MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm qua, cơ cấu ngành kinh tế của nước ta đã chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cụ thể: cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng năm 2000 là 36,77% tăng lên 41,52% năm 2006. Đạt được kết quả đó có sự đóng góp một phần của ngành CNCBTP, ngành luôn chiếm tỷ trọng trên 20% giá trị ngành công nghiệp – xây dựng. TCTK (2006), Niên giám thống kê, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
So với các ngành công nghiệp khác, CNCBTP nước ta là ngành c
97 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó truyền thống lâu đời nhưng sự phát triển của ngành còn này rất chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước và tầm quan trọng của ngành trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, sự đóng góp của ngành vào sự phát triển kinh tế đất nước và cải thiện nhu cầu thực phẩm cho nhân dân là không nhỏ, có thể kể đến đó là việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu nói chung, kim ngạch xuất khẩu nông sản nói riêng (mặc dù chỉ dừng lại ở việc sơ chế) cụ thể: xuất khẩu gạo, cà phê và hạt điều đứng thế hai thế giới; hạt tiêu đứng thứ nhất thế giới,..Bên cạnh những thành quả của ngành chế biến nông sản, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển còn khá khiêm tốn so với tiềm năng của đất nước. Lý do thì có nhiều, song tựu trung lại bao gồm: liên kết lỏng lẻo từ khâu sản xuất thu gom đến giết mổ, chế biến; công nghệ sản xuất lạc hậu; máy móc thiết bị lỗi thời; đầu tư vào lĩnh vực này còn nhiều bất cập, hạn chế; giết mổ, chế biến nhỏ lẻ, phân tán; đầu vào có chất lượng không cao, thiếu ổn định. Một lý do không thể không kể đến là tập tục tự giết mổ, chế biến các sản phẩm chăn nuôi tận dụng phục vụ cho tiêu dùng của của gia đình còn phổ biến. Trước khi dịch cúm gia cầm xảy ra, cả nước có 28 cơ sở lớn chế biến thịt, nhưng chủ yếu mới chỉ dừng lại ở chế biến thịt lợn, thịt bò, còn chế biến gia cầm thì chưa đáng kể. Nguyễn Anh Tuấn (2006), “Đổi mới ngành giết mổ, chế biến gia cầm theo hướng tập trung, hiện đại”, Tạp chí NN & PTNT, Kỳ 1-Tháng 6, trang 8.
Là nước nông nghiệp, hàng năm, Việt Nam sản xuất ra khối lượng nông sản rất lớn. Tuy nhiên, đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là sản phẩm tươi sống, khó bảo quản, dễ hư hỏng, tính mùa vụ cao, vì vậy, tình trạng thất thoát sau thu hoạch là rất đáng kể (lúa: dao động trong khoảng 12% đến 20%; rau quả trung bình 20%) Hoàng Thị Tuyết (2004), “Thực trạng Công nghệ Sau thu hoạch ở Việt Nam”, Tạp chí NN & PTNT, (Số 2), trang 161.
, sản phẩm tiêu hao nhiều, chất lượng suy giảm do thiếu công cụ bảo quản, chế biến. Đối với chăn nuôi, do tập quán chăn nuôi phân tán, nhỏ lẻ cùng với tình trạng giết mổ, chế biến thủ công, thô sơ, tràn lan, nên khi có dịch bệnh xảy ra, một mặt chúng ta không kiểm soát chặt chẽ được nguồn lây bệnh và công tác vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặt khác, do tâm lý e ngại bệnh tật, không có công nghiệp chế biến mà thị trường sản phẩm này gần như đóng băng còn người chăn nuôi thì điêu đứng. Hơn nữa, Nhà nước phải chi ra lượng tiền hàng ngàn tỷ đồng để phòng và chống dịch nhằm đảm tính mạng cho con người và khôi phục lại tình trạng sản xuất.
Mặc dù, hàng năm ngành chăn nuôi nước ta sản xuất ra tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng lớn (năm 2006 đạt 3,1 triệu tấn) TCTK, Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế – xã hội 2006.
, song tỷ lệ qua chế biến mới đạt khoảng 8%. Đây là con số rất thấp, phản ánh thực trạng công nghiệp chế biến thực phẩm của nước ta còn rất sơ khai, cũng như tập quán tiêu dùng của người dân về thực phẩm tươi sống còn phát triển.
Với dân số trên 84 triệu người, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 7,5%/năm trong những năm qua, làm cho nhu cầu vật chất và tinh thần của mỗi người dân Việt Nam từng bước được nâng lên cả về số và chất lượng, nhất là các sản phẩm sạch, các sản phẩm qua chế biến thậm chí qua chế biến nhiều lần, đạt trình độ tinh tế cao. Hơn thế nữa, do yêu cầu sản xuất, do đòi hỏi của nhịp độ sản xuất công nghiệp thời gian dành cho nội trợ, tự chế biến thực phẩm cũng giảm đi. Những tác động này làm thay đổi dần tập quán và cơ cấu tiêu dùng nên nhu cầu về các sản phẩm thực phẩm chế biến sẵn trở nên thiết yếu.
Việt Nam đã là thành viên của WTO, hàng hoá nói chung, thực phẩm chế biến nói riêng với giá rẻ, chất lượng cao, đa dạng về chủng loại đảm bảo về vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ tràn vào nước ta gây không ít khó khăn cho ngành công nghiệp còn yếu ớt này. Vì thế, khiến cho chúng ta dễ “thua ngay trên sân nhà” chứ chưa nói đến “chiến thắng trên sân người“ nếu như chúng ta không có chiến lược phát triển và đầu tư thích hợp.
Nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của nước ta sử dụng những nguồn lực quý giá có hiệu quả nhất, tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển nhanh, mạnh và vững chắc thì việc vạch hướng đi cho ngành là đòi hỏi tất yếu. Chính vì lẽ đó, việc chọn đề tài nghiên cứu “Lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO” là việc làm cần thiết, cấp bách, xuất phát từ đòi hỏi thực tế khách quan của ngành.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Một Là, xác định vị trí, vai trò của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm;
Hai là, xác định thực trạng năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam; và
Ba là, đề xuất phương án chiến lược và khuyến nghị các điều kiện để thực hiện phương án đó.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý thuyết và thực tiễn về phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là lĩnh vực chế biến sản phẩm từ thịt (thịt lợn, thịt bò và thịt gia cầm) của Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp duy vật lịch sử; phương pháp thống kê; phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp so sánh tổng hợp.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Sự cần thiết lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
Chương 2: Đánh giá thực trạng ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
Chương 3: Phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM CỦA VIỆT NAM
1.1 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
1.1.1 Khái niệm và phân loại ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
Công nghiệp chế biến thực phẩm là một bộ phận của ngành công nghiệp, sử dụng phần lớn nguyên liệu do nông nghiệp cung cấp để chế biến thành những sản phẩm công nghiệp có giá trị Ngô Đình Giao (1998), Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, trang 5.
.
Trong Hệ thống Tài khoản Quốc gia, phân loại toàn bộ hoạt động sản xuất ra làm ba nhóm ngành lớn: công nghiệp khai thác; công nghiệp chế biến; và những ngành dịch vụ (sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước) Lê Xuân Hoa (1997), Phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong Hệ thống Tài khoản Quốc gia Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà nội, trang 28.
. Trong đó, CNCBTP là phân ngành của ngành CNCB.
Công nghiệp chế biến thực phẩm rất đa dạng về ngành nghề, sản phẩm, về quy trình công nghệ, mức độ chế biến,..Căn cứ vào sự giống nhau về công dụng cụ thể của sản phẩm cũng như nguyên liệu chế biến thì CNCBTP bao gồm các ngành kinh tế – kỹ thuật sau:
+ Ngành chế biến lương thực: xay sát, sản xuất mì ăn liền, làm bánh, bún;
+ Ngành chế biến thuỷ sản;
+ Ngành chế biến thịt, sữa và các sản phẩm từ thịt, sữa;
+ Ngành chế biến nước giải khát: bia, nước ngọt, nước khoáng, chè,..;
+ Ngành chế biến đường, bánh kẹo;
+ Đồ hộp rau, quả; và
+ Ngành chế biến dầu ăn, các loại nước chấm, các loại gia vị Ngô Đình Giao (1998), Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 10.
.
1.1.2 Vị trí của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
Công nghiệp có vị trí trọng yếu trong phát triển kinh tế của các quốc gia. Do vậy, ngành này luôn được các Chính phủ quan tâm đầu tư thích đáng. Đối với nước ta, trong quá trình phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước xác định công nghiệp là ngành chủ đạo, phát triển công nghiệp sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các ngành khác phát triển. Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và X của Đảng, trong “Chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2010, tầm nhìn 2020” và “Kế hoạch phát triển ngành công nghiệp 5 năm 2006 – 2010” đã nêu rõ ngành công nghiệp nước ta tiếp tục giữ vai trò động lực, quyết định trong phát triển kinh tế và “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Trên cơ sở quan điểm và mục tiêu đó, ngành công nghiệp định hướng phát triển theo ba nhóm, đó là: nhóm ngành công nghiệp đang có lợi thế cạnh tranh; nhóm ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất; và nhóm ngành công nghiệp tiềm năng. Như vậy, theo quan điểm đó ngành CNCBTP nước ta được xếp vào nhóm ngành đang có lợi thế cạnh tranh và cần được ưu tiên, hỗ trợ phát triển. Đồng thời, để tạo bước nhảy vọt cho ngành công nghiệp, trên cơ sở các ngành công nghiệp đang có lợi thế so sánh, cần có những chính sách phát triển phù hợp cho những ngành có hiệu quả, trong đó có ngành CNCBTP, để ngành này trở thành ngành công nghiệp trọng điểm, bởi vì: (i) CNCBTP là ngành thu hút nhiều lao động, tạo thêm công ăn việc làm ở nông thôn và thành thị. Nhờ đó, thu nhập của người lao động tăng lên, cầu có khả năng thanh toán cũng tăng theo, trong đó có cầu về lương thực, thực phẩm. Điều này lại có tác động thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh hơn để có thu nhập quốc dân cao hơn; (ii) trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nghèo và kém phát triển, tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp, vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và đẩy mạnh CNH – HĐH còn thiếu thì vấn đề phát triển các ngành nông, lâm, thuỷ sản, phát triển mạnh ngành CNCBTP cả về số lượng, chủng loại và chất lượng xuất khẩu có ý nghĩa to lớn trong việc tăng tích luỹ cho nền kinh tế; và (iii) sự phát triển của ngành CNCBTP không đòi hỏi lượng vốn lớn như các ngành công nghiệp nặng, song lại sớm đem lại kết quả và hiệu quả kinh tế – xã hội. Chính vì vậy, trong chương trình phát triển kinh tế xã hội trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng phát triển lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu là ba chương trình kinh tế lớn. Định hướng phát triển ba chương trình này cũng là định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả trong thời kỳ đổi mới kinh tế hiện nay. Đồng thời, Việt Nam có khả năng có khả năng phát triển ngành CNCBTP thành ngành trọng điểm vì: (i) nước ta là nước nông nghiệp với khoảng gần 75% dân số sống ở nông thôn, hơn 55% lao động xã hội làm việc ở khu vực nông nghiệp TCTK, Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế – xã hội 2006.
, nguồn lao động dồi dào, phong phú, chi phí lao động rẻ, trình độ văn hoá của nhân dân được xếp vào loại khá trong khu vực. Đây là điều kiện có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển ngành CNCBTP cả ở thành thị và nông thôn, đặc biệt là nông thôn; (ii) tiềm năng của nguồn nguyên liệu cho việc phát triển mạnh CNCBTP khá lớn. Nếu tổ chức tốt, đầu tư thích đáng và có chính sách khuyến khích hợp lý cho phát triển tập trung các vùng nguyên liệu, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển thì sẽ đảm bảo cung cấp đầy đủ số lượng, đáp ứng tốt về chất lượng nguyên liệu cho nhu cầu phát triển mạnh CNCBTP trong nước và xuất khẩu; và (iii) các nước trong khu vực và thế giới đang có nhu cầu lớn về số lượng và đòi hỏi chất lượng cao đối với thực phẩm chế biến, đặc biệt là trong thời điểm dịch cúm ở gia cầm và virut ở gia súc đang bùng phát mạnh hiện nay, điều này vừa là thách thức, song cũng là cơ hội nếu chúng ta khống chế và tiến tới dập tắt được dịch để có điều kiện thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
1.1.3 Vai trò của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
Sự phát triển của CNCBTP có vai trò rất quan trọng không chỉ với bản thân ngành công nghiệp mà đặc biệt đối với phát triển của nông nghiệp, nông thôn: thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, hình thành các vùng thâm canh, sản xuất tập trung, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn và tạo điều kiện quan trọng cho thúc đẩy CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn. Thông qua chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp tăng lên gấp nhiều lần. Theo tính toán của các chuyên gia trong ngành, sau khi tinh chế, giá trị của nông sản có thể tăng từ 4 đến 10 lần so với giá trị trước khi chế biến Ngô Đình Giao (1998), Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, trang 18.
