Tài liệu Lựa chọn đối tác đầu tư trong hoạt động kinh tế đối ngoại ở Việt Nam: ... Ebook Lựa chọn đối tác đầu tư trong hoạt động kinh tế đối ngoại ở Việt Nam
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lựa chọn đối tác đầu tư trong hoạt động kinh tế đối ngoại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Kể từ năm 1987, khi Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật đầu tư nước ngoài. Bằng đạo luật này một phạm trù kinh tế hoàn toàn mới mẻ đã hình thành, phát triển và trở thành một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế Việt Nam đương đại. Việt Nam chính thức mở cửa tiếp nhận các khoản đầu tư từ bên ngoài, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, từng bước khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp một phần không nhỏ vào thành công chung của công cuộc đổi mới đất nước.
Biểu hiện sinh động là trong những năm đầu, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta có tốc độ gia tăng rất cao. Kết quả thu được từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng kinh tế, bước sang giai đoạn tăng trưởng và duy trì được tốc độ tăng trưởng cao hơn các quốc gia khác trong khu vực trong thời kỳ diễn ra khủng hoảng tiền tệ ở khu vực châu Á. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn trực tiếp tạo ra việc làm cho hàng chục vạn lao động với mức thu nhập không nhỏ. Song song với các hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là hàng loạt các ngành nghề kinh tế khác cùng phát triển theo.
Tuy nhiên, những hạn chế của hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam không phải là nhỏ. Con số thống kê cho thấy từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam liên tục giảm. Hoạt động của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đặt ra nhiều vấn đề phải xem xét lại về hình thức tổ chức và cách quản lý. Số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thua lỗ chiếm tỷ lệ không nhỏ. Bên Việt Nam trong một số liên doanh không những không tăng được tỷ lệ cổ phần của mình mà còn kinh doanh thua lỗ đến mất cả vốn góp phải rút khỏi liên doanh. Những vấn đề về chuyển giao công nghệ và bảo vệ môi trường, về sử dụng nguồn lao động... Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình hình trên, cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân quan trọng là bước lựa chọn đối tác đầu tư trong hoạt
động kinh tế đối ngoại tại Việt Nam. Đây là khâu đầu tiên trong quá trình hợp tác đầu tư lâu dài. Vì vậy, cần được xem xét nghiêm túc để tìm ra giải pháp đúng đắn giúp các doanh nghiệp có được hướng đi đúng cho bước khởi đầu của mình trong các hoạt động kinh tế sau này.
Hy vọng rằng với đề tài: “Lựa chọn đối tác đầu tư trong hoạt động kinh tế đối ngoại ở Việt Nam”, khóa luận này sẽ góp phần đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhất định cho vấn đề cần quan tâm này của các doanh nghiệp Việt Nam.
Nội dung của khóa luận được trình bày trong 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hoạt động kinh tế đối ngoại và lựa chọn đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
Chương II: Thực trạng việc lựa chọn đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam trong thời gian qua.
Chương III: Một số biện pháp tiếp tục hoàn thiện việc lựa chọn đối tác đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VÀ LỰA CHỌN ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI
1.1.1 Khái niệm về đầu tư trong hoạt động kinh tế đối ngoại
Hoạt động đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội.
Trong một nền kinh tế đóng cửa, nguồn vốn đầu tư (VĐT) phát triển kinh tế chỉ dựa vào huy động vốn trong nước bao gồm : Vốn tích luỹ từ ngân sách Nhà nước, VĐT của các doanh nghiệp ; Vốn tích luỹ, tiết kiệm trong dân là chủ yếu. Trong nền kinh tế mở ngoài vốn trong nước còn có phần đóng góp quan trọng của vốn nước ngoài.
Cùng với việc đóng góp vốn thông qua các hoạt động kinh tế, KTĐN còn giữ
một số chức năng quan trọng sau :
- Tham gia vào phân công lao động quốc tế ; Trao đổi mậu dịch quốc tế tạo cầu nối giữa nền kinh tế trong nước và thế giới.
- Thông qua hợp tác hóa, chuyên môn hóa và trao đổi mậu dịch đảm bảo sự
phát triển nhanh chóng và cân đối cho nền kinh tế quốc dân.
- Khai thác được các lợi thế so sánh của mỗi quốc gia.
- Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên; tạo công ăn việc làm dẫn đến nâng cao
đời sống người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ đối với ngân sách quốc gia.
Đầu tư trong hoạt động KTĐN được gọi là đầu tư nước ngoài (ĐTNN) hay đầu tư quốc tế. Đầu tư quốc tế bao gồm hoạt động tiếp nhận VĐT nước ngoài vào
nước sở tại và đầu tư ra bên ngoài.
VĐT quốc tế có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như bằng các loại tiền mặt hoặc giấy tờ có giá trị, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, quyền sử dụng đất đai, các sáng chế, phát minh, bí quyết công nghệ, nhãn hiệu hàng hoá... Lợi ích do hoạt động đầu tư mang lại thường là lợi ích kinh tế, đồng thời còn có cả lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá - xã hội, lợi ích về bảo vệ môi trường sinh thái...
Sự phát triển của đầu tư quốc tế bắt nguồn từ một số nguyên nhân chủ yếu sau
đây:
- Sự phát triển của xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đã thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư.
- Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học - công nghệ và cách mạng thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của các nước tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia.
- Sự thay đổi các yếu tố sản xuất kinh doanh ở các nước sở hữu vốn tạo nên
“lực đẩy” đối với đầu tư quốc tế.
- Nhu cầu VĐT phát triển để công nghiệp hoá của các nước đang phát triển rất lớn, tạo nên “sức hút” mạnh mẽ đối với nguồn VĐT nước ngoài.
Nếu xét theo chủ sở hữu nguồn vốn, vốn đầu tư nước ngoài có hai dòng chính: Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của các chính phủ và tổ chức quốc tế và Đầu tư của tư nhân :
- Đầu tư của tư nhân được thực hiện dưới ba hình thức: Đầu tư trực tiếp, đầu tư
gián tiếp và tín dụng thương mại.
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản tài trợ có hoàn lại (cho vay dài hạn vơí một số thời gian ân hạn và lãi suất thấp) của chính phủ, các hệ thống của tổ chức Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế (như WB, ADB, IMF...) dành
cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. Các cơ quan và tổ chức hỗ trợ
phát triển nêu trên được gọi chung là đối tác viện trợ nước ngoài.
Khóa luận này chỉ đề cập đến hình thức đầu tư trực tiếp của tư nhân, vì nó chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng được mở rộng về quy mô với nhiều cách thức thực hiện đa dạng khác nhau. Ngoài ra, nếu xét góc độ lựa chọn đối tác thì khu vực đầu tư tư nhân cũng là nơi thu hút sự chú ý nhiều nhất vì các đối tác hết sức đa dạng.
1.1.2. Khái niệm đầu tư trực tiếp trong hoạt động kinh tế đối ngoại
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hình thức đầu tư quốc tế được hiểu trên nhiều giác độ khác nhau:
- Xét trên khía cạnh về quyền sở hữu: FDI là một loại hình của ĐTNN được thực hiện khi quyền sử dụng gắn liền với quyền sở hữu tài sản đầu tư.
- Xét trên khía cạnh cán cân thanh toán : FDI thường được định nghĩa là phần tăng thêm trên giá trị sổ sách của lượng đầu tư ròng ở một quốc gia được thực hiện bởi các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời các nhà đầu tư này cũng chính là những người sở hữu chính và nắm quyền kiểm soát quá trình đầu tư đó.
Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn FDI được thực hiện dưới dạng thành lập các công ty con, hoặc các công ty liên doanh trực thuộc các công ty đa quốc gia và nhà đầu tư là các thành viên nắm quyền điều hành các công ty này.
Hoạt động FDI tại Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1988, sau khi Quốc hội thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tháng 12 năm 1987 (còn gọi là Luật đầu tư
87). Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài được
đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức sau:
- Doanh nghiệp liên doanh
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng –
chuyển giao – kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT).
Đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp liên doanh
Trong Doanh nghiệp liên doanh các bên tham gia liên doanh cùng góp vốn với nhau theo nhiều hình thức khác nhau; cùng nhau quản lý doanh nghiệp và cùng phân chia lợi nhuận và rủi ro. Do đó, hình thức liên doanh này giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn của bên Việt Nam; đa dạng hóa sản phẩm; đổi mới công nghệ thông qua việc nhập khẩu các công nghệ mới; tạo ra thị trường mới và đào tạo được một đội ngũ người lao động có trình độ cao thông qua việc học tập các công nghệ mới và các chương trình đào tạo của bên đối tác nước ngoài; tạo ra sản phẩm với thương hiệu của các hãng có uy tín trên thị trường thế giới.
Đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Nhà nước thu được ngay tiền thuê đất, giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ VĐT, tập trung thu hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào những lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu, đào tạo được nguồn nhân lực cho tương lai.
Đặc trưng cơ bản của hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD)
Hình thức HĐHTKD giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn do các bên đối tác cùng góp vốn, có thể sử dụng công nghệ sẵn có của bên tham gia, đồng thời tạo ra thị trường mới. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn có ưu điểm là tạo được tính chủ động và nắm được quyền điều hành dự án do việc tổ chức được giao cho một bên đối tác.
Các hình thức đầu tư nước ngoài trực tiếp khác
Đối với nhiều nước đang phát triển trên thế giới, FDI dưới dạng các hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) hoặc hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) cũng khá phổ biển. Dạng đầu tư này thường áp dụng cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi số
vốn lớn như xây dựng nhà máy điện, các công trình đường bộ... Ở Việt Nam dạng
đầu tư này còn chưa nhiều.
Có thể nói mỗi hình thức đầu tư có những điểm hấp dẫn riêng đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, cũng bộc lộ các điểm hạn chế của mình. Vì vậy, việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng khả năng thu hút FDI về cả số lượng cũng như chất lượng.
Dòng FDI trên phạm vi toàn thế giới
Sau một thập kỷ tăng liên tục, dòng vốn FDI bắt đầu đi xuống trên phạm vi toàn thế giới. Theo đánh giá của các tổ chức nghiên cứu kinh tế quốc tế, dưới tác động của suy thoái kinh tế Mỹ, Nhật và sự ngưng trệ của làn sóng sáp nhập công ty là nguyên nhân quan trọng làm cho FDI thế giới giảm từ đỉnh cao 1.271 tỷ USD năm 2000 xuống còn 760 tỷ USD năm 2001. Đây là lần tụt giảm đầu tiên kể từ năm 1991 và là mức sụt giảm nhiều nhất trong vòng 3 thập kỷ qua. Tuy nhiên, theo đánh giá của IMF và WB trong thời gian trung hạn từ 5 – 10 năm tới, các nước công nghiệp phát triển sẽ vẫn là những địa chỉ chủ yếu thu hút FDI của thế giới. Các nước này chiếm tỷ trọng khoảng từ 70 – 75% FDI, đồng thời cũng là lực đẩy chính làm gia tăng luồng vốn FDI của thế giới. Theo UNCTAD, thì EU, Mỹ, Canada và Nhật Bản vẫn sẽ là lực hút (khoảng 71%) và lực đẩy chính (khoảng 82%) của FDI của thế giới.
Bảng 1 : Sự phân bổ vốn FDI theo khu vực (1998 – 2001)
1998
1999
2000
2001(1)
Toàn thế giới
693
1075
1271
760
Các nước phát triển
483
830
1005
510
Các nước đang phát triển (2)
188
222
240
225
(tỷ USD)
Châu phi (3)
8
9
8
10
Mỹ Latinh và Caribe
83
110
86
80
Châu Á - Thái Bình Dương
96
100
144
125
Nam, Đông và Đông Nam Á
86
96
137
120
Trung và Đông Âu (bao gồm cả các nước thuộc Liên bang Nam Tư cũ)
22
25
27
27
(Ghi chú : (1) Dựa trên cơ sở số liệu của 51 nước thu hút FDI chủ yếu ; (2) Bao gồm cả các nước thuộc Liên bang Nam Tư cũ ; (3) Nếu tính cả Nam Phi, lượng FDI vào khu vực này sẽ là năm 1998 : 8 ; 1999 : 10 ; 2000 : 9 ; 2001 : 11) – Nguồn UNCTAD, World Investment Report – 2001.
Nhìn vào bảng trên ta thấy, lượng FDI vào các nước công nghiệp phát triển giảm đáng kể, trong khi luồng vốn FDI vào khu vực Trung và Đông Âu tiếp tục ổn định ở mức 27 tỷ USD và tăng đôi chút ở Châu Phi.
Các nước đang phát triển cũng chịu tác động chung, nhưng mức tụt giảm là không đáng kể (6% so với 49% suy giảm của các nước phát triển) rơi từ mức
240 tỷ USD của năm 2000 xuống còn 225 tỷ USD trong năm 2001, giảm 15 tỷ USD. Song xét về tổng thể, tỷ phần vốn FDI mà các nước đang phát triển nhận được trong năm 2001 lại tăng lên tới 30%, cao hơn cả tỷ lệ mà các nước này tiếp nhận được vào năm 1998 (27%).
Biểu đồ 1: Sự phân bố luồng vốn FDI tại các nước đang phát triển
Ch©u Phi
Mü Latinh & Caribe
8
Ch©u ¸ & Th¸i
B×nh D−¬ng
2001
2000
1999
1998
Trung & §«ng
©u
0 50 100 150
(tỷ USD)
Nguồn : UNCTAD, World Investment Report - 2001
Năm 2002, FDI vào Trung Quốc đạt mức 50 tỷ USD. Trong thời gian từ năm
1993 – 2001, Trung Quốc luôn đứng thứ 2 trên thế giới về thu hút FDI. Năm
2002, lần đầu tiên Trung Quốc vượt qua Mỹ trở thành nước thu hút FDI lớn nhất trên thế giới.
Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư thế giới.
Động cơ truyền thống của FDI những năm đầu thập kỷ 60 là chạy theo lao động rẻ để thu lợi nhuận và những ngành sản xuất truyền thống thu hút nhiều lao động là khai khoáng, chế biến nông sản và công nghiệp chế tạo năm 1964 trong tổng vốn FDI xuất khẩu của các TNCs Mỹ, lĩnh vực khai khoáng và dầu khí chiếm
40,5%, ngành chế tạo chiếm 30%, ngành dịch vụ chiếm 12,8%.
Trong những năm gần đây đã xuất hiện xu hướng mới là đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng gia tăng nhanh, nhất là các ngành viễn thông điện tử, giao thông vận tải, thuỷ lợi... Nguyên nhân là vì các nước, nhất là các nước đang phát triển có nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng cam kết mạnh mẽ không quốc hữu hoá, dành chính sách ưu đãi để thu hút vốn FDI vào cơ sở hạ tầng nhằm khắc phục sự hạn hẹp của ngân sách.
Từ bức tranh khái quát về sự hình thành và vận động của các nguồn FDI trên thế
giới, ta có thể rút ra được những nhận xét sau:
- Nguồn FDI cũng ngày càng mở rộng và gia tăng do có sự phát triển liên tục của nền kinh tế thế giới. Làn sóng hợp nhất công ty thành các công ty khổng lồ tạo ra hàng ngàn tỷ USD qua các hợp đồng hợp nhất. Các công ty đa quốc gia tiếp tục mở rộng mạng lưới sản xuất của họ.
- Sự phân bổ FDI giữa các quốc gia và khu vực có sự thay đổi liên tục là do chiến lược thu hút đầu tư của mỗi nước trong từng thời kỳ khác nhau, do kết quả của các cuộc cải cách kinh tế, do chính sách FDI, do cải thiện môi trường đầu tư,
do sự ổn định về chính trị - xã hội, do hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn VĐT ở
mỗi nước.
- Sự vận động của các nguồn FDI chịu ảnh hưởng rất lớn của xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế, và sự ổn định của thị trường chứng khoán quốc tế.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC TIÊU CHÍ VỀ LỰA CHỌN ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Khái niệm
Lựa chọn đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài là một quá trình nghiên cứu, sàng lọc và tuyển chọn một trong nhiều nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tìm ra được đối tác phù hợp với các tiêu chí, chỉ tiêu và mục đích của dự án cũng như của nước nhận đầu tư.
1.2.2 Các tiêu chí về lựa chọn đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.2.1 Tiêu chuẩn lựa chọn đối tác FDI
Mục tiêu của việc lựa chọn đối tác FDI được qui định bởi mục tiêu chung của hoạt động FDI cũng như của việc khai thác, thu hút các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài.
Trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành từ 31/12/1987 và được sửa đổi bổ xung năm 1990, 1992 cũng như xây dựng lại năm 1996, và mới đây nhất là năm 2000 đã chỉ rõ mục tiêu ấy là: “để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển nền kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước”.
Mục tiêu nói trên về cơ bản đã được quán triệt trong quá trình kêu gọi đầu tư, tuyên truyền vận động đầu tư, thẩm định dự án và cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, mục tiêu chung về thu hút FDI được qui định trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được nhận thức khác nhau ở từng địa phương, từng ngành,
từng cấp quản lý, qua từng cán bộ cụ thể và cũng phụ thuộc rất lớn vào mục tiêu và tiềm lực của mỗi nhà đầu tư.
Bên cạnh nhiều dự án chọn được các nhà đầu tư có đủ năng lực tài chính, năng lực công nghệ và pháp lý, có một số trường hợp do chưa quán triệt rõ mục tiêu thu hút ĐTNN, do đó không xác định được đúng đối tác cần tìm.
Căn cứ vào mục tiêu mà ta đề ra các tiêu chí lựa chọn đối tác. Điều đầu tiên cần có là đối tác được lựa chọn phải có khả năng thực hiện, triển khai dự án đã được duyệt và phải có các năng lực sau :
- Năng lực pháp lý của nhà đầu tư
- Năng lực tài chính của nhà đầu tư
- Năng lực công nghệ của nhà đầu tư
- Năng lực quản lý của nhà đầu tư
- Khả năng chiếm lĩnh thị trường của nhà đầu tư
- Bề dầy uy tín kinh doanh của nhà đầu tư
Trên cơ sở phân tích các năng lực này của nhà ĐTNN mà bên Việt Nam có thể tiến hành lựa chọn. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là năng lực đó được thể hiện, được đánh giá, được xác định như thế nào, bằng những chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật nào. Nói chung, thời kỳ đầu việc lựa chọn đối tác FDI đối với chúng ta còn nhiều bỡ ngỡ, nặng về cảm tính, mang tính bị động, nói cụ thể hơn là còn thiếu tiêu chuẩn rõ ràng và thống nhất. Điều đó được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Chúng ta chưa xác định và đề ra những tiêu chuẩn cần thiết đối với đối tác FDI. Khi còn ít đối tác nước ngoài đến tìm hiểu và ra quyết định đầu tư tại Việt Nam, chúng ta không đặt vấn đề lựa chọn, chỉ cần xuất hiện đối tác là đã sẵn sàng đi tới quyết định hợp tác đầu tư. Như vậy là chạy theo số lượng đối tác, thiếu sự xem xét, nghiên cứu, lựa chọn một cách nghiêm túc. Giai đoạn 1993 -
1996, khi bước sang thời kỳ bùng nổ của hoạt động FDI tại Việt Nam, số lượng
các đối tác FDI đến Việt Nam ngày càng nhiều hơn, tính chất đa dạng hơn, khả năng kinh doanh phong phú và khác biệt nhau nhiều hơn, điều đó tất yếu dẫn đến yêu cầu phải lựa chọn đối tác. Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm và chưa được chuẩn bị trước nên việc lựa chọn đối tác diễn ra một cách tự phát, thiếu hướng dẫn cụ thể và rõ ràng. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tác lúc này đã được đặt ra nhưng chưa có cơ sở khoa học đầy đủ, tùy thuộc vào khả năng hiểu biết và trình độ cán bộ ở mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa phương. Từ 1997 đến nay, hoạt động FDI vào Việt Nam bị suy giảm rõ rệt do những yếu tố khách quan và chủ quan, số lượng đối tác đến Việt Nam ngày càng giảm xuống. Như vậy, qua hơn 10 năm triển khai hoạt động FDI tại Việt Nam chúng ta vẫn chưa đạt được sự chuẩn xác và rõ ràng cần thiết trong việc xây dựng các tiêu chuẩn phục vụ cho công tác lựa chọn đối tác ĐTNN.
- Do thiếu tiêu chuẩn rõ ràng và thống nhất, cho nên việc lựa chọn đối tác chịu sự chi phối đáng kể của phía nước ngoài. Trên thực tế, không ít trường hợp diễn ra tình trạng bị động trước mục tiêu và tiêu chí lựa chọn của bên nước ngoài. Điều đó là do Việt Nam thiếu kế hoạch và chương trình một cách cụ thể và nhất quán, thiếu thông tin và hiểu biết về đối tác nước ngoài. Chính vì vậy, tính rủi ro của các dự án như trên là rất cao.
1.2.2.2. Phương thức và tổ chức việc lựa chọn đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài
Việc tổ chức lựa chọn đối tác FDI là một công đoạn cần thiết, có ý nghĩa quan trọng vì nó quyết định khả năng tiếp cận để lựa chọn được đối tác FDI như mong muốn. Đây là một hoạt động bao gồm nhiều công việc khác nhau để lựa chọn ra được nhà đầu tư cần thiết. Tuy nhiên trên thực tế cũng rất khó tách bạch từng công việc với những mục tiêu cụ thể mà nhiều khi phải đồng thời tiến hành các công việc khác nhau trong việc thu thập những thông tin ban đầu về đối tác. Bên cạnh đó cần tiến hành thực hiện các phương thức khác nhau trên cơ sở đó
tiến hành các kỹ thuật cần thiết để lựa chọn, tìm ra được đối tác phù hợp với từng dự án đầu tư cụ thể.
Trong thời gian qua ở Việt Nam, những công việc liên quan đến quá trình thu thập thông tin, tiếp cận đối tác, gây sự chú ý của đối tác, tạo sự hiểu biết lẫn nhau giữa khách và chủ nhà được tổ chức khá mạnh mẽ với nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Cụ thể là:
- Tổ chức thu thập thông tin về đối tác FDI bằng nhiều hình thức khác nhau, qua nhiều kênh khác nhau, cả trực tiếp và gián tiếp, thí dụ thông qua các cơ quan thương vụ, các văn phòng đại diện, các tổ chức nghiên cứu thị trường. Nhìn chung, các cơ quan có chức năng chuyên môn về tổ chức hoạt động ĐTNN tiến hành các hoạt động thu thập thông tin này mang tính hệ thống và cập nhật hơn. Còn các cơ quan khác, đặc biệt ở cấp địa phương, thiếu điều kiện cần thiết cả về phương pháp cũng như phương tiện tiếp cận thông tin và xử lý thông tin nên phương thức tổ chức thu thập thông tin không đầy đủ, không kịp thời, mang tính manh mún, chia cắt. Điều quan trọng đáng nói là việc chia xẻ thông tin giữa các cơ quan hữu trách, giữa trung ương và địa phương, giữa ngành có chức năng tổng hợp với ngành chuyên môn chưa được đặt ra một cách đúng mức, thiếu sự đồng bộ và kết hợp giữa các đơn vị do đó không đảm bảo độ chuẩn xác.
- Tổ chức việc tiếp xúc tìm hiểu lẫn nhau giữa các nhà ĐTNN với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong nước về nhu cầu thu hút đầu tư của các ngành, các cấp thông qua các hội nghị của các nhà đầu tư, giới thiệu danh mục dự án kêu gọi ĐTNN. Ngay từ khi chủ trương đẩy mạnh thu hút vốn FDI được khẳng định với việc ban hành Luật ĐTNN tại Việt Nam và các văn bản dưới luật, các cơ quan chức năng ở trung ương và địa phương đã tổ chức các hội nghị chuyên đề giới thiệu cho các nhà ĐTNN tìm hiểu về hệ thống luật pháp, chính sách, chủ trương của Nhà nước ta nói chung và từng địa phương nói riêng. Đồng thời các cơ quan chuyên môn đã tiến hành lập danh mục các dự án kêu gọi ĐTNN vào Việt Nam nói chung và vào từng ngành nói riêng để giới thiệu rộng rãi với đông
đảo các nhà kinh doanh nước ngoài. Các hội nghị chuyên đề được tổ chức ở trong và ngoài nước nhằm tạo thuận lợi cho sự tiếp xúc, tìm hiểu lẫn nhau giữa các đối tác hai bên, trao đổi trực tiếp về môi trường, cơ hội đầu tư và các yêu cầu của từng dự án đầu tư cụ thể.
- Trên cơ sở các thông tin thu thập được và sự hiểu biết, gặp gỡ bước đầu giữa các nhà ĐTNN với các nhà đầu tư trong nước, hai bên tiến hành các cuộc đàm phán, tham quan, khảo sát lẫn nhau để có được những thông tin đầy đủ và toàn diện hơn, đồng thời có sự hiểu biết lẫn nhau ở mức cao hơn làm cơ sở đi đến quyết định ký các hợp đồng hợp tác đầu tư dưới các hình thức và mức độ khác nhau được quy định trong Luật ĐTNN tại Việt Nam.
Nhìn chung phương thức và việc tổ chức lựa chọn đối tác FDI gồm nhiều công việc đa dạng và phức tạp. Qua tích luỹ kinh nghiệm chúng ta cũng đã có những tiến bộ và trưởng thành dần lên. Các kỹ năng về thu thập thông tin đối với các nhà ĐTNN, về tổ chức vận động đầu tư, lập và giới thiệu danh mục các dự án đầu tư ngày càng đầy đủ và có bài bản hơn.
1.3 VAI TRÒ CỦA VIỆC LỰA CHỌN ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.3.1 Khái niệm và phân loại đối tác FDI
Khái niệm đối tác FDI
Đối tác FDI là các chủ thể có tư cách pháp nhân thực hiện hoạt động FDI. Đó thường là các công ty hoặc tập đoàn kinh doanh được thành lập và đăng ký hoạt động theo luật pháp của một quốc gia nào đó. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước mà luật pháp có những qui định cụ thể khác nhau. Những qui định này sẽ chi phối nội dung và cách thức hoạt động, trách nhiệm và nghĩa vụ của từng đối tác đó.
Đối tác đầu tư FDI tại Việt Nam tự mình hoặc là đại diện của công ty, hay tập
đoàn nước ngoài đã, đang và sẽ có ý định vào Việt Nam tham gia hoạt động kinh
doanh dưới dạng góp vốn FDI theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Phân loại đối tác FDI
Mỗi đối tác FDI có đặc điểm và sắc thái riêng biệt của công ty hay tập đoàn mà họ làm đại diện. Việc phân loại các đối tác này có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau như quốc tịch, nền văn hoá, loại hình công ty, hay theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh.
