Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Tài liệu Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam: I.CÁC MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ LÝ THUYẾT Để nghiên cứu kinh tế, các nhà kinh tế học thường sử dụng mô hình hay học thuyết. Các mô hình là khuôn mẫu để tổ chức phương pháp tư duy về một vấn đề. Các mô hình được đơn giản hoá bằng cách bỏ qua một vài chi tiết mang tính ngẫu nhiên, qua đó tập trung vào các điểm chính yếu, từ đó giúp chúng ta triển khai phân tích xem nền kinh tế hoạt động thế nào. Giữa mô hình kinh tế và số liệu thực tế có mối quan hệ chặt chẽ, các số liệu tương tác với mô hình... Ebook Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2003 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
theo hai hướng: số liệu giúp lượng hoá các quan hệ mà mô hình lý thuyết quan tâm; số liệu giúp ta kiểm nghiệm mô hình. Vậy, mô hình kinh tế chính là cách thức diễn đạt những con đưòng, hình thái, nội dung phát triển kinh tế của các quốc gia thông qua các biến số, các nhân tố kinh tế trong quan hệ chặt chẽ với các điều kiện chính trị, xã hội. Các mô hình có thể được diễn đạt dưới dạng lời văn, biểu đồ, đồ thị hoặc phương trình toán học 1.Mô hình cổ điển Được hình thành cách đây 200 năm bởi Adam Smith và Ricardo, mô hình này có những nội dung căn bản sau: Yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Trong ba yếu tố trên thì đất đai là yếu tố quan trọng nhất, là giới hạn của sự tăng trưởng. Xã hội phân chia thành 3 nhóm người: địa chủ, tư bản và công nhân. Sự phân phối thu nhập của ba nhóm này phụ thuộc vào quyền sở hữu của họ đối với các yếu tố sản xuất. Địa chủ có đất thì nhận địa tô, tư bản có vốn thì nhận lợi nhuận, công nhân có sức lao động thì nhận tiền công. Cách phân phối này được họ cho là hợp lý. Vậy, thu nhập xã hội=địa tô+lợi nhuận+tiền công Trong 3 nhóm người này, thì nhà tư bản giữ vai trò quan trọng trong cả sản xuất, tích luỹ và phân phối. Họ đứng ra tổ chức sản xuất, giành lại một phần lợi nhuận để tích luỹ và chủ động trong quá trình phân phối. Các nhà kinh tế học cổ điển còn cho rằng, hoạt động của các chủ thể kinh tế bị chi phối bởi bàn tay vô hình-cơ chế thị trường, phủ nhận vai trò của nhà nước, cho rằng đây là cản trở cho phát triển kinh tế. 2.Mô hình của Các-Mác Theo Mác, các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động, vốn, tiến bộ kĩ thuật Mác đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư. Theo Mác, sức lao động đối với nhà tư bản là một loại hàng hoá đặc biệt. Trong quá trình nhà tư bản sử dụng lao động, hàng hoá sức lao động tạo ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó, giá trị đó bằng giá trị sức lao động dành cho bản thân người lao động, cộng với giá trị thặng dư dành cho tư bản và địa chủ. Về yếu tố vốn và tiến bộ kĩ thuật, Mác cho rằng mục đích của các nhà tư bản là tăng giá trị thặng dư, tuy nhiên, việc tăng sức lao động cơ bắp cảu người công nhân cần dựa vào cải tiến kĩ thuật. Tiến bộ kĩ thuật làm tăng số máy móc và dụng cụ lao động, nghĩa là cấu tạo hữu cơ của tư bản C/V có xu hướng tăng lên. Do đó, các nhà tư bản cần nhiều tiền vốn hơn để mua máy móc, trang thiết bị, ứng dụng công nghệ mới. Cách duy nhất để gia tăng vốn là tiết kiệm. Vì vậy, các nhà tư bản chia giá trị thặng dư ra hai phần: một phần để tiêu dùng, một phần tích luỹ phát triển sản xuâts. Đó là nguyên lý tích luỹ của chủ nghĩa tư bản. Cũng như các nhà kinh tế học cổ điển, Mác cho rằng khu vực sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội gồm 3 nhóm: địa chủ, tư bản, công nhân. Tương ứng, thu nhập của họ là địa tô, lợi nhuận và tiền công. Tuy nhiên, sự phân phối này mang tính bóc lột: thực chất là 2 giai cấp: bóc lột và bị bóc lột. Các nhà kinh tế trước Mác chỉ phân biệt rõ hai thuộc tính có mâu thuẫn của hàng hoá: Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Trái lại, Mác khẳng định rằng hàng hoá là sự thống nhất biện chứng của hai