bên đấy còn em việc bên này.) nhưng ở công ty có bao nhiêu việc,
em không làm, cứ bỏ bê đó đi loanh qua loanh quanh ra đền ra phủ ngồi thôi, lúc
nào nó cũng cứ bồn chồn nóng ruột. Có những thời điểm ngồi uống trà hút thuốc ở
quán trà này, xong lại đi tha thần được 5,6 cây rồi lại rẽ vào quán trà lại uống, cứ
thơ thẩn như thế cả ngày thôi, mà ngồi một chỗ nó nóng ruột lắm chỉ muốn đi thôi.
Công ty bao nhiêu việc cứ bỏ bê thế, anh hùn vốn với em nói “Hưng ơi mày giết cả
mày mày giết cả anh rồi”, nhưng em có muốn thế đâu.
- Nhưng em có biết vì sao em bị như thế không?
- Đến bây giờ thì em nghĩ rằng em bị cơ hành mà vì gia tiên nhà em chọn đúng
cái thời điểm đó để cứ đẩy em đi đẩy em đi. Em cũng chả biết vì sao lại như
vậy nữa. Nhiều lúc cứ thế đi, đi chán chê ở cái Hà Nội này, rồi em nghĩ chả
biết làm cái gì nữa. Ở công ty một mớ công việc, nào hợp đồng này hợp
đồng kia, nào là thuê địa điểm, hợp đồng nhân viên, rồi nội quy quy chế,
công ty vừa mới thành lập thôi mà, thành lập chưa đến nửa tháng. Có nghĩa
em hiểu là nhà Ngài không cho mình làm việc trần ấy cho nên em vừa xây
dựng việc trần cái là nhà Ngài cho dừng luôn.Trong thời gian ngơ ngẩn chả
biết làm cái gì thì thôi em cứ đi hết những con phố nào mà em cảm thấy nó
quen thuộc với em, những nơi mà có những kỉ niệm này, những nơi mà trước
đây em thường đi đi lại lại. Bị ốp như thế thì em nghĩ là có khi đây là cơ
duyên vì vậy em cứ đến điện nhà thầy ngồi, thầy bảo cái gì thì làm cái nấy,
chỉ muốn ngồi ở nhà thầy.
- Trước đó em đã từng tôn nhang ở điện nhà thầy Thắng.
- Tôn nhang là thế nào hở em?
- Tôn nhang có nghĩa là cái vị thần mà cai quản cái bản mệnh của mình, mình
tôn bát nhang là mình rước các ngài để các ngài chứng cho là mình đã tôn
thờ các ngài rồi. Ví dụ như, em xây cho bố mẹ em một cái nhà như thế có
nghĩa là em cung phụng bố mẹ em rồi, bố mẹ sẽ nghĩ là à thằng này nó cũng
có hiếu, nó xây cho mình cái nhà rồi, không biết đẹp hay xấu nhưng nó đã
xây cho mình cái nhà rồi, thôi nó có căn quả nhẹ thì tha cho nó. Đến bây giờ
em vẫn đi lại với thầy chỉ có điều không đủ cơ duyên để đẻ đồng em, nói
chung thầy trò nó là cái duyên, thi thoảng em có thời gian em vẫn lên lễ ở
điện. Lúc thầy bốc bát hương em chưa bao giờ nghĩ rằng em sẽ khai phủ ở
nhà thầy, em chỉ nghĩ là thầy giúp đỡ mình đến đây đã tốt rồi, rồi cứ bước
tiếp chứ cũng không biết thế nào, chứ cũng không thể nói là thầy ơi 5 năm
218
nữa con có ngân có xuyến con sẽ khai phủ, thôi trước hết là mình cảm ơn
thầy cái đã, thầy có tâm có đức. Nhưng khi em gặp thầy Xuyên thì em nghĩ
luôn đây rồi mẹ mình, mẹ đồng của mình đây rồi.
- Sao khi gặp thầy Xuyên em lại nghĩ đây là mẹ mình?
- Cái cảm giác, cái cảm giác thì không thể giải thích nổi. Chỉ biết là đây thầy
lo cho mình, chỉ bảo mình dạy dỗ mình, cái cảm giác như kiểu là mẹ ở nhà
của mình ấy. Nó hay lắm.
- Nhưng chị thấy có một thời gian khá là lâu em mới trình đồng ở nhà cô mà?
