HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
ẢNH HƯỞNG CỦA LỢI ÍCH NHÓM
ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2016
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
ẢNH HƯỞNG CỦA LỢI ÍCH NHÓM
ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN AN NINH
HÀ NỘI - 2016
166 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 385 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Ảnh hưởng của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Huyền
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 5
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu ở trong nước 5
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về lợi ích nhóm ở nước ngoài 22
1.3. Giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu và những nội dung
mới mà luận án thực hiện 31
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH NHÓM VÀ LỢI
ÍCH NHÓM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM 34
2.1. Khái niệm, cách phân loại và vai trò của lợi ích 34
2.2. Một số vấn đề lý luận về lợi ích nhóm 39
2.3. Lợi ích nhóm trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 68
Chương 3: NHẬN DIỆN LỢI ÍCH NHÓM Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG
ẢNH HƯỞNG CỦA LỢI ÍCH NHÓM ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 78
3.1. Nhận diện lợi ích nhóm ở Việt Nam 78
3.2. Ảnh hưởng tích cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay 86
3.3. Ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay 99
3.4. Một số vấn đề đặt ra 113
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY ẢNH
HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA LỢI
ÍCH NHÓM TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 122
4.1. Phương hướng phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay 122
4.2. Giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay 131
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng rõ hơn trên những
nét cơ bản trong sự nghiệp đổi mới. Tuy vậy vẫn còn nhiều điều cần làm sáng tỏ,
mà một trong số đó là vấn đề lợi ích. Trước đây, tư duy giáo điều thường nhấn
mạnh một cách cực đoan lợi ích xã hội mà xem nhẹ lợi ích của cá nhân, lợi ích
của từng bộ phận. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, quan niệm đó đã được điều
chỉnh và thực tế đã xác nhận những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử ở lĩnh
vực này. Tuy vậy, cho đến nay, kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội vẫn là một bài toán khó. Bởi từ sau thời kỳ đổi mới, lại xuất hiện tình trạng
lợi ích cá nhân bị đẩy lên đến mức biến thành chủ nghĩa cá nhân, vì lợi ích riêng
mà sẵn sàng đi ngược lại với lợi ích chung, lợi ích xã hội. Vấn đề là làm thế nào
để lợi ích cá nhân thực sự là một động lực phát triển của đất nước. Giải quyết
vấn đề này là một trong những mục tiêu trong chính sách của Đảng và Nhà nước
ta. Lãnh đạo phải tính đến các nhu cầu và lợi ích, điều chỉnh chúng, thông qua
chúng để tạo nên tính tích cực hoạt động sáng tạo của quần chúng tự giác tham
gia vào quá trình đổi mới xã hội.
Đặt ra điều này vì trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
sự xuất hiện của lợi ích nhóm đang trở thành một yếu tố tác động cả thuận chiều
và nghịch chiều đến chủ nghĩa xã hội. Về bản chất, lợi ích nhóm là sự phản ánh lợi
ích chung của nhiều chủ thể đang có nhu cầu tìm kiếm những phương tiện, điều
kiện thực hiện những lợi ích riêng (cá nhân) nhất định. Lợi ích nhóm có cả tác
động tích cực và tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước. Lợi ích nhóm tiêu cực là lợi ích của một cộng đồng, có tổ chức hoặc tự phát
của những người có cùng chung một số mục đích, cùng chung lợi ích; họ tìm mọi
cách tác động đến cơ quan, người có quyền theo hướng có lợi cho nhóm của mình.
Mục đích riêng mà họ đạt được thường xâm hại tới lợi ích chung của toàn xã hội.
2
Nó là các hình thức hối lộ như “chạy” dự án, “chạy” vốn, “chạy” chức quyền và
thậm chí “chạy” cả chính sách vì các lợi ích cục bộ, địa phương... Nguy hại hơn,
lợi ích nhóm đã có những biểu hiện vi phạm lợi ích của xã hội: sử dụng bừa bãi và
tham nhũng tiền vay của quốc gia (ODA) và của nhân dân (công trái) trong các
công trình lớn; làm tha hóa cán bộ, gây mất lòng tin của nhân dân; và làm tăng
nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Những năm gần đây, lợi ích nhóm càng
ngày càng gia tăng và phát triển sâu rộng, quy mô lớn hơn nhiều. Tác động tiêu
cực của các nhóm lợi ích vào quá trình thực hiện các lợi ích hợp pháp và chính
đáng khác, vào hiệu quả của thực thi chính sách và gần đây, có cả những dấu hiệu
cho thấy, vào cả quá trình hoạch định chính sách... đã được xác nhận là một thực
tế. Đảng ta cũng khẳng định ba cản trở lớn nhất của tái cơ cấu nền kinh tế là lợi
ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ, tính cục bộ. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII, vấn đề phòng chống lợi ích nhóm tiêu cực nhằm xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh cũng đã được đặt ra.
Lợi ích nhóm không chỉ có tác động tiêu cực mà vẫn có cả những lợi ích
nhóm phù hợp với lợi ích của cả cộng đồng, xã hội, chứa đựng nhiều yếu tố tích
cực. Cần nhận thức rằng, các nhóm lợi ích khác nhau là một trong những hệ quả
của đa dạng hóa về lợi ích - một hiện tượng khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Lợi ích nhóm tác động tích cực sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, tạo
môi trường dân chủ, công bằng, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc chấp nhận hoạt động của
các nhóm lợi ích chính đáng và kịp thời ngăn chặn sự lũng đoạn của các nhóm lợi
ích tiêu cực đang hình thành sẽ góp phần để xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Có thể thấy, trên thế giới, vấn đề lợi ích nhóm đã xuất hiện, được nghiên
cứu từ lâu, và lợi ích nhóm thực chất là một hiện tượng khách quan trong bất kỳ
xã hội nào. Nhưng lợi ích nhóm ở Việt Nam có được hiểu như cách mà các nước
có xã hội dân sự ở phương Tây đã xem xét không, những vấn đề đang nảy sinh
3
đặc biệt là về lợi ích nhóm tiêu cực cần phải được đặt trong bối cảnh nước ta
hiện nay nhanh chóng trở thành bức xúc trong thực tiễn và đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu đầy đủ hơn. Trong một vài năm gần đây, những nghiên cứu một cách
có hệ thống trên cả phương diện lý luận và thực tiễn về vấn đề này đã xuất hiện
nhiều hơn. Nhưng còn rất ít nghiên cứu nhìn nhận lợi ích nhóm dưới góc độ như
một yếu tố tác động đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Do đó, chúng tôi
cho rằng, chọn đề tài: “Ảnh hưởng của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ
nghĩa xã hội khoa học là cần thiết.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích những biểu hiện và đặc điểm của lợi
ích nhóm và những ảnh hưởng của nó đến định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, luận án đề xuất những quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy những mặt tính tích cực và phòng, chống ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích
nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ: để thực hiện được mục tiêu tổng quát trên, luận án đề ra
những mục tiêu cụ thể sau:
Một là, tổng quan một số công trình liên quan đến vấn đề lợi ích, lợi ích
nhóm và ảnh hưởng của lợi ích nhóm ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Hai là, trình bày một số khái niệm công cụ và các vấn đề lý luận chung về
lợi ích; lợi ích nhóm - bao gồm bản chất, nguồn gốc, phân loại lợi ích nhóm, lợi
ích nhóm và kinh nghiệm kiểm soát lợi ích nhóm ở một số nước trên thế giới, biểu
hiện của lợi ích nhóm ở Việt Nam; và những vấn đề xoay quanh chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội có mối quan hệ với
lợi ích nhóm.
Ba là, phân tích cả ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích
nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Bốn là, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực của lợi ích nhóm và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối
với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: các lợi ích nhóm ảnh hưởng đến chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: luận án dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nguyên lý về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn; trên quan điểm khách quan, biện chứng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: luận án sử dụng phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và logic, phương pháp
văn bản học.
5. Về đóng góp của luận án
5.1. Đóng góp lý luận: góp phần hệ thống hóa và đưa ra quan điểm về
nguồn gốc, bản chất, biểu hiện của lợi ích nhóm ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
5.2. Đóng góp thực tiễn: chỉ ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của
lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Từ đó đưa ra
phương hướng, giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm.
6. Ý nghĩa của luận án
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy, học tập các lĩnh vực liên quan tới lợi ích nhóm và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác quản
lý xã hội, xây dựng pháp luật, nhận định, tổng kết, rút kinh nghiệm ở địa phương
mình trong công tác lãnh đạo, quản lý.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác giả
liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
Trong thời kỳ đổi mới, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lợi
ích, cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, các công trình về các nhóm xã hội như nhóm
giai cấp, nhóm giới, nhóm tôn giáo, nhóm dân tộc, lợi ích nhóm, ảnh hưởng của
lợi ích nhóm đến các lĩnh vực của xã hội Việt Nam. Luận án phân loại thành các
nhóm sau đây:
1.1.1. Nhóm các công trình về vấn đề lợi ích, nhóm xã hội và lợi ích nhóm
Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn sách Lợi ích động lực phát triển xã hội [65]
đã trình bày thực chất của lợi ích, nhu cầu và quan hệ lợi ích. Tác giả đã vận dụng
các quan điểm lý luận trên vào việc sử dụng vai trò động lực của lợi ích trong sự
phát triển của xã hội ta hiện nay. Trong đó, tác giả cũng nhấn mạnh rằng, để nhận
thức các quy luật đang chi phối sự vận động của một xã hội cụ thể thì trước hết
phải nhận thức được các lợi ích chung nào đang thôi thúc cả cộng đồng hoạt động
nhằm đạt được chúng. Và, điều quan trọng là, phải vạch ra được những lợi ích nào
đang là cấp bách và căn bản nhất trong hệ thống các lợi ích đang chi phối sự hoạt
động của từng cá nhân, của các nhóm xã hội cũng như của cả xã hội trong giai
đoạn lịch sử ấy. Trong nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu sâu lợi ích riêng, lợi ích
chung và mối quan hệ giữa chúng, từ đó khẳng định lợi ích riêng bao giờ cũng là
động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất thôi thúc cá nhân hoạt động và là nhân tố
quyết định trước hết. Nó là cơ sở để thực hiện lợi ích chung, ngược lại, lợi ích
chung với ý nghĩa là những lợi ích hướng vào thỏa mãn những nhu cầu chung của
nhiều thành viên hợp thành cộng đồng nên nó lại là điều kiện và đóng vai trò định
hướng cho việc thực hiện lợi ích riêng [65, tr.81-82]. Vì những lý do trên nên chỉ
khi nào tạo lập được mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích chung và lợi ích riêng thì
mới có thể tạo nên được sự phát triển không những của các cá nhân, mà của cả
cộng đồng. Từ đó một yêu cầu được đặt ra là cần tạo lập một cơ chế kích thích sao
6
cho mỗi cá nhân riêng lẻ, mỗi cộng đồng riêng lẻ khi hoạt động thực hiện các lợi
ích riêng của mình, nhất là những lợi ích riêng được phản ánh trong các lợi ích
chung của xã hội, cũng sẽ đồng thời tạo nên một xu hướng vận động chung của cả
cộng đồng theo hướng chúng ta mong muốn.