. Mặt khác, qua chế biến, từ một sản phẩm nông nghiệp, có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm rất khác nhau, thậm chí tạo ra những đặc tính mới, những giá trị sử dụng mới cho sản phẩm nông nghiệp, từ đó đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân và là nguồn xuất khẩu quan trọng, đẩy mạnh giao lưu hàng hoá với các nước, đóng góp không nhỏ cho ngân sách Nhà nước.
Phát triển CNCBTP góp phần rất quan trọng vào việc giải quyết vấn đề việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn, đặc biệt là qua việc phát triển hệ thống các cơ sở chế biến ngay tại nông thôn. Từ đó, làm tăng thu nhập cho dân cư. Ở khía cạnh khác, chính CNCBTP tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, làm giảm sự phụ thuộc của yếu tố thời gian, thời vụ và khoảng cách đối với tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp. Sự phát triển của CNCBTP còn làm tăng nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển mạnh mẽ hơn.
Phát triển CNCBTP góp phần nâng cao tiềm lực của nền kinh tế, tạo ra cơ cấu kinh tế có khả năng cạnh tranh cao hơn do phát huy được lợi thế so sánh của đất nước.
Phát triển CNCBTP góp phần vào phát triển nền công nghiệp sạch và bền vững: trước yêu cầu của việc sản xuất tập trung, thâm canh, công tác quy hoạch sẽ tránh được việc phân tán, manh mún trong chăn nuôi, giết mổ, chế biến như hiện nay, hình thành nên các khu vực sản xuất tập trung, khép kín giúp cho việc sử dụng hiệu quả sản phẩm phụ, xử lý triệt để ô nhiễm môi trường.
Đối với những nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, phát triển CNCBTP có ý nghĩa rất to lớn trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ những ngành kém hiệu quả hơn sang ngành có hiệu quả cao hơn.
CNCBTP chiếm tỷ trọng về giá trị sản xuất khá cao trong ngành công nghiệp, khoảng 25% đối với các nước đang phát triển; từ 10% đến 15% ở các nước phát triển, còn ở nước ta năm 1998 là 24,5% Trương Đoàn Thể (2000), Đổi mới công tác quản lý chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp CBTP ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, ĐH KTQD, Hà Nội, trang 61.
, năm 2005 là 20,95%.
1.2 YÊU CẦU LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM CỦA VIỆT NAM
1.2.1 Quan niệm về chiến lược phát triển ngành
Chiến lược phát triển là hệ thống các phân tích, đánh giá và lựa chọn về quan điểm, mục tiêu tổng quát định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản trong đó bao gồm các chính sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế – xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra trong khoảng thời gian dài Ngô Thắng Lợi (Chủ biên-2006), Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr. 61-62.
.
Chiến lược công nghiệp là một kế hoạch tổng thể dài hạn nhằm đạt được mục tiêu phát triển công nghiệp có khả năng cạnh tranh trên quy mô toàn cầu, là định hướng và cách thức phát triển công nghiệp mang tính toàn cục, làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, định hướng xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển trung và ngắn hạn nền kinh tế – xã hội của quốc gia Lê Thế Giới, Xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp nhằm đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam, trang 1.
.
Chiến lược phát triển công nghiệp giữ vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, vì công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế. Nó xác định tầm nhìn của một quá trình phát triển dài hạn, với sự nhất quán về con đường và các giải pháp cơ bản để thực hiện.
Hiện nay, thuật ngữ cạnh tranh đang được sử dụng một cách khá phổ biến. Cạnh tranh có thể được hiểu một cách khá đơn giản là sự đấu tranh giữa các nhà sản xuất, các doanh nghiệp, các tổ chức,..nhằm dành điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi hơn, đó là cuộc đấu tranh nhằm thu được lợi nhuận.
Cần có cạnh tranh, vì: (i) cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải thường xuyên vươn lên về mọi phương diện trong kinh doanh, đồng thời nó cũng làm phá sản các doanh nghiệp có phương thức làm ăn kém hiệu quả; và (ii) cạnh tranh có tính huỷ diệt, với một nghĩa nào đó nó như quy luật tiến hoá của tự nhiên là loại thải những thành viên yếu kém khỏi thị trường, duy trì và phát triển những thành viên tốt. Qua đó, hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát triển toàn xã hội.
Sau nhiều năm khởi xướng xây dựng cơ chế thị trường và thực thi chính sách cạnh tranh, ngày 03 tháng 12 năm 2004, Quốc hội Việt Nam mới thông qua Luật Cạnh tranh. Luật này có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2005.
Theo quan điểm truyền thống, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung cạnh tranh bị coi như hiện tượng xấu xa, thiếu đạo đức, “cá lớn nuốt cá bé“, là nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như: gây khủng hoảng kinh tế, nhiều người bị thất nghiệp,..Một số phương tiện thông tin đại chúng nhiều khi không khách quan, đã gán cho cạnh trạnh cả những “tội lỗi“ mà không phải nó trực tiếp gây ra như: lừa đảo, hối lộ hoặc đưa ra những thông tin không đúng sự thật làm giảm sức cạnh tranh của một sản phẩm, một làng nghề. Bên cạnh đó, sự thiếu minh bạch trong thông tin và những quyết định của một vài cơ quan, cũng như hành vi của một số công chức còn mang nặng phân biệt đối xử, chẳng hạn trong phân bổ quota, đăng ký kinh doanh,..đã làm hạn chế cạnh tranh, bóp méo các quan hệ cạnh tranh trên thị trường Nguyễn Viết Tý (chủ biên, 2006), Giáo trình Luật thương mại Tập I, Trường ĐH Luật HN, Nxb Công An nhân dân, Hà Nội, trang 339-340.
.
Từ khi nền kinh tế hội nhập với khu vực và quốc tế, khái niệm cạnh tranh đã được nhìn nhận theo hướng tích cực hơn, cả Nhà nước lẫn doanh nghiệp đã nhận rõ vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế, đặc biệt là trong quá trình hội nhập. Những chức năng tích cực của cạnh tranh, như: thúc đẩy đổi mới, phân bổ nguồn lực, chọn lọc, phân phối lại,.. đã dần được thừa nhận. Sự chuyển biến này đã tác động tích cực đến chất lượng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như nhiều chính sách của Nhà nước, hỗ trợ bước đầu cho việc hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam.
Về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp: một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh tốt khi nó đạt được các kết quả tốt hơn mức trung bình. Như vậy, đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh là khả năng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hiệu qủa hơn so với các đối thủ cạnh tranh Bùi Đức Tuân (2006), “Phân tích năng lực cạnh tranh ngành: tiếp cận thông qua mô hình kim cương”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, trường ĐH KTQD, (Số 10), trang 57.
. Một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh và có thể đứng vững trên thị trường khi nó có mức giá thấp hơn sản phẩm tương tự với chất lượng ngang bằng hoặc cao hơn. Theo lý thuyết thương mại truyền thống, năng lực cạnh tranh được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động. Còn M.Porter cho rằng, năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo của mình để tạo ra sản phẩm có giá thành thấp và sự dị biệt sản phẩm. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải xác định lợi thế cạnh tranh của mình. Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những lợi thế mà sản phẩm có hoặc có thể huy động để chiến thắng trong cạnh tranh. Thông thường, việc xác định khả năng cạnh tranh của sản phẩm dựa vào bốn tiêu chí: (i) tính cạnh tranh về chất lượng và mức độ đa dạng hoá sản phẩm; (ii) tính cạnh tranh về giá cả; (iii) khả năng thâm nhập thị trường mới; và (iv) khả năng khuyến mãi, lôi kéo khách hàng và phương thức kinh doanh Nguyễn Trần Quế, Nghiên cứu phương pháp phản ánh và phân tích về năng lực cạnh tranh, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, trang 1.
.
Về năng lực cạnh tranh ngành: đối với ngành, năng lực cạnh tranh là khả năng đạt được những thành tích bền vững của các doanh nghiệp (của quốc gia) trong ngành so với các đối thủ nước ngoài, mà không dựa vào sự bảo hộ hoặc trợ cấp. Năng lực cạnh tranh ngành được đánh giá thông qua khả năng sinh lời của các doanh nghiệp trong ngành, cán cân ngoại thương ngành, cán cân đầu tư nước ngoài và những thước đo trực tiếp về chi phí và chất lượng ở cấp ngành Bùi Đức Tuân (2006), “Phân tích năng lực cạnh tranh ngành: tiếp cận thông qua mô hình kim cương”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, trường ĐH KTQD, (Số 10), trang 57.
.
1.2.2 Yêu cầu lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam
Một là, sản phẩm nông nghiệp là nguyên liệu chính của CNCBTP. Việt Nam là nước nông nghiệp, hàng năm, chúng ta sản xuất ra khối lượng nông sản thực phẩm rất lớn (năm 2006 sản lượng lương thực có hạt khoảng 39,65 triệu tấn, tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 3,1 triệu tấn) TCTK, Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế – xã hội 2006.
. Mặc dù vậy, do đặc điểm của nông phẩm là: sản phẩm tươi sống, khó bảo quản, dễ hư hỏng, mang tính mùa vụ cao, giảm chất lượng nếu không được bảo quản và chế biến kịp thời. Do đó, phát triển CNCBTP sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, đồng thời, thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá và thúc đẩy CNH – HĐH đất nước;
Hai là, sự phát triển của CNCBTP sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng cũng như nhu cầu mới phát sinh của dân cư, đặc biệt là những sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm;
Ba là, hiện nay, phương thức chăn nuôi, giết mổ nhỏ lẻ phân tán ở các gia đình, các chợ, hè phố,.. chiếm tỷ lệ rất cao. Đây là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, không đảm bảo VSATTP, giễ phát sinh dịch bệnh, đồng thời gây khó khăn cho công tác phòng chống dịch. Thực tế thấy rằng, khi dịch cúm gia cầm xảy ra (từ năm 2003) và sau đó là dịch LMLM ở gia súc, do CNCBTP nước ta còn quá sơ sài, lạc hậu đã làm cho thị trường thực phẩm chế biến bị đóng băng, còn người chăn nuôi thì điêu đứng;
Bốn là, sự phát triển của CNCBTP góp phần đáng kể vào việc đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế so sánh của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, khả năng sản xuất phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
Năm là, phát triển CNCBTP mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao, có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Sự phát triển đó không chỉ đem lại hiệu quả cao cho chính bản thân ngành mà còn thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành có liên quan. Đặc biệt, điểm nhấn mạnh ở đây là CNCBTP không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, không đòi hỏi công nghệ phức tạp nhưng có khả năng thu hút được nhiều lao động và tạo ra tích luỹ lớn;
Sáu là, Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, thuận lợi thì nhiều, song cũng không thể tránh được những thách thức, có thể kể đến như: hàng hoá của các nước phát triển hơn ta có chất lượng, giá rẻ, đa dạng chủng loại, đảm bảo VSATTP sẽ tràn vào khi hàng rào bảo hộ từng bước được dỡ bỏ (chúng ta gần như phải mở cửa ngay mọi thị trường với mức thuế nhập khẩu giảm còn dưới 15%) Bộ Thương mại.
. Trong khi đó, ngành CNCBTP nước ta với máy móc, thiết bị còn thô sơ, công nghệ lạc hậu, công suất nhỏ, phát triển manh mún, tự phát, không có quy hoạch, cùng với đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp còn thờ ơ, chậm “hoà nhập” với dòng chảy của thị trường, chưa đáp được yêu cầu của hội nhập. Ngoài ra, việc quan tâm đầu tư của Nhà nước vào ngành còn chưa được trú trọng đúng mức. Do đó, giá thành sản phẩm cao, chất lượng không đảm bảo, VSATTP chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập, làm cho hàng hoá thiếu khả năng cạnh tranh;
Bảy là, theo dự báo của các nhà khoa học dinh dưỡng thì, tương lai của ngành CNCBTP sẽ “biến thực phẩm thành dược phẩm”
. Chế biến các món ăn phù hợp với bộ gien dinh dưỡng của con người, để từ đó ngăn ngừa hoặc trì hoãn sự khởi đầu của một số căn bệnh có thể xảy ra; và
Tám là, CNCBTP châu Á sẽ tăng trưởng 12% đến 15%/năm trong 5 năm tới, song hành cùng với tốc độ CNH – HĐH và đô thị hoá nhanh chóng trên toàn cầu, thói quen tiêu dùng của người dân châu Á cũng thay đổi, đòi hỏi ngày càng cao của VSATTP
. Vì vậy, các nhà sản xuất và chế biến thực phẩm đang tập trung sản xuất ra những loại sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu “tiện ích” của người tiêu dùng và như vậy các hãng chế biến, đóng gói khắp khu vực, không loại trừ Việt Nam, ngày càng phải quan tâm nâng cao công nghiệp chế biến hơn nữa.