- Bởi vì là em còn phải thử chứ. (cười). Mình cũng phải xem thầy mình là
người thế nào chứ. Có nghĩa là trò được chọn thầy chứ thầy đâu có được
chọn trò đâu. Thầy mà muốn khai phủ cho người này mà người ta không
thích thì làm sao mà được.
- Nhưng mày mà muốn tao khai phủ cho mà tao không thích thì cũng đâu có
được?
- Cũng không được, có nghĩa là thầy được phép chọn trò và trò cũng được
phép chọn thầy. Hai bên có quyền lợi nghĩa vụ và trách nhiệm như nhau.
Thầy mà muốn khai phủ cho em, đến ngày khai phủ em không đến thì thầy
làm được gì.Đúng không?Thầy mà không muốn khai phủ thì mình cũng
không làm gì được, thầy bảo mày đi thầy khác đi, tao không mở mày.
- Thông thường khi muốn được mở phủ và gia nhập vào một bản hội nào đó
thì người ta sẽ lựa chọn cái gì, cân nhắc cái gì?
- Quan điểm của em là: Thầy phải là người có sự am hiểu nhất định về văn
hóa tín ngưỡng mà mình theo. Bởi vì thầy mà không hiểu thì mình hỏi thầy
không biết trả lời thế nào. Chả nhẽ thầy này khai phủ cho mình mà khi gặp
vấn đề gì mình lại chạy đi hỏi thầy khác à, thầy ơi cái này cái này là thế nào,
hôm qua con mơ thế này thế này thế kia có nghĩa là thế nào. Như vậy thầy
phải hiểu biết thì mới hướng mình đi đúng con đường. Thứ hai là thầy của
mình có được mọi người kính nể không, có nhiều mối quan hệ xã hội không,
nếu mọi người kính nể thì có nghĩa là thầy mình sống có tâm và có đức. Thứ
ba là thầy của mình có tham lam hay không, thầy mà tham lam thì trò cũng
tham lam chứ. Có một số trường hợp này nhé, mình đến một thầy nào đó
xem cho, rất chuẩn, cả những tâm tư tình cảm rất đúng, thầy bảo mày khai
phủ đi thì ok đống ý ngay. Có chứ, có rất nhiều trưởng hợp như thế lắm chứ.
Rất rất nhiều ấy.
219
- Như vậy có nghĩa là có những người người ta phải cân nhắc rất là kĩ trước
khi người ta trao gửi niềm tin của mình nhưng có những người nó lại như là
cái duyên, gặp một cái là người ta đồng ý luôn?
- Với lại do tính cách của từng người nữa ạ. Thường một đồng thầy khai phủ
cho con đồng mà giữa họ không có sự hiểu nhau thì thường một năm thầy trò
chỉ gặp nhau một hai lần thôi, vào đầu năm và cuối năm hoặc những ngày
mùng một, đến thắp hương hỏi nhau vài câu rồi đi về, chứ còn không có cái
thân mật với thầy. Trong khi đó những người lựa chọn thầy rất kĩ trước khi
nhờ mở phủ thì sau khi mở phủ lại rất thân mật với thầy, trò hiểu thầy, thầy
hiểu trò, quan tâm tới nhau. Ví dụ như hầy bây giờ nhé, ai mà hầu đến đoạn
văn buồn buồn thì em biết ngay là thầy cũng tủi bóng, lúc đó em nhắn cho
thầy một tin “Thầy ơi, bình tĩnh đừng khóc nhé”, thầy nhắn tin lại với em là
Thầy cảm thấy tủi thân, thầy thế này thế này. Đấy là những thầy trò hiểu
nhau, còn những người không hiểu nhau thì mặc kệ những tâm tư của Thầy.
