HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
THÁI DOÃN VIỆT
ảNH HƯởNG ĐạO ĐứC NHO GIáO
ĐếN GIáO DụC ĐạO ĐứC TRONG GIA ĐìNH
ở VIệT NAM HIệN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
THÁI DOÃN VIỆT
ảNH HƯởNG ĐạO ĐứC NHO GIáO
ĐếN GIáO DụC ĐạO ĐứC TRONG GIA ĐìNH
ở VIệT NAM HIệN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY
169 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 436 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Ảnh hưởng đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT
2. PGS.TS. LÊ VĂN LỢI
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Thái Doãn Việt
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến Nho giáo và đạo đức Nho giáo 5
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến gia đình và đạo đức gia đình 14
1.3. Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa đạo đức Nho giáo với
giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam 18
1.4. Khái lược những kết quả đạt được từ các công trình khảo cứu ở
trên và những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết 22
Chương 2: QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ ĐỐI VỚI LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC GIA
ĐÌNH VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ 26
2.1. Quan niệm của Nho giáo về đạo đức và đạo đức trong gia đình 26
2.2. Đạo đức Nho giáo với tư cách nhân tố chủ đạo của giáo dục đạo
đức gia đình Việt Nam trong lịch sử 54
Chương 3: ẢNH HƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐẾN GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC
TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 72
3.1. Những nhân tố tác động đến ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo
trong giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay và
phương thức ảnh hưởng của nó 72
3.2. Thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo
đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay 86
3.3. Một số vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến
giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay 98
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 105
4.1. Phương hướng chủ yếu nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức
trong gia đình ở Việt Nam hiện nay 105
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức
trong gia đình ở Việt Nam hiện nay 118
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét về mặt ý thức hệ, Việt Nam từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư
tưởng phong kiến Trung Quốc mà nền tảng của nó là Nho giáo. Bên cạnh mặt
tiêu cực đã và đang ảnh hưởng không tốt đến đời sống xã hội, Nho giáo vẫn
phát huy được những mặt tích cực nhất định của nó. Ở nhiều nước phương
Đông như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... Nho giáo vẫn có vị trí nhất định
trong đời sống xã hội. Ông Lý Quang Diệu, nguyên Thủ tướng Singapore tại
Hội nghị nghiên cứu về Khổng Tử và Đại hội thành lập Hội liên hiệp Nho học
quốc tế nhân dịp kỷ niệm 2545 năm ngày sinh của Khổng Tử, đã phát biểu
như sau:
76% nhân khẩu của Singapore là người Hoa. Văn hoá dân tộc Hoa
chú trọng ngũ luân, cũng tức là: cha con thì có tình thân, vua quan
thì có nghĩa, chồng vợ thì có khác biệt, trưởng ấu thì có thứ tự, bạn
bè thì có điều tín. Họ xem lợi ích xã hội cao hơn lợi ích cá nhân, do
đó không tiếp thu chủ nghĩa cá nhân vô hạn độ của người Mỹ... Từ
kinh nghiệm quản lý đất nước của Singapore, đặc biệt trong những
ngày gian khổ từ năm 1959- 1969, khiến tôi tin tưởng sâu sắc rằng,
nếu không phải là đại bộ phận nhân dân Singapore được hun đúc
qua giá trị quan của Nho học, thì chúng tôi không có cách gì khắc
phục những khó khăn, trở ngại đã vấp phải [37, tr.281].
Trải qua nhiều bước thăng trầm, song ảnh hưởng cũng như giá trị và
sức sống của tư tưởng Nho giáo nói chung, đạo đức Nho giáo nói riêng là điều
chúng ta không thể phủ nhận. Tuy ở mức độ khác nhau, nhưng với hơn 2500
năm tồn tại và phát triển, tư tưởng Nho giáo trong đó có học thuyết đạo đức
của nó đã thấm sâu trong đời sống tinh thần của nhiều người Việt Nam, thậm
chí nó đã trở thành một phần máu thịt của họ.
2
Đạo đức Nho giáo không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân con người mà còn
ảnh hưởng đến các thiết chế xã hội Việt Nam, trong đó có gia đình - với tư
cách là tế bào của xã hội.
Với truyền thống nhân ái, thủy chung, trọng nghĩa tình, đạo lý, chúng ta
luôn luôn đề cao giáo dục đạo đức trong gia đình và vai trò của gia đình trong việc
hình thành và phát triển nhân cách con người. Một trong những định hướng lớn về
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội được Đại hội XII của Đảng đề ra là "Thực hiện
chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây
dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và văn minh" [48, tr.128].
Hiện nay nhiều gia đình Việt Nam vẫn giữ gìn và phát huy được những
giá trị tốt đẹp của đạo đức gia đình truyền thống, trở thành giá đỡ, thành chỗ
dựa tinh thần không thể thiếu trong suốt hành trình của mỗi con người. Một
thực tế không thể phủ nhận là trong những giá trị đó có sự đóng góp nhất định
của đạo đức Nho giáo. Tuy nhiên, dù được lựa chọn, sàng lọc qua quá trình
tiếp biến văn hóa ở nước ta gần hai ngàn năm, cho đến tận ngày ngay, đạo đức
Nho giáo cũng có những mặt hạn chế nhất định và ảnh hưởng không tốt đối
với sự hình thành các giá trị đạo đức mới của gia đình Việt Nam, làm cho
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước bị cản trở.
Chính vì vậy, việc kế thừa những giá trị tích cực, khắc phục, hạn chế
mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo trên lập trường đạo đức cách mạng của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp với thực tiễn của cách
mạng nước ta để xây dựng đạo đức gia đình ở Việt Nam nói riêng, gia đình
văn hóa mới nói chung ở nước ta hiện nay là vấn đề mang ý nghĩa cấp thiết.
Đề tài: "Ảnh hưởng Đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình
ở Việt Nam hiện nay" do chúng tôi lựa chọn để làm đề tài luận án của mình
chính là sự định hướng tới mục đích nói trên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục
đạo đức trong gia đình ở Việt Nam trong lịch sử và những vấn đề đặt ra từ
3
ảnh hưởng đó đến giáo dục đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay, luận
án đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần phát
huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo
đến giáo dục đạo đức trong gia đình, góp phần vào sự nghiệp xây dựng gia
đình văn hóa mới ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu nguồn gốc, nội dung đạo đức Nho giáo.
Thứ hai: Đánh giá thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo
dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay và một số vấn đề đặt ra.
Thứ ba: Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo
đến việc giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng đạo đức Nho giáo (cả mặt tích cực lẫn
tiêu cực) đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng đạo đức Nho giáo đến giáo
dục đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay (nhưng số liệu điều tra, khảo
sát chủ yếu từ khi đổi mới đất nước đến nay).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức
gia đình. Đồng thời luận án có kế thừa những thành tựu đạt được của một số
công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận án kết hợp sử dụng các phương pháp cụ
4
thể: phân tích tổng hợp, lôgíc - lịch sử, quy nạp và diễn dịch, khái quát hóa,
đối chiếu so sánh, thống kê xã hội học...
5. Những đóng góp mới về khoa học
- Từ nguồn gốc và nội dung của đạo đức Nho giáo, luận án làm rõ đạo
đức Nho giáo Việt Nam và đạo đức trong gia đình theo quan niện Nho giáo
Việt Nam.
- Làm rõ ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến đạo đức trong gia đình ở
Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục
đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần tìm hiểu ảnh hưởng đạo đức Nho giáo đến đạo đức
trong gia đình ở Việt Nam hiện nay. Chỉ ra những khó khăn và thuận lợi trong
việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức
Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức trong gia đình, xây dựng gia đình mới
ở Việt Nam hiện nay.
Luận án góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch
định chủ trương, chính sách phát triển văn hóa con người Việt Nam, đặc biệt
là việc tiếp thu các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc góp phần xây
dựng gia đình văn hóa mới.
Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập
môn triết học nói chung và triết học phương Đông nói riêng, cũng như các
môn về khoa học xã hội. Luận án cũng là tài liệu quan trọng cho những ai
quan tâm đến đạo đức, Nho giáo và giáo dục đạo đức gia đình.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội ra đời cách đây hơn 2500 năm.
Sự tồn tại, phát triển của Nho giáo và những giá trị của Nho giáo cũng như
những mặt trái của Nho giáo luôn nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu
không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Cho đến nay, đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về Nho giáo từ nhiều góc độ khác nhau. Chúng ta có
thể khái quát lại các công trình nghiên cứu và phân chia thành các nhóm sau:
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHO GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨC
NHO GIÁO
1.1.1. Những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Vấn đề đạo đức nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng luôn được giới
nghiên cứu quan tâm và từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, với
nhiều cách tiếp cận khác nhau trên thế giới.
Chẳng hạn bộ sách: "20 thế kỷ Nho học nghiên cứu đại hệ 21" của
Truyền Vĩnh, Hàn Chung Văn [200], là kết quả nghiên cứu từ Hội thảo khoa
học quốc tế với những nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu về kinh điển Nho giáo. Đây là chủ đề được hội
thảo bàn luận nhiều nhất. Bởi lẽ, trước khi nghiên cứu nội dung cơ bản của
Nho học cần phải nắm vững kinh điển của nó. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện
nay, việc việc nghiên cứu Nho giáo không chỉ dừng lại ở trích dẫn kinh điển
mà còn ở những nhận định khách quan, khoa học và có tính thực tiễn cao hơn.
Nội dung chủ yếu của xu hướng này tập trung ở các bài viết về: Nghiên cứu
kinh điển Nho gia của Trương Đào, nghiên cứu khái quát và cụ thể từng nội
dung của Nho gia thời kỳ đầu và ảnh hưởng của nó đến Kinh học; Nghiên
cứu Khổng Tử của Khổng Phàm Lĩnh đã đánh giá những giá trị, ảnh hưởng
của học thuyết Khổng Tử không chỉ ở xã hội Trung Quốc mà còn có một số
6
quốc gia trên thế giới; Nghiên cứu các học phái Nho gia của Lý Chiêu Cường
tập trung phân tích, so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa 8 phái của Nho
giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hoá truyền thống Trung Quốc.
Thứ hai, nghiên cứu tư tưởng chính trị, kinh tế của Nho giáo
Công trình "Nghiên cứu tư tưởng chính trị Nho gia" của Vương Nhật Mỹ
[125] đã trình bày tư tưởng chính trị của Nho gia. Tác giả đã tổng kết và đưa
ra những giá trị của Nho giáo đang được ứng dụng trong thực tiễn xã hội
đương đại. Dương Âm Lâu chủ biên cuốn "Nghiên cứu tư tưởng kinh tế của
Nho gia" tập trung nghiên cứu lịch sử tư tưởng kinh tế của các bậc đại Nho
Trung Quốc như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Tư Mã Thiên, Đổng Trọng
Thư, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu... Trong công trình này các tác giả đã
có những kiến giải về quản lý xã hội, quản lý giáo dục, quản lý kinh tế, quản
lý nghệ thuật, triết học chính trị, hay sự thích ứng của tư tưởng quản lý Nho
giáo với nền kinh tế thị trường
Thứ ba, những nghiên cứu tư tưởng giáo dục, luân lý đạo đức của Nho giáo
Tăng Chấn Vũ với công trình "Nghiên cứu tư tưởng luân lý của Nho gia"
[202]. Đây là công trình nghiên cứu những luân lý của Nho gia một cách tổng
quát. Từ luận lý tác giả đã nêu bật được những ảnh hưởng của Nho giáo đến
toàn xã hội Trung Quốc và ảnh hưởng của luân lý Nho gia đến xã hội Đông
Á, vai trò của luân lý Nho gia đối với sự phát triển kinh tế. Lý Đào Tường với
công trình "Nghiên cứu luân lý Nho gia" [186] đã tập trung nghiên cứu tư
tưởng giáo dục của các nhà Nho giáo. Công trình "Nghiên cứu sự truyền bá
Nho học" của tác giả Lưu Đức Tăng [146] đã nghiên cứu các vấn đề: Sự
truyền bá và phân hoá hay biến thể của Nho học; Nam học và Bắc học Nho
giáo; Văn hoá khu vực và các môn phái Lý học
Thứ tư, những nghiên cứu Nho giáo trong tương quan của trục quan hệ
so sánh.