mặt: giá trị sử dụng và giá trị. Mác là người đầu tiên đưa ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá và xây dựng lý luận về tư bản bất biến, tư bản khả biến, hoàn thiện việc phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Về mặt giá trị: Mác đã phân chia sản phẩm xã hội thành 3 phần c+v+m , trên cơ sở đó, Mác cho rằng : Tổng sản phẩm xã hội=c+v+m Tổng thu nhập quốc dân=v+m C: tư bản bất biến V: tư bản khả biến M: giá trị thặng dư Về mặt hiện vật, Mác chia làm hai khu vực: Khu vực 1: sản xuất ra tư liệu sản xuất Khu vực 2: sản xuất ra tư liệu tiêu dùng Về quan hệ cung cầu và vai trò của nhà nước: trong khi phân tích chu kì kinh doanh và khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản, Mác cho rằng, khủng hoảng thừa do thiếu số cầu tiêu thụ, đây là biểu hiện của mức tiền công giảm và mức tiêu dùng của cá nhân nhà tư bản cũng giảm vì khát vọng tăng tích luỹ. Muốn giải thoát khỏi khủng hoảng, nhà nước phải có những biện pháp kích cầu nền kinh tế. Như vậy, Mác đã đặt nền tảng đầu tiên cho xác định vai trò của nhà nước trong điều tiết cung cầu kinh tế 3.Mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế Vào cuối thế kỉ 19, cùng với sự tiến bộ của kho học và công nghệ , trường phái kinh tế tân cổ điển ra đời. Bên cạnh một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế tương đồng cùng trường phái cổ điển nhưu sự tự điều tiết của bàn tay vô hình, mô hình này có các quan điểm mới sau: Đối với các nguồn lực về tăng trưởng kinh tế, mô hình nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của vốn. Từ đó họ đưa ra hai khái niệm: Phát triển kinh tế theo chiều sâu: tăng trưởng dựa vào sự gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động Phát triển kinh tế theo chiều rộng: tăng trưởng dựa vào sự gia tăng vốn tương ứng với sự gia tăng lao động Để chỉ quan hệ giữa gia tăng sản phẩm và tăng đầu vào, họ sử dụng hàm sản xuất Cobb Douglass Y=F(k,l,r,t) Sau khi biến đổi, Cobb-Douglass thiết lập mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng các biến số: g=t+ak+bl+cr Trong đó: G: tốc độ tăng trưởng GDP K,l,r: tốc độ tăng của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài nguyên T phần dư còn lại, phản ánh tác động khoa học kĩ thuật A, b, c: các hệ số, phản ánh tỉ trọng của các yếu tố đầu vào trong tổng sản phẩm: a+b+c=1 :thể hiện hiệu suất không đổi theo quy mô. 4.Mô hình của Keynes về tăng trưởng kinh tế Nhấn mạnh vai trò của tổng cầu trong xác định sản lượng của nền kinh tế: sau khi phân tích các xu hướng biến đổi của tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, và ảnh hưởng của chúng đến tổng cầu , khẳng định cần thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao tổng cầu và việc làm trong xã hội Nhấn mạnh vai trò điều tiết của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế. Những chính sách làm tăng tiêu dùng: tác động vào tổng cầu nhưu: sử dụng ngân sách nhà nước để kích thích đầu tư thông qua các đơn đặt hàng của nhà nước và trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp, giảm lãi suất ngân hàng để khuyến khích đầu tư, đánh giá cao vai trò của hệ thống thuế, công trái nhà nước để bổ sung ngân sách, tăng đầu tư của nhà nước vào các công trình công cộng và một số biện pháp hỗ trợ khác khi đầu tư tư nhân giảm sút Phát triển tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 của thế kỉ 20, hai nhà kinh tế học là Harod nguời Anh và Domar người Mĩ đưa ra mô hình xem xét mối quan hệ tăng trưởng với các nhu cầu về vốn g=s/k=i/k Trong đó: G: tốc độ tăng trưởng S: tỉ lệ tiế kiệm I: tỉ lệ đầu tư K: hệ số ICOR: hệ số gia tăng tư bản- đầu ra Hệ số ICOR phản ánh trình độ kĩ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư (để tăng 1 đồng tổng sản phẩm cần k đồng vốn) Mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại của P.A. Samuelson-hỗn hợp Sau một thời gian áp dụng mô hình kinh tế chỉ huy của Keynes, quá nhấn mạnh tới vai trò bàn tay hữu hình