Như vậy, từ nội dung phân tích trên đây, ta thấy rằng đối với Việt Nam, việc lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành CNCBTP là vấn đề quan trọng góp phần thực hiện CNH – HĐH đất nước nhanh, bền vững và có hiệu quả.
1.3 CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ CÔNG CỤ LỰA CHỌN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH
Hiện nay, để đánh giá năng lực cạnh tranh ngành, có nhiều mô hình được áp dụng để phân tích như: mô hình SWOT, mô hình “kim cương“, mô hình PEST. Luận văn sử dụng mô hình “kim cương“ và mô hình SWOT làm công cụ lý thuyết để phân tích.
1.3.1 Mô hình “kim cương” – công cụ phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh ngành
Mô hình “kim cương“ được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1990. Mô hình này là một trong những phương pháp mới và phù hợp cho việc tiếp cận năng lực cạnh tranh của một ngành cụ thể.
Sự gia tăng mức sống và thịnh vượng của mỗi quốc gia phụ thuộc vào khả năng đổi mới, khả năng tiếp cận nguồn vốn và hiệu ứng lan truyền của công nghệ của nền kinh tế. Nói tổng quát hơn, cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào sức cạnh tranh của các ngành trong ngành kinh tế. Sức cạnh tranh của một ngành lại xuất phát từ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành: khả năng đổi mới công nghệ, sản phẩm, cung cách quản lý của ngành và môi trường kinh doanh. Các đầu vào quan trọng đối với sản xuất của nền kinh tế không chỉ đơn thuần là lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên mà còn là những đầu vào do chính doanh nghiệp hoặc Chính phủ tạo ra.
Sơ đồ 1.1: Mô hình “kim cương“
Chiến lược doanh nghiệp, cơ cấu và sự cạnh tranh
Chính phủ
Các yếu tố đầu vào
Nhu cầu trong nước
Các ngành công nghiệp phụ trợ
Nguồn: M. PORTER (1990), The Competitive Advantage of Nation, Macmillan.
1.3.1.1 Phân tích đầu vào
Dựa theo lý thuyết kinh tế truyền thống (lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tư bản, hạ tầng kỹ thuật) để xác định hoạt động sản xuất kinh doanh của một quốc gia đơn lẻ. Theo Porter, điều quan trọng không phải là các yếu tố sản xuất mà quốc gia được thừa hưởng mà là những yếu tố nào có thể tạo ra trong thời gian ngắn và triển khai có hiệu quả.
Nguyên liệu: sản xuất không thể tiến hành được nếu không có nguyên liệu, nguồn nguyên liệu ổn định về số lượng, chất lượng và giá cả hợp lý tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất diễn ra bình, do đó nó là yếu tố đầu vào quan trọng luôn được các nhà sản xuất quan tâm.
Lao động: nguồn lao động và lực lượng lao động là những khái niệm có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở cho việc tính toán cân đối lao động – việc làm xã hội. Trong đó, nguồn lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế. Nguồn lao động được xem xét trên ở hai mặt chất lượng và số lượng; lực lượng lao động là một bộ phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, Đại học KTQD, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, tr.167-168.
Lao động là yếu tố đầu vào đặc biệt không thể thiếu trong bất kỳ quá trình sản xuất nào, nó là một yếu tố có vai trò quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Một mặt, lao động là tiềm lực sản xuất chính, mặt khác là điều kiện mở rộng giới hạn của tăng trưởng kinh tế thông qua hành vi tiêu thụ thúc đẩy sự tăng lên của cầu bằng chính thu nhập có được từ hoạt động sản xuất. Tác động của yếu tố lao động không chỉ thể hiện về mặt số lượng, mà quan trọng hơn là về mặt chất lượng của nó, biểu hiện ở trình độ, năng suất lao động ngày càng cao Lê Huy Đức (Đồng cb-2003), Giáo trình Dự báo phát triển KT-XH, Đại học KTQD, Nxb Thống kê, HN, tr359.
.
Vốn: vốn là yếu tố quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi hình thái kinh tế – xã hội. Nó là một yếu tố đầu vào quan trọng trong bất kỳ quá trình sản xuất kinh doanh nào. Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích luỹ, là phần thu nhập thường có chưa được tiêu dùng. Về mặt hiện vật, đó là toàn bộ của cải vật chất do lao động sáng tạo ra mà nền kinh tế tích luỹ được trong suốt quá trình lịch sử đến thời điểm xem xét và được gọi là tài sản quốc gia.
Vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được dùng làm phương tiện trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, gồm: vốn cố định và vốn lưu động. Vốn đầu tư là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng vốn sản xuất. Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Đến lượt mình, vốn đầu tư vào tài sản cố định chia thành vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư sửa chữa lớn. Vốn đầu tư cơ bản làm tăng khối lượng thực thể tài sản cố định, đảm bảo bù đắp tài sản cố định hao mòn và tăng thêm phần xây lắp dở dang. Vốn sửa chữa lớn không làm tăng thêm khối lượng thực thể tài sản, do đó, nó không có trong thành phần của vốn đầu tư cơ bản. Nhưng vai trò kinh tế của vốn sửa chữa lớn tài sản cố định cũng giống như vai trò kinh tế của vốn đầu tư cơ bản là đảm bảo thay thế tài sản bị hư hỏng Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, Đại học KTQD, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội, tr.230-231.
.
Như vậy, có thể nói rằng vốn là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp, của ngành và của nền kinh tế, mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học – công nghệ, góp phần đáng kể vào đầu tư chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào vịêc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi quy mô sản xuất được tăng lên cả chiều rộng và chiều sâu.
1.3.1.2 Phân tích nhu cầu trong nước
Dân số, thu nhập, thị hiếu, sở thích, hàng hoá thay thế, hàng hoá bổ sung, định hướng tiêu dùng của Chính phủ là bản chất nhu cầu thị trường trong nước về._. các sản phẩm và dịch vụ của ngành. Nhu cầu trong nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra khả năng cạnh tranh toàn cầu. Thị trường nội địa khó tính, khắt khe và tinh tế sẽ là một nhân tố quan trọng tạo nên năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào phải tồn tại trên thị trường này sẽ có khả năng sản suất và bán được những mặt hàng cao cấp vì khách hàng không những đòi hỏi hàng hoá chất lượng cao mà còn đòi hỏi cả các yếu tố xã hội kết tinh trong hàng hoá, đồng thời việc tiếp xúc với những khách hàng khó tính sẽ giúp doanh nghiệp hiểu biết hơn về nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng. Nếu những giá trị riêng biệt của hàng nội địa được thị trường nước ngoài thừa nhận, các doanh nghiệp trong nước sẽ có khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Mặt khác, nhu cầu trong nước cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước một bức tranh rõ ràng hơn về sự thay đổi nhu cầu của khách hàng và tạo áp lực buộc các doanh nghiệp phải đổi mới, phải có chiến lược sản phẩm, chiến lược thu hút khách hàng,..nhờ đó tạo ra nhiều lợi thế hơn trước đối thủ nước ngoài trong cạnh tranh.
1.3.1.3 Phân tích các ngành công nghiệp phụ trợ
Ngành công nghiệp phụ trợ cung cấp các đầu vào cần thiết phụ vụ cho ngành công nghiệp chính. Đồng thời, cũng là những ngành mà doanh nghiệp có thể phối hợp hoặc chia sẻ trong hoạt động kinh doanh. Sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ và mối liên hệ chặt chẽ giữa chúng tạo điều kiện đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ để duy trì các lợi thế cạnh tranh bền vững hơn.
Những nhà cung cấp tự thất bại khi họ không có được sự khuyến khích thực sự hay không đủ sức ép để tạo ra sáng kiến mới. Việc phục vụ những khách hàng toàn cầu có nghĩa phải có được thông tin rộng khắp và khả năng truyền tải thông tin đó cho thị trường trong nước. Những công ty sẵn sàng cung ứng nguồn lực của họ cho nghiên cứu và phát triển sẽ giúp họ tiến vào thị trường mới.
1.3.1.4 Phân tích chiến lược của doanh nghiệp và sự cạnh tranh
Trong thực tế, các doanh nghiệp trong cùng một ngành cũng có những chính sách khác nhau về kênh phân phối sản phẩm, phân đoạn thị trường tiêu thụ, chất lượng sản phẩm, trình độ công nghệ sản xuất, dịch vụ sau bán hàng, chính sách giá, chính sách quảng cáo và khuyếch trương sản phẩm. Trong hầu hết các ngành, các công ty có thể phân theo nhóm, trong đó các thành viên của nhóm có thể đi theo một chiến lược tương tự như nhau và có những điểm khác biệt cơ bản với các công ty thuộc nhóm khác trong ngành.
Về sự cạnh tranh, M.Porter đưa ra những vấn đề cốt lõi nhất để giúp cho các nhà quản lý phân tích môi trường ngành. Ông đưa ra năm lực lượng tác động vào ngành, đó là: (1) cạnh tranh giữa các đối thủ tiềm ẩn: đối thủ tiềm ẩn là các công ty hiện không ở trong ngành nhưng có khả năng nhảy vào hoạt động trong lĩnh vực đó. Đối thủ mới tham gia trong ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn dành được một phần thị trường. Do đó, những công ty đang hoạt động trong ngành tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của họ. Như vậy, để bảo vệ vị trí cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp thường quan tâm đến việc duy trì hàng rào hợp pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài. Nhà kinh tế học Joe Bain đưa ra 3 yếu tố trở ngại chủ yếu đối với việc nhảy vào một ngành kinh doanh, đó là: sự ưa chuộng sản phẩm của người mua, các ưu thế về chi phí thấp và tính hiệu quả của sản xuất lớn; (2) cạnh tranh giữa các sản phẩm thay thế: sản phẩm thay thế là những sản phẩm của các công ty trong ngành khác nhưng thoả mãn những nhu cầu của người tiêu dùng giống như các công ty trong ngành. Các công ty này thường cạnh tranh gián tiếp với nhau. Như vậy, sự tồn tại những sản phẩm thay thế hình thành một sức ép cạnh tranh rất lớn, nó giới hạn mức giá một công ty có thể định ra và do đó giới hạn mức lợi nhuận của công ty. Ngược lại, nếu sản phẩm của một công ty có rất ít sản phẩm thay thế, công ty có cơ hội để tăng giá, và kiếm được lợi nhuận tăng thêm; (3) sức ép về giá của người mua: người mua được xem như là đe doạ mang tính cạnh tranh khi họ đẩy giá cả xuống hoặc khi họ yêu cầu chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn làm cho chi phí hoạt động của công ty tăng lên và ngược lại. Người mua có thể gây áp lực với công ty đến mức nào phụ thuộc vào thế mạnh của họ trong mối quan hệ với công ty; (4) sức ép về giá của người cung cấp: người cung cấp được coi là đe doạ với công ty khi họ có thể đẩy mức giá hàng cung cấp cho công ty lên, ảnh hưởng đến mức lợi nhuận của công ty. Các công ty thường phải quan hệ với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau như: vật tư thiết bị, nguồn lao động, tài chính; và (5) sự cạnh tranh của các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành: sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành là yếu tố quan trọng tạo ra cơ hội hoặc đe doạ cho các công ty. Nếu sự cạnh tranh là yếu, các công ty có cơ hội để tăng giá để thu lợi nhuận cao. Nếu sự cạnh tranh này là gay gắt sẽ dẫn tới cạnh tranh quyết liệt về giá cả và thế lợi nhuận của họ sẽ giảm. Sự cạnh tranh của các công ty trong ngành thường chịu tác động tổng hợp của 3 yếu tố: cơ cấu ngành, mức độ cầu và những trở ngại ra khỏi ngành.
Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sự thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu được lợi nhuận ngày càng cao. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Nó không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,..một cách riêng biệt mà cần được đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng lĩnh vực, cùng một thị trường. Cạnh tranh càng khốc liệt bản lĩnh của doanh nghiệp càng cao.
Nước ta, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp còn rất thấp, điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Qua nghiên cứu thấy rằng, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước không chỉ chịu ảnh hưởng bởi chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố vĩ mô và môi trường kinh doanh tổng thể của quốc gia. Phí kinh doanh là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng lực kinh doanh của các chủ thể. Theo nghiên cứu của CIEM thông qua VACO (Công ty TNHH Kiểm toán Việt Nam) và Công ty Tư vấn Tài chính Âu Lạc, cho thấy hầu hết các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đều liên quan đến chi phí kinh doanh của quốc gia. Chi phí thấp đồng nghĩa với việc có được khả năng cạnh tranh cao, do đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh cần phải nghiên cứu để giảm chi phí. Tuy nhiên, chi phí thấp chỉ là bước khởi đầu để có cạnh tranh. Sự phát triển kinh doanh năng động sẽ tận dụng được lợi thế so sánh về chi phí, từ đó nâng thêm khả năng cạnh tranh về chất. Các kỹ năng tổ chức, quản lý của nhà kinh doanh trong chu trình sản xuất kinh doanh: từ giai đoạn trước sản xuất (chẳng hạn, thiết kế sản phẩm, mua công nghệ, nguyên liệu,..) đến bản thân quá trình sản xuất (sử dụng lao động, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng,..) và sau sản xuất (bao gói, nhãn hiệu, ký hợp đồng, tiếp cận thị trường,..) cũng là những yếu tố quan trọng góp phần cải thiện và nâng cao thêm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới thì chỉ số về “chiến lược và hoạt động của doanh nghiệp” của Việt Nam năm 2003 là 52/80 (năm 2002 là 67/80) Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Báo cáo Phát triển Thế giới 2002/2003.