Đây là mảng đề tài được rất nhiều tác giả quan tâm. Tiêu biểu là công
trình: "Nghiên cứu Nho học Nhật Bản, Hàn Quốc" của Lưu Hậu Cầm [24].
7
Trong công trình này các tác giả đã nêu bật được những ảnh hưởng của Nho
giáo đến Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Cùng thể loại công trình này, tác
giả Lý Cảnh Minh, Đường Minh Quý đã đồng chủ biên hai công trình về Nho
giáo là "Nghiên cứu so sánh Nho giáo và Đạo giáo" [107] và "Nghiên cứu so
sánh Nho giáo và Phật giáo" [108]. Ngoài ra còn có các tác phẩm: "Nghiên
cứu tư tưởng sử học của Nho gia"; "Nghiên cứu tư tưởng tôn giáo của Nho
gia" trong cuốn: "Nghiên cứu tư tưởng triết học của Nho gia" của Tế Kim
Giang, Lý Kiến và Trương Tụng Chi [50]... Các công trình này đã nêu được
những điểm khác biệt của Nho giáo trên từng lĩnh vực đời sống xã hội so với
các học thuyết ngoài nó.
Thứ năm, những nghiên cứu về văn hoá trong Nho giáo
Về văn hóa trong Nho giáo các tác giả tập trung khai thác ở mảng Khổng
Tử và Hiến pháp, Nho giáo và Hiến pháp; Nho giáo với văn hoá truyền thống
của Trung Quốc hay tính cách của Nho gia và hạn chế trong cuộc sống hiện
đại. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các công trình: "Nghiên cứu tư
tưởng văn hoá của Nho gia" của Dương Xuân Mai [106]; "Nghiên cứu tư
tưởng văn nghệ của Nho gia" của Triệu Lợi Dân [34].
Thứ sáu, nghiên cứu Nho giáo như là một thành tố chính trong "Giá trị
châu Á" tác động tới sự thành công của các nước Đông Á trong việc tổ chức
quản lý đời sống xã hội và phát triển kinh tế.
Các tác giả Tan Chwee Huat, Heungsik Park, Micheal T Rehg và Donggi
Lee đã luận bàn về các vấn đề như: "Nho giáo và việc xây dựng quốc gia ở
Singapore", "Sự ảnh hưởng của Đạo đức Nho giáo và Chủ nghĩa tập thể tới
mục đích thổi còi" hay "Nho giáo và nền tảng đạo đức của bộ máy quan liêu"
của H. Frederickson và nhà nghiên cứu D. Koehn với "Chữ Tín trong Nho
giáo và thực tiễn kinh doanh ở Trung Quốc"
Bên cạnh những nghiên cức trên còn có nhiều công trình nghiên cứu về ý
nghĩa của Nho giáo đối với xã hội hiện đại. Tác phẩm: "Bình luận và giải
thích giá trị hiện đại tư tưởng Nho gia" của tác giả Tào Cương [33] đã đề cập
8
đến phương pháp luận bình luận và giải thích giá trị hiện đại tư tưởng Nho gia
ở một số phương diện như tư tưởng nhân học; luân lý lý tưởng Nho gia và
kinh tế thị trường hiện đại; quan niệm đạo đức Nho gia và xây dựng đạo đức
hiện đại; quyền lợi và nghĩa vụ theo quan điểm Nho giáo
Công trình nghiên cứu: "Văn hoá Nho gia và quản lý kinh tế hiện đại"
của của tác giả Đường Nhậm Ngũ [130] đã đề cập đến vai trò của văn hoá
Nho giáo đến tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước
Đông Nam Á; Nhân tố trong văn hoá Nho gia phù hợp với sự phát triển kinh tế;
Văn hoá Nho gia thích ứng với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
Công trình nghiên cứu "Nho gia truyền thống và tư tưởng nhân quyền,
dân chủ" của của các tác giả Trần Khải Trí và Trương Thọ Hoa [182]. Đây là
công trình tập hợp các bài viết của các tác giả Trung Quốc về tư tưởng Nho
gia với các vấn đề triết học chính trị hiện đại: nhân quyền, dân quyền, dân
chủ, và so sánh với xã hội phương Tây. Ở đây các tác giả cũng lấy tư tưởng
của Mạnh Tử về dân bản (dân vi bản) để phân tích, đề xuất mô hình xã hội
đương đại.
Tác giả Trương Hưng Phúc với công trình: "Văn hoá Nho gia và nghiên
cứu quản lý hiện đại" [135] đã đề cập đến những vấn đề lợi ích, chế độ, đào
tạo bồi dưỡng nhân tài, hiệu ứng tâm lý, giá trị hướng thượng... của Nho giáo
từ đó đề xuất, áp dụng những giá trị của Nho gia vào quản lý xã hội hiện đại.
Như vậy, có thể nói cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đề
cập đến hầu hết các lĩnh vực tư tưởng của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến
đời sống con người phương Đông trong lịch sử cũng như hiện tại. Đồng thời
nó phản ánh tính thời sự khoa học cấp bách mà ở mỗi nước đồng văn Trung
Hoa ngày nay phải tính đến trên con đường hội nhập và phát triển của mình.
Việc tìm hiểu những nội dung thiết thực liên quan đến đề tài luận án chắc
chắn giúp chúng tôi ngoài việc tham khảo những đánh giá của các học giả về
đạo đức gia đình, xã hội của Nho giáo, thiết nghĩ cũng cần có quan điểm riêng
của mình đối với việc nghiên cứu các vấn đề đó ở Việt Nam.
9
Về vấn đề đạo đức Nho giáo đã có một số công trình nghiên cứu như:
"Đạo Hiếu trong Nho gia" của tác giả Cao Vọng Chi [27] đã có những khảo
cứu, so sánh khá chi tiết về nội dung của Hiếu Kinh với đạo Hiếu trong Nho
gia, từ đó chỉ ra cơ sở xác lập, hoàn cảnh lịch sử và sự kế thừa tư tưởng đó
trong quá trình hình thành tư tưởng đạo Hiếu của Nho giáo. Tác giả còn phân
tích một cách sâu sắc những lời răn dạy của Nho giáo về đạo Hiếu đối với dân
chúng với giới tri thức và đặc biệt đối với phụ nữ. Đặc biệt trong chương 8 về
Đạo Hiếu trong Nho gia, tác giả đã nêu lên tầm ảnh hưởng của Nho giáo và
đạo đức Nho giáo đối với các nước láng giềng như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt
Nam. Đối với Việt Nam, tác giả đã có sự hiểu biết rất sâu sắc về lịch sử và phân
tích những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với Việt Nam như: các sắc lệnh
của vua ban về đạo Hiếu, về sự bắt buộc phải tuân thủ tục để tang ba năm do
Khổng Tử đề xuất, v.v. Phần cuối của cuốn sách, tác giả đã có những nghiên cứu
và so sánh đạo Hiếu trong Nho gia với Phật giáo, Đạo giáo và Thiên Chúa giáo.
Đây là công trình giúp chúng tôi tham khảo nhiều vấn đề liên quan đến quá trình
thực hiện đề tài, đặc biệt ở cách lý giải đạo Hiếu trong Nho gia.
1.1.2. Những nghiên cứu của các tác giả trong nước
Vấn đề đạo đức Nho giáo được bàn rất nhiều qua các lăng kính khác nhau:
Tác giả Trần Trọng Kim trong tác phẩm Nho giáo, được Nxb Thông tin,
Hà Nội xuất bản năm 2003, đã trình bày và phân tích những tư tưởng cơ bản
của Nho giáo trong quá trình hình thành và phát triển. Đặc biệt nêu cao những
giá trị tích cực của Nho giáo trong việc đào tạo con người và ổn định trật tự
xã hội. Khi nói về cuốn Luận ngữ của Khổng Tử, ông đã viết:
Trong sách ấy, cùng một chữ nhân, chữ hiếu, chữ chính mà mỗi nơi
nói một khác, là vì cách lập giáo của Khổng Tử cứ tùy tư cách, hoặc
tùy sở đắc, sở thất của từng người mà dạy bảo, cho nên nghĩa không
đồng. Tuy hình thức thì không có trật tự, phân minh, nhưng văn từ
thì thật rõ, thật đúng, ý tứ rất sáng, rất gọn, mà câu nào cũng hàm
súc ung dung, đích đáng là lời dạy của thánh nhân [84, tr.171].
10
Tác phẩm "Không học đăng" của Phan Bội Châu [25] đã trình bày về sự
hình thành và phát triển Nho giáo từ Khổng Tử đến Khổng học thời Minh
Thanh, tác phẩm đề cập sâu rộng một số phạm trù trong học thuyết của Khổng
Tử như Nhân, Trí, Dũng... và bàn về Khổng học thời Lưỡng Hán Lục triều,
thời Tống và Minh Thanh.
Các tác giả của Nho giáo và Khổng học đăng đều có điểm chung là:
thông qua cách trình bày một số phạm trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo.
Trong tiến trình lịch sử của nó, nhìn nhận Nho giáo từ góc độ giá trị, cho rằng
Nho giáo không chỉ là một học thuyết triết học, mà còn là học thuyết chính trị
xã hội, đạo đức, ở đó dường như thâu thái đầy đủ những nội dung triết học
của toàn thế giới. Trong điều kiện thực dân Pháp bãi bỏ nền cổ học trên toàn
cõi An Nam (1919), sự bành trướng của văn hóa phương Tây vào Việt Nam
đương thời đã làm xuất hiện các quan điểm coi thường giá trị của các học
thuyết truyền thống, trong đó có Nho giáo. Hai ông đã trình bày khá hệ thống
nội dung tư tưởng của học thuyết này nhằm chứng minh sức sống trường tồn
của Nho giáo, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức. Tuy nhiên có nhiều đánh giá,
nhiều ý kiến mang yếu tố chủ quan, cá nhân.
Bộ sách về "Đại cương triết học Trung Quốc" của Giản Chi, Nguyễn
Hiến Lê [26] đã đề cập đến các phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo qua
một số phạm trù đạo đức như: nhân, trí, dũng, lễ, nghĩa, v.v. Đây là công trình
với dung lượng trang lớn, các tác giả đã tập trung phân tích các phạm trù đó ở
phương diện hệ thống để làm rõ mối quan hệ đạo đức gia đình - làng - nước.
Công trình "Nho giáo Trung Quốc" của Nguyễn Tôn Nhan [132], là bộ
sách nghiên cứu lịch sử Nho giáo một cách chi tiết, độ dày của cuốn sách lên
đến hơn 1600 trang. Đây là tác phẩm mà tác giả đã dành tâm huyết và có cách
nhìn mới mẻ, hệ thống về Nho giáo. Trên cơ sở trình bày lịch sử phát triển
của Nho giáo, tác giả đã phân chia sự hình thành phát triển Nho giáo thành
sáu giai đoạn từ Nho giáo sơ kỳ (hay còn gọi là Nho gia để phân biệt với các
phái ("gia") khác cho đến Nho giáo thời Minh Thanh. Đây là cách tiếp cận về
11
phân chia Nho giáo theo nghĩa phân biệt nó với Nho gia, một trong những học
thuyết chính trị - xã hội ra đời ở Trung Quốc thời cổ đại. Tuy nhiên, tác giả
không nói rõ Nho giáo là một tôn giáo trong sự phân biệt với Nho gia. Đây là
vấn đề được tranh luận từ lâu, song theo chúng tôi, Nho giáo với Nho gia về
thực chất là một, và nghĩa chữ "giáo" ở đây chỉ chủ yếu mang nội dung giáo
huấn, dù sau này Đổng Trọng Thư có đưa một số yếu tố tôn giáo thần bí vào
học thuyết Nho gia, rốt cục Nho giáo vẫn chưa đủ những tiếu chí cấu thành
tôn giáo.
Công trình "Lịch sử triết học phương Đông" của Doãn Chính [29] đã
trình bày một cách khá hệ thống nội dung tư tưởng của các học thuyết triết
học Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại, Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, trong
đó phần giới thiệu Nho giáo chiếm một dung lượng đáng kể. Tuy nhiên, dù số
lượng trang viết khá lớn, song với nội dung vô cùng phong phú của triết học
phương Đông, cuốn sách này cũng chỉ mang tính lược khảo những vấn đề cơ
bản của nền triết học này.