của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, hạn chế bàn tay vô hình, tạo trở ngại cho quá trình tăng trưởng. Các nhà kinh tế học của trường phái hỗn hợp ủng hộ việc xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp. Trên thực tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng mô hình kinh tế hỗn hợp ở những mức độ khác nhau, vì thế , đây được coi là mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại, nội dung cơ bản của nó là: Giống mô hình của Keynes, quan niệm sự cân bằng của kinh tế xác định tại giao AS và AD Thống nhất với mô hình kinh tế tân cổ đển, mô hình kinh tế học hiện đại cho rằng, tổng mức cung của nên kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, đó là tài nguyên, lao động, vốn, khoa học công nghệ. Thống nhất với kiểu phân tích của hàm sản xuât Cobb-Douglass về sự tác động của các yếu tố trên với tăng trưởng. Các nhà kinh tế học hiện đại cũng thống nhất với mô hình Harrod-Domar về vai trò tiết kiệm và vốn đầu tư trong tăng trưỏng kinh tế. Chính vì thế , nhiều người cho rằng mô hình kinh tế hỗn hợp là sự xích lại gần nhau của học thuyết kinh tế tân cổ điển và học thuyết kinh tế của Keynes. II.BÀI HỌC KINH NGHIỆM Vừa qua, nhóm giáo sư thuộc Trường Fulbright và Chương trình Việt Nam của ĐH Harvard đã đưa ra bản báo cáo khuyến nghị chiến lược phát triển kinh tế -xã hội mang tên "LỰA CHỌN THÀNH CÔNG: BÀI HỌC TỪ ĐÔNG Á VÀ ĐÔNG NAM Á CHO TƯƠNG LAI VIỆT NAM ". Bản báo cáo gồm các phần: Câu chuyện về hai mô hình phát triển, Duy trì tăng trưởng bền vững và công bằng, Khuyến nghị chính sách... Phần đầu bản báo cáo so sánh giữa "mô hình Đông Á" (Hàn Quốc, Đài Loan...) với "mô hình Đông Nam Á" (Phi-lip-pin, In-đô-nê-xia...) và nhấn mạnh: "Các nước Đông Á thành công là nhờ có chính sách đúng đắn trong 6 lĩnh vực then chốt, bao gồm giáo dục, cơ sở hạ tầng và đô thị hóa, doanh nghiệp cạnh tranh quốc tế, hệ thống tài chính, hiệu năng của Nhà nước, và công bằng. Sự tiếp nối thành công của Việt Nam cũng sẽ phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách trong 6 lĩnh vực này...". Chúng tôi xin lược thuật phần đầu bản báo cáo này. 1.Giáo dục Các nước Đông Á có một tầm nhìn chiến lược toàn diện cho sự phát triển nguồn lực con người. Hoạt động dạy nghề ở các nước này cung cấp cho dân di cư từ nông thôn ra thành thị những kỹ năng cần thiết để họ có thể tìm được việc trong các nhà máy với mức thu nhập tốt hơn. Mức độ tiếp cận giáo dục đại học của các nước này được mở rộng một cách nhanh chóng, trong đó đáng lưu ý là giáo dục kỹ thuật và công nghệ. Chẳng hạn như vào năm 1971, số kỹ sư ở các nước có mức thu nhập trung bình thời đó là 4,6/1.000 dân, trong khi ở Đài-loan và Sing-ga-po, con số này lần lượt là 8 và 10. Các nước Đông Á dành một sự ưu tiên cao độ cho các trường đại học nghiên cứu đẳng cấp, nơi đào tạo ra những kỹ sư, nhà khoa học, giám đốc, và quan chức Chính phủ để đáp ứng nhu cầu của một xã hội nay đã trở nên phức tạp và tinh vi hơn. Ngày nay, nhiều trường đại học của Trung Quốc, Hàn Quốc, và Đài Loan nằm trong danh sách 100 trường đại học hàng đầu của Châu Á theo xếp hạng của trường Đại học Giao thông Thượng Hải. Ngoài Sing-ga-po ra thì không có một nước Đông Nam Á nào có trường đại học nằm trong danh sách này. 2.Cơ sở hạ tầng và Đô thị hóa   Tăng trưởng GDP trên đầu người, 1960 - 2004 Nguồn: Những Chỉ báo Phát triển Thế giới (World Development Indicators) Xây dựng CSHT cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa nhanh đòi hỏi các nguồn lực của Chính phủ phải được sử dụng một cách hiệu quả. Ở đây cũng vậy, trừ Trung Quốc ra, các nước Đông Á đạt được những kết quả đáng tự hào hơn nhiều so với các nước Đông Nam Á. Chỉ cần so sánh Tokyo, Seoul và Taipei với Bangkok, Manila, và Jakarta là đã có thể thấy sự khác biệt to lớn: thành phố ở các nước Đông Á là động lực cho tăng trưởng và đổi mới kinh tế, trong khi thành phố ở các nước Đông Nam Á ô nhiễm, ùn tắc, đắt đỏ, và ngập lụt. Nghèo