Thực tế cho thấy, các đối tác nước ngoài đến Việt Nam từ nhiều quốc gia khác nhau, bằng nhiều con đường khác nhau. Các đối tác nước ngoài vào Việt Nam:
- Qua các cơ quan đối ngoại của Việt Nam (thường loại đối tác này có đầy đủ
thông tin hơn về khả năng tài chính và năng lực thực sự của họ).
- Qua các văn phòng đại diện kinh tế thương mại, các văn phòng đại diện cho các công ty nước ngoài tại Việt Nam.
- Qua môi giới, giới thiệu của các cá nhân ở trong nước, của Việt kiều, vv…
Tìm hiểu môi trường đầu tư, tìm kiếm các cơ hội đầu tư để thu lợi nhuận là mục tiêu chung của các đối tác ĐTNN khi thâm nhập vào thị trường một nước. Trên cơ sở luật pháp của Việt Nam và tuỳ theo tầm cỡ về qui mô, khả năng tài chính cũng như ý đồ đầu tư của các đối tác nước ngoài mà họ sẽ có cách tiếp cận thị trường Việt Nam một cách thích hợp nhất. Cũng trên cơ sở những thông tin nghiên cứu về từng đối tác trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể mà phía Việt Nam có được qua nhiều kênh thông tin khác nhau mà bên Việt Nam tiến hành việc kiểm tra và lựa chọn đối tác đầu tư cho thích hợp.
FDI được coi là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của cả các nước đầu tư cũng như các nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên ảnh hưởng cụ thể của chúng đối với mỗi quốc gia, trong mỗi thời kỳ là không giống nhau. Tuỳ theo giác độ nghiên cứu, quan điểm đánh giá, có thể tồn tại những ý kiến khác nhau về vai trò, hiệu quả của FDI đối với sự phát triển của nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.
1.3.2. Sự cần thiết của việc lựa chọn đối tác FDI
Một dự án đầu tư chỉ có thể được thực hiện khi nó đồng thời đáp ứng được yêu cầu của các bên. Đối với bên nhận đầu tư là : giải quyết tình trạng thiếu vốn, tận dụng công nghệ tiến tiến của nước đầu tư, mở rộng thị trường, nâng cao tay nghề của người lao động thông qua việc nắm bắt các tiến bộ khoa học – kỹ thuật được áp dụng trong sản xuất, cách thức tổ chức, quản lý các hoạt động kinh doanh. Mục đích cuối cùng của bên đầu tư là không ngừng nâng cao giá trị về tài sản và sự giàu có cho các cổ đông.
Do vậy, việc lựa chọn đối tác FDI phải xuất phát từ các yêu cầu khách quan của hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và căn cứ vào tình hình, đặc điểm của từng lĩnh vực hoạt động kinh doanh nói riêng cũng như tính đến mối tương quan giữa các bên tham gia vào từng dự án đầu tư cụ thể. Mục đích thu hút FDI đối với các nước đang phát triển cũng như đối với Việt Nam trước hết là về nguồn vốn, trình độ công nghệ, năng lực quản lý, khả năng chiếm lĩnh thị trường...
Việc lựa chọn đối tác FDI là điều hết sức quan trọng và cần thiết, đặc biệt phải thông qua quá trình thương lượng để tìm được đối tác phù hợp cũng như tìm được cơ cấu lĩnh vực đầu tư sao cho khai thác được tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ ở mức cao nhất các nguồn lực bên ngoài.
Khi tiến hành lựa chọn đối tác FDI phải luôn chú ý đến sự tương thích giữa các bên đối tác, đây không đơn thuần là chọn bên đối tác đáp ứng cao nhất các yêu cầu đề ra, mà cần quan tâm đến sự thống nhất giữa các chỉ tiêu, mục đích hoạt động kinh tế của bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Qua đó có thể xác định những yêu cầu cụ thể trong việc lựa chọn đối tác FDI.
Sau khi đi vào hoạt động, các dự án đầu tư chịu sự chi phối bởi khuôn khổ luật pháp của nước chủ nhà. Vì vậy, những tác động tiêu cực nếu có của các dự án đầu tư nước ngoài đối với nước chủ nhà chỉ có thể nảy sinh do những yếu kém trong lĩnh vực đàm phán cũng như quản lý và hoạch định chính sách của nước chủ nhà.
Theo thống kê cho thấy khoảng 10 –20% số dự án FDI không được thực hiện do một trong các nguyên nhân sau: bị rút giấy phép trước thời hạn, bán lại dự án, không thực hiện đúng luật của nước sở tại, gây sức ép với bên đối tác của nước nhận đầu tư về vốn, mục tiêu đầu tư không phù hợp với lợi ích của nước nhận đầu tư…. Nguyên nhân của tình hình nói trên có nhiều loại, trong đó có trách nhiệm của đối tác nước ngoài, cụ thể là:
- Không chấp hành đúng các qui định pháp lý của nước sở tại.
- Mục tiêu đầu tư của một số đối tác nước ngoài có thể đưa đến thiệt hại cho lợi ích cơ bản và lâu dài của nước sở tại.
- Không đủ năng lực về pháp lý, năng lực về tài chính, năng lực về công nghệ.
Bởi vậy, để xác định được những đối tác cần thiết trong hàng loạt các nhà kinh doanh nước ngoài đến khảo sát tại thị trường Việt Nam, qua đó chọn ra được các đối tác đảm bảo đủ các yêu cầu cần thiết cho việc triển khai có hiệu quả dự án đòi hỏi chúng ta phải nắm chắc về năng lực, sở trường cũng như mục tiêu của các đối tác. Các đối tác nước ngoài khi đến làm ăn tại Việt Nam sẽ trở thành một bộ phận trong cộng đồng các thương nhân, mọi hoạt động sinh hoạt, kinh doanh của họ đều có tác động tích cực và tiêu cực đến môi trường đầu tư và kinh doanh của Việt Nam trước mắt và lâu dài. Vì thế việc lựa chọn đối tác là một yêu cầu tất yếu.
1.4 KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC TRONG LỰA CHỌN ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.4.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc một thị trường với những tiềm năng khổng lồ về tài nguyên, về sức mua và nguồn lao động rẻ, từ lâu đã là nơi thu hút các nhà đầu tư là Hoa kiều ở Hồng Kông, Đài Loan và Ma Cao. Bên cạnh đó chính phủ Trung Quốc luôn có chính sách quan tâm, khuyến khích đối với gần 30 triệu người Hoa ở khu vực Đông Nam Á với tài kinh doanh, có vốn lớn, lại nắm giữ những vị trí quan trọng
trong những lĩnh vực như ngân hàng, các tổ chức thương mại, tài chính trở về đầu tư xây dựng quê hương. Hoa kiều và người Hoa khi đầu tư vào Trung Quốc có nhiều thuận lợi về văn hoá, ngôn ngữ, các mối quan hệ sẵn có trong gia đình, dòng tộc… chính vì lý do này mà Trung Quốc liên tục đưa ra những qui định nhằm khuyến khích, mời gọi đầu tư của các chủ đầu tư có gốc Trung Quốc. Năm
1989, Trung Quốc công bố: “Qui định về việc khuyến khích đồng bào Đài Loan đầu tư”; năm 1990 công bố “Qui định về việc khuyến khích Hoa kiều và đồng bào Hồng Kông, Macao đầu tư”...
Trong năm 2002, tổng số vốn FDI mà các nước đang phát triển ở Châu Á thu hút được là khoảng 90 tỷ USD. Trong đó, Trung Quốc chiếm 50 tỷ USD vốn FDI. các nhà kinh tế cho rằng, Trung Quốc thu hút nhiều FDI là nhằm để tăng năng suất nhờ tận dụng kinh nghiệm quản lý kết hợp với lợi thế nhân công rẻ và thị trường nội địa tiềm năng. Kể từ năm 1993, Trung Quốc đã trở thành nước nhận VĐT lớn nhất trong số các nước đang phát triển.
Có rất nhiều nhân tố dẫn tới sự gia tăng mạnh của FDI vào Trung Quốc :
- Một thị trường lớn, chi phí lao động rẻ.
- Môi trường đầu tư được cải thiện đáng kể: Ở phần lớn các tỉnh và thành phố, các cơ quan chuyên trách đã được thành lập để cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có VĐT nước ngoài, các thủ tục phê chuẩn đã được đơn giản hoá, và các bộ luật, các sắc lệnh tương ứng đã được tăng cường hơn nữa.
- Cơ sở hạ tầng hợp lý, chính sách ưu tiên và ưu đãi v._.ề thuế cũng như việc cho phép các đặc khu kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc tự do hóa nền kinh tế.
Lấy ví dụ về Nhật Bản, nước có số vốn FDI vào Trung Quốc lớn thứ ba, xếp sau Hồng Kông & Macao, Mỹ. Trung Quốc đã căn cứ vào các mục tiêu sau để đưa ra tiêu chuẩn lựa chọn Nhật Bản làm đối tác FDI: (1) Nhập khẩu công nghệ của Nhật Bản; (2) Sử dụng vốn của Nhật Bản; (3) Đáp ứng nhu cầu của thị trường
nội địa; (4) Sử dụng các kênh xuất khẩu của Nhật Bản; (5) Xuất khẩu hàng sang
Nhật Bản; (6) Sử dụng linh kiện của Nhật Bản.
Có thể nói, sự tiếp tục gia tăng của dòng vốn FDI vào Trung Quốc được quyết định bởi quá trình tự do hóa kinh tế và cải cách cơ cấu ngành. Thêm vào đó là việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO.
1.4.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Năm 1962, bắt đầu kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, chính phủ Hàn Quốc nhận thức rõ tầm quan trọng của tư bản nước ngoài nên đã đưa ra nhiều biện pháp cụ thể nhằm thu hút các luồng vốn này. Từ năm 1962 - 1966, về nguyên tắc, chính phủ cho phép tư bản nước ngoài vào trong nước tự do miễn là đáp ứng được mục tiêu của kế hoạch 5 năm. Mọi nguồn tư bản nước ngoài vào Hàn Quốc đều được Nhà nước bảo vệ và ủng hộ. Sự tham gia của các doanh nghiệp trong nước dưới dạng liên doanh là không bắt buộc. Việc thu hút công nghệ nước ngoài cũng được khuyến khích. Tuy vậy trong giai đoạn này tư bản nước ngoài vào Hàn Quốc còn ít do mức độ rủi ro cao.
Năm 1965, Hàn Quốc thực hiện bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Nhật sau 20 năm gián đoạn. Đầu tư của Nhật vào Hàn Quốc bắt đầu tăng lên một cách mạnh mẽ. Năm 1967, chính phủ tiến hành sửa đổi luật khuyến khích đầu tư. Năm 1970, thiết lập khu xuất khẩu tự do (FEZ) đầu tiên ở Masan. Nhờ những nỗ lực trên, tư bản nước ngoài vào Hàn Quốc đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, lo ngại những tác động ngược của tư bản nước ngoài đối với nền kinh tế, chính phủ đã đưa ra một số qui định nhằm hạn chế bớt ảnh hưởng của các doanh nghiệp nước ngoài. Chính phủ khuyến khích thành lập các doanh nghiệp liên doanh hơn là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và không chấp nhận các dự án có đặc trưng sau:
(1) Những dự án gây hỗn loạn cung, cầu trong nước về nguyên liệu thô và sản phẩm trung gian.
(2) Những dự án có các sản phẩm đang cạnh tranh với các công ty trong nước trên thị trường nước ngoài.
(3) Những dự án tìm kiếm sự ủng hộ tài chính của các công ty trong nước. (4) Những dự án tìm kiếm lợi nhuận chỉ dựa vào việc sử dụng đất.
Nói chung mức tham gia của tư bản nước ngoài thường không quá 50% trừ các trường hợp sau:
(1) Dự án xuất khẩu, hoàn toàn không cạnh tranh với các công ty trong nước trên thị trường nước ngoài.
(2) Các dự án cần nhiều công nghệ, tiến hành sản xuất hoặc thu hút sản xuất
để xuất khẩu hoặc tạo ra sản phẩm thay thế nhập khẩu.
(3) Các dự án góp phần hợp lý hoá cơ cấu công nghiệp trong nước.
(4) Các dự án từ một nước đầu tư còn ít nhưng được trông đợi sẽ tăng lên trong tương lai.
(5) Những dự án của người Hàn Quốc sống ở nước ngoài. (6) Những dự án thuộc khu xuất khẩu tự do.
Có thể nói các qui định này là quá khắt khe so với nhiều nước trong khu vực và do vậy đã giới hạn đáng kể sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào Hàn Quốc trong những năm này.
Năm 1980, chính phủ sửa lại Luật đầu tư theo hướng mở rộng hơn đối với tư bản nước ngoài: cho phép tư bản nước ngoài được tham gia vào nhiều lĩnh vực hơn và tỷ lệ vốn tham gia lớn hơn, cho phép xí nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động ở nhiều lĩnh vực trước đây chưa được phép. Các biện pháp này được đưa ra nhằm giảm bớt tình trạng thâm hụt của cán cân thanh toán và điều quan trọng là nhằm nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của các công ty trong nước, nâng cao hiệu quả và năng suất của các công ty đang được bảo hộ, thúc đẩy sự phát triển của công nghệ và các ngành công nghiệp tinh xảo.
VĐT nước ngoài vào Hàn Quốc chủ yếu là từ các nước Nhật Bản, Mỹ và các nước Tây Âu. Về cơ cấu, lĩnh vực công nghiệp chiếm gần 2/ 3 tổng số FDI, lĩnh vực dịch vụ chiếm gần 1/ 3 (chủ yếu là du lịch) còn lại là các ngành khác.