Những người có sự nhìn sâu vào tâm tư tình cảm của nhau, cuộc sống của
nhau sau đó mới nhận nhau làm thầy trò thì nó hay ở chỗ đó. Có những
người đùng một phát khai phủ, khai phủ xong là lượn. Thế nên mới có vấn
đề xoay khăn. Chị mở phủ cho em, sau này em lại đi nhờ người khác mở phủ
lại cho em. Đây chính là một trong những sự lựa chọn đấy. Lựa chọn quá
vội vàng, không tìm hiểu sẽ dẫn tới vấn đề như vậy. Còn đương nhiên trong
vấn đề xoay khăn như vậy còn có nhiều vấn đề khác: có người tin rằng căn
số của mình nặng hơn thầy, cao hơn thầy nên thầy không thể là thầy của
mình được. Cũng giống như em làm ở trên bộ, chị làm ở dưới tỉnh thì chị
không thể quyết định các vấn đề của em được, chị chỉ có quyền quyết định
trong phạm vi tỉnh của chị thôi. Thì cũng như hang ghế cô không thể mở cho
hàng ghế hoàng, thiếu tá thì không chỉ đạo được đại tá. Còn vấn đề thứ ba
nữa là do tâm thức của người xoay khăn người ta cảm thấy là thầy này mở
phủ cho mình mà mình vẫn cứ long đong lận đận bắt đầu chuyển sang thầy
khác để nhờ xoay khăn, nhưng thực ra là do họ chưa hiểu về vấn đề khai
phủ: khai phủ là gì? Khai phủ giống như chị dẫn em đi đến nhà một người
mà em muốn xin việc làm, chỉ là đưa đến thôi còn cái việc em nói chuyện thế
nào, em xin việc như thế nào thì đó là do em chứ không phải do chị.
- Giữa những người có đồng với nhau dường như người ta có cái gì đó như là
đồng cảm ấy nhỉ?
220
- Những người có đồng với nhau yêu nhau thì yêu lắm, quý nhau thì quý lắm,
quý kỉnh khủng luôn nhưng mà ghét nhau thì thôi rồi.
- Những sao lại ghét nhau?
- Ghét nhau vì ghen đồng ghen bóng. Hôm nay chị hầu, chị lên một cái khăn
đẹp hơn họ lại bảo “bà kia mặt thì xấu cái khăn thì rõ là đẹp”,
- Em có nghĩ là do họ là những người đồng bóng nên đôi khi họ không kìm
chế được cảm xúc không?
- Đúng. Những người nào đặc ghế tứ phủ thì những người đó luôn luôn bốc
đồng, tức là lời ăn tiếng nói cử chỉ của họ họ không thể kiểm soát được, có
rất nhiều đồng Thầy sau này phải hối hận vì lời ăn tiếng nói của mình rồi đấy
chứ, nhưng mà cái lúc nói thì lại không thể kìm chế được mình. Có những
người kim chi đôi nước, tức là vừa làm những công việc tứ phủ vừa trừ tà
vừa sát quỷ, vừa bói vừa bùa. Đôi nước ở đây là gì ? Đôi nước là vừa bên Tứ
phủ vừa bên Trần triều.
- Chị thấy có nhiều thầy họ mở rộng mạng lưới bản hội của mình bằng cách
cho con nhang đệ tử nợ tiền?
- Nhiều chứ.
- Theo em, đồng Thầy có những cách thức nào để mở rộng mạng lưới của
mình?
- Cách thức mà tốt nhất là chỉ có tâm đức.
- Nhưng nếu chỉ lấy chữ tâm chữ đức thì nhiều khi không thể cạnh tranh trong
thời buổi kinh tế thị trường như bây giờ. Thời buổi kinh tế thị trường thì chỗ
nào rẻ, chỗ nào tốt thì họ đến, có thể thầy rất tâm đức những thầy không có
sự hỗ trợ thì cũng không mở rộng mạng lưới của mình được?
- Có những người không cần marketing gì hết nhưng người ta vẫn cứ ùn ùn
kéo đến nhờ khai phủ. Cậu L ở trên Bắc Giang một ngày khai phủ cho 3 bốn
người, xong đàn này lại sang khai phủ đàn kia, mã xếp đầy ở ngoài đền luôn.
Nó là lộc bề trên cho mà. Giống như kiểu chị là giáo viên giỏi tất nhiên chị
sẽ có nhiều trò giỏi, sẽ nhiều người xin được học thêm. Tuy nhiên, việc đẻ
được nhiều đồng hay ít đồng là do tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau
chứ không phải chỉ do yếu tố marketing.
- Tất nhiên rồi, nhưng nếu thầy mình giỏi thầy mình tâm đức thì tại sao không
giúp thầy mình bằng cách marketing cho thầy mình?
