HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HOÀNG THU TRANG
ảNH HƯởNG CủA ĐạO ĐứC NHO GIáO ĐốI VớI
ĐờI SốNG TINH THầN CủA NGƯờI VIệT NAM HIệN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HOÀNG THU TRANG
ảNH HƯởNG CủA ĐạO ĐứC NHO GIáO ĐốI VớI
ĐờI SốNG TINH THầN CủA NGƯờI VIệT NAM HIệN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH
164 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 565 | Lượt tải: 6
Tóm tắt tài liệu Luận án Ảnh hưởng của đạo đức nho giáo đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỬ
Mã số: 62 22 03 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN THẾ KIỆT
2. TS. PHAN MẠNH TOÀN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
đúng quy định.
Tác giả
Hoàng Thu Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5
1.1. Những công trình nghiên cứu về Nho giáo, đạo đức Nho giáo Trung Quốc
và Nho giáo, đạo đức Nho giáo ở Việt Nam 5
1.2. Những công trình nghiên cứu về đời sống tinh thần và ảnh hưởng của đạo
đức Nho giáo đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay 10
1.3. Những công trình nghiên cứu về phương hướng và những giải pháp nhằm
phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức
Nho giáo đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay 18
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan đến
đề tài và những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết 21
Chương 2: ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO TRUNG QUỐC VÀ ĐẠO ĐỨC NHO
GIÁO Ở VIỆT NAM 24
2.1. Nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo Trung Quốc 24
2.2. Đạo đức Nho giáo ở Việt Nam 42
Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
NGUYÊN NHÂN 67
3.1. Đời sống tinh thần và phương thức ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối
với đời sống tinh thần ở Việt Nam hiện nay 67
3.2. Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến một số lĩnh vực trong đời sống tinh
thần của người Việt Nam hiện nay 81
3.3. Nguyên nhân dẫn đến ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với một số
lĩnh vực trong đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay 113
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT
HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA
ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG TINH THẦN
CỦA NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY 121
4.1. Phương hướng phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực
của đạo đức Nho giáo trong việc xây dựng đời sống tinh thần của người
Việt Nam hiện nay 121
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong việc xây dựng đời sống tinh
thần của người Việt Nam hiện nay 128
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo là một trong những trào lưu triết học Trung Hoa cổ đại do Khổng
Tử (551 - 479TCN) sáng lập. Nhìn chung, Nho giáo là cả một hệ thống quan niệm
về thế giới, xã hội và con người. Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của Nho giáo là nói
về đạo đức, nhấn mạnh vào đạo đức, cường điệu tác động của đạo đức trong xã hội
và lịch sử, đây có thể coi là một đặc tính cơ bản của Nho giáo.
Nho giáo được du nhập vào nước ta từ những năm cuối trước công nguyên
chủ yếu theo “gót giày” quân xâm lược phương Bắc. Là một học thuyết chính trị,
đạo đức, xã hội lấy con người làm trọng tâm, Nho giáo đã đáp ứng yêu cầu xây
dựng nhà nước phong kiến Việt Nam qua nhiều thế kỷ (từ giữa thế kỷ XV về sau).
Với vị trí, vai trò là hệ tư tưởng, là công cụ cai trị của các triều đại phong kiến Việt
Nam, Nho giáo, đạo đức Nho giáo đã len lỏi, tác động trên tất cả các lĩnh vực từ
kinh tế, chính trị cho đến đời sống tinh thần của người Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã làm cho Nho giáo ở Việt Nam mất đi tư
cách là học thuyết thống trị xã hội, đạo đức Nho giáo không còn giữ vai trò nền tảng
chi phối toàn bộ đời sống tinh thần cùng với sự sụp đổ của chế độ phong kiến Việt
Nam. Từ đó, có những nơi, những lúc người ta đã phủ nhận sạch trơn vai trò của
Nho giáo, đạo đức Nho giáo đối với dân tộc ta và muốn nhanh chóng xóa bỏ nó
hoàn toàn bởi những hệ quả tiêu cực mà nó mang lại trong xã hội cũ như đầu óc gia
trưởng, tư tưởng trọng nam khinh nữ, bệnh gia đình chủ nghĩa Tuy nhiên, trong
xã hội Việt Nam hiện đại, những dư âm của Nho giáo, đạo đức Nho giáo vẫn hiện
hữu trong các quan hệ xã hội, trong ứng xử giữa người với người, trong phong tục,
tập quán, trong nghi thức thờ cúng, trong những tín ngưỡng cổ truyền và vô vàn
những lát cắt khác nhau của đời sống. Đạo đức Nho giáo vẫn có những ảnh hưởng
nhất định trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam hiện nay theo cả hai
hướng tích cực và tiêu cực cho dù người ta có muốn hay không.
Vấn đề nảy sinh ở chỗ, đúng là những hạn chế, tiêu cực trong đạo đức Nho
giáo cần phải được loại bỏ để nó không cản trở sự phát triển của xã hội mới nhưng
những ảnh hưởng tích cực của nó thì cần được lưu giữ và phát huy. Vai trò của đạo
2
đức Nho giáo càng được khẳng định nhất là trong bối cảnh ngày nay khi chúng ta
đang phải đối mặt với những tác động tiêu cực nảy sinh từ mặt trái của thể chế kinh tế
thị trường và quá trình hội nhập đã góp phần làm cho đạo đức xã hội xuống dốc một
cách nghiêm trọng. Không ít vấn đề được xem như đạo lý xưa nay bị đảo lộn khi mà sự
lên ngôi của đồng tiền đã khiến cho tình cảm giữa con người với con người trở thành
một thứ xa xỉ, khi mà cha mẹ bị con cái bạc đãi, đánh đập, khi mà người ta có thể sống
vô cảm, thờ ơ trước nỗi đau của người khác Trước thực trạng đó, nhiều người tỏ ra
nuối tiếc đạo đức Nho giáo.
Không những thế, gần đây, một số nước trong khu vực vốn chịu ảnh hưởng
của lễ giáo đạo Nho như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo do biết khai thác tốt
những ảnh hưởng tích cực của đạo đức Nho giáo đã góp phần tạo nên những bước
phát triển kinh tế vượt bậc càng củng cố thêm sự nuối tiếc ấy. Thực tế, cách làm của
một số nước Châu Á trong việc khai thác những giá trị tích cực của Nho giáo, đạo
đức Nho giáo nhằm xây dựng và phát triển xã hội hiện đại đã trở thành bài học kinh
nghiệm sâu sắc đối với Việt Nam trong việc lựa chọn cách thức ứng xử hợp lý với
Nho giáo nói chung, đạo đức Nho giáo nói riêng.
Với vai trò là nền tảng của hệ tư tưởng phong kiến, Nho giáo đã hết thời từ lâu ở
Việt Nam cũng như ở quê hương của nó. Nhưng với tính cách là giá trị của di sản văn
hóa, nó vẫn không bị lãng quên. Do đó, việc tìm ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu
cực của Nho giáo nói chung, đạo đức Nho giáo nói riêng đối với đời sống tinh thần của
người Việt hiện tại, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy mặt tích cực
hạn chế mặt tiêu cực của nó trong quá trình xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh ở
nước ta hiện nay là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Những suy nghĩ đó
đã thôi thúc tác giả đi vào nghiên cứu đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu của luận án
Góp phần làm rõ nội dung chính của đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó
đến đời sống tinh thần của người Việt Nam, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo
đức Nho giáo trong việc xây dựng đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay.
3
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục tiêu đã nêu trên, luận án sẽ giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Trình bày một cách có hệ thống một số nội dung chủ yếu của đạo đức Nho
giáo Trung Quốc và đạo đức Nho giáo ở Việt Nam.
- Phân tích và làm rõ thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đời
sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của nó.
- Đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng
tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong việc xây dựng đời
sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong
đời sống tinh thần người Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Vì đời sống tinh thần nói chung rất rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Do
vậy, ở đây, luận án chỉ tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo trên ba
lĩnh vực cơ bản trong đời sống tinh thần người Việt Nam hiện nay, cụ thể là: đời sống
chính trị, đời sống pháp luật và đời sống đạo đức.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về
con người và văn hóa, đạo đức, về đời sống tinh thần
- Tiếp thu, kế thừa có chọn lọc và phát triển những giá trị khoa học của một số
công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến nội dung của luận án.
- Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng các phương pháp: phương pháp lịch sử và lôgíc,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp qui nạp và diễn dịch, phương pháp
đối chiếu, so sánh để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà luận án đặt ra.
5. Đóng góp mới của luận án
- Bước đầu làm rõ nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo Trung Quốc và quá
trình du nhập, biến đổi của chúng trong Nho giáo ở Việt Nam trên cơ sở luận giải
những nhân tố tác động đến sự biến đổi ấy.
4
- Phân tích những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của đạo đức Nho giáo
đến một số lĩnh vực cụ thể của đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay như: đời
sống chính trị, đời sống pháp luật, đời sống đạo đức và chỉ ra những nguyên nhân của
của sự ảnh hưởng.
- Đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh
hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong việc xây
dựng đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần vào việc tìm hiểu đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó
với đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay, từ đó đề ra các giải pháp nhằm
phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong
việc xây dựng đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay.
- Luận án cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu,
giảng dạy và học tập môn lịch sử triết học phương Đông ở các trường Đại học, các
Học viện hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 11 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHO GIÁO, ĐẠO ĐỨC NHO
GIÁO TRUNG QUỐC VÀ NHO GIÁO, ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO Ở VIỆT NAM
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình tập trung nghiên cứu về Nho giáo,
đạo đức Nho giáo Trung quốc cũng như Nho giáo, đạo đức Nho giáo ở Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu về vấn đề này chủ yếu tập trung vào việc trình bày
nguồn gốc ra đời của Nho giáo, đạo đức Nho giáo, những yêu cầu cơ bản của đạo
đức Nho giáo Trung Quốc; quá trình du nhập và sự tiếp biến của đạo đức Nho giáo
ở Việt Nam, tiêu biểu có thể kể đến các công trình sau:
- Dưới dạng các cuốn sách chuyên khảo hay tham khảo về Nho giáo và đạo đức
Nho giáo (ở cả Trung Quốc và Việt Nam) của các học giả trong nước có thể kể đến
như: Nho giáo tại Việt Nam [98] của Lê Sỹ Thắng, Bàn về văn hiến Việt Nam [48]
và Nho giáo và phát triển ở Việt Nam [49] của Vũ Khiêu, Nho giáo xưa và nay
[25] của Quang Đạm, Bàn về đạo Nho [123] của Nguyễn Khắc Viện, Một số vấn đề
Nho giáo Việt Nam [20] do Phan Đại Doãn chủ biên, Góp phần tìm hiểu Nho
giáo, nho sỹ, trí thức Việt Nam trước năm 1945 [100] của Chương Thâu, Nho
giáo [56] của Trần Trọng Kim, Sự kế thừa và phát triển đạo đức Nho giáo của Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam [115] của Hoàng Trung Trong đó:
+ Ở cuốn Bàn về văn hiến Việt Nam [48], tác giả Vũ Khiêu đã dành một phần
dung lượng để khái quát mấy nét về nội dung học thuyết của Khổng Tử, trong đó, tác
giả tập trung vào làm rõ quan niệm của Khổng Tử về đạo và đức. Tác giả chỉ rõ, theo
quan niệm của Khổng Tử, đạo chính là năm mối quan hệ: vua tôi, cha con, chồng vợ,
anh em, bè bạn; còn đức bao gồm nhân, trí, dũng - những điều kiện cần thiết để thực
hiện năm mối quan hệ trên. Khổng Tử cũng cho rằng, con người ta có năm quan hệ
tức là ngũ luân, phải biến ngũ luân đó thành tình cảm sâu sắc là nhân và xác định
trách nhiệm của mình với ngũ luân là nghĩa. Nhân nghĩa là lẽ sống của con người, do
đó phải được đặt lên trên cả danh vị và tính mệnh. Nêu ra những nét chung trong học
thuyết Nho giáo của Khổng Tử cũng chính là cơ sở để tác giả phân tích những ảnh
6
hưởng của Nho giáo, đạo đức Nho giáo đối với đời sống tinh thần người Việt Nam từ
trong quá khứ cho tới hiện tại ở những phần tiếp theo của cuốn sách.