Hàn Quốc là một trong những quốc gia yêu cầu mức độ tham gia sở hữu vốn của nước chủ nhà khá nghiêm ngặt. Các công ty nước ngoài thuộc diện sở hữu 100% chiếm tỷ lệ không lớn (14,6%), đa số các công ty có VĐT nước ngoài là thuộc diện đồng sở hữu hoặc sở hữu thiểu số chiếm tỷ lệ (73%). Cho tới đầu những năm 80, chính sách của chính phủ Hàn Quốc là tương đối khắt khe, đặc biệt là rất ít cho phép các dự án cạnh tranh với các công ty trong nước. Chính sách này đã tạo ra một sự bảo hộ cần thiết cho các công ty trong nước trong những giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Tuy nhiên, chính sách này cũng bộc lộ những hạn chế của nó. Bởi vậy, trong những năm gần đây, nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ trong khu vực, chính sách thu FDI của Hàn Quốc đã có những thay đổi căn bản theo hướng tự do hoá đối với hoạt động FDI. Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành Luật xúc tiến đầu tư nước ngoài mới (11/1998), chuyển từ quan điểm điều tiết và kiểm soát sang thúc đẩy và hỗ trợ FDI. Cụ thể:
- Trong 1.148 ngành nghề của nền kinh tế, chỉ đóng cửa 13 ngành và hạn chế
18 ngành đối với FDI.
- Dành cho các nhà đầu tư nước ngoài qui chế đãi ngộ quốc gia (NT) trong việc thành lập và hoạt động kinh doanh.
- Đơn giản hoá thủ tục đầu tư, thay thế chế độ cấp phép bằng chế độ thông báo và đăng ký đầu tư. Thực hiện cơ chế một cửa bằng việc thành lập các Trung tâm dịch vụ đầu tư Hàn Quốc.
- Thành lập các khu đầu tư nước ngoài với qui chế ưu đãi riêng.
Ngoài ra, Hàn Quốc còn thực hiện chính sách tự do hoá thị trường chứng khoán. Bãi bỏ hoàn toàn các hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động
sáp nhập và mua lại (M&A) các công ty trong nước, áp dụng chế độ giao dịch ngoại hối tự do kể từ 1/4/1999. Từng bước thực hiện mở cửa đối với thị trường đất đai và bất động sản.
Có thể nói, sự đổi mới trong quan điểm đối với FDI của chính phủ Hàn Quốc và các chính sách mới là nhân tố quan trọng trong việc nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở nước này và đã góp phần quan trọng vào việc khôi phục nhanh chóng nền kinh tế sau khủng hoảng.
1.4.3. Kinh nghiệm của Thái Lan
Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế cùng với đổi mới kỹ thuật công nghệ và đổi mới cơ cấu kinh tế, Thái Lan đã tập trung khai thác mọi nguồn vốn cả trong nước lẫn nước ngoài, cả của người Thái, người Hoa cũng như của những người thuộc quốc tịch khác, cả bằng hình thức vay vốn, nhận các nguồn viện trợ và đầu tư trực tiếp.
Về hình thức đầu tư, để tạo điều kiện cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Chính phủ Thái Lan đã áp dụng một số biện pháp sau:
- Bán dần các doanh nghiệp Nhà nước cho tư nhân. Đây là yếu tố góp phần đa dạng hóa các loại hình đầu tư FDI trên đất nước Thái Lan.
- Khuyến khích thành lập các liên doanh với các công ty của Mỹ, Nhật, công ty của các nước Châu Á và các công ty của một số nước khác.
- Đầu tư vào thị trường chứng khoán thu hút được một khối lượng vốn nước ngoài lớn nhất.
- Kể từ năm 1980, hình thức sở hữu 100% vốn nước ngoài cũng được Chính phủ Thái Lan chấp nhận.
- Trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, Chính phủ Thái Lan cũng áp dụng hình thức BOT.
Tuy có nhiều ưu đãi nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, lôi kéo các luồng
VĐT quốc tế, song Chính phủ Thái Lan cũng áp dụng một số hạn chế trong việc lựa chọn các nhà đầu tư như: Chính phủ Thái Lan chủ trương chỉ cho phép các công ty nước ngoài đầu tư vào những ngành mà Thái Lan không đủ sức. Tuy không công bố công khai “vùng cấm” đầu tư, nhưng trên thực tế các công ty nước ngoài không thể len chân vào một số ngành kinh tế quan trọng. Đặc biệt là ngành tài chính.
Do việc rút vốn và chạy vốn “một cách tàn bạo và đột ngột” của các nhà ĐTNN ra khỏi Thái Lan vào cuối năm 1997 và trong năm 1998, hoạt động của nhiều công ty ĐTNN và những dự án có VĐT nước ngoài gặp khó khăn nghiêm trọng. Phản ứng nhằm bảo toàn VĐT, bảo toàn tài sản cùng hoảng loạn có tính chất tâm lý đã làm giảm sút nghiêm trọng lượng vốn FDI vào Thái Lan.
Nhằm giảm bớt khó khăn cho các công ty và giữ nguyên những định hướng có tính chất chiến lược, chính sách đầu tư của Thái Lan đã có những điều chỉnh quan trọng. Là một trong năm nước sáng lập ra tổ chức ASEAN. Khi ra nhập ASEAN, mục đích của Thái Lan là tìm kiếm lợi ích về an ninh và quân sự hơn là hợp tác kinh tế. Hơn nữa, đối với các nước ASEAN, do điều kiện tự nhiên, những tiềm năng ban đầu để phát triển kinh tế, truyền thống văn hóa tương đối đồng đều, trình độ kỹ thuật công nghệ thấp, cơ cấu hàng hóa mà nền kinh tế tạo ra tương đối giống nhau, tất cả những yếu tố đó cho thấy khả năng bổ sung nhau trong phát triển kinh tế của Thái Lan với nhiều nước trong khu vực là rất hạn chế. Vì thế, vào những năm 70, 80, trong nhãn quan của các nhà cầm quyền Thái Lan, trong hợp tác đầu tư với bên ngoài (đặc biệt quan hệ kinh tế với Mỹ, Nhật Bản, EU) rõ ràng có lợi hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Ở đó Thái Lan có thể nhận được kỹ thuật, công nghệ mới, có thể tiêu thụ được các hàng nông sản và hàng công nghiệp chế biến với những ưu đãi thuế quan, qua đó có điều kiện thuận lợi cho việc từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Hơn nữa, Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu là các thị trường tiêu thụ lớn các mặt hàng thủy sản, cao su, dầu dừa, quặng đồng, quặng sắt … của Thái Lan, đồng thời là
thị trường cung cấp kỹ thuật, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao cho Thái Lan.
Bước sang thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhiều và đã có tác động không nhỏ đến sự chuyển hướng của nền kinh tế Thái Lan, trong đó có quan hệ với các nước ASEAN. Thái Lan đã chở thành một nước công nghiệp. Bản thân sự phát triển bên trong nền kinh tế Thái Lan những năm 1990 khác nhiều so với thập kỷ 60, 70. Do đó, việc khai thác hết năng lực sản xuất của nền kinh tế và không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh là một đòi hỏi bức xúc đối với việc gìn giữ những thị trường truyền thống, mở mang thị trường mới nhằm tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng của Thái Lan.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho tự do hóa thương mại, tự do hóa đầu tư trong khu vực, ngay từ những ngày đầu thực hiện việc triển khai AFTA, Thái Lan đã liên tục thực hiện hợp tác với các nước trong khu vực. Do có sự thuận lợi về điều kiện địa lý, Thái Lan đã tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực trong các lĩnh vực như: vận tải đường bộ, hải quan, giáo dục đại học, thương mại, thông tin và công nghệ thông tin, KCN,… Gần đây kế hoạch xây dựng KCN tại tỉnh Rayong của Thái Lan đã thu hút khoảng 20 công ty của Xingapore vào hoạt động. Các công ty này đã tạo thêm 22.000 chỗ làm việc.
Qua đây ta cũng có thể thấy quan điểm của Thái Lan trong lựa chọn đối tác FDI
có sự thay đổi qua các giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên có một số nét chính sau:
- Ưu tiên, khuyến khích ĐTNN vào các lĩnh vực kỹ thuật cao.
- Triển khai các dự án đầu tư trong lĩnh vực giao thông, năng lượng, nâng đỡ
các nhà hàng ăn uống, du lịch, mở rộng công suất dệt may.
- Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực trước kia bị
cấm chẳng hạn như lĩnh vực tài chính.
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực mà Thái Lan còn yếu.
- Tận dụng khả năng tài chính và công nghệ cao của các nước phát triển.
- Hợp tác với các nước trong khu vực để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Thái Lan.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VIỆC LỰA CHỌN ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
2.1.1. Những đặc điểm chủ yếu về tình hình FDI ở Việt Nam trong thời gian qua
2.1.1.1. Về tình hình cấp giấy phép FDI
Về qui mô và nhịp độ thu hút vốn
Theo Bộ KH - ĐT, tính đến ngày 20 tháng 12 năm 2002, Việt Nam có 3.669 dự án có vốn FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 39,1 tỷ USD, trong đó đã thực hiện được khoảng 20,7 tỷ USD. Trong số này, hình thức liên doanh chiếm 1.089 dự án, với khoảng 19,69 tỷ USD vốn đăng ký và trên 10 tỷ USD vốn thực hiện; hình thức 100% vốn ĐTNN chiếm 2.417 dự án, với hơn 14,2 tỷ USD vốn đăng ký và hơn 6,7 tỷ USD vốn thực hiện; hình thức HĐHTKD có
157 dự án, với hơn 3,8 tỷ USD vốn đăng ký và hơn 3,7 tỷ USD vốn thực hiện; hình thức BOT có 6 dự án, với gần 1,333 tỷ USD vốn đăng ký và khoảng 216,9 triệu USD vốn thực hiện. (Xem bảng 2 – trang 31)
- Trong 3 năm đầu 1988 - 1990: Số dự án và số vốn đầu tư chưa nhiều (thời gian này có thể coi là thời gian khởi động).
- Thời kỳ 1991 - 1995: Nhịp độ tăng trưởng nhanh, bình quân năm sau cao hơn
năm trước xấp xỉ 50%.
- Thời kỳ 1996 - 2000: Từ 1996 - 1999, số lượng vốn và số lượng dự án đăng ký giảm liên tục. Riêng năm 1999 so với năm 1998 số vốn đăng ký giảm 60% nhưng số dự án chỉ giảm 2% dẫn đến qui mô bình quân của một dự án chỉ có 5,8 triệu USD. Nhưng đến năm 2000 FDI vào Việt Nam được khôi phục trở lại, tăng cả về số lượng vốn và số lượng dự án.
- Năm 2001 có 553 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký mới 2.436 triệu USD, tăng 22,6% so với năm 2000. Nếu tính cả 580 triệu USD tăng vốn của các dự án cũ thì tổng số vốn FDI được thu hút trong năm 2001 là 3.116 triệu USD, tăng
20,4% so với năm 2000. trong đó vốn FDI thực hiện là 121,662 triệu USD.
(Xem phụ lục 1)
- Tính đến tháng 12 năm 2002, cả nước có hơn 3.669 dự án còn hiệu lực, của hàng trăm công ty đến từ trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, với tổng vốn đầu tư hơn 39 tỷ USD. Vốn thực hiện là 20,7 tỷ USD. Khu vực có vốn FDI chiếm 10,5% tổng sản phẩm quốc nội trong năm 1999 so với 3,6% năm 1993. FDI chiếm gần 20% tổng vốn đầu tư của Việt Nam, 25,1 giá trị sản xuất công nghiệp, 27,4% kim ngạch xuất khẩu và tạo ra hơn 600.000 lao động trực tiếp.
FDI theo ngành
Theo thống kê của Tổng cục du lịch, giai đoạn 1993 –1996 được xem như là thời kỳ hoàng kim của hoạt động ĐTNN trong ngành du lịch, trung bình mỗi năm có 46 dự án với tổng vốn đầu tư 1,475 tỷ USD, chiếm 20% tổng vốn FDI đăng ký. Sang giai đoạn 1998 – 2001, ĐTNN vào ngành du lịch bắt đầu tụt dốc, mỗi năm trung bình chỉ còn 4 dự án với tổng vốn đầu tư 214,6 triệu USD. Tuy nhiên, trong năm 2002, dòng vốn ĐTNN vào ngành du lịch lại có chiều hướng gia tăng, có thêm 20 dự án ĐTNN mới với tổng số vốn đầu tư gần 150 triệu USD.
Trong quý I/2003 ĐTNN giảm so với cùng kỳ năm ngoái về cả số lượng dự án
lẫn VĐT. Tổng số dự án mới được cấp phép là 61 dự án (chỉ bằng 62,8% cùng kỳ năm ngoái) với tổng số vốn đăng ký là 99,38 triệu USD (bằng 60,5%). Trong đó, công nghiệp nặng 25 dự án với tổng vốn đăng ký là 25,59 triệu USD, công nghiệp nhẹ là 32 dự án với tổng vốn đăng ký 50,79 triệu, công nghiệp thực phẩm
3 dự án với tổng vốn đăng ký 7 triệu USD, công nghiệp dầu khí 1 dự án với tổng vốn đăng ký 17 triệu USD. Nguyên nhân của tình trạng này là do chính sách của Việt Nam chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư và ảnh hưởng do việc giảm mức bảo hộ khi Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế quan theo lộ trình AFTA.
Số dự án và số vốn đầu tư vào ngành xây dựng văn phòng và căn hộ cho thuê thời kỳ đầu tương đối cao nhưng đã giảm mạnh sau khủng hoảng kinh tế năm
1997. Đến cuối năm 2001 chỉ chiếm 9,6% tổng vốn đăng ký đầu tư. Tuy nhiên đến nay số vốn ĐTNN vào lĩnh vực này đã đạt 1,6 tỷ USD, gần 50% vốn đăng ký.
