Mở đầu
Sự thành công khi thực hiện các chính sách kinh tế luôn là mục tiêu cơ bản của Đảng và Nhà nước ta. Nếu một chính sách phát triển kinh tế không liên quan đến kết quả của chủ thể đặt ra thì chính sách đấy cũng không có tác dụng. Bất kể ai, bất kể đất nước nào dù là để đề xuất hay có vai trò trong những công đoạn nào đó của chính sách cũng không thể xây dựng chính theo kiểu chỉ đạo từ trên xuống như là "cữa ngựa xem hoa" mà bắt buộc phải thực hiện từ cơ sở lên.
Nước ta muốn thực hiện chín
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h sách kinh tế có hiệu quả thì người đó phải là người có hiểu biết sâu rộng trong việc nắm bắt vấn đề để đưa ra các phương án tối ưu. Các chính sách phải hình thành từ sự hiểu biết một cách sâu sắc, những gì mà nó đem lại và những gì mà nó gây ra trong hiện tại, trong tương lai. Đứng trên vi mô là vĩ mô.
Xuất phát từ nguyên tắc trên với nền kinh tế Việt Nam hiện nay nước ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường chúng ta mong mỏi cho quá trình phát triển kinh tế thành công. Vì thế không phải ai khác không phải một tổ chức, một quốc gia nào khác có thể giúp chúng ta mà tự ta phải vận động phải tìm ra con đường phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay. Yêu câu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ những bản chất nguồn gốc của những yếu tố bên trong của nền kinh tế thị trường đặc biệt là yếu tố chính quyết định, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. Đó chính là lợi nhuận. Vậy thế nào là lợi nhuận? Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận là gì? Và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong nền kinh tế thị trường? Đây chính là những vấn đề đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế hiện nay.
Đây là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn quá trình nghiên cứu nó phải xuất phát từ các quan điểm của các nhà học thuyết trước Mác kết hợp với quan điểm của Mác và thực tiễn hiện nay.
Quá trình nghiên cứu sẽ giúp giải đáp được các câu hỏi luôn đặt ra trong lý luận cũng như trong thực tiễn về sự phát triển công nghiệp - nông nghiệp, những biến đổi xã hội....
Để thấy được quá trình phát triển của Việt Nam.
Với những hiểu biết đang còn nhiều hạn chế và trong phạm vi đề tài, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy cô giáo về những sai sót trong quá trình nghiên cứu đề tài.
A- Nội dung
I- Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận.
1.1. Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận.
Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kỳ quá độ mà nền kinh tế phong kiến bước vào thời kỳ suy đồi và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành. Nó ra đời phản ánh những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản vào thời kỳ tiền tư bản và nó được phát triển rộng rãi ở cả nước Tây Âu. Mặc dù thời kỳ này chưa biết đến qui luật kinh tế và còn hạn chế về tính quy luật nhưng hệ thống quan điểm học thuyết kinh tế trọng thương đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lý luận kinh tế thị trường sau này phát triển. Điều này được thể hiện ở chỗ họ đưa ra quan điểm sự giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị tiền. Mục đích hoạt động của kinh tế hàng hoá thị trường là lợi nhuận.
"Học thuyết kinh tế trọng thương cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có".
Nhưng trong giai đoạn này các nhà kinh tế học chưa hiểu quan hệ giữa lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Vì đó ở giai đoạn đầu của thời kỳ này các nước tư bản đã đưa ra các chính sách làm tăng của cải tiền tệ, giữ cho khối lượng tiền không ra nước ngoài, tập trung buôn bán để Nhà nước dễ kiểm tra, bắt buộc các thương nhân nước ngoài, tập trung buôn bán phải dùng số tiền mà họ có mua hết số hàng mang về nước họ... ở giai đoạn sau họ dùng chính sách sản xuất siêu để có chênh lệch, mang tiền ra nước ngoài để thực hiện mua rẻ bán đắt....
Với những chính sách đưa ra nhằm đạt được như trên của các nước tư bản chỉ mang tính chất bề mặt nông cạn. Chứng tỏ quan điểm về lợi nhuận cũng như kinh tế chưa có chiều sâu thực chất. Chính điều này đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong nền kinh tế. Đòi hỏi phải thoát khỏi phương pháp kinh nghiệm thuần tuý. Phải phân tích kinh tế xã hội với tư cách là một chính thể.