đói, tội phạm và sự bất lực trong việc cung cấp các dịch vụ đô thị cơ bản như giao thông, điện, nước sạch là những tai họa của các thành phố Đông Nam Á... Bên cạnh sự thất bại trong quản lý đô thị, các nước Đông Nam Á còn có xu hướng đầu tư quá mức vào các dự án khổng lồ mà trong hầu hết trường hợp đều chứng tỏ là chưa cần thiết và lãng phí. Nói chung, các nước Đông Á thường thận trọng hơn và chỉ đầu tư để nâng cao công suất khi cần thiết. Tại sao các nước Đông Á lại thành công hơn các nước Đông Nam Á nhiều đến thế? Một nhân tố quan trọng là các quyết định về CSHT ở các nước này do các nhà kỹ trị ít chịu áp lực chính trị thực hiện. Ngược lại, ở các nước Đông Nam Á, các quyết định đầu tư của Nhà nước thường bị chi phối và thao túng bởi các nhóm lợi ích đặc biệt. 3. Doanh nghiệp cạnh tranh quốc tế Ở các nước Đông Á, khi nhà nước hỗ trợ cho một ngành công nghiệp nào đó, hay thậm chí một doanh nghiệp cá biệt nào đó, thì nói chung, ngành công nghiệp hay doanh nghiệp này đều biết ngay từ đầu rằng sự hỗ trợ này chỉ có tính tạm thời và rằng họ sẽ phải xuất khẩu sau một vài năm để có thể tự tồn tại. Quy tắc này được gọi là “xuất khẩu hay là chết”. Các nước Đông Á thực hiện một chính sách kiên trì nhiều khi đến cực đoan trong việc theo đuổi kỹ năng, công nghệ, và tri thức tiên tiến để có thể giúp các doanh nghiệp của mình xâm nhập thị trường sản phẩm mới và hiện đại hóa quá trình sản xuất. Trái lại, In-đô-nê-xia và Thái-lan đang cố gắng thu hút một lượng lớn FDI nhưng nhìn chung lại không tạo ra được môi trường hỗ trợ các doanh nghiệp trong và ngoài nước bước lên những bậc thang công nghệ cao hơn.   Các nước Đông Á thực hiện một chính sách kiên trì nhiều khi đến cực đoan trong việc theo đuổi kỹ năng, công nghệ, và tri thức tiên tiến Một bài học quan trọng thứ hai từ Đông Á là thương mại quốc tế không chỉ tạo ra sức ép cạnh tranh mà nó còn là một thước đo chính xác cho năng lực cạnh tranh của các công ty nội địa. Các công ty xuất khẩu thành công của Hàn Quốc được Chính phủ thưởng công một cách hào phóng thông qua việc ưu đãi các công ty này trong việc thâm nhập thị trường nội địa và thực hiện các hợp đồng của Chính phủ. Đồng thời, các công ty thất bại trong hoạt động xuất khẩu bị “trừng phạt” một cách thích đáng. Nếu đối chiếu với kinh nghiệm của Đông Nam Á thì các nước này đã bảo hộ nhiều ngành công nghiệp trong một thời gian khá dài, dẫn đến việc lãng phí những nguồn lực khổng lồ và quý báu, trong khi lại chỉ tạo ra những doanh nghiệp ỷ lại, thụ động, và kém cạnh tranh, đặc biệt là trong khu vực nhà nước. Ô-tô Proton của Ma-lay-xia và Thép Krakatau của In-đô-nê-xia là hai ví dụ về hậu quả tai hại của chính sách vươn tới bậc thang công nghệ cao hơn trong điều kiện được bảo hộ lâu dài. Ngành công nghiệp thép của In-đô-nê-xia đang hấp hối sau 30 năm được bảo hộ. Cùng cần phải nhấn mạnh rằng nói chung các biện pháp bảo hộ không được chấp nhận trong khuôn khổ WTO, vì vậy Việt Nam cần chấm dứt chiến lược thay thế hàng nhập khẩu để chuyển hẳn sang định hướng xuất khẩu. 4.Hệ thống tài chính Các nước Đông Á dành một phần lớn thu nhập quốc dân cho các hoạt động đầu tư, và họ đã đầu tư một cách hiệu quả. Đài Loan tăng trưởng ngoạn mục 10% trong suốt gần 20 năm, từ 1962 cho đến 1980, trong khi chỉ cần đầu tư khoảng 26% GDP. Nếu so sánh với Đài Loan trong giai đoạn đó thì hiện nay Việt Nam đang phải tốn gần gấp đôi lượng vốn để tạo thêm được một đơn vị tăng trưởng. Các nước Đông Nam Á đã thành công trong việc huy động một tỷ lệ đầu tư rất cao nhưng lại thất bại trong việc lặp lại kỳ tích tăng trưởng của các nước Đông Á, trong đó nguyên nhân chủ yếu là suất sinh lợi của các khoản đầu tư ở các nước Đông Nam Á thấp hơn nhiều. Tham nhũng chắc chắn là một trong những thủ phạm khi các quỹ đầu tư công bị bòn rút và thay đổi mục đích sử dụng, với hệ quả là chi phí kinh doanh bị đội lên cao. Bên cạnh tham nhũng thì một nguyên nhân quan trọng khác hoạt động tự do hóa tài chính được thực hiện quá sớm, trong khi hệ thống tài chính được thiết kế không thích hợp và chưa sẵn sàng. Kết quả là sự xuất hiện của các khoản đầu cơ rủi ro và sự hình thành của bong bóng tài sản.   Nhà ổ chuột ở Ma-ni-la Thị trường tài chính (bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ), phụ thuộc rất nhiều vào niềm tin của các tác nhân tham gia thị trường, vào sự minh bạch và đầy đủ về thông tin, và vào khả năng thực thi các quy định pháp luật về điều tiết và quản lý thị trường của nhà nước. Hơn thế, đầu tư là một hoạt động rủi ro và phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện thực tế cũng như kỳ vọng trên thị trường. Chính vì những lý do này mà nhà nước đóng một vai trò then chốt trong việc điều tiết thị trường để giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống. Chẳng hạn như Đài Loan đã ban hành những quy định nghiêm ngặt về hoạt động tích luỹ của cải thông qua việc sở hữu đất đai và đầu cơ tài chính. Chính quyền Đài Loan và Hàn Quốc còn ngăn cấm các tập đoàn công nghiệp mở ngân hàng, chống lại việc sáp nhập các thế lực tài chính và công nghiệp, mặc dù những chính sách này ở Hàn Quốc sau đó bị các chaebol phá dỡ. Việc tăng lợi nhuận của các tập đoàn công nghiệp chủ yếu thông qua nỗ lực tăng năng suất và sức cạnh tranh chứ không phải thông qua các hoạt động tài chính hay đầu cơ. 5.Hiệu năng của Nhà nước Các nước Đông Á, trừ Trung Quốc, đã thành công trong việc xây dựng các nhà nước hiệu quả với một số đặc điểm chung như sau: +. Thứ nhất, nhờ vào một số lý do có tính lịch sử, các nước này tạo ra được một sự cách ly giữa các nhà làm chính sách và các nhóm lợi ích đặc biệt, nhất là đối với những nhóm cản trở phát triển công nghiệp nhanh và bền vững. +. Thứ hai, những nhân tố cơ bản được xây dựng một cách đúng đắn ngay từ ban đầu. Chính phủ xây dựng CSHT kinh tế, đầu tư thích đáng cho giáo dục, y tế, và an ninh công cộng với một mức chi phí chấp nhận được, đồng thời thỏa mãn được kỳ vọng của nhân dân về chất lượng. Kinh tế vĩ mô ở các nước này được điều hành một cách thận trọng bởi những nhà chuyên môn thực sự, trong đó mục tiêu phát triển chung của đất nước luôn được đặt lên hàng đầu. +. Thứ ba, các nước Đông Á cũng chứng minh được rằng họ có thể tạo ra những quyết tâm chính trị mạnh mẽ để thay đổi khi cần thiết. Hàn Quốc đã phản ứng một cách mạnh mẽ trước những yếu kém trong cấu trúc nền kinh tế mà họ nhận ra được từ cuộc khủng hoảng 1997 và sau đó đã trỗi dậy vững vàng hơn. +. Thứ tư, Chính phủ các nước Đông Á chủ trương thượng tôn pháp luật, trong đó hệ thống tư pháp không chịu sự chi phối của các thế lực chính trị có tính đảng phái. Sing-ga-po, Hồng Kông là những quốc gia Đông Nam Á đầu tiên dành ưu tiên cho việc củng cố hệ thống luật pháp. Chính điều này đã tạo ra một môi trường thuận lợi, khuyến khích giao dịch kinh tế và đầu tư. Đồng thời, việc đề cao thượng tôn pháp luật cũng là vũ khí then chốt để chống tham nhũng. +. Thứ năm, các nhà lãnh đạo của các nước Đông Á ra quyết định dựa trên những phân tích chính sách có chất lượng và kịp thời. Họ cũng khuyến khích những tranh luận thẳng thắn và cởi mở trong nội bộ Chính phủ, giữa những nhà khoa học và trong giới kinh doanh về nội dung và đường hướng của chính sách kinh tế. Kết quả ở các nước Đông Nam Á không đồng nhất. Các nước Đông Nam Á thường thất bại trong việc tạo nên quyết tâm cần thiết để thực hiện các cải cách khó khăn về mặt chính trị. 6.Công bằng Suy đến cùng thì mục tiêu của mọi chính sách phát triển là nhằm kiến tạo một xã hội công bằng và thịnh vượng. Một trong những đặc điểm quan trọng của mô hình Đông Á là sự tăng trưởng nhanh về kinh tế được kết hợp với sự phân phối thu nhập tương đối đồng đều. Ngay cả khi đã đạt được mức thu nhập trên đầu người cao như hiện nay thì phân phối thu nhập ở Hàn Quốc và Đài Loan cũng đồng đều hơn so với Ma-lay-xia, Phi-lip-pin, Thái-lan, Sing-ga-po và Việt Nam. Tuy nhiên, những nước Đông Nam Á