Vốn đầu tư đăng ký vào ngành xây dựng đến đầu năm 2003 chiếm 1,92 tỷ USD, gần 60%, vào giao thông vận tải và bưu điện giữ được tỷ lệ gần 40%, xấp xỉ 1 tỷ USD.
Mặc dù đặc biệt ưu tiên cho việc huy động vốn vào phát triển Nông - Lâm - Ngư nghiệp, nhưng số dự án có vốn FDI trong lĩnh vực này vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Nếu tính đến cuối năm 1993 tỷ lệ vốn đầu tư vào Nông - Lâm nghiệp là 5,3%, Ngư nghiệp là 2,5%. Cuối năm 2002 chỉ có 12 dự án có vốn FDI trong lĩnh vực này. Tính đến hết tháng 12/2002, số vốn thực hiện đạt 1,29 tỷ USD chiếm gần
53,3% vốn đăng ký. Việt Nam là một nước nông nghiệp vì vậy cần phải chú trọng hơn nữa vào việc thu hút vốn FDI giành cho phát triển trong lĩnh vực này.
Vốn FDI vào ngành Tài chính - Ngân hàng chiếm một tỷ trọng nhỏ, năm 1999 chiếm 1,7% tổng số vốn. Nhưng đến cuối 2001, chỉ chiếm 1,48%. Tính đến hết năm 2002, chỉ có 47 dự án có vốn FDI. Điều đó chứng tỏ thị trường vốn Việt Nam chưa phát triển và không có sức hấp dẫn đối với các nhà tài chính quốc tế do hệ thống ngân hàng của Việt Nam chưa đáp ứng được đòi hỏi của các nhà
đầu tư.
Tính đến trung tuần tháng 4 năm 2003, cả nước đã có 133 dự án đầu tư vào các lĩnh vực Văn hóa, Giáo dục, Y tế với tổng vốn đầu tư là 638 triệu USD, đứng trên cả ngành tài chính – ngân hàng mới chỉ thu hút được 47 dự án với 606 triệu USD vốn đầu tư. Ngoài Bệnh viện Việt – Pháp (TP.HCM) với vốn đầu tư 40 triệu USD, thì có 2 dự án về văn hóa – thể thao với tổng vốn đầu tư hơn 150 triệu USD đang được xem xét để cấp giấy phép.
Như vậy, số dự án và số VĐT nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư vào nước ta phân theo ngành kinh tế bước đầu đạt được những tiến bộ nhất định, phục vụ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tuy chưa phân bố đều. (Xem phụ lục 2)
Về thu hút vốn FDI phân bố theo vùng
Trong năm 2001 đã có 38 tỉnh, thành phố thu hút được vốn FDI. Năm địa bàn có số vốn đầu tư lớn nhất đó là Bà Rịa - Vũng Tàu (835 triệu USD), TP. Hồ Chí Minh (533 triệu USD), Đồng Nai (198 triệu USD), Bình Dương (167,3 triệu USD), Hà Nội (166 triệu USD). Hoạt động FDI khởi sắc tại nhiều địa phương. So với năm 2000, số vốn mới thu hút trong năm 2001 ở Bà Rịa - Vũng Tàu cao gấp hơn 10 lần, Hoà Bình gấp hơn 9 lần, Hà Nội, Long An gấp hơn 3 lần, Hải Phòng, Hưng Yên gấp đôi... Một số địa phương trước đây chưa hoặc sau mấy năm chưa thu hút thêm được dự án mới nào thì đến năm nay đã thu hút được hoặc gia tăng, như Phú Yên, Hải Dương, Quảng Bình, Bắc Giang, Ninh Thuận, Hà Tây, Nam Hà, Yên Bái,...
Nhìn chung, FDI hiện đang tập trung chủ yếu vào các vùng kinh tế động lực Đông Nam Bộ (thu hút 20.271,2 triệu USD, chiếm 53,1% tổng số vốn đăng ký còn hiệu lực của cả nước), Bắc Bộ (11.004,5 triệu USD, chiếm 28,8%). Tất cả các vùng, các tỉnh, thành phố còn lại chỉ có 6.901 triệu USD, chiếm 18,1%. (Xem phụ lục 3)
Theo MPI, tính đến hết quý I/2003, nếu không kể lĩnh vực dầu khí, thì 10 địa phương dẫn đầu về thực hiện VĐT nước ngoài gồm : TP. HCM (5.451 triệu USD), Hà Nội (3.007 triệu USD), Đồng Nai (2.600 triệu USD), Bình Dương (1.460 triệu USD), Hải Phòng (1.023 triệu USD), Bà Rịa – Vũng Tàu (676 triệu USD), Thanh Hoá (410 triệu USD), Kiên Giang (394 triệu USD), Khánh Hoà (288 triệu USD) và Vĩnh Phúc (263 triệu USD). Có một số tỉnh không thực hiện được một đồng VĐT nào là Kon Tum, Tuyên Quang và Đồng Tháp (không kể những dự án đã giải thể).
Như vậy, số vốn FDI phân bố chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế theo các vùng của đất nước. Điều đó đặt ra yêu cầu về các giải pháp cần thiết để khắc phục sự phát triển không đồng đều giữa các vùng.
Về thu hút vốn FDI theo đối tác
Cho đến thời điểm cuối tháng 12/2002 đã có 3.669 dự án của các tập đoàn, công ty thuộc gần 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
- Số các tập đoàn và công ty lớn tầm cỡ thế giới tham gia đầu tư ngày càng tăng.
- Năm 2001 đã có thêm 4 nước và vùng lãnh thổ đầu tư lần đầu tiên vào Việt Nam. Đó là Thổ Nhĩ Kỳ (4 dự án với 50,7 triệu USD), Bungari (1 dự án với 4,39 triệu USD), Turk & Caicos Islands (1 dự án với 1 triệu USD), Tây Ban Nha (1 dự án với 200 nghìn USD), nâng số nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam lên 60. Trong số các quốc gia và lãnh thổ có số vốn đăng ký hơn 1 tỷ USD phần lớn đều thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, chiếm 65,94% tổng vốn đầu tư tính đến cuối tháng 12 năm 2001. Số vốn đầu tư đăng ký của Singapore chiếm
18,04% tổng số vốn đứng vị trí thứ nhất; Đài Loan đứng vị trí thứ hai chiếm
13,61%; Nhật Bản chiếm 10,71%; Hàn Quốc chiếm 8,75%; Hồng Kông chiếm
7,37%; Thái Lan chiếm 2,86%; Malaysia chiếm 2,7%.
- Các cường quốc kinh tế lớn có xu hướng mở rộng hợp tác trong lĩnh vực đầu
tư với nước ta. Tính đến cuối tháng 12 năm 2001 Hà Lan đứng thứ nhất với số vốn là hơn 573,85 triệu USD; Pháp đứng thứ 2 với số vốn là hơn 442,89 triệu USD; đứng thứ 3 là Đài Loan với 407 triệu USD; Singapore đứng thứ 4 với
270,78 triệu USD; và đứng thứ 5 là Nhật với 160,5 triệu USD. (Xem biểu đồ 2)
Biều đồ 2: 5 nền kinh tế có vốn FDI lớn nhất ở VN
(Đơn vị : triệu USD)
600
573.85
500
442.89
407
400
300
200
270.78
160.5
100
0
Hμ Lan Ph¸p §μi Loan Singapore NhËt B¶n
Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam 2001 - 2002
Về hình thức liên doanh và đối tác Việt Nam
Bảng 2 : FDI theo hình thức đầu tư 1988 - 2002
(Tính tới ngày 20/12/2002 - Chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
(Đơn vị: triệu USD)
HÌNH THỨC
ĐẦU TƯ
SỐ
DỰ ÁN
TVĐT
VỐN PHÁP ĐỊNH
VỐN ĐẦU TƯ
THỰC HIỆN
BOT
6
1,332,975,000
411,385,000
216,941,200
HĐHTKD
157
3,870,280,224
3,300,263,330
3,761,554,376
100% VNN
2,417
14,202,336,482
6,298,792,863
6,725,903,405
Liên doanh
1,089
19,699,154,173
8,013,237,517
10,034,903,814
Tổng số
3,669
39,104,745,879
18,023,678,710
20,739,302,795
(Nguồn : Thời báo Kinh tế Việt Nam, số Tết Quý Mùi)
Nhìn vào bảng trên ta thấy, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài có số dự án lớn nhất, nhưng số vốn đầu tư và vốn thực hiện được lại không bằng hình thức liên doanh.
Về đối tác Việt Nam, trong số các hợp đồng hợp tác kinh doanh và các doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động, DNNN tham gia chiếm 92% tổng số các doanh nghiệp với 96% số dự án và 99% số vốn đăng ký. Trong khi đó, doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số dự án và số vốn đầu tư chiếm tỷ trọng không đáng kể.
Như vậy, tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài ở nước ta chủ yếu là khu vực kinh tế Nhà nước. Khu vực kinh tế tư nhân chiếm một tỷ lệ quá nhỏ bé, thể hiện sự hạn chế về năng lực tài chính và quản lý của khu vực kinh tế này, đây là một đặc điểm khác biệt cơ bản giữa nước ta và các nước trong khu vực khi tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài.
2.1.1.2. Về tình hình thực hiện vốn FDI ở Việt Nam thời gian qua
Tính đến hết tháng 12/2002, chỉ tính các dự án còn hiệu lực, số vốn đã thực hiện của các dự án FDI là 20,739 tỷ USD trong tổng vốn FDI khoảng 39,104 tỷ USD.
Trong điều kiện của một nền kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, các nguồn lực cũng như chính sách đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến động, thị trường phát triển chưa đầy đủ... thì tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện được ở mức như vậy là không thấp. Tuy vậy, xuất phát từ đặc điểm các dự án sau khi được phê duyệt thường chưa đủ các điều kiện để triển khai ngay. Do đó, số vốn thực hiện trong năm chủ yếu là của các dự án đã được phê duyệt từ những năm trước đó. Nguyên nhân của vấn đề này là do:
- Tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực buộc các nhà đầu tư
phải dừng hoặc chấm dứt không thể tiếp tục đầu tư.
- Một số nhà đầu tư khi lập dự án tính toán chưa thật sát với thực tế nên khi triển khai gặp phải một số vấn đề phát sinh vượt quá khả năng tài chính cũng như các điều kiện cho triển khai dự án.
- Một số nhà đầu tư nước ngoài không đủ năng lực tài chính, nên triển khai thực hiện dự án chậm, có khi mất cả khả năng thực hiện. Đến hết năm 2001 đã có gần 1775 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh (bằng 58,13% tổng số dự án còn hiệu lực), 604 dự án đang trong giai đoạn triển khai thực hiện (bằng
19,78% số dự án còn hiệu lực), 437 dự án chưa triển khai nhưng có khả năng thực hiện (bằng 14,3% số dự án còn hiệu lực), 237 dự án chưa triển khai không có khả năng thực hiện có thể bị rút giấy phép (bằng 7,76% số dự án còn hiệu lực).
Có gần 800 dự án sau một thời gian triển khai đến nay có nhu cầu xin được tăng vốn, mở rộng sản xuất. Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm là hơn 6 tỷ USD (bằng gần 15% tổng vốn đăng ký và bằng gần 30% số dự án được cấp giấy phép).
Có 127 dự án hết hạn thực hiện hợp đồng (bằng 3,4% số dự án được cấp giấy phép). 792 dự án đã bị rút giấy phép trước thời hạn (chiếm 14,77%).
Bên nước ngoài góp vốn chủ yếu bằng tiền mặt và trang thiết bị do đó trong giai đoạn đầu triển khai dự án, thực hiện các công việc xây dựng cơ bản bị phụ thuộc rất nhiều vào tiến độ góp vốn của bên nước ngoài. Trong giai đoạn xây dựng cơ bản, đối tác nước ngoài gần như nắm quyền điều hành toàn bộ các hoạt động của liên doanh. Do trình độ cán bộ, nên rất ít liên doanh mà trong đó cán bộ của đối tác Việt Nam giành được tiếng nói chi phối các hoạt động này. Đến hết năm 2001, các đối tác nước ngoài đã đưa vốn vào thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam là 13.341 triệu USD (gấp gần 6 lần số vốn của Việt Nam tham gia vào hoạt động này).
Đối tác Việt Nam góp vốn tham gia liên doanh chủ yếu bằng giá trị quyền sử
dụng đất và giá trị thiết bị, nhà xưởng hiện có. Tất cả nguồn vốn này thường được chuyển một lần ngay vào thời điểm bắt đầu triển khai thực hiện dự án đầu tư, do đó nếu theo giấy phép đăng ký thì bên Việt Nam góp 21,9% bên nước ngoài góp 68,7%. Số vốn góp của bên Việt Nam ở thời điểm này gồm 74% bằng giá trị quyền sử dụng đất; 15% bằng giá trị nhà xưởng, thiết bị, và 11% là bằng tiền mặt, nguyên vật liệu và các dịch vụ.
Số vốn của bên nước ngoài gồm 76,6% bằng tiền mặt và 15,4% bằng giá trị thiết bị, máy móc, phần còn lại là bằng các dịch vụ tư vấn, công nghệ...
Nếu xét trên tổng thể hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam (không phân chia theo hình thức đầu tư) thì tỷ trọng vốn nước ngoài đang chiếm phần lớn 85% trong tổng số vốn hoạt động. Không những thế, tỷ trọng vốn nước ngoài đang có xu hướng tăng lên, còn tỷ trọng vốn của bên Việt Nam đã thấp lại đang có xu hướng giảm xuống đáng kể.