Nguyễn Linh Khiếu, Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích [66]. Trong
cuốn sách này, tác giả đưa ra quan điểm của mình: “Lợi ích, xét đến cùng, chính là
phương thức để thực hiện nhu cầu trong hoạt động thực tiễn, nhất là trong quan hệ
xã hội, trong đấu tranh xã hội” [66, tr.39]. Từ đó, tác giả phân tích mối quan hệ
giữa các lợi ích trong sự phát triển xã hội như: mối quan hệ giữa lợi ích vật chất và
lợi ích tinh thần, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu
dài. Ở đây, luận án có thể kế thừa các quan điểm về mối quan hệ giữa lợi ích riêng
và lợi ích chung để xem xét chúng trong mối quan hệ với lợi ích nhóm. Trong
công trình này, tác giả chỉ ra một số điểm như sau: một là, lợi ích chỉ tồn tại trong
quan hệ xã hội và luôn gắn liền với các chủ thể nhất định; hai là, mối quan hệ giữa
cá nhân và cộng đồng là rất đa dạng, do đó, mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi
ích chung cũng rất đa dạng; ba là, cần tạo ra sự kết hợp thống nhất giữa lợi ích
riêng và lợi ích chung; bốn là, quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung thực
chất là các quan hệ cơ bản của một cá nhân hay một nhóm xã hội với cả cộng
đồng; năm là, cần tìm hiểu rõ độ gắn kết về lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng
theo các cấp độ quan hệ khác nhau của đời sống xã hội; sáu là, mối quan hệ giữa
lợi ích riêng và lợi ích chung, hay còn gọi là lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển xã hội. Trong phần về “Lợi ích kinh tế và
các xu hướng vận động chủ yếu của xã hội hiện nay”, tác giả phân tích, xem xét
thực trạng kinh tế - xã hội nước ta hiện nay và các xu hướng vận động của nó. Tác
giả chỉ ra các thành phần kinh tế như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể sẽ phát triển
theo xu hướng mà ta mong muốn - phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
còn kinh tế tư nhân và tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ nhìn chung có xu
hướng vươn tới phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, hai xu hướng vận động chính này là hai lực kéo đưa xã hội ta vận động và
phát triển tiến lên. Mặt khác, chính hai xu hướng này lại vận động theo hướng
7
khác nhau, lấn át, đấu tranh gay gắt nhằm thủ tiêu nhau, tạo nên mâu thuẫn cơ bản
của xã hội ta trong thời kỳ quá độ. Và chính bộ máy nhà nước của dân, do dân và
vì dân cần quản lý, điều khiển để định hướng sự phát triển của các thành phần
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Luận án tiến sĩ Hiệu quả chi tiêu ngân sách dưới sự tác động của vấn đề
nhóm lợi ích ở một số nước trên thế giới [17] của Bùi Đại Dũng trình bày cơ sở
lí luận về hiệu quả chi tiêu ngân sách và vấn đề nhóm lợi ích; hiệu quả chi tiêu
ngân sách dưới sự tác động của các nhóm lợi ích; kinh nghiệm xử lí vấn đề nhóm
lợi ích nhằm nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách ở nước ngoài và kiến nghị cho
Việt Nam
Đặng Quang Định trong công trình Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân,
nông dân và trí thức ở Việt Nam hiện nay [34] đã phân tích những lợi ích kinh tế
của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Qua đó chỉ ra sự
thống nhất và những biểu hiện thiếu thống nhất trong lợi ích kinh tế giữa công
nhân, nông dân và trí thức. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp định hướng tăng
cường sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông dân và trí thức.
Nguyễn Hữu Khiển trong bài viết Nhóm lợi ích và vấn đề chống tham
nhũng [63] trên cơ sở phân tích những đặc điểm của tham nhũng cùng với nhóm
lợi ích, quan hệ giữa hai vấn đề này, cho rằng phải có biện pháp tổng hợp để
chống tham nhũng và chống lợi ích nhóm tiêu cực. Đồng thời, cần phải coi thúc
đẩy hoạt động của các nhóm lợi ích chính đáng và ngăn chặn sự lũng đoạn của các
nhóm lợi ích tiêu cực là cơ sở để phòng và chống tham nhũng có hiệu quả. Tác giả
khẳng định sự xuất hiện của nhóm lợi ích là khách quan, trong đó “kinh tế hàng
hóa là tiền đề khách quan đầu tiên của sự hình thành nhóm lợi ích” [63, tr.58].
Nhóm lợi ích cũng xuất hiện một cách chủ quan: “với sự phát triển của tri thức và
năng lực của con người, nhất là trong đời sống kinh tế và chính trị, việc tự tìm
kiếm đối tác, đồng minh để hình thành các nhóm “mạnh hơn từng cá nhân đơn lẻ”
là một khuynh hướng tất yếu để tồn tại” [63, tr.58]. Khi chế độ dân chủ xuất hiện
trong xã hội tư bản, nhóm lợi ích kinh tế tìm cách tác động đến đời sống chính trị
để tạo ra lợi thế chính trị cho mình. Như vậy, nhóm lợi ích xuất hiện từ nhu cầu
8
của nhóm sản xuất kinh doanh hay nhóm lợi ích chính trị. Sự phân tích của tác giả
là gợi ý cho luận án về nguồn gốc của nhóm lợi ích.
Công trình Thích ứng xã hội của các nhóm xã hội yếu thế ở nước ta hiện
nay [18] của Vũ Dũng trình bày những chính sách của Đảng và Nhà nước về các
nhóm xã hội yếu thế; thực trạng thích ứng xã hội của nhóm người cao tuổi, người
mắc bệnh hiểm nghèo và người khuyết tật, của nhóm trẻ em lang thang cơ nhỡ;
đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm góp phần nâng cao khả năng thích ứng xã hội
của những nhóm này. Cuốn sách cho thấy hình ảnh nhóm yếu thế ở nước ta.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, việc hài hòa giữa yếu tố thị trường và đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa không hề đơn giản. Có những lúc yếu tố thị trường khiến
nhiều người đặt lợi nhuận lên trên hết, chỉ quan tâm đến lợi ích những nhóm ưu
thế trong xã hội mà quên mất lợi ích các nhóm yếu thế, không đảm bảo được tính
nhân văn của chế độ.
Trong cuốn sách Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội [35], của
Đặng Quang Định đã trình bày các quan niệm về lợi ích, phân loại lợi ích, sự hình
thành và vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội. Tác giả cũng phân tích các
quan điểm của các nhà kinh điển C.Mác, Ph.Ăngghen về lợi ích và trình bày quan
điểm của Đảng ta trong việc giải quyết vấn đề lợi ích tạo động lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, trong quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp và xu hướng biến
đổi của các quan hệ lợi ích ở nước ta trong những năm tới. Luận án có thể tham
khảo được các khái niệm về lợi ích, quan điểm của các nhà kinh điển về lợi ích và
vai trò của nó.
Công trình Phân tầng xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế [111] của Lê Văn Toàn đã phân chia
các nhóm xã hội theo thu nhập (nhóm giàu, nhóm nghèo), theo giới tính (nhóm
nam, nhóm nữ), theo giai tầng (nhóm công nhân, nhóm nông dân, nhóm trí thức,
nhóm doanh nhân), theo vùng miền (nhóm ở đồng bằng, nhóm ở miền núi),
theo nghề nghiệp, theo lứa tuổi. Dựa vào sự phân tầng xã hội như trên, có thể thấy,
có bao nhiêu nhóm xã hội là có bấy nhiêu nhóm lợi ích.
9
Lê Xuân Thủy trong cuốn sách Lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay [109] đã nghiên cứu lý luận và
thực tiễn về lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài;
đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm bảo đảm lợi ích của công nhân
trong loại hình doanh nghiệp này, trước tác động của những điều kiện mới ở Việt
Nam hiện nay
Công trình nghiên cứu Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô
thị hoá ở nước ta hiện nay [42] của Đỗ Huy Hà trình bày một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã
hội trong quá trình đô thị hoá ở nước ta hiện nay; thực trạng và một số giải pháp
cơ bản nhằm giải quyết các quan hệ lợi ích trong quá trình đô thị hoá để tạo động
lực phát triển kinh tế - xã hội hiện nay
Nguyễn Thị Mai Hoa trong công trình Kiểm soát lợi ích nhóm - tiếp cận từ
góc độ giám sát quyền lực nhà nước [53], khi bàn về mối quan hệ giữa quyền lực
nhà nước và lợi ích nhóm, tác giả khẳng định “tiếp cận lợi ích nhóm không thể
tách rời sự tiếp cận chính trị và quyền lực chính trị” [53, tr.68], do đó, để đảm bảo
lợi ích, công bằng xã hội cho số đông, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được
đặt ra từ rất sớm. Việc tập trung và độc quyền quyền lực sẽ sinh ra một số nhóm
lợi ích theo nghĩa nhóm đặc quyền, đặc lợi, có khả năng tác động lớn hoặc trực
tiếp trong quá trình ra quyết sách của chính quyền. Do đó, cần một thể chế chính
trị minh bạch, tiến bộ, có khả năng phân bổ lợi ích thỏa đáng, kích thích khả năng
đóng góp, hạn chế khả năng gây hại của các nhóm lợi ích. Như vậy, để kiểm soát
lợi ích nhóm, ngăn ngừa nhóm lợi ích tiêu cực, cần tập trung vào vấn đề kiểm soát
quyền lực nhà nước. Từ đó, tác giả nêu ra một số giải pháp như sau: một là, xây
dựng cơ chế hoạch định chính sách, ra quyết định minh bạch, khoa học [53, tr.71];
hai là, lành mạnh hóa bộ máy công quyền [53, tr.71]; ba là, thiết lập và thực hiện
nghiêm minh chế độ bãi miễn đối với lãnh đạo mất tín nhiệm [53, tr.72]; bốn là,
đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật [53, tr.72]. Bài viết là gợi ý cho luận án
tiếp cận quan hệ giữa lợi ích nhóm với quyền lực nhà nước, từ đó có thể đưa ra
10
những giải pháp hợp lý cho việc phát huy lợi ích nhóm tích cực và hạn chế lợi ích
nhóm tiêu cực ở Việt Nam hiện nay.
Bài viết Đảm bảo công bằng xã hội từ góc nhìn nhóm lợi ích [54] của
Nguyễn Thị Mai Hoa bàn về mối quan hệ giữa công bằng xã hội và nhóm lợi ích.
Tác giả cho rằng, “một mặt, sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhóm lợi ích tác
động tích cực tới đảm bảo công bằng xã hội, tạo các động lực cơ bản thúc đẩy
phát triển xã hội; mặt khác, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các nhóm lợi
ích là nguy cơ trực tiếp đối với công bằng xã hội, hủy hoại tiến bộ xã hội” [54,
tr.60]. Từ nhận định này, tác giả đưa ra các giải pháp để triệt tiêu “nhóm lợi ích
ngược”: 1/ đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội; 2/ đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
trong đội ngũ cán bộ công quyền; 3/ trung thực và minh bạch hóa thông tin. Bài
viết cung cấp một góc nhìn về ảnh hưởng của lợi ích nhóm đến một trong những
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội - đó là công bằng xã hội.
Nguyễn Ngọc Hà, Trần Thị Bích Huệ trong bài viết Lợi ích nhóm với tính
cách một khái niệm của triết học xã hội [43] trình bày tính tất yếu của lợi ích
nhóm, phân loại lợi ích nhóm, quan hệ giữa lợi ích nhóm với lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội, quan hệ giữa các lợi ích nhóm với nhau, biểu hiện của lợi ích nhóm
trong chính sách của nhà nước.