Một số tác giả khác đã làm rõ những ảnh hưởng của Nho giáo trên các
mặt: Chính trị, xã hội, tư tưởng, văn hóa... Cao Xuân Huy với cuốn: "Tư
tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu" [65] đã luận giải khá
sâu sắc về chữ Nhân của Khổng Tử; "Khổng Tử và Luận ngữ" của Nguyễn
Hiến Lê [90]; "Nho giáo và đạo đức" của Vũ Khiêu [76]; "Nho học và Nho
học Việt Nam" của Nguyễn Tài Thư [174], "Khổng giáo phê bình tiểu luận"
của Đào Duy Anh [1]... là những tác phẩm đã chỉ ra những yếu tố tiêu cực
trong Nho giáo cần phải khắc phục, cũng như những ảnh hưởng tích cực của
Nho giáo cần được tiếp thu góp phần xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện
nay. Các tác giả đi sâu vào việc luận giải nguồn gốc của Nho giáo và những
chuẩn mực đạo đức của Nho giáo, từ đó làm rõ những ảnh hưởng của Nho
giáo ở nước ta trong lịch sử cũng như hiện tại.
Cuốn: "Ảnh hưởng của Đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản
lý của Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt [82] đã tập hợp các bài viết
12
bàn về đạo đức Nho giáo, ở đó các tác giả đi sâu phân tích nguồn gốc, bản
chất, đặc trưng của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đạo đức cán bộ
lãnh đạo quản lý nói riêng. Bài viết trong công trình này nhan đề: "Nho giáo -
Cơ sở của đạo đức phong kiến Trung Quốc" của tác giả Nguyễn Bằng Tường
[185] đã nhận định Nho giáo là cơ sở của đạo đức phong kiến và tư tưởng đạo
đức Nho giáo được đặt trên cơ sở của chủ nghĩa tiên nghiệm; quan điểm duy
tâm chủ quan về đạo đức, sự thống nhất tuyệt đối giữ "tâm" và "tính"; mục
đích tu dưỡng đạo đức không hướng vào cuộc sống đời thường; phương pháp
tu dưỡng có tính chất siêu hình, thoát ly cuộc đời. Bài viết khác nhan đề "Đạo
đức phong kiến Việt Nam - nguồn gốc và đặc trưng cơ bản" của tác giả Nguyễn
Tài Thư [175] đã bàn về nguồn gốc của chế độ phong kiến Việt Nam và đạo đức,
đặc trưng phong kiến Việt Nam. Còn bài viết: "Từ tư tưởng "tu thân" trong Nho
giáo suy nghĩ về vấn đề giáo dục cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay ở nước ta"
của tác giả Nguyễn Thế Kiệt [83] đã đưa ra những nhận xét đúng về giá trị của
Nho giáo. Trong bài viết này, vấn đề Tu thân được tác giả xác nhận như một
biện pháp tu dưỡng đạo đức hiệu quả của Nho giáo với nhiều giá trị tích cực có
thể vận dụng và phát huy trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, từ quan điểm tu
thân, tác giả đưa ra những kinh nghiệm giáo dục đạo đức của Nho giáo để rèn
luyện bồi dưỡng đạo đức cách mạng, động viên tinh thần học tập của cán bộ,
đảng viên và nhân dân thực hiện mục tiêu chung của đất nước.
Bên cạnh các tác giả bàn về những ảnh hưởng có tính chất tích cực, lại
có những tác giả có quan điểm ngược lại, nhấn mạnh mặt tiêu cực của đạo
đức Nho giáo, chẳng hạn cuốn "Nho giáo xưa và nay" của Quang Đạm [40];
"Nho giáo tại Việt Nam" của Lê Sĩ Thắng [151]... Mặc dù có những kiến giải
mới về đạo đức Nho giáo như Tam cương, Ngũ thường, Ngũ luân... nhưng các
tác giả nặng về phê phán đạo đức Nho giáo, cho nó là khắt khe, một chiều, coi
khinh phụ nữ, phân biệt đẳng cấp, v.v.
Hội thảo "Nho học ở Việt Nam" của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện
Harvard - Yenching (Mỹ) [194] đã bàn thảo nhiều vấn đề như: Ảnh hưởng
13
của Nho giáo trong đời sống hiện đại, quy trình du nhập của Nho giáo vào
Việt Nam; tư tưởng Nho giáo trong thời phong kiến và ảnh hưởng của nó
trong xã hội đương đại, v.v. Trong Hội thảo này, các bản tham luận tập trung
vào việc làm rõ giá trị của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong đời sống xã
hội Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, một số luận án cũng đề cập đến đạo đức Nho giáo, vấn đề
con người trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam như: "Ảnh
hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống" của
Trần Thị Hồng Thúy [168]; "Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ" của
Nguyễn Tài Thư [172]; "Quan niệm của Nho giáo nguyên thủy về con người
và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Nguyễn Thị Nga [126]... Các luận án này
đều tập trung bàn về vấn đề con người với tư cách là đối tượng của một học
thuyết với mục đích làm rõ cách thức thực hiện mục tiêu chính trị bằng đạo
đức, tức là lấy đạo đức để cảm hóa con người trong việc thiết lập và duy trì
trật tự xã hội.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thanh Bình: "Học thuyết chính trị xã hội của
Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ
XIX)" [14] đã phân tích về các phạm trù nhân, lễ, chính danh, đến xã hội lý
tưởng, đến chuẩn mực đạo đức... Từ đó tác giả đề cập những chuẩn mực đạo
đức đó của chế độ phong kiến ở Việt Nam.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thanh Mai: "Ảnh hưởng của đạo đức
Nho giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện
nay" [105] đã trình bày được nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo và nét
riêng của đạo đức Nho giáo Việt Nam. Phân tích thực trạng ảnh hưởng của
đạo đức Nho giáo đối với đạo đức cán bộ quản lý hiện nay ở nước ta, tác giả
đã đưa ra một số giải pháp cơ bản để phát huy những mặt tích cực và hạn chế
mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong việc xây dựng đạo đức cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
14
Luận án tiến sĩ Triết học về: "Đạo đức trung hiếu trong Nho giáo và ý
nghĩa của nó đối với việc giáo dục ý thức trách nhiệm ở Việt Nam hiện nay"
của Trần Thị Lan Hương [66] đã nêu lên nguồn gốc hình thành tư tưởng đạo
đức trung hiếu, sự phát triển của trung hiếu trong tiến trình lịch sử phát triển
của Nho giáo để từ đó tác giả nêu lên ý nghĩa của nó đến việc giáo dục ý thức
trách nhiệm ở Việt Nam hiện nay.
Một số luận văn Thạc sĩ liên quan đến đề tài của luận án chúng tôi như:
"Tư tưởng Nhân, Lễ, Chính, Danh, trong tác phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử
và vận dụng vào giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay" của
Nguyễn Thị Bình [15]; "Từ Trung - Hiếu của Khổng Tử đến tư tưởng Trung -
Hiếu của Hồ Chí Minh" của Trần Thị Hồng Minh [120]; "Quan niệm của Nho
giáo về trung-hiếu-lễ. Ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức con người
Việt Nam" của Phạm Mạnh Toàn [177] đã trình bày phạm trù trung, hiếu, lễ
của Nho giáo, ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của con người Việt
Nam trong lịch sử và hiện tại, từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm
khai thác có hiệu quả yếu tố tích cực loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong điều
kiện nước ta hiện nay.
Ngoài ra có rất nhiều các bài viết, bài báo đăng tải trên các tạp chí, sách,
đã đề cập sâu và rộng về Nho giáo chủ yếu trên bình diện chính trị, đạo đức,
xã hội, triết lý...
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIA ĐÌNH VÀ ĐẠO ĐỨC
GIA ĐÌNH
Đây là mảng đề tài hết sức quan trọng trong đời sống xã hội nói chung
và mỗi cá nhân nói riêng được đề cập dưới nhiều góc độ nghiên cứu liên
ngành và chuyên ngành như: Triết học, xã hội học, tâm lý học, giá..., thiên tử lúc này không phải
là con trời như ở đầu thời kỳ hưng thịnh (Tây Chu), chính vì vậy mâu thuẫn
gay gắt nhất thời kỳ này là giữa thiên tử và các nước chư hầu. Mâu thuẫn này
đã làm cho trật tự xã hội đảo lộn. Người ta không chỉ cướp bóc về tiền của,
mà cao hơn là cướp bóc tranh giành nhau về chính trị, đất đai... Khổng Tử
(551-479 trước công nguyên), người sáng lập trường phái Nho gia cho rằng,
đây là thời kỳ loạn lạc, con người sống vô đạo, vua không ra vua, thần không
ra thần, cha không ra cha, con không ra con.
30
Cùng với sự ra đời của nhiều học thuyết chính trị - xã hội đương thời mà
người ta gọi đây là thời kỳ "Bách gia tranh minh" (Trăm nhà đua tranh) hay
"Trăm nhà trăm thầy" về thực chất là đáp ứng nhu cầu thời đại nhằm khắc
phục sự loạn lạc trong xã hội, Nho giáo là học thuyết có sức sống lâu bền
nhất. Trong số chín phái theo xác nhận của Tư Mã Thiên (Nho gia, Đạo gia,
Mặc gia, Pháp gia, Danh gia, Âm dương gia, Binh gia, Nông gia, Tung hoành
gia), Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia có ảnh hưởng nhất đối với xã hội
Trung Hoa cổ đại. Các học thuyết này hầu hết đạt đến trình độ tư duy tương
đối cao. Tuy nội dung tư tưởng của các học thuyết đó khác nhau, song đích
chung của chúng là làm thế nào để xã hội được thái bình thịnh trị và nước
mình trở thành bá chủ thiên hạ.
Trong bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại loạn lạc, mỗi một học thuyết lại
tìm cho mình một chủ trương riêng, thể hiện nội hàm triết học chính trị mà
trước hết, là giành quyền lực thống trị, thiết lập trật tự xã hội, sau đó duy trì
quyền lực của tầng lớp thống trị và làm cho đất nước không ngừng phát triển.
Trong thời kỳ này, nói một cách tổng quát thì có ba khuynh hướng tư tưởng
cơ bản: Một là, khuynh hướng sử dụng biến pháp, yêu cầu việc trị nước phải
dựa vào pháp luật, từ đó hình thành nên trường phái Pháp gia; Hai là, khuynh
hướng sử dụng đạo đức để cảm hóa con người, khẳng định sức mạnh đạo đức
ưu việt hơn hình pháp, từ đó hình thành nên trường phái Nho gia; Ba là,
khuynh hướng xa rời thực tiễn đời sống xã hội, thu mình suy ngẫm về những
vấn đề triết học, không khuyến khích hoạt động chính trị - xã hội theo chủ
trương "vô vi", từ đó hình thành nên trường phái Đạo gia.
Ngoài ba học thuyết nói trên, phái Mặc gia ra đời từ sự phản biện đường
lối trị nước của Nho gia, cho rằng đức nhân của nó với tình yêu thương con
người mang tính biệt ái, dẫn đến tư tưởng nhậm hiền theo khuôn khổ "thân
thân", tức là cất nhắc người thân vào các vị trí trong bộ máy Nhà nước;
thưởng phạt không công minh, v.v. Từ đó phái này đưa ra học thuyết với chủ
trương "kiêm ái", tức là yêu thương con người một cách rộng khắp, nhờ đó
31
mà trong xã hội có thể chấm dứt được chiến tranh, thù hận; mọi người biết
làm lợi cho nhau (giao tương lợi) và xã hội vì thế mà ổn định và phát triển.