.
1.3.1.5 Phân tích vai trò của Chính phủ
Có hai nguyên nhân chủ yếu để Chính phủ can thiệp vào nền kinh tế là thúc đẩy hiệu quả và sự công bằng.
Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều không thể phát triển nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Chính phủ. Các nền kinh tế thị trường nguyên thuỷ dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi giản đơn có thể hoạt động một cách có hiệu quả mà không cần sự can thiệp của Chính phủ. Tuy nhiên, vì nền kinh tế tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên sự can thiệp của Chính phủ xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ có một vai trò chính đáng và thường xuyên trong nền kinh tế, thể hiện rõ rệt ở việc xác định “các quy tắc trò chơi” để can thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, khắc phục khuyết tật của thị trường, để đảm bảo tính chỉnh thể của nền kinh tế và cung cấp những dịch vụ công cộng.
Vai trò của Chính phủ thể hiện trong các lĩnh vực: ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính và tiền tệ; chống ô nhiễm môi trường; phát triển giáo dục và đào tạo; tạo ra hành lang pháp lý phù hợp cho sự phát triển: (i) để thực hiện đúng đắn chức năng phân phối của mình, thị trường đòi hỏi một loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống pháp lý để chống lại độc quyền và gian lận, như: bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chống buôn lậu; và (ii) tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thể hiện ở tập hợp những biện pháp của Chính phủ nhằm cổ vũ cạnh tranh giữa các nhà cung ứng với nhau, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng, chống lại độc quyền.
Như vậy, sự điều tiết của Chính phủ vào thị trường thông qua các công cụ như: chính sách, kế hoạch, pháp luật,..nhằm hướng thị trường theo mục đích định trước, cụ thể: Chính phủ có thể tác động lên các doanh nghiệp thông qua các biện pháp như: tài trợ trực tiếp cho doanh nghiệp (bằng tiền) hoặc gián tiếp (cơ sở hạ tầng); áp dụng các luật thuế đối doanh nghiệp; quy định hay không quy định về thị trường vốn và thị trường hối đoái; chính sách giáo dục ảnh hưởng tới người lao động; thiết lập những quy định về sản phẩm và môi trường; Chính phủ mua sắm hàng hoá và dịch vụ; ban hành luật chống độc quyền,..
1.3.2 Mô hình SWOT - công cụ lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành
SWOT là tập hợp viết tắt những chữ cái đầu tiên của các từ tiếng Anh: Strengths (điểm mạnh); Weaknesses (điểm yếu); Opportunities (thời cơ) và Threats (thách thức). Nguốn gốc của SWOT: mô hình SWOT là kết quả của một cuộc khảo sát trên 500 công ty có doanh thu cao nhất do tạp chí Fortune bình chọn và được tiến hành nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Standford trong thập niên 60-70 của thế kỷ XX, nhằm tìm ra nguyên nhân vì sao nhiều công ty thất bại trong việc thực hiện kế hoạch What’s swot in strategic analysis?
. Đây là công cụ rất hữu ích giúp chúng ta tìm hiểu vấn đề hoặc quyết định trong việc tổ chức, quản lý, đánh giá đối thủ cạnh tranh, khảo sát thị trường, phát triển sản phẩm và trong các báo cáo nghiên cứu.
SWOT là ma trận kết hợp giữa phân tích, dự báo bên trong và bên ngoài. Ma trận này không đưa ra những mô hình chiến lược cụ thể, nhưng nó có tác dụng nêu ra những định hướng chiến lược rất quan trọng với ngành thông qua phân tích môi trường bên ngoài (để tìm ra các cơ hội mà ngành có thể tận dụng và thách thức mà ngành có thể phải đối mặt) cùng với điểm mạnh và điểm yếu từ môi trường bên trong giúp ta nhận diện vấn đề đầy đủ. Từ đó, cho ta các phương án chiến lược từ các kết hợp S-O; S-T; W-O; và W-T. Để minh hoạ cho những mô tả trên, chúng ta xem xét bảng sau:
Bảng 1.1 Ma trận SWOT
Điểm mạnh
Điểm yếu
S1
S2
S3
W1
W2
W3
Cơ hội
O1
O2
O3
Các kết hợp S - O
Các kết hợp W - O
Thách thức
T1
T2
T3
Các kết hợp S - T
Các kết hợp W - T
Strengths - Điểm mạnh:
Ưu thế của ngành là các nhân tố có thể huy động thuận lợi cho sự phát triển của ngành so với các ngành khác;
Lợi thế cạnh tranh là những thế mạnh mà sản phẩm, doanh nghiệp hay ngành có hoặc có thể huy động để chiến thắng trong cạnh tranh;
Năng lực, khả năng thực tế có thể cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường;
Điểm đặc sắc của sản phẩm là khả năng làm tăng giá trị cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm;
Nguồn lực, tài sản, con người: các yếu tố đó sẵn sàng và có thể huy động ngay để phục vụ cho mục tiêu của ngành với các tính năng, kỹ năng ưu thế hơn ngành khác;
Kinh nghiệm, kiến thức là những hiểu biết, những kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc phát triển;
Hoạt động marketing, khả năng tiếp cận thị trường là những lợi thế trong việc truyền tải những thông điệp của chủ thể tới những đối tượng đã định;
Vị trí địa lý đó là những lợi thế có được do điều kiện tự nhiên mang lại;
Giá cả, thị trường, chất lượng: giá cả phù hợp, nhu cầu lớn và chất lượng đáp ứng được đòi hỏi của người tiêu dùng;
Mức độ công nhận, phẩm cấp, chứng chỉ là mức độ công nhận của xã hội đối với những thành công của ngành;
Các quá trình xử lý, cơ cấu tổ chức cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, thích ứng kịp thời và linh hoạt với các vấn đề trong quá trình hoạt động; và
Mức độ kiểm soát của cơ quan chức năng, người có thẩm quyền đó là việc tạo ra hành lang pháp lý rạch ròi, thuận lợi, bình đẳng cho sự phát triển.
Weaknesses - Điểm yếu:
Hạn chế của ngành là các yếu tố gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động của ngành;
Những lỗ hổng trong năng lực đó là những khiếm khuyết không thể bổ sung kịp thời khi có sự cố;
Thiếu sức cạnh tranh là việc không đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường ở mức trung bình so với các đối thủ;
Vấn đề tài chính là khả năng huy động và sử dụng nguồn lực tài chính không hiệu quả;
Khả năng của dây chuyền cung cấp: dây chuyền lạc hậu, công suất thấp;
Nguồn thông tin, khả năng dự báo trước của kế hoạch: thông tin không đúng, không đủ và không kịp thời. Khả năng dự báo thiếu chuẩn xác;
Mức độ được công nhận: hoạt động của ngành chưa được công nhận rộng rãi trong xã hội;
Quá trình xử lý, cơ cấu tổ chức: sự trì trệ, cồng kềnh, thiếu linh hoạt trong quá trình hoạt động; và
Mức độ kiểm soát của cơ quan Nhà nước: kiểm soát quá chặt chẽ hoặc quá lỏng lẻo gây ảnh hưởng không tốt cho tổ chức.
Opportunities - Thời cơ:
Phát triển thị trường là việc khai thác thị trường truyền thống và mở rộng thị trường mới không ngừng lớn mạnh;
Điểm yếu của đối thủ cạnh tranh: tận dụng, khai thác điểm yếu của đối thủ để dành lợi thế cho mình;
Xu hướng phát triển của ngành: tập quán tiêu dùng, thu nhập tăng, sở thích: thay đổi theo hướng có lợi cho ngành;
Phát triển công nghệ giúp cho việc tạo ra khối lượng sản phẩm nhiều hơn, chất lượng tốt hơn với giá thành hạ hơn;
Ảnh hưởng từ thế giới đó là những ảnh hưởng về kinh tế, chính trị theo hướng tích cực;
Thị trường mới sẽ mở ra nhiều cơ hội cho phát triển ngành;
Vị trí địa lý, hoạt động xuất – nhập khẩu đó là vị trí thuận lợi, hoạt động xuất nhập khẩu được đẩy mạnh tạo điều kiện cho việc phát triển ngành;
Các đặc sắc mới của sản phẩm là những ưu điểm vượt trội chưa từng có so với các sản phẩm trước đó;
Thông tin nghiên cứu: các thông tin nghiên cứu phát triển ngành và những ngành có liên quan đầy đủ, kịp thời, chính xác;
Đối tác, hệ thống phân phối: đối tác có tiềm lực, có năng lực, nhiệt huyết và hệ thống phân phối rộng khắp;
Số lượng, sản xuất, nền kinh tế: nền kinh tế tăng trưởng mạnh; và
Các ảnh hưởng mang tính thời vụ, thời tiết tác động theo hướng tích cực làm tăng quy mô sản xuất ngành.
Threats - Nguy cơ:
Ảnh hưởng về mặt chính trị: bạo động, chiến tranh, cấm vận, bao vây;
Ảnh hưởng về mặt luật pháp là sự thiếu đồng bộ, thiếu toàn diện, thiếu minh bạch của hệ thống pháp luật;
Ảnh hưởng về mặt môi trường: hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành đe doạ ô nhiễm môi trường;
Sự phát triển của công nghệ: công nghệ phát triển mạnh mẽ nhưng các doanh nghiệp trong ngành không có điều kiện hoặc không thể nắm bắt được;
Nhu cầu thị trường: nhu cầu giảm hoặc thay đổi theo hướng bất lợi;
Các ý định của đối thủ cạnh tranh là sự đi trước, đoán trước các ý định, chiến lược gây nguy hại hoặc đe doạ đến sự phát triển bình thường của các doanh nghiệp trong ngành;
Các hợp đồng và đối tác lớn có thể là các yêu cầu khối lượng lớn với thời gian hoàn thành ngắn làm cho doanh nghiệp không có khả năng thực hiện được;
Duy trì các năng lực nội tại: việc duy trì này không thực hiện được hoặc thực hiện được với chi phí cao hơn;
Các trở ngại phải đối mặt: các ràng buộc, đối thủ, sức ép từ người tiêu dùng, từ nhà cung cấp, ràng buộc về mặt xã hội khác,..đều tăng lên;
Những điểm yếu không thể khắc phục: điểm yếu đã trở thành “mãn tính”;
Nền kinh tế trong và ngoài nước đang suy giảm hoặc lạm phát tăng; và
Các ảnh hưởng mang tính thời vụ, thời tiết ảnh hưởng bất lợi cho sự hoạt động của ngành.
Phân tích một số kết hợp:
+ S O: ngành sử dụng mặt mạnh của mình để khai thác cơ hội;
+ S T: ngành sử dụng mặt mạnh để đối phó với các nguy cơ;
+ W O: tranh thủ các cơ hội nhằm khắc phục các điểm yếu; và
+ W T: chiến lược phòng thủ, ngành giảm thiểu các mặt yếu của mình và tránh được nguy cơ.
1.4 CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC VẬN DỤNG CHO VIỆT NAM
1.4.1 Chiến lược phát triển ngành CNCBTP của Thái Lan Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2003), Thông tin phục vụ lãnh đạo, (Số 10), trang 4-25.
Trong những năm qua, xuất khẩu thực phẩm Thái Lan tăng mạnh, đặc biệt chỉ những sản phẩm chế biến tăng còn sản phẩm thô lại giảm. Ngành chế biến thực phẩm phát triển mạnh đã góp phần quan trọng chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn sang nền kinh tế công nghiệp đô thị. So với các ngành công nghiệp chế tạo, ngành CNCBTP áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động và liên kết mạnh với các hoạt động kinh tế nông thôn. Ngoài ra, không giống như nhiều ngành công nghiệp khác, ngành CNCBTP không phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu.
Thái Lan đứng thứ 14/15 nước xuất khẩu thực phẩm hàng đầu thế giới với kim ngạch 2,4 tỷ USD/năm, chiếm 0,5% thị phần thế giới. Để trở thành nước xuất khẩu mạnh trên thị trường thế giới, các nhà xuất khẩu Thái Lan đã liên tục cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Năm 2001, Thái Lan xuất khẩu 22% tổng số thực phẩm sang Nhật Bản; 19,1% sang Mỹ; 12,5% sang EU và 3,9% sang Trung Quốc.