+ Tác giả Vũ Khiêu, ở phần I cuốn sách Nho giáo và phát triển ở Việt Nam
[49] đã tập trung vào việc khái quát một cách có hệ thống sự ra đời và phát triển của
Nho giáo, đạo đức Nho giáo trong lịch sử từ hoàn cảnh ra đời, các bước thăng trầm
trên chính quê hương nó tại Trung Quốc cho đến sự du nhập và phát triển của Nho
giáo, đạo đức Nho giáo ở Việt Nam. Tiếp theo đó, tác giả phân tích sự trì trệ của xã
hội Việt Nam cùng quá trình suy thoái của Nho giáo, đạo đức Nho giáo và cuối
cùng là sự thất bại đầy bi kịch của nó ở Việt Nam được đánh dấu bằng sự xâm lược
của thực dân Pháp năm 1858. Thông qua việc nghiên cứu một cách khá hệ thống đó,
tác giả đã cho người đọc một cái nhìn khá toàn diện sự ra đời, phát triển và suy tàn
của Nho giáo, đạo đức Nho giáo ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, đồng thời, tác
giả khẳng định:
trên con đường phát triển, xã hội Việt Nam đã kế thừa rất nhiều
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong đó có sự đóng góp của Nho giáo.
Không thể phủ nhận ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam khi nó đã được
kẻ xâm lược truyền bá suốt 1000 năm và nhất là sau đó đã được Nhà
nước chủ động sử dụng như là hệ tư tưởng chính thống. Tuy nhiên, Nho
giáo là một vấn đề lớn và phức tạp cần được nghiên cứu nghiêm túc và
giải quyết trên cơ sở khoa học, tránh những kết luận cực đoan và vội vã
[49, tr.9-10].
+ Với tác phẩm Bàn về đạo Nho [123], tác giả Nguyễn Khắc Viện đã đi sâu vào
khái quát đặc điểm của Nho giáo, đạo đức Nho giáo cùng với những mặt tích cực và
tiêu cực của nó qua các thời kỳ gắn liền với các triều đại phong kiến và sự thăng trầm
của lịch sử Việt Nam. Ở đây, tác giả cũng nêu lên những điều tâm đắc của mình khi
nghiên cứu về đạo đức Nho giáo với các phạm trù cụ thể như: nhân, lễ, nghĩa. Ông
đánh giá cao tính “vừa phải” trong đạo làm người của Nho giáo và vấn đề “xử thế”
trong mọi tình huống với mọi đối tượng khác nhau khi đưa ra nhận xét “Tôi thích thú
tinh thần có mức độ, ứng xử vừa phải của đạo Nho” [123, tr.89].
+ Trong cuốn Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam [20], các tác giả đã phác
thảo lịch sử phát triển của Nho giáo, đạo đức Nho giáo Việt Nam từ thế kỷ XV
7
đến đầu thế kỷ XX. Thông qua việc nghiên cứu đó, các tác giả khẳng định: ở
Việt Nam, Nho giáo đã truyền nhập vào từ thời Bắc thuộc, trải qua các triều đại
phong kiến Lý, Trần, Nho giáo, đạo đức Nho giáo ngày càng có ảnh hưởng sâu
trong xã hội. Đặc biệt, các tác giả cũng cho rằng, Nho giáo khi được du nhập vào
Việt Nam được các nhà nho Việt Nam khai thác chủ yếu ở khía cạnh luân lý đạo
đức, các yêu cầu, phạm trù đạo đức mà Nho giáo đưa ra trong các mối quan hệ
xã hội nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Ở phần 1 trong chương 1 của cuốn sách Sự kế thừa và phát triển đạo đức
Nho giáo của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam [115], tác giả
Hoàng Trung đã chỉ ra những nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo. Tác giả cho
rằng, nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo là luân thường, cụ thể luân có năm
điều chính gọi là Ngũ luân dùng để chỉ các quan hệ xã hội của con người: vua tôi,
cha con, chồng vợ, anh em, bầu bạn. Trong đó, có 3 mối quan hệ cơ bản nhất gọi là
Tam cương: vua tôi, cha con, chồng vợ. Thường cũng có năm điều chính gọi là Ngũ
thường, bao gồm: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Sau đó tác giả đi vào luận giải từng phẩm
chất đạo đức cụ thể trong quan niệm Nho giáo và chủ yếu dừng lại ở tư tưởng của
Khổng Tử và Mạnh Tử
- Một số công trình nghiên cứu của các học giả Trung Quốc về Nho giáo, đạo
đức Nho giáo dưới dạng những cuốn sách chuyên khảo được dịch ra tiếng Việt trong
những năm trở lại đây cũng cho chúng ta một cái nhìn khá toàn diện về nội dung cơ
bản trong những quan niệm đạo đức Nho giáo. Đồng thời, các công trình này cũng đưa
ra những đánh giá về mặt tích cực và tiêu cực của đạo đức Nho giáo theo ý kiến riêng
của từng tác giả căn cứ vào góc độ nghiên cứu khác nhau ở cùng một vấn đề. Tiêu biểu
có thể kể đến các công trình như: Bàn về Khổng Tử [87] của Quan Phong, Lâm Duật
Thời, Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc [128] của Lã Trấn Vũ, Nho gia với Trung
Quốc ngày nay [101] của Vi Chính Thông, Luận ngữ ứng dụng trong kinh doanh [127]
của Thiệu Vũ, Đạo hiếu trong Nho gia [13] của Cao Vọng Chi, Giá trị của đạo đức
Nho giáo trong thời đại ngày nay [30] do Tần Tại Đông chủ biên Đặc biệt, hai trong
số các công trình kể trên thể hiện sự nghiên cứu rất sâu sắc của các tác giả về đạo đức
Nho giáo phải kể đến là Nho giáo với Trung Quốc ngày nay [101] và Giá trị của đạo
đức Nho giáo trong thời đại ngày nay [30].
8
+ Tác giả Vi Chính Thông đã nghiên cứu những quan điểm đạo đức Nho
giáo trên cơ sở phân tích những khiếm khuyết căn bản của nó với tư cách là một
bộ phận chủ yếu trong tư tưởng nhân sinh của Nho giáo trong cuốn sách Nho gia
với Trung Quốc ngày nay [101]. Với thái độ phê phán khách quan, khoa học
được đề cao từ sau phong trào văn hóa mới cho đến thời điểm bấy giờ tại Trung
Quốc, tác giả không hề phủ nhận những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo
nhưng đồng thời tác giả cũng cho rằng, phải chỉ rõ những hạn chế chủ yếu của
nó ví như: sự hiểu biết nông cạn về cuộc sống hay căn bệnh của đạo hiếu Chỉ
khi nghiên cứu và chỉ rõ những ưu điểm và hạn chế của đạo đức Nho giáo mới
giúp cho thế hệ trẻ tránh khỏi những suy tưởng phiến diện khi nghiên cứu về
Nho giáo, đạo đức Nho giáo như một trong những nhân tố quan trọng nhất trong
tư tưởng truyền thống của người Trung Hoa.
+ Trong cuốn Giá trị của đạo đức Nho giáo trong thời đại ngày nay [30]
do Tần Tại Đông chủ biên, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu những phạm trù đạo
đức Nho giáo như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, trung, hiếu và những biểu hiện cụ
thể của nó trong 6 lĩnh vực: lập thân, tu thân, xử thế, kết bạn, chức vụ, quản lý.
Qua đó, ta có thể hình dung khá rõ nét về diện mạo và nội dung trong những
quan điểm của Nho giáo về đạo đức. Không chỉ dừng lại ở đó, những quan niệm
đạo đức Nho giáo này vẫn còn có những ý nghĩa hết sức thiết thực trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc hiện nay
- Một số bài viết của các tác giả được đăng tải trên các tạp chí, chẳng hạn
như: Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo Việt Nam từ thời Bắc thuộc
đến triều Lý [99] của Trần Việt Thắng, Sự phát triển của Nho giáo thời kỳ Lý -
Trần [16] của Doãn Chính và Phạm Thị Loan, Mấy vấn đề Nho giáo ở Việt Nam
thế kỷ XVI và XVII [93] của Nguyễn Đức Sự, Một số đặc trưng cơ bản của Nho
giáo Việt Nam [111] của Nguyễn Tài Thư, Đạo đức Nho giáo trong đời sống Việt
Nam [53] của Nguyễn Thế Kiệt Trong khuôn khổ của những bài viết này, các
tác giả phần nào đã cho chúng ta thấy một bức tranh khá đầy đủ về quá trình du
nhập, phát triển của Nho giáo, đạo đức Nho giáo ở Việt Nam trải qua các thời kỳ
lịch sử. Qua đây, ta có thể hình dung rõ nét hơn về sự biến đổi của đạo đức Nho
9
giáo ở Việt Nam cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến đổi đó để làm
nên những nét riêng có của đạo đức Nho Việt so với những quan điểm đạo đức
Nho giáo Trung Quốc.
- Đặc biệt, trong một số bài tạp chí: Về tư tưởng triết học Nguyễn Trãi [17]
của Doãn Chính, Nho giáo và văn hóa ứng xử trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm
[126] của Trần Nguyên Việt, Sự giải thích mới một số khái niệm Nho giáo của nhà
cải cách Nguyễn Trường Tộ [59] của Lê Thị Lan; Tư tưởng của Phan Bội Châu về
đạo đức [65] của Cao Xuân Long, Nguyễn Trãi - một nhân cách Nho Việt [79] của
Triệu Quang Minh, Trần Thị Lan Hương..., những nét riêng của đạo đức Nho giáo
tại Việt Nam được phân tích, nhìn nhận, đánh giá một cách cụ thể qua tư tưởng của
một số nhà nho Việt tiêu biểu trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Từ đây, ta
cũng có thể khẳng định rằng, các nhà nho Việt Nam chính là một trong những nhân
tố quan trọng hàng đầu tạo nên sự biến đổi của đạo đức Nho giáo khi nó được du
nhập vào Việt Nam. Chính những nhà nho tiêu biểu này chứ không phải ai khác đã
dùng tài năng, trí tuệ của mình kết hợp giữa đạo đức truyền thống của người Việt cổ
với đạo đức Nho giáo tạo nên nét đặc sắc mang tính bản sắc trong các quan niệm
đạo đức của Nho giáo ở Việt Nam.
- Trong một số luận án tiến sĩ của các tác giả như: Ảnh hưởng của đạo đức
Nho giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay [70]
của Nguyễn Thị Thanh Mai, Ảnh hưởng của nhân lễ trong Nho giáo đối với đời
sống đạo đức ở Việt Nam hiện nay [113] của Phan Mạnh Toàn những phạm trù
đạo đức của Nho giáo cũng được các tác giả phân tích, làm rõ ở những mức độ khác
nhau để phục vụ cho mục đích nghiên cứu tiếp theo của mình.
Có thể thấy rằng, những công trình trên đã phác họa cho người đọc một cái
nhìn khá toàn diện về Nho giáo, đạo đức Nho giáo cùng những giá trị tích cực và
hạn chế của nó. Mặc dù có những ý kiến đa chiều và không đi đến thống nhất trong
việc đánh giá hệ tư tưởng Nho giáo song, nhìn chung, các tác giả đều khẳng định
vai trò to lớn của Nho giáo và ảnh hưởng tích cực của nó đến các lĩnh vực trong đời
sống xã hội ở nước ta và đặt ra vấn đề cần kế thừa hệ tư tưởng Nho giáo cũng như
đạo đức Nho giáo.
10
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỜI SỐNG TINH THẦN VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA
NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về đời sống tinh thần và đời sống
tinh thần của người Việt Nam hiện nay
- Xung quanh đề tài về đời sống tinh thần có rất nhiều học giả quan tâm,
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Đặc biệt là khi bàn về định nghĩa đời sống
tinh thần, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra những quan niệm riêng. Có thể khái quát
thành các nhóm quan niệm sau: thứ nhất, quan niệm cho rằng cần định nghĩa đời
sống tinh thần dựa trên các khái niệm đời sống, đời sống vật chất, đời sống tinh
thần; thứ hai, quan niệm đồng nhất đời sống tinh thần với ý thức xã hội mà điển
hình là quan niệm của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa trong cuốn Những chuyên đề dành
cho cao học và nghiên cứu sinh [84]; thứ ba, quan niệm về việc định nghĩa đời sống
tinh thần trong mối quan hệ với văn hóa tinh thần
Ở một số luận án như: Đời sống tinh thần của xã hội và xây dựng đời sống tinh
thần của xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [125] của Trần Khắc
Việt; Ảnh hưởng của văn hóa tôn giáo trong đời sống tinh thần xã hội Việt Nam hiện nay
[66] của Lê Văn Lợi, Tư tưởng nhân nghĩa trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với
một số lĩnh vực đời sống tinh thần người Việt Nam hiện nay [51] của Lê Trung Khoa,
các tác giả cũng nêu ra định nghĩa đời sống tinh thần theo những cách không hoàn toàn
trùng khớp với nhau.