Vốn là người thuộc tầng lớp quí tộc, lớn lên trong cảnh loạn lạc, được
chứng kiến cảnh cướp bóc tranh giành lẫn nhau trong xã hội luân thường, đạo
lý bị đảo lộn: vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng
ra con, anh em chẳng ra anh em, Khổng Tử ôm ấp hoài bão chính trị là làm
thế nào để xây dựng lại đất nước như thời Nghiêu-Thuấn trước đây. Đó là xã
hội có đạo đức, có thứ bậc, một xã hội được sắp xếp theo một trật tự, vì thế
được coi là một xã hội hữu đạo. Để thực hiện hoài bão đó, Khổng Tử trước
hết chú trọng đến vấn đề con người, từ những con người đứng đầu thiên hạ
(hoàng đế, thiên tử), đến những người cùng chí hướng với ông trong việc xây
dựng học thuyết chính trị - đạo đức là kẻ sĩ, và cuối cùng là những con người
bình thường nhất trong xã hội mà ông gọi là thứ dân. Theo Khổng Tử, tất thảy
mọi người trong thiên hạ, "Từ thiên tử tới thường dân, ai cũng lấy việc tu thân
làm gốc" [86, tr.18]. Bởi lẽ, có tu được thân sau đó mới tề được gia (làm cho
gia đình êm thấm, thuần hậu), có tề được gia sau đó mới trị được nước (làm
cho đất nước yên ổn), có trị được nước sau đó mới bình được thiên hạ (làm
cho thiên hạ được thái bình). Chính vì vậy Nho giáo không chỉ có ảnh hưởng
ở Trung Hoa thời kỳ đó mà còn tồn tại cho mãi đến ngày hôm nay và ăn sâu
bám rễ ở một số quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước phương Đông.
Học thuyết chính trị - đạo đức Nho giáo được hình thành trên nền tảng
đạo đức truyền thống của Trung Hoa cổ đại (trước thời nhà Chu). Các vị vua
thời nhà Hạ (2197-1766 trước công nguyên) nhà Thương (1766-1134 trước
công nguyên) đều chuộng đức. Sử cũ chép rằng: Vua Vũ lo kẻ sĩ đến nhà
mình mà không tiếp được nên tóc không kịp búi, ăn một bữa ba lần đứng dậy.
Vua Thang nhà Thương là tấm gương cho người có đức nhân. Ông luôn yêu
thương dân và không ngừng tu dưỡng đạo đức của chính mình. Thời nhà Chu
(1134-221 trước công nguyên) được người đời ca tụng về truyền thống trọng
đức, biểu hiện ở hai phương diện là "kính thiên" (kính trọng trời) và "hiếu tổ"
32
(hiếu với tổ tiên). Đây là những nội dung đạo đức cơ bản và cốt lõi nhất ở thời
Tây Chu (1134-771 trước công nguyên). Kể cả việc Vũ Vương lật đổ nhà
Ân-Thương để lập nên nhà Chu cũng người đời vẫn cho đó là do nhà Chu có
"đức" nên được trời ban đất, ban dân.
Nếu như Lão Tử nhấn mạnh đức khoan dung, khiêm nhường, tri túc của
con người và chủ trương "vô vi nhi trị"; Mặc Tử thì yêu không phân biệt đối
xử với thuyết kiêm ái; Pháp gia đề cao pháp, thuật, thế trong lĩnh vực trị
nước, thì Khổng Tử đề cao đạo đức của nhà cầm quyền với ba phạm trù đạo
đức căn bản là nhân, lễ và chính danh. Việc kêu gọi dùng đạo đức để cảm hóa
con người để từ đó thiết lập sự thống trị xã hội, tiến tới xây dựng xã hội lý
tưởng theo mô hình xã hội thời hoàng kim Nghiêu - Thuấn đã làm cho Nho
giáo từ một học thuyết chính trị - xã hội sang một học thuyết chính trị - đạo
đức đúng với nghĩa của từ. Chính vì vậy, nội dung căn bản nhất trong Nho
giáo là "Đạo làm người" và khái niệm "đạo" ở đây được hiểu là con đường mà
tất cả các mối quan hệ người vận hành trên con đường đó. Tuy nhiên, Nho
giáo cũng như các học thuyết khác, chỉ là một trong những phương án về thiết
lập trật tự và quản lý xã hội do nhu cầu thời đại đặt ra, do đó bản thân nó cũng
phải trải qua quá trình lâu dài của sự kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống xã
hội, có lúc thịnh, lúc suy; có lúc bị cho là không tưởng nhưng trong thời gian
dài hàng trăm năm, nó đã trở thành bệ đỡ hệ tư tưởng cho các triều đại phong
kiến Trung Hoa và các nước đồng văn. Do đó, việc trình bày một cách khái
quát lịch sử hình thành và phát triển của nó trong lịch sử cũng như nội dung
đạo đức được coi là bộ phận chủ yếu của Nho giáo, theo chúng tôi, là một
trong những nhiệm vụ không thể thiếu của luận án.
Chúng ta đều biết rằng, tuy được coi là người sáng lập Nho gia, nhưng
bản thân Khổng Tử rất khiêm tốn, ông coi học thuyết của mình "chỉ thuật lại
[đạo thánh hiền] mà không sáng tác, thật lòng tin tưởng mà ham chuộng
chuyện cổ..." [86, tr.343]. Sau cuộc chu du thiên hạ để phổ biến chủ trương,
tâm thế của mình không thành công, Khổng Tử trở về nước Lỗ ở tuổi 68 và
33
chuyển hướng hoạt động sang lĩnh vực giáo dục với hy vọng đào tạo những
con người có đủ phẩm chất đạo đức, đủ năng lực cầm quyền và chính ông là
người mở ra nền giáo dục tư thục đầu tiên ở Trung Hoa cổ đại. Ông được ngợi
ca là "chí thánh tiên sư" (người thầy đầu tiên đạt đến bậc chí thánh); là "vạn
thế sư biểu" (người thầy của muôn đời). Tuy nhiên, bao giờ ông cũng tự nhận
mình là người chưa đạt tới bậc thánh nhân, hiền nhân, mà chỉ xác định "làm
việc của những bậc đó không biết chán, dạy người không biết mệt, thì có thể
ta nói ta được như thế, và cũng chỉ vậy thôi" [86, tr.370].
Trong quá trình dạy học cốt để truyền bá tư tưởng của mình, Khổng Tử
luôn tiến hành đàm đạo với các học trò của mình, được học trò ghi chép lại và
về sau tập hợp thành cuốn sách "Luận Ngữ". Tương truyền Khổng Tử còn là
tác giả của cuốn sử biên niên, ghi chép lịch sử nước Lỗ thời Xuân Thu, về sau
trở thành một trong ngũ kinh của Nho giáo. Ngoài ra, ông còn là người san
định các bộ sách Thi, Thư, viết Hệ từ truyện (thập dực) cho cuốn Kinh Dịch,
v.v. Những cuốn sách đó về sau đều được Chu Hi xếp vào hai bộ kinh điển
chủ yếu của Nho gia là Tứ thư (Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử)
và Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu). Sau khi Khổng Tử mất, Nho gia
chia thành nhiều phái và trải qua nhiều giai đoạn lịch sử gắn liền với đặc điểm
học thuật của nó.
- Thời kỳ thứ nhất: Nho giáo sơ kỳ hay còn gọi là Nho giáo nguyên thủy.
Căn cứ vào các tài liệu và cách phân chia của các nhà nghiên cứu thì
Nho giáo từ Khổng Tử đến Mạnh Tử được gọi là Nho Sơ kỳ hay Nho Tiên
Tần, hoặc Nho Nguyên thuỷ để phân biệt với các trường phái Nho về sau như
Hán Nho, Tống Nho, Minh Nho... Mỗi thời kỳ của Nho giáo do có sự tác
động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan mà có những luận thuyết và có
những nét riêng biệt. Tuy nhiên, xét về cơ bản Nho giáo nguyên thủy thể hiện
tính thống nhất về mặt tư tưởng khá cao. Trong học thuyết chính trị - đạo đức
lấy con người làm đối tượng trung tâm, Khổng Tử nhấn mạnh ba đạt đức của
người quân tử, tức người cầm quyền là trí, nhân, dũng. Theo đó, có trí thì
34
người quân tử biết phân biệt phải trái, có nhân thì không lo, có dũng thì sẵn
sàng xả thân thủ nghĩa. Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh đức Nhân, coi nó là
phạm trù mang tính bao trùm, bởi lẽ người có đức nhân mới dùng được lễ để
sai khiến bề tôi; nhờ đó mà được bề tôi tận trung. Một trong những nội hàm
của nhân là hiếu, hay nói theo Khổng Tử, hiếu đễ là gốc của nhân. Để có đức
nhân, theo Khổng Tử, con người phải biết khắc kỷ phục lễ, nghĩa là tự ước thúc
bản thân theo lễ. Mạnh Tử thì nêu nhân, nghĩa, lễ, trí, gọi chung là tứ đức.
Những phạm trù đạo đức được Nho giáo sơ kỳ xây dựng thành một hệ
thống chặt chẽ cho đường lối đức trị, gồm Nhân, Lễ, Chính danh. Nếu Khổng
Tử đề cao đức Nhân, Mạnh Tử nêu Nhân nghĩa như một phạm trù kép đôi, thì
Tuân Tử (313-238 trước công nguyên) nhấn mạnh Lễ, coi Lễ là phạm trù đạo
đức quan trọng trong đường lối trị nước. Tuy nhiên, để có đường lối trị nước
đầy đủ, theo ông, Lễ cần phải kết hợp với pháp luật, tức là "lễ pháp kiêm trị".
- Thời kỳ thứ hai: Hán Nho.
Giai đoạn Tần Thuỷ Hoàng chinh phục các nước Tề, Sở, Yên, Hàn,
Triệu, Nguỵ, Tần, để thống nhất Trung Hoa thiết lập nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần đã thực
hiện nhiều chính sách cực đoan, ra lệnh đốt hết sách của Nho gia, ai bàn về
Kinh Thi, Kinh Thư, hoặc cho Nho gia hơn Pháp gia thì bị đem chém giữa
chợ, Tần Thuỷ Hoàng đã chôn sống 460 nho sinh ở Hàm Dương vì tội
phạm điều cấm. Đây là giai đoạn đen tối trong lịch sử Nho giáo và Nho học.
Những hiện tượng cấm đoán các học thuyết khác, đồng thời áp dụng một cách
cực đoan tư tưởng của Pháp gia đã dẫn nhà Tần nhanh chóng bị diệt vong sau
15 năm tồn tại, quyền thống trị sau đó thuộc về nhà Hán.
Để tránh những thất bại như nhà Tần, nhà Hán phục hồi lý luận chính trị,
đạo đức, thần quyền thời Tây Chu để tạo ra một cách thức trị nước của riêng
mình. Chính vì vậy Nho giáo được quan tâm và nhờ đó có được vị thế cao
trong hệ tư tưởng của nhà nước. Sự lên ngôi của Nho giáo được bắt đầu từ
thời Hán Vũ Đế, và chính thức xác lập được vị trí độc tôn trong xã hội.
35
Tuy nhiên, Nho giáo thời Hán với tư cách công cụ để triều đình phong
kiến thực hiện những mục đích chính trị, trong nó hàm chứa yếu tố tôn giáo
thần bí và được luận chứng bằng việc nhân cách hóa "ông trời", coi trời là
thủy tổ của loài người. Các học giả Nho giáo thời kỳ này là Đổng Trọng Thư,
Dương Hùng, Vương Sung, trong đó vai trò của họ Đổng rất lớn về việc đưa
Nho giáo lên địa vị độc tôn, làm trụ đỡ cho hệ tư tưởng của chế độ phong kiến
tập quyền trung ương. Về phương diện đạo đức, Đổng Trong Thư luận chứng
cho cái gọi là tam cương (vua tôi, cha con, chồng vợ) và ngũ thường (nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín), theo đó tam cương phản ánh đạo đức xã hội thông qua ba
mối quan hệ cơ bản, còn ngũ thường là năm chuẩn mực đạo đức cá nhân bất
di bất dịch. Nho giáo về sau có nhiều thay đổi, song vai trò chính trị-xã hội
của Hán Nho rất to lớn, kéo dài từ thời Hán cho đến khi kết thúc chế độ
phong kiến ở nhiều nước phương Đông.
- Thời kỳ thứ ba: Tống Nho, Minh Nho.