2.1.2. Những mặt tác động tích cực và các hạn chế của hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
2.1.2.1. Những tác động tích cực của hoạt động FDI ở Việt Nam
Qua 15 năm, khu vực FDI đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Thật khó có thể phân định rõ những gì là kết quả riêng ở Việt Nam trong những năm qua do FDI mang lại. Song có thể khái lược trên các mặt sau đây :
Thứ nhất, FDI đã góp phần quan trọng bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển, khắc phục tình trạng thiếu vốn của nền kinh tế.
Thứ hai, FDI giúp điều chỉnh cấu trúc kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển sức mạnh sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả kinh tế.
Thứ ba, FDI giữ vai trò quan trọng trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Thứ tư, cùng với đầu tư trong nước, FDI đã góp phần quan trọng trong việc hình thành hệ thống 67 khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả nước, góp phần phân bố lại công nghiệp một cách hợp lý, xử lý môi trường tốt hơn, nâng cao hiệu qủa đầu tư và hiệu lực quản lý.
Thứ năm, FDI góp phần nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp trong nước.
Thứ sáu, FDI tạo ra tiềm lực kinh tế quan trọng cho việc phát triển kinh tế
quốc gia.
Thứ bảy, FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao trình độ cho người lao
động, nâng cao năng suất lao động và tăng thu nhập.
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ đóng góp của hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP thời kỳ 1990 - 2001
Chỉ tiêu
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
00
01
Tốc độ tăng GDP (%)
5,1
6,0
8,6
8,1
8,8
9,5
9,3
9,0
6,5
5,6
6,7
6,8
Tỷ lệ đóng góp của
FDI trong GDP (%)
-
-
2,0
3,6
6,1
6,9
7,7
8,6
9,5
10,3
12,2
13,5
Nguồn: - Niên giám thống kê Việt Nam năm 1998 của NXB Thống kê Hà Nội
1999
- Báo cáo về tình hình FDI năm 1999- 2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp
hoá - hiện đại hoá
Các nhóm ngành trong nền kinh tế Việt Nam thời gian qua đều tăng lên nhưng với tốc độ khác nhau nên đã làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong GDP.
Tính trung bình trong thời kỳ 1990 - 1997 nông nghiệp tăng 4,4% thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng chung là 8,2%, tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp giảm 9,6% trong vòng 5 năm (1990 - 1995). Thời kỳ 1996 - 1998 giảm
2% và từ chỗ là ngành có tỷ trọng cao nhất trong GDP trở thành ngành có tỷ
trọng thấp nhất.
Nhóm ngành công nghiệp có tốc độ tăng cao nhất, trung bình 12,8% một năm, tỷ trọng GDP tăng 7,4% thời kỳ 1990 - 1995; còn thời kỳ 1996 - 1999 tăng 12% và đã trở thành nhóm ngành có tỷ trọng đứng thứ hai.
Nhóm ngành dịch vụ có tốc độ tăng khá, bình quân 9% một năm, cao hơn tốc độ
tăng chung, tỷ trọng trong GDP thời kỳ 1990 -1995 tăng 3,3% còn thời kỳ 1996
- 1999 tăng 1,9%.
Tỷ trọng các ngành trong GDP của Việt Nam năm 1999 Nông - Lâm - Ngư
nghiệp 26%; Công nghiệp, Xây dựng 32,7% và Dịch vụ 41,3%.
Riêng năm 1998 khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm: 100% sản lượng khai thác dầu thô; 70% sản lượng xe có động cơ; 50% sản lượng thép; 49% sản lượng hàng điện tử dân dụng; 32% sản lượng giầy da xuất khẩu; 18% sản lượng thực phẩm, đồ uống; 16% sản lượng hàng may mặc; 14% sản lượng sản phẩm hoá chất
FDI góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.
Với lợi thế về vốn, công nghệ và mối quan hệ với thị trường quốc tế, khu vực có vốn ĐTNN có lợi thế trong xuất khẩu và đã góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tỷ trọng giá trị kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ 2,5% năm 1991, 4,3% năm 1992 tăng lên 22,4% năm 1999.
Điều đáng chú ý là trong giai đoạn vừa qua nhiều doanh nghiệp FDI đang trong quá trình xây dựng, chuẩn bị sản xuất hoặc sản xuất thử nên khu vực này vẫn còn tình trạng nhập siêu. Hai năm 1995 - 1996 mỗi năm nhập siêu trên 1 tỷ USD, năm 1997 là 900 triệu USD, năm 1998 là 686 triệu USD và năm 1999 là
825 triệu USD. Tỷ trọng nhập siêu của khu vực FDI thường chiếm trên dưới
30% so với tổng nhập siêu của Việt Nam. Song xu hướng chung sẽ là tăng xuất khẩu tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu và sẽ có xuất siêu khi các doanh nghiệp
FDI đi vào hoạt động.
Khu vực FDI đóng góp tích cực vào nguồn thu ngân sách.
Nộp ngân sách của khu vực này năm 1994 là 128 triệu USD, năm 1995 là 195 triệu USD, năm 1996 là 263 triệu USD, năm 1998 là 320 triệu USD và năm
1999 là 271 triệu USD. FDI đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách hàng năm là trên 1/4 tổng thu ngân sách của cả nước. Thu nhập bình quân của người lao động hiện nay ở khu vực này là 84 USD/ người/ tháng năm 1996, tạo ra khoảng 300._.iết, đàm phán và ra quyết định
3.2.1.3. Các nguồn thông tin phục vụ cho việc lựa chọn đối tác đầu tư nước
ngoài
Để cho công tác lựa chọn đối tác FDI được tiến hành chu đáo và thuận lợi cần có các nguồn thông tin phong phú và đa dạng, vừa mang tính hệ thống, vừa cập nhật. Các nguồn thông tin này bao gồm nhiều loại.
Thông tin thu thập qua con đường chính thức:
- Thông tin về nhà FDI do chính họ cung cấp, thông qua các tài liệu giới thiệu về sản phẩm của họ tiêu thụ trên thị trường.
- Thông tin qua các sách báo, tài liệu chuyên môn, số liệu thống kê về nhà FDI.
- Thông tin qua hội chợ, triển lãm.
Thông tin thu thập qua việc nghiên cứu, thu thập trực tiếp:
- Thông tin qua các khảo sát điều tra thị trường về hàng hoá, dịch vụ của nhà
FDI.
- Thông tin qua việc trao đổi trực tiếp với chính các nhà FDI và người đại diện của họ.
- Thông tin qua ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội kinh doanh.
Thông tin thu thập qua các kênh chuyên dùng
- Thông tin qua các tổ chức Đại sứ quán, Thương vụ.
- Thông tin mua của các tổ chức chuyên môn
3.2.2. Những biện pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện việc lựa chọn đối tác FDI
ở Việt Nam trong thời gian tới
Để nâng cao hơn chất lượng công tác lựa chọn đối tác FDI đòi hỏi sự cố gắng và phối hợp giữa nhiều cơ quan từ trung ương đến địa phương, các cơ quan tổng hợp và cơ quan chuyên ngành phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của họ, đồng thời được điều hành bởi một đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm và có đủ nguồn thông tin cần thiết.
Sau đây là một số biện pháp chủ yếu mà khóa luận đề xuất nhằm tiếp tục hoàn thiện công tác lựa chọn đối tác FDI trong thời gian tới.
3.2.2.1. Nhận thức rõ yêu cầu và ý nghĩa của việc lựa chọn đối tác FDI
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục và tạo sự thống nhất về nhận thức ý nghĩa
và tầm quan trọng của đối tác FDI từ cấp lãnh đạo đến chuyên viên, từ cấp trung
ương đến cấp tỉnh, thành và doanh nghiệp tham gia vào hoạt động FDI.
- Cần tạo nên sự chuyển biến nhận thức, hiểu rõ các yêu cầu, nắm vững các bước công việc liên quan đến công tác lựa chọn đối tác FDI. Trên cơ sở đó có sự quán triệt, phân công các đầu mối và cá nhân đảm nhận các công việc có liên quan, tạo nên sự thống nhất và đồng bộ trong việc triển khai hoạt động lựa chọn đối tác FDI.
3.2.2.2. Hoàn thiện tiêu chuẩn lựa chọn đối tác FDI
- Trong quá trình triển khai công tác lựa chọn đối tác FDI cần có sự trao đổi lẫn nhau, rút kinh nghiệm thường xuyên, đề xuất những tiêu chuẩn lựa chọn cho phù hợp với đặc điểm và yêu cầu của từng ngành, từng địa phương.
- Cần đúc rút những trường hợp điển hình tích cực và tiêu cực khi xem xét, đánh giá, lựa chọn đối tác FDI qua những dự án đang hoạt động để nhận biết được những dấu hiệu phong phú và đa dạng của những điển hình về đối tác FDI đó, tăng thêm sự nhạy bén của đội ngũ cán bộ chuyên hoạt động trong lĩnh vực này.
- Việc vận dụng các tiêu chuẩn lựa chọn cần có sự cân nhắc linh hoạt. Có thể tìm những thông tin thay thế sao cho vừa đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý vừa phù hợp với tình hình thực tiễn.
3.2.2.3. Tiếp tục hoàn thiện qui trình và tổ chức lựa chọn, phối hợp các nguồn thông tin phục vụ công tác lựa chọn đối tác FDI
Cần qui định phương thức phối hợp, trao đổi thông tin, bàn bạc giữa các bộ phận chuyên môn, giữa các ngành các cấp để thúc đẩy tiến độ công việc, đảm bảo sự đánh giá toàn diện và khách quan về đối tác FDI. Phát hiện các khâu yếu, các hiện tượng tiêu cực trong việc triển khai công tác lựa chọn đối tác FDI.
- Phối hợp các nguồn thông tin để tiếp cận toàn diện, bảo đảm tính khách quan và trung thực là yếu tố quyết định sự thành công trong công tác lựa chọn đối tác
FDI. Cần xây dựng ngân hàng dữ liệu về các đối tác FDI ở cơ quan có thẩm quyền, thực hiện nối mạng và chia sẻ thông tin với các ngành các cấp, khắc phục sự chậm trễ, sơ sài khi xử lý các vấn đề có liên quan.
3.2.2.4. Phát triển các dịch vụ tư vấn phục vụ cho công tác lựa chọn đối tác
FDI
Dịch vụ tư vấn là một hoạt động có qui mô ngày càng lớn và có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Bao gồm nhiều loại dịch vụ chuyên ngành như dịch vụ nghiên cứu thị trường, dịch vụ lập và thẩm định dự án đầu tư, dịch vụ pháp lý... từng bước hình thành dịch vụ mang tính tổng hợp là nghiên cứu, đánh giá về các nhà FDI.
Chuyên gia tư vấn thường phải đảm nhiệm các khâu lập dự án tiền khả thi, lập luận chứng kinh tế kỹ thuật và nghiên cứu lựa chọn đối tác. Ngoài ra quá trình triển khai thực hiện dự án cũng cần đến tư vấn.
Bên cung cấp dịch vụ tư vấn có thể là các tổ chức nghiên cứu thị trường, các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp, các viện nghiên cứu, trường đại học... có thể đảm nhiệm các công việc sau:
- Thu thập và xử lý các thông tin cần thiết.
- Hỗ trợ trong việc nghiên cứu tìm đối tác.
- Là cầu nối giữa nhà đầu tư trong nước với nhà FDI.
- Hỗ trợ các nhà đầu tư trong nước bổ khuyết kiến thức, kinh nghiệm.
- Là người phản biện khách quan khi quyết định lựa chọn đối tác.
Sử dụng dịch vụ tư vấn giúp giảm bớt thời gian và chi phí, nâng cao độ chuẩn xác của kết quả nghiên cứu. Cho nên, cần chú trọng xây dựng đội ngũ chuyên gia về từng loại dịch vụ như nghiên cứu thị trường, tư vấn pháp lý, tư vấn lập và thẩm định dự án đầu tư.... Kết hợp giữa các chuyên gia tư vấn có kinh nghiệm với việc đào tạo đội ngũ chuyên gia trẻ. Kết hợp giữa chuyên gia trong nước với
chuyên gia quốc tế.
3.3. KIẾN NGHỊ VỀ ĐẢM BẢO CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT CHO VIỆC LỰA CHỌN ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
3.3.1. Hoàn thiện khung pháp lý và tăng cường tính hấp dẫn của môi trường đầu tư
Cần nhanh chóng hoàn chỉnh hệ thống cơ chế chính sách FDI, đặc biệt là Luật
ĐTNN tại Việt Nam và nâng cao hiệu lực thực tiễn của chúng.
Yêu cầu của hệ thống cơ chế chính sách này là phải đảm bảo tính đồng bộ, không chồng chéo, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế và có sự ưu đãi nhất định nhằm khuyến khích ĐTNN.
Việc ban hành các văn bản pháp luật về FDI đã được Nhà nước ta chú ý đặc biệt trong những năm qua. Gần đây nhất, với những nội dung mới, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/07/2000 đã tạo ra những hành lang pháp lý mới, phù hợp với yêu cầu mới của thực tiễn kinh tế Việt Nam. Việc sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN lần này là bước đổi mới rất cơ bản nhằm hoàn thiện và đồng bộ hoá hệ thống pháp luật, xích lại gần hơn mặt bằng luật pháp quốc tế, tạo cho môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn.
