Lựa chọn phương pháp định giá Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - BIDV

LỜI MỞ ĐẦU Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế thì nền kinh tế Việt Nam nói chung và khu vực ngân hàng thương mại quốc doanh nói riêng đã thu hút được nhiều sự quan tâm và luồng vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì thế, cổ phần hóa ngân hàng trở thành một cách tốt nhất để tranh thủ vốn đầu tư của các tập đoàn tài chính, ngân hàng lớn. Việc sớm triển khai cổ phần hóa sẽ giúp các ngân hàng thương mại quốc doanh của Việt Nam tận dụng được xu hướng của thị trường, lựa chọn được đố

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lựa chọn phương pháp định giá Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - BIDV, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tác triển khai nhanh chóng phương thức kinh doanh mới, để có thể đáp ứng nhu cầu cạnh tranh khốc liệt khi Việt Nam thực sự hội nhập kinh tế quốc tế. Quán triệt quan điểm này, ngân hàng BIDV đã thực hiện nghiêm túc mục tiêu cổ phần hóa ngân hàng thương mại Nhà nước theo chủ trương của Đảng và Chính phủ. Để thực hiện được quá trình cổ phần hóa một cách thành công, trên cơ sở đánh giá trung thực khách quan thực trạng của BIDV, xác định giá trị ngân hàng là một trong những quá trình quyết định thành công của cuộc cách mạng “cổ phần hóa”. Tuy nhiên, tại Việt Nam, kỹ năng và kinh nghiệm định giá doanh nghiệp Nhà nước nói chung hay các ngân hàng thương mại quốc doanh nói riêng hiện còn vô cùng hạn chế. Trước mắt, theo chủ trương của ngân hàng Nhà nước, việc định giá các ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ do các tổ chức tư vấn định giá có kinh nghiệm trên thế giới đảm nhận. Vì vậy, hiểu rõ được bản chất các phương pháp định giá mà tổ chức tư vấn có thể sử dụng sẽ giúp cho ngân hàng có công tác chuẩn bị tốt hơn nhằm tối đa hóa giá trị của mình, cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế. Nhận thức phần nào vai trò và tầm quan trọng của công tác xác định giá trị ngân hàng, em chọn đề tài “Lựa chọn phương pháp định giá BIDV” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình, với hi vọng có thể nâng cao kiến thức, kinh nghiệm về các phương pháp định giá, đồng thời có thể tiếp cận phần nào các phương pháp định giá tối ưu, cũng như xác định các công tác chuẩn bị khác vì mục tiêu cổ phần hóa thành công các ngân hàng thương mại quốc doanh nói chung, và BIDV nói riêng. CÁC NỘI DUNG CHÍNH Trang Lời mở đầu………………………………………………………….…1 Các nội dung chính ...………………………………………………...2 Danh mục các bảng biểu và hình minh họa…………………………5 Chương I: Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp 1. Khái niệm về xác định giá trị doanh nghiệp……...……………………6 1.1 Lợi ích của quy trình định giá …………………………………………..6 1.2 Các nội dung cần thẩm định của quy trình định giá………………..……7 1.3 Các yếu tố đảm bảo cho sự thành công của quy trình định giá ………...8 2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp………………...……9 2.1 Phương pháp tài sản………………………………………………….…9 2.1.1 Nội dung………………………………………………………………9 2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả định giá…………………….……16 2.1.2.1 Giá trị theo sổ sách kế toán…………………………………...……16 2.1.2.2 Tài liệu kiểm kê, phân lọa và đánh giá chất lượng tài sản tại thời điểm cổ phần hóa……………………………………………………...……18 2.1.2.3 Giá thị trường của tài sản tại thòi điểm cổ phần hóa………….……19 2.1.3 Các bước xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản…..19 2.1.4 Hạn chế của phương phàp tài sản………………………………….…20 2.2 Phương pháp bội số (hay phương pháp so sánh tương đồng).…...……21 2.2.1 Nội dung……………………………………………………………..21 2.2.2 Các bước xác định giá trị doanhnghiệp theo phương pháp bộ số……22 2.2.2.1 Xác định các doanh nghiệp tương đồng……………………………22 2.2.2.2 Lựa chọn các chỉ tiêu tài chính thích hợp………………………….22 2.2.2.3 Hoàn thiện bảng thông tin tài chính của các doanh nghiệp tương đồng………………………………………………………………………...22 2.2.2.4 Dự báo tình hình tài chính trong tương lai của doanh nghiệp…...…24 2.2.2.5 So sánh và phân tích để đánh giá tương quan giữa các doanh nghiệp và xác định khoảng giá trị của doanh nghiệp cần định giá…………………24 2.2.3 Khó khăn và hạn chế khi áp dụng phương pháp so sánh tương đồng..25 2.2.3.1 Xác định các doanh nghiệp tương đồng……………………………25 2.2.3.2 Số doanh nghiệp tương đồng lựa chọn……………………………..26 2.2.3.3 Đánh giá sự khác nhau trong nghiệp vụ và trong các tác động tài chính của doanh nghiệp…………………………………………………….26 2.2.3.4 Đánh giá sự khác nhau của các tài sản vô hình như vốn trí tuệ, kỹ năng quản lý, danh tiếng và thương hiệu của doanh nghiệp……………….26 2.2.3.5 Không phải luôn luôn tìm được doanh nghiệp tương đồng ……….27 2.3 Phương pháp chiết khấu dòng tiền………………………………….….27 2.3.1 Nội dung………………………………………………………….…..27 2.3.2 Những yếu tố tác động đến dòng tiền…………………………….….28 2.3.3 Xác định tỉ lệ chiết khấu - xác định chi phí vốn của doanh nghiệp.…31 2.3.3.1 Chi phí vốn chủ sở hữu………………………………………….…31 2.3.3.2 Chi phí vốn vay…………………………………………………….33 2.3.3.3 Chi phí vốn bình quân……………………………………………...34 2.3.4 Các bước xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp chiết khấu dòng tiền……………………………………………………………………35 2.3.5 Những hạn chế khi áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền………………………………………………………………………….36 2.3.5.1 Xác định tỉ lệ chiết khấu - mô hình định giá tài sản vốn…………...36 2.3.5.2 Dự báo tài chính trong tương lai của doanh nghiệp…………..……38 3. Kinh nghiệm định giá ngân hàng của các nước trên thế giới………..41 3.1 Xử lý quyết liệt và dứt điểm nợ xấu nhằm tăng cường năng lực tài chính để đảm bảo các chỉ số theo tiêu chuẩn quốc tế…………………………..…41 3.2 Lựa chọn nhà tư vấn quốc tế và phương thức lựa chọn………………..41 3.3 Lựa chọn cổ đông chiến lược…………………………………………..42 3.4 Xem xét và chọn lựa thị trường chứng khoán nước ngoài để niêm yết..43 Chương II: Định giá ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam bằng phương pháp dòng tiền chiết khấu 1. Vì sao phải định giá BIDV……………………………………………..44 1.1 Tổng quan về BIDV……………………………………………………44 1.2 Đánh giá chung về kết quả hoạt động của BIDV………………………44 1.2.1 Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu còn thấp và chưa đạt yêu cầu theo thông lệ quốc tế………………………………………………………………...……45 1.2.2 Tình hình nợ xấu và khả năng trích lập dự phòng rủi ro……………..47 1.2.3 Khả năng sinh lời còn hạn chế………………………………….……49 1.2.4 Năng lực điều hành còn bất cập………………………………...……49 1.3 Sự cần thiết của việc định giá BIDV…………………………..………50 1.3.1 Xác định giá trị doanh nghiệp nhằm trợ giúp cho quá trình chuyển đổi cơ cấu vốn chủ sở hữu……………………………………………………...50 1.3.2 Xác định giá trị doanh nghiệp đóng vai trog quan trọng đối với thành công của IPO………………………………………………………….……51 1.3.3 Xác định giá trị doanh nghiẹp giúp cải thiện tình hình hoạt động chung của doanh nghiệp trước thực trạng hoạt động kém hiệu quả………………52 2. Lựa chọn phương pháp chiết khấu dòng tiền để định giá BIDV……53 2.1 Vì sao lựa chọn phương pháp chiết khấu dòng tiền để định giá BIDV...53 2.2 Mô hình chiết khấu dòng cổ tức………………………………..………54 2.2.1 Điều kiện thực hiện định giá theo mô hình chiết khấu dòng cổ tức….54 2.2.2 Tổ chức thực hiện định giá …………………………………………..55 Chương III: Các khuyến nghị nhằm chuẩn bị cho công tác xác định giá trị ngân hàng 1. Khuyến nghị đối với BIDV…………………………………………….57 1.1 Tăng vốn tự có và cải thiện hệ số an toàn vốn…………………………57 1.1.1 Vốn chủ sở hữu và vốn tự có của Ngân hàng………………………...57 1.1.2 Các chức năng của vốn tự có…………………………………………59 1.1.2.1 Chức năng bảo vệ…………………………………………………..59 1.1.2.2 Chức năng hoạt động……………………………………………….59 1.1.2.3 Chức năng điều chỉnh………………………………………………59 1.1.3 Các giải pháp tăng vốn tự có…………………………………………60 1.2 Cải thiện hệ số an toàn vốn…………………………………………….62 1.2.1 Hệ số an toàn vốn (CAR) ……………………………………………62 1.2.2 Các giải pháp nhằm cải thiện hệ số an toàn vốn……………………..62 2. Khuyến nghị đối với Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước ……..…65 2.1 Tái cấp vốn cho ngân hàng……………………………………………..66 2.2 Tái tổ chức cổ đông hiện có……………………………………………66 2.3 Hỗ trợ ngân hàng trong việc chuyển nhượng tài sản xấu………………66 Tài liệu thamkhảo…………………………………………………………68 Danh mục các bảng biểu và hình minh họa Hình 1: Minh họa cho bảng thông tin các doanh nghiệp tương đồng……...22 Bảng 1: Những tài sản không tính vào giá trị doanh nghiệp theo NĐ187…16 Bảng 2: Doanh thu, lợi nhuận trước thuế và thu nhập ròng của BIDV qua các năm ………………………………………………………………………...44 Bảng 3: Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu của BIDV tại 31/12/2005 và ước tính tại 31/12/2006…………………………………………………………………46 Bảng 4: Kết quả phân loại nợ theo điều 7 Quyết định 493/NHNN………..47 CHƯƠNG I: CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP 1. Khái niệm về xác định giá trị doanh nghiệp Cho đến nay, chưa có một khái niệm chính thức nào về xác định giá trị doanh nghiệp Tuy nghiên, theo cách hiểu phổ biến, được thừa nhận rộng rãi nhất, thì xác định giá trị doanh nghiệp là công tác điều tra chi tiết và đánh giá hoạt động của một doanh nghiệp nhằm tính toán và xác định giá trị hiện hữu và tiềm năng của doanh nghiệp đó. Thông thường, việc xác định giá trị doanh nghiệp được áp dụng khi một doanh nghiệp đã và hoặc đang được chuẩn bị cổ phần hóa; hoặc trong trường hợp dự kiến sẽ có những thay đổi đáng kể về quyền sở hữu hoặc cơ cấu vốn của doanh nghiệp (hoạt động sáp nhập, liên doanh, liên kết, chuyển nhượng vốn, mua bán doanh nghiệp và chuyển nhượng quyền kinh doanh). Xác định giá trị doanh nghiệp là công tác đặc biệt quan trọng và không thể thiếu cho các đợt phát hành trái phiếu lần đầu ra công chúng (IPO). Ngoài ra, khi doanh nghiệp đang trên đà phát triển và mở rộng qui mô hoạt động, hoặc có sự thay đổi về tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, công tác xác định giá trị cũng là đóng vai trò quan trọng nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp (ban Giám đốc, chủ sở hữu và các cổ đông, trái chủ) trong việc ra các quyết định chiến lược. Trong những năm trở lại đây, mặc dù thuật ngữ xác định giá trị doanh nghiệp không còn là mới lạ ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc xác định giá trị của Ngân hàng thương mại quốc doanh lại là một vấn đề hết sức mới. Do sự khác biệt về đối tượng kinh doanh của tổ chức tín dụng nói chung, và của ngân hàng nói riêng, khác hẳn với các loại hình doanh nghiệp khác, nên các phương pháp định giá áp dụng cho các doanh nghiệp thông thường trở nên thiếu hiệu quả và độ chính xác không cao. Việc phân tích và so sánh các phương pháp định giá hiện hành, ở Việt Nam cũng như ở trên thế giới, trong giai đoạn này, khi các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam, đang trong thời kỳ sôi động nhất của cho việc chuẩn bị cổ phần hóa, trở thành vấn đề quan trọng và nổi cộm. 1.1 Lợi ích của xác định giá trị doanh nghiệp Lợi ích của việc xác định giá trị doanh nghiệp là khả năng tổng hợp, đánh giá, phân tích và khớp lại các dữ liệu quá khứ cũng như triển vọng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. Tất cả những thông tin và phân tích này được phản ảnh đầy đủ thông qua một báo cáo chính xác và toàn diện (báo cáo kết quả định giá), giúp cổ đông hiện tại cũng như các nhà đầu tư có cái nhìn toàn diện và thấu đáo về doanh nghiệp. Ngoài ra, bằng việc xác định các điểm mạnh, điểm yếu và các giá trị cốt lõi của doanh nghiệp, xác định giá trị doanh nghiệp trở thành một công cụ hữu hiệu doanh nghiệp hiện thực hóa và gia tăng giá trị cho các cổ đông hoặc nhà đầu tư tương lai. Xác định giá trị doanh nghiệp, trong những trường hợp cần thiết, sẽ giúp vạch ra các kế họach chuẩn và kiến nghị chuẩn bị cho các hoạt động tiền và hậu IPO (phát hành lần đầu ra công chúng) của doanh nghiệp. Đặc biệt, quy trình định giá cũng chỉ ra những thay đổi cần thiết về hệ thống tài chính, cơ cấu và thành phần của cổ đông hoặc cấu trúc doanh nghiệp, bởi nó tạo ra một diễn đàn mở để doanh nghiệp có thể thảo luận một cách sâu rộng và xem xét những cơ cấu này liệu có đồng nhất và liệu có có lợi cho công ty tương lai không. Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp cũng hỗ trợ hội đồng quản trị, Ban giám đốc đưa ra những quyết định khó khăn và quan trọng như các hoạt động bán hàng hoặc xem xét loại bỏ các hoạt động kinh doanh không có lãi, mà tập trung vào những hoạt động chủ chốt mang lại giá trị cao cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, quy trình định giá còn đưa ra những phân tích về hệ thống quản trị và điều hành doanh nghiệp, qua đó, có đủ thông tin để đánh giá về năng lực đối với một số vị trí nhân lực then chốt. Một quy trình định giá thành công sẽ mang lại những hiệu quả tích cực, vì từ đó, đội ngũ chuyên gia tư vấn sẽ phát hiện ra những khu vực làm ăn hiệu quả của doanh nghiệp, qua đó, đưa ra cho doanh nghiệp những giải pháp tối ưu, nhằm nâng cao hiệu quả và gia tăng giá trị cho các cổ đông và chủ sở hữu doanh nghiệp. 1.2 Các nội dung quan trọng của quy trình định giá Các nội dung cần thẩm định chủ chốt trong quy trình xác định giá trị doanh nghiệp, có thể chia thành 2 loại chủ quan và khách quan. Trong đó, các yêu tổ chủ quan bao gồm: - Các báo cáo về tài chính, các báo cáo kiểm toán – thẩm định những báo cáo này nhằm mục đích đảm bảo độ chính xác cho giá của kết quả định giá. - Thẩm định các tài sản nhằm mục đích xác thực giá trị, tình trạng và quyền sở hữu của doanh nghiệp đối với các tài sản đó. - Thẩm định đội ngũ nhân sự nhằm xác định điểm mạnh, điểm yếu, sự năng động của đội ngũ nhân viên, đặc biệt là năng lực của những vị trí quan trọng. - Thẩm định chiến lược bán hàng, qua đó phân tích các chính sách bán hàng bao gồm viêch đánh giá tính hiệu quả và không hiệu quả. - Thẩm định hoạt động Marketing nhằm xem xét tính hiệu quả các chương trình, chiến lược Marketing của doanh nghiệp. - Thẩm định thị trường hoạt động, qua đó đánh giá hiệu quả các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. - Đánh giá các đối thủ cạnh tranh, để hiểu và nắm bắt các mối đe dọa cạnh tranh hiện tại và tiềm tàng đối với doanh nghiệp. - Thẩm định hệ thống kiểm soát nội bộ, nhằm đánh giá sự hiệu quả, đồng thời đưa ra các kiến nghị nhằm cải thiện và nâng cao vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ. - Thẩm định các hợp đồng và hợp đồng cho thuê nhằm tránh các rủi ro có thể xảy ra với doanh nghiệp Các yếu tố khách quan cần xem xét thẩm định của quy trình định giá bao gồm: phân tích nghành, ảnh hưởng của hoàn cảnh và xu hướng kinh tế quốc giá, và các yếu tố vĩ mô của môi trường kinh doanh như: hệ thống luật pháp, các yếu tố về bảo hộ và ưu đãi… 1.3 Các yếu tố đảm bảo sự thành công của quy trình định giá Quy trình định giá là một quy trình đòi hỏi sự hợp tác toàn diện giữa các bên tham gia, đảm bảo các yêu cẩu nghiêm ngặt về việc cung cấp thông tin đề nghị phân tích và đánh giá. Tổ chức tư vấn định giá cần được tiếp cận tối đa tới nguồn thông tin của doanh nghiệp. Những mục tiêu đã đặt ra, mong muốn hiện tại và tương lai của các cổ đông của công ty, sự tham gia hợp tác mật thiết giữa đội ngũ quản lý trong suốt quy trình sẽ đóng góp vào sư thành công của dự án xác định giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra, uy tín của nhà tư vấn, các cam kết bao gồm cả bảo mật thông tin cũng là yếu tố đảm bảo thành công cho quy trình định giá. 2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Hiện nay, hai phương pháp định giá được sử dụng phổ biến trên thế giới là phương pháp bội số và phương pháp dòng tiền chiết khấu. Ngoài ra, ở Việt Nam, theo Nghị đinh 187, một phương pháp thường được dùng trong công tác định giá nữa là phương pháp tài sản. 2.1 Phương pháp tài sản 2.1.1 Nội dung ”Giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ phần hóa là giá trị toàn bộ tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa, có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều có thể chấp nhận được. Giá trị thực tế vốn nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả, số dư Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có).” (Nghị định 187/2004-NĐ/CP) Vậy muốn áp dụng phương pháp này để tính giá trị của Ngân hàng, cũng như giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại Ngân hàng, câu hỏi đầu tiên đặt ra là: Tài sản của Ngân hàng bao gồm những gì? và Nợ của Ngân hàng là gì? Tài sản của ngân hàng Nhìn từ góc độ của báo cáo tài chính, các tài sản của Ngân hàng có thể chia thành 4 loại sau: tài sản tiền mặt: được hình thành để đáp ứng yêu cầu thanh khoản của Ngân hàng, bao gồm: yêu cầu rút tiền gửi, yêu cầu vay vốn, và những yêu cầu tức thời hay không thể dự đoán trước đối với tiền mặt. Chứng khoán đầu tư: là một nguồn hỗ trợ thanh khoản, và cũng là một nguồn tạo thu nhập cho ngân hàng. Những khoản cho vay: là hoạt động chính cũng là nguồn thu nhập quan trọng nhất của Ngân hàng. Trong khi đó, những tài sản khác: thường là những tòa nhà và thiết bị thuộc sở hữu của Ngân hàng hoặc các khoản đầu tư vào các chí nhánh của Ngân hàng (nếu có). Khoản mục tiền mặt Khoản mục tài sản đầu tiên được liệt kê trong bảng cân đối của hầu hết mọi Ngân hàng là: Tiền mặt và tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác – được gọi là dự trữ sơ cấp của Ngân hàng. Khoản mục này bao gồm tiền mặt trong két của Ngân hàng, tiền gửi tại các Ngân hàng khác, các khoản tiền mặt trong quá trình thu (chủ yếu là các sec chưa thu được) và các khhoản dự trữ của Ngân hàng tại Ngân hàng trung ương. Khoản mục tiền mặt là vòng bảo vệ đầu tiên của Ngân hàng trước yêu cầu rút tiền gửi và yêu cầu vay vốn không báo trước của khách hàng. Thông thường, các Ngân hàng đều cố gắng giữ cho quy mô của khoản mục này ở mức thấp nhất có thể, bởi vì lí do tiền mặt đem lại ít hoặc không đem lại thu nhập cho ngân hàng. Chứng khoán đầu tư – bộ phận thanh khoản. Đây là hàng rào bảo vệ thứ hai để đáp ứng những yêu cầu về tiền mặt và được ngân hàng sử dụng như một nguồn hỗ trợ thanh khoản trên cơ sở những chứng khoán khả mại. Bộ phận này thường được gọi là dự trữ thứ cấp. Dự trữ thứ cấp chủ yếu bao gồm chứng khoán Chính phủ ngắn hạn, chứng khoán trên thị trường tiền tệ như giấy nợ ngắn hạn và tiền gửi kỳ hạn tại ngân hàng khác. Dự trữ thứ cấp nằm giữa tài sản tiền mặt và những khoản cho vay. Mặc dù có đem lại thu nhập, nhưng dự trữ thứ cấp được nắm giữ chủ yếu là để cho các ngân hàng có thể dễ dàng chuyển đổi chúng thành tiền mặt trong thời gian ngắn. Chứng khoán đầu tư-bộ phận tạo thu nhập Chứng khoán đầu tư – bộ phận tạo thu nhập của ngân hàng bao gồm: trái phiếu, giấy nợ và các chứng khoán khác được ngân hàng nắm giữ vì tỉ lệ thu nhập mà chúng mang lại. Thông thường, những chứng khoán này được chia thành hai nhóm: nhóm chứng khoán chịu thuế - chủ yếu là trái phiếu chính phủ, chứng khoán của các tổ chức tín dụng khác và các trái phiếu công ty; và nhóm chứng khoán miễn thuế - bao gồm chủ yếu là các trái phiếu của Chính phủ nhằm mục đích hỗ trợ cho sự phát triển của quốc gia, chẳng hạn như công trái giáo dục. Loại chứng khoán miễn thuế tạo ra thu nhập lãi không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Các chứng khoán đầu tư có thể được ghi chép trong sổ sách của ngân hàng theo chi phí gốc hoặc giá trị thị trường. Hầu hết các ngân hàng ghi nhận việc mua chứng khoán, các tài sản khác và nợ theo chi phí gốc. Tất nhiên, nếu lãi suất tăng sau khi ngân hàng mua chứng khoán thì giá trị thị trường của chúng sẽ nhỏ hơn chi phí gốc (giá trị ghi sổ). Do đó, những ngân hàng phản ánh giá trị của các chứng khoán trên bảng cân đối kế toán theo chi phí gốc, thường phải kèm theo ghi chú về giá trị thị trường hiện hành. Tuy nhiên, hiện tại, các ngân hàng có xu hướng thay đổi hệ thống các qui tắc kế toán áp dụng đốivới hoạt động ngân hàng theo hướng thau thế các con số chi phí gốc bằng giá trị thị trường hiện hành. Hầu hết các ngân hàng hiện nay đều nắm giữ mộ luợng nhỏ các chứng khoán trong tài khoản giao dịch. Điều này có nghĩa là, hoạt động của ngân hàng bao gồm cả hoạt động của một tổ chức kinh doanh chứng khoán, với một số loại chứng khoán nhất định (chủ yếu là trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục). Số lượng được phản ánh trong tài khoản giao dịch cho biết nhứng chứng khoán ngân hàng dự định bán theo giá thị trường trước khi chúng đến hạn. Những khoản cho vay Khả năng cho vay đối với khách hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng được tư phép hoạt động. Các ngân hàng được kỳ vọng sẽ hỗ trợ sự phát triển của nền kinh tế thông qua việc cung cấp tín dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và của người tiêu dùng, với một mức lãi suất hợp lý. Rõ ràng, cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng – để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan Chính phủ. Hoạt động cho vay của các ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng hoạt động, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa, thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng, và nhờ đó giúp cho họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn. Đối với hầu hết mọi ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa tổng giá trị tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi (nợ xấu của ngân hàng), bắt nguồn từ một số nguyên nhân: quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ theo nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý, và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế. Vì thế, chắng có gì đáng ngạc nhiên khi thanh tra ngân hàng thường xuyên kiểm tra cẩn thận danh mục cho vay của ngân hàng. Thông thường, quá trình thanh tra bao gồm việc phân tích kỹ lưỡng các tài liệu, các văn bản liên quan và tài sản thế chấp đối với những khoản vay lớn. Đồng thời, quá trình này cũng bao gồm việc đánh giá tính hiệu quả của chính sách tín dụng mà ngân hàng đang theo đuổi nhằm bảo vệ tiền gửi của công chúng. Có thể phân loại các khoản cho vay theo nhiều tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, các khoản cho vay của ngân hàng được chia thành bảy nhóm chính: - Cho vay kinh doanh bất động sản: bao gồm các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn và giải phóng mặt bằng, cũng như các khoản cho vay dài hạn tài trợ cho việc mua đất canh tác, nhà, trung tâm thương mại và mua các tài sản nước ngoài. Đối với các loại hình cho vay này, ngân hàng được bảo đảm bằng chính các tài sản thực: đất đai, tòa nhà và các công trình khác. - Cho vay đối với các tổ chức tài chính: bao gồm các khoản tín dụng dành cho ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. - Cho vay nông nghiệp: nhằm hỗ trợ nông dân trong hoạt động gieo trồng thu hoạch và bảo quản sản phẩm. - Cho vay công nghiệp và thương mại: giúp doanh nghiệp trang trải các chi phí như mua hàng nhập kho, trả thuế, trả lương cho cán bộ nhân viên. - Cho vay đối với các cá nhân: giúp tài trợ cho việc mua ô tô, nhà ở, trang thiết bị gia đình, vật liệu xây dựng để sửa chữa, hiện đại hóa nhà cửa, hay trang trải các khoản viện phí và các chi phí cá nhân khác. - Các khoản cho vay khác: gồm các khoản vay không được xếp loại ở trên, và các khoản cho vay kinh doanh chứng khoán. - Tài trợ thuê mua: ngân hàng mua thiết bị máy móc, hay phương tiện và cho khách hàng thuê. Tuy nhiên, những tổn thất cho vay, cả hiện