Lợi thế cạnh tranh và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu sang hai thị trường Mỹ

Tài liệu Lợi thế cạnh tranh và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu sang hai thị trường Mỹ: ... Ebook Lợi thế cạnh tranh và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu sang hai thị trường Mỹ

doc137 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lợi thế cạnh tranh và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu sang hai thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tr­êng §¹i häc Kinh tÕ Quèc d©n khoa kÕ ho¹ch ph¸t triÓn — & – CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP §Ò tµi: Lîi thÕ c¹nh tranh vµ mét sè gi¶i ph¸p nh»m n©ng cao lîi thÕ c¹nh tranh cña ViÖt Nam khi xuÊt khÈu sang thÞ tr­êng Mü trong bối cảnh hiÖn nay Sinh viªn thùc hiÖn : lª ngäc th¾ng Líp : ktpt 47a Gi¸o viªn h­íng dÉn : ths. ®Æng thÞ lÖ xu©n Hà Nội - 2009 Giới thiệu chung 1. Sự cần thiết: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đưa tới một sự đột biến trong tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia và đưa xã hội loài người bước vào một kỷ nguyên mới-kỷ nguyên của nền văn minh trí tuệ. Trong bối cảnh ấy, xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá là đòi hỏi tất yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng không thể là một ngoại lệ. Để hoà vào xu hướng hội nhập ấy, từ Đại Hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 9 đã đề ra phương châm “Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước”. Trên thực tế, trong thời gian qua chúng ta đã không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tích cực tham gia vào các diễn đàn kinh tế song phương, đa phương, các liên kết mậu dịch khu vực và liên khu vực.Đặc biệt là việc Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO càng tạo ra nhiều lợi thế và thách thức cho Việt Nam trong xuất khẩu sang các nước khác, đặc biệt là các thị trường lớn và đầy tiềm năng. Toàn bộ nền kinh tế nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Đặc biệt là, chúng ta đã tạo được một số nhóm hàng có tiềm năng, có chỗ đứng trên thị trường nước ngoài-đó chính là những lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Để vượt qua những thách thức, cạnh tranh có hiệu quả trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu thì Việt Nam cần phải phát huy được những lợi thế cạnh tranh của mình. Tuy nhiên cần lưu ý là năng lực sản xuất của Việt Nam là có hạn nên ta không thể “dàn trải” các lợi thế cạnh tranh trên tất cả các thị trường mà chỉ nên chọn một vài thị trường trọng điểm và giàu tiềm năng. Vì những lý do trên đây, người viết đã chọn đề tài “ Lợi thế cạnh tranh và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu sang hai thị trường Mỹ ”. 2.Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về lợi thế cạnh tranh và thực tiễn tình hình xuất khẩu một số mặt hàng sang thị trường Mỹ trong các năm gần đây, bài chuyên đề có mục đích tìm ra nghiên cứu lợi thế cạnh tranh tổng thể của Việt Nam chú trọng vào lĩnh vực xuất khẩu mà điển hình là một số mặt hàng có thể trở thành lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường Mỹ, đồng thời đề ra một số giải pháp nhằm phát huy được lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là lý luận chung về lợi thế cạnh tranh, thị trường xuất khẩu và một số lợi thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ. Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề giới hạn ở việc nghiên cứu hai lợi thế cạnh tranh chủ yếu đó là lợi thế cạnh tranh tổng thể và lợi thế cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẩm có thế mạnh của Việt Nam trên hai thị trường Mỹ mà không mở rộng phạm vi sang các thị trường khác.Trước hết chọn thị trường Mỹ là vì : Mặc dù trải qua cuộc khủng hoảng tài chính nhưng Mỹ vẫn là thị trường lớn và đầy tiềm năng, hơn nữa Mỹ vẫn là một nền Kinh tế đầu tàu của thế giới.Việc Mỹ rơi vào khủng hoảng làm người dân Mỹ trước kia họ sử dụng những mặt hàng cao cấp, thì giờ đây trước khủng hoảng, họ sẽ chuyển sang sử dụng những mặt hàng rẻ hơn, những mặt hàng thuần túy..Những mặt hàng này Việt Nam có khả năng sản xuất và có lợi thế lớn.Và quan trọng hơn khi Việt Nam đã gia nhập WTO, cũng như ký các hiệp định thương mại song phương đa phương với Mỹ tạo cơ hội lớn cho Việt Nam khi xuất khẩu sang Mỹ 4. Phương pháp nghiên cứu: Bài chuyên đề chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, đánh giá dựa trên các nguồn tài liệu sưu tầm được kết hợp với những suy luận của cá nhân để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài. 5. Kết quả dự kiến: Khắc phục từng bước những điểm yếu, không thể trông chờ, ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước. Rút ra được những bài học chung để áp dụng vào những thị trương tương tự. Qua đó nâng cao được lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong bảng xếp hạng của thế giới(WEF) 6. Bố cục của đề án: Bố cục của bài khoá luận như sau: Mục lục Lời nói đầu Chương I - Lý luận chung về lợi thế cạnh tranh và thị trường xuất khẩu Chương II - Mỹ -Thị trường để Việt Nam có thể phát huy được lợi thế cạnh tranh. Chương III - Một số giải pháp nhằm nâng cao Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ Kết luận Danh mục tham khảo Chương I - Lý luận chung về lợi thế cạnh tranh và thị trường xuất khẩu I. Lợi thế cạnh tranh 1.Tìm hiểu và phân biệt các khái niệm về lợi thế cạnh tranh: Để hiểu về lợi thế cạnh tranh, trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là cạnh tranh. Cạnh tranh là một khái niệm thường được dùng trong khoa học kinh tế và được hiểu là sự ganh đua giữa các đối thủ để giành một nhân tố sản xuất hoặc thị phần nhằm nâng cao vị thế của mình trên thương trường. Lợi thế cạnh tranh là một khái niệm hay được nói đến trên báo chí cũng như các phương tiện thông tin đại chúng khác trong mấy năm gần đây, nhưng trên thực tế đây là một vấn đề còn tương đối mới lạ về mặt lý thuyết.Hơn nữa, chính vì khái niệm này khá rộng nên bài chuyên đề chỉ xin nêu ra một số các khái niệm cơ bản về lợi thế cạnh tranh Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) định nghĩa lợi thế cạnh tranh đối với một quốc gia là “Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng sự thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian”. Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Mỹ lại sử dụng định nghĩa lợi thế cạnh tranh đối với một quốc gia như sau: “Lợi thế cạnh tranh đối với một quốc gia là lợi thế mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, quốc gia đó có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của các thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của người dân nước mình”. Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cũng đã đưa ra một định nghĩa về lợi thế cạnh tranh quốc gia riêng, đó là: “Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Còn theo Báo cáo trong hội nghị của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) tổ chức tại Học viện phát triển quản lý quốc tế ở Lausanne thì năng lực cạnh tranh của một quốc gia (ở đây thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” được dùng với ý nghĩa tương tự như thuật ngữ “lợi thế cạnh tranh của một quốc gia”) được định nghĩa là khả năng thiết kế, sản xuất và tung ra thị trường những hàng hoá và dịch vụ có đặc tính giá cả và phi giá cả để hình thành một sự kết hợp có đặc tính hấp dẫn hơn so với các đối thủ khác. Trên cơ sở phân tích, WEF đã đưa ra bảng xếp hạng lợi thế cạnh tranh của các nước trong đó có Việt Nam Năm 2006 2007 2008 Việt Nam 77 68 70 Nguồn: Bảng khảo sát, công bố ngày 8-10-2008 tại Geneva xếp hạng tính cạnh tranh của 134 nền kinh tế toàn cầu dựa trên phân tích những dữ liệu có sẵn và bảng khảo sát ý kiến hơn 12.000 nhà lãnh đạo doanh nghiệp. VN có 23 chỉ tiêu lợi thế và 90 chỉ tiêu bất lợi. Ưu điểm cạnh tranh của VN tập trung ở tính hiệu quả của thị trường lao động (xếp hạng 47) nhờ có lợi thế về nhân công giá rẻ. Trong khi đó, những yếu tố bất lợi làm giảm tính cạnh tranh của VN là lạm phát, cơ sở hạ tầng không đồng bộ, trình độ lực lượng lao động không đồng đều, tham nhũng và các chính sách thiếu ổn định. Theo một cách hiểu khác thì lợi thế cạnh tranh của một quốc gia là nói đến so sánh bản thân mình với đối thủ cạnh tranh để khai thác triệt để lợi thế (này ở phần trích dẫn tài liệu tham khảo) mà mình có sẵn, nhằm đạt những mục tiêu chủ yếu và thứ yếu đã đặt ra. Thông thường, đối với một nước thì mục tiêu chủ yếu là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" như Đảng ta đã đề ra. Một thuật ngữ khác cũng hay được nhắc tới là chiến lược cạnh tranh. Chiến lược cạnh tranh là chiến lược của một doanh nghiệp hoặc của một quốc gia nhằm tăng khả năng của mình trên thị trường trong nước hay quốc tế để đạt một số mục tiêu như: tăng thị phần, tăng lợi nhuận . Còn chính sách cạnh tranh được hiểu là các biện pháp của Nhà nước nhằm khuyến khích cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng và giám sát (hoặc chống lại) độc quyền. Các khía cạnh của chính sách cạnh tranh bao gồm: +Kiểm soát các hành vi lạm dụng vị thế để lũng đoạn thị trường của những hãng có vị thế khống chế thị trường. +Kiểm soát sự sáp nhập để ngăn ngừa quá trình độc quyền hóa. +Kiểm soát và ngăn chặn sự thỏa thuận giữa các hãng nhằm hạn chế cạnh tranh. +Kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh. Về năng lực cạnh tranh (sức cạnh tranh), có một số cách hiểu khác nhau. Nhưng thường các cách hiểu đều thống nhất ở một điểm, năng lực cạnh tranh thường có một ý nghĩa tương đối hẹp, được thể hiện qua một số các chỉ số nhất định được xây dựng để đánh giá sức cạnh tranh. Khái niệm về “năng lực cạnh tranh” thường phù hợp với cấp độ doanh nghiệp, nội dung cụ thể của khái niệm này là nếu một doanh nghiệp có tổng chi phí cao hơn tổng chi phí của đối thủ cạnh tranh thì sản phẩm làm ra sẽ có năng lực cạnh tranh yếu, dẫn đến việc doanh nghiệp đó sẽ phải từ bỏ hoạt động kinh doanh hoặc thậm chí phá sản. Như vậy sự khác nhau cơ bản nhất giữa lợi thế cạnh tranh và chiến lược cạnh tranh là ở chỗ: lợi thế cạnh tranh là ưu thế mà một quốc gia đã có để có thể giành được thắng lợi khi tham gia vào cạnh tranh quốc tế, còn chiến lược cạnh tranh là định hướng chung của quốc gia đó để biến lợi thế cạnh tranh vốn có trở thành hiện thực. Lợi thế cạnh tranh, chính sách cạnh tranh và năng lực cạnh tranh còn khác nhau ở phạm vi được nói đến. Lợi thế cạnh tranh “thường” được hiểu dưới góc độ của một quốc gia ( tuy cũng có khi lợi thế cạnh tranh được hiểu dưới góc độ của một doanh nghiệp hoặc của một sản phẩm ). Chính sách cạnh tranh lại chỉ được hiểu một cách bó hẹp trong phạm vi của một nước, thể hiện những chính sách của một quốc gia để duy trì hoạt động cạnh tranh lành mạnh trong nước mình. Còn năng lực cạnh tranh thường chỉ có ý nghĩa hạn hẹp trong một doanh nghiệp, đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Tìm lợi thế cạnh tranh chính là cách tiếp cận lợi thế cạnh tranh . Thông thường có 3 cách tiếp cận sau : thứ nhất, cách tiếp cận dựa trên vị thế chiến lược; thứ hai, cách tiếp cận dựa trên quá trình chiến lược; thứ ba, cách tiếp cận dựa trên quan hệ chiến lược. Sau đây, chúng ta lần lượt xem xét 3 cách tiếp cận trên: * Nội dung cơ bản của cách thứ nhất là xác định được vị thế của ta, vị thế của đối thủ một cách chính xác và khách quan, so sánh tương quan lực lượng giữa ta và đối thủ cạnh tranh, từ đó định ra lợi thế cạnh tranh, xây dựng chiến lược cạnh tranh nhằm khuyếch trương những điểm mạnh của mình, che chắn những điểm yếu; đồng thời tận dụng những sơ hở, điểm yếu của đối phương để phát huy tiềm năng và sức mạnh sẵn có. Trong một số tình huống thuận lợi, có thể áp dụng ngay một số sáng kiến mới lạ, độc đáo để lật ngược tình thế và thay đổi luật chơi. Các chiến lược cụ thể có thể lựa chọn theo cách thứ nhất là chiến lược tấn công, chiến lược phòng thủ, chiến lược bắt chước y nguyên chiến lược của đối thủ, chờ khi có cơ hội sẽ cải tiến, sáng tạo theo cách riêng và vượt lên đối thủ (các nhà sản xuất hàng điện tử, điện máy gia dụng của Trung Quốc có vẻ như đang áp dụng chiến lược này trên thị trường Việt Nam khi sản xuất các mặt hàng có mẫu mã giống hệt hàng hóa cùng loại của Nhật Bản và dần dần “lấn sân” người Nhật); chiến lược rút lui về các vị trí thích hợp khi nhận thấy tình thế không thuận lợi (lùi một bước nhưng tiến hai bước). * Nội dung của cách tiếp cận thứ hai lại xoay quanh mục tiêu đã đặt ra. Mục tiêu chúng ta đã đặt ra là gì ? Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần phát huy những lợi thế cạnh tranh nào? Và làm thế nào để xây dựng được lợi thế đó. Đi theo cách tiếp cận này, chúng ta phải ý thức trước được rằng, không thể muốn gì được nấy, nghĩa là nếu cái muốn là 100% thì thực hiện được khoảng 50% là đã thành công. Cách tiếp cận thứ hai có thể đi theo một hướng khác gần thực tế hơn. Quan điểm này được trình bày trong cuốn sách "Cạnh tranh cho tương lai": tìm lợi thế cạnh tranh từ những cơ hội chưa được đối thủ cạnh tranh khai thác, thay đổi các luật chơi trong môi trường cạnh tranh, tìm ra con đường riêng của chính mình, từ đó hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra trong tương lai. Cách này đã được các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản áp dụng rất thành công khi thâm nhập vào và chiếm lĩnh thị trường ô tô dân dụng của Mỹ "ngay trước mũi" các "ông lớn" của nền công nghiệp ô tô Mỹ như General Motor và Ford Motor. Tuy nhiên hạn chế của phương pháp này là không phải là lúc nào cũng có sẵn những "khoảng trống" trên thị trường trong bối cảnh "vạn người bán trăm người mua" như hiện nay, đồng thời việc phát hiện ra những cơ hội tiềm tàng (nếu có) cũng rất khó khăn và tốn kém, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Do vậy, cách tiếp cận thứ hai đòi hỏi phải vận dụng thành thục phương pháp tư duy năng động sáng tạo và đột biến sáng tạo nếu muốn đạt được thành công. *Cách tiếp cận thứ 3 dựa trên quan hệ chiến lược có thể được thể hiện tóm tắt dựa trên sơ đồ dưới đây: Hình thành lợi thế cạnh tranh như thế nào Nguồn thay đổi bên ngoài Nguồn thay đổi bên trong Nguồn lực sản xuất đa dạng Linh hoạt đáp ứng tình thế Tư duy sáng tạo và sáng tạo Lợi thế cạnh tranh trong cách tiếp cận này được hình thành bằng cách xây dựng các nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài để phản ứng linh hoạt hơn, nhanh hơn, từ đó xử lý tốt các tình huống có thể xảy ra. Đa dạng hóa các tư liệu sản xuất để phát triển các nguồn lực bên ngoài, đồng thời phát huy tư duy sáng tạo và sáng tạo để tạo đòn bẩy cho nguồn lực bên trong và từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh. Để tiếp cận lợi thế cạnh tranh thành công bằng phương pháp này đòi hỏi các nguồn lực phải dễ dàng chuyển đổi, sắp xếp lại để dễ tạo ra sự kết hợp mới và tính sáng tạo rất cao. 2. Phân loại lợi thế cạnh tranh: Để hiểu được lợi thế cạnh tranh một cách sâu sắc hơn, dưới những góc độ khác nhau, với những đặc điểm khác nhau, ta cần phân loại lợi thế cạnh tranh. Vậy lợi thế cạnh tranh cần được phân loại như thế nào? Một trong những khó khăn là không có một sự thống nhất rộng rãi về việc phân loại khái niệm này. Lý do là thuật ngữ lợi thế cạnh tranh được sử dụng để đánh giá cho tất cả các khu vực liên quốc gia, các quốc gia (là quan điểm của bài khoá luận này) và cả các doanh nghiệp, các ngành, và thậm chí còn được sử dụng để đánh giá một sản phẩm. Ở đây, người viết đưa ra 2 tiêu chí phân loại lợi thế cạnh tranh: theo cấp độ và theo tính chất. 2.1. Phân loại lợi thế cạnh tranh theo cấp độ: Nếu phân loại theo cấp độ, lợi thế cạnh tranh gồm 3 loại: lợi thế cạnh tranh của một sản phẩm, lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp và lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. *Lợi thế cạnh tranh của một sản phẩm: Lợi thế cạnh tranh của một sản phẩm có thể được hiểu như là năng lực cạnh tranh của sản phẩm , tức là khả năng của sản phẩm đó có thể được tiêu thụ mạnh hơn các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường do những ưu thế về giá cả, chất lượng sản phẩm, lao động bỏ ra để làm sản phẩm đó, uy tín sản phẩm, chất lượng của dịch vụ sau bán hàng … *Lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp: Trên thực tế thì khái niệm lợi thế cạnh tranh đầu tiên được dùng hạn chế trong phạm vi 1 doanh nghiệp trong lý thuyết tổ chức công nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có lợi thế cạnh tranh và được coi là có thể đứng vững trên thương trường cùng với các nhà sản xuất khác, thông qua việc nó có thể cung cấp các sản phẩm thay thế, hoặc đưa ra các sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn sản phẩm cùng loại, hoặc các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng hay dịch vụ cao hơn ( hay chí ít là ngang bằng ). Một điều cần chú ý là khi xác định lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành công nghiệp cần xem xét đến khả năng của doanh nghiệp hay ngành công nghiệp đó trong việc sản xuất một hàng hoá hay dịch vụ ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến nhất mà không cần thiết phải có trợ cấp, trợ giá từ phía chính phủ. *Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia: Thương mại quốc tế ra đời cách đây hàng ngàn năm, nhưng phải đến thế kỷ 15 thì mới xuất hiện những nỗ lực nhằm giải thích nguồn gốc và lợi ích của thương mại quốc tế. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của một quốc gia là lý thuyết mới để giải thích về lợi ích của thương mại quốc tế xuất hiện trong thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Biểu dưới đây sẽ chỉ ra những thời điểm ra đời chủ yếu của các lý thuyết chủ yếu của thương mại quốc tế, trong đó có lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Năm 1500 1600 1700 1800 1900 2000 Chủ nghĩa trọng thương Lợi thế tuyệt đối Lợi thế so sánh Lý thuyết tỷ lệ các yếu tố Chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm Lý thuyết mới về thương mại Lợi thế cạnh tranh quốc gia Nguồn: Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế- Bộ môn Kinh doanh quốc tế, Chủ biên:T.S Nguyễn Thị Hường, "Giáo trình Kinh doanh quốc tế", tập I, NXB Thống Kê, Hà Nội, trang 205 Lý thuyết lợi thế cạnh tranh của một quốc gia được Michael Porter đưa ra vào những năm 90 để giải thích tại sao một số nước lại có được vị trí hàng đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm nhất định. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia cho rằng, khả năng cạnh tranh của một ngành sản xuất của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Công trình của Michael Porter có sự kết hợp những kiến thức nhất định của các lý thuyết thương mại quốc tế khác, đồng thời chứa đựng một số khám phá quan trọng. Một trong những khám phá đó là, Michael Porter nhận thức được những giá trị của các nguồn lực được đề cập đến trong lý thuyết tỷ lệ các yếu tố như nguồn lao động, nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí hậu … và các yếu tố quan trọng khác đối với những sản phẩm mà quốc gia sẽ sản xuất và xuất khẩu và ông gọi tên những nguồn lực này là các nguồn lực cơ bản, nhưng ông lại bổ sung thêm cái mà ông gọi là các yếu tố tiên tiến. Theo ông, các yếu tố tiên tiến là những yếu tố như trình độ kỹ năng của các nhóm lao động khác nhau và chất lượng của hạ tầng công nghệ của một quốc gia. Các yếu tố tiên tiến chính là kết quả của “tầm nhìn xa” và sự đầu tư dài hạn vào việc nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và phát triển công nghệ. Trong khi các yếu tố cơ bản có thể tạo cơ sở ban đầu cho việc sản xuất một mặt hàng bất kỳ, đặc biệt là những mặt hàng sơ chế và những mặt hàng có hàm lượng nguyên liệu cao, thì các yếu tố tiên tiến là cần thiết để duy trì lợi thế cạnh tranh của quốc gia trong việc sản xuất mặt hàng đó. Ta có thể lấy ví dụ về Nhật Bản. Hiện nay, Nhật Bản là một nước có lợi thế cạnh tranh về mặt hàng ô tô và thép. Ô tô và thép Nhật tràn ngập trên thị trường thế giới và đánh bại các đối thủ khác. Nhưng Nhật giành được lợi thế cạnh tranh rõ ràng không phải vì các yếu tố cơ bản, vì nước này không có nguồn quặng sắt và phải nhập khẩu phần lớn mặt hàng này. Nhật có được lợi thế cạnh tranh nhờ gia tăng được năng suất và phát huy được lợi thế của mình trong việc sản xuất các mặt hàng đó thông qua những nỗ lực như đào tạo và phát triển nhân lực, cải tiến công nghệ và áp dụng phương pháp quản lý tiên tiến vào quy trình sản xuất. 2.2 Phân loại lợi thế cạnh tranh theo tính chất: *Lợi thế cạnh tranh dạng tĩnh. Lợi thế cạnh tranh trước hết tồn tại dưới dạng tĩnh, tức là lợi thế đang có. Lợi thế dạng này có ưu điểm là đã có sẵn để khai thác, không cần tốn thêm chi phí nghiên cứu và phát triển. Lợi thế này thường tồn tại dưới dạng tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động thủ công với giá nhân công rẻ …Tuy nhiên, hạn chế của lợi thế cạnh tranh loại này là ở chỗ nó là lợi thế của quá nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, nên dễ dẫn đến sự trùng hợp về cơ cấu hàng xuất khẩu, từ đó gây tác động ngược trở lại làm triệt tiêu lợi thế cạnh tranh. *Lợi thế cạnh tranh dạng động. Lợi thế cạnh tranh của bất kỳ nước nào cũng chỉ có tính chất tương đối, luôn trong quá trình biến động và thay đổi. Cũng có những nước duy trì được lợi thế cạnh tranh của mình trong một thời gian rất dài. Nhưng thường thì lợi thế cạnh tranh của các nước có sự biến động trong một thời gian ngắn. Một quốc gia khi xuất khẩu một mặt hàng nào đó, hiện nay đang có lợi thế cạnh tranh, nhưng trong một vài năm tới có thể trở nên bất lợi và ngược lại. Trong mỗi giai đoạn phát triển, mỗi quốc gia sẽ lại tìm ra được lợi thế cạnh tranh của mình trong điều kiện nguồn lực của quốc gia đó. Hay nói một cách khác, đó chính là lợi thế cạnh tranh dưới dạng động hay lợi thế dưới dạng tiềm năng. Ví dụ như một quốc gia đông dân, ít vốn, lao động rẻ thì trước hết phải định hướng lợi thế cạnh tranh của mình là các mặt hàng sử dụng nhiều lao động. Chính vì vậy, khai thác tài nguyên và phát triển các mặt hàng sử dụng nhiều lao động để xuất khẩu là sự lựa chọn của hầu hết các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa trong đó có Việt Nam. Trong các giai đoạn phát triển cao hơn của quá trình công nghiệp hóa, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu sẽ có sự thay đổi mang tính quy luật, đó là chuyển dần từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động rẻ, không cần tay nghề cao như sản phẩm dệt, may, da giày, sản xuất nông lâm thủy sản hoặc nguyên liệu sơ chế,... sang các sản phẩm xuất khẩu sử dụng nhiều lao động có tay nghề cao như ngành hóa chất, điện tử, sắt thép, ô tô,.... Giai đoạn cuối cùng sẽ chuyển sang các sản phẩm cần nhiều vốn và công nghệ cao như cơ khí chính xác, tự động hóa, thiết bị viễn thông, tin học, hàng điện tử nghe nhìn cao cấp, ... 