1.2. Quan điểm của trường phái cổ điển về lợi nhuận.
Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, sự hoạt động của tư bản chủ yếu là trong lĩnh vực lưu thông. Do quá trình phát triển của công trường thủ công tư bản đã chuyển sang lĩnh vực sản xuất. Lúc này các vấn đề kinh tế của sản xuất đã vượt quá khả năng giải thích của lý thuyết chủ nghĩa trọng thương và học thuyết cổ điển xuất hiện. Các nhà kinh tế học của trường phái này lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Lần đầu tiên họ xây dựng một hệ thống các phạm trù và qui luật của nền kinh tế thị trường. Như phạm trù lợi nhuận địa tô, lợi tức.... trong đó có một số quan điểm về lợi nhuận nổi bật là quan điểm của Kenes, A.Dsmith, Ricado.
- Quan điểm của Kenes: Kenes được Các Mác đánh giá là cha đẻ của chính trị học cổ điển và ông có công lao to lớn trong lĩnh vực kinh tế. Keses đã đặt nền tảng cho việc nghiên cứu sản phẩm tức là nền móng cho việc nghiên cứu quan hệ thặng dư sau này. Ông đã đưa ra những quan điểm kinh tế để tiến hành phê phán chủ nghĩa trọng thương. Ông cho rằng trao đổi thương mại chỉ đơn thuần là việc đổi giá trị này lấy giá trị sử dụng khác theo nguyên tắc ngang giá cả. Hai bên không có gì để mất hoặc được cả. Bởi vậy thương nghiệp không thể đẻ ra tiền được. Theo ông lợi nhuận thương nghiệp có được do tiết kiệm các khoản chi phí về thương mại và của cải chỉ có thể tạo ra trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Chính quan điểm này đã chuyển dịch nghiên cứu của cả từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất ngoài ra ông còn có lý luận về sản phẩm thặng dư. Ông cho rằng sản phẩm thặng dư chỉ được tạo ra sản xuất nông nghiệp kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa bởi vì trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đã tạo ra đựơc chất mới nhờ có sự giúp đỡ của tự nhiên. Đây là một quan điểm sai lầm. Nhưng ông cũng manh nha bước đầu tìm ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư. Ông cho chi phí sản xuất là tiền lương, sản phẩm thuần tuý là số chênh lệch giữa thu hoạch và tiền lương đó chính là phần do lao động thặng dư tạo ra.
Với Pety lợi nhuận là khoản dôi ra so với chi phí sản xuất và pety cho rằng lợi nhuận dôi ra phụ thuộc vào nhà tư bản là hợp lý. Đó là công lao và sự mạo hiểm của nhà tư bản ứng tiền ra sản xuất. Còn A.RJ Turogt thì cho rằng lợi nhuận là thu nhập không lao động do công nhân tạo ra.
A.D Smith thì nghĩa gì:
Ông cho rằng lợi nhuận là khoản khấu từ thứ hai vào sản phẩm của người lao động, chúng đều có chung nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân. Ông chỉ ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ nó để được sử dụng tư bản. Ông đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận và xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên. Xuất phát từ sự phân tích giá trị hàng hoá do người công nhân tạo ra. A.D Simith thấy một thực tế là công nhân chỉ nhận được một phần tiền lương. Theo ông địa tô cộng với lợi tức tư bản đầu tư cải tttạo đất bằng tiền. Điều này tiến bộ hơn cả học thuyết trước đây. Tuy nhiên, ông còn cho rằng sở dĩ nông nghiệp có địa tô, vì lao động nông nghiệp có năng suất cao hơn lao động công nghiệp và ông phủ nhận địa tô tuyệt đối. Ông cho rằng nếu thừa nhận địa tô tuyệt đối là vi phạm qui luật giá trị.