tại và dự kiến đều được khấu trừ khỏi tổng số vay. Theo quy định, ngân hàng phải trích lập Quỹ dự phòng tổn thất tín dụng trên cơ sở tổng dư nợ và phân loại theo nhóm nợ theo Quyết định 493. Quỹ dự phòng tổn thất tín dụng là một tài khoản tài sản đối ứng, thể hiện tiền dự trữ tích lũy để bù đắp cho những khoản vay bị kết luận là không thể thu hồi. Điều này có nghĩa rằng, những khoản cho vay có vấn đề sẽ không ảnh hưởng đển thu nhập hiện tại của một ngân hàng (trừ khi tổn thất tín dụng xảy ra ngoài dự tính và ngân hàng không lập dự phòng cho chúng). Phòng kế toán của ngân hàng sẽ xóa sổ một khoản cho vay được xem là không thể thu hồi bằng cách ghi giảm tài khoản dự phòng tổn thất tín dụng một lượng bằng giá trị khoản cho vay, và đồng thời giảm tài khoản tổng số cho vay một lượng tương đương. Tài khoản dự phòng tổn thất tín dụng được tích lũy dần theo thời gian thông qua hoạt động trích quỹ từ thu nhập hàng năm của ngân hàng. Những khoản trích quỹ này xuất hiện trên báo cáo thu nhập của ngân hàng như một khoản chi phí không bằng tiền được gọi là phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng. Nếu như một khoản cho vay lớn bị xếp thuộc loại nhóm nợ xấu theo quy định 493, thì những nhà quản lý sẽ buộc phải tăng việc trích quỹ (tức là làm giảm thu nhập ròng hiện hành của ngân hàng) để đưa khoản mục dự phòng về đúng mức theo quy định. Những khoản bổ sung cho dự phòng trích lập rủi ro thường được thực hiện khi quy mô danh mục cho vay nào bị xếp loại xuống nhóm nợ xấu hơn, hay khi tổn thất tín dụng xảy ra với một khoản cho vay mà ngân hàng chưa lập dự phòng. Những bút toán cần thiết sẽ đồng thời làm tăng cả khoản mục tài sản dự phòng tổn thất tín dụng và khoản mục đối ứng: phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng. Tổng số dự trữ tổn thất tín dụng tại thời điểm lập bảng cân đối kế toán của ngân hàng được khấu trừ khỏi tổng số cho vay để xác định khoản mục dư nợ cho vay ròng – một thước đo giá trị dòng của dư nợ cho vay. Một khoản mục khác được khấu trừ khỏi tổng số cho vay để tạo ra số cho vay ròng là thu nhập lãi trả trước. Khoản mục này bao gồm lãi từ những khoản cho vay mà khách hàng đã nhận được nhưng chưa thực sự là thu nhập lãi theo phương pháp kế toán hiện hành của ngân hàng. Chẳng hạn, nếu một khách hàng nhận một khoản vay và trả ngay tất cả hay một phần tiền lãi, thì ngân hàng không thể vào sổ khoản thanh toán tiền lãi là thu nhập đã thực sự tạo ra vì người khách hàng vẫn chưa sử dụng số tiền vay. Trong thời gian của món vay, ngân hàng sẽ dần dần có được thu nhập và những khoản thu nhập thực sự này sẽ được chuyển từ tài khoản “thu nhập lãi trả trước” sang tài khoản “Thu từ lãi” của ngân hàng. Trong sổ sách kế toán của ngân hàng, còn có một khoản mục cho vay nữa là Nợ quá hạn. Đây là những khoản tín dụng không còn tích lũy thu nhập lãi cho ngân hàng hoặc đã phải cơ cấu lại cho phù hợp với điều kiện thay đổi của khách hàng. Theo quy định tại Quyết định 493, một khoản cho vay được coi là nợ quá hạn khi bất kỳ một khoản trả nợ tiền vay theo kế hoạch nào bị quá hạn hoặc đã từng bị cơ cấu lại lịch trả nợ. Khi một khoản cho vay bị phân loại từ nhóm 2 trở xuống, thì tất cả tiền lãi tích lũy trong sổ sách kế toán của ngân hàng nhưng trên thực tế chưa được thanh toán sẽ được khấu trừ khỏi thu nhập cho vay. Ngân hàng không được ghi chép thu nhập lãi từ khoản cho vay này cho đến khi một khoản thanh toán bằng tiền mặt thực sự được thực hiện. Các tài sản khác Một bộ phận trong tài sản của ngân hàng là giá trị còn lại (được điều chỉnh theo khấu hao) của thiết bị và tòa nhà ngân hàng, những khoản đầu tư tại các công ty con, tiền bảo hiểm trả trước, và những khoản mục tài sản tương đối không quan trọng khác. Ngân hàng thường dành một tỉ lệ phần trăm nhỏ trong tổng tài sản cho tài sản vật chất – đó là tài sản cố định được thể hiện là nhà cửa và thiết bị cần thiết để tiến hành hoạt động hàng ngày. Như chúng ta đã biết, đa số tài sản của một ngân hàng tồn tại dưới hình thức quyền về tài chính (các khoản cho vay và chứng khoán) không phải là tài sản cố định. Tuy nhiên, các tài sản cố định tạo ra chi phí hoạt động cố định dưới dạng chi phí khấu hao, là yếu tố hình thành đòn bẩy hoạt động. Đòn bẩy hoạt động này cho phép ngân hàng đẩy mạnh thu nhập từ hoạt động nếu nó có thể gia tăng khối lượng dịch vụ lên tới một mức đủ lớn, tạo ra nhiều thu nhập hơn từ việc sử dụng các tài sản cố định so với chi phí so với các tài sản đó. Tuy nhiên, do tài sản cố định chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng tài sản, các ngân hàng không thể dựa nhiều vào đòn bẩy hoạt động để tăng thu nhập; thay vì thế, họ phải sử dụng đòn bẩy tài chính – việc sử dụng vốn vay để đẩy mạnh hoạt động, tạo thu nhập và duy trì cạnh tranh với những nghành khác trong quá trình huy động vốn và cho vay. Tài sản của Ngân hàng là sự thể hiện kết quả của việc sử dụng nguồn tích lũy của Ngân hàng, nói cách khác, mỗi tài sản của Ngân hàng đều được tài trợ bởi một hay nhiều nguồn nhất định. Những nguồn đó được thể hiện rõ nét ở phần cònlại của Bảng cân đối: Nguồn vốn của Ngân hàng. Nợ của Ngân hàng Những nguồn tài trợ cho các tài sản của Ngân hàng được thể hiện ở bên kia của bảng cân đối: phần Nguồn vốn. Cũng như những loại hình doanh nghiệp khác, nguồn vốn của Ngân hàng được chia thành hai loại: Nợ phải trả và Vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, khác với các loại hình doanh nghiệp khác, Nợ của Ngân hàng bao gồm : Tiền gửi của khách hàng D(Deposits) và Những nguồn vốn vay phi tiền gửi trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ NDB(Non-Deposit Borrows). Tiền gửi là nguồn vốn cơ bản của Ngân hàng, cũng là sản phẩm chính của hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Những khoản vay vốn phi tiền gửi chủ yếu để bổ sung cho tiền gửi và tăng cường khả năng thanh khoản trong những trường hợp mà tiền mặt và chứng khoản không đáp ứng đủ. Tiền gửi của khách hàng Khoản mục nợ chủ yếu trong các ngân hàng là tiền gửi của khách hàng, thể hiện các yêu cầu tài chính đối với ngân hàng từ phía doanh nghiệp, hộ gia đình và chính phủ. Trong trườn hợp một ngân hàng bị thanh lý, số tiền thu về từ việc bán những tài sản của nó trước tiên phải được sử dụng để thanh toán cho những người gửi tiền. Những người cho vay và cổ đông của ngân hàng nhận được phần vốn còn lại. Thông thường, tiền gửi của ngân hàng có thể được chia thành 5 loại hình chính: - Tiền gửi giao dịch không hưởng lãi, hay tài khoản giao dịch thông thường, nói chung cho phép phát sec không hạn chế. - Tiền gửi tiết kiệm: mang lãi suất thấp nhất mà một ngân hàng cung cấp cho khách hàng, không giới hạn về qui mô tiền gửi (mặc dù hầu hết các ngân hàng đều đặt ra yêu cầu về số tiền gửi tối thiểu) và cho phép khách hàng rút ra theo ý muốn. - Tài khoản theo lệnh rút tiền có thể thương lượng được (tài khoản NOW): là tiền gửi theo yêu cầu có thể nhận được lãi suất gián tiếp, có thể hiểu là những tấm séc miễn phí hoặc miễn phí dịch vụ. Đây là những tài khoản chỉ có thể nắm giữ bởi các cá nhân hoặc các tổ chức phi lợi nhuận; và là tài khoản hưởng lãi và cho phép người gửi tiền phát séc để thực hiện thanh toán cho bên thứ ba. - Các tài khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ: đối với loại tài khoản này, ngân hàng cung cấp có thể trả một lãi suất nào đó nếu ngân hàng cảm thấy là có tính cạnh tranh. Tài khoản này có gắn liền với đặc quyền phát séc hạn chế. Với tài khoản này, không có quy định về giá trị danh nghĩa tối thiểu hay thời gian đáo hạn. Đồng thời, tổ chức nhận tiền gửi có thể bảo lưu quyền yêu cầu thông báo 7 ngày trước khi việc rút tiền được thực hiện. - Tiền gửi có kỳ hạn: (chủ yếu là các chứng chỉ tiền gửi), thường kèm theo quy định về kỳ hạn với một mức lãi suất được xác định trước hoặc theo thỏa thuận và không có giới hạn về số tiền gửi tối thiểu. Khoản mục này bao gồm các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng giá trị._. lớn – những chứng chỉ tiền gửi thưởng lãi mà ngân hàng sử dụng để huy động vốn từ các khách hàng quen thuộc. Các khoản đi vay Trong khi tiền gửi là khoản mục nguồn vốn có tỷ trọng lớn nhất thì một lượng vốn tương đối quan trọng bắt nguồn từ các khoản nợ khác. Nếu tất cả các yếu tố khác được giữ không đổi, ngân hàng càng lớn càng sử dụng nhiều nguồn vốn phi tiền gửi. Một lý do cho sự gia tăng của nguồn vốn vay trong hoạt động ngân hàng những năm gân đây là không có yêu cầu dự trữ đối với hầu hết các loại vốn này, điều này làm giảm chi phí của việc tài trợ bằng nguồn vốn vay. Các khoản vay trên thị trường tiền tệ thường được thực hiện trong thời gian rất ngắn, và vốn được chuyển ngay lập tức đến ngân hàng có yêu cầu. Tuy nhiên, có một hạn chế là lãi suất của các nguồn vốn vay biến động tương đối lớn. Nếu một ngân hàng đang gặp khó khăn về tài chính và phải cố gắng vay từ những nguồn vốn này thì chi phí đi vay của ngân hàng có thể tăng lên nhanh chóng, hoặc những người cho vay trên thị trường tiền tệ có thể đơn phương từ chối cấp thêm tín dụng cho ngân hàng. 2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả định giá Theo quy định của Nghị định 187, các căn cứ để xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp bao gồm: (i)số liệu theo sổ sách kế toán của ngân hàng tại thời điểm cổ phần hóa; (ii)tài liệu kiểm kê, phân loại và đánh giá chất lượng tài sản của ngân hàng tại thời điểm cổ phần hóa; và (iii)giá thị trường của tài sản tại thời điểm cổ phần hóa. 2.1.2.1 Số liệu theo sổ sách kế toán Số liệu theo sổ sách kế toán là địa chỉ đầu tiên cung cấp những thông tin cần thiết và đầy đủ nhất để tiến hành định giá. Từ những số liệu này, người ta đã có thể xác định được một cách chi tiết cũng như tổng hợp giá trị sổ sách tất cả các tài sản của doanh nghiệp. Giá trị theo sổ sách của một tài sản của một doanh nghiệp được hiểu là giá trị được ghi trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp đó. Như vậy, khi mở rộng ra cho cả một doanh nghiệp, giá trị theo sổ sách của một doanh nghiệp được xác định bằng tổng giá trị sổ sách của tất cả các tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp đó, ngoại trừ một số tài sản không được tính vào giá trị của doanh nghiệp theo quy định. Đến đây, có thể thấy ngay nhược điểm của giá trị này là nó chưa phản ánh được những tài sản đặc biệt – những tài sản không được ghi nhận trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp nhưng vẫn có giá trị đối với doanh nghiệp – tức là trực tiếp ảnh hưởng tới giá trị của doanh nghiệp, như danh tiếng của doanh nghiệp, giá trị của thương hiệu doanh nghiệp, các giá trị vô hình thuộc về kỹ năng quản lý, các giá trị hình thành từ vốn chất xám của doanh nghiệp. Những giá trị này, được tổng quát thành giá trị lợi thế của doanh nghiệp. Và dĩ nhiên, theo các chế độ kế toán hiện hành, giá trị này không được ghi nhận trong bảng cân đối của doanh nghiệp. Khi xác định giá trị sổ sách của một doanh nghiệp, theo quy định hiện nay, trước hết doanh nghiệp cần tiến hành loại bỏ những tài sản không được tính vào giá trị của doanh nghiệp. Bảng sau đây là quy định cụ thể của Nghị định 187 về các tài sản không được tính vào giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hóa. Bảng 1: Những tài sản không tính vào giá trị doanh nghiệp theo NĐ 187 Theo Nghị định 187, những tài sản không được tính vào giá trị của doanh nghiệ khi cổ phần hóa bao gồm: Các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi Chi phí xây dựng cơ bản dở dang của những công trình đã bị đình hoãn trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp Tài sản do doanh nghiệp thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh và các tài sản không phải của doanh nghiệp Những tài sản ứ đọng chờ thanh lý mà đến thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp vẫn không xử lý được. Những tài sản này, sau khi đã cổ phần hóa, Doanh nghiẹp có trách nhiệm chuyển giao lại cho Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng theo quy định của Pháp luật Những tài sản thuộc công trình phúc lợi đầu tư bằng quỹ khen thưởng Phúc lợi. Riêng đối với nhà ở của cán bộ công nhân viên, kể cả nhà ở được đầu tư bằng vốn Ngân sách nhà nướcthì chuyển giao cho cơ quan địa phương quản lý hoặc bán lại cho người đang sử dụng theo quy định của Pháp luật Những khoản đầu tư dài hạn vào các doanh nghiệp khác mà Doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa không được kế thừa. Đối với nghành Ngân hàng, do các đặc thù của đối tượng kinh doanh và của hoạt động kinh doanh đối với các nghành khác, việc xác định những tài sản không tính vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa theo Nghị định 187, đặc biệt là việc chỉ ra chính xác những khoản nợ nào là những khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi, vẫn còn nhiều ý kiến và cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, Chính phủ hay Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể hay quy định riêng nào dành cho các tổ chức tín dụng nói chung và Ngân hàng quy định cụ thể về những khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi của Ngâng hàng khi Ngân hàng tiến hành định giá. Văn bản pháp luật “có liên quan nhất” có lẽ là Quyết định 493. Theo Quyết định 493, các khoản cho vay của Ngân hàng được chia thành 5 nhóm nợ, theo cả 2 yếu tố định lượng và định tính (quy định cụ thể tại điều 6 và điều 7), trong đó, theo cách hiểu thông thường nợ xấu bao gồm những khoản nợ được phân lọai từ nhóm 3 đến nhóm 5. 2.1.2.2 Tài liệu kiểm kê, phân loại và đánh giá chất lượng tài sản tại thời điểm cổ phần hóa Theo quy định, các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các Ngân hàng thương mại quốc doanh nói riêng phải tiến hành kiểm toán các báo cáo tài chính hàng năm. Đối với những doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hóa, công tác kiểm toán độc lập đóng vai trò càng quan trọng, vì nó là cơ sở để xác định giá trị doanh nghiệp, trực tiếp ảnh hưởng đển giá trị của cổ phần và mức độ hấp dẫn của cổ phần đối với các nhà đầu tư. Đặc biệt, trước khi tiến hành cổ phần hóa, các báo cáo kiểm toán là những cơ sở đầu tiên và đặc biệt quan trọng xác định liệu doanh nghiệp có đủ điều kiện cổ phần hóa theo quy định hiện hành hay không. Tuy nhiên, chức năng chính của các báo cáo kiểm toán là minh bạch hóa, và đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở những tiêu chuẩn và quy định của Việt Nam cũng như của quốc tế. Các báo cáo kiểm toán đồng thời cũng là những cơ sở để đánh giá lại chất lượng tài sản của doanh nghiệp. Đối với các tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng nói riêng, do tính đặc thù của danh mục tài sản, các báo cáo kiểm toán là những tư liệu quan trọng và là cơ sở quyết định để đánh giá hoạt động, tiềm năng, mức độ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Không chỉ thế, các báo cáo kiểm toán còn là căn cứ quan trọng để các tổ chức tư vấn định giá xác định giá trị của ngân hàng một các chính xác nhất. Công tác kiểm toán độc lập một Ngân hàng thường bao gồm hai công việc chính là kiểm toán báo cáo tài chính và đánh giá chất lượng danh mục tín dụng của Ngân hàng. Kiểm toán các báo cáo tài chính được hiểu là công tác kiểm tra, phát hiện, điều chỉnh và đánh giá chế độ kế toán, thông tin và số liệu các chứng từ hạch toán của doanh nghiệp, dựa trên các chuẩn mực kế toán của Việt Nam cũng như các chuẩn mực của quốc tế. Báo cáo đánh giá chất lượng danh mục tín dụng của ngân hàng được hiểu là báo cáo phân loại và xếp hạng các khoản cho vay của ngân hàng, dựa trên các chuẩn mực đánh giá của Việt Nam và quốc tế. Báo cáo này cũng sẽ đánh giá chất lượng các khoản cho vay, đánh giá hệ thống chấm điểm tín dụng của ngân hàng cũng như các phương thức theo dõi thu nợ và xử lý các khoản nợ xấu theo quy định của ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngoài hai loại báo cáo trên, công tác kiểm toán độc lập có thể kèm theo với các báo cáo, kiến nghị và tư vấn của tổ chức kiểm toán độc lập (Thư quản lý). 2.1.2.3 Giá thị trường của tài sản tại thời điểm cổ phần hóa Giá trị thị trường của một tài sản là được hiểu là giá của tài sản đó trên thị trường, giá trị này được xác định bởi cung và cầu trên thị trường, nơi mà người mua và người bán thương thuyết một giá cả chấp nhận chung cho tài sản đang xét. Theo đó, nếu mở rộng ra cho khái niệm giá trị thị trường của doanh nghiệp, ta có thể coi giá trị thị trường của doanh nghiệp là tổng giá trị thị trường của tất cả các tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Việc xác định giá thị trường các tài sản của ngân hàng thông thường dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá của Việt Nam cũng như của quốc tế, và thường được tổ chức tư vấn hoặc chính bản thân ngân hàng thực hiện. 2.1.3 Các bước xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản Theo cách trình bày trên, quy trình định giá sử dụng phương pháp tài sản có thể chia thành 3 bước chính: Bước 1, xác định giá trị sổ sách của doanh nghiệp thông qua tổng giá trị sổ sách các tài sản của doanh nghiệp, trong đó có loại trừ những tài sản theo luật định, là không tính vào giá trị của doanh nghiệp khi cổ phần hóa. Bước 2, thông qua các báo cáo kiểm toán (bao gồm báo cáo công tác kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo đánh giá chất lượng danh mục tín dụng), doanh nghiệp (ngân hàng) tiến hành đánh giá lại chênh lệch của các tài sản của doanh nghiệp. Theo đó, báo cáo công tác kiểm toán các báo cáo tài chính sẽ giúp ngân hàng xác định lại chênh lệch giá trị các khoản mục tài sản tiền mặt, các khoản đầu tư và các tài sản khác (chủ yếu là các tài sản cố định của ngân hàng), cho đúng với giá trị thị trường, hoặc đúng theo các tiêu chuẩn kế toán nhất định (bao gồm cả báo cáo theo chuấn kế toán của Việt Nam và báo cáo theo tiêu chuẩn của quốc tế). Báo cáo đánh giá chất lượng danh mục tín dụng là cơ sở để ngân hàng đánh giá lại các khoản cho vay của mình, từ đó xác định lại “giá trị hợp lý” của những khoản cho vay của ngân hàng, dựa trên một hệ thống các tiêu chuẩn định tính và định lượng nhất định. Kết thúc bước này, ta xác định được tổng chênh lệch do đánh giá lại các tài sản của ngân hàng so với các giá trị ghi trên sổ sách. Bước 3, tính lại giá trị sau khi điều chỉnh của doanh nghiệp. Bằng cách lấy giá trị theo sổ sách của doanh nghiệp (kết quả của bước 1), cộng với giá trị tổng chênh lệch do đánh giá lại ở bước 2, ta xác định được giá trị điều chỉnh của doanh nghiệp, đây cũng chính là kết quả định giá doanh nghiệp bằng phương pháp tài sản. 2.1.4 Hạn chế của phương pháp tài sản Qua những trình bày trên, ta có thể nhận thấy những hạn chế lớn của việc xác định giá trị doanh nghiệp bằng phương pháp tài sản. Đặc biệt là khi ta áp dụng phương pháp này với loại hình doanh nghiệp mang tính nhiều đặc thù như ngân hàng. Thứ nhất, phương pháp tài sản bộc lộ ưu điểm khi nó áp dụng cho những loại hình doanh nghiệp mà tài sản của doanh nghiệp chủ yếu tồn tại dưới dạng vật chất, do đó dễ dàng kiểm kê và xác định giá trị hợp lý. Tuy nhiên, khi áp dụng đối với các loại hình doanh nghiệp dịch vụ, hoặc những loại hình doanh nghiệp mà tài sản của doanh nghiệp chủ yếu không tồn tại dưới dạng vật chất, sản phẩm chủ yếu là các dịch vụ cung cấp, thì phương pháp này tỏ ra không có hiệu quả, và kết quả định giá theo phương pháp này sẽ thấp hơn giá trị hợp lý thực tế của doanh nghiệp rất nhiều. Bên cạnh đó, ngay cả khi tài sản của doanh nghiệp chủ yếu tồn tại dươi dạng vật chất, nhưng sẽ rất khó để kiểm kê đầy đủ nếu số lượng các tài sản là quá nhiều, giá trị mỗi tài sản là nhỏ. Khi đó, công tác kiểm kê sẽ tốn rất nhiều thời gian và công sức cũng như chi phí của doanh nghiệp Thứ hai, phương pháp tài sản không chú trọng, thậm chí là bỏ qua việc định giá các tài sản vô hình, các tài sản mang tính chất xám như danh tiếng, thương hiệu hay kỹ năng quản lý của doanh nghiệp. Những tài sản này, trên thực tế là không dễ dàng để nhận biết, và càng khó để định giá. Chẳng hạn như việc xác định giá trị thương hiệu của ngân hàng thương mại, đặc biệt là của các ngân hàng có quy mô và ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ quốc gia lớn như các ngân hàng thương mại quốc doanh, đến nay vấn là một bài toán khó đối với các chuyên gia. Bên cạnh đó, kỹ năng quản lý và các tài sản mang tính hình thành từ “vốn chất xám” của một doanh nghiệp là những yếu tố rất khó nhận biết và so sánh chứ chưa nói đến việc định giá. Đối với riêng loại hình ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh, các yếu tố như lợi thế so sánh trên thị trường hoạt động, tầm quan trọng đối với thị trường liên ngân hàng quốc gia cũng như các ưu đãi, bảo hộ của chính phủ đối với riêng các ngân hàng thương mại nhà nước, là những yếu tố có tác động lớn đến giá trị hợp lý của ngân hàng, và không thể không xét đến. Như vậy, có thể nhận thấy rằng phương pháp tài sản, có vẻ như không thể đánh giá đúng được giá trị của ngân hàng. Thực tế, theo quy định tại Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính, các tổ chức tín dụng nói chung cũng như ngân hàng nói riêng khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp không áp dụng phương pháp tài sản. Nếu được cải tiến thêm để có thể xác định giá trị các tài sản vô hình của doanh nghiệp, khắc phục những hạn chế nêu trên, khi đấy phương pháp tài sản cũng chỉ nên dùng để xác định mức giá sàn của ngân hàngm và cũng chỉ là kết quả dùng để tham khảo, vì trong thực tế, chi phí thực hiện khi áp dụng phương pháp này cũng rất lớn. 2.2 Phương pháp bội số (hay phương pháp so sánh tương đồng) 2.2.1 Nội dung Phương pháp bội số, hay còn gọi là phương pháp so sánh tương đồng hoặc phương pháp định giá theo bội số, là phương pháp xác định giá trị của một doanh nghiệp trên cơ sở so sánh với các doanh nghiệp đại chúng được đánh giá là tương đồng, đã được niêm yết trên thị trường, thông qua một hoặc một số bội số thích hợp. Các bội số sử dụng rất đa dạng, và tùy thuộc vào đặc tính của từng nghành. Đối với nghành công nghiệp ngan hàng, các bội số quan trọng được sử dụng thường là bội số giá trên thu nhập (P/E), bội số giá thị trường trên giá trị sổ sách (P/B), bội số giá trên dòng tiền, bội số doanh thu và bội số thu nhập trước lãi vay và thuế (EBITDA). Ở những nước có nghành công nghiệp Ngân hàng phát triển, phương pháp này thường được sử dụng để ước đoán một cách nhanh chóng giá trị của Ngân hàng, đặc biệt là xác định giá trị các giao dịch IPO của ngân hàng. 2.2.2 Các bước xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp bội số 2.2.2.1 Xác định các doanh nghiệp tương đồng Bước đầu tiên, cũng là bước quan trọng nhất của phương pháp này là xác định danh mục “doanh nghiệp tương đương” trên thị trường. Những “doanh nghiệp tương đương” thường được lựa chọn từ một danh mục các doanh nghiệp trong cùng nghành (cùng cung cấp một lọa sản phẩm, dịch vụ), tương đương về qui mô vốn và tài sản, mức độ uy tín trên, tiềm năng của thị trường hoạt động, khách hàng tiềm năng...