Lựa chọn sản phẩm và Thị trường xuất khẩu của Việt Nam thực trạng và giải pháp

bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học ngoại thương -----------------------******------------------------- Khoá luận tốt nghiệp đề tài: Lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam Thực trạng và giải pháp Giáo viên hướng dẫn:Tiến sĩ Nguyễn Hữu Khải Sinh viên: Nguyễn Thị Cẩm Châu Lớp : A13 - K37F Hà Nội tháng 12/2002 Lời nói đầu Xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế - thương mại đang phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, tạo nên những quan hệ gắn

doc120 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lựa chọn sản phẩm và Thị trường xuất khẩu của Việt Nam thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bó, tác động qua lại lẫn nhau. Cùng những tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật, thương mại thế giới đã bước sang giai đoạn phát triển mới - giai đoạn phát triển dựa vào chất xám, vào công nghệ là chủ yếu. Sự thay đổi đó đòi hỏi các nước phải tìm phương thức thích nghi để có thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên vẫn có giá trị đối với các nước đang và chậm phát triển như Việt Nam. Chúng ta đã tiến hàng công cuộc đổi mới được hơn 15 năm qua và đã đạt nhưng thành tựu đáng ghi nhận song bên cạnh đó vẫn còn có những tồn tại mang tính chủ quan. Để tham gia rộng rãi vào phân công lao động quốc tế, mở rộng sự giao lưu giữa các thị trường trong nước và quốc tế, Việt Nam cần dựa chủ yếu vào các nguồn lực trong nước, kết hợp với xu thế phát triển của thế giới, trên cơ sở đó, mở rộng qui mô và tăng xuất khẩu. Điều cơ bản là làm thế nào khai thác được tối đa nguồn lực bên trong và những lợi thế so sánh có được trong phân công lao động quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu. Do đó cần xác định cơ cấu xuất khẩu tối ưu đáp ứng được nhu cầu thị trường, phù hợp với khả năng sản xuất trong nước, có hiệu quả và xây dựng được mặt hàng chủ lực và hệ thống thị trường xuất khẩu trọng điểm bên cạnh chính sách đa dạng hoá ngành hàng xuất khẩu, đa phương hoá bạn hàng xuất khẩu. Trong quá trình tìm tòi tài liệu cho khoá luận này, tác giả đã rất trăn trở với vấn đề trên và đã quyết định chọn đề tài "Lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam - Thực trạng và giải pháp". Trong đề tài tác giả muốn một lần nữa nhìn lại những lợi thế so sánh của Việt Nam trong phân công lao động quốc tế và trên cơ sở đó để xem xét liệu việc lựa chọn sản phẩm xuất khẩu và thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua có phù hợp với khả năng trong nước không, có tận dụng hiệu quả những lợi thế đó không. Với mục đích trên đề tài được chia làm 3 chương với nội dung như sau: Chương I: Những vấn đề chung về lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Chương II: Thực trạng của việc lưạ chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Chương III: Thách thức, định hướng và giải pháp cho việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong 10 năm tới. Những nội dung đề cập trong luận văn này chắc chắn sẽ chưa đầy đủ và nhiều vấn đề còn cần tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh. Do thời gian nghiên cứu và tìm kiếm tài liệu không dài và do kiến thức của tác giả còn hạn chế và những vấn đề liên quan đến công tác xuất khẩu rất lớn nên khoá luận không khỏi có những thiếu sót, tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp của độc giả để hoàn thiện hơn đề tài này. Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong trường, các cơ quan tổ chức đã giúp tác giả trong quá trình nghiên cứu tài liệu, và đặc biệt tác giả xin chân thành cảm ơn Thầy giáo - Tiến sĩ Nguyễn Hữu Khải đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo để tác giả hoàn thành khoá luận này. Hà nội, ngày 20 tháng 12 năm 2002 Mục lục Các từ viết tắt XK: Xuất khẩu XNK: Xuất nhập khẩu VN: Việt Nam CNH: Công nghiệp hoá KNXK: Kim ngạch xuất khẩu Chương I Những vấn đề chung về lựa chọn sản phẩm I Vai trò của việc lựa chọn sản phẩm và thị trường XK 1. Bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới Trong những năm tới đây, tình hình quốc tế và khu vực sẽ còn diễn biến hết sức phức tạp. Trong lĩnh vực kinh tế, xu thế hội nhập sẽ tồn tại song song với xu thế đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia ngày càng gay gắt. Kinh tế thế giới bị chững lại và suy giảm do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính. Cả hai cường quốc Mỹ và Nhật đều đang gặp nhiều khó khăn sau một thời gian phát triển nóng. Tuy nhiên, có thể nhận thấy một số chiều hướng chính như sau : 1. Khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất nòng cốt và trực tiếp của xã hội. Các ngành kinh tế giàu hàm lượng chất xám phát triển mạnh, chu kỳ đổi mới công nghệ và sản phẩm được rút ngắn, lợi thế so sánh của các quốc gia luôn thay đổi dẫn đến sự chuyển dịch thường xuyên hơn về cơ cấu kinh tế. Mức độ phổ cập của mạng Internet sẽ khiến tỷ trọng của thương mại điện tử tăng rất nhanh và thông qua đó thay đổi một cách sâu sắc tư duy kinh doanh, chiến lược tiếp thị cũng như phương thức kinh doanh của mọi doanh nghiệp. 2. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, lôi cuốn hầu hết các nước và mở rộng trên hầu khắp các lĩnh vực giao lưu kinh tế. Toàn cầu hoá tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình, tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững hơn, nguồn lực được phân bổ một cách hiệu quả hơn nhưng cũng làm gia tăng tình trạng tuỳ thuộc lẫn nhau và đặt ra những thách thức cực kỳ gay gắt cho các nước đang phát triển, đó là sức ép cạnh tranh và sức ép về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian ngắn. 3. Phân công lao động quốc tế càng ngày càng đi vào chiều sâu do có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và hệ thống công ty đa quốc gia. Sự phân công theo ngành và theo sản phẩm được chuyển dần sang phân công theo chi tiết sản phẩm và quy trình công nghệ. Khác biệt về điều kiện tự nhiên không còn đóng vai trò quyết định trong phân công lao động quốc tế nữa. Khả năng về công nghệ đang dần dần trở thành yếu tố quan trọng. 4. Trung Quốc là cường quốc kinh tế thứ 2 trên thế giới về GDP, thứ 5 về xuất khẩu và thứ 6 về nhập khẩu, việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động thương mại và đầu tư trên thế giới và trong khu vực trong dài hạn. Nhìn chung, môi trường kinh tế và thương mại thế giới trong những năm tới tỏ ra khả quan hơn so với thời kỳ 1997-1999. Tuy nhiên, khó có cơ sở để hy vọng vào một sự khởi sắc ngay tức thì sau các cuộc khủng hoảng trầm trọng vừa qua. Kinh tế thế giới sẽ phục hồi nhưng với tốc độ chậm khiến thương mại thế giới nói chung và xuất khẩu của nước ta nói riêng sẽ không thể sôi động như thời kỳ 1991-1997. 2. Vai trò của lựa chọn sản phẩm và thị trường XK 2.1 Sự cần thiết phải lựa chọn sản phẩm và thị trường XK Trước bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến bất lợi như hiện nay, lợi thế so sánh của các nước có những thay đổi cơ bản. Trên phạm vi toàn cầu, lợi thế phát triển chủ yếu của thế giới là trí tuệ và hàm lượng công nghệ cao chứ không phải là lao động rẻ, tài nguyên phong phú và nguồn vốn dồi dào. Điều này đặt ra sự phân chia các nhóm nước và khẳng định vai trò của từng nhóm nước với những lợi thế so sánh tương ứng để bổ sung cho nhau trong sự hợp tác và phát triển. Bằng lợi thế bên trong của mình về thị trường, lao động tài nguyên, các nước đang phát triển vẫn có thể tham gia vào nấc thấp hơn của sự chuyển dịch cơ cấu toàn cầu. Tuy nhiên để có thể tận dụng được tối đa những lợi thế đó, các nước cần xác định một cơ chế XK phù hợp dựa trên tiềm năng, nội lực của mình. Các nước sẽ tạo ra được hiệu quả XK như mong muốn, khai thác tối đa tiềm năng khi nước đó tạo được cơ cấu sản phẩm XK tối ưu, một hệ thống thị trường XK đảm bảo khả năng phát triển dài hạn. Kinh nghiệm của Nhật Bản và các nền kinh tế mới cho thấy, những thành tựu kinh tế nói chung và ngoại thương nói riêng trong thời kỳ công nghiệp hoá có sự đóng góp quan trọng của chính sách lựa chọn sản phẩm chủ lực và thị trường ưu tiên. Nhờ chính sách này mà các nguồn tài nguyên, vật lực đã được tập trung cao cho các sản phẩm có lợi thế so sánh, phát triển sản xuất các sản phẩm có ưu thế về quy mô, khai thác được tiềm năng tăng trưởng cao và hiệu quả. 2.2 Vai trò của lựa chọn sản phẩm và thị trường XK Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới biến động như hiện nay, các nước đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, không còn con đường nào khác là phải lựa chọn chiến lược XK phù hợp tức là xác định sản phẩm và thị trường XK sao cho có thể phát huy tối đa lợi thế của mình. Thực chất của chiến lược này là phát huy lợi thế của sản xuất trong nước, đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Để đẩy nhanh ngoại thương phải thực hiện phương châm đa dạng hoá sản phẩm và đa phương hoá thị trường, đồng thời với việc phát triển sản phẩm chủ lực và thị trường trọng điểm. Vì vậy vấn đề lựa chọn sản phẩm và thị trường XK được coi là vấn đề cốt lõi . Lựa chọn sản phẩm và thị trường nhằm nâng cao năng lực cạnh trạnh, tận dụng lợi thế cạnh tranh trong XK và thu được hiệu quả cao, thúc đẩy ngoại thương phát triển, góp phần quan trọng trong trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Khi nền kinh tế thế giới phát triển, ngoại thương không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là các hoạt động mua bán thông qua XNK hàng hoá và dịch vụ mà là sự phụ thuộc tất yếu lẫn nhau giữa các nước trong phân công lao động quốc tế. Chiến lược về điều tra nghiên cứu thị trường để đưa ra các quyết định lựa chọn thị trường cho sản phẩm của một công ty hay một quốc gia là chính sách đầu tiên và quan trọng nhất, đóng vai trò quyết định trong chính sách ngoại thương của một nước. Thị trường là một hiện tượng động, nhất là thị trường quốc tế. Nó luôn vận động và biến đổi theo quy luật riêng dưới sự tác động của các nhân tố như môi trường kinh tế quốc tế, thời gian, tình hình kinh tế - xã hội của từng quốc gia, của khu vực cũng như của nền kinh tế toàn cầu. Về lý thuyết, việc điều tra nghiên cứu để lựa chọn thị trường cho hoạt động XK của một nước là hết sức khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan như môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường luật pháp, văn hoá, chính trị - xã hội và quan trọng hơn là việc xem xét, phân tích, đánh giá cơ cấu tiêu dùng của một quốc gia để xác định thị trường có tiềm năng không, các quốc gia khác nhau lại có cơ cấu tiêu dùng khác nhau. Các nước giàu thường nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất trong khi các nước nghèo lại chú trọng vào nhập khẩu hàng tiêu dùng. Trong giai đoạn chuyển tiếp giữa thay thế nhập khẩu và khuyến khích XK, điều tra lựa chọn thị trường một cách hợp lý đảm bảo mục tiêu phát triển sản xuất, thực hiện công nghiệp hoá, tăng trưởng và phát triển kinh tế trong điều kiện tiềm lực còn yếu kém ở các nước đang phát triển có tính chất quyết định. Trong thời kỳ này về căn bản các nước đang phát triển thường lựa chọn thị trường có dung lượng lớn, sức tiêu thụ cao, nhằm tranh thủ các lợi thế cạnh tranh tĩnh về chi phí nguyên vật liệu và công lao động rẻ. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng cao ở các nước trong vài thập kỷ qua kể từ khi thực hiện chiến lược hướng về XK, một phần là nhờ vào yếu tố biết phân tích và lựa chọn hợp lý này. Đến nay việc tranh thủ những lợi thế so sánh tĩnh về tài nguyên thiên nhiên và sức lao động không còn đóng vai trò quyết định trong cân nhắc lựa chọn sản phẩm và thị trường XK. Bên cạnh đó, có một thực tế là sức cạnh tranh của những sản phẩm cùng loại chất lượng cao của các nước là ngang bằng. Vì vậy xu hướng chuyển sang nghiên cứu để tìm kiếm và khai thác thị trường ở các nước kém phát triển hơn như Châu Phi hay Trung Đông là một hướng đi mới và đang hình thành trong chiến lược thị trường ở các nước này. Vào những năm 60, chiến lược của Nhật Bản trong thời kỳ này là mở rộng XK sang các thị trường Châu á nhằm độc chiếm các thị trường này. Chính chiến lược thị trường hợp lý đó cùng việc thi hành các chính sách ngoại thương khác đã tạo ra sự bùng nổ XK. Kể từ cuối những năm 70 trở đi, các sản phẩm của Nhật Bản không còn phụ thuộc phần lớn vào các thị trường Châu á nữa do các thị trường này chỉ chấp nhận những sản phẩm chế tạo có hàm lượng giá trị không cao. Chính vì lý do đó cộng với sự cạnh tranh về thị trường của các quốc gia đang phát triển ngày càng gia tăng, chiến lược lựa chọn thị trường của Nhật Bản đã chuyển sang các nước phát triển đặc biệt là Mỹ và Tây Âu. Với sự lựa chọn thị trường và sản phẩm cho thị trường đó hợp lý, Nhật Bản đã tạo ra những ảnh hưởng có tính quyết định đối với sản xuất trong nước cũng như chiến lược đầu tư ra nước ngoài. Thị trường thế giới luôn là yếu tố động và hết sức nhạy cảm và chính nó sẽ quyết định chính sách sản phẩm. Chiến lược thị trường và sản phẩm hợp lý là điều kiện tiên quyết để có được một chính sách ngoại thương hiệu quả trong xu hướng mở cửa nền kinh tế trên toàn cầu. II Cơ sở để lựa chọn sản phẩm và thị trường XK ở tầm vĩ mô, sự lựa chọn sản phẩm và thị trường XK dựa trên nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau. Sự lựa chọn đó hình thành chiến lược quốc gia về sản phẩm và thị trường XK. Đối với các nền kinh tế đang phát triển cơ sở chủ yếu để họ có thể lựa chọn sản phẩm XK là cầu về sản phẩm đó trên thị trường thế giới và lợi thế cạnh tranh có thể tạo ra được trên cơ sở điều kiện nguồn lực quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Lợi thế cạnh tranh không đơn thuần chỉ dựa vào nguồn lực sẵn có mà còn phải chủ động tạo ra, muốn như vậy thì phải có những định hướng đầu tư lâu dài. 1. Nguồn lực đầu vào Lợi thế cạnh tranh quốc gia là ưu thế giữa các quốc gia về lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, đất đai và công nghệ. Các quốc gia tận dụng ưu thế này để tạo ra sản phẩm có chi phí thấp. Một nước đông dân, ít vốn, lao động rẻ thì trước hết phải định hướng sản xuất ra các mặt hàng sử dụng nhiều lao động ( khai thác tài nguyên và phát triển các mặt hàng sử dụng nhiều lao động để XK đã là sự lựa chọn của các nước Đông á trong thời kỳ đầu của quá trình CNH). Tuy nhiên lợi thế cạnh tranh của bất kỳ nước nào cũng chỉ có tính chất tương đối, luôn luôn trong quá trình biến động và phát triển. Vì vậy, cơ cấu XK theo mặt hàng cũng phải thay đổi. Tính quy luật của sự thay đổi cơ cấu sản phẩm XK là chuyển dần từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động rẻ, không cần tay nghề cao như sản phẩm dệt may, da giày... sang các sản phẩm nhiều lao động có tay nghề cao như ngành hoá chất, điện tử, sắt thép... và cuối cùng chuyển sang các sản phẩm cần nhiều vốn và công nghệ cao như cơ khí chính xác, tự động hoá... Lợi thế so sánh của các nước là cơ sở vững chắc giúp các nước này xây dựng cơ cấu XK phù hợp nhất với thực lực của mình. Các nước dù muốn phát triển đến đâu, dù muốn xây dựng cơ cấu XK tối ưu đến đâu cũng không thể không tính đến thực lực của mình. Tuy nhiên với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ, các nước cần phải chuẩn bị cho mình một hướng đi thích hợp để một mặt vẫn tranh thủ được những tiến bộ khoa học, những cơ hội giành cho nước đi sau, mặt khác vẫn có thể khai thác được tối đa lợi thế so sánh của mình, trên cơ sở đó xây dựng một cơ cấu XK hoàn thiện, đem lại lợi ích tối đa cho sự phát triển kinh tế trong môi trường kinh tế toàn cầu cạnh tranh. 2. Cầu về sản phẩm trên thị trường thế giới Yếu tố lớn nhất chi phối và có tính quyết định đối với việc lựa chọn sản phẩm XK là yếu tố thị trường, bởi vì hàng hoá và thị trường là hai yếu tố cơ bản không thể tách rời nhau, và như Mác nói, "cuối cùng thì nhu cầu của tiêu dùng quyết định sản xuất". Không hiểu được nhu cầu của thị trường thế giới , của từng nước, từng khu vực cũng như không hiểu được khả năng cung cầu của họ về từng loại hàng hoá thì không thể có phương hướng đúng đắn về chiến lược XK nói chung và sản phẩm XK nói riêng. Các nước không thể không tính đến nhu cầu thị trường khi xây dựng cơ cấu XK dựa trên lợi thế so sánh của mình. Thị trường là một yếu tố động, nếu một nước không nắm bắt được những thay đổi đó của thị trường thì sẽ chỉ sản xuất và XK những mặt hàng đã bão hoà, những mặt hàng lỗi thời không còn được ưu chuộng trên thị trường, không còn phù hợp với nhu cầu hiện tại và thất bại sẽ là một tất yếu không thể tránh khỏi. Chính nhu cầu thị trường mới có tính chất quyết định đến quy mô sản xuất, cơ cấu sản xuất hay nói khác đi, cầu về sản phẩm đó trên thị trường mới giúp doanh nghiệp trả lời các vấn đề cơ bản: sản xuất cho ai, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào. Tuy nhiên việc nắm chắc được nhu cầu của thị trường về sản phẩm là một điều không đơn giản, đặc biệt với các nước đang phát triển. Hiện nay, để có được thông tin về thị trường thế giới, về nhu cầu cụ thể về một sản phẩm nào đó vẫn là một thách thức đối với các nước này. Vấn đề đặt ra cho các nước này là làm thế nào để có thể bám sát được thị trường thế giới, nắm bắt được những thay đổi cũng như những xu hướng thay đổi của thị trường để từ đó có những định hướng phù hợp mang lại hiệu quả cao. 3. Năng lực cạnh tranh Một điểm tổng hợp nhất cũng ảnh hưởng tới chính sách lựa chọn sản phẩm là năng lực cạnh tranh, bao gồm năng lực cạnh tranh của toàn nền kinh tế và năng lực cạnh tranh của từng ngành, từng sản phẩm. Xét trên toàn nền kinh tế, theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới WEF, năng lực cạnh tranh tuỳ thuộc vào 8 loại yếu tố sau: Mức độ mở cửa( đó là thuế quan và các hàng rào phi thuế quan ngăn chặn nhập khẩu, khuyến khích XK, chính sách tỷ giá hối đoái). Vai trò của chính phủ (mức độ can thiệp của nhà nước, năng lực của chính phủ, quy mô chính phủ, chính sách tài khoá, các mức thuế). Hệ thống tài chính (phạm vi làm trung gian, hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài chính, đầu tư và tiết kiệm). Năng lực công nghệ (năng lực phát triển công nghệ trong nước, công nghệ thông qua FDI hoặc chuyển giao nước ngoài). Kết cấu hạ tầng (điện thoại, những hỗ trợ kết cấu hạ tầng khác). Quản trị (các yếu tố quản trị không liên quan đến nhân lực, quản lý nguồn nhân lực). Lao động (kỹ năng tay nghề và năng suất, tính linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả của các chương trình xã hội, quan hệ lao động ngành). Thể chế (chất lượng các thể chế pháp lý). Trên cơ sở phân tích trên năm 1997 Việt nam xếp thứ 49 trên 53 nước và lãnh thổ. Xét dưới cấp độ ngành và sản phẩm, theo hai tác giả, Siggel và Cockburn năng lực cạnh tranh tuỳ thuộc vào hai loại yếu tố sau: Một là lợi thế so sánh, bao gồm: chi phí đầu vào trung gian; mức dồi dào lao động; năng suất lao động; cường độ sử dụng lao động Hai là những méo mó về giá cả: méo mó giá đầu vào trung gian; méo mó tiền lương; méo mó giá vốn; méo mó giá hàng hoá vốn; tỷ giá quá cao so với đồng nội tệ hoặc thuế quá cao. Tuy nhiên việc xem xét các yếu tố này còn phụ thuộc vào độ tin cậy của thông tin và dữ liệu. Song nó cũng giúp tìm ra những điểm yếu cụ thể để khắc phục hoặc những điểm mạnh để phát huy khi xây dựng ngành hàng. Chẳng hạn giá lao động Việt Nam thấp hơn 30% so với Inđônêsia là lợi thế của Việt nam, nhưng năng suất lao động của Việt nam kém hơn Inđônêxia 50% lại là điểm yếu mà Việt Nam cần khắc phục; hay mức giá dịch vụ cao của Việt Nam so với Philippin và Thái Lan là những chi phí mà Việt nam phải giảm nhiều mới có thể phát triển được những sản phẩm có khả năng cạnh tranh với họ. III Các chính sách lựa chọn sản phẩm và thị trường XK ở các nước phát triển, trong quá trình CNH, sự đổi mới cơ cấu ngoại thương được thực hiện thông qua chính sách " đa dạng hoá ngoại thương". Nội dung chủ yếu của chính sách này là mở rộng diện mặt hàng và thị trường trên cơ sở tập trung ưu tiên có trọng điểm một số mặt hàng và một số thị trường chính, chủ lực. Chính sách đa dạng hoá ngoại thương được triển khai trên hai hướng là đa dạng hoá sản phẩm và đa dạng hoá thị trường. 1.Chính sách lựa chọn sản phẩm XK 1.1 Các yếu tố chi phối chính sách lựa chọn sản phẩm Bên cạnh yếu tố thị trường, năng lực canh tranh nêu trên, chính sách vĩ mô, chính sách giá cả, tỷ giá, thuế , chính sách hàng đổi hàng có tác động không kém đối với việc lựa chọn và phát triển sản phẩm XK. Chính sách vĩ mô, cùng với việc chuyển hướng chiến lược kinh tế từ "đóng cửa" sang "mở cửa", các nước đang phát triển thực hiện những biện pháp nới lỏng dần hệ thống quản lý của mình theo chính sách tự do hoá, được thể hiện thông quá việc giảm bớt hàng rào thuế quan và dành cho tư bản nước ngoài một sự ưu đãi cao, tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh mà mức độ nới lỏng quản lý của mỗi nước có khác nhau. Nổi bật hơn cả là hai xu hướng: tự do hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh của tư nhân, và tự do hoá có điều chỉnh thông qua kế hoạch hoá. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Xu hướng chung giá cả thế giới trong mấy thập kỷ qua là ngày càng mở rộng giá cánh kéo, trong đó giá các loại sản phẩm công nghiệp tăng mạnh, còn giá các loại sản phẩm nông nghiệp và nguyên liệu đa phần là giảm, chỉ có một số ít tăng chậm. Tình hình trên đây gây thiệt hại lớn cho các nước đang phát triển xuất khẩu nông thổ sản, nguyên liệu thô. Khi hoạch định chính sách lựa chọn và phát triển hàng hoá XK cũng cần chú ý tới các biện pháp ưu đãi về thuế và trợ giúp XK. Thông thường để khuyến khích XK, các nước đang phát triển một mặt áp dụng hàng loạt các biện pháp thuế ưu đãi, tác dụng ưu đãi và trợ giúp XK, mặt khác tăng cường XK các mặt hàng công nghiệp chế biến và nửa chế biến. Nhưng việc XK sản phẩm công nghiệp của các nước đang phát triển, nhất là hàng dệt, điện tử từ cuối những năm 70 trở lại đây gặp khó khăn vì chính sách bảo hộ mậu dịch thuế quan và phi thuế quan của các nước tư bản phát triển, do đó thị trường lại là yếu tố quan trọng cần tính đến khi quyết định phát triển loại hàng XK nào. Tỷ giá hối đoái linh hoạt có tác dụng to lớn đối với XK nói riêng và đối với hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung. Đối với các nước đang phát triển, giá cả thế giới là cơ sở chủ yếu cho việc định giá của họ. Khi tỷ giá của những đồng tiền mạnh nhất đã thay đổi, việc duy trì một tỷ giá cố định là bất lợi cho ngoại thương của họ. Chính vì vậy nhiều nước đang phát triển đã chuyển từ chính sách cố định tỷ giá hối đoái sang thả nổi(Thái Lan), một số nước khác không chấp nhận thả nổi thường xuyên điều chỉnh tỷ giá. Trong nhiều trường hợp các nước đang phát triển phải phá giá đồng tiền của mình để hỗ trợ cho hoạt động ngoại thương, bởi vì phá giá là công cụ mạnh để phát triển XK. Gần đây một số nước có xu hướng đẩy mạnh ngoại thương hàng đổi hàng mà nguyên nhân chủ yếu là tình trạng suy thoái và giảm sút về hàng hoá cơ bản và do tình trạng thiếu ngoại tệ nghiêm trọng Từ lâu hình thức này là đặc trưng của mối quan hệ buôn bán giữa các nước XHCN Đông Âu, nhưng mấy năm gần đây đã mở rộng ra cả mối quan hệ giữa các nước đang phát triển châu á với phương Tây. Đây không phải là giải pháp lớn , nhưng nó có thể có những tác động nhất định, góp phần cùng với