Quan điểm của Ricacdo:
Nếu như A.D Simth sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển mạnh mẽ thì David Ricacdo sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp . Đó là điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.D Simthe dứng lại. Ông là người kế tục xuất sắc của A.D Smith. Theo C.Mác, ASmith là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ công còn D.Ricacdo là nhà tư tưởng của thời đại cách mạng công nghiệp. Ông sử dụng phương pháp khoa học tự nhiên, sử dụng công cụ trừu tượng hoá, đồng thời áp dụng các phương pháp khoa học chính xác, đặc biệt là phương pháp suy diễn để nghiên cứu kinh tế chính trị học.
Về lợi nhuận. D.Ricacdo cho rằng "Lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân". Ông đã thấy xu hướng giảm sút tỉ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận động, biến đổi thu nhập giữa 3 giai cấp: địa chủ , công nhân và nhà tư bản. Ông cho rằng do qui luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả nông phẩm tăng lên làm cho tiền lương công nhân tăng và địa tô tăng lên còn lợi nhuận không tăng. Như vậy, theo ông địa chủ là người có lợi công nhân không có lợi cũng không bị hại, còn nhà tư bản thì có hại vì tỉ suất lợi nhuận giảm xuống. Nhưng hạn chế của ông là không phân biệt P thặng dư.
1.3. Quan điểm của trường phái Samuellsson về lợi nhuận.
Theo Samuellson lợi nhuận lãnh doanh là lợi tức ẩn, lợi nhân là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro cho sự đổi mới, lợi nhuận là lợi thức độc quyền.
Bởi ông cho rằng lợi nhuận kinh doanh là tổng hợp của nhiều khoản khác nhau. Phần lớn giá trị lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chỉ là phần lợi tức của các chủ sở hữu Công ty có được do lao động của họ hay do vốn đầu tư của họ mang lại. Nghĩa là tiền trả cho các yếu tố sản xuất do họ cung cấp.
Lợi nhuận bằng doanh thu trừ chi phí. Lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chủ yếu là thu nhập Công ty.
1.4. Học thuyết của Mác - Lênin.
Mác viết: "Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng hoá.
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị lao động vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Theo Mác, lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một hình thức cụ thể của một nghề nghiệp chuyên môn nhất định, có mục đích riêng, đối tượng riêng, thao tác riêng, phương tiện riêng, thao tác riêng và kết quả riêng. Kết quả của lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. Lao động cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng cũng còn nhiều loại. Tất cả các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viên, là một điều kiện không thể thiếu được trong mọi điều kiện của xã hội.
Lao động của người sản xuất hàng hoá nếu coi là sự hao phí sức lực của con ngưoiừ nói chung, không kể hình thức cụ thể của nó như thế nào gọi là lao động trừu tượng.
Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức óc, sức thần kinh và bắp thịt của con người. Nhưng bản thân sự hao phí lao động về mặt sinh lý đó chưa phải là lao động trừu tượng. Chỉ trong xã hội có sản xuất hàng hoá mới có sự cần thiết khách quan phải qui các loại lao động cụ thể khác nhau vốn không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đông nhất có thể so sánh với nhau được tức là phải qui lao động cụ thể thành lao động trừu tượng. Vì vậy lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng nó tạo ra giá trị của hàng hoá là một phạm trù lịch sử. lao động trừu tượng nó tạo ra giá trị của hàng hoá.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá. Đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn. Mâu thuẫn này còn biểu hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tượng ở giá trị sử dụng với giá trị của hàng hoá. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là điểm mấu chốt để hiểu biết kinh tế chính trị học. Nó là sự phát triển vượt bậc so với các học thuyết kinh tế cổ điển.
Mác và Ănghen cũng là người đầu tiên đã xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh vì vậy, lý luận giá trị thặng dư được xem là hòn đá tảng to lớn nhất trong toàn bộ học thuyết kinh tế của Mác. Qua thực tế xã hội tư bản lúc bấy giờ Mác thấy rằng giai cấp tư bản thì ngày công nghệàg giàu thêm còn gia cấp vô sản thì ngày càng nghèo khổ và ông đã đi tìm hiểu nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng này. Cuối cùng ông phát hiện ra rằng nếu tư bản đưa ra một lượng tiền là T đưa vào quá trình sản xuất là lưu thông hàng hoá thì số tiền thu về lớn hơn số tiền ứng ra. Ta gọi là T' (T'>T hay T' = T+DT.