Đến cuối nhà Hán, Nho giáo bị Lão học và Phật học lấn át. Sang thời
Tuỳ, Đường thì Nho giáo lại được đẩy lên cao. Nhà Tuỳ, Đường mở Thái học,
Quốc tử giám,... Đến năm 960, nhà Tống thống nhất Trung Hoa. Lúc này Nho
giáo mới được khôi phục và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên do điều kiện lịch
sử thời kỳ này nhà Tống phải vừa lo gạt bỏ chế độ cát cứ, vừa phát triển kinh
tế. Tuy nhiên, đây là thời kỳ xẩy ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, mâu
thuẫn xã hội cũng ngày càng gay gắt. Do đó, để duy trì, củng cố địa vị của
mình nhà Tống tìm đến Nho giáo như một phương án lý luận được xem là
hiệu quả nhất để trị quốc.
Nho giáo thời Tống có số lượng các học giả rất nhiều và có thể nói là
nhiều nhất so với các thời kỳ trước. Với các học giả tiêu biểu: Thiệu Ung, Lục
Cửu Uyên, Châu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di và tập đại thành của Tống Nho
là Chu Hi. Tuy Nho giáo đời Tống có nhiều điểm khác với Nho giáo Khổng -
Mạnh và Hán Nho, nhưng Tống Nho nói riêng và Tân Nho giáo nói chung, về
thực chất là tìm cách đọc và luận giải mới những nội dung Nho giáo Khổng -
36
Mạnh. Cách đọc đó là việc truy tìm nguồn gốc của đạo đức và sự phát triển
đến tột cùng của nó là gì. Tống Nho tìm nguồn gốc đó ở bản thể của thế giới
(khí) và sự vận động có qui luật của các sự vật hiện tượng (lý), truy tới cùng
của lý ấy gọi là cùng lý. Cuối cùng, các nguyên lý của vũ trụ, vạn vật được
xem xét trong sự tương thích với các nguyên lý (đạo đức của xã hội).
- Thời kỳ thứ tư: Minh Nho và Thanh Nho.
Nho giáo đời Minh có sự chuyển biến theo hướng thực học mà đại biểu
nổi tiếng của nó là Vương Dương Minh với thuyết "tri hành hợp nhất".
Thuyết này chấm dứt cuộc tranh luận kéo dài giữa hai quan điểm "tri dị hành
nan" và "tri nan hành dị", mặt khác nó góp phần phê phán lối học từ chương
của Tống Nho, một nền học thuật xa rời thực tế.
Đến thời nhà Thanh, Nho giáo phát triển khá mạnh do trào lưu phê phán
Tống Minh Nho và đề cao thực học. Trên cơ sở đó Thanh Nho chia thành các
khuynh hướng: Hán học; Tống học; Kinh học và Tân học phái. Vào khoảng
đầu nhà Thanh, các ông vua đều đề cao Nho giáo với nguyên tắc chính thống,
cho nên nhiều nho sĩ không ra làm quan. Khác với phái Hán học, Tống học
vẫn lấy chú thích Tống Nho làm căn bản.
Nho giáo thời kỳ nhà Thanh bị chi phối bởi ảnh hưởng từ các tư tưởng
phương Tây, làm cho Nho giáo có nhiều biến đổi về các nội dung, chuẩn mực
đạo đức như tam cương, ngũ thường, trung hiếu
Tóm lại, đạo đức trong Nho giáo nguyên thủy mặc dù còn có những hạn
chế song giá trị căn bản của nó là có tính nhân bản, biện chứng và xây dụng một
xã hội hữu đạo, có trật tự theo các chuẩn mực định sẵn. Tuy nhiên những giá trị
này sang đến Hán Nho, Tống Nho lại bị thay thế bởi tư tưởng duy tâm và cực
đoan. Với chủ trương "chính danh" trong các mối quan hệ nhưng các triều đại về
sau lại tuyệt đối hoá đạo đức đặc biệt là các phạm trù Trung hiếu (vua, tôi) để
phục vụ cho mục đích cai trị của giai cấp thống trị. Tuy nhiên do điều kiện kinh
tế xã hội nên thời kỳ này Nho giáo nói riêng và hệ tư tưởng phong kiến Trung
Quốc nói chung chịu ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây.
37
Tuy có sự dịch chuyển nhất định, nhưng nhìn một cách tổng quát các
phạm trù và chuẩn mực đạo đức Nho giáo ít thay đổi. Ví dụ như trong mối
quan hệ quân thần, phụ tử, Nho giáo tuyệt đối hoá quyền uy của vua, cha để
nhấn mạnh bổn phận của tôi, con. Càng về sau, tư tưởng này của Nho giáo lại
càng trở khắt khe hơn để duy trì chế độ đẳng cấp trong xã hội.
2.1.2. Quan niệm của Nho giáo về đạo đức
Với tư cách là học thuyết chính trị - đạo đức, Nho giáo coi đạo đức là
phương tiện để thực hiện mục đích chính trị. Nói cách khác, các nhà sáng lập
Nho giáo đề cao đạo đức trong việc thiết lập trật tự xã hội và tiến tới xây dựng
mô hình xã hội lý tưởng. Về thực chất, mục đích xây dựng mô hình xã hội lý
tưởng theo tinh thần Nho giáo không phải từ tổ chức xã hội cấp thấp lên cấp
cao hơn, mà là "khôi phục" mô hình xã hội được xác nhận là xã hội thời
Nghiêu Thuấn. Mô hình đó được xây dựng và vận hành theo nguyên tắc đạo
đức thông suốt từ vua tới thường dân, theo đó vua coi dân như con, mọi người
trong xã hội đó coi nhau như anh em trong một nhà, của cải trong xã hội đều
là của chung; kẻ dưới phục tùng, kính trọng người trên, người trên làm mẫu
mực về mọi mặt cho kẻ dưới.
Cách thức trị nước của các ông vua huyền thoại thời Ngũ đế là Nghiêu,
Thuấn dựa trên nền tảng đạo đức, còn gọi là đức trị. Bản thân ông vua được
ngôi vị là do được lòng dân. Việc xác lập quyền thống trị của nhà vua về cơ
bản ở quyền sở hữu "đất đai và thần dân"; "Trong thiên hạ, đất đai và thần
dân, ở đâu cũng là của vua". Do đó, để hướng tới mô hình xã hội lý tưởng
đó, Khổng Tử và các thế hệ học trò của ông đã xây dựng và hoàn thiện học
thuyết chính trị - đạo đức của mình, bắt đầu từ sự hoàn thiện nhân cách con
người, cho nên "từ thiên tử cho chí thường dân, ai cũng phải lấy tu thân làm
gốc" (Đại học). Bởi lẽ, theo Nho giáo, "Thân tu sửa thì sau nhà mới ngăn
nắp. Nhà ngăn nắp thì sau nước mới trị an. Nước trị an thì sau thiên hạ mới
thái bình" (Thân tu nhi hậu gia tề. Gia tề nhi hậu quốc trị. Quốc trị nhi hậu
thiên hạ bình) [86, tr.17].
38
"Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" vừa là phương châm của học
thuyết chính trị - đạo đức, vừa là tiêu chí để con người phấn đấu thành danh
và cống hiến. Sự cống hiến ấy cũng được Nho gia quan niệm là "xả thân thủ
nghĩa", tức là dũng cảm làm việc nghĩa. Song muốn xả thân thủ nghĩa thì con
người phải có "nhân" và "trí". Khổng Tử khẳng định rằng, có "nhân" thì
không phải lo sợ; có "trí" sẽ biết phân biệt phải trái. Vì vậy, Nhân, Trí, Dũng
là ba đạt đức của người quân tử, tức là người đã có công phu tu thân theo tinh
thần hoàn thiện nhân cách của Nho giáo.
Công dụng của tu thân theo các nấc thang nêu trên được thể hiện trong
môi trường mà cá nhân thực hiện các hoạt động sống của mình. Đó là Nhà -
Nước - Thiên hạ. Mối quan hệ của cá nhân với mỗi hệ thống nhỏ trong toàn
bộ các tập hợp của nó là Thiên hạ là Thân - Nhà - Nước - Thiên hạ.
Trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, những nguyên tắc ứng xử của
mỗi cá nhân với người khác, với toàn bộ hệ thống từ chỗ được thực hiện theo
Lễ (Chu Lễ được xem là điển lễ, qui tắc hoạt động của toàn xã hội trên nền
tảng của chế độ tông pháp và phân phong thời đầu Tây Chu) đến tình trạng bị
phá vỡ do sự bất tuân thủ của các nước chư hầu đối với thiên tử nhà Chu. Sự
ra đời của Nho giáo, có thể nói, như một phương án khắc phục hiện tượng hỗn
loạn đó là hoàn toàn có cơ sở. Mục đích chính trị của nó là đưa đất nước từ
chỗ vô đạo trở về hữu đạo. Vì vậy, tiếp cận tới Nho giáo như một giá trị đối
với xã hội Trung Hoa cổ đại đương thời là cách tiếp cận phù hợp, bởi nó đáp
ứng nhu cầu thời đại.
Để thực hiện mục đích đó, Nho giáo tập trung xây dựng các chuẩn mực
đạo đức trên nền tảng năm mối quan hệ nhân luân mà Mạnh Tử gọi đó là ngũ
luân, trong đó lấy các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình làm
điểm xuất phát. Năm mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội (Ngũ
luân) gồm: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn - bè. Trong đó có 3
mối quan hệ gia đình và 2 mối quan hệ xã hội. Đến Đổng Trọng Thư, năm
mối quan hệ đó được qui về ba mối cơ bản, gọi là Tam cương (gồm vua - tôi,
39
cha - con, chồng - vợ). Dù là ngũ luân hay tam cương thì các mối quan hệ gia
đình vẫn áp đảo và làm nền tảng.
Trong hai mối quan hệ xã hội, quan hệ vua tôi luôn được đặt lên hàng
đầu, theo đó, xét về mặt quan hệ đạo đức hay ứng xử đạo đức giữa vua và bề
tôi, theo Khổng Tử, là quan hệ nhân - trung, nghĩa là vua phải là người có
nhân cách cao thượng, là người đạt đạo và đạt đức mới đủ khả năng giáo
dưỡng thần dân trong nước mình. Đạo đức của người cầm quyền trước hết ở
Nhân. Có Nhân thì người cầm quyền mới dùng được Lễ để sai khiến bề tôi,
tiếp đến là thiết lập hệ thống cơ cấu tổ chức nhà nước theo hình tháp với sự
phân chia tầng lớp rất cụ thể: thống trị và bị trị. Người cầm quyền lấy tu kỷ để
hoàn thiện nhân cách của mình, và phải dựa vào tu kỷ để trị nhân, trị nước.
Đường lối trị nước của Nho giáo cũng chính là đường lối trị nước của người
đứng đầu một triều đại phong kiến, được gọi là đức trị dựa trên ba phạm trù
đạo đức cơ bản là Nhân, Lễ và Chính danh.
Thứ nhất, phạm trù nhân với tư cách phạm trù bao trùm, phản ánh tư
tưởng nhân bản của Nho giáo.
Như chúng ta đều biết, trong Luận ngữ, Khổng Tử có đến 58 chỗ đề cập
đến quan niệm chữ nhân với 109 chữ, nhưng tùy thuộc vào văn cảnh khác
nhau mà phạm trù nhân được giải nghĩa cho phù hợp, do đó không chỗ nào
giống nhau.
Khi Phàn Trì hỏi nhân là gì? Ông đáp ngay: "Yêu người". Trả lời câu hỏi
của Tử Cống: "Có một câu cách ngôn nào để suốt đời làm theo chăng?" thì
Khổng Tử đáp: "Đó là chữ "lượng thứ" chăng? Điều gì mình không muốn
(người khác làm cho mình), chớ đem áp dụng với người" [86, tr.579]. Khi
Nhan Uyên, một học trò giỏi được Khổng Tử quí mến hỏi về nhân, ông trả
lời: "Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân" [86, tr.471]. Chỉ qua
vài thí dụ như vậy từ sách Luận ngữ, chúng ta có thể nhận thấy sự trả lời của
Khổng Tử về các nội hàm của nhân rất khác nhau, song điểm chung, mang
tính bản thể của chữ nhân chính là mối quan hệ giữa người với người. Khổng
40
Tử quan niệm mối quan hệ giữa người với người phải dựa trên cơ sở tình
thương, sự cảm thông từ việc suy ta ra người (trung thứ).