3. Lợi thế cạnh tranh tổng thể của một quốc gia và lợi thế cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẩm có thế mạnh :(Ở đây chuyên đề nghiên cứu năng lực cạnh tranh quốc gia và lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu thông qua các xuất khẩu các sản phẩm chủ lực) 3.1. Lợi thế cạnh tranh quốc gia và các tiêu chí xác định lợi thế cạnh tranh quốc gia: Ở đây chuyên đề sẽ đi theo định nghiã của Báo cáo trong hội nghị của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) về lợi thế cạnh tranh quốc gia (ở đây thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” được dùng với ý nghĩa tương tự như thuật ngữ “lợi thế cạnh tranh của một quốc gia”) đó là: là khả năng thiết kế, sản xuất và tung ra thị trường những hàng hoá và dịch vụ có đặc tính giá cả và phi giá cả để hình thành một sự kết hợp có đặc tính hấp dẫn hơn so với các đối thủ khác. WEF đưa ra một tập hợp các tiêu chí xác định năng lực cạnh tranh tổng thể của một quốc gia và phân chia các yếu tố này thành 8 nhóm chính: Mức độ mở cửa: Thuế quan và các biện pháp phi thuế quan, khuyến khích xuất khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái. Vai trò của chính phủ: Mức độ can thiệp của Nhà nước đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, năng lực của Chính phủ, gánh nặng thuế và mức độ trốn thuế, quy mô chính phủ, chính sách tài khoá, các mức thuế. Hệ thống tài chính: Hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài chính, đầu tư và tiết kiệm. Năng lực công nghệ: Năng lực phát triển công nghệ trong nước , đầu tư công nghệ thông qua FDI hoặc chuyển giao của nước ngoài. Kết cấu hạ tầng: Bưu chính viễn thông, điện lực, giao thông vận tải và những hỗ trợ kết cấu hạ tầng khác. Quản trị: Quản lý nguồn nhân lực, các yếu tố quản trị không liên quan đến nhân lực như về các công tác điều hành vĩ mô. Lao động: Kỹ năng tay nghề và năng suất, tính linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả của các chương trình xã hội, quan hệ lao động ngành. Thể chế: Chất lượng các thể chế pháp lý, thể chế điều chỉnh hoạt động xuất khẩu 3.2. Lợi thế cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẩm có thế mạnh, các yếu tố quyết định: Lợi thế cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu đó là việc sản xuất ra những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, có khả năng cạnh tranh về nguồn lực, lợi thế so sánh, giá cả chất lượng… so với các nước khác khi cùng xuất khẩu vào một thị trường .Nó được quyết định bởi các yếu tố: 3.2.1 Nhu cầu và mức độ ổn định của nhu cầu trên thị trường thế giới: Đây là một yếu tố then chốt và kiên quyết. Thị trường thế giới có nhu cầu và nhu cầu đó phải ổn định thì mới có thể tiến hành sản xuất và xuất khẩu. Thị trường thế giới không có nhu cầu, hoặc có nhu cầu nhưng lại thất thường thì không thể xuất khẩu được, tức là lợi thế cạnh tranh không thể được phát huy. Thị trường thế giới bão hòa, xuất khẩu gặp khó khăn và lợi thế cạnh tranh sẽ bị triệt tiêu. Điều này thể hiện rõ rệt nhất trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Nông sản là mặt hàng có lợi thế cạnh tranh của Việt Nam, nhưng trong nhiều năm qua tồn tại một thực tế là lượng nông sản xuất khẩu của ta cao nhưng kim ngạch đạt được không đáng kể do sự biến động thất thường của giá cả trên thị trường thế giới, ta không phát huy được lợi thế cạnh tranh và người chịu nhiều thiệt thòi nhất chính là người nông dân trong nước. Do vậy, công tác dự báo và dự báo chính xác nhu cầu của thị trường thế giới là rất cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên trên các mặt: thời gian, không gian, số lượng, chất lượng hàng hóa... Ngoài ra, còn phải xét tới sự biến động và mức độ ổn định tương đối của nhu cầu. Xu hướng phổ biến của nhu cầu của thị trường thế giới ngày nay là ngày càng tăng tỷ trọng của các sản phẩm công nghiệp - dịch vụ có hàm lượng khoa học - công nghệ cao trong sản phẩm. Xuất khẩu những sản phẩm này đưa lại kim ngạch lớn so với xuất khẩu nguyên liệu và sản phẩm ở dạng thô sơ. Như vậy có nghĩa là, lợi thế cạnh tranh của các quốc gia cũng đang đòi hỏi phải có sự chuyển dịch theo hướng đáp ứng những nhu cầu mới của thị trường thế giới. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ trong xu hướng chung. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với tiến trình hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những điều kiện về khoa học - công nghệ cho phép chúng ta thực hiện mục tiêu chuyển dịch lợi thế cạnh tranh theo hướng đó. 3.2.2. Sự ổn định của môi trường kinh doanh: Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu tố bên ngoài tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các quyết định hoặc hoạt động của các đơn vị kinh doanh trên thị trường. Nhóm các yếu tố bên ngoài có tác động gián tiếp đến các đơn vị kinh doanh được gọi là các nhóm yếu tố môi trường vĩ mô. Thuộc nhóm này bao gồm : môi trường văn hoá xã hội, môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường pháp lý, môi trường vật chất và môi trường công nghệ. Nhóm các yếu tố bên ngoài có tác động trực tiếp đến các đơn vị kinh tế là các yếu tố môi trường vi mô. Các yếu tố này gồm có: khách hàng, nhà cung cấp, các đối thủ cạnh tranh, các nhóm quyền lợi trong doanh nghiệp. Hiện nay trên thế giới, hầu hết các nước trên thế giới đang phát triển nền kinh tế thị trường. Nhưng một trong những đặc trưng của nền kinh tế thị trường là phát triển có tính chu kỳ. Tăng trưởng cao và khủng hoảng kinh tế là bạn đồng hành trong nền kinh tế thị trường. Do đó, duy trì sự ổn định của môi trường kinh doanh trong nền kinh tế thị trường chính là một trong những yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Duy trì sự ổn định của môi trường kinh doanh chủ yếu bao gồm việc duy trì sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường chính trị và môi trường xã hội. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô là làm giảm những biến động ngắn hạn trong nền kinh tế và khuyến khích tăng trưởng bền vững lâu dài. Đây là điều kiện tiên quyết cho việc tính toán kinh doanh của các chủ thể kinh tế, vì nếu giá cả thay đổi thất thường, tỷ giá tăng mạnh hoặc giảm mạnh làm cho chủ đầu tư không tính toán nổi lỗ lãi. Ngoài ra, sự ổn định kinh tế vĩ mô tạo ra sự tin tưởng của các chủ thể kinh tế vào tương lai, tránh cho nền kinh tế khỏi những cuộc khủng hoảng kinh tế, dẫn đến sự tàn phá nền kinh tế. Sự ổn định về mặt chính trị cũng tạo ra môi trường thuận lợi đối với các hoạt động kinh doanh, trong đó có hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, góp phần nâng cao lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Trong một xã hội ổn định về mặt chính trị, các nhà kinh doanh được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu và các loại tài sản khác. Do đó các nhà kinh doanh sẵn sàng đầu tư những khoản tiền lớn vào các dự án kinh doanh dài hạn, từ đó thúc đẩy nền sản xuất chung của một quốc gia phát triển. Môi trường xã hội cũng có những tác động nhất định đến hoạt động của các tổ chức kinh doanh. Các giá trị chung của xã hội, các tập tục truyền thống, lối sống của nhân dân, các hệ tư tưởng tôn giáo và cơ cấu dân số, thu nhập của dân chúng đều có ảnh hưởng đến hiệu quả của các hoạt động kinh doanh. Những vấn đề xã hội mà Nhà nước phải quan tâm để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy được lợi thế cạnh tranh quốc gia bao gồm : vấn đề việc làm, vấn đề xoá đói giảm nghèo, vấn đề công bằng xã hội, vấn đề xoá bỏ những tệ nạn xã hội, vấn đề thái độ lao động, vấn đề bảo vệ môi trường, y tế và giáo dục và vấn đề đạo đức kinh doanh. 3.2.3. Lợi thế so sánh: Yếu tố thứ 3 quyết định lợi thế cạnh tranh của một quốc gia trong xuất khẩu sản phẩm là lợi thế so sánh. Lý thuyết về lợi thế so sánh được nhà kinh tế học người Anh David Ricardo xây dựng vào năm 1817 và trở thành một công cụ lý luận rất quen thuộc trong khoa học kinh tế khi người ta muốn giải thích lợi ích của thương mại quốc tế. Các giả định của học thuyết này là: *Thế giới chỉ bao gồm 2 nước, một nước kém phát triển và một nước phát triển. *Hai nước trên chỉ trao đổi 2 mặt hàng. *Những nguồn lực sản xuất nhất định (ví dụ như đất đai, lao động,vốn ...) kết hợp với tỷ lệ cố định, giống nhau ở cả hai nước. *Các nguồn lực sản xuất được tận dụng một cách triệt để. *Lao động và vốn không di chuyển giữa 2 nước, nhưng tự do di chuyển trong mỗi nước. *Giá trị xuất khẩu ngang với giá trị nhập khẩu của mỗi nước. *Không có chi phí vận chuyển(ở phần trích dẫn cuối chuyên đề>. Nội dung cơ bản của lý thuyết này như sau: *Một nước (trong thế giới chỉ bao gồm 2 quốc gia) có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả 2 mặt hàng (2 nước chỉ trao đổi 2 mặt hàng) thì chuyên môn hóa sản xuất và thương mại vẫn có thể mang lại lợi ích cho cả hai nước. *Một nước được coi là có lợi thế so sánh khi nước đó không có được khả năng sản xuất một mặt hàng đạt hiệu quả cao hơn so với các nước khác, nhưng nếu so sánh hiệu quả sản xuất trong nước, nước đó có thể sản._. xuất mặt hàng đó có hiệu quả hơn so với sản xuất mặt hàng kia. Nói cách khác, thương mại vẫn đem lại lợi ích ngay cả khi một nước tỏ ra kém hiệu quả hơn trong việc sản xuất cả 2 mặt hàng, nhưng vẫn có thể xác định được mặt hàng mà mức độ kém hiệu quả sẽ nhỏ hơn so với mặt hàng kia. Để hiểu một cách rõ ràng hơn vai trò của lý thuyết lợi thế so sánh trong giải thích thương mại quốc tế, ta có thể đưa ra một ví dụ cụ thể như sau. Giả sử trên thế giới có hai quốc gia là Mỹ và Việt Nam. Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai mặt hàng chè và cà phê, có nghĩa là Mỹ có khả năng sản xuất cả 2 mặt hàng này với hiệu quả cao hơn Việt Nam. Bảng dưới đây cho biết số lượng lao động mà mỗi nước sử dụng để sản xuất chè và cà phê: Mặt hàng Quốc gia Cà phê Chè Mỹ 1 2 Việt Nam 6 3 Mỹ cần 1 đơn vị lao động để sản xuất 1 cà phê, và cần 2 đơn vị lao động để sản xuất 1 tấn chè. Việt Nam cần 6 đơn vị lao động để sản xuất 1 tấn cà phê và cần 3 đơn vị lao động để sản xuất 1 tấn chè. Để dễ so sánh, ta có thể biểu thị lại hiệu quả sản xuất của 2 nước theo cùng một gốc là 1 đơn vị lao động (bằng một số lượng lao động nhất định) như sau: +Ở Mỹ, 1 đơn vị lao động = 1 tấn cà phê hoặc 1/2 tấn chè. +Ở Việt Nam, 1 đơn vị lao động = 1/6 tấn cà phê hoặc 1/3 tấn chè. Như vậy, với mỗi đơn vị lao động được sử dụng thì Mỹ đều sản xuất được nhiều cà phê và chè hơn Việt Nam , hay nói cách khác Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả 2 mặt hàng. Khi đó, phải chăng Mỹ sẽ không thu được lợi ích gì từ việc buôn bán với Việt Nam - 1 quốc gia sản xuất kém hiệu quả hơn? Điều này không đúng, bởi vì mặc dù Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai mặt hàng cà phê và gạo, nhưng nước này chỉ có lợi thế so sánh về mặt hàng cà phê, tức là chỉ có thể sản xuất cà phê có hiệu quả hơn so với sản xuất gạo. Tuy không thể sản xuất cả cà phê và chè với hiệu quả cao hơn Mỹ, nhưng Việt Nam lại có lợi thế so sánh về mặt hàng gạo, tức là có thể sản xuất gạo một cách có hiệu quả cao hơn so với sản xuất cà phê. Một lần nữa giả sử rằng (đây chính là hạn chế của lý thuyết lợi thế so sánh vì đặt ra quá nhiều giả định phi thực tế), Mỹ và Việt Nam quyết định trao đổi với nhau theo tỷ lệ 1 tấn cà phê = 1 tấn chè. Việt Nam có thể sử dụng 1 đơn vị lao động của mình để sản xuất 1/6 tấn cà phê. Nhưng giải pháp tốt hơn là sử dụng 1 đơn vị lao động đó để sản xuất 1/3 tấn chè (là mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh) sau đó trao đổi với Mỹ lấy 1/3 tấn cà phê (là mặt hàng Mỹ có lợi thế so sánh). Khi đó, nhờ chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi, Việt Nam có được lượng cà phê nhiều gấp đôi (1/3 tấn) so với trường hợp tự sản xuất lấy cà phê (1/6 tấn). Mỹ có thể bỏ ra 1 đơn vị lao động để sản xuất 1/2 tấn chè. Nhưng Mỹ nên sử dụng đơn vị lao động đó để sản xuất 1 tấn cà phê (là mặt hàng Mỹ có lợi thế so sánh) và trao đổi với Việt Nam để lấy 1 tấn chè (là mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh). Khi đó Mỹ cũng có được lượng chè nhiều hơn gấp hai lần(1 tấn) so với trường hợp tự mình sản xuất bằng 1 đơn vị lao động (1/2 tấn). Như vậy, Mỹ cũng thu được lợi ích từ thương mại dẫu nước này có lợi thế tuyệt đối kép. Lợi ích của mỗi nước trong mô hình thương mại đơn giản này được thể hiện trong hình sau: Mỹ Việt Nam Quốc Nam 1/2 1/2 Lợi ích thương mại Lợi ích thương mại 1/6 1/6 Như đã phân tích ở trên, lợi thế so sánh mang lại lợi ích cho các quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế, bất kể quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào hay không. Và cứ khi một quốc gia có thể sản xuất 1 mặt hàng và trao đổi mặt hàng đó để thu được những lợi ích thương mại thì ta có thể ngầm hiểu rằng quốc gia đó đã có lợi thế cạnh tranh về mặt hàng này. Lợi thế cạnh tranh này có được là do quốc gia đó có thể sản xuất được mặt hàng đó có hiệu quả hơn các mặt hàng khác. 3.2.4.Các nguồn lực: Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia trong xuất khẩu còn được quyết định bởi một nhân tố khác cũng rất quan trọng, đó là các nguồn lực trong quốc gia đó. Trước hết cần điểm một lý thuyết quan trọng nói về vị trí của các nguồn lực trong lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Vào đầu thế kỷ 20, một lý thuyết thương mại mới xuất hiện khẳng định vai trò của các nguồn lực đối với lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Trọng tâm của lý thuyết này đề cập đến chi phí nguồn lực ở các quốc gia, theo đó mức chi phí của bất kỳ nguồn lực nào đều đơn thuần là kết quả của cung và cầu: các nguồn lực có mức cung lớn hơn so với mức cầu sẽ có chi phí thấp hơn so với các nguồn lực có mức cung nhỏ hơn mức cầu. Lý thuyết tỷ lệ các yếu tố phát biểu rằng, các quốc gia sẽ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng đòi hỏi sử dụng nhiều nguồn lực (yếu tố) dồi dào và nhập khẩu những mặt hàng đòi hỏi sử dụng nhiều nguồn lực (yếu tố) khan hiếm của các quốc gia đó. Lý thuyết này là kết quả của công trình nghiên cứu của hai nhà kinh tế học là Eli Heckscher và Bertil Ohlin nên còn gọi là lý thuyết Heckscher-Ohlin (H-O). Lý thuyết tỷ lệ các yếu tố có sự khác biệt quan trọng so với lý thuyết lợi thế so sánh. Lý thuyết lợi thế so sánh cho rằng một quốc gia nên thực hiện chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng mà mà quốc gia có thể sản xuất một cách có hiệu quả hơn so với các mặt hàng khác. Nhưng lý thuyết tỷ lệ các yếu tố cho rằng, một nước nên thực hiện chuyên môn hoá và xuất khẩu các mặt hàng sử dụng nhiều nguồn lực dồi dào nhất và do đó rẻ nhất. Lý thuyết lợi thế so sánh nhấn mạnh đến năng suất của quá trình sản xuất một mặt hàng cụ thể, còn lý thuyết tỷ lệ các yếu tố nhấn mạnh đến sự phong phú của các nguồn lực đầu vào sản xuất mặt hàng đó. Dựa trên nội dung cơ bản của lý thuyết tỷ lệ các yếu tố, ta có thể xác định một số nguồn lực cụ thể quy định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia khi xuất khẩu sang các nước khác như sau +Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về khoảng cách, địa điểm, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số, … Đây là những yếu tố có tác động quan trọng đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia thể hiện một cách trực tiếp nhất ở những hàng hoá mà nước đó xuất khẩu. Các nhà xuất khẩu khi xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài đều phải tiến hành chuyên chở hàng hoá qua biên giới (trên bộ, trên không và trên mặt nước), nếu vị trí địa lý thuận lợi, không cách trở thì chi phí vận chuyển thấp, giảm được giá thành của hàng xuất khẩu và hạn chế rủi ro. Khí hậu cũng là một yếu tố có ảnh hưởng đáng kể đến lợi thế cạnh tranh. Yếu tố này bao gồm các đặc điểm về thời tiết, độ ẩm, bão lũ … Ví dụ như những nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa thường có lợi thế cạnh tranh là những mặt hàng nông sản nhiệt đới hơn là những mặt hàng máy móc, đồ điện tử … bởi vì khí hậu này thường có độ ẩm cao nên dễ trồng trọt, nhưng lại có tác động xấu đến độ bền của công nghệ. Mặt khác, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ cung cấp được các yếu tố đầu vào phong phú, chất lượng cao và giá rẻ cho hoạt động sản xuất, từ đó có thể làm ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cả về giá cả và chất lượng. + Nguồn vốn đầu tư: Nguồn vốn đầu tư (chủ yếu bao gồm vốn đầu tư trực tiếp từ Ngân sách Nhà nước, nguồn vốn đầu tư của khu vực dân cư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn ODA) là không thể thiếu được trong nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nếu nguồn vốn đầu tư hạn hẹp thì sẽ không thể đảm bảo duy trì được tốc độ phát triển của nền kinh tế nói chung và những ngành có lợi thế cạnh tranh nói riêng và do vậy không phát huy được hoàn toàn những điểm mạnh của những ngành này. Song cũng cần chú ý rằng, lượng vốn đầu tư là cần thiết, nhưng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đóng một vai trò quyết định. Hiệu quả đầu tư thấp và lãng phí thì dù có tăng lượng vốn đầu tư lên bao nhiêu lần thì cũng chỉ như “muối bỏ bể mà thôi”. +Nguồn nhân lực: Phát triển nguồn nhân lực được coi là khâu quyết định trong quá trình hình thành lợi thế cạnh tranh của một quốc gia, nhất là xét về trung hạn và dài hạn. Một trong những điểm yếu nội tại nghiêm trọng của hầu hết các nước đang phát triển hiện nay là : lao động thiếu kỹ năng và năng suất thấp. Điểm yếu này đang từng bước làm giảm lợi thế cạnh tranh dựa vào nguồn lao động dồi dào và rẻ của các nước này. Không khắc phục được điểm yếu này, các nước đang phát triển khó có thể đạt được mục tiêu cạnh tranh quốc tế, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế thành công cũng như củng cố các cơ sở để tăng trưởng bền vững. Xét theo quan điểm dài hạn, phát triển nguồn nhân lực là tạo lập cơ sở quan trọng hàng đầu để nhanh chóng tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức cơ sở của lợi thế cạnh tranh trong tương lai. Khoảng cách lớn giữa yêu cầu về một nguồn nhân lực chất lượng cao với thực trạng lao động với trình độ thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu ở nhiều quốc gia trong bối cảnh xu hướng phát triển kinh tế tri thức đang được đẩy nhanh trên thế giới càng đòi hỏi Chính phủ các nước phải sớm có chương trình phát triển nguồn nhân lực tổng thể và cơ bản. +Trình độ khoa học công nghệ: Hầu như sự phát triển nhanh chóng và không lường trước được của nhưng bộ phận cấu thành lớn trong nền kinh tế thế giới trong những thập kỷ qua là do những tiến bộ về khoa học công nghệ. Những tiến bộ công nghệ này có thể được bán để trang trải một phần chi phí cho những nước phát minh ra nó. Xét từ góc độ này, công nghệ chính là sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Hơn thế nữa, sự phát triển của khoa học công nghệ và việc áp dụng với tốc độ nhanh chóng những thành tựu của khoa học công nghệ đã làm gia tăng khả năng cạnh tranh của các quốc gia. Thực tế đã cho thấy, quốc gia nào nắm được “vũ khí” công nghệ tiên tiến sẽ chiến thắng trong “cuộc chiến” cạnh tranh khốc liệt và sẽ đem lại sự phát triển và thịnh vượng cho nước mình. +Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất kỹ thuật, các công trình, các phương tiện tồn tại trên một lãnh thổ nhất định được dùng làm điều kiện sản xuất và điều kiện sinh hoạt nói chung, bảo đảm sự vận hành liên tục, thông suốt của các luồng của cải vật chất, các luồng thông tin và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu có tính phổ biến của sản xuất và đời sống(trích dẫn cuối chuyên đề). Các bộ phận của cơ sở hạ tầng được chia làm hai nhóm: cơ sở hạ tầng kỹ thuật (phần cứng) và cơ sở hạ tầng xã hội (phần mềm). Thuộc nhóm cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm: hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống giao thông bến cảng, hệ thống bưu chính viễn thông và các bất động sản công nghiệp khác. Thuộc nhóm cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm: các cơ sở giáo dục đào tạo, các công viên, các cơ sở nghỉ ngơi giải trí, bệnh viện, công trình vệ sinh môi trường, các căn cứ bảo vệ an ninh, quốc phòng … Sở dĩ cơ sở hạ tầng đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và duy trì lợi thế cạnh tranh của một quốc gia là do 2 nguyên nhân sau: + Dịch vụ kết cấu hạ tầng có vai trò to lớn đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ sở hạ tầng được coi như là điều kiện tiên quyết để phát triển hoạt động sản xuất cũng như nền kinh tế nói chung. Sản xuất không thể tạo ra những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh nếu không được đảm bảo về giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước, … + Nguồn nhân lực cũng là một thành tố quy định lợi thế cạnh tranh như đã trình bày ở trên. Chính do yêu cầu phát triển của nguồn nhân lực, mà việc đầu tư cơ sở hạ tầng ngày càng có ý nghĩa quan trọng, vì qua đó mà bảo đảm cho số thu nhập của người lao động được trở thành hiện thực, trở thành các giá trị sử dụng, nhờ đó việc tái sản xuất sức lao động xã hội được thực hiện. 3.2.5. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan Các công ty nằm trong các ngành có khả năng cạnh tranh cao của quốc gia không thể tồn tại một cách biệt lập. Thường thì các ngành công nghiệp hỗ trợ sẽ xuất hiện để cung cấp đầu vào cho các ngành nói trên. Điều này diễn ra như thế nào? Các công ty có thể có lợi từ sản phẩm hoặc quy trình công nghệ của một ngành có khả năng cạnh tranh quốc tế, bắt đầu hình thành các nhóm ngành có các hoạt động kinh tế liên quan với nhau trên cùng một khu vực địa lý. Sự xuất hiện của các nhóm ngành đó giúp cho việc nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh của mỗi ngành trong nhóm. Chẳng hạn, Italia là nước có ngành đóng giày nổi tiếng và thành công của ngành này phụ thuộc vào các ngành có mối liên hệ gần gũi khác là thuộc da và thiết kế mẫu mã. 3.2.6. Các chính sách hỗ trợ của Chính phủ: Hoạt động xuất, nhập khẩu diễn ra không gặp phải những trở ngại thương mại nào được gọi là thương mại tự do. Mặc dù thương mại tự do đã mang lại những lợi ích không phải bàn cãi, nhưng các Chính phủ từ lâu đều can thiệp vào lĩnh vực buôn bán hàng hoá và dịch vụ. Chính phủ với những chính sách khuyến khích của mình đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Bốn công cụ phổ biến nhất được các Chính phủ sử dụng để thúc đẩy lợi thế cạnh tranh là trợ cấp, tài trợ xuất khẩu, khu vực mậu dịch tự do và các tổ chức đặc biệt của Chính phủ. + Trợ cấp: Sự hỗ trợ tài chính dành cho các nhà sản xuất trong nước dưới hình thức tiền mặt, cho vay với lãi suất thấp, miễn giảm thuế, trợ giá… được gọi là trợ cấp. Mục đích của công cụ này là giúp các doanh nghiệp trong nước gia tăng khả năng cạnh tranh trên các thị trường trong và ngoài nước. Do trợ cấp có thể được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau nên hầu như không thể tính toán quy mô trợ cấp mà mỗi quốc gia dành cho các nhà sản xuất trong nước. +Tài trợ xuất khẩu: Chính phủ các nước thường thúc đẩy xuất khẩu bằng cách giúp các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu của mình. Cụ thể là Chính phủ có thể cung cấp các khoản cho vay với lãi suất thấp, hoặc thực hiện bảo lãnh đối với các khoản vay của doanh nghiệp. Việc nhận được nguồn tài trợ của Chính phủ có ý nghĩa rất quan trọng với các doanh nghiệp, đặc biệt là với những doanh nghiệp nhỏ mới tham gia xuất khẩu. +Khu vực mậu dịch tự do: Trong thương mại quốc tế, thuế quan và các thủ tục hải quan là những nhân tố làm tăng chi phí sản xuất hàng hoá và thời gian để hàng hoá thâm nhập thị trường, từ đó kìm hãm lợi thế cạnh tranh. Điều này có thể được khắc phục thông qua việc thành lập các khu vực mậu dịch tự do. Đó là những khu vực địa lý được lựa chọn với đặc tính là hàng hoá được đưa vào hay đưa ra chỉ phải chịu các mức thuế quan thấp và/hoặc với những thủ tục hải quan đơn giản. Tổ chức hoạt động sản xuất trong các khu mậu dịch tự do sẽ giúp các doanh nghiệp cắt giảm được chi phí và thời gian sản xuất. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp thường tổ chức hoạt động lắp ráp sản phẩm cuối cùng trong các khu như vậy. Việc thành lập các khu vực mậu dịch tự do đang mang lại nhiều lợi ích cho nhiều nước trên thế giới. Mexico là một trường hợp điển hình. Vào đầu những năm 60, nước này đã thành lập một khu vực mậu dịch tự do dọc theo biên giới với Mỹ. Các doanh nghiệp hoạt động trong khu này nhập khẩu miễn thuế nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm từ Mỹ, gia công thành thành phẩm và xuất khẩu trở lại Mỹ. Hàng năm, các doanh nghiệp trong khu mậu dịch tự do này sử dụng tới hơn 860.000 nhân công và đạt giá trị xuất khẩu tới hơn 40 tỷ USD(trích dẫn cuối chuyên đề). +Các tổ chức chuyên trách của Chính phủ: Chính phủ của phần lớn các quốc gia trên thế giới đều thành lập những tổ chức chuyên trách nhẵm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Hoạt động của các tổ chức này đặc biệt có ích với doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguồn tài chính hạn hẹp trong việc tìm kiếm hợp đồng với bạn hàng nước ngoài. Để thúc đẩy hoạt động thương mại của quốc gia, các tổ chức xúc tiến thương mại của Chính phủ thường xuyên tổ chức các chuyến khảo sát thị trường nước ngoài cho các quan chức thương mại và các doanh nghiệp trong nước , thiết lập các văn phòng thương mại ở nước ngoài để giới thiệu các doanh nghiệp trong nước với các bạn hàng tiềm năng ở nước ngoài, quảng cáo về hàng hóa và doanh nghiệp trong nước trên thị trường nước ngoài, cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước những thông tin về tình hình thị trường, về chính sách thương mại của những nước khác. Chính phủ không chỉ thúc đẩy xuất khẩu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu những mặt hàng mà quốc gia không sản xuất, hoặc không thể sản xuất được. Các tổ chức xúc tiến của Chính phủ có thể tiếp cận với các doanh nghiệp nước ngoài, tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp đó với các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trong nước, giúp đỡ các doanh nghiệp nước ngoài trong việc tìm kiếm địa điểm thích hợp để đặt các văn phòng đại diện … II. Thị trường xuất khẩu : 1.Khái niệm thị trường xuất khẩu: Trước hết, chúng ta phải nắm được khái niệm về thị trường. Trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển đã hàng trăm năm nay của thị trường gắn liền với nền kinh tế hàng hoá , các nhà kinh tế học vẫn chưa tìm ra được quan điểm thống nhất để định nghĩa và khái quát về thị trường . Vì thế cho tới nay, đã có rất nhiều khái niệm về thị trường được đưa ra, xem xét, đánh giá dưới nhiều hình thức, khía cạnh, góc độ khác nhau. Dưới đây xin đưa ra một số quan điểm về khái niệm thị trường. Quan điểm 1: Theo các nhà kinh tế-chính trị học Mác-Lênin: “Thị trường là một phạm trù kinh tế, nó tồn tại một cách khách quan cùng với sự tồn tại và phát triển của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá”. Thị trường theo quan điểm này luôn gắn liền với nền sản xuất hàng hoá và hình thái phân công lao động xă hội. Thị trường được coi là sự tổng hoà các điều kiện để thực hiện việc lưu thông hàng hoá. Quan điểm 2: Theo Hiệp hội các nhà quản trị Hoa Kỳ : Thị trường là “môi trường hợp tác giữa nhiều tác nhân, lực lượng và điều kiện khác nhau trong đó người mua và người bán đưa ra các quyết định chuyển hàng hoá và dịch vụ tới tay người mua”. Vậy thị trường ở đây là một môi trường bao gồm nhiều yếu tố, lực lượng và các tác nhân khác nhau cùng tác động, tham gia vào tiến trình chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người bán tới người mua. Thị trường phải luôn được gắn với một khoảng thời gian và không gian nhất định và nhất thiết phải có đủ 2 yếu tố là người bán và người mua. Quan điểm 3 : Đây là quan điểm marketing , cho rằng : “Thị trường bao gồm tất cả các khách hàng tiềm tàng cùng có một mong muốn hoặc nhu cầu cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn một nhu cầu hoặc mong muốn đó ”. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò của người mua, coi người mua mới là yếu tố quyết định thị trường, dù rằng không có người bán thì cũng không thể hình thành nên thị trường. Như vậy, mỗi quan điểm được nêu ra ở trên đều tiếp cận khái niệm thị trường trên một phương diện khác nhau, song cả ba quan điểm trên đều cho thấy rất rõ mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố như sản phẩm, lưu thông hàng hoá và thị trường. Nếu không có thị trường thì không có sản xuất hàng hoá và ngược lại thị trường chỉ hình thành, tồn tại và phát triển trong nền sản xuất hàng hoá. Người bán và người mua được coi là các yếu tố không thể thiếu được của thị trường và đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nên thị trường. Từ những quan điểm về thị trường trên, chúng ta có thể đưa ra 2 khái niệm chung nhất về thị trường xuất khẩu như sau: Khái niệm 1: Thị trường xuất khẩu là lĩnh vực trao đổi hàng hoá giữa các đối tác bạn hàng thuộc các quốc gia và khu vực khác nhau trên thế giới dựa trên phân công lao động quốc tế. Khái niệm 2: Thị trường xuất khẩu của một doanh nghiệp là thị trường mà tại đó doanh nghiệp thực hiện các hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình nhằm đạt được mục đích thu lợi nhuận. Như vậy, cho dù được định nghĩa một cách tổng quát như ở khái niệm 1 hay trên bình diện một doanh nghiệp xuất khẩu như ở khái niệm 2, thì nhìn chung thị trường xuất khẩu trước hết vẫn phải là một “thị trường” với đầy đủ các đặc trưng của một thị trường như : cung-cầu, giá cả, cạnh tranh, ... Nhưng bên cạnh đó thị trường xuất khẩu cũng có những nét đặc trưng riêng biệt mà các thị trường khác không có , ví dụ như tính “quốc tế” , nghĩa là thị trường nằm ngoài phạm vi một quốc gia hoặc phụ thuộc vào phân công lao động quốc tế ... Suy cho cùng, vấn đề thực chất của thị trường xuất khẩu chính là khả năng trao đổi sản phẩm xã hội của một quốc gia này với một quốc gia khác về mặt giá trị và giá trị sử dụng. 2. Các căn cứ lựa chọn thị trường xuất khẩu Nói một cách nôm na thì thị trường ở đây là chợ, có chợ thì mới có nơi mang hàng đến bán. Nhưng vấn đề là lựa chọn chợ như thế nào và xem chợ đang thiếu hàng gì để ta đưa hàng đi. Kinh nghiệm của một số nước công nghiệp mới và Nhật Bản cho chúng ta thấy, việc phát huy được lợi thế cạnh tranh trong các giai đoạn phát triển kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá có sự đóng góp quan trọng của chính sách lựa chọn các thị trường xuất khẩu. Cụ thể là, nhờ có các chính sách này, các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh đã tìm được đầu ra ổn định với khối lượng tiêu thụ lớn, từ đó tăng lợi nhuận và tốc độ quay vòng vốn của các doanh nghiệp xuất khẩu để tái đầu tư vào các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, khai thác một cách triệt để những lợi thế này. Thông thường, để phát huy được lợi thế cạnh tranh thì chính sách lựa chọn thị trường xuất khẩu của mỗi quốc gia phải tuân theo một số nguyên tắc như sau: +Thực hiện đa phương hoá thị trường đồng thời với việc phát triển thị trường trọng điểm. Đây là một nguyên tắc mà Việt Nam cần áp dụng trong giai đoạn hiện nay(phần trích dẫn cuối chuyên đề) . Bên cạnh việc thâm nhập mạnh hơn nữa vào thị trường Bắc Mỹ, phát huy vị trí vốn có ở thị trường Châu Á, mở rộng thị trường Liên minh Châu Âu (trong đó chú trọng đến thị trường Bắc Âu), khai thông và mở rộng thị trường truyền thống SNG và Đông Âu, tìm đường đến thị trường Châu Phi xa xôi, chúng ta cũng cần phải xác định một số thị trường trọng điểm, trong đó theo người viết quan trọng nhất là thị trường Mỹ và Trung Quốc-hai thị trường mà Việt Nam có thể tận dụng và phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình. Nhiều nước Asean cũng dựa vào chính hai thị trường này mà đạt tới trình độ phát triển như ngày nay. +Chính sách lựa chọn thị trường đúng đắn không chỉ thể hiện ở khâu phân phối và tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả trên các thị trường xuất khẩu đã chọn, mà còn thể hiện ở khả năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của thị trường và cạnh tranh trên thị trường với khối lượng lớn và mức độ tăng trưởng nhanh. Sau khi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết, một trong những vấn đề lớn mà các nhà xuất khẩu Việt Nam gặp phải là khả năng sản xuất hạn hẹp, manh mún, năng suất lao động thấp, không thể đáp ứng được những đơn đặt hàng với khối lượng lớn và trong một thời gian ngắn của các nhà nhập khẩu Mỹ. Điều này thường xảy ra trong ngành dệt may, mà để giải quyết không thể trong “một sớm một chiều”. Trong nhiều trường hợp, mặc dù nhìn thấy khoản lợi nhuận là đáng kể, nhưng do “lực bất tòng tâm” chúng ta đành phải “ngậm ngùi” từ chối. Trên căn bản của những nguyên tắc chung, khi lựa chọn thị trường xuất khẩu, người xuất khẩu có thể dựa trên một số căn cứ sau đây: 2.1.Quan hệ đối ngoại : Khi lựa chọn một thị trường xuất khẩu, điều đầu tiên mà một nhà xuất khẩu cần xem xét đó chính là mối quan hệ của chính phủ của mình với chính phủ của nước mục tiêu. Quan hệ chính trị tốt đẹp sẽ là tiền đề cho quan hệ kinh tế, quan hệ xuất khẩu phát triển thuận lợi, tất nhiên là dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Ví dụ, nếu quan hệ giữa hai nước thuận lợi, cả hai nước giành cho nhau Quy chế tối huệ quốc hoặc giữa hai nước đã ký kết Hiệp định thương mại song phương, hàng hoá xuất khẩu qua lại giữa hai nước sẽ được hưởng mức thuế suất thấp hơn nhiều so với trước đó. 2.2. Môi trường chính trị-xã hội-luật pháp và môi trường kinh tế vĩ mô *Về môi trường chính trị, trước khi ra quyết định xuất khẩu vào một thị trường nào đó, các doanh nghiệp cần phân tích những câu hỏi dưới đây: +Liệu bộ máy chính quyền có tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành công việc không? +Mức độ can thiệp của Chính phủ vào các công việc buôn bán kinh doanh của tư nhân như thế nào? +Thái độ của Chính phủ đối với việc nhập khẩu các sản phẩm nước ngoài và đối với các nhà đầu tư nước ngoài? Ta có thể lấy ví dụ như Việt Nam mong muốn và khuyến khích hoạt động đầu tư nước ngoài, trong khi đó Ấn độ lại quy định hạn ngạch nhập khẩu, khống chế ngoại tệ chuyển ra nước ngoài. +Hệ thống chính trị liệu có ổn định hay có thể thay đổi trong tương lai? Hệ thống chính trị của một số nước có thể dễ bị thay đổi và do đó, chính sách đối với tư bản và hàng hoá nước ngoài cũng bị thay đổi. Nhà xuất khẩu trong những thị trường mà môi trường chính trị không ổn định phải có những chiến lược thích ứng với những đặc điểm của môi trường đó. +Liệu Chính phủ có tìm cách dỡ bỏ hạn ngạch, biểu thuế và các hàng rào thương mại khác không? +Cam kết của Nhà nước đối với việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là gì? *Về môi trường xã hội, có thể phân tích các câu hỏi sau: +Toàn bộ dân số của nước đó là bao nhiêu(có xem xét đến mức tăng dân số và mật độ dân cư)? +Cơ cấu dân cư chia theo độ tuổi là như thế nào và cơ cấu này có ảnh hưởng gì đến việc tiêu thụ sản phẩm? +Tỷ lệ phân bố dân cư ở nội thành, ngoại thành và các vùng nông thôn như thế nào? +Thu nhập bình quân theo đầu người của nước mà doanh nghiệp hướng tới ra sao? Liệu mức thu nhập có khả năng tăng trong tương lai không? +Việc phân bổ chi tiêu trong thu nhập như thế nào? +Trình độ dân trí như thế nào? +Tỷ lệ dân cư được coi là tầng lớp trung lưu là bao nhiêu? +Đặc trưng về văn hoá, tôn giáo, sắc tộc? *Môi trường luật pháp cũng được các nhà XK tính đến khi định thâm nhập vào một thị trường nào đó. Để tìm hiểu môi trường luật pháp, các câu hỏi thường được đặt ra để trả lời là: +Bảo vệ bản quyền, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp. +Bộ máy giải quyết tranh chấp của nước mục tiêu có đối xử công bằng với người nước ngoài như đối xử với công dân nước họ không? +Các luật về thuế, mức thuế. Luật thuế có bình đẳng đối với các nhà đầu tư nước ngoài không? Mức thuế đối với việc chuyển lợi nhuận ra khỏi nước mục tiêu? +Các vấn đề pháp lý của hợp đồng phân phối ở mỗi nước ra sao? +Nếu một tranh chấp thương mại phát sinh, liệu hệ thống pháp luật nước đó có đưa ra một sự phán xét bình đẳng và vô tư không? *Về môi trường kinh tế vĩ mô, nhà xuất khẩu có thể quan tâm đến các chỉ số kinh tế cơ bản như: +Mức tăng trưởng kinh tế dự kiến của thị trường đó ra sao? +Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và cán cân thanh toán như thế nào? +Cơ cấu của XNK trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu như thế nào? +Tỷ lệ lạm phát, chính sách tiền tệ, cơ chế quản lý ngoại hối của nước đó ra sao? *Ngoài ra, các nhân tố về thương mại cũng đáng được quan tâm. Các câu hỏi sau có thể được đặt ra để phân tích: +Các quy định về tỷ giá chuyển đổi ? Các nhà xuất khẩu đều mong muốn được thanh toán bằng những đơn vị tiền tệ có tính thanh khoản cao với tỷ giá tương đối ổn định. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu bị thiệt hại do đồng tiền thanh toán bị kiểm soát chặt về tỷ giá, hoặc tiền tệ không thể chuyển đổi, thậm chí bị thanh toán bằng những hàng hoá khó bán được +Các tiêu chuẩn, tập quán và các hàng rào phi thuế quan trong nước. +Liệu sản phẩm hoặc dịch vụ có cần phải điều chỉnh cho thích hợp với thị hiếu của người tiêu dùng không? +Mặc dù tuyên bố là mở cửa, liệu thị trường trên thực tế là đóng cửa đối với người nước ngoài không? +Liệu nhu cầu cho sản phẩm trên thị trường có ổn định không? +Mức tiêu dùng của sản phẩm và tỷ lệ sản phẩm hay dịch vụ đó được nhập khẩu là bao nhiêu? +Liệu sản phẩm hay dịch vụ đó sẽ được thị trường mục tiêu chấp nhận hay không? +Mức chấp nhận nói chung đối với sản phẩm nhập khẩu ở nước đó là như thế nào? +Hiện có bao nhiêu đối thủ cạnh tranh nước ngoài trên thị trường? Họ đến từ những khu vực nào? 2.3. Quy mô, tốc độ tăng trưởng và mức độ cạnh tranh trên thị trường. Hiện nay, người ta thường sử dụng hai phương pháp lựa chọn thị trường xuất khẩu rất thông dụng. Thứ nhất, phương pháp thụ động. Các công ty xuất khẩu chỉ hạn chế hoạt động trong việc thoả mãn các đơn đặt hàng từ phía nước ngoài, hoặc chuyển thị trường hoạt động bằng cách thay đổi các đại lý xuất khẩu ở nước ngoài. Quá trình lựa chọn thiếu tính hệ thống và không có định hướng sức mua nên thường kém tính hiệu quả. Thứ hai, phương pháp chủ động hay tích cực. Các công ty xuất khẩu lựa chọn một hay một số thị trường có nhiều triển vọng nhất từ nhiều thị trường khác nhau và loại bỏ những thị trường ít hấp dẫn hơn. Các tiêu thức được sử dụng để tuyển chọn thường gắn liền với quy mô và tốc độ tăng trưởng của thị trường, ví dụ như tổng cầu của thị trường về số lượng và chất lượng cũng như tiềm năng của tổng cầu, tổng cung trên thị trường và tiềm năng của tổng cung, hệ thống phân phối, các phương tiện thông tin… Sau khi đã xác định và chọn lựa các cơ hội thị trường theo quy mô và tốc độ tăng trưởng, người ta sẽ sắp xếp và phân loại cơ hội thị trường theo 4 dạng: cơ hội tương lai, cơ hội tối đa, cơ hội không có triển vọng và cơ hội cần nắm bắt ngay từ đó đưa ra quyết định từ bỏ thị trường hay tìm cách thâm nhập vào thị trường. Hiện nay, vấn đề thị trường đã và đang trở nên bức xúc đối với tất cả các nước đặt sự phát triển kinh tế của mình trên nền tảng kinh tế toàn cầu. Sự cạnh tranh gay gắt trên các thị trường đã đặt ra các thách thức khó khăn với nhiều nước, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam). Vì vậy, trước khi lựa chọn một thị trường xuất khẩu nào đó để thâm nhập, các doanh nghiệp xuất khẩu của một nước thường phải tự đánh giá mức độ cạnh tranh của ngành và/hoặc sản phẩm và xác định mình sẽ ở vị trí nào trên thị trường nếu có mặt trên thị trường đó: thủ lĩnh, thách đấu, vô địch, đang gặp khó khăn hay đã thực sự khó khăn. Điều này rất quan trọng vì vị thế được dự đoán của công ty trong tương lai sẽ quyết định chiến lược của công ty. 2.4. Hệ thống phân phối trên thị trường: Trong thực tiễn thương mại quốc tế, một số hình thức phân phối đã được áp dụng từ nhiều năm trước đây và tiếp tục được sử dụng với quy mô lớn hơn. Các doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hoá có thể tìm hiểu các hình thức đó để đưa ra quyết định lựa chọn thị trường xuất khẩu. Sau đây là một số hình thức phân phối phổ biến nhất: +Đại lý: Đại lý mua bán hà._.định xâm nhập thị trường Mỹ nên khẩn trương tiến hành các hoat động đăng ký cho hàng hóa của mình một thương hiệu tại các cơ quan có thẩm quyền về vấn đề này. Thậm chí, các doanh nghiệp cũng cần đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Mỹ, cho dù sản phẩm của mình chưa được xuất sang Mỹ. Đó là kinh nghiệm của ông Lý Ngọc Minh, giám đốc công ty sứ Minh Long – người đã từng làm ăn rất nhiều trên thị trường Châu Âu và đang chuẩn bị vào thị trường Mỹ. Ông Long đã bỏ tiền ra đăng ký thương hiệu khắp các nước, kể cả Mỹ vì cho rằng việc làm này cuả mình sẽ có tác dụng phòng ngừa những kẻ “nhìn xa”, biết hãng của ông sắp sửa vào thị trường Mỹ nên tung hê đăng ký đại. Đến khi ông thật sự xuất hàng, lại phải bỏ hàng đống tiền ra mua lại tên của chình mình. Để tạo được một thương hiệu còn là điều đơn giản. Để giữ được uy tín cho thương hiệu đó, doanh nghiệp còn phải nỗ lực gấp nhiều lần. Vấn đề này liên quan chặt chẽ đến việc tạo uy tín của doanh nghiệp, cả trên thị trường nội địa và thị trường Quốc tế . Nhiều doanh nghiệp đã hoàn toàn đúng khi cho rằng: cần xây dựng uy tín ngay trên thị trường nội địa để tạo điều kiện gia nhập thị trường nước ngoài. Nhưng cho dù là đang ở trên thị trường nào thì muốn tạo lập và giữ gìn uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp và sản phẩm, doanh nghiệp cũng phảI tuân thủ những vấn đề trong đảm bảo chất lượng sản phẩm, giao hàng đúng hạn, … *Doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu phải chú ý đến vấn đề chất lượng. Thị trường Mỹ là thị trường khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng, khắt khe về tiêu chuẩn hàng hoá, dịch vụ. Do vậy, muốn xuất khẩu hàng sang thị trường Mỹ, vấn đề chất lượng là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu. Chất lượng đảm bảo không chỉ là vấn đề thoả mãn được yêu cầu của nhà nhập khẩu mà trước hết phải thoả mãn được những tiêu chuẩn của các cơ quan quản lý hàng hoá đó. Ví dụ, hàng gốm sứ, chén bát … cần có thử nghiệm độ chì và các chất độc có trong men. Hàng đồ chơi trẻ em ( một mặt hàng dự tính sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho các nhà sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam ), thì lại cần quan tâm đến sự đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh, hoá chất…trong mầu mực in, bông nhồi. Các tổ chức và trách nhiệm kiểm tra việc đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm đã được trình bày trong phần khó khăn đối với xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam khi Hiệp định đã có hiệu lực. Ngoài ra, các nhà sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam cũng cần tính đến các yếu tố có thể ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá như thời tiết, sự thay đổi đột ngột của khí hậu...Đối với các mặt hàng thủ công Mỹ nghệ, gỗ chạm, sơn mài, tre mây, doanh nghiệp phải kiểm tra độ co giãn, mối mọt, mốc hư sau một năm sử dụng, kiểm tra sự thích ứng của sản phẩm với sự thay đổi thời tiết đột ngột từ âm 30 độ C tới dương 30 độ C, từ nóng sang lạnh, từ khô sang ướt…Kinh nghiệm đã cho thấy, nhiều công ty kinh doanh hàng Mỹ nghệ đã tốn nhiều công sức để có thể thâm nhập thị trường Hoa Kỳ nhưng đã không giữ được thị trường đó vì hàng hoá, mặc dù có chất lượng tốt khi xuất khẩu nhưng lại không đủ chất lượng để thích ứng với điều kiện khí hậu sau mùa xuất khẩu: bàn ghế bị cong vênh, keo dán không dính. Đây không chỉ là vấn đề cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam vì ngay cả những doanh nghiệp lớn của các nước tiên tiến cũng mắc phải vấn đề này khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Hãng ô tô Renault của pháp là một ví dụ. Sau khi bán được gần 70000 chiếc xe ô tô sang Mỹ, hãng này đã không thu được gì ngoài một hình ảnh tiêu cực nặng nề, khiến cho đến tận ngày nay, tiếng tăm của ngành công nghiệp ô tô của pháp vẫn không vực lên được. Nguyên nhân dơn giản chỉ vì hãng này đã không tính đến việc phải sản xuất thùng xe ô tô bằng những nguyên liệu chống chất muối, sao cho thùng xe không bị gỉ khi các cơ quan quản lý giao thông quyết định rải muối trên xa lộ để chống tuyết vào mùa đông. Ngược lại, Nhật bản, điển hình là các hãng Canon, Sony, Seiko, và Honda…đã thay đổi hẳn được ấn tượng vẫn dành cho hàng hoá của Nhật Bản– rẻ tiền và kém chất lượng – và tạo dựng được một chỗ đứng vững chắc trên thị trường Mỹ cũng chỉ với việc cải tiến chất lượng. Nói tóm lại, các doanh nghiệp Việt Nam cần xem xét cẩn thận chất lượng sản phẩm của mình trước khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Trong giai đoạn đầu, các doanh nghiệp Việt Nam nên lựa chọn xuất khẩu các mặt hàng mà chất lượng ít bị khống chế bởi các tiêu chuẩn kỹ thuật, thời tiết, nhu cầu. *Các doanh nghiệp cần thay đổi công nghệ mới hiện đại hoặc chủ động nguồn nguyên liệu chất lượng cao. Nhiều công ty đã đầu tư rất nhiều tiền, nhập khẩu về các loại dây chuyền sản xuất hiện đại để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. điển hình là công ty TNHH Kinh Đô. Theo lời ông Trần Lệ Nguyên, giám đốc công ty, để đến được với thị trường Mỹ, công ty đã đầu tư 5 triệu USD nhập khẩu ba dây chuyền sản xuất khép kín hiện đại nhất của Mỹ, chưa có ở các nước ASEAN. Dây chuyền này đã bước đầu phát huy tác dụng trong việc nâng cao chất lượng các loại sản phẩm bánh kẹo cao cấp của công ty. Còn về vấn đề nguyên liệu, hiện nay Việt Nam chưa thể tự chủ động được trong nguyên liệu sản xuất các sản phẩm dệt may và giầy dép. Nguyên liệu của Việt Nam ngoài việc chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng còn chưa đáp ứng được nhu cầu về chất lượng cho sản phẩm sản xuất ra. Phần nhiều các nguyên liệu này đều được nhập khẩu từ các nước láng giềng hoặc do các chủ gia công cung cấp. Phụ thuộc về nguyên liệu sẽ dẫn đến sự bị động trong thời hạn giao hàng, hay sự không đồng nhất trong chất lượng sản phẩm. Cả hai việc này đều có ảnh hưởng không tốt tới uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam và đều cần phải có nỗ lực để sớm loại bỏ. Được biết, Tổng công ty dệt may Việt Nam đã bắt đầu triển khai một chương trình cải tiến công nghệ cho ngành dệt, theo đó sẽ chú trọng đầu tư những máy móc hiện đại nhất nhằm đưa ngành dệt lên ngang tầm với chức năng và nhiệm vụ, sao cho có thể cung cấp những nguyên liệu tốt nhất cho ngành may và thậm chí tự xuất khẩu. *Thực hiện chiến dịch tiếp thị thành công cho sản phẩm : Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải tiếp cận với những phương thức tiếp thị, bán hàng, phân phối, tiêu thụ hàng hoá hiện đại. Về tiếp thị hàng hoá, phương thức tiếp thị truyền thống của Việt Nam nay đem áp dụng cho thị trường Mỹ thì xem ra không còn mấy phù hợp. Các khách hàng Mỹ ngày nay không còn đủ thời gian và kiên nhẫn để ngồi nghe các nhà tiếp thị Việt Nam quảng cáo cho sản phẩm của mình cũng như xem hàng tập dầy catalogue và hướng dẫn sử dụng. Thay vào đó, họ muốn truy cập mạng. Đối với bản thân doanh nghiệp Việt Nam, phương pháp tiếp thị truyền thống cũng là một hình thức tiếp thị gây tốn kém, nhất là trong điều kiện các doanh nghiệp còn thiếu vốn trầm trọng như hiện nay. Do vậy, để vừa tạo hứng thú cho khách hàng Mỹ, vừa không gây ra sự lãnh phí thời gian và công sức cho cả hai bên, giải pháp tối ưu cho công tác tiếp thị sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam là xây dựng những trang web dễ truy cập, bắt mắt và ấn tượng. Giải pháp này tuy đòi hỏi sự đầu tư ban đầu lớn nhưng đó chỉ là sự đầu tư về tri thức, các doanh nghiệp phải có những cá nhân xuất sắc, để có thể kiểm tra và cập nhật thông tin hàng ngày. Nếu xét về mặt tiền vốn, có lẽ xây dựng một trang web như thế này sẽ còn không tốn kém bằng việc cử một đoàn tiếp thị sang tiếp thị trực tiếp ở thị trường Mỹ. Hơn nữa, như đã trình bày ở trên, có rất nhiều khả năng chính phủ sẽ có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong vấn đề kỹ thuật đào tạo nhân viên và thậm chí sẽ hỗ trợ tài chính cho việc xây dựng trang web dành cho kinh doanh. *Thu thập thông tin, tìm hiểu qui định chống bán phá giá, trình tự thủ tục xem xét khởi kiện, chuẩn bị chứng từ.. là cách đề phòng vụ kiện chống bán phá giá chủ động nhất của các doanh nghiệp Việt Nam: Chuẩn bị sớm, cơ hội thành công cao 2.3 Nhóm giải pháp gắn với một số mặt hàng có lợi thế cạnh tranh đã nêu ở chương II: a) Cà phê: Về giải pháp, đề án nêu 6 nhóm giải pháp: * Xây dựng chiến lược phát triển thị trường, điều chỉnh hợp lý cơ cấu sản phẩm hướng đến các thị trường có giá trị gia tăng cao - Xây dựng chiến lược phát triển thị trường đối với cà phê nước ta đến năm 2015, 2020 và xa hơn. Chú trọng các thị trường có khả năng tiêu thụ lớn, đặc biệt là Mỹ - Điều chỉnh cơ cấu sản phẩm theo hướng: + Tăng tỷ lệ xuất khẩu cà phê nhân, bởi thị trường Mỹ rất ưa chuộng loại cà phê này, phấn đấu đến 2015 có 50 - 70%  sản lượng cà phê Việt Nam tham gia giao dịch tại các sàn giao dịch thị trường Mỹ có chất lượng cao. + Phát triển mạnh cà phê hoà tan, cà phê rang xay, nâng mức chế biến sâu các sản phẩm cà phê đạt 20% vào năm 2015 và 30% vào năm 2020. * Ổn định diện tích trồng cà phê theo quy hoạch; thực hành các quy trình canh tác bền vững  - Triển khai quy hoạch chi tiết và ổn định diện tích trồng cà phê phù hợp với quyết định 150/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó diện tích ổn định từ 450.000-500.000 ha, sản lượng khoảng 1 triệu tấn, trong đó cà phê arabica (chè) chiếm khoảng 10% diện tích ở những vùng có điều kiện sinh thái phù hợp. Tiếp tục phát huy ưu thế của cà phê robusta (vối) ở các tỉnh Tây Nguyên; tiến hành thâm canh cao 200.000 ha cà phê theo quyết định số 3988/QĐ-BNN-TT của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. - Triển khai có hiệu quả chương trình giống, nghiên cứu và chuyển giao nhanh vào sản xuất các loại giống mới có năng suất, chất lượng, độ đồng đều cao, đáp ứng đủ nhu cầu giống cho cải tạo, trồng mới. Thực hành các giải pháp kỹ thuật để lai ghép các dòng vô tính cao sản, chất lượng cao, kháng bệnh, chín muộn và đồng đều trong cải tạo các vườn cà phê già cỗi. Nâng cấp và đầu tư mới các trung tâm nhân giống, phấn đấu ở mỗi tỉnh có một trung tâm, mỗi huyện có một trạm giống. - Tăng cường cây che bóng, áp dụng quy trình thâm canh thực hành nông nghiệp tốt (GAP), thân thiện với môi trường; từng bước nâng tỷ lệ áp dụng sản xuất bền vững. - Tổ chức và hướng dẫn nông dân thu hái đúng kỹ thuật; có các biện pháp kinh tế để ngăn chặn tình trạng hái “tuốt cành, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ quả non xanh”.Từ đó nâng cao chất lượng cà phê khi xuất sang Mỹ. * Tập trung nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm chế biến; xây dựng và khẳng định thương hiệu cà phê Việt Nam trên trường Mỹ - Đầu tư, nâng cấp hệ thống sân phơi và máy sấy đối với việc sơ chế bằng phương pháp khô. Khuyến khích nông dân hợp tác, thực hiện việc sơ chế cà phê thóc quy mô lớn và áp dụng phương pháp chế biến ướt, hoặc bán ướt đối với cả cà phê vối, đảm bảo phẩm cấp nguyên liệu cho các quá trình chế biến tiếp theo. - Từng bước hiện đại hoá các cơ sở tái chế - phân loại cà phê nhân xuất khẩu. Khuyến khích các doanh nghiệp chủ động đầu tư trang bị các máy, thiết bị tiên tiến, áp dụng tự động hoá dây chuyền sản xuất và giám sát chất lượng sản phẩm, áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO: 9000, HACCP, ISO: 14000; đảm bảo từ sau năm 2010, hầu hết các cơ sở chế biến cà phê nhân xuất khẩu tuân thủ các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. - Tăng cường năng lực chế biến sâu, khuyến khích doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư chế biến cà phê hòa tan, cà phê rang xay…đến 2015 đạt sản lượng từ 10.000 – 15.000 tấn/năm, trong đó 50% xuất khẩu. - Tập trung đầu tư nghiên cứu chế tạo trong nước các dây chuyền sản xuất cà phê công suất nhỏ và vừa, có công nghệ hiện đại, phù hợp với quy mô sản xuất. Chú trọng các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường đảm bảo sản xuất an toàn, bền vững. - Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng thương hiệu, củng cố sự tin cậy đối với khách hàng và là công cụ bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp. Trên cơ sở cải thiện chất lượng sản phẩm, ngành cà phê và từng doanh nghiệp phải tích cực xúc tiến việc xây dựng và phát triển thương hiệu cà phê Việt Nam nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng, từng bước khẳng định xuất xứ và uy tín của cà phê Việt Nam trên trường quốc tế nói chung và trên thị trường Mỹ nói riêng. * Xây dựng hệ thống tiêu thụ cà phê hiện đại, thích ứng với quá trình giao dịch mua bán trong thị trường Mỹ Hoàn thiện hệ thống thông tin về môi trường kinh doanh, thông tin về hệ thống phân phối, giá cả mặt hàng hiện hành…chủ động áp dụng thương mại điện tử trong giao dịch mua, bán, ký gửi cà phê. * Đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, tạo liên kết, gắn bó lợi ích giữa người trồng, doanh nghiệp chế biến và các cơ sở dịch vụ - Phát triển hình thức kinh tế hợp tác, hộ trang trại sản xuất lớn. Nhà nước có cơ chế, chính sách khuyến khích nông dân tích tụ đất, hình thành các tổ hợp tác, nhóm nông hộ sản xuất cà phê. - Thực hiện liên kết “4 nhà”, trong đó các doanh nghiệp cần chủ động liên kết với các hộ nông dân, hỗ trợ sản xuất, phân phối lợi ích hợp lý, để phát triển vùng nguyên liệu theo quy hoạch, nhằm ổn định sản lượng và chất lượng nguyên liệu cho chế biến. - Khuyến khích hình thành các doanh nghiệp nông nghiệp trên cơ sở người dân đóng góp cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng đất và giá trị vườn cà phê để tổ chức sản xuất lớn theo hướng bền vững, bảo vệ tài sản và cùng hưởng lợi thông qua sản xuất, chế biến, dịch vụ và hỗ trợ của Nhà nước (như đầu tư đường, thuỷ lợi, giống, khuyến nông, bảo vệ thực vật...). * Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ ngành cà phê phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh Phối hợp với các cơ quan hữu quan, nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ các chính sách khuyến khích, hỗ trợ nông dân, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tổ chức sản xuất lớn, an toàn, bền vững. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để hình thành hệ thống giao dịch, ký, gửi cà phê đảm bảo đầy đủ tính pháp lý, công khai, minh bạch, tạo điều kiện mang lại nhiều giá trị hơn cho người trồng cà phê. Mở rộng và nâng cấp hệ thống thông tin chuyên ngành để giúp cho người dân, doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường và tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến khích xuất khẩu thông qua Hiệp hội ngành hàng. Chuyển từ chính sách can thiệp thị trường, trợ cấp xuất khẩu sang hỗ trợ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê trên thị trường, đặc biệt là thị trường Mỹ, như: thành lập các trung tâm giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài, tham gia hội chợ, triển lãm, quảng bá sản phẩm được tổ chức ở New York hoặc các thành phố lớn khác của Mỹ. Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê thành lập Quỹ xúc tiến thương mại, Quỹ bảo hiểm ngành hàng để thực hiện các chương trình quảng cáo kích cầu cà phê trong nước và khắc phục rủi ro trong sản xuất – kinh doanh, đặc biệt trước những biến động tiêu cực của thị trường cà phê thế giới. b)Dệt may: Bảo đảm cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu đầu vào, phụ liệu cho sản xuất theo hướng tăng cường sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước để giảm giá thành sản phẩm từ đó giá xuất khẩu sang Mỹ sẽ rẻ hơn và tạo được lợi thế so với các nước khác. Sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất tại chỗ là cách tốt nhất để giảm chi phí mua bán, vận chuyển lại chủ động được việc sản xuất. Muốn vậy sản phẩm sợi phải đáp ứng được yêu cầu của ngành dệt, và dệt phải đáp ứng được yêu cầu của ngành may bằng cách tạo lập mối quan hệ thống nhất, gắn bó giữa các khâu sợi - dệt và may. Phụ liệu cho sản phẩm may có thể chiếm tới 25-34% giá thành vì vậy nên xây dựng các cơ sở vệ tinh sản xuất nguyên phụ liệu may trong nước với công nghệ tiên tiến để sản xuất các sản phẩm phù hợp với yêu cầu may xuất khẩu để từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hoá. Tăng cường đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ Để làm ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, biện pháp hết sức quan trọng là phải đẩy mạnh đầu tư xây dựng nhà xưởng hiện đại, đổi mới thiết bị, công nghệ theo hướng tiếp cận với công nghệ cao đặc biệt là lĩnh vực dệt. Tập trung đầu tư đổi mới ở các khâu quyết định như: sản xuất sợi tổng hợp, sản xuất vải chất lượng cao, hoá chất, thuốc nhuộm, phụ liệu cho ngành may, thiết kế mẫu cho sản phẩm, chuẩn hoá sản phẩm, đầu tư xử lý môi trường. Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ lao động Lao động là nguồn lực quan trọng quyết định sức cạnh tranh, chất lượng nguồn lao động có ảnh hưởng đến năng suất lao động, cơ cấu sản xuất, quản lý, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ... Khi nền kinh tế thế giới đang chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức thì ngành dệt-may cũng rất cần những người lao động có kỹ năng, có trình độ chuyên môn cao để đáp ứng công nghệ sản xuất hiện đại. Do đó cần đẩy mạnh việc nâng cao trình độ nguồn lao động như: - Phát triển hệ thống đào tạo đa dạng, nâng cao chất lượng đào tạo, tiếp cận những chương trình đào tạo mới nhất từ các nước phát triển. - Có chính sách tiền lương, tiền thưởng khuyến khích việc nâng cao trình độ, cải tiến kỹ thuật nhằm tăng năng suất, đồng thời thu hút lực lượng cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn, công nhân có tay nghề cao. Ngoài ra cần xây dựng chính sách để thu hút những chuyên gia đầu ngành: Sợi, dệt, nhuộm để tăng cường cho những khâu đang còn yếu hiện nay, nếu cần có thể thuê chuyên gia nước ngoài. -Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ thiết kế thời trang bởi đặc biệt với thị trường Mỹ thì rất khó tính, việc nâng cao được mẫu mã của sản phẩm dệt may là yếu tố rất quan trọng Đẩy mạnh áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng như ISO 9000, ISO 14000, SA 8000, OH SAS 18 000... để vượt qua rào cản kỹ thuật khắt khe của các thị trường Mỹ cụ thể là phải đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng và tiêu chuẩn về môi trường. Đa dạng hoá chủng loại, mẫu mã sản phẩm Sản phẩm dệt - may là sản phẩm có chu kỳ sống rất ngắn, nó phụ thuộc nhiều vào tập quán, sở thích của mỗi lứa tuổi, thành phần dân cư và mỗi nền văn hoá khác nhau. Đồng thời nó sẽ thay đổi nhanh chóng khi thu nhập, thị hiếu và xu hướng thời trang của khách hàng thay đổi. Muốn đững vững trên thị trường, đặc biệt là ở Mỹ đòi hỏi các nhà sản xuất phải thường xuyên nghiên cứu để cải tiến sản phẩm về cơ cấu, mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc... Tạo lập thương hiệu có uy tín cho sản phẩm Thương hiệu có ý nghĩa quan trọng tác động rất lớn đến sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, nó là tài sản vô hình, tạo ra uy tín, sự tin tưởng của khách hàng đối với sản phẩm. Để có một thương hiệu mạnh thì không nên xây dựng thương hiệu theo từng doanh nghiệp vì như vậy rất tốn kém mà các doanh nghiệp nhỏ sẽ không đủ khả năng tài chính để thực hiện đồng thời người tiêu dùng lại rất khó nhớ trước hàng loạt cái tên na ná nhau. Các doanh nghiệp cần có sự liên kết lại để xây dựng một thương hiệu chung cho sản phẩm dệt may cần phải tạo uy tín, sự tin tưởng của khách hàng vào thương hiệu bằng việc bảo đảm chất lượng sản phẩm ổn định, thường xuyên cải tiến, để sản phẩm ngày càng hoàn thiện hơn, ngày càng thoả