Như vậy, chúng ta thấy rằng xung quanh việc định nghĩa khái niệm đời sống tinh
thần còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau dựa trên nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.
- Với đề tài nghiên cứu về đời sống tinh thần người Việt Nam hiện nay đặc
biệt là việc xác định những đặc trưng của nó cũng tồn tại nhiều hệ quan điểm khác
nhau. Dựa trên các cách tiếp cận khác nhau nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu
của mình, mỗi tác giả lại lựa chọn những điểm mà họ cho là đặc trưng cơ bản trong
đời sống tinh thần của người Việt hiện nay. Chẳng hạn như trong luận án Đời sống
tinh thần của xã hội và xây dựng đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [125], tác giả Trần Khắc Việt cho rằng, đời sống tinh
11
thần của xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng cần có
đặc trưng chủ yếu sau: một là, hệ tư tưởng Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
giữ vai trò chủ đạo, chi phối toàn bộ đời sống tinh thần xã hội; hai là, đời sống tinh
thần nảy nở trong bầu không khí xã hội dân chủ Trong luận án Ảnh hưởng của
văn hóa tôn giáo trong đời sống tinh thần xã hội Việt Nam hiện nay [66], tác giả Lê
Văn Lợi lại cho rằng, đặc điểm nổi trội trong đời sống tinh thần của người Việt hiện
nay là: đời sống tinh thần xã hội Việt Nam phát triển dựa trên nền kinh tế đang
chuyển đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; đời sống tinh thần Việt Nam thể hiện rõ sự đan xen giữa
giá trị cũ và mới, giữa truyền thống và hiện đại
Nhóm công trình nghiên cứu này cho người đọc một cái nhìn khá toàn diện
về các chiều cạnh trong khái niệm đời sống tinh thần cũng như những đặc trưng
trong đời sống tinh thần của người Việt hiện nay.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo
đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay
Bàn về những ảnh hưởng của Nho giáo nói chung, đạo đức Nho giáo nói riêng
đến các lĩnh vực trong đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay theo cả hai
hướng tích cực và tiêu cực cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu. Trong đó, đặc biệt
phải kể đến các công trình nghiên cứu của các học giả tiêu biểu như:
- Trong cuốn Nho giáo xưa và nay [45] do Vũ Khiêu chủ biên, tác giả đã tập
hợp nhiều bài viết của các học giả liên quan đến vấn đề ảnh hưởng của lễ giáo đạo
Nho đối với quá trình phát triển đất nước nói chung cũng như đối với một số mặt
trong đời sống tinh thần người Việt Nam hiện nay nói riêng. Cụ thể là:
+ Tác giả Quang Đạm ở bài viết Khổng giáo và gia đình, đã tổng kết những
ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với đời sống gia
đình nói riêng và đời sống tinh thần của người Việt Nam nói chung trong truyền
thống cũng như trong hiện tại.
Về mặt tích cực, tác giả khẳng định: lễ giáo đạo Nho nhấn mạnh tình nghĩa
và trách nhiệm của con người đối với gia đình và coi đó là đầu mối tình cảm để con
12
người thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nước và thiên hạ; Khổng giáo tích cực
nêu cao ý nghĩa của giáo dục gia đình; đề cao đức nhân trong mối quan hệ giữa
người với người trong toàn thiên hạ; trong đời sống cộng đồng, Nho giáo đặc biệt
coi trọng kỷ cương, trật tự
Về những ảnh hưởng tiêu cực, tác giả cũng cho rằng không khó để nhận diện
nó trong đời sống của người Việt Nam hiện nay với những điểm chính yếu như: chủ
nghĩa gia đình vị kỷ - thói luôn luôn mưu cầu tư lợi bằng những mánh khóe bất
chính ích kỷ hại nhân, từ trên lĩnh vực kinh tế đến các lĩnh vực văn hóa, chính trị, xã
hội tất cả đều ưu tiên đặt lợi ích của bản thân, của gia đình lên trên lợi ích của
người khác, của động đồng, của xã hội; chế độ gia đình trị; tác phong gia trưởng từ
trong gia đình được mở rộng ra đến phạm vi làng, xã, quận, huyện, cơ quan, xí
nghiệp, đoàn thể; đầu óc bảo thủ và sự phục tùng mê muội; những bất công, phi
lý trong hệ thống pháp luật và thể chế
Cuối cùng, tác giả nhận định: xem xét lại, rà soát lại cả hai mặt tích cực và
tiêu cực trong đạo lý gia đình của Khổng giáo - cũng như nhiều đạo lý cổ truyền nói
chung, chúng ta thấy, việc đánh giá đúng vấn đề là có nhiều khó khăn và việc giải
quyết thật tốt vấn đề lại càng khó khăn hơn nhiều. Sự kết hợp giữa truyền thống và
hiện đại đòi hỏi cố gắng biết rõ cả xưa và nay. Sự tiến hành cuộc vận động đổi mới
một cách khoa học cũng đòi hỏi biết rõ quá khứ và hiện tại. Đối mặt với tiêu cực
không chỉ vài nhát chổi văn hóa với pháp chế là xong. Đối với mặt tích cực không
phải chỉ kêu gọi “kế” và “thuật” là đủ.
+ Một số bài viết của các tác giả như Nho giáo và văn hóa Việt Nam của
Trần Quốc Vượng, Nho giáo với văn hóa dân gian ở Việt Nam và hiện tượng đình
làng của Đinh Gia Khánh đã cho chúng ta một cái nhìn khá bao quát về sự ảnh
hưởng của đạo đức Nho giáo đến văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa dân gian
Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, trong bài viết Nho giáo với văn hóa dân gian Việt
Nam và hiện tượng đình làng, tác giả Đinh Gia Khánh cũng đã khái quát những ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực mà đạo đức Nho giáo đã đưa đến cho đời sống của người
dân Việt cũng như nền văn hóa dân gian của người Việt. Ảnh hưởng tiêu cực như:
sự hình thành chế độ đẳng cấp ở làng xã, sự phá hoại tinh thần cộng đồng cố hữu
13
của công xã nông thôn. Bọn cường hào, địa chủ đã lợi dụng chế độ phân biệt đẳng
cấp theo những khuôn khổ của đạo đức Nho giáo để áp bức, bóc lột nhân dân
Còn ảnh hưởng tích cực, trước hết thể hiện ở việc khái quát hóa những quan hệ xã
hội, quan hệ gia đình vốn đã hình thành trong nhân dân. Đặc biệt là với ảnh hưởng
của nho sĩ, khái niệm về đất nước, về dân tộc được xác định rõ hơn trong nhận thức
của người dân. Làng và nước gắn với nhau, việc làng, việc nước trở thành hai vế
quan trọng trong việc thực hiện trách nhiệm của mỗi người
- Cuốn sách Nho giáo tại Việt Nam [98] do Lê Sỹ Thắng chủ biên, là tập hợp
nhiều bài nghiên cứu của các tác giả liên quan đến vấn đề ảnh hưởng của đạo đức Nho
giáo đối với con người và xã hội Việt Nam, tiêu biểu như:
+ Trong bài Vài ý kiến về ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam của
Đào Duy Anh, tác giả cho rằng, việc Khổng giáo hay Nho giáo đã tham gia một phần
quan trọng vào sự đúc nặn cái diện mạo tinh thần của dân tộc, vào sự tạo thành văn hóa
dân tộc là điều không ai có thể chối cãi được. Do vậy, trong cuộc cách mạng văn hóa
hiện nay, chúng ta tất yếu phải nghiên cứu Nho giáo để xem nó đã ảnh hưởng đến văn
hóa của chúng ta như thế nào trên cả hai bình diện xấu và tốt. Theo tác giả, những hiện
tượng thanh niên bị kìm hãm trong mọi lĩnh vực hoạt động...ong những mối quan hệ xã hội nhất định và đi kèm với nó là những
chuẩn mực đạo đức, những khuôn phép nhất định. Nếu làm được như vậy sẽ đưa xã hội
từ loạn trở về trị. Từ đó, ông cho rằng, việc trị nước phải dựa trên đạo đức, phải dùng
nhân trị, lễ trị thì xã hội mới “hữu đạo”, mới thái bình thịnh trị. Tư tưởng đó của ông
sau này đã được các thế hệ học trò nối tiếp nhau kế thừa và phát triển làm nên sự lớn
mạnh và tầm ảnh hưởng sâu rộng của học thuyết Nho giáo nói chung và đạo đức Nho
giáo nói riêng. Tác phẩm kinh điển của Nho giáo bao gồm Tứ thư (Luận ngữ, Đại học,
Trung dung, Mạnh Tử), Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu).
2.1.1.2. Những tiền đề văn hóa, tư tưởng cho sự ra đời của Nho giáo và
đạo đức Nho giáo
Như bất kỳ một hệ tư tưởng nào xuất hiện trong lịch sử, Nho giáo không chỉ
là một học thuyết chính trị - đạo đức nảy sinh trên cơ sở của hiện thực xã hội mà
bản thân Nho giáo nói chung, quan niệm của Nho giáo về đạo đức nói riêng còn
được ra đời dựa trên nền tảng văn hóa, đạo đức truyền thống của Trung Quốc.
Trung Quốc là một quốc gia đất rộng, người đông và cũng là một trong những
nước có nền văn hóa được hình thành từ rất sớm và phát triển mạnh mẽ lên đến đỉnh cao
ở thời cổ đại. Với những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực toán học, thiên văn, địa lý,
trồng trọt, chăn nuôi, nghề y đã góp phần to lớn thúc đẩy, phát triển đời sống vật chất
và tinh thần của xã hội tạo cơ sở cho sự ra đời của các học thuyết triết học, chính trị,
đạo đức và tôn giáo ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc trong đó có Nho giáo.
Bên cạnh đó, Nho giáo, đạo đức Nho giáo còn được hình thành dựa trên nền
tảng đạo đức truyền thống của người Trung Quốc đã để lại từ các triều đại trước. Ngay
từ thời Ngũ đế, vua Nghiêu đã đặt ra vấn đề “truyền hiền” nghĩa là truyền ngôi cho
những người hiền tài (những người vừa có tài nhưng cũng phải vừa có đạo đức). Đến
nhà Hạ, các bậc quân vương cũng rất coi trọng đạo đức trong việc trị nước an dân. Vào
thời nhà Thương có vua Thang là điển hình của một vị vua có đức thương dân và
27
không ngừng tu dưỡng, rèn luyện bản thân mình. Truyền thống coi trọng đạo đức đã
được khắc họa một cách rõ nét và sâu sắc hơn vào thời nhà Chu. Đây là thời kỳ mà
“đức là lý do làm cho tiên vương có thể sánh với thượng đế và cũng là lý do để tiên
vương nhận mệnh trị dân” [67, tr.156].
Như vậy, sự ra đời của Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng bắt
nguồn từ sự biến động lớn lao của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thời Xuân Thu -
Chiến Quốc cũng như từ việc kế thừa những tiền đề về văn hóa, tư tưởng, đạo đức của
người Trung Quốc từ trong lịch sử. Không chỉ có Nho giáo, vấn đề đạo đức, đạo làm
người cũng là một trong những nội dung cốt lõi của nhiều triết thuyết ở Trung Quốc.
Điều này đã làm nên nét riêng biệt của tư tưởng Trung Quốc so với các học thuyết
phương Tây. Nét riêng biệt đó chính là truyền thống coi trọng đạo đức, đạo làm người
người được khắc họa một cách rõ nét và sâu sắc nhất trong hệ tư tưởng Nho giáo.
2.1.2. Những nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo
2.1.2.1. Học thuyết Nho giáo về tính người - cơ sở hình thành quan niệm
của Nho giáo về đạo đức
Cùng với những vấn đề triết học chính trị khác, vấn đề “tâm”, “tính” con
người là một trong những chủ đề mà các nhà nho quan tâm nghiên cứu. Điều này
không xuất phát từ ý muốn chủ quan của họ mà xuất phát từ những yêu cầu nhất
định của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ.