nhiều giải pháp khác giúp các nước ASEAN vượt qua những khó khăn, bảo vệ, phục hồi và tiếp tục phát triển những mặt hàng thuộc lợi thế của họ. 1.2 Chính sách vĩ mô 1.2.1 Đa dạng hoá sản phẩm XK Hướng phát triển chủ yếu của đa dạng hoá hàng hoá XK là đi từ củng cố và phát triển các ngành truyền thống đi lên. Sự thay đổi cơ cấu hàng hoá XK gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Thời kỳ đầu những năm 50 và 60, khi nông nghiệp còn chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, các cơ sở còn yếu kém, kỹ thuật lạc hậu thì sản phẩm thô và sơ chế chiếm gần như toàn bộ hàng XK của các nước này. Đến những năm 70 với sự phát triển tương đối khá của công nghiệp chế biến và chế tạo, trong cơ cấu XK của các nước, sản phẩm thô và sơ chế dần nhường chỗ cho sự tăng lên của các sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo như hàng dệt may, máy móc, thiết bị vận tải và các sản phẩm chế tạo khác. Từ những năm 80 đến nay, nhiều nước đang phát triển Châu á đã đạt được một trình độ phát triển công nghiệp khá cao như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore được xếp vào hàng các nước mới CNH (NICs). Các nước này ngày càng coi trọng khả năng XK máy móc, thiết bị công nghiệp đặc biệt là thiết bị điện tử. Cơ cấu XK của hầu hết các nước đó đã và đang thay đổi theo hướng giảm dần XK thuần tuý các loại tài nguyên thiên nhiên thô, sơ khai sang tăng dần XK các hàng hoá có hàm lượng tài nguyên cao kết hợp hàm lượng lao động cao (sản phẩm chế biến, sản phẩm gia công, lắp ráp) và khi nền công nghiệp đạt được một trình độ phát triển khá, họ tiến tới tăng dần sản xuất và XK các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao như máy móc, thiết bị và các sản phẩm kỹ thuật tinh vi, hiện đại. Tóm lại, có thể khẳng định đa dạng hoá sản phẩm XK là xu thế phổ biến và tất yếu của các nưóc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, 1.2.2 Xây dựng hàng XK chủ lực Một yếu tố then chốt của đa dạng hoá hàng hoá XK là ưu tiên phát triển hàng XK chủ lực. Điều này không có gì mâu thuẫn với xu hướng mở rộng diện mặt hàng, mà ngược lại chính trên cơ sở mở rộng diện mặt hàng, việc lựa chọn và phát triển hàng XK chủ lực càng được thực hiện tốt hơn. Sự đa dạng hoá hàng hoá XK chủ lực góp phần khắc phục hai hiện tượng phát triển lệch lạc và bất lợi trong lĩnh vực XK của các nước đang phát triển. Thứ nhất, đối với những nước thu nhập XK dựa gần như toàn bộ vào một hoặc hai mặt hàng, nay cần phải tăng thêm số lượng mặt hàng chủ lực để tránh thiệt hại to lớn do những biến động cung cầu, giá cả bất lợi trên thị trường thế giới có thể xảy ra cho hàng hoá đó, như Cuba dựa vào XK đường; Bănglađét dựa vào XK đay. Về mặt này, kinh nghiệm của Thái Lan và Malaixia rất đáng chú ý, họ đã nâng được một số mặt hàng như dầu cọ, sắn từ không chủ lực lên chủ lực. Thứ hai, đối với những nước hàng hoá XK ở vào tình trạng phân tán, manh mún chưa có hàng chủ lực, thì việc tập trung ưu tiên xây dựng và phát triển một số mặt hàng chủ lực là tất yếu. Đó là một nhu cầu bức thiết vừa cho trước mắt vừa cho lâu dài. Có một câu hỏi đặt ra là: Vậy mỗi nước cần bao nhiêu mặt hàng XK chủ lực là vừa? Kinh nghiệm của các nước đang phát triển Châu á trong mấy năm gần đây cho thấy: mỗi nước nên tập trung ưu tiên cao cho việc phát triển từ 5 đến 10 mặt hàng XK chủ lực. Số lượng mặt hàng chủ lực tuy không nhiều, nhưng khối lượng và giá trị XK lớn, có ý nghĩa chiến lược lâu dài và quyết định đối với sự thành bại của hoạt động XK của một nước. Số lượng từ 5 đến 10 mặt hàng như vậy cho phép khắc phục tình trạng thị trường bất lợi cho mặt hàng này hay cho mặt hàng kia, vừa mở ra những khả năng khi điều kiện thuận lợi có thể lựa chọn một vài trong số những mặt hàng đó để tập trung phát triển quy mô lớn, kịp thời chớp lấy những thời cơ tốt của thị trường thế giới. Bảng 1: Các mặt hàng XK chính của các nước Lào, Campuchia, Myanma, Việt Nam Nước Hàng xuất khẩu Hàng nhập khẩu Campuchia Cao su tự nhiên Sản phẩm dầu hoả Gỗ cắt Vải dệt Sắt Thuốc lá Ngư phẩm Nguyên vật liệu xây dựng Lào Gỗ và các sản phẩm gỗ Hàng tiêu dùng Quần áo Phương tiện đi lại và phụ tùng Điện Nông phẩm Chất đốt và khí đốt Chè và cà phê Trang thiết bị xây dựng và đồ điện Máy móc Việt Nam Dầu và các sản phẩm hoá dầu Sản phẩm dầu Sản phẩm biển Máy móc công nghiệp và phương tiện vận chuyển Gạo Quần áo và vải dệt Phân bón Cà phê Bông Nguồn: UN/ ESCAP, Phát triển khu vực tư nhân và ODA ở Đông Dương, New York; The Review, Rangoon, 1999. Những mặt hàng XK chủ lực của 5 nước ASEAN trong thời kỳ đầu CNH phản ánh rất rõ tính chất nông nghiệp và truyền thống của nền kinh tế các nước, chúng chủ yếu bao gồm những mặt hàng nông sản và khoáng sản như ở Inđônêxia (dầu lửa, cao su, cà phê, thiếc, gỗ, dầu cọ); ở Philippin là cùi dừa, đường, đồng, gôc, dầu lửa; ở Thái Lan là gạo, cao su, ngô, thiếc, sắn. Riêng trường hợp Singapore do điều kiện địa lý đặc biệt nên hàng hoá XK chủ yếu là các sản phẩm công nghiệp, nhưng ngay cả sản phẩm công nghiệp cũng chịu ảnh hưởng của các sản phẩm nông nghiệp của các nước láng giềng. Singapore phát triển sản phẩm chủ lực trong thời kỳ đầu CNH chủ yếu thông qua chế biến sản phẩm thô của các nước lân cận, như dầu lửa, cao su, dầu thực vật tổng hợp. Cơ cấu sản phẩm XK chủ lực của 5 nước ASEAN nêu trên rất giống với cơ cấu XK của 3 nước ASEAN mới (Việt Nam, Myanma, Lào) và Campuchia hiện nay (Bảng 1). Theo bảng này chỉ có quần áo và vải dệt của Việt Nam là có thể tính được vào số các mặt hàng phi truyền thống, nhưng ngay cả loại hàng này của Việt Nam phần lớn mới chỉ là hàng gia công theo hợp đồng đặt hàng từ nước ngoài, chưa phải là hàng tự sản xuất để XK. Đến những năm 90, một số mặt hàng chủ lực trên đây như cao su, dầu cọ, cà phê, dầu lửa vẫn còn được tiếp tục phát triển, nhưng đã tăng phần chế biến, nghĩa là tăng hàm lượng lao động, vốn và công nghệ, nâng cao giá trị gia tăng của hàng hoá. Mặc dù vậy, những hàng hoá này ngày càng giảm tỷ trọng trong tổng giá trị XK của mỗi nước nhường chỗ cho sự vượt lên của hàng hoá công nghiệp mới như hàng điện tử, dệt may, giày dép... 1.3 Chính sách vi mô 1.3.1 Chính sách mở rộng trực tiếp Chính sách mở rộng trực tiếp là việc giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp với một thị trường nước ngoài mà không cần bất kỳ sự thay đổi nào của sản phẩm đó. Thực chất đây là chiến lược dựa trên quan điểm toàn cầu hoá sản phẩm. Trong trường hợp này chủ trương của doanh nghiệp là giữ nguyên sản phẩm như nó được bán trên thị trường nội địa, đồng thời tìm kiếm khách hàng nước ngoài quan tâm. Chính sách này tuy tiết kiệm được chi phí nhưng chỉ thích hợp với một số sản phẩm nhất định như nguyên liệu thô, nguyên liệu chế biến dùng trong sản xuất công nghiệp có khả năng toàn cầu hoá cao đối với các thị trường khác hoặc khi trên thị trường nước ngoài có những phần thị trường tương tự như thị trường nội địa. 1.3.2 Chính sách thích nghi sản phẩm Chính sách thích nghi sản phẩm là việc thay đổi sản phẩm nhằm thoả mãn yêu cầu và thị hiếu của thị trường nước ngoài. Sự thích nghi này được tiến hành từng phần hoặc toàn bộ đối với thành phần chất lượng của sản phẩm (thay đổi tính năng kỹ thuật, tạo ra những công dụng mới cho sản phẩm, thay đổi bao bì sản phẩm, cải tiến các dịch vụ hỗ trợ sản phẩm,...). Để thực hiện được chính sách này, doanh nghiệp cần tiến hành các bước: - Nghiên cứu chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm. Nói đến chu kỳ sống của sản phẩm thì phải gắn sản phẩm đó với một thị trường nhất định. Khi xác định khả năng tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải biết được sản phẩm của mình đang ở giai đoạn nào thuộc chu kỳ sống của nó trên thị trường nghiên cứu. Việc nghiên cứu và phân tích chu kỳ sống của một sản phẩm trên thị trường nước ngoài nhằm xác định chính sách marketing thích hợp cho từng giai đoạn của chu kỳ sống, kéo dài thời gian những giai đoạn có tỷ suất lợi nhuận cao và rút ngắn những giai đoạn thua lỗ. - Tạo ra những công dụng mới cho sản phẩm. Mục đích là nhằm làm thích ứng nó với thị trường nước ngoài và kéo dài chu kỳ sống của nó. Đây là vấn đề hết sức khó khăn vì ở mỗi thị trường lại ._.có thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Cần tập trung và thiết kế nhãn mác hàng hoá để tiêu chuẩn hoá kỹ thuật sản phẩm. ý định về một sản phẩm mới cần xuất phát từ giác độ của cả người tiêu dùng. Đối với người tiêu dùng thì liệu sản phẩm đó có đáp ứng được yêu cầu của họ không, có rẻ hơn không, có dễ sử dụng hơn không, chất lượng có tốt hơn không. Về phía doanh nghiệp vấn đề quan tâm là sản phẩm sẽ mang về bao nhiêu lợi nhuận, lượng bán và doanh số có đảm bảo không, khả năng tài chính có đủ không, có phải đầu tư thêm phương tiện sản xuất mới không, có phải thiết lập các kênh phân phối mới không. Trước khi tung sản phẩm mới ra thị trường cần nghiên cứu kỹ các thông tin trên thị trường và khi giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường cần phải dựa vào chính sách chung về marketing. 1.3.3 Chính sách chủng loại sản phẩm Chính sách chủng loại sản phẩm là một bộ phận chính sách quốc tế chung về sản phẩm. Nó liên quan đến các tuyến sản phẩm mà doanh nghiệp định đưa ra bán tại thị trường nước ngoài. Chính sách chủng loại sản phẩm bị chi phối bởi các yếu tố trên thị trường nước ngoài cũng như năng lực tài chính và sản xuất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xác định rõ mục tiêu của mình mở rộng ra thị trường nước ngoài là tăng lợi nhuận, doanh số hay mở rộng thị phần; là việc hạn chế rủi ro hay tận dụng năng lực sản xuất thừa; cần xác định rõ tuyến sản phẩm hiện tại đã tận dụng hết các nguồn lực của mình chưa. Các nhân tố ngoại sinh ảnh hưởng tới quyết định chính sách sản phẩm của doanh nghiệp là: sự khác biệt về đặc điểm nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng tại thị trường khác nhau; các giá trị văn hoá và xã hội ảnh hưởng lớn đến hành vi và những định kiến của người tiêu dùng về sản phẩm; các yếu tố cạnh tranh trên thị trường như loại sản phẩm và khả năng cạnh tranh của chúng, mức độ thoã mãn nhu cầu thị trường của các sản phẩm cạnh tranh đó; mức độ cạnh tranh lớn và chi phí thâm nhập thị trường cao thì doanh nghiệp có thể phải bằng lòng với tuyến sản phẩm hẹp phục vụ cho những phần thị trường chọn lọc; hệ thống phân phối đang tồn tại trên thị trường; các quy định về sản phẩm và bao gói, quy định về nhập khẩu, các điều kiện về tự nhiên, khí hậu, địa lý . trình độ phát triển kinh tế của thị trường đó. 2. Chính sách lựa chọn thị trường XK 2.1 Chính sách vĩ mô Lựa chọn một cách hợp lý, đề xuất và thực thi chiến lược thị trường xuất khẩu đúng đắn là một trong những khâu quan trọng làm tăng mức xuất khẩu của các nước. ở Hầu hết các quốc gia, quá trình đẩy mạnh xuất khẩu trên thực tế là quá trình khai thác thị trường theo hai hướng: tìm kiếm thị trường mới và tăng mức xuất khẩu trên các thị trường hiện có. Có nghĩa là các quốc gia đều cố gắng tăng xuất khẩu bằng mọi cách, tránh sự tập trung quá mức vào một thị trường nào đó, tức là phải đa dạng hoá thị trường xuất khẩu để đảm bảo xuất khẩu tăng nhanh và ổn định. Trong hoàn cảnh phát triển có nhiều bất lợi, diễn biến kinh tế thế giới biến động các nước đang phát triển luôn phải thay đổi, điều chỉnh linh hoạt các chính sách để có một chiến lược có hiệu quả. Bên cạnh các chiến lược cơ bản, còn có các chiến lược như " bổ khuyết", " cát cứ", " nhen nhóm" để tìm ra một phương hướng thị trường thích hợp. Các nước muốn đa dạng hoá thị trường xuất khẩu cần tăng cường các hoạt động mở mang thị trường theo nhiều phương vị, nhiều tầng nấc, nhiều phương thức mà trọng tâm là đa