Nguyễn Hữu Khiển với bài viết Lợi ích nhóm và nhóm lợi ích dưới dạng
tham nhũng [64] phân biệt lợi ích nhóm và nhóm lợi ích, khẳng định tính khách
quan trong sự hình thành lợi ích nhóm và nhóm lợi ích; bản chất của lợi ích
nhóm và nhóm lợi ích. Từ đó chỉ ra: “lợi ích nhóm dưới hình thức tham nhũng là
loại lợi ích nhóm tiêu cực mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đang quan tâm và
muốn triệt tiêu trong đời sống dân sự cũng như trong hệ thống chính trị của nước
ta” [64, tr.31] cùng với đó là tính chất nguy hiểm bất thường của nó.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của lợi ích nhóm ở
Việt Nam
Bao gồm các công trình về lợi ích nhóm với đảng cầm quyền, với nhà
nước, lợi ích nhóm trong các lĩnh vực cụ thể trong kinh tế, chính trị, văn hóa -
xã hội; lợi ích nhóm tiêu cực và vấn đề tham nhũng như sau:
11
Phạm Thành Nam, Đỗ Thị Thạch trong công trình Phát huy dân chủ trong
đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay [78] khẳng định: nguyên nhân
chủ yếu của tình trạng tham nhũng, đã được Đảng ta chỉ rõ, là do việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực đời sống xã hội chưa có hiệu quả;
hệ thống chính trị chưa phát huy được vai trò trong việc quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế; cơ chế chính sách, luật pháp chưa hoàn thiện, còn nhiều kẽ hở. Bằng các
dẫn chứng từ thực tế, từ các nghiên cứu cũng như thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, các tác giả đã phác họa tương đối đầy đủ thực trạng 9 lĩnh
vực tham nhũng, tiêu cực xảy ra chủ yếu ở nước ta trong thời kỳ đổi mới (trong
lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai; trong lĩnh vực quản lý tài chính, ngân sách;
trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản; trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng; trong
lĩnh vực quản lý thuế, quản lý thị trường, quản lý hoạt động kinh doanh thương
mại, xuất nhập khẩu; trong lĩnh vực văn hóa, xã hội; trong lĩnh vực hoạt động tư
pháp, trong tham mưu hoạch định chính sách và trong công tác cán bộ). Trong đó,
lĩnh vực thứ chín là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đề tài chính. Đây là một dạng
tham nhũng, tiêu cực “sạch” vì nó không trực tiếp nhũng nhiễu, lấy tiền của dân,
mà thu lợi gián tiếp, “sạch sẽ” thông qua các đối tượng trung gian như cơ quan,
doanh nghiệp, cá nhân hưởng lợi từ sự tham mưu, quyết định của mình. Ở một số
nước trên thế giới, tham nhũng, tiêu cực dạng này được gọi là tham nhũng chính
trị, vì “nó tạo điều kiện cho một nền kinh tế nội tại kết nối những người ủy quyền
và những người đại diện. Những người ủy quyền đứng ra bảo vệ, đưa ra những
quyết định quan trọng và kiểm soát sự tự chuyên quyền, trong khi các đại diện
chính trị hay quan liêu thì trả tiền để nhận được chiến lợi phẩm của mình”. Hành
vi phổ biến của tham nhũng chính trị là “hàng loạt hoạt động chính trị và xây dựng
chính sách, trong đó có hối lộ, gian lận bầu cử, bảo trợ lạm quyền” [78, tr.99].
Các tác giả đã bước đầu đưa ra được một số bài học kinh nghiệm, một số quan
điểm, nguyên tắc, biện pháp chỉ đạo việc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực
mà bao trùm lên tất cả là đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực phải vì nhân dân,
dựa vào nhân dân, do nhân dân và động viên được đông đảo nhân dân tham gia.
Tham nhũng chính trị có liên quan rất nhiều đến lợi ích nhóm tiêu cực. Vì vậy,
12
cuốn sách cung cấp tư liệu để luận án sử dụng khi bàn về vấn đề tác động của lợi
ích nhóm tiêu cực đến việc hoạch định chính sách.
Nguyễn An Ninh trong công trình Những nhân tố mới tác động đến triển
vọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [84] đã dành chương III để trình bày về
những nét mới của các nhân tố chủ quan trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Trong đó khi bàn về sự xuất hiện và tác động tiêu cực của các
nhóm lợi ích tư, tác giả cho rằng, có thể chia ra hai loại nhóm lợi ích: nhóm lợi
ích công, vận động cho một số đông hay toàn xã hội, có nhiều đồng thuận với
mục tiêu chung của đất nước; nhóm lợi ích tư chỉ vận động cho lợi ích cục bộ
của một số thành viên, do đó đôi khi lợi ích của xã hội có thể bị hy sinh. Nhóm
lợi ích tư có thể tác động tiêu cực cho triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, nhưng khả năng điều hòa, kiềm chế của Nhà nước đối với chúng lại vấp
phải hai vật cản là: sự suy thoái trong đạo đức lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên và cơ chế quản lý điều hành của Nhà nước còn thiếu khoa
học và còn chịu nhiều ảnh hưởng của những tàn dư cơ chế cũ. Từ đó, tác giả kết
luận “Sự lộ diện và tác hại ngày càng lớn của các nhóm lợi ích tư chính là một
nhân tố mới cùng góp phần tạo nên các nguy cơ quan liêu, tham nhũng và chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu những nhóm lợi ích tư này không được kiềm chế,
hậu quả ghê gớm sẽ là: chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn còn đó nhưng bản chất đã bị
tha hóa, tiêu chí “nhà nước của dân, do dân, vì dân” vẫn được nêu lên nhưng chỉ
còn là hình thức” [84, tr.203].
Hồ Bá Thâm, Mâu thuẫn, xung đột lợi ích nhóm - Thực trạng, xu hướng và
giải pháp [102]. Cuốn sách phân tích những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích nhóm
và nhóm lợi ích trong giai đoạn từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang
nền kinh tế thị trường ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và ở Việt Nam nói
chung. Trong quá trình phân tích, các tác giả đã làm rõ quan niệm về lợi ích nhóm,
nhóm lợi ích, chỉ ra thực trạng, nguyên nhân của những mâu thuẫn, xung đột này
và đề xuất giải pháp để hạn chế chúng. Cách hiểu nhóm lợi ích của các tác giả
xuất phát từ thực tiễn Việt Nam: “Nhóm lợi ích là nhóm có tác động đến chính
quyền nhà nước ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp bằng nhiều cách: 1/ phản biện
13
xã hội, giám sát xã hội, 2/ tác động bằng phản ứng, khiếu kiện để thay đổi chính
sách hay cách giải quyết, 3/ lợi dụng kẽ hở pháp luật, chính sách vận động chính
quyền có lợi cho họ; 4/ vận động cơ quan chính sách để thông qua đề xuất của họ
về chính sách; 5/ thậm chí có trường hợp mua chuộc quan chức nhà nước, cấu kết
kiểu mafia” [102, tr.49]. Có 2 nhóm lợi ích: nhóm trục lợi và nhóm thiệt hại. Từ
đây, các tác giả phân tích về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với việc hình thành mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa nhóm trục lợi và
nhóm thiệt hại. Kinh tế thị trường, đô thị hóa, công nghiệp hóa và thương mại hóa
đã tác động hình thành nên những mâu thuẫn xung đột lợi ích chung hiện nay.
Ngoài ra, còn do yếu tố chính sách, pháp luật của nhà nước trong các quá trình đó
chưa chuyển đổi kịp thời, còn nhiều bất cập [102, tr.85-87]. Tiếp theo, tác giả
phân tích thực trạng và nguyên nhân mâu thuẫn, xung đột lợi ích trên một số lĩnh
vực như nhà đất, sử dụng lao động doanh nghiệp, giáo dục và y tế ở thành phố Hồ
Chí Minh, trong đó trình bày thực trạng, nguyên nhân và những tác động tiêu cực.
Cuối cùng, tác giả trình bày xu hướng và đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết
mâu thuẫn, xung đột lợi ích nhóm hiện nay.
Công trình Tham nhũng từ góc nhìn của người dân, doanh nghiệp và cán
bộ, công chức, viên chức: Kết quả khảo sát xã hội học [103] là kết quả của một
cuộc điều tra xã hội học do Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng thế giới chủ trì
thực hiện. Trong đó, có một con số đáng lưu ý là 50% số doanh nghiệp đồng ý các
nhóm lợi ích ngày càng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong hoạt động kinh d...bản. Bài
viết dựa trên khảo sát các nước Đông Nam Á và Đông Á bao gồm cả Trung Quốc.
Tác giả bài viết xác định các yếu tố kiểm soát và ngăn chặn các nhóm lợi ích có
ảnh hưởng tiêu cực đối với các quyết định quản lý và chính sách trong một quốc
gia (ví dụ như tính minh bạch, phương tiện truyền thông, loại bỏ các quyết định,
cách ly và bảo đảm xung đột lợi ích được hủy bỏ), cung cấp các bài học kinh
nghiệm từ các nước trong khu vực này trong việc kiềm chế tham nhũng và ảnh
hưởng bất hợp pháp bởi các nhóm lợi ích trong khi duy trì các lợi ích.
Pablo T. Spiller and Sanny Liao, Buy, Lobby or Sue: Interest Groups’
Participation in Policy Making - A Selective Survey (Mua bán, vận động hay khởi
kiện: Khảo sát chọn lọc về sự tham gia vào hoạch định chính sách của các nhóm
lợi ích) [144]. Sự tham gia của các nhóm lợi ích trong việc đưa ra chính sách công
là điều tất yếu. Điều tất yếu khách quan đó vấp phải sự nghi ngờ của các nhà chính
trị và cả dân chúng. Gần đây, đã có một tài liệu từ New Institutional Economics
(NIE) nhằm kiểm tra sự tham gia của các nhóm lợi ích trong việc hoạch định
27
chính sách. Nét nổi bật của phương pháp tiếp cận NIE là nó nhấn mạnh việc mở ra
mảng tối trong việc ra các quyết định. Cuốn sách giới thiệu NIE, trong đó phân
tích mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích và các nhà hoạch định chính sách. Đồng
thời, tác giả nhấn mạnh vai trò của môi trường thể chế trong việc tìm hiểu sự quan
tâm của các nhóm.
Heike Kluver, Lobbying in coalitions: Interst group influence on European
Union policy-making (Vận động hành lang trong các liên minh: Ảnh hưởng của
nhóm lợi ích trong việc hoạch định chính sách ở khối EU [140]. Liên minh châu
Âu được thành lập trở thành một cấu trúc cơ hội chính trị đầy hứa hẹn cho lợi ích
có tổ chức. Thắng lợi hay thất bại nằm ở việc phân tích hoạch định chính sách. Có
rất ít người nghiên cứu nó và trong các nghiên cứu hiện có vô số các giả thuyết và
kết quả phần nào mâu thuẫn nhau. Bài viết này nhằm mục đích trình bày một mô
hình trao đổi lý thuyết mới để nhận biết nguồn cung cấp thông tin, hỗ trợ người
dân và sức mạnh thị trường của liên minh vận động hành lang như các nhân tố
chính ảnh hưởng nhóm lợi ích về xây dựng chính sách tại Liên minh châu Âu.
Những giả thuyết được thực nghiệm đánh giá dựa trên số lượng lớn các số liệu
mới kết hợp phân tích định lượng văn bản đệ trình của nhóm lợi ích để Hội đồng
tham vấn với một cuộc khảo sát trực tuyến giữa các nhóm lợi ích. Lý thuyết này
đang được thử nghiệm trên một số chính sách. Phân tích thực nghiệm xác nhận
những kỳ vọng lý thuyết chỉ ra rằng vận động hành lang là một hoạt động kinh
doanh tập thể, trong đó cung cấp thông tin, hỗ trợ người dân và sức mạnh thị
trường của toàn bộ liên minh vận động hành lang thay đổi ảnh hưởng của nhóm
lợi ích.
Heike Kluver, Biasing polictics? Interest group participation in European
policy-making (Xu hướng chính trị? Sự tham gia của các nhóm lợi ích trong hoạch
định chính sách ở châu Âu) [141]. Bài viết này trả lời cho câu hỏi sự thành công
trong vận động ở Liên minh châu Âu có như nhau đối với các nhóm lợi ích
không? Nhóm lợi ích vận động các tổ chức châu Âu để đạt được các quyết định
chính sách phù hợp với lợi ích của mình. Trong khi một số người cho rằng các
nhóm lợi ích khác nhau có khả năng như vậy trong việc tác động đến hoạch định
28
chính sách ở châu Âu, thì có những người khác cho rằng thành công của vận động
hành lang là có thiên vị đối với một số nhóm lợi ích lớn. Các nghiên cứu trước đây
tập trung tại một khu vực hay một vài chính sách cụ thể nên để rút ra kết luận
chung là khá khó khăn. Vì vậy, bài này trình bày một phân tích dựa trên khảo sát
rộng lớn các vận động thành công của một loạt các nhóm lợi ích và các vấn đề
chính sách bằng cách kết hợp một phân tích định lượng văn bản của Ủy ban tham
vấn với một cuộc khảo sát trực tuyến giữa các nhóm lợi ích. Nghiên cứu này chỉ ra
rằng vận động thành công không có sự khác nhau giữa các loại nhóm lợi ích.