Ở gần cuối thời Xuân Thu, Khổng Tử là người đầu tiên đề cập đến vấn đề tính
người. Ông nói: “Người ta sinh ra vốn ngay thẳng. Kẻ cong vậy mà vẫn sống chẳng
qua nhờ may mắn thoát chết” [42, tr.332]. Khổng Tử cho rằng, con người khi mới
sinh ra, cái tính của họ hoàn toàn trong trắng, ngây thơ. Cái bản tính tự nhiên ấy được
bẩm thụ từ trời đất, chưa chịu sự tác động của hoàn cảnh bên ngoài. Khổng Tử còn cho
rằng: “Bản tính người ta gần giống nhau, thói quen khiến xa nhau” [42, tr.614]. Điều
đó có nghĩa là, theo ông, con người ta sinh ra bản tính gần giống nhau giữa mọi người
nhưng do mỗi người có hoàn cảnh, môi trường sống, nghề nghiệp, tập quán và sự tu
dưỡng khác nhau nên làm cho bản tính ban đầu của con người, của từng người ngày
càng khác xa nhau. Chính luận điểm này của Khổng Tử đã khẳng định, bản tính của
con người có thể thay đổi bởi sự tác động, chi phối của rất nhiều yếu tố xã hội. Trong
28
các yếu tố đó, Khổng Tử đặc biệt đề cao vai trò của giáo dục trong việc tạo nên và duy
trì tính thiện của con người. Đây là tư tưởng hoàn toàn mới, thực sự mang tính đột phá
trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc nhất là khi xã hội đang ở tình trạng rối ren, phi nhân
tính. Tuy nhiên, do đứng trên lập trường giai cấp, quan niệm về tính người của Khổng
Tử cũng chứa đựng điểm hạn chế khi một mặt, ông nhận thức được sự tác động của
ngoại cảnh, điều kiện xã hội đến sự hình thành và thay đổi tính người, mặt khác, ông lại
tỏ ra bảo thủ khi cho rằng: “Chỉ có dạng thượng trí và hạ ngu là không thay đổi (tính
tình)” [42, tr.614] thể hiện sự phân biệt đẳng cấp trên dưới. Quan niệm về tính người
mà Khổng Tử đưa ra là hết sức cơ bản, nó đặt nền tảng cho các nhà nho kế thừa và
phát triển sau này. Từ thời Chiến Quốc về sau, vấn đề tính người thực sự được các
nhà nho quan tâm với những quan niệm vừa giống vừa khác nhau, song nổi bật nhất
là hai quan niệm đối lập nhau về tính người của Mạnh Tử và Tuân Tử.
Đi xa hơn Khổng Tử trong việc luận giải vấn đề bản tính con người, Mạnh
Tử cho rằng: “Bản tính người ta vốn thiện, cũng như nước phải chảy xuống thấp
vậy. Người ta chẳng ai bất thiện, như nước luôn luôn chảy xuống thấp vậy” [42,
tr.1193]. Mạnh Tử luôn tin vào bản tính tốt đẹp của con người, ông còn cho rằng,
tính thiện của con người được biểu hiện bằng “tứ đức” (nhân, lễ, nghĩa, trí) mà
tứ đức lại bắt nguồn từ “tứ đoan”, đó là: “Lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng
tu ố là đầu mối của nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối
của trí vậy. Người ta có bốn đầu mối đó, cũng như có hai tay, hai chân vậy” [42,
tr.861-862]. Mạnh Tử cũng nhận ra rằng, con người cũng có chỗ thiện và bất thiện
nhưng chỉ có cái tốt, cái thiện mới là cơ sở để phân biệt con người với cầm thú, còn
phần xấu, phần ác kia không gọi là tính được. Theo Mạnh Tử mặc dù tính thiện là
bản tính tự nhiên, vốn có của con người thì con người vẫn luôn chịu sự tác động của
hoàn cảnh, hoàn cảnh và môi trường xung quanh có thể làm lu mờ hoặc sai lệch tính
thiện của con người, không còn đúng với bản chất ban đầu nữa, điều này sẽ làm cho con
người trở thành bất thiện. Do đó, Mạnh Tử cũng đề cao vai trò của giáo hoá, giáo dục và
theo ông chỉ có nhờ giáo dục mới có thể khơi dậy, giữ vững và phát huy được cái thiện,
cái tốt trong mỗi con người, lúc ấy cái xấu sẽ bị loại trừ, bị đẩy lùi, con người trở nên tốt
đẹp hơn, xã hội trở nên thái bình, thịnh trị.
29
Trong quan niệm về tính người, Tuân Tử lại ngược hẳn với Mạnh tử. Nếu Mạnh
Tử cho rằng nhân, nghĩa, lễ, trí là biểu hiện của tính người, thì Tuân Tử lại cho đó
là: lòng hiếu lợi, lòng đố kỵ, lòng dục vọng, ba cái này khi mới sinh ra đã có sẵn
trong con người và đó là bản tính tự nhiên, nếu thuận theo tính tự nhiên này, con
người sẽ trở nên tàn ác. Mặc dù vậy, Tuân Tử không hề phủ nhận con người cũng
có những đức tính tốt và những đức tính tốt này là do con người tự đặt ra, do con
người học tập rèn luyện mới có được. Từ đây, ông cho rằng, phương thức tốt nhất
để loại trừ tính ác của con người là con người cần phải học tập, rèn luyện, phải được
giáo dục, giáo hoá theo nhân, lễ, nghĩa, trí.
Trong Nho giáo Tiên Tần, ngoài học thuyết tính người của Khổng Tử, Mạnh Tử
và Tuân Tử còn phải kể đến học thuyết tính người của Cáo Tử. Không giống như
Mạnh Tử hay Tuân Tử, Cáo Tử lại cho rằng, bản tính con người không thiện cũng
chẳng ác. Ông ví tính con người như dòng nuớc chảy, khơi về hướng Đông thì nó chảy
về hướng Đông, khơi về hướng Tây thì nó chảy về hướng Tây. Theo Cáo Tử, tính con
người ban đầu cũng mộc mạc, nguyên sơ như tờ giấy trắng, không thiện cũng không ác
nhưng có thể phát triển theo hướng thiện hoặc bất thiện. Tính thiện của con người như:
nhân, lễ, nghĩa, trí chỉ có được nhờ sự tu dưỡng, học tập và rèn luyện mà thôi.
Đến giai đoạn sau của sự phát triển Nho giáo, từ đời Hán trở đi, vấn đề tính
người vẫn được đưa ra và giải quyết theo những hướng khác nhau. Đổng Trọng Thư
cho rằng, tính con người có cả thiện lẫn ác. Ông còn đưa ra quan niệm tính người gồm
ba bậc: tính toàn thiện của bậc thánh nhân, tính chỉ ác của những người bị trị, tính vừa
thiện vừa ác của những người trung bình (tầng lớp trung gian). Giống như những bậc
tiền bối của mình, theo Đổng Trọng Thư, tính người là có sẵn từ khi mới sinh ra. Nhìn
chung, học thuyết tính người của ông nhằm phục vụ mục đích thống trị của giai cấp
phong kiến, cho nên ông đã có phần thần bí hoá học thuyết tính người của Khổng Tử,
Mạnh Tử và Tuân Tử. Theo Đổng Trọng Thư, bậc thánh nhân vì bản tính toàn thiện
nên có trách nhiệm uốn nắn, chỉ dẫn kẻ khác; kẻ bị trị (tính toàn ác) và cả tầng lớp
trung gian đều là đối tượng của sự giáo dục, giáo hoá.
Sau Đổng Trọng Thư, các nhà nho như Dương Hùng, Vương Sung đã kế thừa,
tiếp thu, phát triển quan điểm của ông khi xây dựng học thuyết tính người của mình. Cả
30
hai ông đều cho rằng, tính con người không hoàn toàn thiện cũng không hoàn toàn ác,
cái đó phải do sự tác động của giáo dục mới quyết định được. Giáo dục điều thiện, con
người sẽ trở nên thiện và ngược lại. Qua đó hai ông nhấn mạnh vai trò của giáo dục
trong việc thay đổi bản tính con người.
Các nhà nho thời đại sau này phát triển tư tưởng tính người theo hướng
lưỡng nguyên. Họ cho rằng, tính người vừa là bản tính vốn có, vừa được hình thành
do sự tác động của giáo dục, vì vậy con người thiện hay ác đều do sự tu dưỡng, rèn
luyện, dạy bảo.
Nhìn chung, khi đưa ra học thuyết về tính người, mỗi nhà nho đều dựa trên
những ý kiến chủ quan của mình, dựa trên việc đánh giá thực tế mà đưa ra những
quan điểm và sự luận giải hết sức khác nhau. Tuy nhiên dù quan niệm về bản tính
con người là thiện hay ác hay cả thiện lẫn ác thì các nhà nho đều cho rằng bản tính
con người có thể thay đổi dưới sự tác động của giáo dục. Cũng theo các nhà nho,
giáo dục ở đây phải là giáo dục đạo đức, phải trang bị cho mọi người những phẩm
chất đạo đức, chuẩn mực đạo đức, những hành vi ứng xử phù hợp với những mối
quan hệ xã hội nhất định. Chỉ có như vậy mới giúp con người giữ gìn được tính
thiện, tránh xa cái ác, trở về với đạo. Đó cũng là cách hiệu quả nhất để đưa xã hội từ
loạn về trị, là cơ sở để xây dựng một xã hội thật sự tốt đẹp, thái bình, thịnh trị
Với những phân tích như vậy, có thể kết luận rằng, quan niệm của Nho giáo về
tính người là một trong những cơ sở quan trọng để các nhà nho đưa ra những quan niệm
về đạo đức. Điều này cũng là câu trả lời cho việc tại sao Nho giáo lại coi trọng đạo đức
và cho rằng đường lối đức trị dựa trên việc giáo dục, giáo hóa đạo đức cho tất cả mọi
người là biện pháp hữu hiệu nhất để ổn định trật tự xã hội.
2.1.2.2. Quan niệm của Nho giáo về đạo và đức
Trong học thuyết Nho giáo, có thể coi đạo đức là tư tưởng chủ đạo và cũng chính
vì lẽ đó mà người ta gọi Nho giáo là học thuyết chính trị - đạo đức.
Theo quan niệm của Khổng Tử, Đạo chính là năm mối quan hệ xã hội cơ bản
của con người, được gọi là Nhân luân. Mạnh Tử gọi là Ngũ luân bao gồm: vua - tôi,
cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè. Trong đó ba mối quan hệ đầu tiên: vua - tôi,
31
cha - con, chồng - vợ được coi là cơ bản nhất mà sau này Đổng Trọng Thư (179 -
104 trước Công nguyên) gọi là Tam cương.
Tam cương là ba mối quan hệ cơ bản nhất của con người trong gia đình cũng
như ngoài xã hội. Cụ thể của ba mối quan hệ này là: Quân vi thần cương, phu vi thê
cương, phụ vi tử cương. Ba quan hệ này về cơ bản nó như những sợi dây ràng buộc
con người trong những quy chuẩn, những lễ giáo phong kiến hà khắc, trật tự được
phân biệt theo đẳng cấp do Nho giáo đề ra.
Đối với Đức, theo quan niệm của Nho giáo, đây chính là các phẩm chất đạo
đức quan trọng mà con người cần phải có, cần phải được trang bị, được giáo dục
nhằm thực hiện tốt năm mối quan hệ cơ bản của Đạo được nêu ra ở trên.
Trải qua sự biến thiên của lịch sử, ở mỗi giai đoạn các phạm trù đạo đức Nho
giáo lại được các nhà nho bổ sung, sửa đổi, sắp xếp, thêm bớt theo những trật tự
khác nhau tùy thuộc vào yêu cầu lịch sử của từng triều đại phong kiến. Với Khổng
Tử, ông nhấn mạnh ba đức cơ bản của con người là: nhân, trí, dũng. Đến Mạnh Tử,
ông lại cho rằng, những đức con người cần phải có là tứ đức: nhân, lễ, nghĩa, trí.
Đến Đổng Trọng Thư, ông nêu lên Ngũ thường: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Tam cương
và Ngũ thường kết hợp với nhau gọi là đạo cương thường, hay mở rộng ra sự kết
hợp giữa Ngũ luân với Ngũ thường gọi là luân thường. Cương thường có thể coi là
nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo. Nó là nguyên tắc chi phối mọi
suy nghĩ và hành động của con người.
2.1.2.3. Tam cương
Theo quan niệm của Nho giáo, Tam cương dùng để chỉ ba mối quan hệ cơ bản
nhất của con người từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, đó là các quan hệ: vua - tôi,
cha - con, chồng - vợ. Khái niệm Tam cương xuất hiện lần đầu tiên là trong Hán Nho
thể hiện tư tưởng của Đổng Trọng Thư vào thời Hán Vũ đế. Mục đích chính của tư
tưởng này là quy định thân phận của bề tôi, của người vợ và của người con phụ thuộc
vào vua, vào chồng, vào cha. Theo Đổng Trọng Thư, trong mối quan hệ vua - tôi, bề
tôi phải tuyệt đối trung thành với vua và vua giữ vai trò quyết định so với bề tôi, đến
mức vua bảo thần chết, thần không thể không chết; trong mối quan hệ cha - con, yêu
cầu người con phải có hiếu với cha mẹ và người cha giữ vai trò quyết định đối với con;
32
trong mối quan hệ vợ - chồng, yêu cầu vợ phải theo chồng, phải giữ tiết hạnh với chồng
và trong mối quan hệ này thì người chồng giữ vai trò quyết định đối với người vợ.