Hướng dẫn và thi hành nghiêm chỉnh các chính sách ưu đãi đã được luật hoá tại Luật ĐTNN về các loại thuế, về chuyển nhượng vốn, vay ngoại tệ, chuyển đổi hình thức đầu tư; về quyền sử dụng, thế chấp đất thuê và trách nhiệm, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng...
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ĐTNN tại Việt Nam là giải pháp quan trọng trong hệ thống các giải pháp của Nhà nước ta để cải thiện môi trường đầu tư, cụ thể là hoàn thiện thêm một bước hành lang pháp lý bổ sung các biện pháp ưu đãi khuyến khích ĐTNN; tăng thêm điều kiện thuận lợi, hấp
dẫn hơn, bảo đảm lợi ích chính đáng của các nhà ĐTNN, khắc phục những yếu kém và giành lợi thế trong cạnh tranh, lựa chọn đối tác, thu hút và sử dụng hiệu quả các dự án FDI.
Việt Nam cần mạnh dạn hơn nữa trong việc tạo ra môi trường pháp lý do hoạt động ĐTNN tại Việt Nam theo xu hướng đồng bộ hoá về Luật, tăng ưu đãi về tài chính cho nhà đầu tư. Cần coi trọng cả việc ban hành qui chế mới, cả việc dỡ bỏ những qui chế không phù hợp với thông lệ quốc tế (như xem xét việc đánh thuế trùng trong việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài hoặc qui định về việc hoàn vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất của bên Việt Nam khi tham gia liên doanh thì liên doanh đó phải nộp thuế sử dụng vốn như một tài sản cố định...). Cần phải tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật. Cần sớm ban hành Luật Bất Động Sản. Đặc biệt, cần tiến tới thống nhất chung cho cả đầu tư trong nước và ĐTNN.
Chuyển từ điều chỉnh trực tiếp sang điều chỉnh gián tiếp theo cơ chế thị trường thông qua hệ thống công cụ pháp luật đồng bộ. Nó vừa tạo hành lang pháp lý rõ ràng, tạo niềm tin cho nhà ĐTNN; vừa hạn chế quan liêu, cửa quyền, tham nhũng của các quan chức làm tổn thương đến hoạt động đầu tư. Giải quyết mềm dẻo các tranh chấp xảy ra trong hoạt động đầu tư, như sử dụng trọng tài quốc tế...
Các cấp các ngành cần ra những văn bản hướng dẫn chi tiết tạo điều kiện thuận lợi cho luật được triển khai có hiệu lực, sớm đi vào cuộc sống và đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư, lợi ích của Nhà nước và người lao động theo đúng tinh thần bình đẳng trước pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trong quá trình xây dựng các chính sách phải lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà ĐTNN và các đối tác trong nước theo tình hình cụ thể. Quá trình thực hiện chính sách phải được tổng kết theo định kỳ để rút kinh nghiệm, bổ sung hoàn thiện chính sách. Để khuyến khích hoạt động FDI cần quan tâm tới một số chính sách:
- Chính sách đất đai: cụ thể hoá việc cho thuê, thế chấp, chuyển nhượng đất
đai; hình thành bộ máy xử lý nhanh và hiệu quả (kết hợp giữa thuyết phục ý thức
pháp luật và cưỡng chế), giảm giá thuê đất, công tác đo đạc chỉ nên tiến hành tối đa 2 lần, thủ tục đơn giản, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng được xác định trên cơ sở giá thị trường và có sự thoả thuận với người sử dụng đất. Xúc tiến việc xây dựng pháp lệnh đền bù và tái định cư, bỏ hệ số K khi xác định giá đất đền bù thiệt hại, qui định về quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải di chuyển đến nơi ở mới, qui định bắt buộc về cơ sở hạ tầng nhất là trường học và cơ sở khám chữa bệnh tại khu tái định cư và các công trình phúc lợi khác phục vụ đời sống của nhân dân. Hiện nay công tác giải phóng mặt bằng gây chậm chễ nhất trong việc triển khai dự án đầu tư, Nhà nước cần thể chế hoá bằng pháp luật để có căn cứ cho các địa phương tổ chức thực hiện thuận lợi.
- Chính sách thuế và hỗ trợ tài chính: Cần rà soát lại các chính sách về thuế để đảm bảo tính ổn định, tính rõ ràng và tính dự đoán được; thay đổi những bất hợp lý theo hướng khuyến khích các dự án thực hiện tốt việc nội địa hoá, khắc phục tình trạng nhập khẩu thành phẩm. Nhà nước cần nghiên cứu chính sách ưu đãi tài chính như: giải quyết tốt vấn đề hoàn thuế, hướng dẫn tốt việc hoàn thuế cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện tốt cho nhà đầu tư chuyển lợi nhuận về nước dễ dàng, tỷ lệ vốn góp hợp lý, hỗ trợ các dự án đã được cấp phép hưởng những ưu đãi về thuế lợi tức, giá thuê đất mới; giảm thuế doanh thu cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, hỗ trợ bán ngoại tệ, tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp FDI.
- Cần cho phép các tổ chức tài chính hỗ trợ về mặt tài chính cho các đối tác Việt Nam ở doanh nghiệp liên doanh nhằm hạn chế cao nhất mức thiệt hại của Việt Nam và các nhà ĐTNN tìm được đối tác trong nước có đủ năng lực về tài chính. Bổ sung chính sách cụ thể về thu phí để hoàn vốn nhằm đưa hình thức BOT, BTO, BT vào thực tiễn. Tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán hoạt động sôi động ở các thành phố lớn, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng.
- Chính sách lao động và tiền lương: Hoàn thiện văn bản tuyển dụng, chức năng của các cơ quan quản lý lao động, đào tạo, đề bạt, sa thải, tranh chấp lao
động, thu nhập... tăng cường vai trò của cơ quan thanh tra lao động trong việc kiểm tra giám sát, sửa đổi mức chịu thuế thu nhập của người nước ngoài theo hướng nâng cao mức khởi điểm chịu thuế và giảm mức thuế suất, giảm thuế thu nhập cho người Việt Nam. Qui định mức lương tối thiểu và hình thức trả lương cho phù hợp với tình hình mới (Qui định số 53/ 1999/ QĐ-Ttg-ngày 26/3/1999), nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Các cơ quan hữu quan như Sở lao động nên thoả thuận với các nhà đầu tư về các tiêu chuẩn đối với người lao động. Trong quá trình xét tuyển, Sở lao động hay Ban quản lý KCN - KCX nên phối hợp cùng nhà đầu tư để lựa chọn lao động cho phù hợp bằng cách doanh nghiệp có vốn ĐTNN cử cán bộ chuyên trách sang tham gia phỏng vấn, kiểm tra hồ sơ... Khi đó sẽ thúc đẩy nhanh quá trình tuyển dụng lao động, tìm kiếm được lao động phù hợp, giúp cho các dự án được triển khai đúng tiến độ, chất lượng dự án được nâng cao. Tiến tới cho phép các nhà ĐTNN trực tiếp tuyển dụng lao động theo tiêu chuẩn của họ.
- Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Khuyến khích xuất khẩu sản phẩm chất lượng cao, chế biến tinh; phát triển sản phẩm có thương hiệu Việt Nam; nghiên cứu ban hành chính sách chống độc quyền, chống phá giá hàng hoá, xây dựng Luật cạnh tranh, Luật chống độc quyền... để tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn FDI; trường hợp doanh nghiệp FDI bị thua lỗ do việc bán sản phẩm dưới giá thành kéo dài vì động cơ không lành mạnh cần phải xử lý về trách nhiệm và kinh tế. Bảo hộ thị trường trong nước bằng cách định hướng các ngành nghề ưu tiên. Cần có chính sách để đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá sản phẩm, tiến hành xúc tiến bán hàng ra thị trường quốc tế.
- Chính sách công nghệ: Cần xây dựng chiến lược thu hút công nghệ hiện đại, coi trọng xây dựng khu công nghệ cao, công nghệ sạch ở vùng thích hợp với hệ thống qui chế rõ ràng. Máy móc, thiết bị đưa vào góp vốn hoặc nhập khẩu phải qua giám định chất lượng một cách kỹ lưỡng. Xử lý thoả đáng việc nhập thiết bị
đã qua sử dụng theo nguyên tắc để nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm và tự quyết định nhưng phải đảm bảo các qui định về an toàn lao động và môi trường. Đào tạo cán bộ quản lý khoa học công nghệ, thường xuyên đưa một số cán bộ có phẩm chất và chuyên môn cao ra nước ngoài để tiếp cận thông tin về công nghệ, từ đó nâng cao hiệu quả giám định chất lượng công nghệ. Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ công nghệ bằng việc xây dựng Luật sở hữu trí tuệ.
Bên cạnh việc hoàn thiện các chính sách nêu trên, để tăng cường tính hấp dẫn của môi trường đầu tư cần chú trọng một số giải pháp sau đây:
- Đẩy mạnh việc xây dựng và đồng bộ hóa hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động của các dự án FDI: Tiếp tục nâng cao vai trò của Nhà nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng nhất là hạ tầng ngoài hàng rào KCN. Áp dụng qui chế ưu đãi cụ thể đối với các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các dự án, địa bàn trọng điểm. Khi đó sẽ mở rộng hình thức đầu tư cũng như tạo một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thiện, có chất lượng cao trong KCN.
- Khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước hợp tác đầu tư với nước ngoài: Thành lập công ty cổ phần trong nước có vốn FDI. Hình thức này đã phổ biến rộng rãi trên thế giới và các nước Đông Nam Á. Đây là loại hình công ty có lợi thế về huy động vốn và mức độ rủi ro thấp so với công ty trách nhiệm hữu hạn. Cho phép doanh nghiệp có vốn FDI được phép phát hành cổ phiếu, trái phiếu để mở rộng qui mô đầu tư. Một số tập đoàn có nhiều dự án đầu tư được phép thành lập Công ty quản lý vốn để điều hành chung và hỗ trợ các dự án đã đầu tư.
- Tăng cường tự do hoá đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài: Doanh nghiệp FDI được phép thuê đất để xây dựng nhà ở cho thuê hoặc bán cho người nước ngoài và người Việt Nam. FDI được kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng và một số lĩnh vực dịch vụ khác. Cho phép các nhà đầu tư được tự do lựa chọn hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, ngành nghề và địa điểm đầu tư. Xử lý linh hoạt việc chuyển đổi các hình thức đầu tư. Xem xét linh hoạt hơn việc chuyển
đổi hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với các dự án sử dụng công nghệ cao, xuất khẩu phần lớn sản phẩm, xây dựng hạ tầng KCN ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, xem xét việc cho phép dự án quảng cáo theo hình thức liên doanh.
- Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư: Gắn công tác vận động, xúc tiến đầu tư với chương trình dự án, đối tác, địa bàn cụ thể. Bộ, Ngành, UBND các tỉnh và thành phố phải có trách nhiệm hướng dẫn các nhà đầu tư trong khâu tìm hiểu, chuẩn bị dự án, xem xét cấp giấy phép và triển khai. Xây dựng nội dung để đưa lên mạng Internet, các tạp chí quốc tế, các dự án, các công trình, chính sách kêu gọi đầu tư FDI để các doanh nghiệp, tư nhân nước ngoài dễ dàng nghiên cứu tìm hiểu. Gửi tới các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức Việt kiều danh mục các dự án FDI cần thu hút đầu tư. Tổ chức các kỳ hội nghị với các doanh nghiệp nước ngoài, các nhà tài trợ, các cuộc họp mặt, tiếp xúc với nhà đầu tư, họp báo để giới thiệu cơ hội đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi và đơn giản thủ tục mở văn phòng đại diện, các chi nhánh của các công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Thường xuyên tổ chức các hội nghị với các văn phòng nước ngoài, đại diện các doanh nghiệp FDI hoạt động ở Việt Nam, để nắm bắt được những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp FDI tìm ra hướng giải quyết. Tiếp tục vận động các nhà đầu tư FDI đã hoạt động ở Việt Nam đầu tư thêm dự án mới hoặc mở rộng quy mô dự án đang hoạt động.
3.3.2. Cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của bộ máy quản lý Nhà nước
Cải cách hành chính nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nước, thời gian xử lý công việc được rút ngắn lại, các nhà đầu tư rảnh tay hơn trong việc hoàn thiện các thủ tục để tập trung vào sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận hơn. Hạn chế tối đa tình trạng "nhiều cửa nhiều dấu" trong điều kiện hiện nay để trong tương lai gần, hoạt động FDI phải được quản lý với ít cửa nhất, ít dấu nhất; đặc biệt, riêng về thủ tục cấp giấy phép đăng ký hoạt động thì
cần phải về "một cửa, một dấu". Việc phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong hoạt động đầu tư nói chung, FDI nói riêng cần phải chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn trên cơ sở phân chia rõ trách nhiệm, quyền lợi và phải có hạn định rõ thời gian trong việc giải quyết một công việc, khắc phục tình trạng nhiêu khê, cồng kềnh , không rõ trách nhiệm, nhũng nhiễu của cán bộ hành chính, tiến tới xoá bỏ cơ chế “xin – cho”
Nếu cơ quan đầu tư làm tốt chức trách của mình, giảm thiểu thủ tục hành chính, bộ máy gọn nhẹ; cán bộ có năng lực, năng động, không tham nhũng với các chính sách cởi mở sẽ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc cho nhà ĐTNN nhanh chóng đưa các dự án đi vào hoạt động cũng như thực hiện tốt những mục tiêu đề ra trong các dự án.