Frederick J. Boehmke, The Effect of Direct Democracy on the Size and
Diversity of State Interest Group Populations (Ảnh hưởng của nền dân chủ trực
tiếp vào quy mô và tính đa dạng của các nhóm lợi ích nhà nước) [139]. Bài viết
này nghiên cứu sự ảnh hưởng của nền dân chủ trực tiếp đến quy mô và tính đa
dạng của các nhóm lợi ích nhà nước, cung cấp một kiểm tra thực nghiệm một mô
hình chính thức cách tiếp cận cơ hội ảnh hưởng đến sự hình thành và hoạt động
nhóm như thế nào. Mô hình dự báo rằng nhóm biến động và hoạt động trong trạng
thái chủ động hơn; dự đoán này được khẳng định: dân chủ trực tiếp làm tăng số
thành viên của nhóm lợi ích công khoảng 17%; trong đó, nhóm lợi ích công dân
được tăng 29% trong khi mức tăng chỉ là 12% cho tập đoàn kinh tế. Nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng, dân chủ trực tiếp làm tăng sự đa dạng cho các nhóm lợi ích.
Thomas L. Brunell, The Relationship Between Political Parties and Interest
Groups: Explaining Patterns of PAC Contributions to Candidates for Congress
(Mối quan hệ giữa các đảng chính trị và nhóm lợi ích - Lý giải mô hình của PAC
đóng góp cho ứng cử Quốc hội) [147]. Bài viết cho rằng, các nhóm lợi ích tìm mọi
cách để đạt được lợi ích tối đa từ chính sách, trong khi đó, các đảng phái chính trị
lại cố gắng để có số ghế cao nhất trong Quốc hội. Những mục tiêu này có ý nghĩa
quan trọng trong mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích với các đảng chính trị. Trong
nghiên cứu này, tác giả phát triển và thử nghiệm một giả thuyết liên quan đến mô
hình đóng góp tiền từ Ủy ban hành động chính trị (PACs) cho các ứng viên của
Quốc hội Hoa Kỳ. Tác giả lập luận rằng các nhóm lợi ích có sự ưu tiên cho đảng
nào thực sự đảm bảo cho lợi ích của mình, tức là các nhóm lao động ưu tiên Đảng
29
Dân chủ, trong khi các nhóm doanh nghiệp lại ủng hộ Đảng Cộng hòa. Cũng có
khi nhóm lợi ích lại đóng góp tiền cho đảng khác, nhưng đảm bảo rằng sự đóng
góp đó tác động đến bầu cử càng ít càng tốt. Họ thực hiện chiến lược này bằng
cách đóng góp tiền cho những người đang đương nhiệm - mà những người này
thường không cần đến tiền để tái đắc cử.
Paul Burstein and April Liton, The Impact of Political Parties, Interest
Groups, and Social Movement Organizations on Public Policy: Some Recent
Evidence and Theoretical Concerns (Tác động của các đảng chính trị, nhóm lợi
ích và và các tổ chức phong trào xã hội đến chính sách công: lý thuyết và thực
tiễn) [145]. Bài viết này xem xét tác động trực tiếp của các đảng phái chính trị,
nhóm lợi ích và các tổ chức phong trào xã hội (SMOs) đến chính sách. Giả thuyết
chính là cả ba loại hình tổ chức đều có tác động đáng kể đến chính sách. Các giả
thuyết phụ: 1/ Khi dư luận xã hội được quan tâm, ảnh hưởng của các đảng phái
chính trị là hầu như không đáng kể; 2/ đảng phái chính trị có ảnh hưởng lớn hơn
nhóm lợi ích và SMOs; 3/ nhóm lợi ích và SMOs có ảnh hưởng đến chính sách ở
mức độ là các hoạt động của họ cung cấp cho các quan chức được bầu các thông
tin và các nguồn lực có liên quan đến chiến dịch tranh cử của họ. Từ các giả
thuyết nghiên cứu, dựa vào các tài liệu, văn bản những năm 1990 - 2000, tác giả
đưa ra kết luận về các tác động của các tổ chức đến chính sách.
Fay Lomax Cook, Media and Agenda Setting: Effects on the Public,
Interest Group Leaders, Policy Makers, and Policy (Truyền thông và nghị trường:
Ảnh hưởng trong công chúng, các lãnh đạo lợi ích nhóm, các nhà hoạch định
chính sách và chính sách) [138]. Bài viết khảo sát tác động của các phương tiện
truyền thông lên công chúng, các nhà lãnh đạo lợi ích nhóm, các nhà hoạch định
chính sách và chính sách công. Kết quả cho thấy truyền thông có ảnh hưởng quan
trọng đến quan điểm về các vấn đề giữa công chúng nói chung với các những
người làm chính sách ở chính phủ. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, sự
phản hồi trong dư luận không dẫn đến sự thay đổi trong chính sách tiếp theo. Thay
vào đó, chính sách thay đổi là kết quả sự hợp tác giữa các nhà báo và nhân viên
chính phủ.
30
Hugh A. Bone (1958), Political Parties and Pressure Group Politics (Các
đảng chính trị và các nhóm áp lực chính trị) [142]. Bài viết khẳng định các đảng
chính trị và các nhóm gây áp lực chính trị có sự phụ thuộc lẫn nhau. Các nhóm
lợi ích tìm thấy ở các đảng chính trị cách thức để tiếp cận với những người trong
cơ quan công quyền, trong khi đó, các đảng chính trị cần đến nhóm lợi ích trong
các cuộc tranh cử để đảm bảo quyền lực. Chính cấu trúc của đảng và bản chất
của hệ thống liên bang đã nuôi dưỡng mối quan hệ này. Các nhóm lợi ích tham
gia cả bầu cử sơ bộ trong đảng và cả bầu cử giữa các đảng thông qua ứng cử viên
mà họ ủng hộ, cung cấp cho những người này kinh phí cho chiến dịch bầu cử và
tham gia vào các hoạt động của chiến dịch này. Cả hai bên đôi khi tìm cách thâm
nhập vào nhau nhưng hiếm khi có nhóm lợi ích nào đó kiểm soát được hoàn toàn
một tổ chức đảng.
Seth Binder, Eric Neumayer (2005), Environmental pressure group
strength and air pollution: An empirical analysis (Một phân tích thực nghiệm về
sức mạnh của nhóm gây áp lực về môi trường và ô nhiễm không khí) [146]. Bài
viết khẳng định các nhóm lợi ích về môi trường có ảnh hưởng thực sự đến mức độ
ô nhiễm. Các tác giả cung cấp hệ thống các kiểm tra định lượng chứng minh sức
mạnh của các tổ chức phi chính phủ về môi trường (ENGOs) về mức độ ô nhiễm
môi trường. Do đó, tăng cường các ENGO là một chiến lược quan trọng mà các
nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế và các bên liên quan sử dụng để cố gắng giảm mức
độ ô nhiễm môi trường trên toàn thế giới.
Douglas K. Stevenson, Cuộc sống và các thể chế ở Mỹ [16]. Cuốn sách
trình bày về chính trị ở Mỹ, trong đó có phần tác giả phân tích về các nhóm đặc
quyền đặc lợi ở Mỹ. Tác giả khẳng định:
Người Mỹ luôn quan tâm đến việc các chính trị gia đại diện cho lợi ích
của họ thường lập nên các “nhóm áp lực”, vận động hành lang chính trị,
ủy ban hành động công chúng (PACs), hay các nhóm lợi ích đặc biệt
(SIGs). Các nhóm này tìm cách gây ảnh hưởng đối với các chính trị gia
về hầu hết mọi vấn đề [16, tr.89].
31
Từ đó, tác giả lấy ví dụ và phân tích ra một số nhóm lợi ích ở Mỹ.
Alexis De Tocqueville, Nền dân trị Mỹ [3]. Tác giả dành chương V, VI, VII
để bàn về cách thức người Mỹ sử dụng hình thức hiệp hội - đoàn thể trong đời sống
dân sự; về mối quan hệ giữa các hiệp hội với báo chí; quan hệ giữa hiệp hội dân sự
với hiệp hội chính trị. Trong đó, tác giả chỉ bàn đến những hiệp hội - đoàn thể được
hình thành trong đời sống dân sự và không có tính chất chính trị. Nói về tầm quan
trọng và sự ra đời của các hiệp hội, tác giả khẳng định, trong các xã hội quý tộc trị,
con người không có nhu cầu kết hội bởi trong xã hội này có một nhóm nhỏ công
dân rất giàu có và có thế lực, có khả năng tự mình làm nên những công trình lớn.
Mỗi công dân giàu có và có thế lực này đứng đầu một “hiệp hội” tồn tại thường
xuyên và bắt buộc, gồm tất cả những ai lệ thuộc vào người công dân này và buộc
phải thực hiện các ý đồ của anh ta. Trong các quốc gia dân trị thì khác, mọi công
dân đều độc lập và không có thế lực gì cả. Vì thế họ không thể tồn tại nếu không
biết cách tự do giúp đỡ lẫn nhau. Hiệp hội giúp cho việc điều hành kinh tế, chính trị,
xã hội của chính quyền được tốt hơn. Tác giả khẳng định: “Tại các nước dân chủ,
khoa học về sự kết hội và lập hội là khoa học mẹ; sự tiến bộ của các khoa học khác
tùy thuộc vào những tiến bộ của “bà mẹ” này” [3, tr.178]. Trong sự tồn tại và ra đời
của hiệp hội, báo chí giữ một vai trò quan trọng, nó là phương tiện để các thành
viên trong hiệp hội có thể “tìm đến” với nhau cũng như giúp họ thống nhất hành
động. Trong mối quan hệ với hiệp hội chính trị, “hiệp hội dân sự tạo điều kiện dễ
dàng cho những hiệp hội chính trị; nhưng một mặt khác, hiệp hội chính trị lại đặc
biệt giúp cho việc phát triển và hoàn thiện hiệp hội dân sự” [3, tr.184].
1.3. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
NHỮNG NỘI DUNG MỚI MÀ LUẬN ÁN THỰC HIỆN
1.3.1. Giá trị của các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Một là, các công trình, bài viết của các tác giả nêu trên đã trình bày được
những vấn đề về lợi ích và vai trò của lợi ích đối với sự phát triển của xã hội, trong
đó khẳng định lợi ích là động lực cho sự phát triển. Các tác giả đã phân tích quan
niệm, bản chất, nguồn gốc, phân loại lợi ích, bao gồm cả quan điểm của các nhà
32
kinh điển Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và quan điểm
của các tác giả về vấn đề lợi ích. Các tác giả cũng đã trình bày rất sâu sắc về mối
quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Hai là, các nghiên cứu trên cũng đã chỉ ra phân tích các vấn đề về lợi ích
nhóm, nhóm lợi ích như quan niệm, bản chất, nguồn gốc, phân loại lợi ích nhóm;
phân biệt lợi ích nhóm và nhóm lợi ích; lịch sử và hoạt động của các nhóm lợi ích
ở một số nước trên thế giới như Mỹ và các nước phương Tây. Các góc độ khác
của nhóm lợi ích cũng được đề cập đến trong các mối quan hệ với vận động hành
lang, với các đảng chính trị, với nhà nước, xã hội dân sự... Các tác giả khẳng định
lợi ích nhóm vừa có tác động tiêu cực, vừa có tác động tích cực đến sự phát triển
của xã hội, từ đó, đưa ra phương thức để kiểm soát lợi ích nhóm.