này vẫn có mức phân phố thu nhập đồng đều hơn so với các nước ở Châu Phi và Châu Mỹ La-tinh. Mặc dù vậy, bất bình đẳng về thu nhập vẫn tồn tại ở các nước Đông Nam Á trên cả ba phương diện quan trọng của chính sách phát triển con người, đó là giáo dục, y tế, và lưới an sinh xã hội. Một trong những khía cạnh đáng thất vọng nhất trong sự phát triển của các nước Đông Nam Á là việc người giàu tránh không phải trả những khoản thuế được coi là hợp lý và ở mức độ rất phải chăng. Nhiều người trở nên giàu kếch xù nhờ đầu cơ đất đai nhưng lại chỉ phải đóng một khoản thuế bất động sản có tính tượng trưng, hoặc thậm chí hoàn toàn không phải đóng thuế. Khía cạnh cuối cùng của phân phối thu nhập công bằng liên quan đến đất đai. Ở Phi-lip-pin, trong khi nhiều người lao động không có lấy một tấc đất cắm dùi, thì một số ít người khác lại sở hữu rất nhiều đất. Hiện tượng này cũng xuất hiện ở một số vùng của In-đô-nê-xia do mật độ dân cư quá cao và sự thâu tóm đất đai của một số “đại gia” có mối quan hệ gần gũi với giới quan chức. Ở Việt Nam và Trung Quốc, mặc dù phân phối đất ban đầu khá công bằng nhưng sự công bằng này đang bị phá vỡ một cách nhanh chóng do quá trình chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất công nghiệp và đô thị. Về thực chất, đây là quá trình chuyển đổi và phân phối lại ruộng đất, trong đó địa tô được chuyển sang tay một số cá nhân có thế lực kinh tế và quyền lực chính trị, trong số đó không ít người là quan chức của chính phủ. Điều tương tự đã không xảy ra ở Đài Loan và Hàn Quốc. III.LỰA CHỌN MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM 1.Lí do lựa chọn : Thực tế là không có một mô hình tăng trưởng lý thuyết nào mà Việt Nam có thể áp dung một cách dập khuôn.Mỗi mô hình tăng trưởng đều có một điểm mạnh và điểm yếu riêng,các mô hình tăng trưởng này thường được bổ sung từ thực tiễn của nhiều quốc gia trên thế giới. -Thật khó để xác định mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay là gì?Mặc dù ai cũng biết chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam là”phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.Mơ hồ nhất nằm ở vế sau của khái niệm kinh tế thị trường này.Có thể thấy được trong các chiến lược phát triển của VN còn quá nhiều thuật ngữ “XHCN” “Nhà nước là chủ đạo”… Chúng được cài đặt mặc định hầu như trong các đường lối,chủ trương ,biện pháp nhưng nội hàm của chúng chưa được xác định rõ ràng hay thể chế hóa trong thực tiễn.Dẫn chứng:Phát biểu của ông phó tổng thanh tra CP Vũ Phạm Quyết Thắng trên báo Tuổi trẻ_trang 5 ngày 12.02.2006:”Khi tiếp xúc với nhiều người,nhiều đòng chí lãnh đạo ở địa phương,trung ương,tôi thấy có nhiều đồng chí không hiểu và không ký giải cụ thể được về đề “định hướng XHCN”.Bản thân tôi cũng không lý giải được cụ thể thế nào là định hướng vấn XHCN, thù nó ra sao,làm thế nào để nhận dạng được nó”.Còn với “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN”thì sự căn thiệp của NN là quá nhiều_Nào là NNchủ đạo,là chi phối…liệu có phù hợp? -VN là 1 thành viên của WTO ,điều đó đồng nghĩa VN không chỉ có các cơ hội lớn để thực hiện bài toán tăng trưởng nhanh mà còn phải đương đầu với nhiều thách thức lớn.Đòi hỏi VN phải nhìn nhận môi trường toàn cầu hiện nay có nhiều dấu hiệu có khả năng gây sốc cho nền kinh tế mở nhỏ như VN.Những dấu hiệu đó là : Thị trường thế giới không ổn định,sự thiếu hụt triền miên về năng lượng,chiến tranh,khủng bố,vấn đề lương thực,chính trị bất ổn,chiến tranh sắc tộc,phân biệt đối xử của các nước giàu đối với các nước nghèo,bất bình đẳng thu nhập…. Đòi hỏi VN phải có 1 MH tăng trưởng linh hoạt,phản ứng,thích nghi tốt trong 1 thế giới luôn thay đổi. - Vai trò của chính phủ được thực hiện thành công ở nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc,Trung Quốc.Việt Nam trong chừng mực nào đó cũng đã được đánh gia cao về vai trò của chính phủ trong ổn định về chính trị,kinh tế vĩ mô.Nhưng nếu ổn định mà mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhiều so với các quốc gia khác thì chính phủ Việt Nam cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa từ việc lựa chọn chiến lược và chính sách. Một điều cơ bản là CP chỉ nên xuất hiện ở những chỗ mà thị trường thất bại và căn thiệp hiệu quả những vấn đề đó để phối hợp với thị trường đưa nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao. Tất cả những thực trạng trên đặt ra cho chúng ta ,đặc biệt là CP 1 trách nhiệm lớn lao là tìm ra 1 kiểu hình tăng trưởng hợp lý cho VN trong bối cảnh toàn cầu hóa.Việc lựa chọn 1 MH tăng trưởng hợp lý có vai trò vô cùng lớn ,không chỉ giúp cho chúng ta khai thác được các nguồn lực về lao đọng,vốn,tài nguyên,công nghệ…trong nước có hiệu quả,phát huy được lợi thế so sánh tốt.Mà còn giúp cho VN khắc phục được nhược điếm sẵn có:Trình độ lao động,hiêu quả vốn,trình độ công nghệ…Đặc biệt việc gia nhập WTO còn tạo cơ hội rất lớn cho VN trong việc thu hút các nguồn vốn,công nghệ,dịch chuyển lao động…Nếu đủ sức thu hút và sử dụng hiệu quả các dòng chảy từ cơ hội toàn cầu hóa thì việc đặt được mục tiêu phát triển kinh tế nhanh ,bền vững ,đuổi kịp các nước trong khu vực là hoàn toàn có cơ sở. 2.Mô hình áp dụng Hiện nayVN cần nhanh chóng chuyển sang “mô hình sáng tạo” (tăng trưởng hiệu quả) với những nội dung cụ thể như tăng cường công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực để cải thiện năng lực cạnh tranh. Đây là mô hình tăng trưởng không có giới hạn, khác với mô hình tăng trưởng hiện nay của VN đang chịu tác động của các yếu tố đầu vào. Thực tế cho thấy với mô hình dựa trên đầu vào, để có được 1 đơn vị GDP trong giai đoạn 1996 – 2000, VN phải bỏ ra 3,7% đơn vị yếu tố đầu vào, giai đoạn 2000 – 2005 tăng lên 4,6% và 2006 – 2010 là 5,1%,khi kinh tế tăng trưởng 8,5%, nhu cầu năng lượng ở VN cũng tăng gấp đôi, lên 17%. Theo ông Shrestha, việc tăng tỷ lệ yếu tố đầu vào qua từng giai đoạn phát triển cho thấy tính hiệu quả của nền kinh tế có xu hướng ngày càng giảm. Phó giám đốc quốc gia ADB nói để vượt qua thách thức này, VN có thể song hành cả hai mô hình phát triển kinh tế, nhưng phải chú trọng tính hiệu quả. Thứ nhất, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn, VN phải tăng yếu tố đầu vào; nghĩa là đầu tư nhiều hơn về đất, con người, vốn.ðphát triển kinh tế theo chiều rộng. Mặt khác VN cũng phải tăng tính hiệu quả của nền kinh tế để đảm bảo tăng trưởng bền vững, tránh được nhiều rủi ro bằng cách chú trọng tới yếu tố như lao động k ĩ năng , công nghệ , nghiên cứu và phát triển và kinh tế tri thứcðphát triển kinh tế theo chiều sâu. Nếu áp dụng thành công cả hai mô hình tăng trưởng kinh tế trên (tỷ lệ yếu tố đầu vào vừa ở mức cao là 40% vừa tăng cường tính hiệu quả), tỷ lệ tăng trưởng GDP trung bình trong 5 năm tới không chỉ là 8% mà có thể tăng lên 2 chữ số (trên 10%). Tuy nhiên, trên thực tế thứ hạng của VN về tính hiệu quả của nền kinh tế trong năm 2006 – 07 vẫn còn thấp. ADB cũng tính toán, mỗi một USD được chi ra để sản xuất, sẽ tạo ra 3,4 đơn vị sản phẩm ở Thái Lan; 2,7 đơn vị ở Trung Quốc và chỉ 2,3 đơn vị ở VN. Như vậy hiệu quả sản xuất ở VN vẫn còn thấp hơn Thái Lan và Trung Quốc. Vấn đề quan trọng trong tăng trưởng kinh tế không phải là tốc độ mà là chất lượng tăng trưởng. Thực tế cho thấy, chiến lược tăng trưởng trước đây hiện đã không còn phù hợp do sự thay đổi nhanh chóng của lực lượng sản xuất, sự phát triển của khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa. 3.Lựa chọn công nghệ ở VN: Công nghệ là tập hợp các phương pháp, qui trình, kĩ năng, bí quyết, công cụ và phương tiện để biến đổi các nguồn lực thành các sản phẩm hay dịch vụ phục vụ cho đời sống xã hội. Ngày nay công nghệ thường được coi là sự kết hợp giữa “phần cứng” và “phần mềm”.Phần cứng phản ánh kỹ thuật của phương pháp sản xuất. Kỹ thuật bao gồm điều kiện vật chất : máy móc, trang thiết bị , nhà xưởng,…Phần mềm gồm 3 thành phần : thứ 1:con người với kiến thức, kỹ năng, tay nghề, kinh nghiệm,…Thứ 2 : thông tin gồm các bí quyết, qui trình, phương pháp, dữ liệu,….Cuối cùng là thành phần tổ chức, như bố trí ,sắp xếp, điều phối và quản lý. Trong điều kiện của các nước chậm phát triển đi sau như nước ta, cần phải có những lựa chọn công nghệ phù hợp để có thể sớm biến khoa học và công nghệ như là động lực , cơ sở cho việc lựa chọn và thực thi con đường công nghiệp hóa rút ngắn khoảng cách như mong đợi. Cụ thể là : -Đổi mới công nghệ trong mọi lĩnh vực, nhằm thu hẹp khoảng cách tụt hậu về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. -Phát triển và ứng dụng một số hướng công nghệ cao (công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới và tự động hóa) nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và tạo ra bước nhảy vọt về năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế -Chú trọng nhập khẩu công nghệ mới, hiện đại, thích nghi công nghệ nhập khẩu ,tiến tới cải tiến và sáng tạo công nghệ Việt Nam Để có được công nghệ mới thường được thực hiện bằng cách tiếp thu công nghệ từ nước ngoài hoặc tạo ra công nghệ mới ở trong nước.Ở Việt Nam, việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài là nguồn quan trọng giúp nâng cao năng lực công nghệ quốc gia. Thực trạng: Thế nhưng thực tiễn sản xuất ở nước ta trong giai đoạn vừa qua là những thiết bị hiện đại nhập về nhưng do không làm chủ được bí quyết công nghệ và công nhân không đủ trình độ vận hành thiết bị, nên sản phẩm làm ra không đảm bảo yêu cầu chất lượng mong muốn, công suất máy móc thiết bị đựơc sử dụng ở mức thấp chưa đến 50%. Cùng một thiết bị nhập về, nhưng ở 2 cơ sở khác nhau lại cho ra sản phẩm với chất lượng khác nhau. Hoắc để sản phẩm đạt được chất lượng như nhau lại có thể dùng các loại thiết bị và công nghệ khác nhau. Như vậy, để có một sản phẩm được thị trường chấp nhận có thiết bị tốt chưa đủ, mà còn phải có những người công nhân có tay nghề phù hợp ,nắm bắt được bí quyết công nghệ, có bộ máy quản lý năng động, đủ sức tìm hiểu nhu cầu biến động của thị trường, có khả năng tổ chức lại một cách khách quan nhanh chóng dây chuyền sản xuất phù hợp với yêu cầu mới. Thông tin từ Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết: Phần lớn các doanh nghiệp  (DN) nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế hệ. 80 - 90% công nghệ nước ta sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Có 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1960 - 1970, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang.  Tính chung cho các DN, mức độ  thiết bị hiện đại chỉ có 10%, mức trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 70%. Trong khi đó các DN Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ ở mức thấp, tính ra chi phí chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu. Con số này ở  ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Đánh giá của Bộ Khoa và & Công nghệ thì năng lực đổi mới công nghệ là “loại năng lực yếu nhất” của các DN Việt Nam. Điều có thể nhận thấy ngay được là phần lớn công nghệ của ta tụt hậu ngay từ đầu, từ lúc mua sắm dây chuyền “thiết bị mới”. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu thông tin nên không biết công nghệ nào là tiên tiến. Một thực tế khác là vì không biết trình độ công nghệ chung trên thế giới đến mức nào mà chỉ so với ta thì thấy tiến bộ hơn rất nhiều và các DN “hí hửng để mua về. Đến khi sản xuất, phải cạnh tranh trên thị trường thì mới “ngã ngửa” rằng công nghệ vừa mua quá lạc hậu so với thế giới. Và “câu chuyện” về việc hô hào tiếp tục đổi mới, cải tiến tại diễn ra. Thực tế dây chuyền vừa mua về chưa thu được đồng vốn nào thì lấy gì mà đổi mới. Tình trạng này đặc biệt nghiêm trọng đối với DN Nhà nước (là nơi  tiêu “tiền chùa” và công nghệ càng lạc hậu thì càng có “lợi” cho kẻ đầu cơ thông qua việc mua). Tình trạng lạc hậu dây chuyền và công n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20683.doc
Tài liệu liên quan