Thủ tục sau giấy phép cần làm nhanh để dự án được triển khai nhanh chóng; tăng cường công tác quản lý hoạt động đầu tư khi dự án đi vào vận hành; kiểm tra giám sát việc thực hiện có đúng tiến độ không và khi cần có thể điều chỉnh ngay, tránh phiền hà, lãng phí. Công tác kiểm tra tài chính không quá 1 lần/ năm.
Tăng cường công tác thông tin, nối mạng Internet để cập nhật thông tin, hiểu thêm về đối tác và giới thiệu môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam nói chung và của từng tỉnh, thành phố, khu vực nói riêng.
Mạnh dạn gửi cán bộ, nhà nghiên cứu kinh tế chuyên trách về đầu tư ra nước ngoài làm việc và học tập, hoặc thuê chuyên gia nước ngoài vào làm việc ở những khâu mà ta chưa đảm đương được hoặc còn yếu (như công tác kiểm toán, đánh giá chất lượng thiết bị, công nghệ...).
Tăng cường chỉ đạo mở rộng mô hình đào tạo theo địa chỉ đơn đặt hàng của các nhà ĐTNN để có người lao động làm việc có hiệu quả ở các dự án FDI.
Không chỉ có việc đào tạo chuyên môn, cần nâng cao trình độ ngoại ngữ, trình độ lý luận gắn với thực tiễn về chuyên ngành kinh tế đối ngoại. Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu hiện nay. Lựa chọn những cán bộ có
trình độ chuyên môn vững, giỏi ngoại giao, nhạy bén, năng động trong công việc để nhanh chóng trực tiếp nắm bắt được các vấn đề cũng như có khả năng giải quyết chúng. Chú trọng người trẻ tuổi, thử thách, sàng lọc ngay trong hoạt động thực tiễn để tạo ra một lớp người có năng lực đáp ứng được tình hình thực tế.
Xác định rõ nhiệm vụ cụ thể của từng cá nhân. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi nhiệm vụ của họ phải được thủ trưởng trực tiếp thực hiện nghiêm túc, thường xuyên, ngăn chặn hiện tượng gây phiền hà, sách nhiễu hoặc bê trễ nhiệm vụ. Cần có những qui định cụ thể về trách nhiệm kinh tế, hành chính, kỷ luật đối với các cá nhân, tổ chức trong hoạt động FDI, tránh tình trạng trốn tránh trách nhiệm, đùn đẩy và qui trách nhiệm một cách chung chung. Chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên trong doanh nghiệp có vốn FDI.
Trong quá trình triển khai thực hiện dự án, các nhà ĐTNN thường gặp phải một số trở ngại như thủ tục hành chính rườm ra, thủ tục xin phép sử dụng đất, xin phép xây dựng, lệ phí đặt văn phòng đại diện, lệ phí xét đơn thủ tục hải quan... việc giải phóng mặt bằng luôn là vấn đề nan giải vừa lãng phí tiền của vừa mất nhiều thời gian. Để tháo gỡ những khó khăn này, cần xây dựng qui chế phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ với các Bộ, các Bộ quản lý các Ngành, UBND tỉnh trong việc quản lý hoạt động ĐTNN theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan quản lý Nhà nước. Trước mắt, cần tập trung tiến hành các biện pháp cụ thể sau:
- Cải tiến thủ tục cấp giấy phép đầu tư: Cần đẩy nhanh tiến độ, kiên quyết chỉ đạo tập trung một đầu mối quản lý thủ tục triển khai dự án FDI. Chính phủ đã cho phép UBND tỉnh và Ban quản lý KCN tại tỉnh đó có quyền trực tiếp cấp giấy phép đầu tư cho các dự án theo quyết định số 233/ 1998/ QĐ-Ttg. Các ngành liên quan cử cán bộ biệt phái có trách nhiệm và năng lực công tác tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh đó để giải quyết nhanh thủ tục từ trước thẩm định dự án đến khâu quản lý sau khi dự án được cấp giấy phép đầu tư để tránh phiền hà cho
các nhà đầu tư, sớm đưa dự án đi vào hoạt động. Mở rộng diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án qui mô vừa và nhỏ. Đối với các dự án khuyến khích đầu tư thì được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư.
- Qui định thời gian cấp giấy phép chậm nhất là 45 ngày (đối với một số dự án trong KCN có qui mô nhỏ thì được cấp phép dưới 10 ngày). Đối với các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động của môi trường, công tác thẩm định phải khẩn trương với độ chính xác cao để giảm bớt thời gian và hạn chế nhập công nghệ lạc hậu. Để thực hiện yêu cầu này, cần tăng cường thu thập thông tin về công nghệ, thiết bị trên thế giới và khu vực; kiện toàn đội ngũ cán bộ, đào tạo họ có chuyên môn cao, có trách nhiệm, phải trang bị cho họ những công cụ kiểm định hiện đại, qui định lại các thủ tục kiểm định cho phù hợp với yêu cầu đặt ra.
- Đơn giản hoá thủ tục cấp đất đai, hải quan: nên tiến hành kiểm tra tại cửa khẩu với thời gian ngắn, hạn chế thời gian gửi hàng tại kho để kiểm tra. Sửa đổi các qui định hiện hành về cấp thị thực xuất nhập cảnh và giảm mức thu lệ phí cấp thị thực xuất nhập cảnh đối với người nước ngoài.
3.3.3. Nâng cao chất lượng qui hoạch đầu tư và xúc tiến mạnh công tác vận
động đầu tư
Có được qui hoạch đầu tư tốt sẽ nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của vốn đầu tư. Cần phải xây dựng qui hoạch đầu tư cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, qui hoạch FDI phải là một bộ phận hữu cơ trong qui hoạch đầu tư chung. Vốn FDI phải gắn chặt với qui hoạch phát triển các ngành, các vùng lãnh thổ và đặt trong tiến trình hội nhập, khai thác những tiềm năng và lợi thế so sánh của nước ta, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
Cần bổ sung, hoàn thiện qui hoạch ngành, qui hoạch không gian cho từng quận, huyện để tạo ra một cơ cấu không gian, cơ cấu sản phẩm hợp lý, phát triển đồng bộ các vùng kinh tế, các ngành kinh tế của đất nước. Ưu tiên tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp tạo sản phẩm có hàm lượng chất xám và công nghệ
cao như chế tạo máy công cụ và động cơ; lắp ráp chế tạo ô tô, xe máy; đồ điện tử. Phát triển trung tâm thương mại, thị trường tài chính - ngân hàng; thị trường dịch vụ, tư vấn kỹ thuật, tiếp thị, dịch vụ khách sạn, dịch vụ hàng không. Hình thành một số siêu thị, trung tâm dịch vụ tổng hợp. Các Bộ, Ngành trung ương phối hợp chặt chẽ với thành phố trong việc xây dựng qui hoạch phát triển thành phố, từ đó xây dựng các dự án kêu gọi đầu tư và công bố cho các nhà ĐTNN để họ dễ dàng lựa chọn dự án, chọn địa điểm đầu tư có hiệu quả.
Nâng cao chất lượng qui hoạch tổng thể nói chung, qui hoạch và danh mục dự án kêu gọi vốn FDI nói riêng sẽ tránh được tình trạng đầu tư tràn lan, đầu tư theo phong trào làm phung phí nguồn lực, giảm hiệu quả các dự án FDI, làm cho nhà ĐTNN giảm lòng tin.
Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch và danh mục dự án FDI làm cơ sở cho thực hiện chương trình vận động đầu tư, trên cơ sở đó lựa chọn ĐTNN phù hợp với từng dự án.
Đổi mới đa dạng hoá các phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư và kiện toàn năng lực hệ thống tổ chức làm công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài.
Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường đối tác đầu tư nước ngoài, đồng thời tăng cường hợp tác song phương và đa phương hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn khu vực như ASEAN, APEC, ASEM...
3.3.4. Về công tác đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề phục vụ khu vực kinh tế có vốn FDI
Có nhiều bài viết về tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam của các tác giả nước ngoài trên các trang báo quốc tế tập trung phân tích lý do tại sao đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giảm trong những năm vừa qua. Một trong những lý do nan giải là Việt Nam đã để mất lòng tin của các nhà đầu tư vào khả năng và thực tiễn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tại sao lại có thực tế như vậy?
Những chuyên gia nước ngoài tới công tác tại Việt Nam vì những lý do này khác không muốn tiếp tục làm việc tại Việt Nam, làm cho khả năng tuyển chọn được các chuyên gia đích thực có trình độ cao để giúp lao động Việt Nam có cơ hội học hỏi nghề nghiệp ngày một khó khăn.
Cán bộ là khâu quyết định nhưng đang là khâu yếu nhất, hầu hết các cán bộ của bên Việt Nam đang làm việc trong các liên doanh đều thiếu kinh nghiệm quản lý và kiến thức chuyên môn, chưa nắm vững pháp luật, hạn chế về ngoại ngữ. Một số cán bộ chưa thấy hết trọng trách của mình trong vai trò đại diện chủ sở hữu Nhà nước trong liên doanh, nhiều khi chỉ vì lợi ích cá nhân làm thua thiệt lợi ích chung.
Cần phải lựa chọn đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực, có bản lĩnh, vừa nắm vững chuyên môn kỹ thuật, bồi dưỡng thêm cho họ về kiến thức và kỹ năng quản lý, bảo đảm chế độ đãi ngộ phù hợp, bố trí họ đảm nhận những cương vị phù hợp trong các dự án có vốn FDI.
Phát triển mạnh các trường và các trung tâm đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề cho các dự án FDI nói chung, trước hết là cho các KCX và KCN tập trung. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề này phải có trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, có tính kỷ luật và khả năng phối hợp trong công tác, chú trọng phát triển các ngành nghề gắn liền với các lĩnh vực công nghệ cao.
3.3.5. Một số biện pháp các doanh nghiệp cần áp dụng trong lựa chọn đối tác FDI
Trong các dự án thì bản thân doanh nghiệp là người trực tiếp thực hiện quá trình hợp tác, một bước đi sai cũng sẽ đem lại hậu quả xấu về tài chính, uy tín của doanh nghiệp. Vì vậy, việc lựa chọn đúng đối tác để cùng nhau tiến hành dự án đạt hiệu quả tốt là việc làm tối cần thiết. Để đảm bảo được điều này, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt các bước sau:
- Nắm vững Luật về đầu tư, các văn bản pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật đầu tư của Nhà nước.
- Căn cứ vào các tiêu chí về lựa chọn đối tác FDI của Nhà nước đối với từng loại hình dự án, và từng địa phương khác nhau.
- Tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng, thu thập thông tin về đối tác mà mình định hợp tác qua nhiều nguồn như : Các bạn hàng cũ của đối tác, Các trung tâm tư vấn, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Đại sứ quán của nước định đầu tư…
- Đồng thời tiến hành nghiên cứu công nghệ của nước đầu tư xem có phù hợp với yêu cầu về kỹ thuật, phù hợp với thị trường và đáp ứng được về bảo vệ môi trường hay không.
- Mục đích tiến hành hợp tác đầu tư là nhằm mở rộng thị phần của doanh nghiệp, vì vậy cần tiến hành khảo sát thị trường của nước đầu tư.
- Tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn trong khi thương thảo Hợp đồng nhằm đảm bảo tính pháp lý và sự chặt chẽ của hợp đồng, tránh tình trạng bị các đối tác không có thiện ý lợi dụng sự non yếu về trình độ của cán bộ.
- Làm tốt công tác “thương mại hóa’’ hình ảnh của mình. Để làm tốt điều này các doanh nghiệp cần đẩy mạnh tiếp thị, trang bị kiến thức và kinh nghiệm để biết nhà đầu tư cần gì, muốn gì. Bởi vì, tiếp thị là bước đi đầu tiên sau đó mới là giao dịch, tìm hiểu nhau bằng nhiều hình thức phong phú, khéo léo khác.
- Lựa chọn các cán bộ có năng lực chuyên môn cao và lòng nhiệt tình để đáp ứng được yêu cầu của công việc thường có áp lực lớn trong các doanh nghiệp có vốn FDI.
- Chú trọng công tác đầu tư nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên sâu và trình
độ quản lý của cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh mới của nền kinh tế thế giới, sự cạnh tranh trong vấn đề thu hút FDI giữa các nước đang và sẽ trở nên hết sức gay gắt. Sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực, một loạt các nước Đông Á đang cơ cấu lại nền kinh tế và rất chú trọng đến việc cải thiện môi trường đầu tư và các chính sách đầu tư. Trong bối cảnh đó, việc tạo ra sự thống nhất về quan điểm trong chiến lược thu hút và sử dụng FDI từ đó đưa ra các chính sách thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả của FDI là một yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam. Công tác lựa chọn đối tác FDI được coi là một trong những giải pháp để đạt mục tiêu trên.
Lựa chọn đối tác FDI là vấn đề lớn cần phải được Chính phủ, các Bộ, các Ban – Ngành qua tâm thích đáng để có thể giúp các doanh nghiệp lựa chọn được những đối tác đầu tư tin cậy, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, và bảo vệ được môi trường của Việt Nam. Điều này hết sức cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, góp phần hoàn thành chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Lựa chọn đối tác ĐTNN phải xét trên những tiêu chí chung, rõ ràng, để cho các cơ quan quản lý Nhà nước có những căn cứ thống nhất thực hiện.
Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế chung trên thế giới, các nước đều mong muốn hợp tác cùng phát triển, trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Trong thị trường các nhà ĐTNN rộng lớn như hiện nay, việc chọn ra được những đối tác xứng đáng, phù hợp có đủ khả năng hợp tác là khâu quyết định thành công cho bước khởi đầu trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8400.doc