dạng hoá thị trường. Nếu các nước không thể xây dựng cho mình một mạng lưới thị trường xuất khẩu thì thất bại là điều chắc chắn. Tuy nhiên, bên cạnh đó các nước cần tập trung vào một số thị trường trọng điểm mà mình có khả năng XK để làm bàn đạp cho chiến lược đa dạng hoá thị trường XK. Do vậy, một chính sách đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá bạn hàng sẽ giúp cho các nước cân bằng trong chiến lược hội nhập kinh té thế giới, giảm được tổn thất xảy ra khi có nheững biến động bất thường, góp phần ổn định nền kinh tế trong nước cũng như nền kinh tế toàn cầu. Các nước cần tăng cường hợp tác chiều sâu, giảm sự phụ thuộc vào từng nước riêng lẻ để phân tán các nhân tố rủi ro. 2.2 Chính sách vi mô Song song với chiến lược, chính sách đa dạng hoá thị trường xuất khẩu các nước cần xây dựng cho mình các thị trường xuất khẩu trọng điểm. Chính những thị trường này sẽ giúp các nước củng cố vị thế của mình nhanh chóng, đẩy mạnh được xuất khẩu. Các nước chủ yếu nhằm vào các thị trường có dung lượng lớn, có khả năng thanh toán cao, có nhu cầu đa dạng có như vậy như thị trường Mỹ, thị trường EU, thị trường Nhật Bản, ... Khi thâm nhập vào các thị trường này, các nước sẽ gặp phải các rào cản thuế quan và phi thuế quan, tuy nhiên với những chiến lược đã hoạch định sẵn, các thị trường này sẽ đem lại cho các nước xuất khẩu sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nhanh chóng. Các thị trường này thường là các thị trường khó tính, đòi hỏi các tiêu chuẩn chất lượng cũng như kỹ thuật cao, do đó cần có bước chuẩn bị tốt trước khi bắt đầu thâm nhập, sự thành công của lần thâm nhập đầu tiên sẽ quyết định tất cả. Các thị trường chủ lực này sẽ là bước đệm vững chắc để thâm nhập vào thị trường thế giới nếu được xác định thích hợp với khả năng cạnh tranh, khả năng cung cấp. Thành công tại thị trường này sẽ tạo uy tín do đó các nước sẽ dễ dàng thâm nhập vào các thị trường khác. Tuy nhiên đầu tư ban đầu cho các thị trường này tương đối cao và đòi hỏi các nước xuất khẩu phải có chiến lược cụ thể, có sự nghiên cứu sâu sát thị trường cần thâm nhập đó. chương ii: Thực trạng của việc lựa chọn sản phẩm Và THị TRƯờNG xk của việt nam I. Thực trạng của việc lựa chọn tiềm năng (sản phẩm) xuất khẩu. 1. Lợi thế so sánh của Việt Nam - cơ sở để lựa chọn sản phẩm XK Trên cơ sở xem xét kỹ hơn về những lợi thế so sánh của Việt Nam có thể đánh giá được khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam và xem sự lựa chọn sản phẩm và thị trường XK của Việt Nam đã phù hợp chưa, đã mang lại hiệu quả chưa. So với các nước trong khu vực, Việt Nam có các lợi thế so sánh chủ yếu sau: vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên(TNTN), nguồn nhân lực. 1.1. Vị trí địa lý 1.1.1 Vị trí địa lí Việt Nam chạy dọc phía đông bán đảo Đông Dương, vừa gắn với lục địa châu á rộng lớn, vừa thông ra Thái Bình Dương, trên vành đai sinh khoáng Châu á - Thái Bình Dương nên rất giàu khoáng sản. Trong tương lai khi kênh đào Kra của Thái Lan hoàn thành và con dường xuyên á chạy dọc biển Việt Nam đi vào hoạt động thì Việt Nam sẽ trở thành tâm điểm của giao thông đường biển, đường bộ, đường hàng không quốc tế ở Châu á - Thái Bình Dương. Lãnh thổ Việt Nam bao gồm diện tích đất liền 330.991km2, có biên giới đất liền dài 3.730 km. Việt Nam nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu và nằm đúng khu vực gió mùa Đông Nam á. Đặc điểm này gây những ảnh hưởng bao trùm lên nhiều yếu tố trong môi trường tự nhiên, đặc biệt là yếu tố khí hậu, thổ nhưỡng, thuỷ văn, thực vật. 1.1.2. Khí hậu Khí hậu Việt Nam nắng lắm mưa nhiều, là điều kiện rất thuận lợi cho việc sinh trưởng của các loại thực vật, là điều kiện tốt để tiến hành xen canh, gối vụ, tăng nhanh vòng quay ruộng đất, tăng vụ, thâm canh tăng năng suất. Sự phân hoá của khí hậu ảnh hưởng đến phân bố nông nghiệp đặc biệt là phân bố các loại cây trồng. Miền Bắc có khí hậu thích hợp với các loại cây cận nhiệt đới và nhiệt đới. Miền Trung khí hậu thích hợp cho các cây nhiệt đới đặc biệt là các loại cây công nghiệp như dứa, bông, thuốc lá, hồ tiêu mía chè, cao su. Miền khí hậu Nam là miền thích hợp cho việc trồng lúa gạo và các loại cây nhiệt đới. Sự khác nhau về nhiệt độ giữa các vùng, miền tạo điều kiện phát triển một nền nông nghiệp đa canh, và có thể phân bố nhiều loại cây trồng, gia súc. 1.1.3 Địa hình 3/4 diện tích nước ta là đồi núi với các dạng đại hình chính: đồng bằng, trung du và miền núi. Độ cao trung bình là 500 m so với mực nước biển. Hướng địa hình này chi phối sự phân bổ các dòng sông, các nguồn nước và có ảnh hưởng tới phân bố dân cư, kinh tế, cấu trúc hạ tầng. Miền núi và trung du Bắc Bộ có độ cao trung bình từ 200 m chiếm 31,5% diện tích tự nhiên cả nước nhưng chủ yếu giành cho lâm nghiệp (19,8%) và nông nghiệp (11,7%), còn (64,5% diện tích đất chưa sử dụng). Phía Tây Trung Bộ là địa hình núi và cao nguyên chiếm khoảng 25% diện tích cả nước, chủ yếu giành cho lâm nghiệp (50% diện tích lâm nghiệp cả nước), và chưa sử dụng (28% diện tích chưa sử dụng của cả nước). Miền đồng bằng, ven biển Đông chiếm 30% diện tích cả nước bao gồm: Đồng bằng sông Hồng( 3,8% diện tích cả nước), duyên hải Trung Bô( 13,6%), đồng bằng sông Cửu Long( 11,9%). Các đồng bằng này chiếm 53% đất nông nghiệp của cả nước, 43% đất chuyên dùng và đất dân cư của cả nước, cũng là vùng kinh tế mạnh. 1.2 Tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản. 1.1.1 Tài nguyên khoáng sản Nước ta tuy không lớn nhưng khoáng sản tương đối phong phú về chủng loại. Cho đến nay đã phát hiện hơn 3500 mỏ và điểm quặng của hơn 80 loại khoáng sản. Tuy nhiên mới chỉ có 300 mỏ của 30 loại khoáng sản được đưa vào khai thác. Dầu khí là nguồn nhiên liệu có giá trị hàng đầu ở Việt Nam hiện nay. Vùng mỏ khai thác chính hiện nay: Bạch Hổ, Đại Hùng, Lan Đỏ, Lan Tây, Rồng. Các mỏ này đều nằm ở vùng thềm lục địa phía Nam. Dầu thô Việt Nam thuộc loại A( ít lưu huỳnh, dưới 0,1%), loại C ( nhiều paraphin rắn). Triển vọng nhất là các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn. Trữ lượng ước tính: trên 5 tỷ tấn dầu qui đổi; trữ lượng khí đồng hành: 250 - 300 tỷ tấn; trữ lượng khai thác công nghiệp xác định: trên 150 triệu tấn. Than đá đứng hàng thứ hai trong các nguồn nhiên liệu ở Việt Nam. Vùng than lớn nhất là Quảng Ninh, chiếm 98% tổng trữ lượng các loại than của Việt Nam ( dưới 7 tỉ tấn). Than Quảng Ninh chủ yếu là than antraxit, có nhiệt lượng trên 8000calo/kg, vỉa sâu, khai thác hầm lò là chính, cung cấp cho nhiều vùng trong nước và XK khoảng 1-2 triệu tấn /năm. Vùng than Quảng Ninh kéo dài trên 150 km, rộng trung bình 12 km, có vỉa dày tới 80m. Than Quảng Ninh cung cấp cho các nhu cầu công nghiệp của cả nước và XK. Ngoài ra còn có một số mỏ than mỡ ở Làng Cẩm, than nâu ở Na Dương - Lạng Sơn và Đồng bằng sông Hồng, than bùn ở đồng bằng sông Cửu Long rải rác ở một số nơi với trữ lượng nhỏ, chất lượng không cao, chỉ có giá trị địa phương. Các mỏ sắt lớn của Việt Nam gồm nhóm mỏ sắt Thái Nguyên( Trại Cau, Linh Nham); nhóm mỏ sắt nằm ở Thạch Khê có trữ lượng 700 triệu tấn. Tổng trữ lượng quặng sắt của Việt Nam không quá 1 tỷ tấn, có thể sản xuất 10 triệu tấn gang thép mỗi năm. Một số vùng có quặng thiếc như: Tĩnh Túc( Cao Bằng); Tam Đảo( Vĩnh Phúc); Lâm Đồng; Tuyên Quang; Nghệ An... Tổng trữ lượng quặng thiếc ở Việt Nam dưới 100.000 tấn. Khả năng khai thác tối đa 3-5.000 tấn/năm. Quặng nhôm có ở Cao Bằng, Lạng Sơn ( 200 triệu tấn), đặc biệt vùng quặng bôxít nam Tây Nguyên có trữ lượng lớn( 5-6 tỷ tấn), nằm gần các nguồn thuỷ điện lớn. Các loại quặng khác nằm rải rác ở các vùng nhưng trữ lượng không lớn . 1.1.2 Tài nguyên nông lâm sản Toàn bộ quỹ đất đai của Việt Nam là 33,1 triệu ha đứng thứ 58 trên thế giới, bình quân đất tự nhiên theo đầu người thấp đứng thứ 128 trên 200 nước trên thế giới. Đất nông nghiệp Việt Nam chiếm một tỷ lệ lớn trên diện tích cả nước (1/3) và có nhiều loại thổ nhưỡng có giá trị kinh tế cao, thích hợp cho việc phát triển cây lương thực và cây công nghiệp nhiệt đới có giá trị. Nhóm đất đồng bằng, trong đó đất phù sa là chủ yếu với diện tích trên 3,2 triệu ha chiếm 9,5% diện tích cả nước tập trung nhất ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long (trong đó Nam Bộ chiếm 1/2) là cơ sở cho các vùng cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngà. Các miền đất núi cao và cao nguyên, chủ yếu là đất feralit, chiếm tới 1/2 diện tích tự nhiên của cả nước với hơn 16,5 triệu ha, có độ phì nhiêu không cao nhưng do phát triển trên mẫu ba-dan nên là cơ sở tốt cho việc phát triển và phân bố cây công nghiệp nhiệt đới có giá trị như cao su, cà phê chè,... Rừng Việt Nam chiếm một diện tích rộng lớn 9,6 triệu chiếm trên 1/3 diện tích cả nước, trong đó có 8,6 triệu ha là rừng tự nhiên. Rừng Việt Nam có khả năng cung cấp nguyên liệu liên tục và lâu dài với chất lượng cao cho công nghiệp, nếu khai thác và bảo vệ rừng đúng đắn và phát triển trồng rừng. Trữ lượng gỗ trung bình của rừng Việt Nam là 53 m3/ha, có nhiều loại có giá trị quốc tế lớn như lim, sến, lát hoa, gụ, mỡ, chò chỉ, săng lẻ, tếch, bồ đề... Bên cạnh nguồn gỗ lớn, rừng Việt Nam có nhiều tre, trúc, giang, nứa, song, mây là nguồn nguyên liệu lớn cho ngành công nghiệp giấy và mỹ nghệ phẩm. 1.2.3. Tài nguyên thuỷ hải sản Nước là một dạng tài nguyên đặc biệt: vừa hữu hạn( nước ngầm) vừa vô hạn( nước trên mặt đất). Sông ngòi nước ta vừa nhiều và kết hợp với nhau thành mạng lưói thuỷ văn dày đặc( với 2.345 con sông, mật độ 0,5 - 2 km/ km2), với nhiều sông, đào và kênh mương, ảnh hưởng rõ rệt tới sự phân bố giao thông và tưới tiêu, cung cấp nước cho các ngành và các vùng. Việt Nam có trên 1,2 triệu ha sông suối, hồ ao, kênh nuôi tôm, nuôi cá nước ngọt. Cả nước có 500.000 ha diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản trong đó có 300.000 ha đầm nước mặn. Bờ biển Việt Nam dài 3200 với diện tích vùng biển khoảng 1 triệu km2, nhiệt độ vùng biển tương đối ấm, ổn định quanh năm, thích hợp cho sự sinh trưởng của các loại thuỷ sản nước lợ, nước mặn. Biển Việt Nam có mật độ cá vào loại trung bình trên thế giới nhưng có đủ các loại hải sản của biển nhiệt đới khác thậm chí mật độ cao hơn. Ngoài các loại cá quý có giá trị quốc tế như cá thu, chim, trích, nục, mòi... còn có nhiều loại hải sản khác như tôm, cua, ngao, sò, đồi mồi, hải sâm, ngọc trai, rong câu... đây là nguồn nguyên liệu quan trọng cho các ngành công nghiệp chế biến, đặc biệt là chế biến thực phẩm. Tổng trữ lượng hải sản khoảng 3-3,5 triệu tấn cho phép khai thác hàng năm từ 1,2 - 1,4 triệu tấn. Sinh vật biển phong phú và đa dạng về số loài: có hơn 200 loài cá( trong đó có hơn 1000 loài có gía trị kinh tế cao), cá nổi chiếm 63% tổng trữ lượng cá, gần 1650 loài giáp xác trong đó có hơn 70 loài tôm, có hơn 2500 loài nhuyễn thể, 600 loài rong biển. Tài nguyên sing vật biển phân bố chủ yếu tại 4 ngư trường lớn: Minh Hải - Kiên Giang; Ninh Thuận - Bình Thuận - Bà Rịa - Vũng Tàu; Hải Phòng - Quảng Ninh; Hoàng Sa - Trường Sa. 1.3. Nguồn nhân lực Dân số nước ta đến năm 2001 là 78.685.500 người, lực lượng lao động trẻ chiếm đa số ( chiếm tới trên 50% tổng dân số), đứng thứ hai ở Đông Nam á và thứ 13 trên thế giới, phân bố không đều giữa các vùng đất nước. Vùng đồng bằng chỉ chiếm 1/4 diện tích cả nước nhưng lại tập trung 3/4 dân số cả nước. Tốc độ tăng nguồn lao động là 3%/năm, mỗi năm xã hội có thêm 1 triệu lao động mới. Nguồn lao động phần lớn tập trung ở các vùng kinh tế tương đối phát triển là đồng bằng và duyên hải, ở vùng núi giàu tài nguyên lại thiếu lao động. Hiện nay tiềm lực lao động mới được sử dụng 50%. Nguồn lao động dồi dào, giá lao động rẻ là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong giai đoạn chuyển tiếp. Theo điều tra của công ty Werner International về tiền lương trong ngành dệt may ở 51 nước và vùng lãnh thô trên thế giới, lương trung bình 1giời trong ngành dệt may ở VN là 0,39 USD, đây là mức thấp nhất so với các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực trên thế giới. Chỉ số này bằng 1/1,05 của Kênia; 1/1,23 của Trung Quốc; và 1/65,7 của Nhật Bản. Người lao động Việt Nam thông minh, cần cù có truyền thống sản xuất, khéo léo và có khả năng tiếp thu nhanh về khoa học - kỹ thuật. Trình độ của người lao động nói chung ngày càng được nâng cao, trình độ tay nghề còn thấp có khoảng 3,5 triệu lao động có chuyên môn kỹ thuật trong đó có khoảng 20% có trình độ từ cao đẳng trở lên, song tác phong công nghiệp còn hạn chế . 