Đối với những mối quan hệ này, các nhà nho trong thời kỳ đầu phát triển của
Nho giáo (Nho giáo nguyên thủy) đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức riêng cho
từng đối tượng trong từng mối quan hệ cụ thể:
Trong mối quan hệ vua - tôi (quân thần), Nho giáo đưa ra hai chuẩn mực đạo
đức để ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ giữa vua và thần dân là nhân và trung. Theo
đó, vua phải là người nhân từ, có đức, cai trị dân phải dựa trên nhân trị, đức trị, phải
dùng đạo đức của mình để thu phục lòng tin của dân Để có thể dùng đức trị dân, theo
Nho giáo, người cầm quyền (người quân tử) phải không ngừng tu thân. Tu thân là biện
pháp rèn luyện đạo đức được Nho giáo đặt lên hàng đầu và là yêu cầu bắt buộc đối với
tất cả mọi người từ bậc đế vương cho đến dân thường, Sách Đại học có viết: “Từ bậc
thiên tử xuống tới hạng bình dân, ai nấy đều phải lấy tu thân làm gốc. Gốc đã loạn,
ngọn lại trị, là không thể được vậy” [42, tr.18]. Tuy nhiên, đối với nhà cầm quyền, tu
thân càng quan trọng và cần thiết hơn bởi, chỉ có thông qua con đường tu thân, rèn
luyện, tự sửa mình, tự lấy mình ra làm gương sáng để mọi người noi theo, người cầm
quyền mới có thể thi hành đường lối nhân trị, đức trị, mới khiến cho dân tin, dân phục
và dân tình nguyện đi theo. Về vấn đề này, Khổng Tử khẳng định: “Nếu có thể sửa
mình ngay thẳng, khi cai trị dân có gì là khó đâu? Không thể sửa mình ngay thẳng lại
có thể sửa người ngay thẳng được sao” [42, tr.507]. Ngược lại, bề tôi (dân) phải tuyệt
đối trung thành với nhà vua, phải nghe theo sự giáo hóa, sai bảo của vua và bảo vệ
nhà vua. Bởi lẽ, vua chính là “thiên tử” (con trời), gánh vác sứ mệnh to lớn là thay
trời giáo dân, trị dân, vua cũng giống như cha mẹ của dân. Về những chuẩn mực
đạo đức được quy định trong mối quan hệ này, Khổng Tử nhận định: “Vua lấy lễ sai
khiến bề tôi, bề tôi lấy lòng trung để thờ vua” [42, tr.255].
Trong mối quan hệ cha - con, Nho giáo đưa ra hai chuẩn mực đạo đức là
từ và hiếu. Theo đó, cha mẹ phải có trách nhiệm thương yêu, dưỡng dục con cái
và ngược lại, con cái phải kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ. Tuy
nhiên, trong mối quan hệ này, Nho giáo luôn đề cao vị trí, vai trò của cha mẹ đối
với con cái, do đó, các nhà nho nhấn mạnh đến chữ hiếu, nghĩa là nhấn mạnh đến
33
nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ. Có thể khẳng định, từ xưa đến nay, hiếm có
một học thuyết nào, một trường phái nào đề cập đến chữ hiếu một cách sâu sắc và
đầy đủ như Nho giáo. Đạo hiếu trong Nho giáo được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau, tuy nhiên, tất cả những ý nghĩa đó đều nhằm mục đích là giảng giải cho con
người ta về những điều mà con cái nên làm với cha mẹ cũng như những điều bất
hiếu mà mọi người phải tránh Thực hành đạo hiếu trong gia đình cũng là cơ sở,
nền tảng để bề tôi thực hiện đạo trung với vua khi ra ngoài xã hội. Bởi lẽ, theo
Khổng Tử, nếu trong nhà có cha đứng đầu, thì trong một nước có vua đứng đầu. Vì
thế, đạo làm người là phải tận hiếu với bố mẹ và tận trung với vua chúa.
Trong mối quan hệ chồng - vợ, Nho giáo đưa ra phạm trù nghĩa là chuẩn
mực đạo đức nhằm ràng buộc trách nhiệm giữa vợ và chồng. Theo đó, vợ chồng
phải yêu thương, chăm sóc giúp đỡ chia sẻ ngọt bùi, đắng cay cùng nhau. Mặc dù
vậy, theo quan niệm của các nhà nho vai trò của người phụ nữ trong gia đình cũng
như ngoài xã hội luôn được nhìn nhận và đánh giá thấp hơn nhiều so với nam giới.
Xã hội phong kiến trật tự, đẳng cấp với một trong những đặc điểm nổi bật là tư
tưởng trọng nam khinh nữ đã khiến cho người phụ nữ luôn bị xếp vào vị trí phụ
thuộc vào nam giới. Họ chỉ tồn tại với tư cách là một yếu tố cần thiết để duy trì trật
tự trong gia đình và ngoài xã hội. Nho giáo đã sử dụng một hệ thống các học thuyết
về luân lý đạo đức như Tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng
tử), Tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh), Phụ nhân nan hóa (phụ nữ là đối tượng khó
dạy bảo, giáo huấn)... để trói buộc tự do, kìm hãm sự phát triển của người phụ nữ.
Với những học thuyết đó, người phụ nữ luôn bị ràng buộc trong những giáo lý hà khắc
của xã hội phong kiến, họ luôn bị đối xử bất công, bất bình đẳng so với nam giới.
Đạo Tam cương chứa đựng cả ưu điểm và hạn chế. Một mặt, đạo Tam cương
góp phần lớn trong việc điều chỉnh hành vi của con người trong các mối quan hệ xã hội
cơ bản, đưa con người vào những khuôn phép, những chuẩn mực mà các triều đại
phong kiến đề ra. Mặt khác, với những quy định hết sức chặt chẽ, nó đã trói buộc con
người trong những mối quan hệ xã hội cùng những nghĩa vụ đạo đức nhất định mà
người ta khó có thể thoát ra được, khiến con người mất khả năng sáng tạo và trở nên
thụ động trong cả suy nghĩ lẫn hành động. Đặc biệt, đạo Tam cương mà Đổng Trọng
34
Thư nêu ra là những mối quan hệ mang tính chất một chiều. Những đạo lý trong đó yêu
cầu bề tôi phải phục tùng vua, con phải phục tùng cha, vợ phải phục tùng chồng một
cách vô điều kiện dù đó là những yêu cầu sai trái.
2.1.2.4. Ngũ thường
Theo quan niệm của Nho giáo, Ngũ thường bao gồm các phạm trù đạo đức:
nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Nhân: là phạm trù đạo đức đầu tiên và cơ bản nhất trong Ngũ thường. Nhân
được coi là hạt nhân lý luận trong hệ thống tư tưởng của Nho giáo và tất cả các
phạm trù đạo đức còn lại đều xoay xung quanh phạm trù trung tâm này. Trong quan
niệm của Nho giáo, nhân là một khái niệm rất rộng với nhiều cách hiểu và ý nghĩa
khác nhau, song, nhìn chung nó gồm có các nội dung cơ bản sau đây:
Nhân có nghĩa là yêu người, yêu người khác như yêu chính bản thân mình
(ái nhân). Điều này được thể hiện rất rõ trong Luận Ngữ khi trả lời câu hỏi của
Phàn Trì về nhân, Khổng Tử nói: “(Đó là người biết) yêu người” [42, tr.493].
Mặc dù cho rằng, nhân là yêu thương tất cả mọi người nhưng Khổng Tử cũng
khẳng định, tình yêu thương trước hết phải bắt đầu từ những người thân trong gia
đình rồi mới đến những người ngoài xã hội. Trong gia đình, Nho giáo lại đặc biệt
coi trọng mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái với việc nhấn mạnh đức hiếu và
cho rằng hiếu đễ chính là cốt lõi của đức nhân, là gốc rễ của nhân luân “Nết hiếu
và nết đễ có phải là gốc của việc thi hành đạo nhân đó chăng?” [42, tr.197]. Theo
quan niệm của Nho giáo, một người phải biết yêu thương, kính trọng cha mẹ và
những người lớn tuổi trong nhà thì mới biết yêu thương những người bên ngoài.
Ở đây, Nho giáo đã nhấn mạnh đến việc rèn luyện đạo đức của con người phải
được bắt nguồn từ trong gia đình rồi mới ra đến ngoài xã hội. Đây là điểm vô
cùng hợp lý, bởi lẽ, gia đình là tế bào của bất kỳ một xã hội nào. Nếu trong gia
đình không duy trì được trật tự, thứ bậc trên dưới, không có đạo đức thì xã hội
cũng không thể “hữu đạo”, ổn định và phát triển được. Tuy nhiên, đây cũng là
một trong những hạn chế của đạo đức Nho giáo khi quá coi trọng tình thân trong
gia đình dẫn đến chủ nghĩa gia đình vị kỷ, đặt lợi ích của gia đình và người thân
lên trên hết.
35
Nhân có nghĩa là trung và thứ. Trung ở đây được Khổng Tử giải thích là:
“Người nhân là người muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn
thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” [42, tr.340]. Về chữ thứ, theo Khổng Tử:
“Điều gì mình không muốn, chớ thi hành cho người khác” [42, tr.473]. Như vậy
nhân ở đây có nghĩa là từ lòng mình mà suy ra lòng người, mình muốn gì thì người
khác cũng muốn như thế và ngược lại. Do đó, hãy làm cho người những gì mà mình
muốn và đừng làm cho người những điều mình không muốn.
Nhân có nghĩa là phải thực hiện theo đúng lễ: “Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là
phát huy điều nhân. Một ngày dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ, cả thiên hạ (chịu cảm
hóa) quay về với điều nhân vậy” [42, tr.471]. Người có đức nhân sẽ tự kiềm chế
được mình, vượt qua mọi gian nan, thử thách, dẹp bỏ mọi tư dục để tuân theo những
lễ tiết, những quy chuẩn đạo đức mà xã hội đương thời đề ra. Do vậy, lễ ở đây là
hình thức biểu hiện của nhân, nhân là gốc, lễ là ngọn hay nói theo cách khác nhân
là nội dung, lễ là hình thức.
Nhân còn gắn liền với nghĩa, cụ thể, nếu nhân là sự thể hiện tình cảm sâu sắc
của con người thì nghĩa chính là trách nhiệm để thực hiện tình cảm đó. Cho nên, chỉ có
tình vua tôi, cha con, chồng vợ thôi thì chưa đủ mà đi kèm với nó phải có nghĩa vụ
nữa. Mạnh Tử nói: “Nhân đạo là điều cốt yếu của lòng người, điều nghĩa là con
đường mọi người phải noi theo. Bỏ con đường lớn chẳng noi theo, để thất lạc con
tim chẳng biết tìm lại, (những kẻ như thế) thật đáng thương thay!” [42, tr.1224].
Sang đến đời Hán, Đổng Trọng Thư cũng bàn nhiều về nhân, nghĩa. Theo ông,
nhân là đối với người còn nghĩa là đối với mình, cốt lõi của nhân là yêu người chứ
không phải yêu mình, còn cốt lõi của nghĩa là làm cho ngay thẳng lòng ta chứ
không phải làm ngay thẳng lòng người [115, tr.9-10].