+ Ngành hàng thịt gà:
Xuất khẩu thịt gà ngày càng có tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu thực phẩm. Thay đổi thị hiếu người tiêu dùng cũng như sự phát triển ngành gà giò Thái Lan đã tạo đà cho xuất khẩu thịt gà tăng trưởng mạnh.
Khéo léo tận dụng chính sách khuyến khích nhập khẩu hàng chế biến, chỉ với 1,2% gia vị cho thêm, thịt gà của Thái Lan đã giảm được thuế xuống còn 15,4% thay vì phải chịu mức 70% áp dụng đối với thịt chưa qua chế biến. Thực tế các biện pháp kiểm dịch vệ sinh của EU đối với mặt hàng thực phẩm của Thái Lan là hồi chuông cảnh tỉnh ngành chế biến thực phẩm của họ, song vẫn có thể là cơ hội thuận lợi để mở rộng thị phần trong dài hạn. Muốn vậy, các nhà sản xuất phải nhận thức được thách thức này, am hiểu tất cả những biện pháp kiểm dịch đang được các thị truờng áp dụng, đồng thời phải lường trước những biện pháp mới có thể được đưa ra trong tương lai để có thời gian điều chỉnh cho thích hợp. Trong một số trường hợp, hiện tại các nước không hề áp dụng biện pháp kiểm tra nào, song khó có thể biết trước những quy định mới mà các nước nhập khẩu sẽ áp dụng trong tương lai. Về trung hạn, những doanh nghiệp nào tiến hành điều chỉnh quy trình và biện pháp sản xuất có thể sẽ quay lại xuất khẩu sau thời gian bị cấm nhập. Tuy nhiên, trong thời gian đó, các nhà sản xuất ở các nước phát triển đã tranh thủ chuẩn bị lực lượng, đẩy mạnh nghiên cứu công nghệ, phát triển sản phẩm mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
+ Ngành hàng thịt lợn chế biến:
Tuy kim ngạch xuất khẩu tăng dần qua từng năm, nhưng xuất khẩu thịt chỉ đem lại cho Thái Lan khoảng 1 tỷ baht năm 2001 với các khách hàng chính là Hồng Kông và Nhật Bản. Bản thân ngành có sự bảo hộ lớn do chính sách hạn chế nhập khẩu của Chính phủ. Sản lượng trong nước đủ cho nhu cầu nội địa. Bình quân mỗi người dân Thái Lan tiêu thụ khoảng 10kg thịt lợn/năm, thấp hơn nhiều so với con số 55kg ở Hồng Kông. Chất lượng thịt xuất khẩu cao hơn hẳn các sản phẩm tiêu dùng trong nước bởi các quy định khắt khe của các nước nhập khẩu. Theo thoả thuận với WTO năm 2002, thịt lợn nhập khẩu vào Thái Lan chịu mức thuế 30%. Nguy cơ thị trường trong nước sẽ bị chiếm lĩnh bởi các sản phẩm nhập khẩu, chất lượng cao khiến cả khối doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân Thái Lan phải nhanh chóng đổi mới chất lượng sản phẩm.
Ngành thịt lợn Thái Lan còn phải đối mặt với nguy cơ của bệnh LMLM cũng như những yếu kém trong kênh sản xuất, từ thức ăn chăn nuôi tới việc sản xuất ở các trang trại, các lò mổ, vận chuyển tới các nhà bán buôn và bán lẻ. Chính phủ Thái Lan đang cố gắng đẩy mạnh cải tiến các lò mổ thông qua triển khai các dự án thí điểm. Tuy không gặp phải những quy định khắt khe, song quá trình cải tiến an toàn thực phẩm trong ngành diễn ra hết sức chậm chạp.
Không giống như các sản phẩm thịt chế biến khác, ngành chế biến thịt lợn của Thái Lan không nhận được vốn đầu tư nước ngoài. Nhận thức của người tiêu dùng đối với tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm còn thấp tạo nên xu thế thích các sản phẩm rẻ tiền hơn là sản phẩm có giá cao cho dù chất lượng tốt hơn. Dịch LMLM khiến các nhà xuất khẩu hiểu rằng chỉ có thịt lợn đã qua chế biến mới có thể tránh khỏi những rào cản thương mại do công nghiệp chế biến đã áp dụng tiêu chuẩn vệ sinh an toàn. Giá cạnh tranh và thức ăn chăn nuôi sẵn có giúp ngành chế biến thịt lợn Thái Lan có tiềm năng phát triển.
Kiểm soát các chất kháng sinh, tồn dư hoá chất và tiêu diệt bệnh LMLM là cách duy nhất để nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo VSATTP, tăng lượng thịt tươi xuất khẩu. Hiện nay, điều kiện vệ sinh và an toàn thực phẩm thấp là nguyên nhân chính khiến cho xuất khẩu thịt lợn của Thái Lan gặp nhiều khó khăn. Với khả năng kỹ thuật hiện tại, ngành thịt lợn của Thái Lan có rất ít cơ hội thâm nhập và mở rộng thị phần ở các thị trường rộng lớn nhưng cao cấp như Nhật Bản.
Về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này: Cục Phát triển chăn nuôi tiếp tục khuyến khích xây dựng các trang trại và lò giết mổ hợp vệ sinh, đồng thời, đã chỉ thị tất cả các trang trại chăn nuôi phải tuân thủ đúng tiêu chuẩn chăn nuôi. Để tận dụng lợi thế sau khi bệnh bò điên bùng phát tại thị trường Nhật, các nhà xuất khẩu Thái Lan đã năng động và thay đổi nhanh chóng theo thị hiếu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, điều kiện cần để thâm nhập thị trường đầu tiên vẫn là sản phẩm có độ an toàn cao. Chính phủ có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo VSATTP, xây dựng hình ảnh sản phẩm chất lượng, thúc đẩy xuất khẩu. Bộ Tài chính thì phê duyệt ngân sách mua thiết bị kiểm tra hoá chất để kiểm tra tất cả các loại nông sản, thực phẩm, nhất là những sản phẩm xuất khẩu. Năm 2002, Thái Lan đã thành lập Cục Tiêu chuẩn thực phẩm và hàng hoá nông sản nhằm quản lý việc thực hiện các tiêu chuẩn chất lượng theo chuỗi xuyên suốt từ người sản xuất đến người tiêu dùng.
1.4.2 Chiến lược phát triển ngành CNCBTP của Ấn Độ The Food – Processing Industry in Indinan; Ministry of Food Processing Industries Govt of India – Food Processing Policy.
Ngành nông nghiệp đã tiến một bước dài từ khi Ấn Độ giành được độc lập. Từ một nước bị thiếu hụt nhiều thứ, Ấn Độ đã có thể tự cung cấp đủ lương thực cho tiêu dùng và có dư thừa trong sản xuất. Với diện tích đất nông nghiệp là 184 triệu ha, hàng năm, Ấn Độ sản xuất ra 91 triệu tấn sữa, 150 tấn hoa quả, 210 tấn ngũ cốc, 483 triệu gia súc. Mặc dù, sản lượng và lượng tiêu thụ trên đầu người được cho là tăng nhưng việc chuyển từ việc sản xuất theo lối tự cung tự cấp sang giai đoạn mang tính thị trường đã mang lại nhiều sản phẩm dư thừa và chính những sản phẩm dư thừa này đã dẫn đến những sự lãng phí. Những sản phẩm dư thừa đã gây ra những khó khăn về thị trường mang tính địa phương và đã có những lúc làm rớt giá kéo theo những ảnh hưởng về thu nhập cho người nông dân. Bất chấp việc có những sản phẩm dư thừa và lãng phí, trình độ chế biến của Ấn Độ vẫn còn ở mức thấp.
Theo ước tính, tỷ lệ chế biến của ngành rau quả đạt khoảng 2%, của ngành thịt gia súc và gia cầm đạt 2%, ngành sữa với các phương pháp sản xuất hiện đại đạt mức 14% và ngành cá đạt 4%.
Ngành chế biến thực phẩm mặc dù ở giai đoạn đầu nhưng vẫn chiếm 14% tổng GDP sản xuất và đạt giá trị 2.800.000 triệu rupi. Ngành này thu hút 130 triệu người lao động và có xu hướng tăng lên 2,4 lần số lao động gián tiếp được tạo ra từ lao động trực tiếp. Suốt hơn một thập kỷ qua, ngành chế biến thực phẩm đã tăng trưởng ở mức 7,1%/năm. Mức tăng trưởng cao hơn so với mức tăng trưởng của ngành nông nghiệp chính là bằng chứng của xuất phát điểm thấp sự gia tăng liên tục của sản phẩm dư thừa, lối sống, khẩu vị thay đổi và thu nhập sau thuế cao hơn cao hơn với người tiêu dùng. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, trong vòng năm năm tới mức độ tăng trưởng hàng năm của ngành này sẽ là 7,3%.
Phạm vi trách nhiệm của Bộ Các ngành chế biến thực phẩm bao gồm cả nhà máy chế biến ngũ cốc, sữa, thịt gia súc và gia cầm, cá, nhà máy bánh kẹo, các đồ ăn nhanh và các ngành chế biến rau quả, đồ uống có ga, bia và các loại đồ uống có cồn không sử dụng đường.
Khả năng chi trả và chi phí của thực phẩm chế biến, ở các nước phát triển thì giá thực phẩm chế biến và thực phẩm tươi sống thường ở mức gần bằng nhau, đôi khi các loại thực phẩm chế biến thậm chí còn rẻ hơn thực phẩm tươi sống. Tuy nhiên, ở Ấn Độ, do nhiều yếu tố, giá của các loại thực phẩm chế biến thường cao hơn giá của thực phẩm tươi sống. Chính vì thế, cần phải có những biện pháp để giảm chi phí nhằm hạ giá thành và làm cho thực phẩm chế biến có giá cả hợp lý.
Chi phí cho đóng gói là một sức ép lớn của ngành này, chí phí vào khoảng 10% đến 64% tổng chi phí sản xuất. Mức độ trung lập cao trong ngành thực phẩm Ấn Độ cũng đẩy chi phí lên cao. Do đó, Chính phủ cần có chính sách hướng tới liên kết giữa các ngành để giảm chi phí, giảm thất thoát sau thu hoạch.
Hệ thống cung cấp và vấn đề sau thu hoạch: một đặc điểm của hệ thống lương thực, thực phẩm của Ấn Độ là một hệ thống rời rạc và rộng khắp, do đó, làm tăng chi phí và đôi khi làm gián đoạn sản xuất và người tiêu dùng. Hệ thống này đã có sự liên kết ở mức độ thị trường rồi lại tách ra khi đến người tiêu dùng.
Cơ sở hạ tầng cho ngành này còn yếu và thiếu. Sự thiếu hụt tồn tại trong lĩnh vực phân loại và đóng gói bên cạnh làm mát sơ bộ tại nông trang trước khi đưa vào hệ thống phân phối lạnh chính thức. Công suất bảo quản lạnh hiện tại chỉ chiếm dưới 10% sản lượng, trong đó, về cơ bản 80% lại dùng trong bảo quản khoai tây. Sự thiếu hụt các cơ sở làm lạnh cho các nhà máy giết mổ hiện đại cho ngành chế biến thịt đã được thấy rõ.
Về tài chính: trong mục tiêu cho vay ưu tiên 40% của ngành, các ngân hàng chỉ được chỉ định cho vay 18% đối với các hoạt động nông nghiệp trực tiếp và gián tiếp, trong đó, ngành chế biến thực phẩm được vay gián tiếp 4,5%.
An toàn vệ sinh thực phẩm: sự nhấn mạnh của Ấn Độ về việc tiêu dùng các sản phẩm tươi sống cũng được gắn liền với sự chấp nhận về mặt chất lượng của các sản phẩm chế biến. Trừ phi chúng ta khẳng định với người tiêu dùng rằng việc tồn trữ không gây ra sự hư hỏng về chất lượng thực phẩm, bằng không thì họ sẽ tránh xa thực phẩm chế biến. Người tiêu dùng tìm kiếm sự an toàn nhờ các chứng nhận và thương hiệu là nơi mà họ có những kiến thức kinh nghiệm sâu sắc về sản phẩm hoặc quá trình sản xuất. Các nhà cấp phát chứng nhận do vậy cần phải thận trọng trong việc thi hành các tiêu chuẩn. Đội ngũ nhân viên thi hành các tiêu chuẩn về mặt chất lượng cũng nên được đào tạo đầy đủ về những quy định và tiêu chuẩn đánh giá của HACCP, GMP và GHP. Trong ngành gia cầm và thịt, Ấn Độ đã tập trung vào các vùng sạch bệnh, các cấu trúc mang tích chất liên doanh cho các nhà giết mổ.
Xuất khẩu: khối lượng hàng thực phẩm chế biến xuất khẩu, vốn chỉ chiếm 1% thương mại trong ngành này, đã và đang tăng trưởng với tốc độ 7%/năm trong vòng 5 năm qua và chiếm 70% tổng sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu. Các vấn đề về tiêu chuẩn hoá và chứng nhận chất lượng là những vấn đề nổi bật trong lĩnh vực này. Tốc độ tăng trưởng cần phải tăng lên gấp đôi trong 5 năm tới.