Ba là, các công trình nghiên cứu nêu trên đã có những đóng góp quan trọng
cả về mặt lý luận và thực tiễn về các vấn đề xoay quanh lợi ích nhóm ở Việt Nam.
Trong đó, các tác giả đã chỉ ra các nhóm lợi ích đang hoạt động ở Việt Nam bao
gồm cả lợi ích nhóm hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật và cả lợi ích nhóm
hoạt động ngầm, tác động tích cực của lợi ích nhóm và cả tác động tiêu cực của nó
đến sự phát triển của đất nước. Các vấn đề đưa ra được phân tích khá sâu sắc như
lợi ích nhóm với tham nhũng, lợi ích nhóm và công tác tổ chức cán bộ, lợi ích
nhóm và đảng cầm quyền, lợi ích nhóm với vấn đề tham nhũng... Từ đó, các tác
giả cũng đề xuất được các giải pháp để phát huy tính tích cực và hạn chế tính tiêu
cực của lợi ích nhóm ở Việt Nam hiện nay.
1.3.2. Hạn chế của các công trình nghiên cứu
Một là, mặc dù đã có một số nghiên cứu về vấn đề lợi ích nhóm nhưng do
mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau nên đa số khai thác một vài khía
cạnh của vấn đề như lợi ích nhóm với vấn đề công bằng xã hội, lợi ích nhóm với
vấn đề tham nhũng; lợi ích nhóm với hoạch định chính sách, lợi ích nhóm với
công tác tổ chức, cán bộ... Hoặc các công trình nêu trên phân tích lợi ích nhóm
trong những lĩnh vực cụ thể thường là dưới góc độ kinh tế học trong một số lĩnh
vực kinh tế có biểu hiện của lợi ích nhóm. Nhiều công trình (đặc biệt là các bài
viết trên Internet) thường hay đề cập đến lợi ích nhóm dưới góc nhìn tiêu cực.
33
Hai là, các bài viết, công trình nêu trên tuy đã đề cập đến ảnh hưởng của
lợi ích nhóm đến một số mặt của chủ nghĩa xã hội như đảng cầm quyền, công tác
cán bộ; chỉ ra được hậu quả của sự ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm đến
niềm tin của nhân dân vào chủ nghĩa xã hội, đến sự tồn vong của chế độ xã hội
chủ nghĩa... nhưng chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu một cách toàn
diện lợi ích nhóm như một yếu tố ảnh hưởng đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới.
Ba là, chưa có tác giả, công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống
dưới góc độ chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề lợi ích nhóm ở
Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đây là một trong những khoảng trống cần được bổ
sung nhằm góp phần nghiên cứu về vấn đề lợi ích nhóm ở Việt Nam hiện nay.
1.3.3. Những nội dung mới luận án cần thực hiện
Một là, hệ thống hóa về khái niệm, bản chất, nguồn gốc, phân loại lợi ích
nhóm và hoạt động của các nhóm lợi ích trên thế giới. Đây là nội dung quan trọng
cung cấp cơ sở lý luận để nghiên cứu về lợi ích nhóm nói chung và tác động của
lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới nói riêng.
Hai là, từ sự phân tích hiện trạng, luận án chỉ ra những ảnh hưởng tích cực
và ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới.
Ba là, thông qua các vấn đề đặt ra của Việt Nam và một số kinh nghiệm
của các nước trong việc kiểm soát lợi ích nhóm, đề xuất các phương hướng và giải
pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích
nhóm đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
34
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH NHÓM
VÀ LỢI ÍCH NHÓM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM, CÁCH PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA LỢI ÍCH
2.1.1. Khái niệm lợi ích
Từ thực tiễn lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu cơ sở hình thành
lợi ích, mối quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội và vai trò của nó đối
với sự phát triển của lịch sử. Trong một số tác phẩm như Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844, Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ lợi ích chính là mục tiêu, là động lực hoạt động của con người, là bản
chất con người, tính người. Theo C.Mác thì phạm trù lợi ích, có ích, có lợi được
sử dụng như nhau. Lợi ích không phải là một cái gì đó trừu tượng mà có tính chất
chủ quan, cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách quan của con người. Nó vừa tồn tại
dưới hình thái vật thể, vừa là quan hệ xã hội. Nhưng cái sản phẩm ấy chỉ trở thành
lợi ích khi nó thuộc về sở hữu của người nào đó, liên quan và có thể thoả mãn nhu
cầu nào đó, được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau. Người ta quan hệ với
nhau, trao đổi tính người cho nhau chính là thông qua sản xuất và trao đổi sản
phẩm của quá trình sản xuất ấy. Theo quan điểm trên thì lợi ích là cái mang quan
hệ xã hội. Do vậy, việc nhận thức quan hệ xã hội mà thiếu lợi ích thì về cơ bản,
nhận thức đó vẫn chỉ mang tính trừu tượng [14, tr.89].
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Lợi ích là một trong những động
lực quan trọng trực tiếp thúc đẩy hành động của con người nhằm thỏa mãn nhu
cầu cá nhân, gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc và xã hội” [115, tr.747].
Từ điển Triết học cho rằng:
Lợi ích - khái niệm nói lên đặc điểm của cái có ý nghĩa khách quan cần
thiết cho cá nhân, gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung
Lợi ích không phải là sản phẩm của ý thức và của ý chí cá nhân, mà là
sản phẩm của những điều kiện xã hội khách quan, quyết định phương
hướng thích hợp của ý chí và hành động của con người [118, tr.333].
35
Như vậy, lợi ích, xét đến cùng, chính là mục tiêu, động lực, phương thức để
thực hiện nhu cầu trong hoạt động thực tiễn, nhất là trong quan hệ xã hội, trong
đấu tranh xã hội.
2.1.2. Phân loại lợi ích
Có nhiều cách để phân loại lợi ích như sau:
Căn cứ vào các lĩnh vực biểu hiện trong xã hội: có lợi ích kinh tế, lợi ích
văn hóa, lợi ích chính trị Nói một cách khái quát hơn là lợi ích vật chất và lợi
ích tinh thần.
Căn cứ vào phạm vi thể hiện trong cộng đồng, có lợi ích riêng và lợi ích
chung, cụ thể hơn có thể là lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích tập thể, lợi ích
giai cấp
Căn cứ vào thời gian tồn tại có lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
Căn cứ vào tầm quan trọng có lợi ích căn bản và lợi ích không căn bản.
Căn cứ vào tính chất có lợi ích chính đáng và lợi ích không chính đáng.
Các cách phân loại trên đều mang tính tương đối. Bởi trên thực tế, các dạng
thức lợi ích này luôn tồn tại đan xen, tác động qua lại trong các chủ thể lợi ích.
Nghĩa là, quan hệ lợi ích là quan hệ nhiều thứ bậc, nhiều cấp độ, nhiều tầng nấc,
nhiều chiều cạnh và mang những tính chất khác nhau. Xét theo cách phân chia
trên, lợi ích nhóm nằm trong mối quan hệ với lợi ích riêng và lợi ích chung. Hơn
nữa, trong xã hội, không có lợi ích chung chung, trừu tượng bên ngoài con người
cụ thể mà lợi ích luôn gắn liền với những cá nhân, những tập đoàn người, giai cấp
hay cộng đồng xã hội nhất định. Vì vậy, việc nghiên cứu lợi ích nhóm cần phải đề
cập đến những mối quan hệ với lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích cá nhân và
lợi ích tập thể.
Lợi ích riêng hay lợi ích cá nhân là phạm trù phản ánh lợi ích của một cá
nhân cụ thể trong xã hội. Nó tạo thành mục đích, hay động cơ thúc đẩy tính tích
cực hoạt động của mỗi cá nhân trong xã hội.
Lợi ích cá nhân thường mang tính ích kỷ. Cá nhân có xu hướng củng cố,
tăng cường lợi ích của mình bằng những hình thức khác nhau. Mặc dù mang tính
ích kỷ song lợi ích cá nhân và những hoạt động thực hiện lợi ích cá nhân có thể là
36
cơ sở để hình thành lợi ích chung. Theo C.Mác, trong quá trình hoạt động thực
hiện lợi ích riêng, dù ý thức hay không ý thức được, các cá nhân cũng tạo ra lợi
ích chung, đóng góp cho lợi ích chung. Ông viết:
Sức mạnh duy nhất ràng buộc họ với nhau và đặt họ quan hệ với nhau
là lòng vị kỷ, là điều lợi riêng, là lợi ích tư nhân. Nhưng vì mỗi người
chỉ lo cho mình và không ai lo cho người khác, cho nên tất cả bọn họ,
do một sự nhịp nhàng đã định trước của sự vật, hay do sự che chở của
một Thượng đế rất khôn khéo, đều chỉ làm một công việc có lợi cho
cả hai bên, cho điều lợi chung, cho lợi ích chung [11, tr.263].
Lợi ích chung hay lợi ích tập thể là lợi ích có quan hệ tới ít nhất từ hai cá
nhân trở lên. Nó là sự liên kết các lợi ích riêng để cùng đạt đến một mục tiêu
chung. Lợi ích chung có nhiều mức độ: lợi ích chung của nhóm, lợi ích chung của
tập thể, lợi ích chung của xã hội. Nhà nước là chủ thể được ủy quyền để duy trì lợi
ích chung của xã hội mà trong đó lợi ích riêng của cá nhân được bảo đảm. C.Mác
cho rằng: “Lợi ích chung, và việc bảo tồn những lợi ích đặc thù ở trong đó, là mục
đích của nhà nước” [7, tr.329]. Như vậy, mục đích của nhà nước không chỉ duy trì,
điều tiết lợi ích chung mà còn là bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho sự tồn tại
của những lợi ích của cá nhân, lợi ích của các nhóm dân cư và các giai tầng xã hội.
Chỉ khi đó, nhà nước mới tồn tại với đúng chức năng của mình.
Với tính cách là mục tiêu, mục đích chung của cộng đồng xã hội; lợi ích
chung và việc cùng hoạt động thực hiện lợi ích chung tạo ra sự thống nhất trong
hoạt động của các cá nhân, tạo ra hợp lực chung. Ph.Ăngghen viết: “Ở đâu không
có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và càng không
thể có sự thống nhất về hành động được” [10, tr.21].
2.1.3. Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội
Từ điển Bách khoa Việt Nam viết: “Lợi ích là nguyên nhân thật sự, căn bản
của hoạt động lịch sử và hành vi xã hội của con người. Lợi ích được con người ý
thức trở thành động cơ tư tưởng của hoạt động thực tiễn có mục đích”. Những lợi
ích của các chủ thể vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau, tạo nên động lực cơ
bản thúc đẩy xã hội phát triển, thể hiện ở chỗ:
37
Thứ nhất, lợi ích là động lực thúc đẩy sự phát triển theo hướng xã hội hóa.
Theo Mác, Ăngghen, mỗi cá nhân đều chỉ theo đuổi những lợi ích của mình
nhưng muốn vậy, họ phải tham gia vào các quan hệ xã hội, qua đó tạo ra một
phương thức hợp tác theo những cách thức nhất định, tạo thành “sức sản xuất”
mới. Động lực sâu xa thúc đẩy con người hoạt động chính là lợi ích. Khi nói về
vai trò của lợi ích, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng lợi ích là cái liên kết các thành
viên trong xã hội, nó được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau, làm cơ sở
cho việc xác lập các quan hệ giữa họ. V.I.Lênin cũng cho rằng, cần “tìm nguồn
gốc của những hiện tượng xã hội ở trong những quan hệ sản xuất, và phải quy
những hiện tượng ấy vào lợi ích của những giai cấp nhất định” [126, tr.670]. Theo
các ông, hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội suy cho cùng đều nhằm tìm kiếm
lợi ích hoặc những điều kiện để thực hiện những lợi ích khác nhau. Bắt đầu từ cái
cá nhân nhưng tính chất xã hội của hoạt động lại là điều kiện để thực hiện lợi ích
và bao hàm trong mục đích xã hội.