221
- Em hiểu. Thời đại này là thời đại cả thế giới nằm trong cái Ipad đúng không,
trên đó quảng cáo nào là bùa nào là ngảiNhưng theo quan điểm của em cái
thùng rỗng thì nó hay kêu to, mình không lăng xê không gì hết nhưng lại
nhiều người đến. Em thấy chị rao trên mạng xem bói giỏi thế này thế kia
nhưng chị mà giỏi thì chị không phải như thế rồi. Sẽ rất tin tưởng nếu như
chị em mình chia sẻ cho nhau. Quan trọng là tự thầy tỏa ra cái tâm đức cái
giỏi của mình cơ chứ em không thể làm thầy tỏa ra cái điều đó được.
- Bây giờ bản hội nhà mình có bao nhiêu con đồng?
- Gần 100 con đồng gì đấy. Cuối năm em viết sớ em biết mà. Đó là chưa kể
đến những người tôn nhang, những người bán khoán, những người đến nhờ
làm lễ. Nhưng các con mà thân thiết với thầy như em thì lại rất ít, còn những
người đến gặp thầy nộp tiền mở phủ xong rồi người ta bay, thậm chí có
những người sau 3 năm người ta lớn rồi người ta tự đi hầu mà không cần nhờ
đến thầy nữa, thậm chí đến hết đời cũng ko gặp lại thầy nữa.
- Những con đồng ấy làm nghề gì?
- Nhiều chứ. Cả công an này, giáo viên này, quân đội này, nói chung là nhiều
lắm, cả những người bán rau bán cỏ, buôn bán kinh doanh..
- Hình như bản hội nhà cô có nhiều công chức thì phải? Nhưng vì sao như vậy
nhỉ? Có những bản hội toàn là nông dân, có những bản hội toàn những người
kinh doanh có những bản hội lại toàn công chức nhà nước. Có yếu tố gì
khiến nó như vậy không?
- Cái hình tướng của bản hội như thế nào nó thể hiện tính cách của đồng Thầy
như thế. Người thầy là căn cô chạnh chọe chạnh chọe thì cái bản hội đấy đa
phần đi với nhau là rất hay chạnh chọe, thầy sát với Quan Hoàng Mười nên
cái đội công chức là con nhang ấy chính là cái lộc thì căn Hoàng Mười. Hơn
nữa Thầy lại xuất thân từ công chức ra mà. Thầy xuất thân từ cơ quan nhà
nước ra nhé nên mối quan hệ của thầy đã có sẵn cho nên chỉ cần 3 con nhang
của Thầy làm việc ở cơ quan nhà nước thôi, mỗi con nhang giới thiệu tối
thiểu một người thì số lượng lại nhân lên. Còn nếu thầy đẻ ra 3 con đồng là
kinh doanh, mỗi con đồng ấy lại giới thiệu một con đồng là kinh doanh khác
thì số lượng lại tăng lên rất nhiều. Tất cả nó có phường có chợ với nhau đấy.
- Em ơi, một bản hội em thử phác thảo giúp chị xem nó gồm cơ cấu như thế
nào?
222
- Bao giờ đồng Thầy cũng cao nhất và ưu ái một số người, cái người mà Thầy
nhận thấy rằng họ có tố chất để lãnh đạo bản hội, dẫn dắt bản hội, có năng
lực về tâm linh. Em đặt em vào địa vị một ông đồng già đi, thì bản hội của
em sau này phải có người kế nghiệp để nó còn tồn tại nữa, chứ em mà thác đi
thì bản hội mất hút luôn à, em thác đi thì con nhang của em bơ vơ biết về
đâu. Chị đang theo một thầy nhé, con chị sau này có việc gì nó cũng chạy
đến nhà Thầy, sau này thầy thác đi có người khác thay thì con chị nó vẫn đến
đóThầy phải nhìn ra trong số các con của thầy ai là người có tố chất có thể
thay thầy làm mọi việc nếu như sau này thầy cao tuổi hoặc khuất bóng xế
chiều. Cái người này sẽ giúp thầy quản lý các vấn đề trong bản hội. Ví dụ
được giao cho thông báo với các nhóm khi bản hội có việc, đón tiếp khách,
lo ăn rồi lộc lá cho mọi người. Thế là mọi người đến và thầy “à cái thằng này
nó làm việc cho thày, nó được thầy tin tưởng giao cho nhiều việc như thế thì
nó phải là người như thế nào chứ. Và thế là mọi người phải kính nể”. Họ là
người thân cận nhất với thầy. Sau đó đến các con nhang đệ tử. Các con
nhang đệ tử nó lại có từng nhóm, ví dụ em là con của thầy em giới thiệu cho
1 người,hoặc hai người, hai người đó lại giới thiệu những người khác đến với
bản hội của thầy, nhóm đấy đẻ ra đến chục ngườiTrong nhóm đó lại có
một người làm trưởng nhóm. Trong bản hội nhà thầy có anh Thà và bạn của
mình là một nhóm, nhóm cậu Tuấn, nhóm Viettel là một nhóm, nhóm của
anh chị TN (anh chị này bằng tuổi thầy, anh ấy là cục trưởng), các cụ Bồ Tát
là một nhómMỗi một nhóm lại có một nhóm trưởng, không bầu nhau gì cả
nhưng lại có một người nhóm trưởng, tự nổi lên nhé. Những người nào gần
gũi nhất với thầy người đó là nhóm trưởng. Thầy có việc gì nhé, thầy chỉ cần
thông báo với nhóm trưởng “Thà ơi, đến 17 là thầy hầu nhé” anh Thà sẽ phải
có trách nhiệm thông báo với tất cả những người trong nhóm của mình.