Ngoài những nội dung cơ bản trên, nhân còn bao hàm rất nhiều đức khác
chẳng hạn như, khi Tử Trương hỏi Khổng Tử về đạo nhân, Khổng Tử đáp: Có thể
làm được năm điều (cung kính, khoan dung, thành tín, cần mẫn và có ơn huệ) với
mọi người trong thiên hạ là thi hành nhân chính vậy [42, tr.618-619]
Đến Tống Nho, quan niệm về nhân tiếp tục có sự bổ sung, phát triển hình
thành nên những nét mới. Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo và Đạo giáo, các
36
nhà nho tiêu biểu thời kỳ này (Trương Hoành Cừ, Trình Minh Hạo, Chu Hy) đã
coi thiên địa, vạn vật là nhất thể, tất thảy đều do khí và lý biến hóa mà ra. Bởi vậy,
đã yêu thì phải yêu tất cả muôn loài, muôn vật, không phân biệt ta với vật, không
toan tính lợi hại, thiệt hơn, không đắn đo nên hay không nên yêu muôn loài, muôn
vật như chính bản thân mình. Như thế mới được gọi là nhân. Mặc dù có nhiều điểm
tích cực, nhưng quan niệm về nhân của Tống Nho lại nhuốn đầy mầu sắc duy tâm,
thần bí. Chẳng hạn, việc Chu Hy luận giải về đạo đức, nhân nghĩa xuất phát từ quan
niệm về lý - “Lý tức là cái đạo hình nhi thượng là cái gốc sinh ra muôn vật” [128,
tr.596] và khí - “khí là những vật thể hình nhi hạ, là những khí cụ sinh ra muôn vật”
[128, tr.596]. Từ đó, ông cho rằng, khí tức là kim, mộc, thủy, hỏa; lý tức là nhân,
nghĩa, lễ, trí. Theo ông, nhân là cái mang tính tiên thiên, có sẵn do trời sinh ra và
tồn tại một cách độc lập. Ông nói: “người ta và muôn vật đều bẩm thụ cái lý của
giời đất để thành ra tính” và “Cái lý của sự sống gọi là tính. Chỉ có giời đã sinh
thành ra nhiều đạo lý. Tính là cái lý thực trong đó có đầy đủ cả nhân, nghĩa, lễ, trí”
[128, tr.602-603].
Như vậy, nhân có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi con người trong
toàn xã hội. Nhân không chỉ là một đức tính riêng mà nó có thể chỉ chung cho mọi
đức tính, người có nhân đồng nghĩa với người có đầy đủ mọi đức tính, nhân là cái
phổ quát, cái tâm lý phổ biến của mọi thành viên trong xã hội. Nhân bao hàm trong
nó mọi đức tính, mọi phạm trù đạo đức khác như: lễ, nghĩa, trí, tín, trung, hiếu
các đức tính khác là bộ phận của nhân, là biểu hiện cụ thể của nhân trong các quan
hệ ứng xử giữa con người với con người.
Lễ: theo Nho giáo, lễ là những quy định về mặt đạo đức có tính bắt buộc, ràng
buộc đối với mọi hành vi ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội. Lễ còn
là trật tự, kỷ cương, phép nước mà mọi người phải tuân theo. Do đó, nếu xã hội giữ
được lễ thì “hữu đạo” và thịnh trị, còn nếu để mất lễ sẽ “vô đạo” và đại loạn. Theo
Khổng Tử, nguyên nhân dẫn đến cảnh loạn lạc của xã hội Trung Quốc thời Xuân
Thu - Chiến Quốc là do “lễ đã bị hủy hoại”. Khổng Tử còn cho rằng, lễ còn là biểu
hiện của chế độ tông pháp nhằm duy trì chế độ phân biệt đẳng cấp nghiêm ngặt, bảo
đảm quyền uy tối cao cho thiên tử. Đến đây, lễ không còn thuần túy là một phạm trù
37
đạo đức mà nó đã được chính trị hóa. Cũng bởi lẽ đó mà trong xã hội phong kiến, lễ
đạt hiệu quả rất sâu xa trong việc giáo huấn con người tuân thủ trật tự, kỷ cương mà
triều đình phong kiến đưa ra.
Đề cao và hết sức coi trọng lễ và vai trò của lễ, Khổng Tử yêu cầu mọi người
trong suy nghĩ cũng như hành động, trong lời nói cũng như việc làm đều phải tuân
theo lễ: “Những điều trái với lễ chớ nên để mắt nhìn tới, điều trái với lễ chớ để vào
tai, điều trái với lễ chớ nói tới, điều trái với lễ chớ động tới” [42, tr.471]. Nhận thức
được tầm quan trọng của lễ, Khổng Tử cũng đòi hỏi mọi người, từ bậc quân vương
cho đến thường dân cần phải rèn luyện mình nghiêm khắc và thực hiện theo lễ từ
những điều nhỏ nhặt nhất. Bởi lẽ, người giàu sang biết lễ thì không dâm tà, kiêu
căng, người bần tiện biết lễ thì không nản chí, không làm bậy. Người làm vua, làm
chúa có biết lễ nghĩa thì mới trị được nước, an được dân. Tư tưởng lễ của Khổng Tử
đã được Mạnh Tử và Tuân Tử kế thừa. Mạnh Tử thì cho rằng, tác dụng của lễ là để
thực hành nhân nghĩa một cách tốt đẹp. Sau đó, trong Lễ luận, Tuân Tử cũng khẳng
định lễ là nguyên tắc căn bản nhất của việc trị nước. Nếu không tuân theo lễ mà làm,
không coi trọng lễ, đó là không giữ chính đạo. Sang đến Đổng Trọng Thư (Hán Nho),
xuất phát từ quan điểm thần học ông đã biến lễ của Khổng Mạnh thành một thứ thiên
tính của con người và giải thích nó như một biểu hiện của Trời. Ông đã dùng mọi lý lẽ
để nhằm chứng minh rằng trật tự lễ nghĩa trong xã hội phong kiến là điều có tính chất
tiên thiên và ai cũng phải tuân theo.
Đến Tống Nho, lễ trong quan hệ giữa người với người cũng được giải thích dựa
trên quan điểm về lý và khí. Theo Chu Hy, tâm cũng như tính có phần lý và có phần
khí. Cái do lý phát ra là đạo tâm, do khí phát ra là nhân tâm: “Các tri giác do nghĩa lý
phát ra, như biết nghĩa vua tôi, đạo cha con là đạo tâm; các tri giác do thân thể phát ra
như đói biết ăn, khát thì uống là nhân tâm” và học đạo thánh hiền cốt là lấy cái tâm là
cốt lõi để tiết chế nhân tâm [56, tr.480]. Bởi lẽ đó, Chu Hy cho rằng, phải diệt trừ, vứt
bỏ ham muốn cũng như sở thích cá nhân để giữ gìn những quy phạm đạo đức cũng như
những lễ giáo của đạo Nho. Theo quan niệm của ông, những trật tự trong các mối quan
hệ từ gia đình cho đến xã hội đều do trời đất quy định cho nên đạo lý cương thường,
chế độ trật tự, đẳng cấp là mang tính tuyệt đối. Về cơ bản, luận điểm này của Chu Hy
38
đã trở thành căn cứ để giai cấp phong kiến lợi dụng nhằm nô dịch người dân lao động
và trói buộc họ vào những giáo điều luân lý đạo đức phong kiến khắt khe [15, tr.561].
Chữ lễ vào giai đoạn đầu của Nho giáo chứa đựng nhiều ý nghĩa tích cực. Nó
được dùng để điều tiết, ngăn cản, tiết chế các hành vi của con người và các mối
quan hệ xã hội một cách hòa bình. Tuy nhiên, đến giai đoạn sau, khi chính quyền
phong kiến sử dụng Nho giáo như một thứ công cụ để thống trị (đặc biệt là Hán
Nho và Tống Nho), lễ đã trở thành sợi dây xích ràng buộc con người trong những
chuẩn mực đạo đức ngày càng trở nên khắc nghiệt. Điều này đã khiến con người
không thể vươn ra, thoát khỏi những ràng buộc và danh phận đã được định sẵn từ
khi sinh ra.
Nghĩa: Theo Khổng Tử, nghĩa là điều nên nói, việc phải làm; là việc làm chí
thiện, hợp lý; là trách nhiệm đạo đức giữa những người khác nhau hoặc những đẳng
cấp khác nhau trong xã hội. Nghĩa là việc làm phù hợp với lẽ phải và đạo lý, do đó, nó
cũng sẽ phù hợp với điều nhân và lễ, phù hợp với một trật tự xã hội có trên, có dưới.
Đến Mạnh Tử, ông đặc biệt đề cao chữ nghĩa. Mạnh Tử cho rằng nghĩa là điều
người ta phải làm không kể lợi hại cho mình, thậm chí nếu có phải xả thân vì việc
nghĩa cũng cam lòng. Sau Mạnh Tử, Tuân Tử cũng là người hết sức coi trọng tư
tưởng trọng nghĩa, khinh lợi. Ông khẳng định: nghĩa thắng được lợi thì đời trị, lợi
đè được nghĩa thì đời loạn [115, tr.9-10].
Trí: theo Nho giáo, trí là sự hiểu biết, là trí tuệ của con người về mình, và các
mối quan hệ xã hội của mình. Con người phải có trí thì mới phân biệt được thiện -
ác, trái - phải, mới thực hành đạo đức được tốt. Con người phải có trí mới vươn tới
được đức nhân, mới biết cách giúp người mà không l... cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về
giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và
khu vực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử
đối với phụ nữ
Với tất cả những nỗ lực đó của Đảng và Nhà nước, người phụ nữ Việt
Nam ngày càng có nhiều điều kiện, cơ hội vươn lên tự khẳng định vị trí và vai
trò của bản thân mình. Họ đã chứng minh rằng họ không hề thua kém nam giới ở
bất kỳ lĩnh vực nào và họ xứng đáng được đối xử công bằng, ngang hàng so với
nam giới trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Những thành tựu bình đẳng giới
mà Việt Nam đạt được trong thời gian qua được thể hiện qua những con số cụ
thể sau: Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy các cấp nhiệm kỳ 2015-2020 cho chúng
ta thấy một bức tranh khả quan về sự gia tăng số lượng cán bộ nữ tham gia cấp
ủy các cấp trong nhiệm kỳ mới. Cụ thể: Trong Ban chấp hành: Tổng số cấp uỷ
viên khóa mới tăng 1,9% so với nhiệm kỳ trước. Trong Ban thường vụ: Tổng số
uỷ viên ban thường vụ được bầu cao hơn 2,9% so với đầu nhiệm kỳ trước. Trong
Thường trực cấp uỷ: Các Đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương đã bầu ra 61 bí
thư cấp ủy, trong đó có 3 đồng chí là nữ, chiếm tỷ lệ 4,76% (đầu nhiệm kỳ trước
chỉ có 2 đồng chí) [96]. Đặc biệt, ngày 31/3/2016 sẽ mãi mãi đi vào lịch sử của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi lần đầu tiên Quốc hội
có một vị nữ Chủ tịch. Đó là Tân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân [95].
Hiện nay, tỷ lệ lao động có việc làm là nữ giới chiếm 49%. Tính đến hết
năm 2011, tỷ lệ phụ nữ biết chữ là 92%; khoảng 80% trẻ em gái ở vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số được đi học đúng tuổi. Tỷ lệ nữ sinh viên chiếm
trên 50%, tỷ lệ thạc sỹ là nữ chiếm hơn 30% và 17,1% tiến sỹ là nữ giới [57].
Những con số trên cũng là những minh chứng rõ ràng nhất về sự thành
công của phụ nữ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội khi họ được tạo điều kiện
146
và được trao quyền xứng đáng. Đây cũng là cơ sở để chúng ta từng bước khắc
phục triệt để quan niệm coi khinh phụ nữ, trọng nam khinh nữ, cho rằng phụ nữ
là thấp kém, là “khó dạy bảo”, là không có vai trò gì khác ngoài việc chăm sóc,
phục vụ chồng con theo đạo Tam tòng, Tứ đức trong đạo đức Nho giáo.
Bên cạnh những thành tựu cao về bình đẳng giới mà chúng ta đã đạt được
thời gian qua, Việt Nam cũng đang phải đối mắt với nhiều thách thức trong việc
giải quyết vấn đề này. Những khó khăn, thách thức mà Chính phủ Việt Nam gặp
phải trong việc thực thi bình đẳng giới đa phần là do, chúng ta đã xây dựng một
hệ thống khung chính sách và pháp luật về vấn đề này rất hoàn thiện nhưng lại
thiếu cơ chế thực hiện cũng như cơ chế kiểm tra, giám sát quá trình triển khai
trong thực tế. Mặt khác, chính trong bản thân suy nghĩ và nhận thức của một bộ
phận không nhỏ người Việt Nam hiện nay vẫn chịu sự chi phối nặng nề của tư
tưởng trọng nam khinh nữ theo quan niệm của đạo đức Nho giáo. Tư tưởng này
tồn tại ở những người đàn ông mang nặng đầu óc địa vị, gia trưởng, ngôi thứ là
một lẽ hiển nhiên nhưng nó còn xuất hiện khá phổ biến trong nhận thức của bản
thân một số đông những người phụ nữ ở mọi giai cấp, tầng lớp khác nhau.
Trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến, tư tưởng trọng nam
khinh nữ, coi thường phụ nữ đã trở thành lẽ sống, nết ứng xử được cả cộng đồng
(cả giới nam và giới nữ thừa nhận), trở thành tập quán sống của người Việt
truyền thống và được thế hệ trước truyền lại cho các thế hệ sau. Đó cũng là lý do
khiến một bộ phận không nhỏ giới nữ trong xã hội Việt Nam hiện nay chấp nhận
an phận, thủ thường, chấp nhận sống phụ thuộc vào chồng con và cho rằng trách
nhiệm chính của mình là ở nhà, chăm sóc gia đình, chăm sóc chồng con chứ
không phải là tự vươn lên để làm chủ bản thân và cuộc sống của mình. Cũng bởi
tâm lý tự ti, phụ thuộc ấy mà chính phụ nữ đã góp phần làm cho công tác thực
hiện bình đẳng giới và ngăn chặn bạo lực gia đình trở nên khó khăn hơn. Bàn về
vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định, sự nghiệp giải phóng phụ
nữ, thực hiện bình đẳng giới muốn đạt được kết quả cao phải phụ thuộc phần lớn
vào bản thân người phụ nữ. Họ phải tự rũ bỏ thân phận của mình trong chế độ
147
cũ, phát huy phẩm chất truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam trong điều
kiện xã hội mới, thực sự vươn lên làm chủ bản thân, gia đình và xã hội.
Bởi vậy, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện về chính sách, pháp luật cũng
như ban hành cơ chế thực hiện, kiểm tra, giám sát để những Bộ Luật về bình
đẳng giới, Phòng chống Bạo lực gia đình được hiện thực hóa trong đời sống, Nhà
nước ta cũng nên quan tâm, đầu tư cho công tác giáo dục, thay đổi nhận thức về
giới cho cả nam giới và nữ giới mà đặc biệt là nữ giới về vấn đề này. Chỉ khi
bình đẳng giới được xuất phát từ trong chính nhận thức của mỗi người thì việc
thực hiện những Luật về giới mới đạt được hiệu quả tối đa. Và, cũng chỉ khi nào,
bất bình đẳng giới được thay đổi trong nhận thức một cách triệt để thì những ảnh
hưởng tiêu cực của tư tưởng trọng nam khinh nữ trong đạo đức Nho giáo tồn tại
trong các phong tục, tập quán mới thực sự mất đi chỗ trú ngụ của nó và bị quét
sạch hoàn toàn.
Tiểu kết chương 4
Những ảnh hưởng của Nho giáo, đạo đức Nho giáo đối với đời sống tinh
thần của người Việt Nam hiện nay trên tất cả các lĩnh vực của nó là thực tồn, là
hiện hữu. Những ảnh hưởng này diễn ra theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực.
Vấn đề đặt ra là ở chỗ, chúng ta cần nhận diện một cách rõ ràng những ưu điểm,
những hạn chế của đạo đức Nho giáo cũng như ảnh hưởng tích cực và tiêu cực
của nó trong đời sống xã hội làm cơ sở để đề xuất phương hướng và những giải
pháp chủ yếu nhằm khai thác những yếu tố hợp lý, phát huy những ảnh hưởng
tích cực, hạn chế và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo
trong xây dựng đời sống tinh thần của người Việt hiện nay.
Về phương hướng: một là, quán triệt, vận dụng phương pháp biện chứng
duy vật của Hồ Chí Minh về việc khai thác đạo đức Nho giáo trong xây dựng đời
sống tinh thần ở Việt Nam hiện nay; hai là, phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo gắn với chiến lược phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội và chiến lược phát triển con người trong xây dựng đời sống
tinh thần của người Việt hiện nay.
148
Về giải pháp: một là, phát triển kinh tế, văn hóa đồng thời đẩy mạnh cải
tạo phong tục, tập quán lạc hậu, giữ gìn, phát huy thuần phong, mỹ tục tạo cơ sở
cho việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức
Nho giáo trong xây dựng đời sống tinh thần của người Việt hiện nay; hai là, tăng
cường vai trò của pháp luật nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong xây dựng đời sống tinh thần của
người Việt hiện nay; ba là, dân chủ hóa đời sống xã hội nhằm phát huy tính năng
động, sáng tạo của cá nhân, khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo
trong xây dựng đời sống tinh thần của người Việt hiện nay; bốn là, coi trọng việc
kế thừa các giá trị và đẩy mạnh khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của đạo
đức Nho giáo trong giáo dục gia đình, thực hiện bình đẳng giới.
Thực hiện tốt, đồng bộ các giải pháp trên sẽ tạo thành tổng hợp lực trong
việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho
giáo trong việc xây dựng một đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay.
149
KẾT LUẬN
Nho giáo là hệ thống tư tưởng đề cập đến nhiều lĩnh vực, nhiều mặt hiện
thực của đời sống xã hội và con người. Trong hệ thống Nho giáo bao gồm nhiều tư
tưởng, nhiều nội dung: triết học, chính trị - xã hội, đạo đức, giáo dục Trong đó,
có thể coi đạo đức là nội dung cơ bản của Nho giáo. Việc nhấn mạnh đạo đức, đề
cao vai trò và sức mạnh của đạo đức với con người và xã hội đã trở thành nét đặc
trưng của Nho giáo. Rõ ràng, trong bất cứ xã hội nào, ở thời đại nào thì đạo đức
luôn giữ vị trí quan trọng, nó là cái để điều chỉnh hành vi của con người trong các
mối quan hệ xã hội và nhiều khi nó còn có sức mạnh hơn cả những quy phạm pháp
luật. Đạo đức là cơ sở vững chắc để ổn định trật tự, giữ gìn kỷ cương của xã hội.
Tuy nhiên, việc quá đề cao đạo đức và cho rằng đạo đức là nhân tố duy nhất quyết
định sự hưng vong, thịnh suy của đất nước, của triều đại cũng là hạn chế chính của
học thuyết Nho giáo. Xét cho đến cùng, đạo đức cũng chỉ là một trong những hình
thái ý thức xã hội và giống như các hình thái ý thức xã hội khác, nó cũng chịu sự
quy định của tồn tại xã hội. Do đó, lấy đạo đức làm cơ sở quyết định cho tồn tại xã
hội là tư tưởng duy tâm, không tưởng của Nho giáo.
Những nội dung chính trong quan niệm của Nho giáo về đạo đức phải kể đến
là những tư tưởng Tam cương, Ngũ thường, Chính danh Những tư tưởng này
chứa đựng trong nó cả những giá trị và hạn chế thể hiện ở chỗ: ưu điểm của đạo đức
Nho giáo là đã xem xét, đánh giá con người thông qua các mối quan hệ xã hội, từ đó
đặt ra những yêu cầu đạo đức tương đối cụ thể, chỉ rõ trách nhiệm đạo đức cá nhân
đối với gia đình, với mọi người và với bản thân. Đặc biệt, Nho giáo còn đề cao đạo
tu thân và coi đây là một yêu cầu quan trọng bậc nhất trong việc tu dưỡng đạo đức
của mọi người từ bậc thiên tử xuống đến thứ dân Những tư tưởng này đã khiến
đạo đức Nho giáo có nội dung tiến bộ hơn hẳn so với những học thuyết chính trị -
đạo đức đương thời. Mặc dù chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý, nhưng bản thân đạo
đức Nho giáo vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định như: những chuẩn
mực đạo đức mà Nho giáo đề ra khá cứng nhắc và khô khan trói buộc con người
trong những mối quan hệ xã hội đã được định sẵn, làm hạn chế tính năng động,
150
sáng tạo của mỗi cá nhân. Đặc biệt, Nho giáo quá chú trọng đến việc giáo dục đạo
đức cho con người mà quên đi những tri thức về khoa học tự nhiên, về lao động sản
xuất Những điều này đã trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của xã hội, của
con người, làm cho xã hội vận động trì trệ, chậm chạp và dẫn đến sự sụp đổ tất yếu
của chế độ phong kiến.
Du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc, Nho giáo nói chung và đạo đức Nho
giáo nói riêng đã được các triều đại phong kiến Việt Nam tiếp nhận, sử dụng và
từng trở thành hệ tư tưởng chính thống của giai cấp phong kiến thống trị trong một
thời gian khá dài. Đạo đức Nho giáo với các tư tưởng Tam cương, Ngũ thường,
Chính danh đã trở thành một trong những nội dung cơ bản của đạo đức phong kiến
Việt Nam, ăn sâu, bám rễ vào đời sống tinh thần của người Việt truyền thống và có
ảnh hưởng sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sự ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo nói chung, đạo đức Nho giáo nói
riêng không những chỉ diễn ra trong quá khứ. Ngày nay, Nho giáo, đạo đức Nho
giáo tiếp tục có những ảnh hưởng đối với các lĩnh vực trong đời sống tinh thần của
người Việt Nam hiện tại thông qua các phong tục, tập quán, qua giáo dục gia đình,
qua dư luận xã hội cũng như qua hệ thống hương ước của một số làng xã ở nông
thôn Những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo trong từng lĩnh vực của đời sống
tinh thần người Việt hiện nay mà cụ thể trong luận án là đời sống chính trị, đời sống
đạo đức và đời sống pháp luật đang diễn ra theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực
được quy định bởi một loạt các nguyên nhân khác nhau. Và chừng nào những
nguyên nhân này còn tồn tại thì chừng ấy những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo
đối với đời sống tinh thần của người Việt là điều không thể tránh khỏi. Chính vì
vậy, việc đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh
hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong việc
xây dựng đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay là một việc làm hết sức
cần thiết. Đây là cách kế thừa biện chứng, chọn lọc và sáng tạo những tinh hoa trong tư
tưởng của nhân loại nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng. Đó cũng là việc làm
nhằm khơi dậy ý nghĩa đích thực của đạo đức Nho giáo đối với việc xây dựng đời sống
tinh thần lành mạnh cho người Việt Nam hiện nay.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Hoàng Thu Trang (2012), "Quan niệm của Nho giáo về tính người và vai trò của
giáo dục trong việc thay đổi tính người", Tạp chí Khoa học xã hội, (5), (165),
tr.1-6.
2. Hoàng Thu Trang (2013), "Phương pháp “nêu gương” trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử và sự vận dụng sáng tạo ở Hồ Chí Minh", Tạp chí Phát triển nhân
lực, (3), (34), tr.55-59.
3. Hoàng Thu Trang (2013), "Đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam
hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (5), tr.28-31.
4. Hoàng Thu Trang (2013), "Quan niệm của Nho giáo về “hiếu” và ảnh hưởng của
quan niệm đó trong đời sống gia đình ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Khoa
học xã hội, (9), (70), tr.105-111.
5. Hoàng Thu Trang (2014), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, thực hiện
nam nữ bình quyền", Tạp chí Khoa học xã hội, (10), (83), tr.34-41.
6. Hoàng Thu Trang (2015), "Một số quan niệm của Nho giáo về đạo đức người quân
tử", Tạp chí Giáo dục lý luận, (235), tr.22-24.
7. Hoàng Thu Trang (2016), "Thực hiện bình đẳng giới nhằm khắc phục ảnh hưởng
tiêu cực của tư tưởng trọng nam khinh nữ theo quan niệm Nho giáo ở nước ta
hiện nay", Tạp chí Giáo dục và xã hội, (58), (119), tr.48-51.
8. Hoàng Thu Trang (2016), "Đặc trưng cơ bản trong đời sống tinh thần của người
Việt Nam hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (243), tr.28-30.
9. Hoàng Thu Trang (2016), "Nhân tố ảnh hưởng đến sự biến đổi của đạo đức Nho
giáo ở Việt Nam", Tạp chí Giáo dục và xã hội, (6), tr.218-220.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
2. Minh Anh (2005), "Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình
mới ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (10), tr.21-24.
3. Lê Ngọc Anh (1999), "Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam", Tạp chí Triết
học, (3), tr.19 - 21.
4. Nguyễn Thanh Bình (2000), "Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và hoàn
thiện con người", Tạp chí Giáo dục lý luận, (5), tr.35 - 38.
5. Nguyễn Thanh Bình (2007), Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và sự
thể hiện của nó ở Việt Nam(từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Bình (2001), Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội. Ảnh
hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội.
7. Phan Văn Các (1995), "Nho học trong sự nghiệp đổi mới đất nước", Tạp chí
Cộng sản, (9), tr.22-26.
8. Phan Bội Châu (1990), Toàn tập, tập 9, Nxb Thuận Hóa, Huế.
9. Phan Bội Châu (1990), Toàn tập, tập10, Nxb Thuận Hóa, Huế.
10. Phan Bội Châu (1998), Khổng học Đăng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
11. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (1966), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb Cáo
Thơm, Sài Gòn.
12. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (1992), Tuân Tử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Cao Vọng Chi (2014), Đạo hiếu trong Nho gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Doãn Thị Chín (2012), Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức người
phụ nữ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
15. Doãn Chính (chủ biên) (2004), Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Doãn Chính, Phạm Thị Loan (2006), "Sự phát triển của Nho giáo thời kỳ Lý -
Trần", Tạp chí Triết học, (12), tr.14-20.
153
17. Doãn Chính (2009), "Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi", Tạp chí Triết học,
(9), tr.28-39.
18. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), "Khai thác giá trị của truyền thống Nho học phục
vụ sự nghiệp phát triển đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa", Tạp chí
Triết học, (3), tr.28-31.
19. Cổng thông tin điện tử Bộ Công An (2014), "Làm thế nào để hạn chế các vụ
trọng án ở tuổi vị thành niên?", Báo An ninh thủ đô, tại trang
[truy cập ngày 20/11/2014].
20. Phan Đại Doãn (chủ biên) (1999), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đinh Xuân Dũng (chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Ban Tư
tưởng - Văn hóa Trung ương, Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội.
23. D.Ikeda và Peccei (1994), Tiếng chuông cảnh tỉnh của thế kỷ XXI, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
24. Đại Nam Thực Lục Chính Biên (1964), tập 8, Nxb Khoa học, Hà Nội.
25. Quang Đạm (1997), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
29. Nguyễn Tài Đông (chủ biên) (2015), Khái lược lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
30. Tần Tại Đông (2014), Giá trị của đạo đức Nho giáo trong thời đại ngày nay,
Lê Tịnh (lược dịch), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Trần Văn Giàu (1978), "Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt
Nam", Tạp chí Triết học, (1), tr.33-50.
32. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
154
33. Mạnh Hà (2015), Phải chăng đạo đức xã hội đang xuống cấp nghiêm trọng?,
Báo Hà Tĩnh (điện tử), tại trang [truy cập ngày
13/7/2015].
34. Nguyễn Hùng Hậu (2003), "Đặc điểm Nho Việt", Tạp chí Triết học, (3), tr.41-43.
35. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
36. Nguyễn Hùng Hậu (2010), Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
37. Hội Luật gia Việt Nam (2000), Nhà nước và pháp luật, tập 3, Nxb Lao động,
Hà Nội.
38. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
39. Trần Đình Hượu (1986), "Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo trong cách mạng
hiện nay", Tạp chí Thông tin lý luận, (2), tr.34-40.
40. Trần Đình Hượu (1999), Văn học Việt Nam và Nho giáo Việt Nam trung cận
đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Mạnh Hùng, “5 năm thực hiện Chỉ thị 48: Tình hình tội phạm vẫn diễn biến
phức tạp”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, tại trang
[truy cập ngày 06/01/2016].
42. Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân (dịch và chú giải), Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
43. Trần Hậu Khiêm (1994), Các dạng đạo đức xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Vũ Khiêu (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Vũ Khiêu (chủ biên) (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và đạo đức, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Vũ Khiêu (2009), "Về giá trị đương đại của Nho giáo Việt Nam", Tạp chí Triết
học, (8), tr.37-40.
155
51. Lê Trung Khoa (2015), Tư tưởng nhân, nghĩa trong Nho giáo và ảnh hưởng của
nó đối với một số lĩnh vực đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học
viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
52. Nguyễn Thế Kiệt (2001), Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh
đạo quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Nguyễn Thế Kiệt (2008), "Đạo đức Nho giáo trong đời sống Việt Nam", Tạp
chí Lý luận chính trị, (3), tr.65-69.
54. Nguyễn Thế Kiệt (2011), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao
đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Nguyễn Thế Kiệt (2012), Mấy vấn đề đạo đức học mácxít trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Trần Trọng Kim (2008), Nho giáo, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
57. Hương Lan (2014), "Bình đẳng giới ở Việt Nam: thành tựu và thách thức", Báo
Công lý - Cơ quan của tòa án nhân dân tối cao, tại trang
[truy cập ngày 20/10/2014].
58. Lê Thị Lan (2002), "Quan hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại trong xây
dựng đạo đức", Tạp chí Triết học, (7), tr.25-27.
59. Lê Thị Lan (2011), "Sự giải thích mới một số khái niệm Nho giáo của nhà cải
cách Nguyễn Trường Tộ", Tạp chí Triết học, (6), tr.28-32.
60. Nguyễn Ngọc Lâm (2013), "Phát huy năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ nữ",
Tạp chí Xây dựng Đảng, (10), tại trang [truy
cập ngày 7/10/2015].
61. Nguyễn Hiến Lê (1998), Khổng Tử, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
62. Nguyễn Ngọc Long (chủ nhiệm) (1998), Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho
giáo đến đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam, Đề tài khoa học tiềm
lực, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
63. Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Thế Kiệt (đồng chủ biên) (2004), Giáo trình đạo
đức học Mác - Lênin, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
156
64. Nguyễn Thế Long (1990), Nho giáo ở Việt Nam, giáo dục và thi cử, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
65. Cao Xuân Long (2011), "Tư tưởng của Phan Bội Châu về đạo đức", Tạp chí
Triết học, (8), tr.35-43.
66. Lê Văn Lợi (2008), Ảnh hưởng của văn hóa tôn giáo trong đời sống tinh thần
của xã hội Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
67. Hầu Ngoại Lư, Triệu Kỳ Bân và Đỗ Quốc Tường (1995), Bàn về tư tưởng cổ
đại Trung Quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội.
68. Nguyễn Văn Lý (2013), Kế thừa và đổi mới những giá trị truyền thống trong
quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
69. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Nguyễn Thị Thanh Mai (2007), Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo
đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
71. Minh Mệnh Chính Yếu (1974), Võ Khắc Văn, Lê Phục Thiện (dịch), tập 3, Nxb
Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn.
72. Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Triệu Quang Minh, Trần Thị Lan Hương (2012), "Nguyễn Trãi - một nhân
cách Nho Việt", Tạp chí Triết học, (3), tr.77-82.
80. Hà Thúc Minh (1996), Lịch sử triết học Trung Quốc, tập 1, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, Hồ Chí Minh.
81. Hà Thúc Minh (2001), Đạo Nho và văn hóa phương Đông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
157
82. Nguyễn Thị Nga (1999), Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người và ý
nghĩa của nó với việc giáo dục con người Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Hà Nội.
83. Nguyễn Thị Nga, Hồ Trọng Hoài (2003), Quan niệm của Nho giáo về giáo dục
con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Nguyễn Thế Nghĩa (2007), Những chuyên đề triết học dành cho cao học và
nghiên cứu sinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
85. Trần Nghĩa (2010), "Quá trình hội nhập Nho - Phật - Lão hay sự hình thành tư
tưởng “tam giáo đồng nguyên” ở Việt Nam", Tạp chí Triết học, (1), tr.23-30.
86. Lê Hồng Phong (2014), Ảnh hưởng của đạo tin lành đối với đời sống tinh thần
của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
87. Quan Phong, Lâm Duật Thời (1963), Bàn về Khổng Tử, Nxb Sự thật, Hà Nội.
88. Trần Văn Phòng (chủ biên) (2015), Giáo trình triết học dùng cho cao học
không chuyên ngành triết học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
89. Mai Phương (2014), Dương Tự Trọng lại sắp hầu tòa về tội mới, tại trang
[truy cập ngày 23/08/2014].
90. Nam Phương (2014), "Chênh lệch nam nữ có thể tới 4 triệu người", Báo Vn
Express, tại trang [truy cập ngày 23/9/2014].
91. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Hình sự,
số 15/1999/QH10, ngày 21 tháng 12 năm 1999, Điều 3, Hà Nội.
92. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật Dân sự,
số 33/2005/QH1, ngày 14 tháng 6 năm 2005, Điều 389, Hà Nội.
93. Nguyễn Đức Sự (2006), "Mấy vấn đề Nho giáo ở Việt Nam thế kỷ XVI và
XVII", Tạp chí Triết học, (9), tr.36-39.
94. Nguyễn Đức Sự (2009), "Vị trí và vai trò của Nho giáo trong xã hội Việt
Nam", Tạp chí Triết học, (10), tr.16-20.
95. Bùi Hoàng Tám (2016), "Tân Chủ tịch Quốc hội với lời tuyên thệ thiêng liêng
dưới cờ Tổ Quốc", Báo Dân trí, tại trang [truy cập
ngày 31/3/2016].
158
96. Tạp chí Cộng sản (2015), "Kết quả bầu cử cấp ủy tại đại hội các đảng bộ trực thuộc
Trung ương nhiệm kì 2015-2020", tại trang [truy
cập ngày 12/11/2015].
97. Lê Sĩ Thắng (1987), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
98. Lê Sỹ Thắng (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
99. Trần Việt Thắng (2012), "Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo Việt
Nam từ thời Bắc thuộc đến triều Lý", Tạp chí Triết học, (9), tr.71-79.
100. Chương Thâu (2007), Góp phần tìm hiểu Nho giáo, nho sỹ, trí thức Việt Nam
trước năm 1945, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
101. Vi Chính Thông (1996), Nho gia với Trung Quốc ngày nay, Nguyễn Huy
Quý, Nguyễn Kim Sơn(dịch), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Thủ tướng Chính phủ (1998), Kế hoạch triển khai công tác phổ biến giáo dục
pháp luật từ năm 1998 đến năm 2000, ban hành kèm Quyết định
03/1998-TTg, Hà Nội.
103. Nguyễn Đăng Thục (1998), Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội,
Hà Nội.
104. Trần Thị Hồng Thúy (1996), Ảnh hưởng của Nho giáo với chủ nghĩa yêu nước
truyền thống, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
105. Trần Văn Thụy (2003), "Vấn đề đạo đức trong triết học Khổng Tử", Tạp chí
Lý luận chính trị, (10), tr.78-82.
106. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
107. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
108. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với
con người Việt Nam hiện nay, Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà
nước KX-07, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Nguyễn Tài Thư (1999), "Về nguồn gốc của chế độ phong kiến Việt Nam và
đạo đức phong kiến Việt Nam", Tạp chí Triết học, (6), tr.40-42.
159
110. Nguyễn Tài Thư (2002), "Nho giáo và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (5), tr.29-35.
111. Nguyễn Tài Thư (2009), "Một số đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việt Nam",
Tạp chí Triết học, (9), tr.10-21.
112. Cung Kim Tiến (2002), Từ điển triết học, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
113. Phan Mạnh Toàn (2011), Ảnh hưởng của nhân, lễ trong Nho giáo đối với đời
sống đạo đức ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
114. Nguyễn Trãi (1969), Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
115. Hoàng Trung (2015), Sự kế thừa và phát triển đạo đức Nho giáo của Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia,
Thành phố Hồ Chí Minh.
116. Trung tâm Từ điển học (2011), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội.
117. Tứ thư (2006), Dương Hồng, Vương Thành Trung, Nhiệm Đại Viện và Lưu
Phong (chú dịch), Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận (biên dịch),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
118. Nguyễn Đình Tường (2002), "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc
phục", Tạp chí Triết học, (6), tr.19-22.
119. Anh Văn, Vũ Phương và Phạm Thiệu (2015), "Chạy chức, chạy quyền: cần
phải bắt tận tay những kẻ đi đêm", Báo Đời sống và Pháp luật online, tại
trang [truy cập ngày 08/02/2015].
120. Nguyễn Thị Vân (2005), Học thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo và
ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay - thực trạng và
giải pháp, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
121. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2003), Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 1, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
122. Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Harvard - Yenching (Hoa Kỳ) (2006),
"Nho giáo ở Việt Nam", Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
160
123. Nguyễn Khắc Viện (1998), Bàn về đạo Nho, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
124. Việt báo (2001), Vẫn còn tình trạng phép vua thua lệ làng, tại trang
[truy cập ngày 25/8/2001].
125. Trần Khắc Việt (1992), Đời sống tinh thần của xã hội và xây dựng đời sống
tinh thần của xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Luận án Phó tiến sĩ, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
126. Trần Nguyên Việt (2009), "Nho giáo và văn hóa ứng xử trong tư tưởng
Nguyễn Bỉnh Khiêm", Tạp chí Triết học, (11), tr.30-39.
127. Thiệu Vũ (2011), Luận ngữ ứng dụng trong kinh doanh, Phạm Thị Hòa (dịch),
Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
128. Lã Trấn Vũ (1964), Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội.
129. Trần Quốc Vượng (2000), Truyền thống phụ nữ Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
130. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Thành phố Hồ Chí Minh.
131. Nguyễn Bình Yên (1999), Ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng phong kiến trong
cán bộ lãnh đạo, quản lý và phương hướng khắc phục, Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.