Trước đó, Adam Smith (1723 - 1790), nhà kinh tế chính trị học người Anh
cũng khẳng định vai trò của lợi ích. Ông cho rằng, trong nền kinh tế thị trường tự
do, mỗi cá nhân theo đuổi một mối quan tâm và lợi ích riêng của cá nhân mình, và
chính các hành động của những cá nhân này lại có xu hướng thúc đẩy nhiều hơn
và củng cố lợi ích cho toàn cộng đồng thông qua một "bàn tay vô hình". Ông lý
giải rằng, mỗi một cá nhân đều muốn thu lợi lớn nhất cho mình sẽ tối đa hóa lợi
ích của cả cộng đồng, điều này giống như việc cộng toàn bộ tất cả các lợi ích của
từng cá nhân lại. Ý tưởng cốt lõi trong lý thuyết của Smith là con người có thiên
hướng theo đuổi lợi ích cá nhân và chính điều này dẫn đến sự giàu có của xã hội.
Như vậy, sự theo đuổi lợi ích của mỗi con người tuy được cắt nghĩa khác
nhau về tính chất, nhưng các nhà kinh điển đều thừa nhận xu thế xã hội hóa của
lợi ích. Xu thế xã hội hóa này chính là yếu tố tác động tích cực đến sự phát triển
của chủ nghĩa xã hội. Thực tế là, chính chủ nghĩa tư bản, trong quá trình phát
triển, luôn phải tìm cách điều chỉnh để vượt qua khủng hoảng, cũng như tìm cách
làm dịu đi những mâu thuẫn nội tại của nó. Điều đó nhiều khi lại khiến cho các
nước tư bản chủ nghĩa tiến gần hơn một bước đến với chủ nghĩa xã hội.
38
Thứ hai, giải quyết những mâu thuẫn lợi ích thông qua nhiều biện pháp
trong đó có cách mạng xã hội là động lực thúc đẩy lịch sử phát triển.
Theo Mác, Ăngghen, động lực của lịch sử là từ các mâu thuẫn xã hội. Mà
mọi mâu thuẫn xã hội, xét đến cùng là mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp, tập
đoàn người, các lực lượng, khuynh hướng xã hội.
Theo quan điểm của các ông, mọi xung đột lịch sử đều bắt nguồn từ mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, biểu hiện ra trong xã hội là
mâu thuẫn giữa giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới, tiến bộ và giai
cấp thống trị đại diện cho quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu. Việc giải quyết vấn đề
lợi ích giữa hai giai cấp đối lập ấy thông qua cách mạng là động lực cho sự
phát triển xã hội.
Mác viết: “Tất cả những gì mà con người đấu tranh để giành lấy đều dính
liền với lợi ích của họ” [7, tr.98].
Trong các cuộc cách mạng xã hội, cải biến xã hội này, lợi ích cũng chính là
động lực của quần chúng nhân dân nhằm thúc đẩy lịch sử phát triển.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quần chúng nhân dân làm cách
mạng bởi họ thấy lợi ích của mình được phản ánh và gắn bó trong lợi ích chung.
Đó cũng là lý do khiến giai cấp thiểu số lôi kéo quần chúng tham gia cách mạng
bằng cách nhân danh lợi ích chung. “Thật ra, mỗi giai cấp mới thay thế cho giai
cấp thống trị trước mình, muốn thực hiện được mục đích của mình, đều nhất thiết
phải biểu hiện lợi ích của bản thân mình thành lợi ích chung của mọi thành viên
trong xã hội” [9, tr.68-69]. Tuy nhiên, sự thống nhất lợi ích trong các nhà nước
còn tồn tại đối kháng giai cấp chỉ là tạm thời. Sau khi cách mạng thành công, giai
cấp thống trị mới lại nhanh chóng biến lợi ích chung thành lợi ích riêng của giai
cấp mình.
Mác chỉ ra rằng trong mọi chế độ còn phân chia giai cấp thì “lợi ích chung”
chỉ mang tính chất của “cái chung ảo ảnh, giả tạo”, bởi vì lợi ích của “toàn thể xã
hội” thực chất chỉ là biểu tượng cho lợi ích của giai cấp thống trị, còn nhà nước là
công cụ để bảo vệ và thực hiện các lợi ích của nhóm thống trị đó. Chỉ có trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa, lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích
39
của quần chúng nhân dân lao động thì mới giải quyết được triệt để vấn đề đối
kháng về lợi ích giữa các giai cấp trong xã hội.
2.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH NHÓM
Lợi ích nhóm là một thực tại khách quan tồn tại trong đời sống xã hội loài
người. Khái niệm lợi ích nhóm cũng đã xuất hiện từ lâu trong đời sống chính trị -
xã hội ở Mỹ và các nước phương Tây. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, lợi
ích nhóm được nhắc đến khá nhiều nhưng vì một số lý do mà lợi ích và lợi ích
nhóm hay được xem xét dưới góc độ tiêu cực. Vì vậy, cần nhận thức về nguồn
gốc, bản chất của lợi ích nhóm một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan để thấy
được cả mặt tích cực và tiêu cực của nó. Từ đây, mới tìm hiểu được thực trạng ảnh
hưởng, phương hướng và kiến nghị phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
2.2.1. Khái niệm, bản chất, nguồn gốc, phân loại lợi ích nhóm và ảnh
hưởng của lợi ích nhóm đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội
2.2.1.1. Khái niệm và bản chất của lợi ích nhóm
Lợi ích nhóm trước tiên liên quan tới nhóm xã hội - hình thái biểu hiện bên
ngoài của nó. Nhóm có thể hiểu là một mô hình tổ chức bao gồm hai hay nhiều cá
nhân, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được mục tiêu cụ thể. Các nhóm
có thể là nhóm chính thức hoặc nhóm không chính thức. Nhóm chính thức là
nhóm thực hiện những công việc cụ thể theo cơ cấu tổ chức. Trong các nhóm
chính thức, mục tiêu của tổ chức là cơ sở thúc đẩy và định hướng các hoạt động cá
nhân. Nhóm không chính thức là sự liên minh giữa các cá nhân được hình thành
không phụ thuộc vào cơ cấu cũng như mục tiêu của tổ chức.
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa nhóm xã hội là:
Khái niệm xã hội học chỉ một tập hợp người liên kết với nhau bởi
các dấu hiệu hình thức hoặc bản chất, được điều chỉnh bởi những
thiết chế có những giá trị chung, và ít nhiều biệt lập với các tập hợp
người khác. Nó nói lên những đặc trưng chung của các cộng đồng từ
nhỏ đến lớn. Theo số lượng các thành viên và điều kiện tác động lẫn
40
nhau trong nhóm, các nhóm xã hội được chia làm nhóm nhỏ và nhóm
lớn. Nhóm lớn là nhóm người liên kết nhau bởi điều kiện khách quan
chung, xác định sự tồn tại của họ một cách vững chắc như giai cấp,
tầng lớp, dân tộc, đảng chính trị, nghề nghiệp, thể thao, thanh niên,
các hiệp hội Nhóm nhỏ là nhóm người tồn tại trong khoảng không
gian và thời gian chung, được liên kết bởi các quan hệ thực tế của các
thành viên của nhóm, thực hiện trên cơ sở giao tiếp như các đội sản
xuất, lớp học, gia đình, nhóm bạn bè. ...g tác giáo dục
chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp gắn với thực hiện tốt việc học
tập, làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Kiên
quyết, kịp thời đấu tranh chống những biểu hiện cơ hội, những quan điểm sai trái
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Chú trọng chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ
chốt các cấp, các ngành. Đổi mới phương pháp đánh giá cán bộ, quy trình
tuyển chọn, đào tạo, đề bạt, luân chuyển cán bộ. Tăng cường dân chủ trong
Đảng và trong nhân dân, có cơ chế cụ thể để phát huy quyền kiểm tra, giám
sát, đánh giá cán bộ, đảng viên của các tổ chức và nhân dân. Thực hiện
nghiêm túc, đầy đủ các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, tiếp tục đẩy
mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương
4 khóa XI. Trong sinh hoạt đảng, cần tập trung đấu tranh chống tư tưởng cơ
hội, thực dụng cùng những biểu hiện suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Các cấp ủy đảng cần có cơ chế tổ chức, giám sát, kiểm tra để mỗi đảng
viên không ngừng tự học tập, tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân, nâng cao trình độ
lý luận, nhận thức và phẩm chất đạo đức cán bộ. Đảng viên cần đi sâu vào quần
chúng nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, giải thích cho dân hiểu bản chất, biểu
hiện của kẻ cơ hội, động viên nhân dân tích cực đấu tranh. Cần chú trọng chất
lượng, không chạy theo số lượng trong công tác phát triển đảng viên mới.
Cần có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền,
chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương như Đại hội XI
của Đảng chỉ ra, cho dù họ ở bất cứ cương vị nào. Lênin đã từng nhắc nhở:
"Điều rất cần thiết hiện nay là, về mặt tổ chức, phải hoàn toàn tách hẳn những
phần tử cơ hội chủ nghĩa ấy ra khỏi các đảng công nhân" [132, tr.327] dù cho
bản thân đảng có "phải tạm thời chịu đau đớn kịch liệt đi nữa" [133, tr.154].
147
Thực hiện thường xuyên phê bình và tự phê bình. Bản chất, mục đích của
phê bình và tự phê bình là xây dựng Đảng. Có thái độ thành khẩn, trung thực, tôn
trọng sự thật, lẽ phải, không giấu giếm, bao che, thổi phồng hoặc bóp méo sự thật.
Tăng cường hiệu quả công tác bảo vệ Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư
tưởng và tổ chức, chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ góp phần phát hiện,
ngăn chặn kịp thời và đưa những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng.
Xây dựng và hoàn chỉnh các chế độ quản lý cán bộ, đảng viên, trước hết là
đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Sự lỏng lẻo, dễ dãi trong quản lý mối quan
hệ xã hội, nhất là mối quan hệ của cán bộ lãnh đạo, quản lý với giới kinh doanh
hiện nay là mảnh đất màu mỡ cho sự lôi kéo, làm quen, cấu kết giữa người có
chức, có quyền với giới kinh doanh, hình thành những nhóm lợi ích bất chính,
ảnh hưởng xấu đến sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, cần xây dựng chế độ quản lý
bảo đảm kiểm soát chặt chẽ mối quan hệ giữa cán bộ lãnh đạo, quản lý với giới
kinh doanh.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Từ các phân tích về phương hướng, giải pháp để phát huy ảnh hưởng
tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực ở Việt Nam hiện nay, có thể rút ra một
số kết luận:
Một là, phương hướng để phát huy tính tích cực và hạn chế tính tiêu cực
của lợi ích nhóm ở Việt Nam hiện nay phải đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa từ nhận thức đến thực tiễn. Trong đó, cần chú trọng đến vai trò của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các đoàn
thể chính trị - xã hội đặc biệt là vai trò của nhân dân.
Hai là, giải pháp để phát huy tính tích cực và hạn chế tính tiêu cực của lợi
ích nhóm ở nước ta hiện nay phải bắt đầu từ nhận thức đến việc xây dựng cơ chế
chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật; công tác tổ chức, cán bộ và sự cần
thiết phải gắn cuộc đấu tranh chống tham nhũng với việc phòng, chống lợi ích
nhóm tiêu cực.
148
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu mà chúng ta hướng tới, là định hướng chung
cho việc xác định đâu là lợi ích nhóm tích cực, đâu là lợi ích nhóm tiêu cực,
cũng là cơ sở cho việc đưa ra phương hướng và kiến nghị nhằm phát huy tính
tích cực và hạn chế tính tiêu cực của lợi ích nhóm. Muốn vậy, trong ứng xử với
lợi ích nhóm cần đảm bảo nguyên tắc: đảm bảo sự lãnh đạo bền vững, lâu dài
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội; dựa trên cơ sở nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, làm phong phú thêm những tư tưởng ấy
bằng những kinh nghiệm quốc tế hiện đại; dựa trên cơ sở văn hóa truyền thống,
dung hợp được và không để dẫn đến xung đột với văn hóa truyền thống dân tộc;
phù hợp với những chuẩn mực quốc tế và xu thế chính trị thế giới hiện nay.