Đối với những nghành công nghiệp phát triển mà số lượng các doanh nghiệp trong cùng nghành quá nhiều, người ta thường sử dụng các tiêu chí về hiệu quả hoạt động để lựa chọn ra các doanh nghiệp tương đương. Kết thúc bước này, ta có được một danh mục doanh nghiệp tương đương với doanh nghiệp cần định giá, và các thông tin thị trường đi kèm như giá trung bình cổ phiếu, mức vốn hóa (giá trị thị trường của doanh nghiệp), và giá trị sổ sách của doanh nghiệp đó. 2.2.2.2 Lựa chọn các chỉ tiêu tài chính thích hợp Sau khi đã xác định được các danh mục các doanh nghiệp tương đương, bước tiếp theo là lựa chọn các chỉ tiêu tài chính thích hợp. Những thông tin tài chính lựa chọn trong bước này sẽ được dùng làm cơ sở để so sánh tiềm năng, hay tức là mức độ hấp dẫn của doanh nghiệp cần định giá so với những doanh nghiệp tương đương khác; do vậy, sự thích đáng của những chỉ tiêu lựa chọn sẽ trực tiếp tác động đến giá trị của doanh nghiệp.Thông thường, việc lựa chọn những chỉ tiêu tài chính “thích hợp” phụ thuộc nhiều vào nghành nghề kinh doanh và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp cần định giá. 2.2.2.3Hoàn thiện bảng thông tin tài chính của các doanh nghiệp tương đồng Khi đã có danh mục các doanh nghiệp tương đương và lựa chọn được các chỉ tiêu tài chính thích hợp, bước kế tiếp là hoàn thiện bảng thông tin tài chính của các doanh nghiệp tương đương. Cụ thể là, ta xác định các giá trị chí tiêu tài chính đã lựa chọn của các doanh nghiệp tương đương và điền vào bảng. Cấu trúc thường thấy của một bảng thông tin tài chính các doanh nghiệp tương đương bao gồm: hàng dọc là nội dung của danh mục doanh nghiệp tương đương; hàng ngang là các chỉ tiêu tài chính được lựa chọn làm tiêu chí so sánh. Ngoài ra, bảng thông tin tài chính các doanh nghiệp tương đương có thể bao gồm các thông tin bổ sung như: giá trị trung bình, trung bình điều chính, trung vị, và trung vị điều chỉnh của các chỉ tiêu tài chính được lựa chọn. Bảng dưới đây là một ví dụ cụ thể minh họa về các nội dung chủ yếu mà một bảng thông tin tài chính doanh nghiệp tương đồng yêu cầu. Các chỉ tiêu, hay trọng số lựa chọn càng nhiều thì các yêu cầu về thông tin đòi hỏi của bảng càng chi tiết. Điều này giúp cho kết quả xác định giá trị doanh nghiệp có thể tổng quát hơn và trọn vẹn hơn; tuy nhiên, nó cũng làm cho biên độ dao động của kết quả định giá lớn hơn. Khi biên độ dao động của kết quả định giá quá lớn, thì kết quả định giá cũng không còn hiệu quả, hay phương pháp định giá lựa chọn không thích hợp hoặc là các trọng số lựa chọn để so sánh là không tốt. Hình 1: Minh họa cho bảng thông tin các doanh nghiệp tương đồng Một điểm cần lưu ý khi hoàn thiện bảng thông tin tài chính doanh nghiệp tương đương cũng như khi tính giá trị các chỉ sổ tài chính là: phải chú ý đến tính “mùa vụ” của các chỉ tiêu tài chính đã lựa chọn. Tùy từng nghành, từng lĩnh vực kinh doanh hoặc đặc điểm địa lý hay do thói quen, phong tục của khách hàng, mà vào những thời gian khác nhau trong năm, các chỉ tiêu tài chính đã lựa chọn có thể nhận những giá trị khác nhau. Vì vậy, khi tính toán giá trị cho các chỉ tiêu tài chính, cần phải áp dụng phương pháp thống kê để xử lý được tính “mùa vụ” nói trên. Hoàn thiện bước này, ta có được một cái nhìn tổng quan về thị trường nghành, lĩnh vực hoat động của doanh nghiệp cần định giá. Ngoài ra, các giá trị trung bình, trung bình điều chỉnh, trung vị và trung vị điều chỉnh cũng có thể cho ta biết những “doanh nghiệp tương đương” mà ta lựa chọn liệu có thực sự là “tương đương”. Bằng cách thử so sánh giá trị các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp cần định giá với những giá trị trung bình, trung bình điều chỉnh; giá trị chênh lệch thu được sẽ phản ánh chính xác mức độ tốt của sự “tương đương” từ các doanh nghiệp được lựa chọn. 2.2.2.4 Dự báo tình hình tài chính trong tương lai của doanh nghiệp Bước tiếp theo của phương pháp này là dự báo tình hình tài chính, viễn cảnh hiệu quả hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp cần định giá. Mục đích chính của bước này là xác định được các giá trị dự báo của các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến mức độ hấp dẫn tới các nhà đầu tư đối với doanh nghiệp trong tương lai. Và cũng chính những giá trị dự báo này sẽ là cơ sở để so sánh và xác định khoảng giá trị của doanh nghiệp cần định giá. Vì vậy, tính trung thực và chính xác của các chỉ tiêu dự báo là yếu tố quan trọng hàng đầu khi dự báo tình hình tài chính của công ty. Thông thường, các chỉ số dự báo quan trọng thường tậmp trung vào các chỉ tiêu về kết quả và hiệu quả hoạt động hoạt động của doanh nghiệp, các dòng tiền trong tương lai mà doanh nghiệp kỳ vọng nhận được. Những chỉi tiêu này có thể được dự báo dựa trên việc thống kê các số liệu hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ. Ngoài ra, những tài liệu về nghiên cứu, tìm hiểu thị trường cũng như phương án kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp là những cơ sở không thể thiếu đối với công tác dự báo này. 2.2.2.5 So sánh và phân tích để đánh giá tương quan giữa các doanh nghiệp và xác định khoảng giá trị của doanh nghiệp cần định giá Bước cuối cùng, sử dụng các chỉ tiêu dự báo, để phân tích nghành và doanh nghiệp, so sánh với giá trị trong bảng thông tin tài chính doanh nghiệp tương đồng và dựa các giá trị thích hợp thu được để xác định khoảng giá trị của doanh nghiệp cần định giá. Như đã nói ở trên, tùy từng nghành, từng lĩnh vực kinh doanh mà các chỉ tiêu tài chính được lựa chọn sẽ khác nhau. Chẳng hạn, nếu doanh nghiệp cần định giá hoạt động trong các nghành công nghiệp sản xuất chế biến, các chỉ tiêu thường được sử dụng là Lợi nhuận trước thuế, khấu hao và lãi vay (EBITDA), và Lợi nhuận trên một cổ phần (EPS). Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hai chỉ tiêu quan trọng nhất được sử dụng là: Giá thị trường trên giá sổ sách (P/B), giá trên thu nhập từ việc giữ cổ phần (P/E). Thực tế, việc phân tích và so sánh tương quan của doanh nghiệp với những doanh nghiệp khác đòi hỏi một kỹ năng phân tích nghành cũng như đánh giá doanh nghiệp sâu sắc. Do mỗi doanh nghiệp đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng; đặc trưng của mỗi nghành khác nhau cũng tạo cho các doanh nghiệp khác nhau những lợi thế so sánh khác nhau. Để đi đến xác định được khoảng giá trị của doanh nghiệp, tất cả các yếu tố đều cần được nhìn nhận và đánh giá thận trọng. 2.2.3 Khó khăn và hạn chế khi áp dụng phương pháp so sánh tương đồng Sử dụng phương pháp này để xác định giá trị một doanh nghiệp, trên thực tế, đòi hỏi cả hai kỹ năng: nghệ thuật và khoa học. Do việc xác định được doanh nghiệp đại chúng nào là tương đương nhất với doanh nghiệp đang cần định giá đã là cả một vấn đề. Việc lựa chọn mức giá nào của các doanh nghiệp đại chúng tương đương để tính giá trị của doanh nghiệp đang xét là cả một vấn đề. Sau đây là những yếu tố ảnh hưởng quyết định đến kết quả định giá doanh nghiệp khi sử dụng phương pháp này: 2.2.3.1 Xác định các doanh nghiệp đại chúng tương đồng Khi sử dụng phương pháp bội số, bước quan trọng nhất và cũng khó khăn nhất là xác định danh mục doanh nghiệp tương đương. Thông thường, những doanh nghiệp tương đương thường được lựa chọn trên hai khía cạnh: nghiệp vụ hoạt động và chỉ số tài chính. Đứng trên khía cạnh nghiệp vụ hoạt động, người ta sẽ xác định một doanh nghiệp có phải là tương đương với doanh nghiệp cần định giá hay không bằng cách xem xét, đánh giá các sản phẩm/dịch vụ mà nó cung cấp, mạng lưới phân phối và cách thức phân phối, kết cấu chi phí, thị trường hoạt động, khách hàng tiểm năng, các yếu tố mang tính địa lý, và các yếu tố khác. Đứng trên khía cạnh tài chính, doanh nghiệp tương đương được lựa chọn trên các tiêu chí: qui mô về vốn, qui mô về doanh thu, cấu trúc vốn, lợi nhuận biên, các chỉ tiêu về kinh nghiệm quản lý… 2.2.3.2 Số doanh nghiệp tương đồng lựa chọn Việc xác định số lượng doanh nghiệp lựa chọn để làm cơ sở so sánh cũng là một khó khăn khi sử dụng phương pháp này. Thông thường, tùy vào thị trường nghành và lĩnh vực mà doanh nghiệp cần định giá hoạt động; số doanh nghiệp lựa chọn sẽ phụ thuộc vào mức độ tương đồng của các doanh nghiệp trong nghành. Nếu sự tương đồng (về các chỉ tiêu tài chính lựa chọn) giữa các doanh nghiệp là nhỏ, thì số doanh nghiệp lựa chọn vào danh mục các doanh nghiệp đại chúng tương đương nên lớn. Ngược lại, nếu sự tương đồng giữa các doanh nghiệp trong nghành là lớn, ta có thể hạn chế số lượng doanh nghiệp lựa chọn. 2.2.3.3 Đánh giá sự khác nhau trong nghiệp vụ và trong các tác động tài chính của các doanh nghiệp Ngay cả khi, giữa các doanh nghiệp trong nghành có sự tương đồng lớn về các chỉ tiêu tài chính lựa chọn, thì sự tương đồng ấy cũng chưa chắc đã đủ tốt như ta nghĩ. Bởi vì mỗi doanh nghiệp, không phải là một, hiển nhiên sẽ có những điểm khác biệt trong tiến hành hoạt động nghiệp vụ. Do vậy, sự ảnh hưởng của doanh nghiệp đến thị trường hay đánh giá của khách hàng và của thị trường về mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có những điểm khác nhau. Những khác biệt này, hiển nhiên sẽ tại cho mỗi doanh nghiệp một giá trị về “phong cách”, thương hiệu và tầm ảnh hưởng riêng của nó. Đối với hầu hết mọi nghành, những khác biệt này sẽ có tác động đáng kể tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Việc đánh đồng các doanh nghiệp chỉ dựa trên các chỉ tiêu tài chính mà bỏ qua yếu tố này sẽ làm kết quả định giá có những sai lệch lớn. 2.2.3.4 Đánh giá sự khác nhau của các tài sản vô hình như vốn trí tuệ, kỹ năng quản lý, danh tiếng và thương hiệu của doanh nghiệp Hiển nhiên, không thể phủ nhận vai trò của kỹ năng quản lý cũng như vốn chất xám của doanh nghiệp đối với kết quả hoạt động của nó. Cũng như khi đánh giá sự khác nhau trong nghiệp vụ và trong các tác động tài chính của mỗi doanh nghiệp, việc đánh giá sự khác nhau trong nguồn vốn chất xám của mỗi doanh nghiệp gần như là điều bất khả thi. Trong xu hướng thị trường ngày càng phát triển như ngày nay, chênh lệch trong việc tạo ra giá trị doanh nghiệp do chênh lệch trong vốn chất xám và sử dụng chất xám của doanh nghiệp là sẽ ngày càng đáng kể. Thương hiệu cũng là một yếu tố không thể không kể đến, thậm chí đối với nhiều doanh nghiệp, giá trị của thương hiệu còn chiếm tỉ trọng lớn trong giá trị của toàn bộ doanh nghiệp. Công tác xác định giá trị doanh nghiệp tại khâu đánh giá vốn chất xám, kỹ năng quản lý, thương hiệu của doanh nghiệp và giá trị của chúng mang lại cho doanh nghiệp sẽ vô cùng khó khăn, tuy nhiên, cũng sẽ là thiếu xót đáng kể nếu trong công tác định giá doanh nghiệp lại không nhìn nhận đến các yếu tố này. 2.2.3.5 Không phải luôn luôn tìm được doanh nghiệp đại chúng tương đồng Có những trường hợp mà khi muốn định giá một doanh nghiệp theo phương pháp này, người ta không thể tìm được một doanh nghiệp đại chúng tương đồng. Trường hợp này xảy ra khi trước đấy, chưa có một tiền lệ nào. Có thể doanh nghiệp cần định giá là một doanh nghiệp đầu tiên mở đầu cho một nghành công nghệ mới – trường hợp này tất nhiên ít xảy ra, hoặc là chưa có doanh nghiệp nào tương đồng với doanh nghiệp cần định giá mà đã được cổ phần hóa. Khi đó, hoặc là phải thay đổi lại các tiêu chí để lựa chọn các doanh nghiệp tương đồng, tức là phải nới rộng những tiêu chí lựa chọn đó. Ngay cả như vậy, phương pháp này vẫn sẽ mang lại một kết quả kém tin cậy hơn. Và chúng ta nên sử dụng kết quả định giá này như một giá trị tham khảo, và chú trọng tới việc áp dụng những phương pháp, mô hình định giá khác. 2.3 Phương pháp chiết khấu luồng tiền 2.3.1 Nội dung Phương pháp luồng tiền chiết khấu là phương pháp phổ biến được dùng để xác định giá trị hiện tại của một doanh nghiệp bằng cách chiết khấu luồng tiền trong tương của doanh nghiệp đó về giá trị hiện tại với một tỉ lệ chiết khấu thích hợp. Nói cách khác, theo phương pháp này, giá trị hiện tại của một doanh nghiệp phụ thuộc vào luồng tiền trong tương lai mà doanh nghiệp đó nhận được, và tỉ lệ chiết khấu thích hợp được sử dụng. Như vậy, để xác định giá trị hiện tại của một doanh nghiệp, ta chỉ cần chỉ ra dòng lợi nhuận trong tương lai mà doanh nghiệp kỳ vọng nhận được, rồi chiết khấu nó về giá trị hiện tại. Ở dạng đơn giản, công thức để xác định dòng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh trong một năm tài chính, và có thể sử dụng để phân phối hoặc tái đầu tư vào cuối năm đó có dạng: CF = R x OPM – (T +FCI + WCI) Trong đó: R : Doanh thu từ hoạt động kinh doanh trong năm tài chính OPM : doanh lợi doanh thu (EBIT/Doanh thu) T : thuế thu nhập doanh nghiệp FCI : Đầu tư vào tài sản cố định WCI : Đầu tư vào vốn lưu động Tỉ lệ chiết khấu Tỉ lệ chiết khấu là đại lượng phản ánh giá trị theo thời gian của tiền và rủi ro gắn liền với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Dòng tiền quyết định lợi nhuận thu được, phản ánh giá trị tất cả các khoản đầu tư của doanh nghiệp trong một năm tài chính. Để xác định giá trị hiện tại của dòng tiền nhận được trong năm tài chính i bất kỳ trong tương lai, ta chỉ cần chiết khấu nó về giá trị hiện tại bằng cách nhân nó với hệ số chiết khấu tương ứng. Hệ số chiết khấu tương ứng được tính theo công thức: Hệ số chiết khấu cho năm i = Việc tính toán hay chỉ ra tỉ lệ chiết khấu sử dụng có vai trò hết sức quan trọng; vì giá trị tỉ lệ chiết khấu sẽ quyết định hệ số chiết khấu, trực tiếp tác động đến giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai, tức là sẽ tác động đến giá trị hiện tại của doanh nghiệp định giá. Cách xác định tỉ lệ chiết khấu sẽ được trình bày kỹ hơn ở phần sau. 2.3.2 Những yếu tố tác động đến dòng tiền Theo công thức xác định dòng tiền ở trên, dòng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh trong một năm tài chính, và có thể sử dụng để phân phối hoặc tái đầu tư vào cuối năm đó, sẽ được quyết định bởi: doanh thu, doanh lợi doanh thu, thuế thu nhập doanh nghiệp, và các khoản đầu tư vào tài sản cố định, tài sản lưu động của doanh nghiệp Doanh thu Doanh thu hoạt động (gọi tắt là doanh thu) là chỉ tiêu đầu tiên trong bảng báo cáo kết quả kinh doanh của hầu hết mọi doanh nghiệp. Doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà khách hàng trả cho doanh nghiệp để mua sản phẩm hoặc sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp cung cấp. Thông thường, đây là bộ phận chiểm tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu của doanh nghiệp Căn cứ vào nguồn hình thành, doanh thu của doanh nghiệp bao gồm: doanh thu từ hoạt động kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính, và doanh thu từ các hoạt động bất thường khác. Doanh thu của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, nó là nguồn để doanh nghiệp trang trải các chi phí, thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng cũng như thực hiện nghĩa vị đối với Nhà nước. Đối với các loại hình doanh nghiệp với các hoạt động khác nhau, doanh thu cũng khác nhau. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, khai thác, chế biến... thì doanh thu là toàn bộ tiền bán sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp xây dựng: doanh thu là giá trị công trình hoàn thành bàn giao. Đối với nghành vận tải, doanh thu là tiền cước phí. Đối với các doanh nghiệp thương mại, doanh thu là tiền bán hàng. Đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ, doanh thu là tiền lãi. Đối với hoạt động bảo hiểm, doanh thu là phí bảo hiểm. Đối với hoạt động cho thuê, doanh thu là tiền thuê... Doanh lợi doanh thu Doanh lợi doanh thu là tỷ lệ của phần còn lại của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Các nhân tố chính trong chi phí hoạt động của doanh nghiệp bao gồm: giá vốn hàng bán hoặc dịch vụ cung cấp, chi phí khấu hao, chi phí bán hàng, và các chi phí quản lý nói chung. Tùy theo loại hình kinh doanh của doanh nghiệp mà tỷ trọng các bộ phận chi phí có thể không giống nhau, và cũng tùy cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể xe._. giá trị hợp lý thực tế của ngân hàng. Ngoài ra, chi phí cho công tác kiểm kê và đánh giá lại tài sản của ngân hàng cũng mất quá nhiều thời gian và chi phí. Tóm lại, nếu sử dụng kết quả định giá ngân hàng theo phương pháp tài sản là căn cứ để tham chiếu thì dẫn đến các ngân hàng phải mất thời gian và tốn nhiều công sức mà không thu được kết quả định giá đầy đủ, khách quan và khoa học. Đối với phương pháp so sánh tương đồng, thực tế, hiện nay vẫn chưa được sử dụng phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo điều kiện áp dụng, phương pháp này thường chỉ được sử dụng ở những nước có nghành công nghiệp ngân hàng phát triển, thị trường chứng khoán có nhiều công ty trong nghành đã được niêm yết. Hiện nay ở Việt Nam, việc định giá một ngân hàng thương mại quốc doanh là chưa có tiền lệ, vì vậy, sẽ là bất khả thi nếu tìm kiếm các “doanh nghiệp tương đồng” theo nội dung của phương pháp này. Cũng có ý kiến cho răng có thể xác định và lựa chọn các doanh nghiệp tương đồng ở các nước khác có điều kiện tương tự như của Việt Nam, tuy nhiên, ngay cả khi đó, thông thường kết quả định giá theo phương pháp này vẫn chỉ được sử dụng như một kết quả để đánh giá và so sánh với các kết quả định giá theo các phương pháp khác. Phương pháp chiết khấu dòng cổ tức là phương pháp được coi là tiên tiến nhất hiện nay. Mặc dù có những khó khăn nhất định trong việc xác định các thông số cần thiết, nhưng cho đến nay, phương pháp này vấn là phương pháp phổ biến nhất và được sử dụng nhiều nhất ở các nước khác trên thếgiới. Đây cũng là phương pháp định giá mà các tổ chức tư vấn đề nghị sử dụng để xác định giá trị của các ngân hàng. Sở dĩ phương pháp này được sử dụng phổ biến do tính khoa học và ưu việt của nó bởi nó có khả năng xem xét và đánh giá được cả các yếu tố mang tính vô hình như thương hiệu và danh tiếng, kỹ năng quản lý và tính năng động doanh nghiệp. Ngoài ra, các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh, tính ổn định của nền kinh tế và các yếu tố vĩ mô khác cũng được xem xét đánh giá ở một mức độ hợp lý nhất. 2.2 Mô hình chiết khấu dòng cổ tức Xác định giá trị một doanh nghiệp nói chung hay một ngân hàng nói riêng theo phương pháp dòng tiền chiết khấu có thể sử dụng một trong hai loại dòng tiền tự do chính: dòng tiền tự do tới tất cả những những nhà trợ vốn cho ngân hàng (bao gồm các trái chủ và các cổ đông) ; hoặc là dòng tiền tự do dành chỉ cho các chủ sở hữu của ngân hàng. Mô hình chiết khấu dòng cổ tức là một trường hợp đặc biệt khi ta xem xét các dòng tiền tự do tới các cổ đông của ngân hàng. Quy trình xác định giá trị ngân hàng sử dụng mô hình chiết khấu dòng cổ tức có thể chia ra thành những bước sau: Bước 1: Xây dựng mô hình dự báo tài chính Bước 2: Dự báo về cổ tức chia cho cổ đông Bước 3: Xác định tỷ lệ chiết khấu Bước 4: Thực hiện phân tích độ nhạy Mô hình này thường được các nhà tư vấn lựa chọn để xác định giá trị một doanh nghiệp, vì tính ưu việt của phương pháp dòng tiền chiết khấu. Ngoài ra, phương pháp này sử dụng dòng cổ tức trong tương lai, là lợi ích trực tiếp của các nhà đầu tư khi mua cổ phần của doanh nghiệp. Chính vì thế, mô hình này giúp doanh nghiệp thu hút các nhà đầu tư tiềm năng, vì trên thực tế, mô hình này nhận được sự quan tâm nhiều hơn của các nhà đầu tư hơn các mô hình, hoặc phương pháp định giá khác. 2.2.1 Điều kiện để thực hiện định giá theo mô hình chiết khấu dòng cổ tức. Khó khăn lớn nhất trong khâu thực hiện định giá, cũng chính là yếu tố quyết định thành công của công tác định giá sử dụng mô hình chiết khấu dòng cổ tức là việc xây dựng được một mô hình dự báo hoàn chỉnh về tình hình tài chính của ngân hàng trong tương lai. Việc chỉ ra các phương án hoạt động trong tương lai, các biện pháp tìm kiếm và mở rộng thị trường, cũng như các mục tiêu chiến lược và phương pháp thực hiện của ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các nhân tố bên ngoài và các nhân tố nội tại bên trong ngân hàng. Các nhân tố bên ngoài bao gồm các điều kiện có thể hỗ trợ hoặc kìm hãm sự phát triển của ngân hàng, có thể kể đến như: môi trường pháp lý, thị trường tiềm năng của nghành, các đối tác của ngân hàng, các đối thủ cạnh tranh hiện hữu và tiềm ẩn, xu hướng phát triển nhu cầu của khách hàng đối với các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng… Các nhân tố nội tại bên trong ngân hàng bao gồm: các yếu tố về kỹ năng quản lý, sự năng động của đội ngũ nhân sự, sự phù hợp của các phương án hoạt động với mục tiêu định ra trong từng thời kỳ, các giải pháp nhằm khắc phục khó khăn có thể gặp phải trong quá trình hoạt động trước và sau khi cổ phần hóa của ngân hàng… Một mô hình dự báo hoàn chỉnh của ngân hàng phải đánh giá đầy đủ và trọn vẹn về tất cả các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài, giúp cho Ban Giám đốc cũng như các cổ đông và nhà đầu tư có cái nhìn rõ ràng về vị thế hiện tại cũng như lợi thế tiềm năng và những thách thức tiềm ẩn trong tương lai hoạt động của ngân hàng. 2.2.2 Tổ chức thực hiện định giá Công tác thực hiện định giá là một trong những công tác quan trọng nhất, quyết định tới thành công của cả quy trình định giá. Sự hợp lý của việc tổ chức thực hiện định giá không những quyết định tới sự nhanh chóng suôn sẻ của quy trình, mà còn ảnh hưởng tới kết quả của quy trình định giá. Theo thông lệ quốc tế, một công tác tổ chức thực hiện định giá hoàn chỉnh của ngân hàng có thể chia thành các bước sau: Trước hết, ngân hàng phải thiết lập được khoảng giá trị bản đầu và vị thế của ngân hàng trong thị trường. Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh, do quy mô cũng như ảnh hưởng lớn tới thị trường tiền tệ quốc gia, nên việc đánh giá vị thế của ngân hàng là một công tác quan trọng, ảnh hưởng lớn đến giá trị của ngân hàng. Sau khi xác định được khoảng giá trị ban đầu, ngân hàng tiến hành đánh giá xem xét các báo cáo nghiên cứu của các chuyên gia phân tích. Công tác này giúp ngân hàng xác định chính xác hơn khoảng giá trị của mình. Tiếp theo, thông qua phản hồi của đội ngũ chào bán và tiếp thị, ngân hàng có thể một lần đánh giá chính xác hơn sự hấp dẫn của cổ phiếu đối với các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Công tác này, một lần nữa giúp ngân hàng thu hẹp khoảng giá trị của kết quả định giá. Bước cuối cùng, ngân hàng cùng nhà tư vấn định giá sẽ tiến hành phân tích và tổng hợp lại một lần cuối cùng tất cả các yếu tố, từ đó xác định được giá trị cuối cùng của ngân hàng. Đây cũng là kết quả cuối cùng của quy trình định giá. Trong quá trình thực hiện công tác định giá, các chuyên viên cùng đội ngũ chào bán và tiếp thị của ngân hàng phải tiến hành đối thoại liên tục, phân tích, hiệu chỉnh và tiếp thị tới các nhà đầu tư nhằm mục đích tối đa hóa sự quan tâm của các nhà đầu tư, cũng là đạt được mức giá trị cao nhất cho ngân hàng. CHƯƠNG III: CÁC KHUYẾN NGHỊ NHẰM CHUẨN BỊ CHO CÔNG TÁC XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ NGÂN HÀNG Một khi quy trình định giá thành công, ngân hàng sẽ có cơ hội nhận được sự quan tâm lớn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cũng như sự trợ giúp về mặt công nghệ, kinh nghiệm, kỹ năng quản lý, thị phần thị truờng… Muốn vậy, ngoài cam kết hợp tác mật thiết với tổ chức tư vấn định giá, bản thân ngân hàng cũng phải có những công tác chuẩn bị đảm bảo cho sự suôn sẻ, nhanh chóng của quy trình định giá. Cụ thể, ngân hàng cần minh bạch hoá các báo cáo tài chính, chuẩn hóa tối ưu các chỉ tiêu tài chính cũng như chỉ tiêu hoạt động theo các tiêu chuẩn quốc tế và thông lệ quốc tế. Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cũng cần có sự phối hợp với nhau trong việc giám sát, tư vấn và hỗ trợ cho ngân hàng trong các công tác chuẩn bị này. 1. Các khuyến nghị đối với BIDV 1.1 Tăng vốn tự có và cải thiện hệ số an toàn vốn 1.1.1 Vốn chủ sở hữu và vốn tự có của Ngân hàng Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng cung cấp cơ sở tài chính dài hạn và ổn định, để Ngân hàng có thể phát triển và trang trải những khoản thua lỗ phát sinh. Ngân hàng nói chung và các Ngân hàng thương quốc doanh nói riêng, hầu hết đều có tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản nhỏ hơn nhiều so với những loại hình doanh nghiệp khác. Nguyên nhân là do đối tượng kinh doanh Ngân hàng là tín dụng, hoạt động chính của Ngân hàng là huy động vốn và cho vay. Đầu ra của hoạt động huy động vốn gần như ngay lập tức trở thành đầu vào của hoạt động cho vay. Vì vậy, vốn chủ sở hữu của ngân hàng thường lớn, nhưng tỉ lệ vốn chủ trên tổng tài sản thường bé hơn rất nhiều so với tỉ lệ này ở các nghành công nghiệp khác. Điều này đồng thời cũng kéo theo một thực tế: Ngân hàng là những doanh nghiệp có đòn bảy tài chính (tài trợ bằng nợ) lớn nhất. Tuy nhiên, khi đánh giá về mức độ an toàn danh mục tín dụng của một tổ chức tín dụng nói chung hay một Ngân hàng nói riêng, người ta thường không quan tâm tới vốn chủ sở hữu mà quan tâm đến vốn tự có và chỉ số an toàn vốn (CAR). Hai khái niệm quan trọng này chính là nội dung Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Một trong những điểm mới lớn nhật của Quyết định 457 là lần đầu tiên đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ và cụ thể về khái niệm vốn tự có của các tổ chức tín dụng. Theo quy định trong Luật các tổ chức tín dụng, vốn tự có được định nghĩa bao gồm: ”giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản “Nợ” khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”, và vốn tự có là căn cứ để tính toán các tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng. Mặc dù vậy, Luật các tổ chức tín dụng không có bất kỳ quy định cụ thể nào về các tài sản “Nợ” khác. Quyết định 457 lần đầu tiên cho phép các tổ chức tín dụng xác định vốn tự có của mình theo hai cấp, trong đó về cơ bản vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ, lợi nhuận không chia, và các quỹ dự trữ được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, và quỹ đầu tư phát triển. Theo quyết định 457, vốn cấp 1 được dùng để xác định giới hạn mua, đầu tư vào tài sản cố định của tổ chức tín dụng (theo quy định hiện hành, tỉ lệ này không được vượt quá 50%) Vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm: phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức tín dụng (bao gồm 50% giá trị tăng thêm đối với tài sản cố định, 40% giá trị tăng thêm đối với các loại chứng khoán đầu tư), nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (bao gồm trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ thứ cấp nhất định), và dự phòng chung cho rủi ro tín dụng (tối đa bằng 1,25% tổng tài sản “Có” rủi ro). Tuy nhiên, Quyết định 457 đưa ra một số hạn chế về vốn cấp 2. Ngoài một số điều kiện khác, tổng giá trị vốn cấp 2 tối đa bằng 100% tổng giá trị vốn cấp 1; và tổng giá trị trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi, và công cụ nợ khác tối đa bằng 50% vốn cấp 1. Việc xác định vốn tự có theo 2 cấp theo quyết định 457 sẽ cho phép các ngân hàng thương mại trong nước tính toán cụ thể và nâng cao được mức vốn tự có của mình vốn dĩ trước đây phần lớn chỉ được tính trên cơ sở vốn cấp 1. Do vậy, nay các tổ chức tín dụng cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc tuân thủ các tỉ lệ an toàn tính trên cơ sở vốn tự có. Các tổ chức tín dụng phải loại trừ khỏi vốn tự có của mình toàn bộ phần giá trị giảm đi của các tài sản cố định hay chứng khoán đầu tư do định giá lại; tổng số vốn góp hoặc cổ phần trong tổ chức tín dụng khác; phần góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của quỹ đầu tư, doanh nghiệp vượt mức 15% vốn tự có; và lỗ kinh doanh kể cả các khoản lỗ lũy kế. 1.1.2 Các chức năng của vốn tự có Thông thường, vốn tự có là cơ sở quan trọng dùng để tính chỉ tiêu tỉ lệ an toàn tính trên cơ sở vốn tự có của các tổ chức tín dụng nói chung, cũng như của ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, đứng trên góc độ để xem xét vai trò của vốn tự có đối với hoạt động của ngân hàng, vốn tự có có các chức năng cơ bản sau: 1.1.2.1 Chức năng bảo vệ Do người ký thác cung cấp tài chính với một tỷ lệ cao trong tài sản “Có” của ngân hàng. Chức năng chủ yếu của khối lượng giới hạn vốn tự có hình thành từ cổ phiếu đã được xem như là tài sản bảo vệ cho người ký thác. Ngoài chức năng quan trọng này, vốn tự có của ngân hàng có vai trò làm giảm bớt rủi ro đối với cơ quan bảo hiểm ký thác và các cổ đông. Chức năng bảo vệ không chỉ được xem như sự đảm bảo thanh toán chi người ký thác khi vỡ nợ, mà còn góp phần duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản có dự trữ để ngân hàng khỏi bị đe dọa do thua lỗ, để có thể tiếp tục hoạt động. Tuy nhiên, điều quan trọng của vấn đề là lợi nhuận trong hiện tại chứ không phải vốn tự có thực sự làm giảm phần lớn thua lỗ của ngân hàng. Cũng thễ, không giống như tình hình ở hầu hết các doanh nghiệp, chỉ có một phần vốn tự có góp phần duy trì khả năng trả nợ cho một ngân hàng thương maị. Một ngân hàng thông thường chỉ được xem là có khả năng trả nợ khi vốn cổ phiếu không bị hao hụt, nghĩa là, khi giá trị các tài sản có ít nhất là tương đương với giá trị các tài sản nợ, trừ các trái phiếu phụ của ngân hàng và các giấy nợ của ngân hàng, cộng với vốn cổ phần. 1.1.2.2 Chức năng hoạt động Chức năng hoạt động của vốn của ngân hàng đã được xem là thứ yếu, điều này tương phản với loại hình doanh nghiệp phi ngân hàng. Các chức năng hoạt động bao gồm việc cấp vốn để mua đất, nhà cửa, máy móc, trang thiết bị và đền bù các thiệt hại trong kinh doanh. 1.1.2.3 Chức năng điều chỉnh Ngoài việc cung cấp nền tảng cho các hoạt động và để bảo vệ cho người ký thác, các chức năng khác cũng đã được xác định cho vốn tự có của ngân hàng, trong đó có chức năng điều chỉnh. Chức năng điều chỉnh nảy sinh chủ yếu là do sự quan tâm đặc biệt của công chúng về thành công trong hoạt động của các công ty ngân hàng, các luật lệ và quy định tạo điều kiện cho các cơ quan công cộng có thể thực hiện việc kiểm soát đối với các hoạt động này một cách dễ dàng. Các quy định liên quan đến vốn tự có của ngân hàng gồm những quy định, với các yêu cầu tối thiểu cần có, để được cấp giấy phép, thiết lập lại hệ thống hoạt động của các chi nhánh, giới hạn tín dụng đầu tư và mua sắm tài sản của ngân hàng. Các quy định về vốn của ngân hàng cũng tác động đến các công ty sở hữu ngân hàng, khi xem xét việc mua một ngân hàng. Về ý nghĩa này, vốn tự có của ngân hàng góp phần làm thỏa mãn các giới chức điều hành khi họ xem xét các yếu tố của ngân hàng. Hơn nữa, trong phạm vi hoạt động đầu tư và cho vay của môt ngân hàng bị giới hạn bởi vốn tự có nhằm đáp ứng các đòi hỏi cho các hoạt động như thế., quỹ vốn của ngân hàng cũng giúp thực hiện các khoản cho vay và đầu tư. 1.1.3 Các giải pháp tăng vốn tự có Trước hết phải khẳng định rằng vốn tự có là yếu tố tạo nên sức mạnh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường, vì nó thể hiện năng lực tài chính vốn có của chính bản thân NHTM. Vốn tự có không chỉ là cơ sở, là tiền đề để phát triển các nguồn vốn khác mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ ngân hàng trước những rủi ro, các chủ nợ (người gửi tiền). Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động của mình, các NHTM đều quan tâm đến việc tăng vốn tự có. Hiện nay các ngân hàng thường áp dụng các biện pháp sau để tăng vốn tự có: - Tăng vốn từ nguồn nội bộ, mà cụ thể là từ lợi nhuận để lại, đây là nguồn bổ sung vốn có ý nghĩa rất quan trọng. Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng không phải phụ thuộc vào thị trường vốn và không phải chịu chi phí cao do tìm kiếm nguồn lực tài trợ từ bên ngoài. Tuy nhiên, ngân hàng cần xác định tỷ lệ hợp lý lợi nhuận để lại tăng vốn tự có, vì nếu tỷ lệ này quá thấp do tỷ lệ chi trả cổ tức quá cao sẽ dẫn đến tăng trưởng vốn chậm chạp, có thể làm giảm khả năng mở rộng tài sản sinh lời, ngược lại nếu tỷ lệ này quá cao sẽ làm giảm thu nhập của cổ đông và dẫn đến làm giảm giá trị thị trường của cổ phiếu ngân hàng. Vì vậy, nếu ngân hàng có tỷ lệ lợi nhuận để lại để bổ sung vốn tự có ổn định qua các năm và tương ứng với tốc độ tăng trưởng tài sản có là dấu hiệu tốt, thể hiện sự phát triển ổn định của ngân hàng và mức độ ủng hộ cao của các cổ đông đối với chính sách cổ tức của ban lãnh đạo ngân hàng. - Tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu: Biện pháp này có thể làm tăng năng lực đòn bẩy tài chính của ngân hàng trong tương lai nhưng chi phí phát hành cao hơn các phương thức khác và làm “loãng” quyền sở hữu. - Tăng vốn bằng phát hành trái phiếu dài hạn: Là biện pháp hiệu quả để tăng cường năng lực tài chính của ngân hàng đáp ứng yêu cầu trước mắt, nhưng về bản chất đây chỉ là tăng vốn tự có trên danh nghĩa, còn về lâu dài sẽ là một gánh nặng nợ nần, đồng thời chi phí vốn cao sẽ làm suy giảm mức lợi nhuận của ngân hàng. - Tăng vốn bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi: Trái phiếu chuyển đổi là trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu thường vào một thời điểm được xác định trước trong tương lai. Loại trái phiếu này có đặc điểm là được trả một mức lãi suất cố định nên có vẻ giống như trái phiếu, nhưng mặt khác lại có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường của ngân hàng và đây cũng chính là điểm hấp dẫn của trái phiếu chuyển đổi. Đối với ngân hàng, khi phát hành trái phiếu chuyển đổi sẽ có lợi thế như trái phiếu chuyển đổi có mức lãi suất thấp hơn trái phiếu không có tính chuyển đổi; ngân hàng sẽ tránh được tình trạng tăng số lượng cổ phiếu một cách nhanh chóng trên thị trường (điều này dẫn tới việc làm cho giá cổ phiếu thường bị sụt giảm); thu nhập trên mỗi cổ phần trước đây không bị giảm sút; giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình, vì với việc phát hành trái phiếu chuyển đổi thì mặc dù lãi suất cao hơn so với huy động tiền gửi ngắn hạn nhưng khi ngân hàng có nguồn vốn ổn định thì có thể cho vay các dự án có thời gian dài hơn, điều này đồng nghĩa với việc có được một mức lãi suất cao hơn, mặt khác, do khách hàng mua trái phiếu chuyển đổi có thêm quyền và cơ hội sở hữu cổ phiếu của ngân hàng (đặc biệt trong trường hợp ngân hàng có uy tín lớn) sẽ chấp nhận một mức lãi suất thấp hơn, do vậy ngân hàng có thể đưa ra một mức lãi suất “mềm” hơn khi phát hành loại trái phiếu này, kết quả là chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và đầu ra cao hơn dẫn tới lợi nhuận của ngân hàng tăng lên. Đối với nhà đầu tư khi nắm giữ trái phiếu chuyển đổi, nhà đầu tư sẽ có được lợi thế là sự đầu tư an toàn của thị trường, thu nhập cố định và sự tăng giá trị tiềm ẩn của thị trường vốn. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi như vậy, trái phiếu chuyển đổi cũng gây ra một số bất lợi có thể có đối với ngân hàng và các cổ đông của ngân hàng như khi trái phiếu được chuyển đổi, vốn chủ sở hữu bị "pha loãng" do tăng số cổ phiếu lưu hành, từ đó cũng gây ra sự thay đổi trong việc kiểm soát ngân hàng; nợ của ngân hàng giảm thông qua chuyển đổi cũng có nghĩa là mất đi sự cân bằng của cán cân nợ vốn. 1.2 Cải thiện hệ số an toàn vốn 1.2.1 Hệ số an toàn vốn (CAR) Hệ số an toàn vốn của ngân hàng, theo quy định trong Quyết định 457 được xác định bằng tỉ số giữa vốn tự có của ngân hàng trên tổng tài sản có rủi ro của ngân hàng. Tổng tài sản có rủi ro được tính theo công thức: RAW = x Ki Trong đó: RAW : tổng tài sản có rủi ro RAi : tài sản có rủi ro thứ i Ki : hệ số rủi ro tương ứng với tài sản rủi ro thứ i Các loại tài sản rủi ro và hệ số rủi ro tương ứng của chúng được quy định chi tiết tại phụ lục của Quyết định 457 này. Theo đó, các ngân hàng hoàn toàn có thể tự tính được hệ số an toàn vốn của mình. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, một ngân hàng bất kỳ phải duy trì hệ số an toàn vốn tối thiểu của mình ở mức 8%, với quy định này, cho đến nay chưa có ngân hàng thương mại quốc doanh nào đạt được. Trong khi đó, để có thể tiến hành cổ phần hóa, theo thông lệ quốc tế (Hiệp định Basel 2), thì hệ số an toàn vốn tối thiểu mà ngân hàng phải đạt được là 10%. Như vậy, để theo kịp tiến độ cổ phần hóa đã đề ra, áp lực cải thiện hệ số an toàn vốn cho đạt tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế đã được đặt lên các ngân hàng thương mại quốc doanh của Việt Nam hiện nay. 1.2.2 Các giải pháp cải thiện hệ số an toàn vốn Căn cứ vào cách xác định hệ số an toàn vốn, ta thấy để có thể cải thiện hệ số an toàn vốn của mình, ngân hàng có thể áp dụng một trong hai hoặc đồng thời cả hai biện pháp sau: Thứ nhất, ngân hàng có thể tăng hệ số an toàn vốn của mình bằng các biện pháp tăng vốn tự có. Các giải pháp tăng vốn tự có của ngân hàng đã được trình bày ở phần trên. Thứ hai, ngân hàng có thể tăng hệ số an toàn vốn của mình bằng các giải pháp giảm giá trị tổng tài sản có rủi ro của mình. Giải pháp cụ thể nhằm giảm giá trị tổng tài sản có rủi ro của ngân hàng, đó là ngân hàng phải cơ cấu lại danh mục tín dụng của mình thông qua việc chuyển nhượng tài sản xấu qua phương pháp bán cho các công ty quản lý tài sản. Ở Việt Nam, sự ra đời Công ty Mua bán nợ (DATC) mang ý nghĩa quan trọng trong công cuộc chuyển đổi nền kinh tế nói chung và quá trình sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Hoạt động của DATC là để xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng và tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, vật tư ứ đọng, kém, mất phẩm chất (gọi tắt là nợ và tài sản tồn đọng) và góp phần làm lành mạnh hoá tình hình tài chính doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình sắp xếp và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, kích thích đầu tư, tăng cường và củng cố hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và tạo thêm nhiều thặng dư cho xã hội phát triển. Một là, hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung mà Doanh nghiệp nhà nước nói riêng lành mạnh hoá tình hình tài chính trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các hoạt động mua bán, xử lý nợ và các tài sản tồn đọng của doanh nghiệp; Hai là, góp phần giải quyết những tồn tại về tài chính nhằm thúc đẩy quá trình sắp xếp, cổ phần hoá, giao, bán, khoán và cho thuê doanh nghiệp thông qua việc xử lý triệt để các tài sản và các khoản công nợ "tồn đọng" trước khi thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp; thay mặt Nhà nước xử lý dứt điểm các khoản nợ và tài sản được loại trừ khỏi giá trị doanh nghiệp khi xác định giá trị doanh nghiệp Ba là, thúc đẩy tiến trình hình thành, phát triển và tạo thêm nguồn hàng hoá cho thị trường tài sản và thị trường vốn. Qua đó, thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường trong nền kinh tế quốc dân đi đôi với việc tạo lập khung pháp luật đảm bảo sự quản lý và giám sát của Nhà nước; Bốn là, xây dựng mô hình mẫu và định hướng cho việc hình thành và phát triển của một số định chế tài chính trung gian như các Công ty Mua bán nợ, dịch vụ đòi nợ thuộc các thành phần kinh tế khác Tuy nhiên trong quá trình thực hiện mục đích của mình, DATC cũng gặp rất nhiều khó khăn. Những khó khăn đó thường là do nhiều nguyên nhân và yếu tố khác nhau cả về chủ quan lẫn khách quan chi phối. Trong tay của DATC hiện nay không có một cơ chế riêng nào để sử dụng như công cụ nhằm xử lý các khoản nợ. Ngoài ra, tiềm lực về tài chính của DATC cũng không cho phép thực hiện mọi lhoản mua và bán nợ, chưa kể đến những khoản nợ không phải lúc nào cũng dễ dàng được mua hay bán. Chính vì những lý do đó mà đa phần các doanh nghiệp nhà nước một phần sợ mất quyền lợi còn một phần lại sợ trách nhiệm nên thường để nợ treo chứ không đấu giá bán rẻ lại cho DATC. Thiếu sự hỗ trợ từ các doanh nghiệp, DATC đã eo hẹp về tài chính lại càng khăn hơn trong việc thực hiện đúng chức năng và mục đích của mình. Có thể thấy rất rõ khi các khoản nợ của DATC giải quyết đa phần là những khoản nợ ít rủi ro , đó là sự lựa chọn bắt buộc do sợ mất vốn vì gặp rủi ro. Chính vì thế điều này đã làm chậm lại quá trình xử lý nợ cũng như các khoản nợ xử lý được. Vấn đề này xảy ra còn do những yếu tố hoàn cảnh khách quan tác động mà đặc biệt là do chính sách kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam thì lại thường thiên về xử lý các khoản nợ tồn đọng của các doanh nghiệp không như hầu hết các nược phát triển trong khu vực và thế giới chỉ nhằm tối đa hóa giá trị thu hồi của các khoản nợ này để giảm thiểu gánh nặng cho ngân sách nhà nước khi hỗ trợ doanh ngiệp giải quyết nợ đọng. Ngoài ra, ở Việt Nam, mối quan hệ mua bán nợ giữa DATC với các tổ chức tín dụng, giữa DATC với tổ chức kinh tế và cá nhân hiện chưa được điều chỉnh, hầu hết thiếu quy định pháp lý, thậm chí chồng chéo và mâu thuẫn. Các quy định áp dụng cho DATC hầu như không tạo quyền ưu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá khoản nợ nên đã gây ra không ít khó khăn trong việc mua và xử lý nợ. Chính vì thế mà DATC xử lý nợ mang nặng tính thủ tục, chưa có “hơi thở” thị trường. Trong quá trình xử lý nợ, có trường hợp ngân hàng đã mời DATC cùng giải quyết một món nợ, sau khi xem xong, DATC yêu cầu làm một công văn đề nghị bán nợ. Do chưa có hệ thống thẩm định nợ xấu nên sau đó, chi nhánh nhận được giá chào mua rất thấp chỉ khoảng 20% giá món nợ đó và ngân hàng lại rất băn khoăn không biết sẽ bán nợ cho DATC theo tỷ lệ nào. Từ những khó khăn nêu trên, thật sự gian nan cho những người làm công tác xử lý nợ. Việc chọn lựa phương pháp xử lý phải tuỳ đặc điểm từng vụ chứ không có một đáp án chung cho tất cả. Có thể tóm gọn các giải pháp sau: - Nâng cao trình độ thẩm định của cán bộ tín dụng, đặc biệt là thẩm định tư cách của khách hàng vì điều này có ảnh hưởng rất lớn đến thiện chí hoàn trả tiền vay của khách hàng. - Kiểm tra chặt chẽ quá trình trước, trong và sau khi cho vay để kịp thời có biện pháp xử lý nếu khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. - Khi khách hàng có dấu hiệu phát sinh nợ xấu, phải tìm hiểu nguyên nhân để có giải pháp thích hợp. Thực tế có những trường hợp khách hàng bắt đầu gặp khó khăn nhưng đã được phát hiện kịp thời, có biện pháp xử lý ngay từ đầu như quản lý kho hàng, kho nguyên vật liệu, phong toả tài sản, tiến hành khởi kiện sớm nên khả năng thu hồi nợ rất cao do máy móc thiết bị lúc này còn đang hoạt động có giá hơn lúc đã bị bỏ hoang. - Cần phải xây dựng hệ thống thẩm định nợ xấu để thúc đẩy nhanh việc xử lý nợ tồn đọng tại các ngân hàng thương mại. Cuối cùng, cách xử lý tốt nhất là mỗi cán bộ tín dụng phải thật cẩn trọng trước khi đặt bút quyết định một món vay mới. Mỗi quyết định giải ngân của một cán bộ tín dụng đều có tác động trực tiếp tới chất lượng danh mục tín dụng của ngân hàng, cũng như làm thay đổi hệ số an toàn vốn của ngân hàng đó. 2. Các khuyến nghị đối với Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Với vai trò là đại diện cho Nhà nước - chủ sở hữu chính của các ngân hàng thương mại quốc doanh, thông qua Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ có trách nhiệm hỗ trợ cho ngân hàng trong quá trình cố phần hóa nói chung, cũng như công tác định giá nói riêng. Ngoài ra, bằng các công cụ quản lý vĩ mô, với nhiều biện pháp khác nhau, Chính phủ hoàn toàn có thể tạo ra các điều kiện thuận lợi, để ngân hàng có thể tiếp cận các nhà tư vấn, cũng như các nhà đầu tư một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc và các nước phát triền khác, thông qua các định chế tài chính quốc doanh, Chính phủ có thể hỗ trợ các ngân hàng quốc doanh bằng các biện pháp sau: 2.1 Tái cấp vốn cho ngân hàng Nhằm mục đích cải thiện các chỉ số hoạt động của ngân hàng để đáp ứng những yêu cầu, quy chế tiến đến chuẩn hóa theo các thông lệ quốc tế, bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước có thể thông qua hình thức phát hành thêm cổ phiếu mới hoặc các hình thức tái cơ cấu tài chính khác để tài trợ đủ nguồn vốn cần thiết cho ngân hàng. Cụ thể, Bộ tài chính có thể tiếp tục cấp bổ sung vốn điều lệ cho ngân hàng, đồng thời cho phép ngân hàng tăng vốn điều lệ từ nguồn thu lãi các trái phiếu đặc biệt. Ngoài ra, bằng các dự án hoặc cam kết tài trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế, ngân hàng cũng có thể bổ sung đáng kể nguồn vốn của mình. 2.1 Tái tổ chức cơ cấu cổ đông hiện có Cho đến nay, theo chủ trường của Chính phủ, Nhà nước sẽ vẫn nắm giữ số cổ phần chi phối đối với ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ cổ phần mà nhà Nhà nước nắm giữ nên được xác định sao cho phù hợp, để ngân hàng vừa có thể tận dụng các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, mà vẫn đảm bảo thu hút tối đa nguồn vốn đầu tư. Bên cạnh đó, Bộ tài chính có thể giới thiệu các nhà đầu tư chiến lược phù hợp, không chỉ có khả năng tư vấn cho ngân hàng, mà còn có khả năng hỗ trợ tài chính, công nghệ và kỹ năng quản trị ngân hàng. 2.3 Hỗ trợ ngân hàng trong việc chuyển nhượng tài sản xấu Trong việc chuyển nhượng các tài sản xấu của ngân hàng, Bộ Tài chính đóng vai trò quan trọng thông qua việc giới thiệu các công ty quản lý tài sản cũng như những cơ chế vận hành thu mua quản lý tài sản của ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế (hiệp định Basel 1 và Basel 2), ngân hàng phải duy trì tỉ lệ nợ xấu (NPLs Ratio-Non-Performing Loans Ratio) của mình dưới một mức nhất định (5%). Để đạt được chỉ tiêu này, cũng như các chỉ tiêu về hệ số an toàn vốn (CAR), ngoài việc bản thân ngân hàng phải nỗ lực xử lý các khoản cho vay xấu, Bộ Tài chính cũng phải có vai trò hỗ trợ, giúp ngân hàng chuyển nhượng những khoản nợ này sang cho các định chế tài chính là các công ty mua bán nợ và tài sản xấu (ở Việt Nam là công ty DATC). Việc chuyển nhượng này thông thường được thực hiện dưới hình thức mua lại, theo đó các khoản nợ xấu sẽ được chuyển sang các công ty mua bán nợ với mức giá thích hợp (thông thường là từ 20 đến 50% tổng dư nợ xấu) của ngân hàng. Ngoài ra, trong việc lựa chọn hệ thống quản lý rủi ro tiên tiến nhất từ những đối tác chiến lược, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cũng đóng vai trò là nhà tư vấn quan trọng cho ngân hàng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Quản trị ngân hàng thương mại – Peter Rose Ngân hàng thương mại – Edward W. Giáo trình Ttài chính doanh nghiệp ĐH Kinh tế quốc dân Giáo trình Thị trường chứng khoán ĐH Kinh tế quốc dân Phân tích quản trị tài chính – Nguyễn Tấn Bình chủ biên Báo cáo nghành Ngân hàng Việt Nam, ngày 15 tháng 8 năm 2006 của Công ty quản lý quỹ Vina Capital. Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác động của tự do hóa dịch vụ tài chính: trường hợp nghành ngân hàng – công ty tư vấn quản lý MCG, Hà Nội tháng 5 năm 2006 Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24 tháng 12 năm 2004 hướng dẫn thực hiện nghị định 187/2004/NĐ-CP Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 về việc đảm bảo và nâng cao tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thưo lộ trình quy định của Ngân hàng Nhà nước. Bản cáo bạch của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam Và một số tài liệu khác. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9720.doc