1.4. Cơ sở vật chất Trong chế biến nông sản, thực phẩm XK Công nghệ chế biến nông thuỷ sản mới hình thành trong các doanh nghiệp chế biến trong đó có các doanh nghiệp liên doanh thường có trình độ cao hơn, đáp ứng được nhu cầu của thị trường hiện tại về chất lượng, yêu cầu về hình thức bao bì. Đáng kể nhất là: xay xát chế biến gạo XK; chế biến thuỷ sản XK; chế biến hạt điều nhân XK; chè; đường; cà phê. Về cà phê: Cho đến nay ngành cà phê Việt Nam có 20 cơ sở chế biến hoàn chỉnh với tổng công suất lên tới 100.000 tấn/năm, tuy nhiên mới chỉ đảm bảo chế biến tốt từ 25 - 30% sản lượng cà phê. Hệ thống phân loại cà phê nhân nguyên liệu của Việt Nam phục vụ cho XK có 3 loại: R1, R2A, R2B dựa trên 4 tiêu chuẩn ngoại quan như độ ẩm, tạp chất, hạt đen vỡ và kích thước hạt. Song chỉ có 2% cà phê XK của Việt Nam là đáp ứng yêu cầu ngặt ngèo của loại I . Đó là do Việt Nam chỉ có 0,8ha sân phơi khô phù hợp trên 100ha cà phê sản xuất (mức tối ưu là 3ha/100ha cà phê). Tuy nhiên với điều kiện tự nhiên thích hợp nên cây cà phê Việt Nam có hương vị tự nhiên ngon. Theo đánh giá của Hiệp hội tổ chức những nước trồng cà phê thì cà phê Việt Nam có chất lượng tự nhiên tốt nhất nhì thế giới. Về rau quả, Việt Nam có thế mạnh về sản xuất rau quả nhiệt đới và ôn đới. Đến nay diện tích trồng rau quả của Việt Nam là 400 nghìn ha với sản lượng là 5700 nghìn tấn. Hiện Nhà nước có 22 nhà máy chế biến rau quả XK, với tổng công suất 100.000 tấn/năm, ngoài ra còn có 52 đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh XK. Kỹ thuật bảo quản rau quả tươi mới dừng ở mức sử dụng kinh nghiệm cổ truyền, thủ công là chính, chưa có thiết bị lựa chọn và xử lý quả tươi trước khi XK. Về ngành Dệt May Trong 5 năm qua Tổng công ty Dệt May và các công ty thành viên đã thực hiện 188 dự án đầu tư các loại trong đó có 69 dự án cho lĩnh vực dệt( 36,7%); 84 dự án vào khu vực may mặc(44,6%) với tổng số vốn gần 2.500 tỷ đồng. Về thiết bị kéo sợi đã đầu tư thay thế máy mới, thay thế đồng bộ, thay thế cục bộ bằng thiết bị đã qua sử dụng của Tây âu và cải tạo nâng cấp tổng thể hơn 112 ngàn cọc sợi nên đã tăng sản lượng sợi chất lượng cao lên 12.000tấn/năm. Về khâu dệt, đầu tư cácloại máy dệt đời mới khổ rộng, đầu tư nâng cao chất lượng khâu chuẩn bị dệt nên đã tạo được nhiều mặt hàng vải mới hợp thời trang. Vải XK phục vụ may XK đã tăng lên 30% năm 1999. Ngành Da giầy Toàn ngành Da giầy của Việt Nam có trên 6 ngàn m2 nhà xưởng, 50 dự án sản xuất kinh doanh hàng giầy dép được cấp giấy phép, với tổng số vốn đầu tư là 500 triệu USD. Những nước đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực giầy dép của VN là Đài Loan, Hàn Quốc, Islands, Đức, Singapore. Nhìn chung, năng lực công nghệ của các doanh nghiệp chế biến nông sản thực phẩm XK VN đạt trình độ trung bình so với khu vực và thế và đáp ứng được nhu cầu hiện tại (trình độ trung bình như gạo, chè, điều; trình độ trung bùnh tiến tiến như thuỷ sản; trung bình yếu như cà phê, lạc nhân). Công nghệ của VN chủ yếu là sơ chế, do đó XK nguyên liệu thô vẫn là chủ yếu; tỷ trọng chế biến nông sản vẫn thấp so với nguồn nguyên liệu hiện có. 2. Cơ chế chính sách điều chỉnh việc lựa chọn sản phẩm và thị trường XK của nhà nước. Trong những năm qua, để đáp yêu cầu của sự chuyển hướng kinh tế hướng về XK, Việt Nam đã ban hành các chính sách thương mại và các biện pháp cụ thể nhằm thực hiện các chính sách này đã tác động không nhỏ tới việc chuyển dịch cơ cấu trong toàn bộ nền kinh tế nói chung và trong hoạt động XK nói riêng. Luật Đầu tư nước ngoài ra đời năm 1987 đã tạo nên những bước ngoặt lớn trong hoạt động kinh tế nói chung và trong hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Tiếp theo đó là hàng loạt các luật như: Luật Khuyến khích đầu tư trong nước(1991); Luật Thương mại(1997); ... Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động XK, NK, gia công và đại lí mua bán hàng hoá với nước ngoài tuy nhiên còn nhiều điểm bất cập và để giải quyết những tồn tại đó Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 02/8/2001 và Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg. Trong Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ quy định việc quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2005 và một số biện pháp nhằm khuyến khích XK, như bãi bỏ chế độ đầu mối và hạn ngạch đối với XK gạo, xoá bỏ chế độ chỉ tiêu XK đối với sản phẩm gỗ rừng tự nhiên. Nghị định số 44/2001/NĐ-CP đã cho phép thương nhân được XNK; cho phép XK mọi ngành hàng Nhà nước không cấm; cho phép thuê đại lí bán hàng ở nước ngoài; giải quyết một số vấn đề về gia công, do đó, đã tạo nên động lực mới cho hoạt động XNK. Cũng trong năm 2001, để hỗ trợ đầu tư tạo nguồn hàng phong phú, đa dạng, chất lượng cao cho XK, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 02/2001/QĐ- TTg ngày 2/1/2001 cho phép các dự án sản xuất hàng XK được vay tín dụng đầu tư từ Quỹ hỗ trợ Phát triển, Bộ Tài chính đã có hướng dẫn vào tháng 2/2001. Ngày 6/4/2001 Thủ tướng Chính phủ đã chính thức giao nhiệm vụ hỗ trợ tín dụng XK và bảo lãnh tín dụng XK cho Quỹ hỗ trợ Phát triển. Ngày 27/8/2001 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1127/QĐ-TTg về việc xử lý vay nợ ngân hàng đối với người trồng, chăm sóc, thu mua và chế biến cà phê trong đó giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các tổ chức tín dụng tạm thời khoanh nợ đối với các khoản nợ vay đến hạn trả, đã gia hạn, giãn nợ và nợ quá hạn đến ngày 31/7/2001 cho người trồng, chăm sóc, thu mua và chế biến cà phê. Tiếp đó, ngày 18/6/2001 Quỹ hỗ trợ Phát triển đã có văn bản hướng dẫn chính thức về lãi suất tín dụng đầu tư là 5,4%/năm, trường hợp đặc biệt ưu đãi là 3%/năm. Về chuyển dịch cơ cấu sản xuất hướng về XK, ngày 15/6/2000 Chính phủ đã ra Nghị định số 09/2000/NĐ-CP về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đề cập một cách toàn diện các giải pháp nhằm thúc đẩy tiêu thụ nông sản. Nhiều biện pháp đã và đang được thực hiện và phát huy tác dụng tốt như điều chỉnh thuế giá trị gia tăng đối với hàng nông sản, miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, không thu thuế tài nguyên đối với cây lâm nghiệp trồng được, hỗ trợ đầu tư sản xuất hàng XK. Về Xúc tiến thương mại, dùng Quỹ hỗ trợ XK để hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động phát triển thị trường và xúc tiến thương mại. Bộ tài chính đã ra Thông tư hướng dẫn số 61/2001 ngày 1/8/2001 quy định dành 0,3% kim ngạch XK cho các hoạt động xúc tiến thương mại. Ngoài ra Nhà nước còn có các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong nước và một số chính sách vĩ mô khác liên quan như: Nghị định số 09/2001/NĐ-CP ngày 28/8/2001 về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001-2005. Thông tư số 18/2001/TT-BTM ngày 12/7/2001 hướng dẫn hoạt động hội chợ, triển lãm thương mại quy định tại Nghị định số 32/1999/NĐ-CP ngày 5/5/1999 của Chính phủ về khuyến mại, quảng cáo thương mại và hội chợ, triển lãm thương mại. 3. Tổng quan về tình hình XK của VN những năm qua( 1991- 2002). Trong thời gian từ năm 1991 đến tháng 9 năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng với tốc độ khá cao, bình quân đạt 19,6%/năm, gấp hơn 2,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP. Thời kỳ 1991 - 1995 là thời kỳ chuyển đổi đầy khó khăn đối với hoạt động XK của ta do bị mất thị trường truyền thống là Liên Xô cũ và các nước XHCN Đông Âu tuy nhiên Tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1991-1995 là 17,16 tỷ Rúp và USD, tăng 144% so với 7,03 tỷ Rúp và USD của thời kỳ 1986-1990. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 19,28%/năm gấp hơn 3 lần tốc độ tăng bình quân của tổng sản phẩm quốc nội GDP trong cùng thời gian. Chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là hàng thủ công mỹ nghệ và hàng rau quả. Một số mặt hàng quan trọng cũng đã hình thành và phát triển nhanh chóng trong thời kỳ 1991 - 1995, đó là: gạo, dầu thô, cà phê, giày dép và hàng dệt may. Bảng2: Kim ngạch XK giai đoạn 1991 - 1995 Năm Kim ngạch XK ( triệu Rúp và USD) Tốc độ tăng so với năm trước (%) 1991 2087,1 - 13,2 1992 2580,7 + 23,7 1993 2985,2 + 15,7 1994 4054,3 + 35,8 1995 5448,9 + 34,4 Tổng 1991 - 1995 1.715,62 19,28% Nguồn: Niên giám thống kê năm 1997 Trong giai đoạn 1996-2000, tổng kim ngạch đạt xấp xỉ 52 tỷ USD. Điều đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 1996-2000 nhanh hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của 5 năm trước đó (xấp xỉ 21,6 %/năm). Bên cạnh những thuận lợi như Mỹ phải bãi bỏ cấm vận thương mại với VN, ký tắt được Hiệp định sửa đổi buôn bán hàng dệt may với EU cho giai đoạn 1998 - 2000 (hạn ngạch tăng khoảng 30%), hoạt động XK giai đoạn 1996 - 2000 cũng đã gặp những khó khăn và bất lợi mới, chủ yếu là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra tại Thái Lan và lan rộng ra các nước trong khu vực. Chính vì những khó khăn này mà sau 3 năm tăng trưởng ở mức 33%, năm 1997 XK chỉ còn tăng được 26,6% đạt 9,185 tỷ USD, thấp hơn 1,4% so với mục tiêu bình quân toàn giai đoạn 28%. Mặc dù chính phủ đã dành sự quan tâm đặc biệt và áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích nhưng kim ngạch XK cả năm 1998 mới đạt 9.361 tỷ USD, bằng 91,8% kế hoạch đề ra và chỉ tăng 1,9% so với năm 1997, kim ngạch XK tính theo đầu người đạt 120 USD thay vì 140 USD như dự kiến. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1992 kim ngạch XK tăng ở mức một con số. Sang năm 1999, do những chính sách khuyến khích XK đã bắt đầu phát huy tác dụng, cùng sự cố gắng của các ngành và các địa phương, kết hợp với sự phục hồi nhanh hơn dự kiến của các nền kinh tế trong khu vực, kim ngạch XK cả năm đạt 11,54 tỷ USD, tăng 23,3% so với năm 1998. Đến năm 2000, do bối cảnh bên ngoài vẫn tiếp tục biến chuyển theo hướng thuận lợi, nhu cầu tiếp tục phục hồi tại nhiều thị trường trọng điểm nên kim ngạch XK 14,48 tỷ USD tăng 25,5%, gấp 5,95 lần so với năm 1990 (mục tiêu là gấp 5 lần). Kim ngạch XK bình quân đầu người năm 2000 đạt 184 USD/người, gấp 6 lần năm 1991, vượt mức của một nước được coi là có nền ngoại thương phát triển bình thường (170 USD/người/năm). Mặc dù gặp nhiều khó khăn về thị trường và về giá nhưng XK năm 2001 của nước ta vẫn đạt được mức tăng trưởng tương đối cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tổng kim ngạch XK đạt gần 15,03 tỷ USD, tăng 4,5% so với năm 2000, mặc dù thấp hơn so với mục tiêu đề ra và các năm trước, nhưng xét trong bối cảnh nền kinh tế suy giảm và so với các nước khác trên thế giới thì đây vẫn là mức tăng trưởng tương đối cao, đặc biệt nếu không tính tới yếu tố giảm giá thì XK của ta trong năm 2001 đã tăng tới 19,3%. Trong năm 2001, có 3 mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng cao là hàng thủy sản đạt 1,8 tỉ USD, tăng 21,7% so với năm 2000; rau quả 305 triệu USD, tăng 42,9%; than đạt 4 triệu tấn, đạt 108 triệu USD, tăng 23% về số lượng và 15,3% về giá trị. Ngoài ra có hai mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao là hàng dệt may 1,8 tỉ USD, tăng 5,7%, giầy dép 1,52 tỉ USD, tăng 3,8%. Kim ngạch XK 9 tháng đầu năm 2002 đạt 11,858 triệu USD, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2001 và mới bằng 71,4% so với kế hoạch năm. Dự kiến kim ngạch XK 4 tháng cuối năm 2002 vẫn có thể tăng cao hơn năm 2001. Nếu như trong 6 tháng đầu năm, XK bình quân mỗi tháng đạt tới 1.208 triệu USD thì trong ba tháng gần đây liên tiếp gia tăng và tháng 8 đạt mức kỷ lục là 1.500 triệu USD, tháng 9 đạt 1.470 triệu USD, giảm 2,3% so với số thực hiện tháng 8/2002 nhưng lại tăng 3,38% so với số kế hoạch tháng 9. Phần lớn mặt hàng chủ yếu XK trong tháng 9 này đều tăng khá so với cùng kỳ năm 2001. Trong đó chè tăng 77,4%; cao su, điều và lạc nhân cùng tăng 46%; hàng thủ công mỹ nghệ tăng 41,6%; than đá tăng 36,6%; hạt điều tăng 27,6%; dệt may tăng 23,3%; gạo tăng 17,6%; thuỷ sản đã tăng 7,8%; riêng rau quả, dầu thô và hàng điện tử và linh kiện máy tính vẫn trong tình trạng suy giảm. Cơ cấu XK trong giai đoạn từ 1991 đến nay đã được cải thiện theo hướng" tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định". Tỷ trọng sản phẩm chế biến tăng từ 8% năm 1991 lên khoảng 40% năm 2000. Việc phân tích cơ cấu hàng hoá XK của VN trong những năm vừa qua, nhất là tỷ trọng của hàng chế biến sâu, gặp nhiều khó khăn do chúng ta chưa có một chuẩn thống nhất về hàng hoá đã qua chế biến và về cấp độ chế biến của hàng hoá. Theo cách tính của Tổng cục thống kê cơ cấu hàng XK của VN được phân thành 4 nhóm như sau: hàng công nghiệp nặng và khoáng sản; hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp; hàng nông - lâm - thuỷ sản và các hàng hoá khác. Bảng 3: Cơ cấu sản phẩm XK của Việt Nam giai đoạn 1991 - 1995 Đơn vị tính: % Nhóm hàng 1991 1992 1993 1994 1995 Công nghiệp nặng và khoáng sản 33.4 37.0 34.0 28.5 25.3 Công nghiệp nhẹ và TTCN 14.4 13.5 17.6 20.5 28.4 Nông sản 30.1 32.1 30.8 30.9 32 Lâm sản 8.4 5.5 3.3 2.5 2.8 Thuỷ sản 13.7 11.9 14.3 13.6 11.4 Nguồn: Niên giám thống kê năm 1997 Tỷ trọng nhóm hàng nông, lâm, hải sản năm 1991 đạt 42,2%. Tuy nhiên, đến những năm cuối thời kỳ, do sự tăng trưởng nhanh chóng của nhóm dệt may, giày dép và hải sản chế biến nên tỷ trọng này năm 1995 đạt 46,2% kim ngạch XK. Hiện nay, tỷ trọng của nhóm này chỉ còn gần 25% với những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, chè, rau quả, thuỷ sản, hạt tiêu và nhân điều (trừ mặt hàng chè, tất cả các mặt hàng khác đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm). Tỷ trọng của nhóm công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp năm 1996 tăng lên đạt 29%. Năm 1997, do giá dầu thô và giá gạo cùng giảm nên tỷ trọng của nhóm này đã tăng lên 36,7%. Tỷ trọng của hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đến 2000 đã chiếm tới 37,2% cơ cấu hàng hoá XK, tuy nhiên sang năm 2001 lại giảm xuống chỉ còn 30,6%. Mặc dù cơ cấu hàng hoá XK đã dịch chuyển theo hướng tích cực tăng hàm lượng chế biến, giảm tỷ trọng nguyên liệu thô và sơ chế nhưng vẫn chưa thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của đất nước, chưa khai thác được tốt những lợi thế so sánh và vẫn mang đặc trưng của một nước nông nghiệp. Bên cạnh những thành tích to lớn đạt được trong 10 năm đổi mới vừa qua, hoạt động xuất khẩu nói chung và công tác phát triển thị trường xuất khẩu nói riêng cũng còn một số tồn tại. Trước hết, quy mô xuất khẩu của ta còn khá nhỏ so với các nước trong khu vực, xét cả về tổng kim ngạch lẫn kim ngạch tính theo đầu người. Chủng loại hàng hoá xuất khẩu tuy đa dạng hơn nhưng nhìn chung thì diện mặt hàng vẫn còn đơn điệu dẫn đến sự phụ thuộc thái quá vào một số mặt hàng chủ lực. Cơ cấu hàng xuất khẩu mới dịch chuyển theo chiều rộng là chính, chưa đi nhiều về chiều sâu, chưa hình thành được ._. một Quỹ riêng cho các doanh nghiệp vay trong trường hợp họ có nhu cầu đặt hàng với các Viện nghiên cứu. Làm như vậy vừa gắn được nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các nhà khoa học giỏi phát huy tài năng, vừa không phí phạm nguồn vốn ít ỏi của ngân sách. Đối với nông sản, chú trọng đầu tư đổi mới giống cây trồng, công nghệ từ đó nần cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu trên thị trường đi đôi với việc chú trọng đầu tư vào khâu sau thu hoạch mà hiện nay ta còn rất hạn chế. Nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư trực tiếp cho hoạt động XK như các cảng, kho tàng, kể cả kho ngoại quan, các trung tâm thương mại ở nước ngoài, các hoạt động xúc tiến thương mại( tham gia triển lãm, hội chợ, cử đoàn đi nước ngoài tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, thu thập và cung cấp thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp về luật lệ, tiêu chuẩn, mẫu mã thị trường đòi hỏi...); đặc biệt cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng về tài chính, nhân lực và thông tin; chú trọng đầu tư nguồn nhân lực, đặc biệt cán bộ quản lý. Vai trò của Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu và trợ giúp tài chính khác : Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu (HTXK)đã được quy định trong Luật Khuyến khích Đầu tư Trong nước (Luật năm 1998) . Chính phủ đã cho phép hình thành một Quỹ tại Bộ Tài chính có tên gọi là Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu nhưng phương thức hoạt động của Quỹ này lại thiên về trợ cấp theo kiểu "cho không", hoàn toàn không phù hợp với Điều 10 của Luật Khuyến khích Đầu tư Trong nước sửa đổi. Quỹ HTXK phải hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, cùng chia xẻ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với Ngân hàng. Trong điều kiện tài chính còn nhiều eo hẹp, không nên thành lập các quỹ thiên về cấp phát như quỹ tại Bộ Tài chính vừa qua. Ngoài Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu, cần khẩn trương xúc tiến việc thành lập các Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng như tinh thần Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15/06/2000 về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Cụ thể, Quỹ bảo hiểm xuất khẩu được Nhà nước khuyến khích thành lập đối với một số ngành hàng quan trọng, có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản, gỗ, tiêu, điều .... để bảo hiểm cho ngành hàng đó. Việc quản lý các quỹ này sẽ do các Hiệp hội ngành hàng đảm trách theo cơ chế tài chính do Bộ Tài chính trình Thủ tướng quyết định. 2. Các giải pháp về thị trường Để chủ động thâm nhập thị trường quốc tế, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, khai thác thêm các thị trường mới, bảo đảm cơ cấu thị trường hợp lý theo nguyên tắc đa phương hoá, cần đổi mới công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô theo hướng phân định rõ trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước, Hiệp hội và các doanh nghiệp. 2.1 Các giải pháp chung cho thị trường XK 2.1.1 Về phía Nhà nước : Một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước là đàm phán thương mại để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp. Đàm phán thương mại (song phương và đa phương) bao gồm đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hóa các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi quan thuế. Song song với đàm phán mở cửa thị trường mới, một trong những chỉ tiêu cần phấn đấu với từng thị trường là giảm nhập siêu để tiến tới cân bằng cán cân thương mại một cách hợp lý. Chức năng quan trọng thứ hai của Nhà nước là thông tin thị trường và xúc tiến xuất khẩu. Trong thời gian tới, cần tăng cường mạnh mẽ công tác thu thập và phổ biến thông tin về thị trường ngoài, từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung-cầu hàng hóa và dịch vụ ... Để thông tin có thể đến với mọi doanh nghiệp quan tâm theo con đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất, Bộ Thương mại cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và trang chủ (trang Web) của Bộ, tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề. Khi đã có sản phẩm hàng hoá, tức là đã có tiền đề thì việc tổ chức thị trường và hoạt động xúc tiến cụ thể là rất quan trọng. Thông qua hai khâu này sản phẩm xuất khẩu mới đến được thị trường, với người tiêu dùng. Vì vậy, tổ chức thị trường và xúc tiến thương mại phải trở thành một chức năng quan trọng của Bộ Thương mại và tham tán thương mại. Tại thị trường ngoài, các tham tán phải là tác nhân gắn kết doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp trên thị trường mà tham tán hoạt động. Và để làm được điều đó phải đặt mối quan hệ giữa các cơ quan hữu quan trên một trục dọc và phải tăng tốc độ chuyển động đi đôi với đảm bảo sự chuyển động hướng đích của toàn bộ trục này. Tham tán nông nghiệp là vấn đề cần được bàn thêm. Là một nước xuất khẩu nông sản, chúng ta nên có các tham tán nông nghiệp ở nước ngoài để kịp thời thông tin về nhà những thay đổi về chính sách và khả năng nhập khẩu nông sản của thị trường sở tại. Với chuyên môn sâu về nông sản và nông học, tham tán nông nghiệp có thể sẽ giúp được các doanh nghiệp nhiều hơn là tham tán thương mại. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi các biện pháp kỹ thuật và môi trường đang được các nước phát triển sử dụng ngày càng nhiều để hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước. Cần nâng cao hiệu quả hoạt động của Cục Xúc tiến Thương mại thuộc Bộ Thương mại với nhiệm vụ chính là phổ biến thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại. Để thực hiện tốt chức năng của mình, Cục Xúc tiến Thương mại cần được trang bị đầy đủ hơn nữa về cơ sở vật chất và đội ngũ. Nhà nước có thể hỗ trợ việc thâm nhập và mở rộng thị trường thông qua việc khuyến khích thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia và của các nhà sản xuất “chìa khóa trao tay”. Đây là một giải pháp cần chú trọng bởi lẽ các tập đoàn xuyên quốc gia là những người đi đầu trong lĩnh vực chuyên môn hoá và hợp tác hóa. Cuối cùng, Nhà nước có thể tác động trực tiếp vào thị trường ngoài thông qua các biện pháp điều tiết nguồn cung và điều tiết tiến độ xuất khẩu. Đối với những mặt hàng mà Việt Nam giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu ...), cần tăng cường áp dụng các biện pháp như thông tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể ... để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy là các biện pháp này sẽ phát huy được tác dụng rõ rệt hơn nếu được thực hiện đúng thời điểm, đúng liều lượng và đối tượng, đồng bộ với các biện pháp khác (như hỗ trợ giảm sản xuất, hỗ trợ dịch chuyển lao động sang các ngành khác ...) và nhất là khi được sự phối hợp hành động của các nước xuất khẩu lớn trong khu vực và thế giới . 