Tuy nhiên điều đó chỉ đúng về mặt hình thức, nó chưa đầy đủ, chưa thấu
tình đạt lý khi nói đến bản thể của chữ nhân. Nếu tiếp cận về mặt triết học thì
những gì mà Khổng Tử nói về Nhân ở trên không phải là một định nghĩa đầy
đủ, chính xác về chữ nhân. Đúng như Cao Xuân Huy nhận xét: "Nhân" là tính
người, nhưng tính người là gì? Phải xác định được tính người mới biết bản thể
của chữ nhân. Nhưng đó là một điều kiện không gì khó hơn thế" [65, tr.410].
Theo Khổng Tử "Tính tương cận" của con người là ngay thẳng. Ông viết:
"Nhân chi sinh dã trực" [86, tr.332]. Nghĩa là "Người ta sinh ra vốn ngay thẳng".
Một vấn đề đặt ra cho Khổng Tử là tại sao trong xã hội lại có kẻ "cong vậy".
Ông trả lời, đó là do tập nhiễm mà tính của người ta khác xa nhau.
Trung suy ta ra người, đó là thái độ xử kỉ "Kỷ dục lập nhi, lập nhân, kỷ
dục đạt nhi, đạt nhân" [86, tr.340] có nghĩa là: Người nhân hễ muốn tự lập lấy
mình thì cũng lo mà thành lập cho người, hễ muốn cho mình thông đạt thì
cũng lo làm cho người thông đạt. Đó là những phương pháp phải thi hành để
trở nên người nhân đức vậy. Do đó, Khổng Tử khẳng định Nhân là trung thứ.
Thứ là tha thứ, không làm điều ác cho người "kỷ sở bất dục, vật thi ư
nhân" [86, tr.579]. Từ cách mình ứng xử với mình mà suy ra cách đối xử với
người khác, đó là đường lối của nhân. Với cách hiểu như thế, có thể suy ra
rằng, hãy làm cho người ta cái điều mà mình muốn làm cho mình.
Trung là suy ta ra người. Khổng Tử khẳng định: "Đạo của ta nhất quán
từ đầu đến cuối". Tăng Tử bảo: "Đạo của thầy chỉ tóm tắt ở một điều "trung -
thứ" mà thôi" [86, tr.277].
Đạo Nhân của Khổng Tử không chỉ là một đức tính riêng mà nó có thể
chỉ chung cho mọi đức tính. Người có nhân đồng nghĩa với người có đầy đủ
mọi phẩm chất cao đẹp hay gọi là toàn đức. Đó là con người có tinh thần cầu
đức, luôn mong muốn điều nhân đến với mình và từ chính bản thân mình.
Khổng Tử cho đó là khả dĩ.
41
Ở đây chúng ta thấy được mâu thuẫn trong học thuyết của Khổng Tử, ở
chỗ từ chữ Nhân mang tính lý tưởng mà con người hướng tới, song khi đứng
trên lập trường giai cấp thì Khổng Tử đi đến khẳng định cho rằng, rất ít người
đạt tới điều Nhân. Nói cách khác, Nhân chỉ có ở bậc thánh hiền. Hơn nữa chữ
nhân của ông lại gắn với chữ lễ mà lễ lại là quy tắc chính trị của giai cấp
thống trị dùng để điều chỉnh hành vi con người. Ở đây ta thấy rõ Khổng Tử đã
rơi vào vòng luẩn quẩn. Một mặt ông kêu gọi "tứ hải giai huynh đệ" nhưng
mặt khác ông lại khẳng định, con người quân tử cần phải quan tâm nhiều đến
người thân. Cho nên dù là yêu nghề, thương người đến đâu thì tình yêu
thương đó chỉ dừng lại ở tình yêu thương mang tính giai cấp, tông tộc mà
thôi. Điều này Mặc Tử đã nói: "Khổng Tử không phải là "nhân ái" mà là "biệt
ái". Ông chỉ yêu thương người trong tông tộc, giai cấp mình. Khi trả lời Diệp
Công (vị tướng công cai trị huyện Diệp nước Sở) về người ngay thẳng:
"Người ngay thẳng nói chúng tôi lại khác: Cha che dấu cho con, con che dấu
cho cha, tính ngay thẳng ngụ trong đó" [86, tr.512].
Một nội hàm khác phản ánh nguồn gốc của đức nhân là Hiếu đễ. Hiếu là
thái độ ứng xử đạo đức của con người đối với ông bà, cha mẹ mình; đễ là sự
kính nhường trong quan hệ anh em. Mạnh Ý Tử là gia thần của Quý Thị và
Mạnh Thị, hai nhà thế tộc, tôn thất của vua Lỗ, cha truyền con nối cầm quyền
ở nước Lỗ. Lâu dần, họ lấn át cả vua, thường hay tiếm lễ, tiếm dụng nghi vệ
của vua. Vì vậy, khi Mạnh Ý Tử hỏi về hiếu đạo, Khổng Tử đáp rằng: "Chớ
làm trái ngược" (vô vi); và "khi cha mẹ còn sống, lấy lễ mà thờ kính; lúc cha
mẹ qua đời, lấy lễ mà chôn cất, lấy lễ mà tế tự" (sinh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi
dĩ lễ, tế chi dĩ lễ") [86, tr.218]. Làm con tất nhiên phải thờ kính cha mẹ lúc
còn sống, chôn cất và tế lễ lúc chết, nhưng Khổng Tử còn muốn qua lời nói
này răn dạy Mạnh Ý Tử và Phàn Trì nói riêng, ba nhà quyền thần nói chung
chớ tiếm dụng lễ của thiên tử.
Mạnh Vũ Bá hỏi về hiếu, Khổng Tử khuyên "chớ để cha mẹ buồn phiền"
[86, tr.219]. Sở dĩ Khổng Tử nói vậy là vì Mạnh Vũ Bá là vị công tử chơi bời
42
trác táng, Khổng Tử có ý khuyên Mạnh Vũ Bá rằng, người con có hiếu đừng để
cha mẹ phải phiền lòng. Vì cha mẹ nào cũng yêu thương, lo lắng cho con mình.
Đối với học trò là Tử Du, khi hỏi về hiếu, Khổng Tử lại nói: "Chẳng
kính, lấy gì làm phân biệt" [86, tr.220]. Vì Tử Du vốn là người được cha mẹ
hết sức cưng chiều, Khổng Tử e rằng, lòng cưng chiều của cha mẹ có thể
khiến con phạm tội bất kính, cho nên Khổng Tử có ý khuyên Tử Du rằng
người con có hiếu không chỉ biết nuôi cha mẹ, mà còn phải biết kính trọng
cha mẹ.
Khi Tử Hạ hỏi về hiếu, Khổng Tử lại nói: "Giữ sắc mặt vui vẻ là khó lắm
thay" (Sắc nan!) [86, tr.221]. Sở dĩ như vậy là vì Tử Hạ có sắc mặt luôn khó
đăm đăm. Nhưng không phải là Tử Hạ cau có với cha mẹ, mà vì sắc mặt ấy,
Khổng Tử sợ rằng, cha mẹ của Tử Hạ không vui.
Lễ là hình thức của Nhân, là quy phạm đạo đức để điều chỉnh hành vi
con người là cho xã hội nằm trong vòng trật tự. Ngoài chức năng phản ánh,
Lễ còn là sự xã hội hóa nhân cách con người từ bên ngoài. Điều đó được thể
hiện qua nội dung của Lễ như sau:
Thứ nhất: Lễ nghi thờ cúng, thiết chế chính trị và quy phạm đạo đức.
Thứ hai: Quy định và bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của mọi người.
Thứ ba: Trị nước phải dùng lễ.
Thứ tư: Cơ sở để người quân tử suy nghĩ và hành động đúng.
Chính vì vậy mà Khổng Tử kêu gọi, cái gì thuộc về lễ thì nên làm, cái gì
không thuộc về lễ thì nên bỏ, không phải lễ không nghe, không phải lễ không
nói, không phải lễ không nhìn và không phải lễ là không hành động.
Khi tiến hành lễ nghi, không nên chú trọng quá tới hình thức mà chủ yếu
là phải bộc lộ được lòng thành kính. Khổng Tử nói: "Ngày nay, những người
tự xưng là hiếu đều nói rằng mình nuôi được cha mẹ. Đến như loài chó loài
ngựa còn có người nuôi được mà. Chẳng kính lấy gì làm phân biệt" [86,
tr.222]. Hay khi Phàn Trì về đạo hiếu Khổng Tử đáp rằng: "Lúc cha mẹ còn
sống, lấy lễ mà thờ kính; lúc cha mẹ qua đời, lấy lễ mà chôn cất, lấy lễ mà tế
43
tự" [86, tr.218]. Hơn thế, đối với những người hành lễ mà thiếu tôn kính thì
ông không thèm để mắt đến họ: "Ở địa vị trên chẳng có lòng khoan dung,
hành lễ chẳng kính, có tang cha mẹ chẳng có lòng thương xót, những hạng
người như thế ta lấy gì làm để xem xét (mà noi theo)?" [86, tr.265].
Bên cạnh việc hành lễ phải giữ được tôn kính thì con người phải giữ
được hoà khí, nếu giữ được hoà khí, con người sẽ thanh thản, thoải mái,
không có sự trái ngược: "Quân tử hoà nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất
hóa" nghĩa là "Người quân tử hòa hợp với mọi người mà không a dua, kẻ tiêu
nhân a dua mà không hòa hợp" [86, tr.528- 529]. Học lễ không chỉ để biết
ứng xử mà còn phải biết chỗ đứng của mình để ứng xử cho đúng.
Trong mối quan hệ giữa nhân và lễ thì nhân phải là gốc mà lễ là ngọn, lễ
là lễ của nhân. Nếu quên mất điều đó thành ra vô dụng "người mà không có lòng
nhân dùng lễ sao được? Người mà không có lòng nhân, dùng nhạc sao được?"
[86, tr.239]. Mặt khác, để nhân biểu hiện ra ngoài phải thông qua lễ, nếu không
có lễ thì nhân chỉ là cái trừu tượng mà thôi. Như vậy, lễ là điều kiện là phương
tiện để người quân tử đạt được đức nhân: "Khắc kỷ, phục lễ vi nhân".
- Thuyết Chính danh
Đối với người quân tử để nắm vững lễ và hoàn thành lễ đúng thì phải xác
định được đúng vị trí của mình trong xã hội. Muốn xác định đúng mình trong xã
hội thì phải "Chính danh" Nếu không chính danh thì: "Danh bất chính tắc ngôn
bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc
hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng, tắc dân vô sở thố thủ túc" [86, tr.498].
Khổng Tử cho rằng một trong những nguyên nhân của việc hỗn loạn ở
thời Xuân Thu là do Thiên tử không chính danh. Hay nói cách khác thiên tử
không làm tròn trách nhiệm để cho các chư hầu lấn quyền. Chư hầu không
tròn trách nhiệm để sĩ lấn át. Chính vì vậy Khổng Tử cho rằng muốn có một
xã hội có trật tự (có trên có dưới) thì mọi ngườ...trong những vấn đề mà Khổng Tử quan tâm trong việc xây dựng
học thuyết chính trị - đạo đức của mình là làm thế nào để đạo đức đóng vai trò
chủ đạo trong việc thực hiện mục đích chính trị. Đạo đức được thể hiện qua
các mối quan hệ người, tức là sự phản ánh ứng xử đạo đức giữa người với
người mà cơ sở đầu tiên là các mối quan hệ gia đình. Theo Nho giáo, gia đình
là tế bào của xã hội, là cơ sở để hình thành đạo đức xã hội, còn xã hội là một
gia đình lớn. Gia đình cũng là trường học đầu tiên để con người rèn luyện và
trưởng thành. Đây là nơi có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc gìn giữ,
phát triển và truyền thụ những giá trị văn hoá tinh thần cao quý từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Từ việc nghiên cứu nội dung đạo đức cơ bản của Nho giáo, đặc biệt là
đạo đức trong các mối quan hệ gia đình, trên cơ sở đó làm rõ ảnh hưởng của
nó đến gia đình Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại, luận án rút ra một
số kết luận sau đây:
1. Đạo đức học là nội dung quan trọng của Nho giáo, trong đó có đạo
đức gia đình với tư cách là nền tảng đạo đức xã hội dựa trên các mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình với các chuẩn mực đạo đức bất di bất dịch
mà con người phải tuân thủ. Tuy nhiên, đạo đức Nho giáo nói chung, đạo đức
gia đình nói riêng, khi vào Việt Nam, trải qua quá trình lịch sử hơn hai ngàn
năm đã có những biến đổi do sự tiếp biến giữa Nho giáo với các yếu tố bản
địa và với các học thuyết khác được du nhập và tồn tại song hành với nó trong
lịch sử dân tộc. Những biến đổi đó hoàn toàn do tồn tại xã hội Việt Nam qua
từng giai đoạn lịch sử cụ thể qui định, do đó những chuẩn mực, nguyên tắc
149
ứng xử đạo đức cứng nhắc, thậm chí cực đoan của Nho giáo Trung Quốc
được "mềm hóa".