- Anh đó là người đến với thầy đầu tiên?
- Không, có thể là đến sau cùng nhưng quan trọng là họ lại thân với thầy và có
quan hệ với tất cả cái dọc những người trong nhóm đó. Thầy là người nhìn ra
tất cả, à cái đứa này nó giao du với tất cả những đứa còn lại..
Cuối cùng là những thành viên trong nhóm
- Những người như thế nào thì nằm trong bản hội?
- Những người là con đồng của thầy, những người tôn nhang tại điện nhà
Thầy, những người bán khoán, những người mà thầy thường xuyên làm lễ
223
cho họ. Còn những anh Bá Linh thường xuyên quay phim cho thầy nhưng có
nằm trong bản hội đâu. Còn cung văn thầy cúng, hầu dâng cũng vậy, họ là
những người làm việc cho nhiều bản hội chứ đâu có phải chỉ làm riêng cho
thầy và cũng không phải là con đồng của thầy (người ta chỉ giúp việc cho
đồng Thầy thôi chứ không nằm trong bản hội)
- Các nhóm đó liên kết với nhau bằng cái gì?
- Liên kết với nhau bằng thầy. Mọi người gặp nhau cũng vì công việc của
Thầy, chứ bình thường rất ít khi gặp nhau, nhưng mỗi khi thầy có việc như
vào hạ, vào xuânthì mọi người lại ngồi lại với nhau bình thường, ra đường
gặp nhau thì chào mà cảm thấy hợp với nhau thì lại chơi với nhau. Hai cái
nhóm ấy mà hòa hợp với nhau thì nó lại tạo thành một nhóm lớn.
224
PHỤ LỤC 5: PHỤ LỤC ẢNH
Hình 1: Điện thờ của bản hội Phúc Minh Từ
(Nguồn: Tác giả chụp tại Hà Nội năm 2013)
Hình 2: Đồng thầy Xuyên của bản hội Phúc Minh Từ nhìn từ phía sau
(Nguồn: Tác giả chụp tại một buổi lễ ở điện thờ của bản hội Phúc Minh từ năm 2014)
225
Hình 3: Pháp sư trong lễ cúng dâng sao giải hạn của bản điện Phúc Minh Từ
(Nguồn: Tác giả chụp tại điện thờ của Phúc Minh từ năm 2014)
Hình 4: Cung văn của bản hội Phúc Minh Từ
(Nguồn: Tác giả chụp tại điện thờ của bản hội Phúc Minh từ năm 2013)
226
Hình 5: Lễ mừng đồng của đồng Thầy Xuyên diễn ra tại một ngôi đền ở Hưng Yên
(Nguồn: Tác giả chụp tại Hưng Yên, năm 2015)
Hình 6: Đồ mã trong lễ mừng đồng của đồng Thầy Xuyên tại một đền thờ ở Hưng Yên
(Nguồn: Tác giả chụp tại Hưng Yên, năm 2015)
227
Hình 7: Lễ cắt sao giải hạn đầu năm tại điện thờ của bản hội Phúc Minh từ
(Nguồn: Tác giả chụp tại điện thờ của bản hội Phúc Minh từ năm 2015)
228
Hình 8: Các con nhang đệ tử mừng sinh nhật đồng Thầy Xuyên
(Nguồn: Tác giả chụp tại Hưng Yên, năm 2015)
229
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_ban_hoi_trong_dao_mau_tao_lap_von_xa_hoi_trong_boi_c.pdf