149
KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên, có thể rút ra một số kết luận như sau:
Một là, lợi ích nhóm và nhóm lợi ích là vấn đề đã được nghiên cứu từ
khá lâu ở Mỹ và các nước phương Tây nhưng mới được quan tâm ở Việt Nam
trong những năm gần đây. Tuy nhiên, trong khi các nhà khoa học xem xét lợi
ích nhóm với cả mặt tích cực và mặt tiêu cực thì dư luận lại chủ yếu nhìn nhận
lợi ích nhóm theo nghĩa xấu. Vì vậy, việc thống nhất nhận thức về vấn đề này,
khẳng định lợi ích nhóm tồn tại khách quan trong xã hội với cả những ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một vấn đề hết
sức cần thiết.
Hai là, tuy mới được quan tâm gần đây nhưng xét theo quan niệm về lợi
ích nhóm thì nó đã tồn tại ở nước ta từ lâu. Đảng Cộng sản Việt Nam trong các
văn kiện đại hội trước đây tuy không đề cập trực tiếp đến vấn đề lợi ích nhóm
nhưng đã cảnh báo những biểu hiện liên quan đến nó với các mặt trái như lợi
ích bè phái, lợi ích cục bộ, địa phương, chủ nghĩa cá nhân Bên cạnh đó, các
nhóm lợi ích chính thức như các hội nghề nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội
hay các nhóm lợi ích phi chính thức cũng đã hình thành và phát triển ở nước ta.
Ba là, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam các lợi ích
nhóm tồn tại một cách khách quan và có ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực, góp
phần đảm bảo định hướng chủ nghĩa xã hội nhưng ngược lại, cũng có thể làm
chệch hướng con đường mà chúng ta lựa chọn. Lợi ích nhóm tác động đến
những yếu tố quan trọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như Đảng Cộng sản,
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các giá trị như công bằng, dân chủ, văn minh
Bốn là, trước những ảnh hưởng nêu trên của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, đòi hỏi chúng ta phải có phương hướng, giải pháp để phát
huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nó. Trước hết, việc
150
học hỏi kinh nghiệm của các nước, từ những nước phát triển như phương Tây
hay các nước có trình độ phát triển như nước ta là hết sức cần thiết. Vì những
nước này đã có kinh nghiệm kiểm soát lợi ích nhóm từ lâu với hệ thống pháp
luật và những tình huống xử lý thực tiễn khá phong phú. Bên cạnh đó, cũng cần
căn cứ vào thực tiễn Việt Nam để có những phương hướng, giải pháp cụ thể từ
nhận thức, hoàn thiện hệ thống pháp luật đến công tác tổ chức, cán bộ
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thu Huyền (2014), “Phê phán tính tự phát tiểu tư sản ở Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới”, trong cuốn Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.359-369.
2. Nguyễn Thị Thu Huyền (2014), “Một số giải pháp nâng cao dân trí đồng bào dân
tộc thiểu số”, trong cuốn 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy
Ban chấp hành Trung ương khóa IX về công tác dân tộc và tôn giáo. Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.152-162.
3. Nguyễn Thị Thu Huyền (2015), “Phê phán tính tự phát tiểu tư sản trong đội ngũ cán
bộ, đảng viên ở Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận (135 + 136), tr.14-17.
4. Nguyễn Quốc Phẩm, Nguyễn Thị Thu Huyền (2015), “Chủ nghĩa xã hội hiện thực -
Thành tựu, khủng hoảng và triển vọng”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận
chính trị (3), tr.3-9.
5. Nguyễn Quốc Phẩm, Nguyễn Thị Thu Huyền (2015), “Từ phác thảo của V.I.Lênin
về chủ nghĩa xã hội đến những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, trong
cuốn Phát triển và vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng V.I.Lênin vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.227-237.
6. Nguyễn Thị Thu Huyền (2015), “Tư tưởng của V.I.Lênin về chính sách đối ngoại
và ý nghĩa đối với Việt Nam”, trong cuốn Phát triển và vận dụng sáng tạo di
sản tư tưởng V.I.Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội, tr.498-508.
7. Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), “Tác động của lợi ích nhóm đến nguy cơ đi chệch
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục và xã hội (2),
tr.64-67; 71.
8. Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), “Lợi ích nhóm với vấn đề tham nhũng chính sách ở
Việt Nam hiện nay - Một số biểu hiện và giải pháp phòng ngừa”, Tạp chí Giáo
dục lý luận (243), tr.37-39.
9. Đỗ Thị Thạch, Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), “Một số điểm mới về vấn đề dân
chủ trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Thông tin Lý luận
chính trị, (1), tr.16-19.
10. Đỗ Thị Thạch, Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), “Lựa chọn con đường cứu nước của
Hồ Chí Minh - Cơ sở lý luận, thực tiễn và ý nghĩa hiện nay”, Tạp chí Thông tin
Khoa học chính trị, 02(3), tr.80-83.
11. Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), Vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong việc kiểm soát lợi ích nhóm hiện nay, Tạp chí Cộng
sản điện tử, cập nhật ngày 23/8/2016.
12. Đỗ Thị Thạch, Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), “Nêu cao trách nhiệm người đứng
đầu trong công tác phòng chống tham nhũng theo tinh thần Đại hội XII của
Đảng”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận chính trị (8), tr.17-21.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Lưu Văn An (2010), Vận động hành lang trong đời sống chính trị các nước
phương Tây, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
2. Lưu Văn An (2011), “Vận động hành lang trong đời sống chính trị các nước
phương Tây”, Tạp chí Lý luận chính trị, (8), tr.83-88.
3. Alexis De Tocqueville (1981), Nền dân trị Mỹ, Nxb Tri thức, Hà Nội.
4. Vương Tuấn Anh (2014), Tham nhũng chính sách là loại tham nhũng cực kỳ
nguy hiểm, tại trang [truy cập ngày 5/1/2015].
5. Bộ Nội vụ (2005), Báo cáo tổng kết công tác hội năm 2004, sơ kết thực hiện
Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ, Tài liệu lưu
hành nội bộ, Hà Nội.
6. Lê Bửu (2003), “Vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa”, Tạp chí Khoa học xã hội, (2), tr.45-46.
7. C.Mác, Ph.Ăngghen (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Lê Chi (2013), Tham nhũng qua ”Nhóm thân hữu, tại trang
[truy cập ngày 10/4/2013].
13. Đặng Ngọc Chiến (2003), “Tham gia xây dựng chính sách có hiệu quả là góp
phần quan trọng bảo vệ quyền và lợi ích người lao động”, Tạp chí Lao
động và công đoàn, (275, 276), tr.4-5.
14. Phạm Văn Chung (2006), Triết học Mác về lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
15. Đặng Ngọc Dinh (chủ biên) (2011), Giải quyết xung đột và phòng chống
tham nhũng: Sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự, Nxb Tri thức,
Hà Nội.
153
16. Douglas K. Stevenson (2000), Cuộc sống và các thể chế ở Mỹ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
17. Bùi Đại Dũng (2005), Hiệu quả chi tiêu ngân sách dưới sự tác động của vấn
đề nhóm lợi ích ở một số nước trên thế giới, Luận án Tiến sĩ Kinh tế,
Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Hà Nội.
18. Vũ Dũng (chủ biên) (2012), Thích ứng xã hội của các nhóm xã hội yếu thế ở
nước ta hiện nay, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
19. Vũ Tiến Dũng (2008), “Tạo sự hài hoà về lợi ích giữa công nhân và doanh
nhân ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3), tr.72 - 76
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1959), Báo cáo tại Hội nghị lần thứ 16 (mở rộng)
Ban Chấp hành Trung ương khóa II, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu lần 2 Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ
đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phần
I, tr.137
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/12/2011
của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh
nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Ngô Văn Điểm (2006), “Quản lý nhà nước và mục tiêu bảo đảm hài hòa lợi
ích của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng”, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, (8), tr.13 - 16.
32. Đặng Quang Định (2008), “Quan điểm của triết học Mác về lợi ích với tư
cách động lực của lịch sử”, Tạp chí Triết học, (8), tr.75-80.
33. Đặng Quang Định (2009), “Quan điểm của Đảng về giải quyết vấn đề lợi ích
tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí
Lịch sử Đảng, (2), tr.52-55.
34. Đặng Quang Định (2010), Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông dân
và trí thức ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đặng Quang Định (2012), Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đặng Quang Định (2014), “Lợi ích nhóm với vấn đề tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (2), tr.82 - 85.
37. Mạnh Đức, VnEconomy.vn, ngày 06/06/2011
38. Minh Đức, 60 cán bộ được ông Truyền bổ nhiệm ở “phút 89” hiện giờ ra
sao?, tại trang [truy cập ngày 23/102014].
39. Nguyễn Đình Gấm (2004), “Giải quyết đúng đắn, hài hoà các quan hệ lợi ích
động lực to lớn của sự phát triển kinh tế xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu con
người, (1), tr.52-58.
40. Vũ Văn Gầu (2006), “Hồ Chí Minh nói về lợi ích, về mối quan hệ giữa các
loại lợi ích và thực hiện lợi ích”, Tạp chí Khoa học xã hội, (7), tr.12-18.
41. Nguyễn Văn Giang (2014), “Ảnh hưởng của “lợi ích nhóm” đến sự lãnh đạo
của Đảng cầm quyền”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.83 - 87.
42. Đỗ Huy Hà (chủ biên) (2013), Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá
trình đô thị hoá ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
155
43. Nguyễn Ngọc Hà, Trần Thị Bích Huệ (2014), “Lợi ích nhóm với tính cách
một khái niệm của triết học xã hội”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,
(4), tr.40-46.
44. Nguyễn Ngọc Hà (chủ biên), Lợi ích nhóm và nhóm lợi ích ở Việt Nam hiện nay.
45. Nguyên Hà (2012), Lợi ích nhóm có bao che tham nhũng, tại trang
[truy cập ngày 22/8/2015].
46. Trương Thị Hồng Hà (2008), “Pháp luật về vận động hành lang của một số
nước trên thế giới và một vài gợi ý đối với Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, (7), tr.73-83.
47. Lương Đình Hải (2015), “Tác động của nhóm lợi ích ở Việt Nam hiện nay
của tác giả”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, 4(89).
48. Nguyễn Thị Hằng (2006), “Bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động
trong các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa”, Tạp chí Lao động và xã
hội, (287), tr.2-4.
49. Trần Thị Hằng (2015), Lợi ích nhóm và tham nhũng trong hoạch định chính
sách ở Việt Nam hiện nay, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài
khoa học cấp bộ năm 2014, Hà Nội.
50. Phạm Hạnh, Ngân Giang (2013), Doanh nghiệp thua lỗ, sếp vẫn nhận lương
“khủng”, tại trang: [truy cập ngày 20/7/2015].
51. Trần Bách Hiếu (2009), “Vận động hành lang trong nền chính trị Mỹ và một
số liên hệ tới Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (16), tr.55-62.
52. Trần Bách Hiếu (2009), “Hoạt động vận động hành lang trong quá trình xây
dựng chính sách và pháp luật ở Mỹ”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (2),
tr.23 - 28.
53. Nguyễn Thị Mai Hoa (2013), “Kiểm soát lợi ích nhóm - tiếp cận từ góc độ
giám sát quyền lực nhà nước”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11), tr.67-72.
54. Nguyễn Thị Mai Hoa (2013), “Đảm bảo công bằng xã hội từ góc nhìn nhóm
lợi ích”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (4), tr.58-64.
55. Võ Hải, Nguyễn Hoài (2016), Ông Nguyễn Thiện Nhân: Bổ nhiệm người thân
sai tiêu chuẩn khiến dân mất niềm tin, tại trang vnexpress.net [truy cập
ngày 20/7/2016].