2. Mặc dù vai trò của Nho giáo trong hệ tư tưởng của chế độ phong kiến
Việt Nam đã chấm dứt từ lâu, song những giá trị đạo đức truyền thống do con
người Việt Nam gây dựng luôn hàm chứa những yếu tố tích cực của Nho
giáo, đặc biệt là trong các mối quan hệ gia đình vẫn cần được bảo tồn và phát
huy. Với cách nhìn biện chứng và kế thừa có chọn lọc, chúng tôi khẳng định
rằng, đặc điểm và cơ chế tác động, qui định ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo
đến đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay được biểu hiện bởi đất nước
chúng ta có một quá trình phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội trên lập
trường của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con
người mới, gia đình văn hóa mới.
3. Từ sau thời kỳ đổi mới đất nước, nền kinh tế từ chỗ tập trung, quan
liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
các mối quan hệ đạo đức gia đình vốn chịu ảnh hưởng của Nho giáo lại có
những biến đổi, đòi hỏi chúng ta trên cơ sở khoa học phải làm rõ thực trạng các
mối quan hệ đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện đại, từ đó chỉ ra những yếu tố
tích cực cũng như hạn chế do sự ảnh hưởng của đạo đức Nho đem lại để đưa ra
những giải pháp phù hợp cho việc lành mạnh hóa các mối quan hệ đó.
Trong dòng chảy của cơ chế thị trường với những mặt trái của nó, chúng
ta cũng phải thấy được những giá trị tích cực của Nho giáo đặc biệt là ý nghĩa
của nó đối với việc giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay như:
giáo dục kỷ cương, nề nếp gia đình nêu cao tinh thần trách nhiệm của cha, mẹ,
của những người lớn tuổi, trở thành tấm gương cho con cháu noi theo cũng như
củng cố tinh thần trách nhiệm của cá nhân đối với gia đình, và xã hội.
Tuy nhiên Nho giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến việc giáo
dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam. Một số tư tưởng như: bảo thủ, lạc hậu
tạo nên sự bất bình đẳng giới trong việc phân chia và hưởng thụ các quyền lợi
trong gia đình và xã hội trong quá trình xây dựng gia đình văn hoá mới và gây
150
nên sự lãng phí, phiền toái trong đời sống gia đình, xã hội. Chính vì vậy
chúng ta cũng cần phải giải quyết các mâu thuẫn để thúc đẩy và xây dựng gia
đình văn hoá mới ở Việt Nam hiện nay.
4. Trên cơ sở phân tích thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến
giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay tác giả đã nêu ra hai
phương hướng và bốn giải pháp cơ bản nhằm phát huy những yếu tố tích cực
và hạn chế những mặt tiêu cực do ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với
việc giáo dục đạo đưc gia đình Việt Nam hiện nay để hướng tới xây dựng gia
đình văn hóa và xã hội hài hòa.
Mặc dù học thuyết chính trị - đạo đức của Nho giáo không còn đóng vai
trò hệ tư tưởng của đất nước ta hiện nay, song từ kinh nghiệm thực tiễn của
đất nước cũng như từ các nước thuộc nhóm những con rồng châu Á, chúng tôi
khẳng định một cách chắc chắn rằng, những yếu tố tích cực của Nho giáo
trong ứng xử đạo đức giữa các thành viên gia đình cần được tiếp tục phát huy,
đồng thời đấu tranh loại bỏ những yếu tố bảo thủ, lạc hậu đang cản trở sự hội
nhập và phát triển đất nước là hết sức cần thiết và lâu dài. Để làm được điều
đó, việc nghiên cứu, đánh giá Nho giáo trên tinh thần khách quan, khoa học là
hết sức cần thiết và luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA LUẬN ÁN
1. Thái Doãn Việt (2013), "Phương Pháp giáo dục của Khổng Tử", Tạp chí
Giáo dục lý luận, (198), tr.74-77.
2. Thái Doãn Việt (2013), "Mâu thuẫn trong quan niệm về đối tượng giáo dục
của Khổng Tử", Tạp chí Giáo dục lý luận, (201), tr.74-76.
3. Thái Doãn Việt (2016), "Đạo đức Nho giáo trong giáo dục đạo đức gia đình
ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (4), tr.41-44; 57.
4. Thái Doãn Việt (2016), "Vấn đề giáo dục đạo đức trong gia đình ở nước ta
hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (247), tr.76-77; 81.
5. Thái Doãn Việt (2016), "Quan điểm của Khổng Tử về đạo đức gia đình và
ý nghĩa hiện thời của nó", Tạp chí Triết học, (303), tr.79-84.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1939), Khổng giáo phê bình tiểu luận, Quan hải tùng thư,
Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
3. Minh Anh (2004), "Về học thuyết lý luận và đạo đức của Nho giáo", Tạp
chí Triết học, (8), tr.27-31.
4. Minh Anh (2005), "Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia
đình mới ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (10), tr.21-24.
5. Ph.Ăngghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.
6. Lê Thị Tuyết Ba (1999), "Vấn đề bảo vệ các các giá trị đạo đức trong bối
cảnh của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam", Tạp chí Triết học, (1),
tr.28-32.
7. Lê Thị Tuyết Ba (2000), "Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh
tế thị trường", Tạp chí Triết học, (5), tr.34-38.
8. Lê Thị Tuyết Ba (2003), "Chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh của nền kinh
tế thị trường ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (10), tr.45-49.
9. Đặng Xuân Bảng (1980), Cư gia khuyến giới tắc, quyển 1, (Bản dịch
phòng Tư liệu Viện Triết học), Hà Nội.
10. Đặng Xuân Bảng (1980), Cư gia khuyến giới tắc, quyển 2, (Bản dịch
phòng Tư liệu Viện Triết học), Hà Nội.
11. Đặng Xuân Bảng (1980), Cư gia khuyến giới tắc, quyển 3, (Bản dịch
phòng Tư liệu Viện Triết học), Hà Nội.
12. Tào Thượng Bân (2005), Tư tưởng nhân bản của Nho học Tiên Tần, Nxb
Đại học quốc gia, Hà Nội.
13. Mai Văn Bích (2003), Xã hội học gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Nguyễn Thanh Bình (2005), Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và
sự thể hiện của nó ở Việt Nam (Từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ
153
XIX), Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học khoa học xã hội và nhân
văn, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Bình (2006), Tư tưởng Nhân, Lễ, Chính, Danh, trong tác
phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử và vận dụng vào giáo dục đạo đức
cho sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Bình (2001), Quan niệm Nho giáo về các mỗi quan hệ xã
hội. Ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay, Luận
án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
17. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
18. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Giáo trình triết học, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
19. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2011), Thông tư số12/2011 ngày
10/10/2011, Hà Nội.
20. Bộ Văn hoá thông tin, Cục Văn hoá thông tin cơ sở (1997), Xây dựng gia
đình văn hoá trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Lê Thị Bừng, Nguyễn Thị Vân Hương (2006), Công dung ngôn hạnh
thời nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
22. Phan Văn Các (1993), "Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam trong bối cảnh
khu vực và thời đại", Tạp chí Triết học, (3), tr.41-46.
23. Phan Văn Các (1995), "Nho học trong sự nghiệp đổi mới đất nước", Tạp
chí Cộng sản, (9), tr.22-26.
24. Lưu Hậu Cầm (1990), Nghiên cứu Nho học Nhật Bản, Hàn Quốc, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Phan Bội Châu (1998), Khổng học Đăng, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
26. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
27. Cao Vọng Chi (2014), Đạo Hiếu trong Nho gia, Nxb Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
154
28. Doãn Chính (Chủ biên) (1997), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Doãn Chính (Chủ biên) (2012), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (Chủ biên) (2003), Mấy vấn đề
về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đoàn Trung Còn (1995), Tứ thơ Luận ngữ, Nxb Thuận Hoá, Huế.
32. Đoàn Trung Còn (Dịch) (2003), Hiếu Kinh, Nxb Tổng hợp, Đồng Nai.
33. Tào Cương (2000), Bình luận và giải thích giá trị hiện đại tư tưởng Nho
gia, Nxb Đại học Sư phạm Hoa Đông, Trung Hoa.
34. Triệu Lợi Dân (Chủ biên) (1995), Nghiên cứu tư tưởng văn nghệ của
Nho gia, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Phan Đại Doãn (1998), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
36. Vũ Trọng Dung (2004), "Tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức
người quản lý", Tạp chí Triết học, (5), tr.5-11.
37. Vũ Trọng Dung (2006), Giáo trình Đạo đức học Mác-Lênin, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
38. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội,
Hà Nội.
39. Quang Đạm (1991), Đại học - Trung dung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Quang Đạm (1999), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
49. Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo (2007), Văn hoá Đạo đức ở nước ta hiện
nay - Vấn đề và giải pháp, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
50. Tế Kim Giang, Lý Kiến và Trương Tụng Chi (Chủ biên) (1994), Nghiên
cứu tư tưởng triết học của Nho gia, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX
đến Cách mạng tháng tám, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX
đến Cách mạng tháng tám, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
53. Trần Văn Giàu (1978), "Đạo đức Nho giáo và đạo dức truyền thống Việt
Nam", Tạp chí Triết học, (1), tr.33-50.
54. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
55. Nguyễn Ngọc Hà (2002), "Những nguyên nhân của chủ quan dẫn đến
trình trạng suy thoái đạo đức", Tạp chí Triết học, (3), tr.17-19.
56. Đặng Thị Hồng Hạnh (2006), Quan niện của Nho giáo về gia đình và ý
nghĩa của nó đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
57. Lương Đình Hải (2002), "Phân hoá giàu nghèo trong kinh tế thị trường và
các giá trị đạo đức ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (8), tr.23-25.
156
58. Lương Đình Hải (2008), Hiện đại hoá xã hội vì mục tiêu công bằng ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Cao Thu Hằng (2004), "Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu
đạo đức đối với nhân cách con người Việt Nam hiện nay", Tạp chí
Triết học, (7), tr.17-24.
60. Nguyễn Hùng Hậu (2003), "Đặc điểm của Nho Việt", Tạp chí Triết học,
(3), tr.41-43.
61. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hoá phương Đông, Nxb
Đại học sư phạm, Hà Nội.
62. Lê Như Hoa (2001), Văn hoá gia đình với việc hình thành và phát triển
nhân cách trẻ em, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
63. Khuất Thu Hồng (1996), Gia đình truyền thống - một số tư liệu xã hội
học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
64. Nguyên Văn Hồng (Dịch) (2001), "Tư tưởng Nho giáo và luân lý gia
đình", Thông tin khoa học xã hội, (12), tr.29 - 35.
65. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn
tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội.
66. Trần Thị Lan Hương (2014), Đạo đức trung hiếu trong Nho giáo và ý
nghĩa của nó đối với việc giáo dục ý thức trách nhiệm ở Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
67. Trần Đình Hượu (1984), "Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo", Tạp
chí Nghiên cứu nghệ thuật, (3), tr.35-37.
68. Trần Đình Hượu (1986), "Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo trong cách
mạng hiện nay", Tạp chí Thông tin lý luận, (2), tr.34-40.
69. Trần Đình Hượu (1992), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
71. Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb
Đại học quốc gia, Hà Nội.
157
72. Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý (2007), Gia đình học, Nxb Lý luận
Chính trị, Hà Nội.
73. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hoá gia đình Việt Nam, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
74. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
75. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
76. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1995), Nho giáo và đạo đức, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
77. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1995), Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
78. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam, Quyển 1, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
79. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1997), Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
80. Nguyễn Thị Khoa (2002), "Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị
trường", Tạp chí Triết học, (4), tr.52-57.
81. Đặng Phương Kiệt (2006), Gia đình Việt Nam - Các giá trị truyền thống
và những vấn đề tâm - bệnh lý xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.
82. Nguyễn Thế Kiệt (2001), Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán
bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
83. Nguyễn Thế Kiệt (2002), "Từ tư tưởng "tu thân" trong Nho giáo suy nghĩ
về vấn đề giáo dục cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay ở nước ta",
Tạp chí Triết học, (8), tr.15-18.
84. Trần Trọng Kim (2003), Nho giáo, Nxb Thông tin, Hà Nội.
85. Tương Lai (Chủ biên) (1996), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
86. Nguyễn Đức Lân (1998), Tứ thư Tập chú, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
158
87. Phan Duy Lê, Vũ Minh Giang (1994), Các giá trị truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước,
Hà Nội.
88. Nguyễn Hiến Lê (1994), Kinh Dịch - Đạo của người quân tử, Nxb văn
học, Hà Nội.
89. Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi (1994), Tuân Tử, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
90. Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử và luận ngữ, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
91. Phan Huy Lê (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII- XVIII, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
92. Nghiêm Sĩ Liêm (2001), Vai trò của gia đình trong việc Giáo dục thế hệ
trẻ ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
93. Ngô Sỹ Liên (2011), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
94. Bùi Dương Lịch (1990), Bùi gia huấn hài, quyển 1, Phòng tư liệu Viện
Triết học, Hà Nội.
95. Bùi Dương Lịch (1990), Bùi gia huấn hài, quyển 2, Phòng tư liệu Viện
Triết học, Hà Nội.
96. Nguyễn Thế Long (1990), Nho học ở Việt Nam, giáo dục và thi cử, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
97. Nguyễn Thế Long (1996), Truyền thống gia đình và bản sắc dân tộc Việt
Nam - Truyền thống đạo đức, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
98. Nguyễn Thế Long (1998), Gia đình và dân tộc, Nxb Lao động, Hà Nội.
99. Dương Lực (2002), Kinh điển Văn hoá 5000 năm Trung Hoa, Nxb Văn
hoá thông tin, Hà Nội.
100. Trường Lưu (Chủ biên) (1998), Văn hoá đạo đức và tiến bộ xã hội, Nxb
Văn hoá thông tin Hà Nội.
101. C.Mác và Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
102. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
159
103. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
104. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
105. Nguyễn Thị Thanh Mai (2000), Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối
với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
106. Dương Xuân Mai (Chủ biên) (1998), Nghiên cứu tư tưởng văn hoá của
Nho gia, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
107. Lý Cảnh Minh, Đường Minh Quý (Đồng chủ biên) (1993), Nghiên cứu
so sánh Nho giáo và Đạo giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
108. Lý Cảnh Minh, Đường Minh Quý (Đồng chủ biên) (1995), Nghiên cứu
so sánh Nho giáo và Phật giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
109. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
116. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
118. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Hồ Chí Minh (1997), Phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội, Nxb
Lao động, Hà Nội.
120. Trần Thị Hồng Minh (2006), Từ Trung - Hiếu của Khổng Tử đến tư
tưởng Trung - Hiếu của Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
121. Hà Thúc Minh (1999), Lịch sử Triết học Trung Quốc, Tập 1, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
160
122. Hà Thúc Minh (1999), Lịch sử Triết học Trung Quốc, Tập 2, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
123. Hà Thúc Minh (2001), Đạo nho và Văn hoá Phương Đông, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
124. M.T. Stepaniants (2003), Triết học Phương Đông (Trung Hoa, Ấn Độ
vcà các nước Hồi giáo, (Dịch giả Trần Nguyệt Việt), Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
125. Vương Nhật Mỹ (Chủ biên) (1990), Nghiên cứu tư tưởng chính trị Nho
gia, Nxb giáo dục, Hà Nội.
126. Nguyễn Thị Nga (1999), Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người
và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục con người ở Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ Triết học,
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học quốc gia, Hà Nội.
127. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
128. Phan Ngọc (1998), Vấn đề về gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
129. Phan Ngọc (2000), Một cách tiếp cận văn hoá, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
130. Đường Nhậm Ngũ (2003), Văn hoá Nho gia và quản lý kinh tế hiện đại,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
131. Nguyễn Tôn Nhan (Chú giải) (1996), Kinh Lễ, Nxb Văn học, Hà Nội.
132. Nguyễn Tôn Nhan (2005), Nho giáo Trung Quốc, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
133. Nhiều tác giả (2002), Văn hóa gia đình và sự hình thành xã hội, Nxb
Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
134. Nguyễn Ngọc Phú (2006), Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện
nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
135. Trương Hưng Phúc (2003), Văn hoá Nho gia và nghiên cứu quản lý hiện
đại, Nxb Nhân dân Cam Túc, Trung Hoa.
136. Lê Văn Quán (1997), Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
161
137. Lê Văn Quán (2003), "Thử bàn về đạo "hiếu" của Nho gia", Tạp chí Hán
Nôm, (2), tr.3- 8.
138. Lê Văn Quán (2004), "Bước đầu tìm hiểu luân lý đạo đức trong văn hoá
truyền thống Nho gia", Tạp chí Hán Nôm, (2), tr.3-10.
139. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Hôn
nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
140. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn
nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
141. Nguyễn Duy Quý (2006), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - vấn đề và
giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
142. Phạm Côn Sơn (2003), Đạo nghĩa trong gia đình, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
143. Phạm Côn Sơn (2006), Nề nếp gia phong, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
144. Nguyễn Đức Sự (1987), "Sự vận dụng Nho giáo trên lập trường nhân dân
của Nguyễn Đình Chiểu", Tạp chí Triết học, (3), tr.27-31.
145. Hà Văn Tác (2011), Vai trò của gia đình đối với sự phát triển nguồn
nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành
phố Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
146. Lưu Đức Tăng (1996), Nghiên cứu sự truyền bá Nho học, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
147. Nguyễn Thanh Tâm (2000), "Nguyên nhân ly hôn của gia đình thành
phố", Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (3), tr.15-20.
148. Vũ Minh Tâm (2001), "Lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội, trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp
chí Lý luận chính trị, (12), tr.21-26.
149. Lê Sỹ Thắng (1987), "Mấy nét về tổng quát về Nho giáo trong lịch sử tư
tưởngViệt Nam", Tạp chí Triết học, (2), tr.18-21.
150. Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
151. Lê Sỹ Thắng (Chủ biên) (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
162
152. Nguyễn Chương Thâu (1998), "Nho giáo với vấn đề hiện đại hoá ở Việt
Nam", Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (2), tr.150.
153. Trần Ngọc Thêm (1995), Nho giáo và văn hoá Việt Nam, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
154. Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người
Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
155. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
156. Lê Thi (2005), "Mỗi quan hệ cá nhân - gia đình trong bối cảnh Việt Nam
đi vào toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Triết học,
(4), tr.35-39.
157. Lê Thi (2006), Cuộc sống và biến động của hôn nhân, gia đình Việt Nam
hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
158. Lê Thi (Chủ biên) (2006), Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát
triển nhân cách con người Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
159. Nguyễn Thị Thọ (2010), Đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
160. Vi Chính Thông (1996), Nho gia với Trung Quốc ngày nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
161. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam
đến năm 2020 tầm nhìn 2030, Hà Nội.
162. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
163. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
164. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 3, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
165. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 4, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
163
166. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 5, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
167. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 6, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
168. Trần Thị Hồng Thuý (1996), Ảnh hưởng của Nho giáo với chủ nghĩa yêu
nước truyền thống, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
169. Lê Thị Thuỷ (2001), Vai trò đạo đức đối với nhân cách con người Việt
Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học,
Viện Triết học, Hà Nội.
170. Nguyễn Tài Thư (1982), "Thử tìm hiểu vị trí của ba đạo: Nho, Phật, Lão
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam", Tạp chí Triết học, (1), tr.120- 134.
171. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
172. Nguyễn Tài Thư (1996), Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ, Luận án
Phó tiến sĩ Khoa học triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
173. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối
với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
174. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học Việt Nam (một số vấn đề lý
luận và thực tiễn), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
175. Nguyễn Tài Thư (1997), Đạo đức phong kiến Việt Nam-nguồn gốc và
đặc trưng cơ bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
176. Nguyễn Thị Thường (1999), "Gia đình Việt Nam hiện nay, Truyền thống
hay hiện đại?" Thông tin lý luận, (253), tr.43-45.
177. Phạm Mạnh Toàn (2007), Quan niệm của Nho giáo về trung-hiếu-lễ.
Ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức con người Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
178. Trần Hữu Tòng, Trương Thìn (Chủ biên) (1997), Xây dựng gia đình văn
hoá trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
179. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê, Hà Nội.
164
180. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê 2014, Nxb Thống kê, Hà Nội.
181. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê 2015, Nxb Thống kê, Hà Nội.
182. Trần Khải Trí, Trương Thọ Hoa (2003), Nho gia truyền thống và tư
tưởng nhân quyền, dân chủ, Nxb Tề Lỗ thư xã, Hà Nội.
183. Trung tâm Nghiên cứu về khoa học gia đình và phụ nữ (1997), Mười
năm bước tiến bộ của phụ nữ, Hà Nội.
184. Trí Tuệ (2003), Đạo trị gia, Nxb Mũi Cà Mau, Cà Mau.
185. Nguyễn Bằng Tường (1990), Nho giáo - Cơ sở của đạo đức phong kiến
Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
186. Lý Đào Tường (Chủ biên) (19900, Nghiên cứu luân lý Nho gia, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
187. Nguyễn Đình Tường (2002), "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thi trường ở Việt Nam hiện nay và giải
pháp khắc phục", Tạp chí Triết học, (6), tr.27-32.
188. Khương Lâm Tường, Lý Cảnh Minh (Chủ biên) (1990), Khổng Tử gia
giáo, Nxb Thế giới, Hà Nội.
189. Lê Ngọc Văn (1998), Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hoá, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
190. Lê Ngọc Văn (2000), "Một số đặc điểm biến đổi gia đình từ xã hội nông
nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp hoá", Tạp chí Khoa
học về Phụ nữ, (15), tr.27-29.
191. Nguyễn Thị Vân (2005), Học thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo và
ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - thực
trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
192. Nguyễn Khắc Viện (1993), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội.
193. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu khoa học về
phụ nữ Nhận diện gia đình Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu hội nghị
khoa học, Hà Nội.
165
194. Viên Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam (2004), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
về Nho giáo ở Việt Nam, Hà Nội.
195. Viện Ngôn ngữ Khoa học xã hội Việt Nam (1992), Từ điển tiếng Việt,
Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.
196. Viện Sử học (2013), Quốc triều hình luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
197. Tân Việt (1997), Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, Nxb
Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
198. Trần Nguyên Việt (2002), "Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái
phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường",
Tạp chí Triết học, (5), tr.34-39.
199. Trần Nguyên Việt (2004), "Phạm Trù "Đức" trong học thuyết của Khổng
Tử", Tạp chí Triết học, (3), tr.25-30.
200. Truyền Vĩnh, Hàn Chung Văn (Chủ biên) (2004), 20 thế kỷ Nho học
nghiên cứu đại hệ 21, Nxb Trung Hoa thư cục, Trung Hoa.
201. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
202. Tăng Chấn Vũ (1995), Nghiên cứu tư tưởng luân lý của Nho gia, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
203. Trương Như Vương (1998), Góp phần tìm hiểu tư tưởng đạo đức trong
kinh thánh, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Viện khoa học
xã hội Việt Nam, Hà Nội.
204. Nguyễn Đình Xuân (1997), Giáo dục đời sống gia đình, Nxb Đại học
quốc gia, Hà Nội.
205. Trần Thị Kim Xuyến (2001), Gia đình và những vấn đề của gia đình
hiện đại, Nxb Thống kê, Hà Nội.
206. Nguyễn Bình Yên (2002), Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với
con người Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_anh_huong_dao_duc_nho_giao_den_giao_duc_dao_duc_tron.pdf