2.1.2 Về phía các Hiệp hội ngành hàng : Thực tiễn cho thấy trong xu thế hội nhập hiện nay, khi Nhà nước hầu như không can thiệp vào hoạt động kinh doanh thì vai trò của Hiệp hội là rất quan trọng và cần thiết trong việc định hướng cho các doanh nghiệp. Thời gian qua, các Hiệp hội ngành hàng đã phát triển khá nhanh về số lượng, hoạt động đang dần đi vào chiều sâu. Trong thời gian tới, cần tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò của các Hiệp hội trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, thống nhất hành động trong các doanh nghiệp hội viên nhằm tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm một cách có hiệu quả nhất, bảo đảm lợi ích của toàn ngành. Để làm được điều đó, bên cạnh nỗ lực tự thân của Hiệp hội, trước hết Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động và quy định chức rõ chức năng, quyền hạn của các Hiệp hội, khắc phục đồng thời cả hai biểu hiện “quốc doanh hóa’ và “Nhà nước hóa” Hiệp hội. 2.1.3 Về phía doanh nghiệp : Tăng cường tiếp cận, phân tích thông tin : Việc thu thập và xử lý thông tin có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp của ta rơi vào tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu thông tin. Có hai mảng thông tin mà các doanh nghiệp của ta còn lúng túng : thứ nhất là khó nắm bắt kịp những thay đổi trong chính sách của Nhà nước, nhất là các chính sách về thuế; thứ hai là thiếu những thông tin chiều sâu về thị trường ngoài (hàng rào phi thuế, tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm dịch ....) Ngược lại, một số doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn tin khác nhau, kể cả các mạng tin của nước ngoài thì lại gặp phải vấn đề trong xử lý và nhận định thông tin. Có nhiều cách để tiếp xúc với thị trường ngoài như tổ chức đi nghiên cứu thị trường, tham gia triển lãm trong và ngoài nước, tham dự các hội thảo, chương trình đào tạo ở nước ngoài, qua đó tìm kiếm các cơ hội hợp tác và đầu tư, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trường, bám sát các thay đổi trong san rxuất và kinh doanh; chủ động đi tìm bạn hàng, thị trường ,tự lo tổ chức sản xuất và XK theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào cơ quan nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp. Để những hoạt động này đem lại hiệu quả cao nhất thì doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị hết sức chu đáo, kỹ lưỡng đối với từng hoạt động, tránh biểu hiện tham gia một cách hời hợt. Chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh và chiến lược thị trường phù hợp với lộ trình hội nhập : Doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược kinh doanh, chiến lược thị trường trên thế chủ động trong tầm nhìn dài hạn. Hướng cạnh tranh chủ yếu sẽ là thông qua việc hợp lý hoá quy trình sản xuất, quản lý để giảm chi phí sản xuất bình quân, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, chủ động mở rộng thị trường trong đó chú trọng tới cả các thị trường “ngách” về sản phẩm, thời vụ ... để tăng cường thâm nhập và gia tăng thị phần. Cần tránh biểu hiện ỷ lại, trông chờ vào hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước. Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ngày càng ảnh hưởng sâu rộng tới thương mại quốc tế, các doanh nghiệp cần hết sức chú trọng những thay đổi trong phương thức kinh doanh, phương thức tiếp cận thị trường và khách hàng trên thế giới để có thể vận dụng trong điều kiện cho phép. Những lĩnh vực mới mà doanh nghiệp cần đầu tư tìm hiểu là thương mại điện tử, các nghiệp vụ tự bảo hiểm tại các sở giao dịch kỳ hạn (đối với thương mại nông sản), kinh doanh chứng khoán ... . Bên cạnh việc phân định rõ trách nhiệm của Nhà nước, Hiệp hội và doanh nghiệp, cần chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp giữa các nhóm chủ thể trên để đảm bảo hiệu quả của công tác tiếp cận và mở rộng thị trường. Như đã phân tích, vai trò chủ yếu của Nhà nước sẽ là tạo hành lang pháp lý và môi truờng kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp chủ động tiếp cận và thâm nhập thị trường. Trong mối liên hệ đó, chức năng của Hiệp hội trong việc làm cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Thông qua Hiệp hội, các kiến nghị, khó khăn của doanh nghiệp sẽ được phản ảnh chính xác và nhanh chóng tới các cơ quan quản lý Nhà nước, đồng thời Hiệp hội cũng có thể đề xuất, tham mưu cho Nhà nước trong việc ban hành các chính sách, quy định phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành. 2.2. Giải pháp trên một số thị trường trọng điểm : Phần này sẽ đi vào phân tích một số thị trường trọng điểm theo những mục tiêu và định hướng tổng quát đã đặt ra trong phần thứ nhất. 2.2.1 Thị trường Nhật bản Tuy kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm nhưng cho tới nay Việt nam vẫn là một bạn hàng nhỏ của Nhật. Sở dĩ có tình trạng này là do: Các doanh nghiệp Việt nam rất thiếu thông tin về thị trường Nhật; Nhật Bản chưa dành cho ta quy chế MFN đầy đủ, hơn nữa, hai nước chưa có Hiệp định Thương mại nên các hàng hóa của Việt phải chịu mức thuế cao hơn nhiều so với mức thuế mà các nước có Hiệp định Thương mại với Nhật Bản được hưởng; suy thoái kinh tế đã ảnh hưởng đến chi tiêu và đầu tư của người Nhật, do đó, ảnh hưởng đến việc đẩy mạnh xuất khẩu của ta sang Nhật; ... Trong thời gian tới, để đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật, cần thực hiện các biện pháp sau 1. Hai nước cần có sự trao đổi, bàn bạc cụ thể (tốt nhất là trong khuôn khổ song phương bởi dự kiến đàm phán gia nhập WTO của Việt nam có thể còn kéo dài) để đi đến ký kết thoả thuận về việc Nhật Bản dành cho hàng hoá của Việt nam quy chế MFN đầy đủ. 2. Bên cạnh việc có chỉ đạo cụ thể cho tham tán thương mại trong việc thu thập thông tin, Bộ Thương mại cần phối hợp với JETRO (Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản) tại Việt nam để tăng cường hơn nữa công tác thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Nhật tới các doanh nghiệp, đặc biệt là các thông tin có liên quan đến phương thức phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng JIS, JAS và Ecomark cũng như chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu. Đây là việc hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và thực phẩm, mặt hàng mà ta có thế mạnh, vào một thị trường có đòi hỏi cao như thị trường Nhật. Thái Lan đã đi trước ta một bước trong lĩnh vực này. 3. Nhà nước cần hết sức quan tâm đến việc thu hút vốn đầu tư từ Nhật Bản bởi lý do "xuất khẩu trở lại" như trên đã trình bày. Các đề xuất của nhà đầu tư Nhật Bản cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và giải quyết thoả đáng. Trong chừng mực nào đó có thể vượt khỏi nguyên tắc không phân biệt đối xử để giải quyết những yêu cầu riêng của nhà đầu tư Nhật Bản. Việt Nam cần cải thiện vị trí của mình thông qua việc đẩy mạnh tiếp thị, nắm bắt nhu cầu của thị trường. Đặc biệt cần chú ý tới ba yếu tố cơ bản là thiết lập cơ sở để phát triển thị trường theo hình thức văn phòng liên lạc, đại diện hợp tác liên doanh, tập hợp thông tin tổng quát về thương mại Nhật Bản; giao hàng nhanh, an toàn, trung thực và hướng dẫn chi tiết về cách sử dụng hàng hóa; xác lập kênh và cơ chế tiêu thụ sản phẩm ổn định đối với từng loại khách hàng. Bộ thương mại cần kết hợp với JETRO (tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Việt Nam) cung cấp các thông tin về thị trường Nhật Bản. Các thông tin bao gồm phương thức phân phối (Nhật Bản có cách thức phân phối hàng hóa theo kênh riêng), và đặc điểm của từng kênh tiêu thụ này; Nhật Bản có quan điểm rất rõ ràng trong việc xúc tiến thương mại, coi thị trường các nước ASEAN trong đó có Vịêt Nam là các thị trường quan trọng. Do đó, ban xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương mại cần kết hợp chặt chẽ với ASEAN - CENTRE (trung tâm xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch ASEAN - Nhật Bản) và JETRO tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Vịêt Nam tham quan học hỏi kinh nghiệm Nhật và tham gia vào các hội trợ, triển lãm hàng năm ở Nhật Bản để sản phẩm của Việt Nam không chỉ đến với bạn hàng Nhật Bản mà các bạn khác trên thế giới. Chính phủ Việt Nam cần xúc tiến việc ký kết một Hiệp định thương mại song phương với Nhật Bản để có thể hạ thấp một số hàng rào phi thuế quan như các tiêu chuẩn về chất lượng và vệ sinh sản phẩm đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. 2.2.2 Thị trường Trung Quốc Tuy có một số thuận lợi trong việc phát triển quan hệ thương mại vùng biên với Trung Quốc nhưng thời gian qua ta cũng đã gặp khá nhiều khó khăn trong việc quản lý và xử lý các vấn đề phát sinh từ thương mại vùng biên. Trước hết là vấn đề thanh toán, "xù nợ", sau đó là vấn đề chống buôn lậu, chống chuyển ngân lậu, thậm chí cả những vấn đề có ảnh hưởng đến an ninh biên giới. Ngoài ra việc phát triển phương thức buôn bán biên giới cũng có mặt trái là không thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam quan tâm nâng cao chất lượng, đầu tư vào công nghiệp chế biến, không tạo ra được cơ sở cho việc phát triển thương mại lâu dài và bền vững, nhiều khi làm mất thị trường và bạn hàng ở các khu vực khác. Trong thời gian tới đây, chủ trương phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc cần theo những định hướng lớn như sau : Đẩy mạnh quan hệ buôn bán với các công ty lớn theo tập quán quốc tế. Sớm hoàn thành quy chế thương mại biên giới để tăng cường xuất khẩu. Các vấn đề còn vướng mắc như chủ thể kinh doanh, hàng hóa kinh doanh, cửa khẩu chính thức hay không chính thức ... cần được xem xét giải quyết dứt điểm để tạo thuận lợi cho xuất khẩu, kể cả tái xuất. Tăng cường hợp tác với các tỉnh biên giới phía nam Trung Quốc để tận dụng chính sách ưu đãi mà Chính phủ Trung Quốc dành cho khu vực này. Quy chế tạm nhập tái xuất và quy chế chuyển khẩu cần có sự điều chỉnh phù hợp để vừa tăng được kim ngạch tái xuất, vừa đảm bảo được quản lý của Nhà nước. Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh tạm nhập-tái xuất và kinh doanh chuyển khẩu với khách hàng Trung Quốc nhưng có biện pháp để đảm bảo an toàn hàng hoá và an toàn thanh toán cho các hoạt động này. Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu biện pháp tăng cường vai trò của các ngân hàng thương mại trong hoạt động thanh toán mậu dịch biên giới. Vấn đề hàng đầu hiện nay chưa phải là đồng tiền thanh toán mà là thanh toán qua ngân hàng để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các lô hàng xuất khẩu. Hoạch định kế hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, xây dựng các chợ biên giới để định hướng hoạt động cho các mô hình tổ chức thị trường vùng biên giới, bảo đảm lợi ích của ta. 2.2.3 Thị trường Đài Loan Trong những năm tới đây, hoạt động xuất khẩu với Đài Loan nhiều khả năng sẽ có thêm những thuận lợi sau : Làn sóng di chuyển sản xuất ra ngoài sẽ ngày càng tăng lên trước hết là do giá nhân công trong nước không ngừng tăng, sau đó là do chính sách tăng cường hợp tác với thị trường phía Nam của chính quyền Đài Bắc. Đi đầu sẽ là những ngành sử dụng nhiều lao động như thuộc da, chế biến sản phẩm da, may mặc, chế biến gỗ. Sau đó sẽ tới những ngành như sản xuất đồ nhựa, đồ điện và điện tử gia dụng; để nâng cao ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế, Đài Loan có xu hướng đẩy mạnh hỗ trợ tài chính cho các nước nghèo thông qua các chương trình hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, thậm chí cho vay cải thiện cán cân thanh toán. Mục tiêu chủ yếu trong thời gian tới đây là đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như sản phẩm gỗ, hải sản, cao su, dệt may, giày dép, rau quả và chè. 2.2.3 Thị trường các nước ASEAN Tỷ trọng của ASEAN tuy cao nhưng nếu chỉ xét riêng yếu tố này thì chưa đủ căn cứ để kết luận rằng ASEAN là thị trường tiêu thụ chính của hàng hoá Việt nam. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu đi các nước ASEAN có đến 60-70% được xuất sang Singapore mà đây lại là thị trường tái xuất điển hình, giống như Hongkong. Vì lý do đó, cần có một cách nhìn mang tính thực tiễn hơn khi đánh giá về sự gắn bó thương mại giữa Việt nam với các nước ASEAN. Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu kỹ khả năng sử dụng nội tệ để thanh toán giữa các nước ASEAN, đề án được đưa ra khi khủng hoảng tài chính ở đỉnh cao, tuy không thành công nhưng cũng cho ta thấy một khả năng để tiến tới thương mại cân bằng. Nếu có thể thực hiện được thì ta nên đặt vấn đề "thanh toán bằng bản tệ trong quan hệ thương mại song phương" với Thái Lan và Malaysia là hai nước trước đây khá mặn mà với ý tưởng này. Hàng năm ta nhập khẩu một số lượng linh kiện xe máy và phân bón rất lớn từ thị trường ASEAN (gần 80% kim ngạch linh kiện xe máy và hơn 50% kim ngạch phân bón). Đây là hai mặt hàng nhập khẩu có điều kiện nên có thể thay đổi cách điều hành hiện nay. Thay vì cấp không 100% chỉ tiêu cho các doanh nghiệp, nhà nước nên thu về ít nhất là 50% để tổ chức đấu thầu hàng đổi hàng. Indonesia và Philippines sử dụng BULOG và NFA để quyết định mua hay không mua gạo của ta. Mỗi lần muốn bán gạo cho họ đều phải đàm phán rất vất vả với hai tổ chức này. Ta cũng nên tập trung quyền lực một cách tương tự. Trong bối cảnh nhập siêu trầm trọng từ ASEAN, nếu không sử dụng các biện pháp đặc biệt, táo bạo, thì không thể tiến tới thương mại cân bằng. 2.2.5 Liên minh châu Âu (EU) Trong thời gian tới đây, để phát triển xuất khẩu sang EU, cần thực hiện một số giải pháp lớn như sau : 1. Chế độ quản lý nhập khẩu của EU hết sức phức tạp nên việc thu thập thông tin và phổ biến thông tin đến các doanh nghiệp là việc có tầm quan trọng hàng đầu. Theo tính toán của UNCTAD, do thiếu thông tin và không hiểu rõ các quy định về thủ tục của EU, các nước đang phát triển chỉ thực sự sử dụng được 48% các ưu đãi của EU trong chế độ GSP. Nếu ta không làm tốt công tác thu thập và phổ biến thông tin thì các doanh nghiệp Việt nam sẽ không thể tận dụng được mọi cơ hội để thâm nhập vào thị trường EU. 2. Chế độ ưu đãi GSP đang mất dần ý nghĩa do EU hàng năm đều tiến hành giảm thuế MFN theo quy định của vòng đàm phán Uruguay. Chế độ hạn ngạch cho hàng dệt may cũng hết hiệu lực vào năm 2005. Xuất khẩu dệt may của ta lại gặp thêm khó khăn do Trung Quốc trở thành thành viên WTO, EU bỏ thuế và hạn ngạch nhập khẩu đối với hầu hết các sản phẩm (trừ vũ khí) cho 48 nước nghèo nhất thế giới (trong đó có Bangladesh - một trong các đối thủ của VN về dệt may). Vì lý do đó, trong thời gian tới đây, các doanh nghiệp Việt nam cần hết sức chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hàng hoá, giữ gìn uy tín của mình trong việc thực hiện hợp đồng, đảm bảo duy trì được toàn bộ các mối quan hệ bạn hàng nhằm chuẩn bị cho thời kỳ "hậu GSP" và "hậu hạn ngạch" nói trên. 3. Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành hữu quan, tiến hành đàm phán và thoả thuận với EU về các vấn đề còn tồn tại trong quan hệ thương mại Việt Nam - EU. Chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau đây : Phối hợp với EU trong việc kiểm soát lượng giày dép mang xuất xứ Việt Nam xuất khẩu vào EU, tránh nguy cơ EU áp đặt hạn ngạch cho Việt Nam. Tìm hiểu rõ các quy định của EU về điều kiện nuôi trồng và chế biến thuỷ sản để trình Chính phủ cấp vốn cho các doanh nghiệp nâng cấp thiết bị, cải thiện môi trường, đáp ứng các yêu cầu của EU về vệ sinh thực phẩm. Đây là việc cần làm gấp với phương án cụ thể, lượng vốn cụ thể để tăn nhanh số lượng doanh nghiệp được xuất khẩu thuỷ sản vào EU. Yêu cầu EU coi Việt nam là "nước có nền kinh tế thị trường" để đảm bảo cho hàng hoá Việt nam được đối xử bình đẳng với hàng hoá của các nước khác khi EU điều tra và thi hành các biện pháp chống bán phá giá. Đề nghị EU áp dụng trở lại mức thuế 12% cho mặt hàng bánh đa nem và tăng hạn ngạch thuế quan của mặt hàng sắn lên 6 vạn tấn/năm. Đề nghị EU sớm cùng ta xem xét lại Hiệp định dệt may để nâng mức hạn ngạch lên từ 30% đến 50% cho từng chủng loại và nâng mức chuyển hạn ngạch giữa các nước ASEAN từ 10% lên 20%. 4. Khuyến khích hoạt động của CLB doanh nhân EU tại Việt nam để qua đó nắm bắt thêm thông tin về thị trường EU và tăng cường khả năng lobby của ta với các cơ quan có thẩm quyền của EU. 2.2.7 Thị trường Liên bang Nga Trong thời gian tới đây, cần chú ý thâm nhập và mở rộng thị trường Nga với trọng tâm về hàng hoá là cao su, chè, thực phẩm chế biến, rau quả, hoá phẩm tiêu dùng, dệt may, giày dép và thủ công mỹ nghệ. Để hỗ trợ, có thể xem xét các giải pháp sau đây : 1. Ta và Liên bang Nga có thể thoả thuận tiếp tục nhập vật tư thiết bị năng lượng theo phương thức thanh toán một phần bằng tiền, một phần bằng hàng xuất khẩu của Việt Nam để tạo đầu ra cho một số mặt hàng xuất khẩu như gạo, thịt, cao su, chè, hàng nông sản thực phẩm và hàng tiêu dùng khác. Cần chú ý đây chỉ là sự trợ giúp ban đầu của nhà nước đối với các doanh nghiệp, tạo cơ hội cho hàng hoá của họ xuất hiện trên thị trường Nga. Các doanh nghiệp cần nắm bắt cơ hội này để tìm hiểu nhu cầu đích thực của thị trường về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng, giá thành ... từ đó có chiến lược thâm nhập cụ thể. Không nên coi xuất khẩu trả nợ là cơ hội đẩy đi những mặt hàng thấp cấp và kém chất lượng. 2. Bộ Thương mại cũng đề nghị đẩy nhanh sự ra đời của Quỹ Tín dụng Hỗ trợ Xuất khẩu để có thể tiến hành bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho người xuất khẩu vào Nga và SNG. 3. Để buôn bán với Nga, nhất định phải có luồng tàu biển hợp lý, với cước phí vận tải ở mức chấp nhận được. Đây là công việc cực kỳ khó khăn bởi vướng phải một mâu thuẫn nan giải : hàng không nhiều thì không có luồng tàu hợp lý nhưng nếu không có luồng tàu hợp lý thì kim ngạch buôn bán sẽ không thể nhiều. Đề nghị Chính phủ giao Bộ Giao thông Vận tải trình phương án tăng cường phương thức chuyển đi Odessa và Vladivostok với mức giá cạnh tranh hoặc Nhà nước phải hỗ trợ một phần giá cước. Thời gian đầu (có thể là 1, 2 năm), Chính phủ sẽ trợ một phần cước phí cho các doanh nghiệp. Những tàu chạy tuyến Nga sẽ được miễn mọi khoản thu của Nhà nước như phí cập cầu, phí hoa tiêu, thuế vốn, thậm chí hoàn thuế nhiên liệu (nếu có) ... để giảm chi phí. 5. Sớm hoàn thành một Hiệp định về thương mại tự do với CHLB Nga. Nếu xét thấy không thể đàm phán một Hiệp định tổng thể thì có thể tách phần thuế nhập khẩu ra để đàm phán trước. Một trong những hướng có thể xem xét là cho hàng hoá của CHLB Nga được hưởng mức thuế nhập khẩu theo AFTA. Đổi lại, CHLB Nga phải có chế độ thuế nhập khẩu đặc biệt cho hàng hóa của ta. Ngoài ra, cần hết sức chú trọng hình thức hợp tác cấp tỉnh, thành phố để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm các hợp đồng đổi hàng, điều rất khó làm ở cấp Chính phủ. 2.2.8 Thị trường Đông Âu và SNG Do các nước Đông Âu và SNG đều gặp khó khăn về tài chính nên một trong những hướng cần nghiên cứu là tăng cường thương mại hàng đổi hàng với từng nước. Nếu có thể được, nên bàn bạc, trao đổi ở cấp nhà nước, tiến tới ký kết những thoả thuận khung và giao cho các doanh nghiệp thực hiện. Cộng đồng người Việt tại các nước Đông Âu và một số nước SNG, đặc biệt là ở Séc và Ba Lan, đã tạo dựng được các cơ sở kinh doanh của riêng mình, một số có tầm cỡ khá. Đây là một lợi thế trong việc thâm nhập thị trường. Vì lý do đó, cơ quan thương vụ tại các nước này cần giữ mối liên hệ chặt chẽ với họ, thu thập ý kiến, phản ảnh của họ về tình hình hàng hoá giao theo đường phi mậu dịch và giới thiệu một số về nhà để cùng bàn bạc phương hướng thâm nhập thị trường. Xét về lâu dài thì việc đẩy mạnh thâm nhập thị trường các thị trường như Hungary và Ba Lan có tầm quan trọng đặc biệt (có những việc phải làm từ bây giờ để chuẩn bị cho giai đoạn một số nước Đông Âu được kết nạp vào EU). 2.2.9 Thị trường Hoa Kỳ Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào Hoa Kỳ sẽ là dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí - điện, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến. Mỹ là nước điển hình trong hệ thống luật bất thành văn nên hệ thống pháp luật thương mại Mỹ rất phức tạp. Muốn thâm nhập thị trường Mỹ một cách có hiệu quả cần có những kiến thức cơ bản về các đạo luật quan trọng như: Luật thuế và Hải quan; Luật bồi thường thương mại; Luật điều tiết nhập khẩu. Bên cạnh đó, còn có các phong tục tập quán kinh doanh của người Mỹ tuy không mang tính bắt buộc nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của mỗi thương vụ. Các nhà xuất khẩu Việt Nam phải đặc biệt chú trọng tới chất lượng sản phẩm. Về lâu dài, các doanh nghiệp phải có chính sách ngành hàng thích hợp dựa trên thông tin thị trường chính xác, đảm bảo uy tín với người tiêu dùng Mỹ. Để có được thông tin cần thiết và có độ tin cậy cao, các doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng các dịch vụ môi giới, tư vấn thương mại và pháp luật của các công ty tư vấn có uy tín. kết luận Sự phát triển nhanh chóng của thương mại thế giới, những biến đổi sâu sắc của tình hình kinh tế thế giới đã buộc các nước phải củng cố, hoàn thiện lại bộ máy của mình, cơ cấu lại nền kinh tế để thu được lợi ích lớn nhất trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh của Việt Nam cũng như thực trạng lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta thấy rằng xuất khẩu của Việt Nam chưa tận dụng tối đa những lợi thế đó, vẫn chưa dựa vào nhu cầu thị trường để sản xuất và xuất khẩu. Chúng ta vẫn chỉ xuất khẩu những gì ta có,vì vậy, không thể theo kịp những thay đổi của thị trường thế giới, xa rời thị trường nên luôn bị động trước những biến động bên ngoài, không làm chủ được tình hình. Hơn nữa, trên thị trường thế giới hiện nay đang diễn ra sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước cung cấp, nước ta muốn là nước xuất khẩu có vị trí ổn định trên thị trường quốc tế thì phải có hàng xuất khẩu có sức cạnh tranh, hợp thị hiếu người tiêu dùng. Căn cứ vào các định hướng cơ cấu nền kinh tế của chiến lược kinh tế xã hội và nhu cầu thị trường thế giới, cơ cấu xuất khẩu của ta vẫn phải dựa vào nông lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, gia công xuất khẩu và khai thác thuỷ sản. Trong khoá luận này, tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp cho sản phẩm cũng như cho thị trường xuất khẩu của Việt Nam theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước đã chỉ ra trong Đại hội Đảng lần thứ IX. Với những đóng góp trên, hy vọng rằng trong thời gian tới xuất khẩu của Việt nam sẽ đạt được những thành tựu to lớn tăng trưởng cao, vững chắc và ngày càng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Danh sách tài liệu tham khảo 1. Cục diện kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2000 - Phòng thông tin Bộ Thương mại 2. Cục diện kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2001 - Phòng thông tin Bộ Thương mại 3. Kỷ yếu thương mại Việt Nam năm 2000 - Bộ Thương mại 4. Kỷ yếu thương mại Việt Nam năm 2001 - Bộ Thương mại 5. Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 - Bộ Thương mại 6. Dự báo thị trường thế giới và các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 1999 - 2000 - Bộ Thương mại 7. Dự báo thị trường thế giới và các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2000 - 2001 - Bộ Thương mại 8. Kỷ yếu xuất khẩu của Việt Nam năm 2000; 2001 - Bộ Thương mại 9. Đề án xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ - tháng 3 năm 2000 - Bộ Thương mại 10.Các giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 Vụ xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại - tháng 5 năm 2000. 11. Đề tài nghiên cứu khoa học của Viện nghiên cứu thương mại năm 2000, 2001. Bộ Thương mại. 12. Kỷ yếu khoa học năm 1999; 2000;2001 của Trường Đại học Ngoại Thương. 13. Tạp chí Dệt May Việt Nam năm 1999; 2000; 2001 và 2002. 14. Tạp chí Ngoại thương năm 2000; 2001 và 2002. 15. Tạp chí Thương mại năm 2000; 2001 và 2002. 16. Tạp chí Kinh tế và Dự báo năm 2000; 2001 và 2002. 17. Tạp chí Thị trường và giá cả năm 2001 và 2002. 18. Khoá luận các khoá 33; 34 và 35. 19. Báo Đầu tư năm 2000; 2001 và 2002. 20. Báo Thời báo kinh tế Việt Nam năm 2000; 2001 và 2002. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9311.doc
Tài liệu liên quan