Do công nghiệp chế biến có bản chất là mang tính thời vụ, tài sản bị bỏ không trong thời gian dài. Trong sự nhìn nhận về đặc tính này, Chính phủ cần can thiệp để giảm nhẹ tính chất thời vụ đó.
1.4.3 Chiến lược phát triển ngành CNCBTP của Malaysia Bộ Nông nghiệp và PTNT (2004), Thông tin phục vụ lãnh đạo,( Số 9), Hà Nội, trang 35-42.
Những năm đầu sau khi giành được độc lập (1957), do tỷ lệ đói nghèo trong nông nghiệp và nông thôn còn cao, nên chính sách phát triển của Malaysia chủ yếu tập trung vào tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập của nông dân.
Năm 1984, Malaysia thi hành chính sách nông nghiệp quốc gia lần đầu tiên (NAP lần 1) nhằm từng bước tự do hoá ngành nông nghiệp, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, tối đa hoá thu nhập trong nông nghiệp, kích thích và đẩy mạnh công nghiệp chế biến, đặc biệt là các mặt hàng chế biến theo hướng xuất khẩu.
Giai đoạn 1984 – 1990, nền kinh tế Malaysia diễn ra chuyển đổi cơ cấu mạnh mẽ, Chính phủ rất chú trọng vào phát triển công nghiệp, nên tỷ trọng công nghiệp tăng lên nhanh chóng, khoảng 13,1%/năm. Đồng thời, Chính phủ đã áp dụng nhiều chính sách can thiệp nhằm bảo vệ ngành chăn nuôi, công nghiệp chế biến, đặc biệt là các sản phẩm như: thịt tươi, thịt miếng, thịt đông lạnh và trứng gia cầm. Trước vòng đàm phán Urugoay, Malaysia cấm nhập khẩu các sản phẩm nói trên. Năm 2002 kim ngạch nhập khẩu tối đa là 3% mức tiêu thụ trong nước, năm 2004 tăng lên 5%. Chăn nuôi lợn cũng được bảo hộ rất lớn, thuế nhập khẩu trong khoảng 23% đến 139%. Ngày nay, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Malaysia được coi là phát triển nhất trong khu vực Đông Nam Á và có thứ hạng cao trên thế giới.
1.4.4 Bài học vận dụng cho Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu ngành CNCBTP của các quốc gia có điều kiện tương đồng với Việt Nam trong việc phát triển ngành này, bài học vận dụng cho nước ta như sau:
Một là, tận dụng triệt để nguyên liệu trong nước, đổi mới công nghệ chế biến, liên kết sản xuất từ chăn nuôi, thu gom, giết mổ và chế biến gia súc, gia cầm theo hướng tập trung nhằm hạ giá thành sản xuất;
Hai là, xây dựng ngành CNCBTP theo hướng chế biến sâu để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo VSATTP khai thác và đáp ứng nhu cầu trong nước. Đồng thời, từng bước mở rộng xuất khẩu, nhất là sang những thị trường khó tí._.hát triển được, nên sẽ kéo theo các ngành sản xuất liên quan dẫm chân tại chỗ.
Tính khả thi: phương án này chỉ đáp ứng được nhu cầu trước mắt, khi các yếu tố nội sinh của ngành, cũng như đòi hỏi của người tiêu dùng còn thấp khi xã hội chưa phát triển về mọi mặt. Trong điều kiện hội nhập, năng lực của toàn nền kinh tế phát triển nhanh, đời sống của dân cư tăng lên, do đó nhu cầu và đòi hỏi của người dân về TPCB tăng theo, nên phương án này nhanh chóng lỗi thời.
3.1.2 Lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam
Thông qua phân tích thực trạng và xem xét tác động của việc gia nhập WTO đối với ngành CNCBTP Việt Nam, trên cơ sở phân tích các phương án chiến lược, tác giả lựa chọn phương án 1: “Phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam theo hướng tăng cường sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao thông qua chế biến sâu đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu” là phương án chiến lược phát triển của ngành trong thời gian tới.
Lý do lựa chọn:
Thứ nhất, phương án chiến lược này phù hợp với các mục tiêu phát triển của ngành được đề cập trong: “Chiến lược phát triển Ngành Công nghiệp đến năm 2010 và tầm nhìn 2020” và “Kế hoạch phát triển công nghiệp 5 năm 2006 – 2010” của Chính phủ CHXHCN Việt Nam;
Thứ hai, căn cứ vào nhu cầu thị trường: (i) Việt Nam là nước có dân số đông. Trong hơn một thập kỷ qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta luôn ở mức cao (trung bình khoảng 7.5%) làm cho thu nhập của người dân không ngừng tăng lên, đời sống của nhân dân ngày một cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Theo Bảng 2.10, co dãn theo chi tiêu đều dương và lớn hơn 1 (ngoại trừ co giãn theo chi tiêu của sản phẩm thịt gà của người dân đô thị), do đó khi thu nhập tăng nhu cầu về thực phẩm sẽ tăng nhanh hơn tốc độ tăng của thu nhập. Mặt khác, trị tuyệt đối độ co giãn về giá ở nông thôn cao hơn thành thị, điều đó cho thấy trong thời gian tới nhu cầu thực phẩm sẽ tăng nhanh ở khu vực nông thôn, nơi tập trung khoảng 75% dân số với hơn 55% lực lượng lao động xã hội, đang chuyển mình nhanh chóng. Cùng với đòi hỏi của nhịp độ sản xuất công nghiệp, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của WTO, khối lượng việc làm gia tăng, thu hút lao động từ nông nghiệp, nông thôn sang lĩnh vực công nghiệp nên thời gian dành cho tự chế biến thực phẩm giảm xuống. Ngoài ra, vấn đề chất lượng thực phẩm và VSATTP đang là nỗi lo của mỗi người, mỗi nhà trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt khi dịch bệnh đang diễn biến phức tạp, việc sử dụng các hoocmon và chất kích thích tăng trưởng tràn lan Nhà nước chưa kiểm soát được, thì đòi hỏi tăng của người tiêu dùng về thực phẩm sạch, có giá trị dinh dưỡng cao là điều tất yếu; (ii) trong “sân chơi“ lớn – WTO, hàng hoá nói chung, thực phẩm chế biến nói riêng từ các nước có nền công - nông nghiệp phát triển, nhất là các nước trong khu vực có sức cạnh tranh cao về giá cả, chất lượng, chủng loại, mẫu mã bao bì,..sẽ tràn vào Việt Nam là tất yếu nhất là khi các cam kết trong WTO được chính thức thực hiện ở nước ta. Là nước nông nghiệp, Việt Nam đang có nhiều lợi thế trong việc phát triển ngành CNCBTP, trong khi đó, năng lực sản xuất của ngành còn quá thấp và thua xa các nước trong khu vực. Vì thế, chúng ta cần có hướng đi cho riêng mình vừa tận dụng thế mạnh, tranh thủ thời cơ để vượt qua thách thức là vấn đề thời sự đối với ngành CNCBTP nước ta hiện nay; (iii) một nghịch lý là trong khi hàng năm chúng ta sản xuất ra khoảng 3 triệu tấn thịt hơi xuất chuồng, nhưng lại nhập khẩu thịt và các sản phẩm chế biến từ thịt từ nước ngoài (như nhập thịt bò từ Mỹ), còn xuất khẩu của ta thấp về sản lượng, sơ sài về chủng loại với các sản phẩm như lợn sữa, lợn choai, thịt lợn mảnh cho các thị trường như Nga, Hồng Kông, còn các thị trường khác hầu như vắng bóng; và (iv) theo đánh giá của FAO, chăn nuôi đang hướng đến năm 2020 như một “cuộc cánh mạng“ về thực phẩm trong mối phát triển tương quan về mức thu nhập, môi trường và y tế cộng đồng. Châu Á sẽ trở thành khu vực sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm chăn nuôi lớn nhất. Nhu cầu về thịt ngày càng tăng nhanh ở các nước đang phát triển, ước tính tăng trưởng 7,8%/năm http//agroviet.gov.vn.
. Do vậy, phương án chiến lược được lựa chọn sẽ nhanh chóng tận dụng được lợi thế của đất nước và “lấp được“ khoảng trống mà ngành chưa giải quyết được; và
Thứ ba, tính khả thi, chúng ta có khả năng và có điều kiện để thực hiện phương án này, bởi ngoài những thế mạnh sẵn có như đầu vào đa dạng, nhu cầu tiêu thụ lớn và ngày càng tăng,..ngành CNCBTP nước ta có thêm cơ hội huy động nguồn lực từ bên ngoài khi Việt Nam được đối xử bình đẳng trong WTO.
Như vậy, lựa chọn phương án chiến lược này sẽ giúp cho ngành CNCBTP của Việt Nam nhanh chóng đáp ứng được các đỏi hỏi của người tiêu dùng trong nước và thế giới, đồng thời đưa ngành phát triển nhanh, mạnh, vững chắc có khả năng cạnh tranh cao với sản phẩm cùng loại của các nước, đặc biệt có vị trí xứng đáng trong hàng ngũ các nước có nền CNCBTP trong khu vực và thế giới.
3.2 CÁC ĐIỀU KIỆN VÀ ĐỀ XUẤT ĐỂ THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN CHIẾN LƯỢC ĐƯỢC LỰA CHỌN
Trên cơ sở phương án chiến lược được lựa chọn, nhằm đưa phương án này vào cuộc sống với mục đích thúc đẩy ngành CNCBTP nước ta phát triển nhanh, mạnh và vững chắc, tác giả khuyến nghị các điều kiện và đề xuất đối với các chủ thể có liên quan như sau:
3.2.1 Về phía cơ quan Nhà nước
3.2.1.1 Chính phủ
Để phù hợp với các quy định trong WTO, Chính phủ hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong ngành CNCBTP:
Thứ nhất, thông qua nghiên cứu khoa học để tạo ra con giống có năng suất cao, chất lượng tốt. Giống là khâu then chốt, quyết định phần lớn đến năng suất và hiệu quả chăn nuôi. Do vậy, (i) Nhà nước cần có hướng ưu tiên đầu tư cho công tác nghiên cứu lai tạo giống, sản xuất đủ con giống đáp ứng nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài. Để thực hiện thành công giải pháp này, thông qua Bộ NN & PTNT, với vai trò là bộ quản lý ngành, cần rà soát, sắp xếp lại các cơ sở chăn nuôi con giống gốc, trên cơ sở đó lựa chọn các đơn vị có đủ khả năng, điều kiện để đầu tư nghiên cứu phát triển con giống đáp ứng cho nhu cầu phát triển chăn nuôi lớn, tập trung năng suất cao, chất lượng tốt. Ở địa phương, giao nhiệm vụ cho các trung tâm giống, công ty giống của tỉnh hoặc hỗ trợ tổ chức, cá nhân đầu tư, chọn lọc, cải tạo nâng cao năng suất vừa giải quyết một phần nhu cầu con giống cho sản xuất tại chỗ vừa tận dụng nguồn gien quý ở địa phương. Đồng thời, khuyến khích và tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp đầu tư xây dựng trang trại giống ông bà, nhất là tại các địa phương có truyền ngành chăn nuôi phát triển; (ii) rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành một số tiêu chuẩn giống vật nuôi, các quy trình kỹ thuật chăn nuôi, các chương trình khảo, kiểm nghiệm giống; và (iii) tăng cường công tác quản lý Nhà nước về giống vật nuôi. Trên cơ sở việc khảo, kiểm nghiệm, kiểm định giống đó cấp chứng chỉ và công bố chất lượng giống của các cơ sở sản xuất giống trên các phương tiện thông tin đại chúng;
Thứ hai, hỗ trợ cho di dời các cơ sở chăn nuôi, giết mổ, chế biến nhỏ lẻ gia súc, gia cầm đến nơi quy hoạch. Nhằm hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do dịch, bệnh ở gia súc, gia cầm gây ra, ngành chăn nuôi, giết mổ và chế biến thực phẩm phải đảm bảo tuân thủ triệt để quy trình chăn nuôi, giết mổ và chế biến. Để làm tốt công tác này, các ngành đó phải được quy hoạch và sản xuất theo hướng tập trung công nghiệp, quy mô lớn, bằng cách giảm dần số hộ chăn nuôi theo phương thức chăn nuôi truyền thống, tận dụng, phân tán, nhỏ lẻ trong các nông hộ. Trước mắt, các huyện, xã cần kiểm tra, rà soát lại quỹ đất của từng xã, từng huyện; xác định những vùng có thể phát triển trang trại chăn nuôi vừa đảm bảo sử dụng đất có hiệu quả vừa đáp ứng được môi trường sạch. Từ đó, tuỳ theo quỹ đất mà mỗi huyện, xã quy hoạch từ một đến hai vùng chăn nuôi tập trung và di dời những cơ sở chăn nuôi, giết mổ, chế biến không đảm bảo VSTY đến. Thực hiện hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân phải di dời cở sở chăn nuôi, giết mổ, chế biến vật nuôi đến địa điểm mới theo quy hoạch về mức lãi suất và thời hạn được hưởng ưu đãi, về tiền thuê đất, tiền thuế sử dụng đất,..;
Thứ ba, Chính phủ sớm ban hành rào cản kỹ thuật trên cơ sở rà soát lại toàn bộ hệ thống tiêu chuẩn, quy định kỹ thật hiện hành, đồng thời loại bỏ những tiêu chuẩn không còn phù hợp với quy định của WTO. Rào cản kỹ thuật là một trong những rào cản thương mại mà các quốc gia đang phát triển rất khó vượt qua do hạn chế về khoa học kỹ thuật và công nghệ. Bên cạnh đó, các quốc gia phát triển ngày càng dựng lên các rào cản kỹ thuật khắt khe hơn. Vậy, các quốc gia đang phát triển không còn con đường nào khác là phải vượt rào cản đó để bước vào sân chơi WTO – sân chơi toàn cầu. Như vậy, thực hiện giải pháp này nhằm thống nhất các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật của Việt Nam không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn kỹ thuật của WTO và không tạo ra sự phân biệt đối xử trong việc thực thi, đồng thời nhanh chóng đưa tiêu chuẩn Việt Nam hoà nhập với tiêu chuẩn quốc tế;
Thứ tư, khuyến khích các doanh nghiệp: (i) xây dựng mô hình khép kín từ chăn nuôi đến giết mổ, chế biến và tiêu thụ thịt sạch để hình thành vững chắc ngành CNCBTP; (ii) đầu tư chiều sâu các nhà máy giết mổ, đông lạnh xuất khẩu, kết hợp với chế biến thịt nội tiêu theo mô hình của Vissan trên cơ sở rà soát lại các cơ sở chế biến thịt có công suất lớn để nâng cấp, mở rộng; (iii) xây dựng các cơ sở giết mổ tập trung, trang bị cơ khí phù hợp với quy mô 10.000 đến 20.000 tấn/năm, kết hợp với bảo quản mát và kiểm tra thú y chặt chẽ. Các loại gia súc, gia cầm phải được kiểm tra thú y và phải được đưa vào giết mổ tập trung. Các địa phương ven đô xây dựng các lò mổ tập trung với công suất tối thiểu cho gia súc là 100 con/ngày, gia cầm là 1.000 con/ngày. Các trang thiết bị và phương tiện giết mổ phải đảm bảo VSATTP; và
Thứ năm, Chính phủ nên hỗ trợ cho người nghèo được sử dụng thực phẩm sạch bởi giá cả TPCB cao họ không có đủ thu nhập để chi trả (coi đây như một chính sách xã hội để đảm bảo tính mạng, sức khoẻ cộng đồng không chỉ cho hiện tại mà cho cả tương lai của dân tộc).