156
56. Vũ Ngọc Hoàng (2015), “Lợi ích nhóm” và “chủ nghĩa tư bản thân hữu” -
Cảnh báo nguy cơ, tại trang www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày
2/6/2015].
57. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2013), Hội thảo
“Nhận diện lợi ích nhóm”, ngày 11/1/2013, Hà Nội.
58. Thái Hải (2016), Kiểm soát xung đột lợi ích, phòng ngừa tham nhũng, tại
trang thanhtra.com.vn, [truy cập ngày 20/5/2016].
59. Trần Thị Bích Huệ (2015), Mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm xã hội trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến
sĩ Triết học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
60. Nguyễn Anh Hùng (2009), “Tìm hiểu các nhóm lợi ích ở Mỹ”, Tạp chí Châu
Mỹ ngày nay, (9), tr.13-20.
61. Nguyễn Thị Lan Hương (2015), “Sự tác động của nhóm lợi ích đến thực hiện
công bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế”, Tạp chí Khoa học xã
hội Việt Nam, 5(90), tr.62-67.
62. Nguyễn Quốc Huy (2008), “Vận động hành lang trong nền chính trị Hoa Kỳ”,
Tạp chí Lý luận chính trị, (9), tr.83-88.
63. Nguyễn Hữu Khiển (2011), “Nhóm lợi ích và vấn đề chống tham nhũng”,
Tạp chí Triết học, (3), tr.53-59.
64. Nguyễn Hữu Khiển (2015), “Lợi ích nhóm và nhóm lợi ích dưới dạng tham
nhũng”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, 12(97).
65. Nguyễn Linh Khiếu (1999), Lợi ích động lực phát triển xã hội, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
66. Nguyễn Linh Khiếu (2002), Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
67. Đỗ Thiên Kính (2012), Hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay (Qua
những cuộc điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2002 - 2004 - 2006 -
2008), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
157
68. Vũ Ngọc Lân (2013), “Lợi ích nhóm và phòng, chống tham nhũng”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, (6), tr.50-51, 61.
69. Lê Hồng Liêm (chủ biên) (2014), Nghiên cứu mối quan hệ không bình thường
giữa một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền với các doanh
nghiệp để trục lợi: Sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Linh Linh (2014), Cổ phần hóa vấp nhóm lợi ích, tại trang
thoibaonganhang.vn, [truy cập ngày 11/7/2014].
71. Káp Long, Hải Sâm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Kiên quyết ngăn chặn lợi ích
nhóm, tại trang [truy cập ngày 4/12/2012].
72. Hoàng Văn Luân (2015), Nhóm lợi ích và xung đột lợi ích trong phát triển,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
73. Lê Quốc Lý (chủ biên) (2014), Lợi ích nhóm - thực trạng và giải pháp, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Hồng Minh (2013), Lợi ích nhóm - một dạng tham nhũng đặc biệt, tại trang
[truy cập ngày 26/6/2013].
78. Phạm Thành Nam, Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy dân chủ trong đấu tranh
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
79. Lê Hoàng Nga (2007), “Cổ phiếu hoá doanh nghiệp nhà nước và lợi ích người
lao động”, Tạp chí Ngân hàng, (17), tr.30-33.
80. Ngô Nguyên (2014), “Xé rào” bán đất, hợp thức hóa sai phạm”, Báo Hà Nội
mới, ngày 28, 29/11.
81. Nguyễn An Nguyên (2006), Thuần dưỡng các nhóm lợi ích, tại trang
[truy cập ngày 5/3/2015].
82. Trần Quang Nhiếp (2005), Nâng cao hiệu quả của báo chí trong đấu tranh
chống quan liêu tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
158
83. Nguyễn An Ninh (2007), Về triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong hai thập
niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Nguyễn An Ninh (2010), Những nhân tố mới tác động đến triển vọng của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Nguyễn An Ninh (2012), Về mô hình chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI của khu
vực Mỹ Latinh hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Tổ chức hợp tác kỹ
thuật Đức (GTZ) (2007), Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam với vai trò vận
động chính sách - Vẫn có thể làm tốt hơn rất nhiều, Tài liệu lưu hành nội
bộ, Hà Nội.
87. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Đại sứ quán Vương
quốc Anh, Ukaid, USAID (2011), Năng lực hoạt động của các hiệp hội
doanh nghiệp Việt Nam, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
88. Vũ Đình Quân (2009), “Giải pháp khắc phục mâu thuẫn về lợi ích trong quá
trình đô thị hóa nông thôn tại thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa
học chính trị, (5).
89. Quốc hội (2010), Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005; sửa đổi, bổ sung
năm 2007, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Lê Quỳnh (2005), Đấu tranh chống tham nhũng - trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước, xã hội và công dân, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
91. Nguyễn Quỳnh (2013), Petrolimex lỗ nặng, lãnh đạo vẫn nhận lương
“khủng”, tại trang [truy cập ngày 26/7/2015].
92. Trương Tấn Sang (2014), Vì nền độc lập tự do của đất nước, vì sự toàn vẹn
lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, xứng đáng với sự tin cậy và ủy thác
của nhân dân, Tạp chí Cộng sản, (862).
93. Đỗ Ngọc Sơn (2004), “Giải quyết tốt lợi ích nông dân là biện pháp tăng
cường cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân”, Tạp chí
Nông thôn mới, (131), tr.4-12.
94. Nguyễn Danh Sơn (2009), “Lợi ích của nông dân trong đổi mới và phát triển
đất nước”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (8), tr.60-70.
159
95. Võ Kim Sơn (2013), “Vận động hành lang và mâu thuẫn lợi ích trong quá
trình vận động hành lang”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (205), tr.41-46.
96. Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực (chủ biên) (2010), Nhận diện tham nhũng và
các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
97. Nguyễn Đinh Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
98. Tạ Ngọc Tấn (2013), Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
99. Mai Tết, Nguyễn Văn Tuất và Đặng Danh Lợi (2006), Sự vận động, phát
triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Đỗ Thị Thạch, Nguyễn An Ninh (2013), Công đoàn bảo vệ quyền lợi của
người lao động từ tư tưởng Rosa Luxemburg đến kinh nghiệm của Đức
và thực tiễn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
101. Hồ Bá Thâm (2011), Bàn về mâu thuẫn xung đột lợi ích hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
102. Hồ Bá Thâm (chủ biên) (2011), Mâu thuẫn, xung đột lợi ích nhóm - Thực
trạng, xu hướng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
103. Thanh tra Việt Nam, The World Bank (2012), Tham nhũng từ góc nhìn của
người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức, viên chức: Kết quả khảo
sát xã hội học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Tống Đức Thảo, Phan Duy Anh (2015), Mối quan hệ giữa Đảng chính trị và
nhóm lợi ích trong nền chính trị Đức hiện đại, Tạp chí Lý luận chính trị, (3).
105. Ngô Văn Thạo và các cộng sự (2015), Thực trạng xu hướng và giải pháp
phòng, chống “lợi ích nhóm” ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
106. Trần Đăng Thịnh (2013), “Nhóm lợi ích và vận động hành lang: Nhìn từ
nước Mỹ”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (8), tr.62-64.
107. Cao Văn Thông, Đỗ Xuân Tuất (2014), “Nhận diện biểu hiện “Lợi ích
nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ và giải pháp khắc phục”, Tạp chí
Cộng sản, (5), tr.68-72.
160
108. Cao Văn Thống (2016), “Nhận diện “lợi ích nhóm” trong việc ban hành và
tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội và
giải pháp khắc phục”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận chính trị,
(2(15)), tr.49-54.
109. Lê Xuân Thủy (2013), Lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị, Hà Nội.
110. Nguyễn Thị Bích Thủy (2006), “Kết hợp đúng đắn các loại lợi ích trong phát
triển kinh tế - xã hội hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.13 - 16.
111. Lê Văn Toàn (2012), Phân tầng xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
112. Vĩnh Trà, Tham nhũng gia tăng bởi lợi ích nhóm hoành hành, tại trang
vov.vn, [truy cập ngày 23/7/2013].
113. Nguyễn Phương Quỳnh Trang, Stromseth, J. R (2002), Hiệp hội Doanh
nghiệp Việt Nam: Thực trạng, vai trò và hoạt động, Tài liệu lưu hành nội
bộ, Hà Nội.
114. Nguyễn Phú Trọng, Quyết tâm cao, biện pháp quyết liệt nhằm tạo chuyển
biến mới về xây dựng Đảng.
115. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
116. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
117. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2011), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
118. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
119. Nguyễn Kế Tuấn (2013), “Nhóm lợi ích - Yếu tố cản trở quá trình tái cơ cấu
kinh tế”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (190), tr.31-35.
120. Trần Đình Tuấn (2008), “Vận động hành lang ở Mỹ và một số kinh nghiệm
với Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (10), tr.39-40.
121. Vũ Anh Tuấn (2010), “Một số nội dung cơ bản trong luật về đạo đức và tính
minh bạch trong vận động hành lang của Canada”, Tạp chí Thanh tra,
(8), tr.39-40.
161
122. Đỗ Xuân Tuất, Phạm Quang Hưởng và Nguyễn Ngọc Hân (2006), Đảng
Cộng sản Việt Nam với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, Nxb
Lao động, Hà Nội.
123. Phạm Thị Tuý, Trần Đăng Thịnh (2013), “Nhận diện và ứng xử với vấn đề
lợi ích nhóm”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (7), tr.25-27.
124. Đào Trí Úc (2006), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Ủy ban Kinh tế Quốc hội (2012), Báo cáo kinh tế vi mô 2012: Từ bất ổn vĩ
mô đến con đường tái cơ cấu, Nxb Tri thức, Hà Nội.
126. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
127. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 2, Nxb Tiến bộ, M. Mát-xcơ-va.
128. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 5, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
129. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
130. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 11, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
131. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 13, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
132. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
133. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
134. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
135. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
136. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
137. Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
* Tài liệu tiếng Anh
138. Fay Lomax Cook (1983), “Media and Agenda Setting: Effects on the Public,
Interest Group Leaders, Policy Makers, and Policy”, Oxford Journals, (1),
pp. 16-35.
139. Frederick J. Boehmke (2002), “The Effect of Direct Democracy on the Size
and Diversity of State Interest Group Populations”, Journal of Politics, (8).
162
140. Heike Kluver (2011), “Lobbying in coalitions: Interst group influence on
European Union policy-making”, Nufield’s Working Papers Series in
Politics, (2).
141. Heike Kluver (2011), “Biasing polictics? Interest group participation in
European policy-making”, Nufield College, University of Oxford, (9).
142. Hugh A. Bone (1958), “Political Parties and Pressure Group Politics”, The
Annals of the American Academy of Political and Social Science,
(319), pp. 173-183.
143. Maira Martini (2012), “Influence of interest groups on policy - making”, U4
Expert Answer, (6), pp. 335.
144. Pablo T. Spiller and Sanny Liao (2006), “Buy, Lobby or Sue: Interest
Groups’ Participation in Policy Making - A Selective Survey”, NBER
Working Paper, (12209).
145. Paul Burstein and April Liton (2002), The Impact of Political Parties,
Interest Groups, and Social Movement Organizations on Public Policy:
Some Recent Evidence and Theoretical Concerns, Social Forces, (2),
pp. 380-408.
146. Seth Binder, Eric Neumayer (2005), “Environmental pressure group strength
and air pollution: An empirical analysis”, Ecological Economics, (55),
pp. 527 - 538.
147. Thomas L. Brunell (2005), “The Relationship Between Political Parties and
Interest Groups: Explaining Patterns of PAC Contributions to Candidates
for Congress”, Political Research Quarterly, (58), pp. 681-688
148. Thomas J. Dilorenzo (1985), “The origins of antitrust: An interest-group
perspective”, International Review of Law and Economics, (5), pp. 73-90.