C.Mác gọi DT là giá trị thặng dư. Ông cũng thầy rằng mục đích của lưu thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Mục đích của lưu thông T-H-T' là sự lớn lên của giá trị thặng dư nên sự vận động T-H-T' là không có giới hạn. Công thức này được Mác gọi là công thức chung của tư bản.
Quan nghiên cứu Mác đi đến kết luận: "Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở người lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông". Đây chính là mâu thuẫn chung của công thức tư bản. Để giải quyết mâu thuẫn này Mác đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá trị hàng hoá - sức lao động. Quá trình sản xuất ra hàng hoá và tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân giá trị sức lao động. Vậy quá trình sản xuất ra tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác viết: "Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình sáng tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là quá trình sản xuất ra hàng hoá; với tư cách là tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá".
Phần giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, nó được tính bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. Vậy giá trị thặng dư (m) là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Quá đó chúng ta thấy tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của tư bản thì C.Mác đã chia ra tư bản ra làm hai bộ phận: tư bản bất biến và tư bản khả biến.
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất được C.Mác gọi là tư bản bất biến và ký hiệu là c.
Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến và ký hiệu là v.
Như vậy, ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động đựơc phải có một tư bản biến đã được ứng trước với những tỉ lệ tương đương. Và qua sự phân chia ta rút ta tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao động. Còn ta bản chất biến có vai trò gián tiếp trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Từ đây ta có kết luận: "Giá trị của một hàng hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng, cộng với giá trị của tư bản khả biến đó (tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất ra). Nó được biểu diễn bằng công thức:
Giá trị = c+v+m.
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến đã vạch rõ thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của nhà tư bản (tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do công nhân tạo ra). Nó được biểu diễn một cách ngắn gọn qua quá trình:
Giá trị = c + v + m
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến đã vạch rõ thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của nhà tư bản (tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do công nhân tạo ra). Nó được biểu diễn một cách ngắn gọn qua quá trình:
Giá trị = c + v - m
Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm: c
Giá trị sức lao động của người công nhân (mà nhà tư bản trả cho người công nhân): v.
Giá trị mới do người công nhân tạo ra: v+m/
M = m.V=
m.V
v
Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c + v. Nhưng giá trị mà tư bản thu vào là c+v+m. Phần M dôi ra là phần mà tư bản bóc lột của người công nhân.
ở trên chúng ta đã nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư. Nhưng muốn hiểu về nó ta cần phải nghiên cứu sự bóc lột tư bản về mặt lượng. Các phạm trù tỉ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư mà ta nghiên cứu sau đây sẽ biểu hiện về mặt lượng của sự bóc lột.
Tỷ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột công nhân. Thực chất đây là tỉ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Nhưng nó không biểu hiện lượng tuyết đối của sự bóc lột tức là khối lượng giá trị thặng dư. Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến (v). Gọi M là giá trị thặng dư thì (v là một đơn vị tư bản biểu hiện ra bên ngoài như tiền lương của một công nhân).
Nó nói lên qui mô bóc lột của tư bản.
Nhà tư bản luôn tìm cách tạo ra gái trị thặng dư nhiều nhất bằng nhiều cách bằng nhiều thủ đoạn. Trong đó Mác chỉ ra hai phương pháp mà chủ nghĩa tư bản sử dụng đó là sản xuất giá trị thặng dư tương đối, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Ngoài ra còn có phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch.
Mác đã chỉ ra trong giai đoạn phát triển đầu của chủ nghĩa tư bản, khi kỹ thuật còn thấp tiến bộ chậm thì việc tăng giá trị thặng dư tuyệt đối bằng cách kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không thay đổi. Nhưng phương pháp này còn có hạn chế về thời gian, về thể chất và tinh thần người công nhân. Sự bóc lột này đã dẫn đến nhiều cuộc bãi công, đấu tranh của các nghiệp đoàn. Mặt khác, đến giai đoạn phát triển cao có thể làm cho năng suất lao động để tăng giá trị thặng dư và nâng cao trình độ bóc lột.