3.2.1.2 Các Bộ, ngành
- Bộ NN & PTNT, trên cơ sở các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ đạo các sở NN & PTNT và các cơ quan có liên quan thực hiện việc sắp xếp, đổi mới hệ thống chăn nuôi, giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm ở địa phương:
+ Quy hoạch vùng nguyên liệu sạch, tập trung, công nghiệp: (i) đối với đàn lợn: khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, chăn nuôi công nghiệp tại các vùng Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, một số tỉnh Đông Bắc trên cơ sở đảm bảo VSTY và bảo vệ môi trường; (ii) đàn gia cầm: chăn nuôi tập trung, công nghiệp ở các tỉnh trung du, duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng,..nơi có hiệu quả trồng trọt thấp và dễ xử lý môi trường; (iii) đàn bò thịt: tập trung ở Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ,..;
+ Quy hoạch khu giết mổ, chế biến ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước;
+ Quy hoạch hệ thống phân phối sản phẩm: (i) với thực phẩm chế biến: các cơ sở phân phối phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn vệ sinh; (ii) với thực phẩm tươi sống: việc buôn bán phải tập trung tại các chợ đầu mối có sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan thú y).
Đồng thời, Bộ NN & PTNT phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường,..ban hành các quy định liên quan đến sức khoẻ con người, chất thải gây ô nhiêm môi trường; giúp địa phương đào tạo cán bộ kiểm soát giết, mổ động vật.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ đạo các sở KH & ĐT cấp tỉnh xây dựng chính sách ưu đãi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong việc đầu tư xây dựng các cơ sở chăn nuôi, giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập trung, đặc biệt là chế biến sâu.
- Bộ Tài chính, hướng dẫn các sở tài chính các tỉnh triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ, khuyến khích đổi mới chăn nuôi, giết mổ và chế biến gia súc, gia cầm theo hướng tập trung, chế biến sâu.
- Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp cùng Bộ NN & PTNT, Bộ Y tế hướng dẫn và triễn khai áp dụng Hệ thống GHP, GMP, HACCP tại các cơ sở giết mổ, chế biến động vật tập trung, chế biến sâu qui mô lớn.
- Bộ Văn hoá và Thông tin, đài, báo Trung ương phối hợp cùng Bộ NN & PTNT tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức về chất lượng và VSATTP cho cả người sản xuất và người tiêu dùng. Định hướng là chăn nuôi, giết mổ, chế biến tập trung, chế biến sâu theo quy hoạnh. Trước mắt, chưa thể xoá bỏ ngay tình trạng này, do đó công tác tuyên truyền vận động là vô cùng quan trọng. Xã hội hoá hoạt động này để đảm bảo chất lượng VSATTP, cung cấp một cách đầy đủ thông tin và kiến thức cho mọi người về việc nhận biết, phòng tránh các nguy hại do việc sử dụng thực phẩm không an toàn.
3.2.1.3 U ỷ ban nhân dân các cấp
UBND cấp tỉnh, chỉ đạo các ngành nông nghiệp, tài nguyên môi trường, UBND cấp huyện triển khai việc quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống chăn nuôi, giết mổ và chế biến động vật. Cụ thể hoá chính sách ưu đãi về việc giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức, cá nhân đầu tư chăn nuôi, giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm. Sử dụng ngân sách địa phương hỗ trợ xây dựng hạ tầng kỹ thụât cho các khu chăn nuôi, giết mổ, chế biến tập trung, chế biến sâu theo quy hoạch.
UBDN cấp huyện, xã: trên cơ sở chỉ đạo của cấp trên và đặc thù của địa phương, triển khai thực hiện các phương án đã được phê duyệt.
3.2.2 Về phía doanh nghiệp
Một là, các doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh thích nghi cao với hội nhập, trong đó chiến lược về con người là quan trọng nhất, trên cơ sở nghiên cứu bối cảnh trong nước và quốc tế, cùng với việc xác định điểm mạnh, điểm yếu của mỗi doanh nghiệp giúp cho việc phân tích và lựa chọn chiến lược kinh doanh sát thực nhằm tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, với khả năng và lợi thế của doanh nghiệp. Thực hiện chế biến sâu tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, đảo bảo các tiêu chuẩn quốc tế, các doanh nghiệp cần tăng cường công tác nghiên cứu, khai thác thị trường. Để thực hiện thành công chiến lược đó, hàng năm các doanh nghiệp cần xác định các yếu tố trọng điểm, mũi nhọn cần ưu tiên để đầu tư và tập trung nguồn lực để thực hiện dứt điểm, nhanh chóng tạo ra sản phẩm mới đáp ứng kịp thời nhu cầu người tiêu dùng trong và ngoài nước;
Hai là, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được xác định dựa trên yếu tố chi phí thấp và cá biệt hoá. Với năng lực cạnh tranh dựa trên chi phí thấp, doanh nghiệp cần tập trung khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có để hạ thấp giá thành, hoặc khai thác lợi thế theo quy mô hoặc áp dụng hệ thống quản lý mới để tiết kiệm chi phí, nâng cao giá trị tăng thêm cho sản phẩm; với năng lực cạnh tranh dựa trên sự khác biệt hoá bằng cách tạo ra sự khác biệt về chất lượng, thương hiệu, dịch vụ hậu mãi,..;
Ba là, làm tốt khâu nguyên liệu: các doanh nghiệp cần chú trọng kiểm soát nguồn nguyên liệu đầu vào thông qua xây dựng cho mình nguồn nguyên liệu đầy đủ, ổn định, chất lượng và an toàn bằng cách hỗ trợ người chăn nuôi trong việc tìm kiếm con giống, sử dụng thuốc chữa bệnh, sử dụng thức ăn chăn nuôi hoặc doanh nghiệp hỗ trợ một phần vốn sản xuất để các cơ sở cung ứng có điều kiện tốt hơn trong việc phối hợp cùng doanh nghiệp đảm bảo chất lượng nguyên liệu đầu vào và đảm bảo chất lượng VSTY; ký hợp đồng cung ứng với các nhà chăn nuôi, liên doanh liên kết hoặc tự mình đầu tư chăn nuôi. Để từ đó, doanh nghiệp dễ dàng kiểm soát được chất lượng, ổn định và hạ thấp được chi phí đầu vào;
Bốn là, không ngừng đổi mới công nghệ chế biến: công nghệ chế biến góp phần quan trọng trong việc hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Do vậy, để nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là trong chế biến sâu, doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng đổi mới thiết bị, dây chuyền công nghệ giết mổ, chế biến, bảo quản, áp dụng quy trình quản lý sản xuất tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời, đa dạng hoá công nghệ sản xuất để tạo ra sản phẩm theo truyền thống Việt Nam, theo kiểu phương Tây,..;
Năm là, xây dựng, phát triển và quảng bá thương hiệu: để đảm bảo việc phát triển bền vững trên thị trường, doanh nghiệp cần có thương hiệu lớn. Do vậy, các doanh nghiệp trong ngành cần chú trọng đến vấn đề này. Trong điều kiện vi phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nước ta hiện nay còn phổ biến, chưa được khắc phục triệt để, vì thế các doanh nghiệp cần đăng ký thương hiệu của mình với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tránh tình trạng để xảy ra tranh chấp mới thực hiện thì đã quá muộn. Để xây dựng thương hiệu lớn đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược phát triển dài hạn về mọi mặt như chất lượng, mẫu mã, bao bì, vấn đề VSATTP, hệ thống quản lý chất lượng ISO, dịch vụ sau bán hàng;
Sáu là, làm tốt công tác marketing, đẩy mạnh xúc tiến thương mại mở rộng thị trường, để thị phần không ngừng mở rộng, các doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm thị trường, bằng cách hình thành bộ phận nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sản phẩm mới, tìm hiểu nhu cầu khách hàng, quan hệ truyền thông (PR),..và cả dịch vụ sau bán hàng. Tham gia giới thiệu sản phẩm tại hội chợ thương mại, tại các hội thảo, trên các trang web. Đồng thời, xây dựng và phát triển mạng lưới phân phối hiệu quả dựa trên các nghiên cứu đã hoàn thiện thông qua phân khúc thị trường để phục vụ khách hàng nhanh nhất, tốt nhất;
Bảy là, vì người tiêu dùng mà tăng cường hơn nữa việc kiểm soát toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng và an toàn: xây dựng và hoạt động theo hệ thống quản lý chất lượng, tăng cường việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và hệ thống kiểm soát vệ sinh an toàn trong các doanh nghiệp. Áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình sản xuất chế biến thực phẩm như: HACCP, ISO 9000 (Hệ thống tiêu chuẩn về quản lý chất lượng), ISO 14000: 2004 (Tiêu chuẩn về quản lý môi trường), SA 8000 (Tiêu chuẩn đạo đức trong sản xuất hàng hoá của doanh nghiệp) và OHSAS 18001 (Hệ thống đánh giá An toàn và Sức khoẻ nghề nghiệp). Đây là một trong những giải pháp phát triển bền vững với các doanh nghiệp chế biến thực phẩm. Với việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng này, các doanh nghiệp có điều kiện kiểm soát toàn diện quá trình hình thành chất lượng và các yếu tố VSATTP, phát hiện và ngăn ngừa các mối nguy hại tiềm ẩn đối với sức khoẻ của người tiêu dùng. Để từ đó mỗi sản phẩm sản xuất ra đều đảm bảo bằng những tiêu chuẩn được thế giới công nhận;
Tám là, trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh diễn ra khốc liệt, các doanh nghiệp ngành CNCBTP cần ý thức được vai trò hỗ trợ của Chính phủ, phối hợp chặt chẽ với cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt là trong trường hợp có tranh chấp phát sinh hoặc xuất hiện những rào cản khi tham gia cung cấp sản phẩm cho thị trường thế giới, tìm hiểu thị trường nước nhập để đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của họ; chú trọng đầu tư hệ thống quản lý chất lượng và quy cách kỹ thuật của sản phẩm trên cơ sở quốc gia và quốc tế, qua đó đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng trên thị trường quốc tế; và
Chín là, ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử trong các giao dịch thương mại nhằm rút ngắn thời gian và khoảng cách, tăng khả năng thu thập thông tin, quảng bá thương hiệu rộng rãi.