mãn tốt hơn nhu cầu của thị trường khó tính như Mỹ.Hơn nữa cần phải có những biện pháp chồng việc làm giả làm nhái hàng Việt Nam khi xuất sang Mỹ, tức là cần có những tiêu chuẩn để nhận ra đâu là hàng Việt Nam thật, đâu là hàng giả. KẾT LUẬN Hòa mình vào xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá, nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập nhanh và mạnh với nền kinh tế thế giới. Một trong những thách thức lớn mà chúng ta gặp phải trong quá trình hội nhập là hàng hoá Việt Nam vấp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hóa của các nước khác trên cả thị trường trong nước và quốc tế. Bài chuyên đề thực tập : “Tìm lợi thế cạnh tranh và một số giải pháp để nâng cao lợi thế cạnh tranh của Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ trong bối cảnh hiện nay” nhằm mục đích góp một phần nhỏ giải quyết vấn đề trên. Trong phần đầu, bài đi vào tìm hiểu khái niệm và các yếu tố quyết định tới lợi thế cạnh tranh của một quốc gia; khái niệm và các căn cứ lựa chọn thị trường xuất khẩu. Trên cơ sở của lý luận chung, người viết đánh giá lợi thế cạnh tranh tổng thể của Việt Nam, đồng thời lựa chọn thị trường Mỹ là thị trường xuất khẩu để Việt Nam có thể phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình, qua đó phân tích các mặt hàng được coi là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trên hai thị trường này. Đối với thị trường Mỹ đó là mặt hàng: cà phê, dệt may Cuối cùng, bài khoá luận đưa ra một số giải pháp chung nhằm duy trì những lợi thế cạnh tranh vốn có và phát huy những lợi thế cạnh tranh động của Việt Nam, và sau đó là một số giải pháp cụ thể nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Đây là những biện pháp cần thiết phải giải quyết ngay trong thời gian tới, song điều quan trọng hơn cả là sự thay đổi trong tư duy nhận thức của các doanh nghiệp trong nước. Muốn khai thác được nhiều cá thì phải đóng được tàu có công suất lớn và ra khơi xa chịu đựng sóng to gió cả, muốn cạnh tranh được trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế thì các doanh nghiệp phải luôn ở trong thế chủ động tiến công ra thị trường nước ngoài. Trong quá trình tiến công thâm nhập thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp còn phải biết phát huy những điểm mạnh-chính là lợi thế cạnh tranh, khắc phục từng bước những điểm yếu mà không thể trông chờ, ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước. Đây chính là ý nghĩa chính mà bài chuyên đề muốn đề cập. DANH MỤC TRÍCH DẪN TÀI LIỆU THAM KHẢO Trọng Hồ, Tạp chí Thương mại số 16, t4 và t12. Viện nghiên cứu, quản lý kinh tế TW, Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách cạnh tranh ở VN, NXB Lao Động, t10. CK.Prahalad, Thái Quang Sa biên soạn, Trung tâm KHKT hóa chất, Hà Nội, 1999 E.Wayne Nafziger, Kinh tế học của các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, t. 692 TS. Mai Văn Bưu và TS. Phan Kim Chiến, Gt sau đại học: Quản lý NN về kinh tế, Trường ktqd, khoa Khoa học quản lý, Nxb khkt, 2001, trang 199. Chủ biên TS. Nguyễn Thị Hường, Gt Kinh doanh quốc tế, t1, Đh ktqd, Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2001, t236 Nxb Chính trị quốc gia, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng, 2001, trang 120 . Nxb Chính trị quốc gia, Luật thương mại của nước chxhcn Việt Nam, Bản song ngữ Anh Việt, trang 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Trung, Bàn về lợi thế so sánh trong chiến lược công nghiệp hoá của Việt Nam, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Viện Nghiên cứu chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ, Hà Nội. 2. PTS Mai Quốc Chánh-Chủ biên , Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 3.Lợi thế cạnh tranh quốc gia-NXB trẻ-Michael E. Porter(12/2008) 4.NXB Thành phố Hồ Chí Minh-Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2008), Sản xuất tại Việt Nam-Kỷ yếu xuất khẩu 2008, TP Hồ Chí Minh. 5. PGS.TS Phạm Vũ Luận-Hoàng Kình(2006), Kinh doanh quốc tế, NXB Giáo dục, Hà Nội. 9. Phi Bằng , 20 năm tham quan nước Mỹ, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 10. TS. Nguyễn Văn Phúc-Chủ biên, Giáo trình Quản lý đổi mới công nghệ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa QTKD CN và XD cơ bản, NXB Thống Kê, Hà Nội. 11. Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh-Khoa Quản lý Kinh tế (2006), Giáo trình Quản lý Kinh tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 12. Vũ Thế Phú , Quản trị Marketing, NXB Giáo dục, Hà Nội. 13. PGS.PTS. Nguyễn Cảnh Hoan-Chủ biên (2000), Tập Bài giảng về Quản lý kinh tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. TS. Nguyễn Thị Hường-Chủ biên , Giáo trình Kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân-Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế-Bộ môn Kinh doanh quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội. 15. Nguyễn Trần Quế-Chủ biên(2006), Lựa chọn sản phẩm và thị trường trong Ngoại thương thời kỳ CNH của các nền kinh tế Đông á, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng-Chủ biên , Kinh tế phát triển, NXB Lao động Xã Hội 17. TS. Mai Văn Bưu-TS. Phan Kim Chiến, Quản lý Nhà nước về Kinh tế, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. 18. TS. Trần Đình Thiên (2002), CNH-HĐH ở Việt Nam-Phác thảo lộ trình, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. PGS.TS. Lê Văn Tâm-TS. Ngô Kim Thanh (2002), Hoàn thiện môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất hàng tiêu dùng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Niên giám thống kê năm 2007 của tổng cục thống kê- Nhà xuất bản thống kê Hà nội(2008) 21. Kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội năm năm 2006-2010 của Đại hội Đảng lần thứ X đề ra 22. Báo cáo đánh giá tình hình và kết quả thực hiện nghị quyết Đại Hội X của Đảng về phát triển Kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 cảu Bộ kế hoạch Đầu tư 23.Báo cáo năm 2008 thị trường Hoa kỳ của Bộ Kế hoạch đầu tư Mục lục GIỚI THIỆU CHUNG 1 CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU 4 I. Lợi thế cạnh tranh 4 1.Tìm hiểu và phân biệt các khái niệm về lợi thế cạnh tranh 4 2. Phân loại lợi thế cạnh tranh 9 2.1. Phân loại lợi thế cạnh tranh theo cấp độ 10 2.2 Phân loại lợi thế cạnh tranh theo tính chất 13 3. Lợi thế cạnh tranh tổng thể của một quốc gia và lợi thế cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẩm có thế mạnh :(Ở đây chuyên đề nghiên cứu năng lực cạnh tranh quốc gia và lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu thông qua các xuất khẩu các sản phẩm chủ lực) 14 3.1. Lợi thế cạnh tranh quốc gia và các tiêu chí xác định lợi thế cạnh tranh quốc gia 14 a) Mức độ mở cửa 14 b) Vai trò của chính phủ 14 c) Hệ thống tài chính 15 d) Năng lực công nghệ 15 e) Kết cấu hạ tầng 15 f) Quản trị 15 g) Lao động 15 h) Thể chế 15 3.2. Lợi thế cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẩm có thế mạnh, các yếu tố quyết định 15 3.2.1 Nhu cầu và mức độ ổn định của nhu cầu trên thị trường thế giới 15 3.2.2. Sự ổn định của môi trường kinh doanh 16 3.2.3. Lợi thế so sánh 18 3.2.4.Các nguồn lực 21 3.2.5. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan 25 3.2.6. Các chính sách hỗ trợ của Chính phủ 26 II. Thị trường xuất khẩu 28 1.Khái niệm thị trường xuất khẩu 28 2. Các căn cứ lựa chọn thị trường xuất khẩu 30 2.1.Quan hệ đối ngoại 31 2.2. Môi trường chính trị-xã hội-luật pháp và môi trường kinh tế vĩ mô 31 2.3. Quy mô, tốc độ tăng trưởng và mức độ cạnh tranh trên thị trường 34 2.4. Hệ thống phân phối trên thị trường 35 2.5. Thị hiếu người tiêu dùng trên thị trường 37 CHƯƠNG II: MỸ - THỊ TRƯỜNG ĐỂ VIỆT NAM CÓ THỂ PHÁT HUY ĐƯỢC LỢI THẾ CẠNH TRANH 38 I. Lợi thế cạnh tranh quốc gia của Việt Nam qua một số tiêu chí 38 1. Mức độ mở cửa 38 2. Thể chế điều chỉnh hoạt động xuất khẩu 40 3.Năng lực công nghệ 42 4. Lao động 43 5. Vai trò chính phủ 45 6.Về quản trị điều hành vĩ mô 47 7. Tài chính 47 II. Thị trường Mỹ 50 1.Mỹ - thị trường xuất khẩu để Việt Nam có thể phát huy được lơi thế cạnh tranh 50 1.1 Quan hệ đối ngoại giữa Mỹ và Việt Nam 50 1.2. Kim ngạch nhập khẩu lớn nhất thế giới(quy mô, tốc độ tăng trưởng) 51 1.3.Môi trường chính trị-xã hội và môi trường kinh tế vĩ mô 55 1.3.1. Thị trường đông dân trên thế giới 55 1.3.2. Thị trường hợp chủng 55 1.4.Thị trường tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng 57 1.5. Thị trường có hệ thống phân phối rộng khắp và hoàn thiện 58 2. Lợi thế cạnh tranh quốc gia của Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẳm có thế mạnh vào thị trường Mỹ 59 2.1. Cà phê 59 a)Nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thị trường thế giới 61 b) Lợi thế so sánh 63 c) Nguồn lực(Điều kiện tự nhiên) 66 d) Chính sách khuyến khích của Chính phủ 67 e) Mỹ-Thị trường để Việt Nam có thể phát huy lợi thế cạnh tranh về mặt hàng cà phê 68 f) Vị thế của cà phê việt nam trên thương trường quốc tế(môi trương kinh doanh quốc tế) 71 g)Những mặt hạn chế trong xuất khẩu cà phê sang Mỹ 73 2.2. Dệt may 74 a) Cung cầu và mức độ ổn định của nhu cầu trên thị trường thế giới 75 b) Môi trường sản xuất kinh doanh 76 c) Nguồn lực 77 d) Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan 83 e) Các chính sách hỗ trợ của chính phủ 84 f) Mỹ-thị trường xuất khẩu để Việt Nam có thể phát huy được lợi thế cạnh tranh về mặt hàng dệt may 85 g) Những bất lợi khiến Việt Nam chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh 88 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM KHI XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 93 I.Bối cảnh chung và hội nhập Kinh tế của Việt Nam 93 II. Các giải pháp nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh nói chung 97 1. Kịp thời cung cấp những thông tin chính xác về nhu cầu và mức độ ổn định của nhu cầu trên thị trường thế giới 97 2. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng truyền thống có có lợi thế so sánh và có giá trị xuất khẩu cao 98 3. Kiến tạo môi trường kinh doanh ổn định với sự yểm trợ có hiệu quả cao nhất của Nhà nước, đặc biệt cần thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh 99 a) Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý 99 b) Phát triển đồng bộ và đầy đủ thị trường yếu tố sản xuất 100 c) Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện quyền kinh doanh 101 4. Nhóm giải pháp về các nguồn lực 101 4.1. Quản lý chặt chẽ nhằm bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường 101 4.2. Tăng cường trình độ khoa học công nghệ quốc gia 102 a) Sớm đưa ra chiến lược tổng thể về đổi mới công nghệ làm cơ sở cho việc thiết kế cụ thể chiến lược phát triển công nghệ gắn với chiến lược sản phẩm của các doanh nghiệp 102 b) Phát huy nhân tố con người trong chuyển giao công nghệ để có thể tiếp nhận và làm chủ công nghệ mới, cải tiến công nghệ nhập cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, tiến tới từng bước sáng tạo công nghệ mới 103 c) Tạo vốn cho phát triển khoa học công nghệ 104 4.3. Phát triển nguồn nhân lực 105 5. Khuyến khích sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến trong tổng khối lượng sản phẩm sản xuất ra 107 6. Chính phủ cần đẩy mạnh việc thực hiện các chính sách ưu đãi và hỗ trợ cho các doanh nghiệp 109 III.Những giải pháp thâm nhập vào thị trường cụ thể Mỹ 112 1.Nhóm giải pháp nhằm nâng cao những hiểu biết về thị trường Mỹ 112 2.Nhóm giải pháp nhằm khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh trên thị trường Mỹ 113 2.1.Giải pháp đối với các cơ quan nhà nước 113 2.2. Nhóm biện pháp đối với các doanh nghiệp 116 2.3 Nhóm giải pháp gắn với một số mặt hàng có lợi thế cạnh tranh ở Chương II 120 KẾT LUẬN 127 Danh mục trích dẫn tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo 129 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21430.doc
Tài liệu liên quan