3.2.3 Với các chủ thể khác
Đối với các nhà khoa học: nghiên cứu và cho ra đời con giống có chất lượng cao, bởi giống là khâu then chốt quyết định phần lớn đến năng suất và hiệu quả chăn nuôi cũng như chất lượng của ngành giết mổ, chế biến; nghiên cứu, cải tiến để tạo ra máy móc, thiết bị dây chuyền phục vụ cho giết mổ, chế biến với giá thành hạ, thay thế sản phẩm nhập ngoại; nghiên cứu và tư vấn cho các nhà chính trị về chính sách và giải pháp phát triển CNCBTP trong điều kiện hội nhập.
Đối với các nhà chăn nuôi: hiện nay, nước ta có khoảng 7 triệu hộ và trên 16.000 trang trại chăn nuôi. Đây là nguồn cung cấp các sản phẩm chăn nuôi phục vụ cho tiêu dùng hàng ngày của xã hội và cho ngành CNCBTP. Tuy nhiên, quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán nên hiệu quả chăn nuôi không cao. Theo đề án chăn nuôi của Bộ NN & PTNT thì phấn đấu đến năm 2010 giảm số hộ chăn nuôi xuống còn khoảng 5 triệu hộ và tăng số trang trại chăn nuôi tập trung theo hướng cung cấp sản phẩm sạch. Để làm được điều đó, đòi hỏi các hộ, các trang trại chăn nuôi phải tuân thủ triệt để quy trình chăn nuôi: địa điểm chăn nuôi theo quy hoạch, đảm bảo VSTY, vệ sinh môi trường, quy trình phòng và chữa bệnh, sản phẩm đem tiêu thụ bắt buộc phải có chứng nhận của cơ quan thú y; bày bán, giết mổ, chế biến tại các khu đã được quy hoạch.
Tăng cường liên kết bốn Nhà nhằm kết nối, giải quyết triệt để, giải quyết tận gốc nhiều vấn đề từ khâu nghiên cứu, triển khai, đến chăn nuôi, thu gom, giết mổ, chế biến, lưu thông và cả chính sách áp dụng để thực hiện việc đưa công nghệ vào sản xuất, đưa chính sách vào cuộc sống nhanh hơn, sát thực hơn.
Phát huy vai trò của các Hội, Hiệp hội ngành nghề, vì đây là tổ chức tự nguyện liên kết các doanh nghiệp, không vì mục đích lợi nhuận nhằm phát huy tính năng động, tích cực của doanh nghiệp. Hoạt động của hiệp hội nhằm thực hiện những nhiệm vụ mà Nhà nước không nên làm hoặc nếu làm cũng không hiệu quả, đồng thời cũng để bổ sung cho thị trường, khắc phục những khuyết tật của thị trường. Hiệp hội thực hiện chức năng là trung tâm đầu mối tập hợp, phân tích và xử lý thông tin thị trường, là cầu nối giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước, bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong ngành thông qua thương lượng và giải quyết các tranh chấp quốc tế.
KẾT LUẬN
Ngành CNCBTP Việt Nam ra đời từ rất sớm. Do ngành sử dụng phần lớn đầu vào là sản phẩm của ngành nông nghiệp, do vậy, có thể nói rằng CNCBTP phát triển cùng sự tiến bộ của ngành nông nghiệp.
Theo quan điểm và mục tiêu của Đảng thể hiện qua các kỳ đại hội, ngành CNCBTP nước ta được xếp vào nhóm ngành có lợi thế cạnh tranh và cần được hỗ trợ, ưu tiên phát triển. Cần có chính sách phù hợp để đưa ngành này trở thành ngành công nghiệp trọng điểm của đất nước. Sự phát triển của CNCBTP không chỉ có vai trò quan trọng đối với bản thân ngành mà còn với các ngành kinh tế khác, đặc biệt là với ngành nông nghiệp – ngành cung cấp phần lớn đầu vào cho CNCBTP và là nơi sinh sống của khoảng 75% dân số với 55% lao động cả nước. Do vậy, phát triển CNCBTP tạo điều kiện phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, thúc đẩy CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn, đồng thời, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập. Ngoài ra, phát triển CNCBTP góp phần phát triển nền công nghiệp sạch, tạo ra sản phẩm sạch có chất lượng cao, bảo đảm VSATTP.
CNCBTP nước ta đã có những đóng góp rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đặc biệt là việc nâng cao vị thế của Vịêt Nam trên trường quốc tế sau 20 năm đất nước đổi mới bằng việc góp phần đưa một số nông sản chế biến có thứ hạng cao trên thế giới. Hiện nay, ngành CNCBTP và đồ uống nước ta chiếm tỷ trọng trên 20% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp.
Việt Nam là nước nông nghiệp. Hàng năm, chúng ta sản xuất ra khối lượng thịt hơi xuất chuồng lớn, song ngành CNCBTP của ta còn lạc hậu nên tỷ lệ thịt qua chế biến chiếm tỷ lệ rất thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao và không đảm bảo VSATTP, vì thế, chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và chưa thâm nhập được thị trường thế giới. Thêm vào đó, Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, thịt và các sản phẩm chế biến từ thịt giả rẻ, chất lượng cao, đảm bảo VSATTP, đa dạng chủng loại có thêm cơ hội tràn vào nước ta khi hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dỡ bỏ, khiến ngành CNCBTP Việt Nam vốn dĩ yếu kém nay còn đứng trước thách thức, khó khăn khôn lường mặc dù chúng ta có nhiều thế mạnh, nhiều lợi thế cũng như những cơ hội trong việc phát triển ngành.
Trong luận văn này, tác giả sử dụng mô hình “kim cương” để đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh và mô hình SWOT để lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành CNCBTP của Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh và thông qua nghiên cứu tác động của việc hội nhập WTO đối với phát triển ngành CNCBTP của Việt Nam, tác giả đưa ra bảng phân tích SWOT cho ngành thông qua phân tích bốn yếu tố: Điểm mạnh (S), Điểm yếu (W), Cơ hội (O) và Thách thức (T). Qua đó, đưa ra 3 phương án chiến lược phát triển cho ngành trong thời gian tới. Thông qua phân tích và đánh giá tác giả lựa chọn phương án 1: ”Phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam theo hướng tăng cường sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao thông qua chế biến sâu đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu” là phương án chiến lược phát triển của ngành CNCBTP nước ta trong thời gian tới.
Trên cơ sở phương án chiến lược được lựa chọn, luận văn đưa ra một số đề xuất có tính chất khuyến nghị đối với các chủ thể có liên quan, gồm: (i) cơ quan Nhà nước: Chính phủ; các Bộ, ngành; Uỷ ban nhân dân các cấp; (ii) các doanh nghiệp; và (iii) các chủ thể khác nhằm thực hiện phương án chiến lược đó với mục đích đưa ngành CNCBTP nước ta phát triển ngang tầm các nước trong khu vực và thế giới,
Lựa chọn phương án chiến lược phát triển cho một ngành, lĩnh vực là vấn đề lớn và phức tạp. Mặc dù, bản thân tác giả đã cố gắng rất nhiều, song nếu có sự tham khảo ý kiến của các nhà lãnh đạo chính trị, các chuyên gia, các nhà quản lý doanh nghiệp thì sẽ có thể kết hợp được nhiều phương án để đưa ra phương án tối ưu nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
1. Dương An (2006), “Những lợi thế trong hỗ trợ cho Ngành Nông nghiệp hậu WTO”, Tạp chí Thương mại, (Số 40), trang 5-6.
2. Trần Kim Anh (2006), “Ngành Chăn nuôi với vấn đề xuất khẩu thịt lợn”, Tạp chí Chăn nuôi, (Số 4), trang 30 – 32.
3. Bộ Công nghiệp, Về chiến lược phát triển Công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, Bài phát biểu của đại diện Bộ Công nghiệp tại Hội thảo quốc tế “Xây dựng và thực hiện chiến lược công nghiệp Việt Nam” ngày 23.3.2005 tại Hà Nội.
4. Bộ NN & PTNT (2006), Đề án đổi mới chăn nuôi, giết mổ và chế biến gia cầm theo hướng tập trung, công nghiệp giai đoạn 2006-2015, Hà Nội.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Tổng kết chăn nuôi giai đoạn 2001-2005, kế hoạch phát triển 2006-2010 và định hướng 2015, Hà Nội.
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – CEG/AusAID (2005), WTO & Ngành Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.
7. Bộ NN & PTNT (2003), Thông tin phục vụ lãnh đạo, (Số 10).
8. Bộ NN & PTNT (2004), Thông tin phục vụ lãnh đạo, (Số 9).
9. CEG, Tác động của tự do hoá thương mại đối với Ngành Chăn nuôi Việt Nam, 2005.
10. Chính phủ CHXHCN Việt Nam, Chiến lược phát triển KT – XH 2001-2010.
11. Chính phủ CHXHCN Việt Nam, Chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2010, tầm nhìn 2020.
12. Chính phủ CHXHCN Việt Nam, Kế hoạch phát triển Ngành Công nghiệp 5 năm 2005-2010.
13. Cục Chế biến Nông Lâm sản và nghề Muối – MARD (2006), Báo cáo tại Hội thảo dây chuyền giết mổ, chế biến thịt hiện đại, Hà Nội.
14. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), các Báo cáo Phát triển Thế giới.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. TS. Lê Huy Đức (Đồng chủ biên - 2003), Giáo trình Dự báo phát triển kinh tế - xã hội, Đại học KTQD, Nxb Thống kê, Hà Nội.
17. Hoàng Kim Giao (2006), “Chăn nuôi nước ta năm 2005 và hướng phát triển trong thời gian tới”, Tạp chí Chăn nuôi, (Số 4), trang 20-23.
18. GS.TS. Ngô Đình Giao (1998), Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Lê Thế Giới, Xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp nhằm đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam.
20. Lê Xuân Hoa (1997), Phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong Hệ thống Tài khoản Quốc gia Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
21. Hiến Pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. PGS.TS. Ngô Thắng Lợi (Chủ biên - 2006), Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển Kinh tế – Xã hội, Trường Đại học KTQD, Nxb Thống kê, Hà Nội.
23. GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình Kinh tế Phát triển, Trường Đại học KTQD, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
24. TS. Nguyễn Trần Quế, Nghiên cứu phương pháp phản ánh và phân tích về năng lực cạnh tranh, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới.
25. Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ NN & PTNT; Bộ trưởng Bộ Y tế; Bộ trưởng Bộ Công nghiệp liên quan đến đề tài.
26. Nguyễn Thanh (2006), “Ngành Chăn nuôi Việt Nam – cơ hội và thách thức khi hội nhập WTO”, Tạp chí NN & PTNT, Kỳ I - Tháng 10.
27. Trương Đoàn Thể (2000), Đổi mới công tác quản lý chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, ĐH KTQD, Hà Nội.
28. TCTK, Niên giám Thống kê 2003, 2004 và 2005, Nxb Thống kê.
29. TCTK (2006), Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế – xã hội 2006.
30. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2006), Thông tin phục vụ Lãnh đạo, (Số 10), Hà Nội.
31. Bùi Đức Tuân (2006), “Phân tích năng lực cạnh tranh ngành: tiếp cận thông qua mô hình kim cương”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học KTQD, (Số 10), trang 57.
32. Nguyễn Anh Tuấn (2006), “Đổi mới ngành giết mổ, chế biến gia cầm theo hướng tập trung, công nghiệp”, Tạp chí NN & PTNT, Kỳ I - Tháng 6.
33. Nguyến Anh Tuấn (2007), “Chăn nuôi trang trại 2001-2006 và một số giải pháp phát triển giai đoạn 2007-2015”, Tạp chí NN & PTNT, Kỳ II-Th.1, tr.8-9.
34. Hoàng Thị Tuyết (2004), “Thực trạng Công nghệ Sau thu hoạch ở Việt Nam”, Tạp chí NN & PTNT, (Số 2).
35. TS. Nguyễn Viết Tý (Chủ biên, 2006), Giáo trình Luật thương mại Tập I, Trường Đại học Luật HN, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
36. TS. Nguyễn Đăng Vang (2006), Gia nhập WTO – Thách thức cho ngành chăn nuôi trong nước, trang 1.
37. Tổng hợp từ các trang web:
- agroviet.gov.vn
- mof.gov.vn
- mot.gov.vn
- irv.moi.gov.vn
- vinanet.gov.vn
II. TIẾNG ANH
38. The Food – Processing Industry in Indian.
39. Ministry of Food Processing Industries Govt of India - Food Processing Policy.
40. What’s Swot in Strategic Analysis?
41. Micheal PORTER (1990), The Competitive Advantage of Nation, Macmillan.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-T13.doc