Nhà tư bản sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Phương pháp này không có giới hạn.
Bên cạnh đó các nhà tư bản ngày nay đang tìm cách cải tạo kỹ, đưa kỹ thuật mới vào, nâng cao tay nghề công nhân, tạo điều kiện về tinh thần đó để tạo ra năng suất lao động, cá biệt lớn hơn năng suất lao động xã hội. Phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài giá trị thặng dư thông thường do thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội cần thiết gọi là giá trị thặng dư siêu bền. Phương pháp này sản xuất m siêu ngạch.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là sự biểu hiện qua sản phẩm còn thực tế để thu được tiền thì sự chuyển hoá giá trị thặng dư như thế nào.
"Giá trị thặng dư khi được đem so sánh với tổng tư bản ứng trước thì mang hình thức biểu tượng thành lợi nhuận" từ đó ta có thể thấy P chính là con đẻ của tổng tư bản ứng trước c-v.
Để hiểu rõ hơn về P chúng ta có thể đi sâu vào phân tích chi phí thực tế xã hội và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất phát từ giá trị của hàng hoá c+v+m.
Muốn sản xuất hàng hoá phải chi phí lao động nhất định bao gồm chi phí cho mua tư liệu sản xuất c gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá trị mới (v+m). Đứng trên quan điểm toàn xã hội, quan điểm của người lao động thì chi phí đó là chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá.
(c+v+m). Nhưng đối với nhà tư bản thì họ không hao phí thực tế để sản xuất ra hàng hoá nên nhà tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản chứ không tính xem chi phí hết bao nhiêu lao động cần thiết. Thực tế họ chỉ ứng ra số tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí đó được Mác gọi là chi phí tư bản chủ nghĩa và ký hiệu là k (k =c+v). Như vậy chi phí tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế. Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự chênh lệch nhau một lượng đúng đắn bằng m. Do đó nhà tư bản hàng hoá sẽ thu về một phần lời đúng bằng giá trị thặng dư m, số tiền này gọi là lợi nhuận.
Giá trị hàng hoá lúc này bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng sản với lợi nhuận giá trị = k + P.
Về mặt lượng P có nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê.
Về mặt chất P xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó P che dấu quan hệ bóc lột TBCN, che dấu nguồn gốc thực sự của nó.
Do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế cho nên nhà tư bản có thể bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất TBCN và có thể thấp hơn giá trị hàng hoá. Nếu nhà tư bản bán hàng hoá với giá trị bằng giá trị của nó thì P=m. Nếu bán với giá trị cao hơn n giá trị của nó thì P>m, nếu bán với giá trị nhỏ hơn giá trị của nó thìi P<m. Chính điều này đã làm cho họ cho rằng lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà tư bản mà có. Điều này dẫn đến sự che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Nhưng lòng tham của nhà tư bản là vô đáy vì thế sau khi đã có lợi nhuận rồi thì họ không dừng lại tại đó mà họ còn muốn tìm ra với số tiền mà họ đầu tư đó thì họ đầu tư vào đâu để thu được P lớn nhất. Từ đây nảy sinh khái niệm về tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận (P) là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.
P' = m' 100%/c+v
Tỉ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nó nói lên mức lãi của việc đầu tư. Nó cho nhà tư bản biết họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Do đó việc thu P và theo đuổi P' là động lực thúc đẩy nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Do mục tiêu đạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư bản luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Các quá trình cạnh tranh của nhà tư bản được Mác phân chia thành hai loại: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành lạ cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Do bản chất của cạnh tranh chính làm ột hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất của sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Vì vậy cho nên cạnh tranh trong nội bộ ngành buộc các xí nghiệp phải tìm cách giảm giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội để giành thắng lợi trong cạnh tranh. Kết quả là do điều kiện sản xuất bình quân trong một ngành thay đổi, giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn, ở các ngành sản xuất khác nhau có những điều kiện khác nhau, do đó tỉ suất lợi nhuận cũng khác nhau. Các nhà tư bản chọn ngành có lợi nhuận cao để đầu tư. C.Mác viết: "Do ảnh hưởng của cạnh tranh những tỉ suất lợi nhuận khác nhau đó san bằng đi thành một tỉ suất lợi nhuận chung, đó là con số bình quân của tất cả những tỉ suất lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận của một tư bản có một lượng nhất định thu được, theo tỉ suất lợi nhuận chung, không kể cấu tạo hiện có đó như thế nào gọi là lợi nhuận bình quân".
Quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận là sự hoạt động của qui luật tỉ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của qui luật tỉ suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của qui luật giá trị thặng dư trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Sự chuyển hoá từ giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất và sự che giấu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa của phạm trù sản xuất.
Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân ta thấy một bộ phận hàng hoá được bán cao hơn giá trị của chúng, còn bộ phận khác lại bán thấp hơn giá trị của chúng cũng theo một tỷ lệ như thế. Chỉ có bán hàng hoá theo những giá cả đó thì tỉ suất lợi nhuận trong các Công ty mới có thể đồng nhất và ngang với nhau, dù cấu thành hữu cơ của các tư bản đều khác nhau. "Những giá cả có được bằng cách lấy chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân gọi là giá cả sản xuất".
Vậy: Giá cả sản xuất = k+P.
Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển; sự liên hệ đầy đủ giữa các ngành sản xuất; quan hệ tín dụng phát triển,tư bản tự do để chuyển từ ngành này sang ngành khác.
Trước đây khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả xoay quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây giá cả của hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Về mặt lượng, giá cả sản xuất và giá trị có thể không bằng nhau. Chính trong mối quan hệ này, giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả thị trường.
Thực chất hoạt động của qui luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của qui luật giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Lợi nhuận được biểu hiện dưới dạng P công nghiệp, P thương nghiệp, P ngân hàng, lợi tức cho vay.
Trong công nghiệp để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho thị trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh họ mong muốn chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường. Lợi nhuận ở đây chính là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Còn tối đa hoá lợi nhuận hoặc giảm chi phí sản xuất, tức là phải làm gì để đạt được lợi nhuận cực đại cho doanh nghiệp. Tổng doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà doanh nghiệp đó kiếm được nhờ bán hàng hoá, dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. Vì quá trình bán này cũng được tư bản công nghiệp chia cho một phần lợi nhuận. Lợi nhuận đó sau này được gọi là lợi nhuận thương nghiệp.
Chúng ta đã đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa trọng thương ở đó họ cho rằng lợi nhuận là xét của sự không ngang giá. Họ coi thương nghiệp là lừa gạt "không một người nào thu được lợi nhuận mà không làm thiệt kẻ khác". Quan niệm sai lệch này là do họ tách rời quá trình sản xuất.
Khác với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp chỉ hạn chế ở chức năng mua và bán, nó không sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Nhìn bề ngoài lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ, bán đắt do lưu thông tạo ra. Nhưng thực chất "lợi nhuận thương nghiệp là một phần nhường cho nhà tư bản thương nghiệp". Nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần bởi vì tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu, một giai đoạn của quá trình sản xuất, không có giai đoạn đó thì quá trình tái sản xuất không thể tiếp diễn tiếp tục được. Và dĩ nhiên nhà tư bản thương nghiệp cũng không phải là hoạt động không công được mà họ cũng đòi hỏi phải có lợi nhuận. Điều này bắt buộc nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần lợi nhuận của mình cho tư bản thương nghiệp.
Vậy "lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá".
Nhưng điều đó không có nghĩa là như tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cao hơn giá trị của nó, mà là nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì anh tư bán đúng giá trị của nó. Vì nhà tư bản thương nghiệp tham gia vào việc phân chia m nên đời sống của xã hội tư bản hình thành hai loại giá cả sản xuất: giá cả sản xuất thương nghiệp và giá cả sản xuất thực tế. Sự hình thành P thương nghiệp đã che dấu thêm một bước quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Do việc phân phối P giữa tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp diễn ra theo qui luật tỷ suất lợi nhuận bình quân thông qua cạnh tranh.
- Lợi tức và tỷ suất lợi tức.
Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp, luôn có số tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi ví dụ như tiền lương, quỹ khấu hao của tư bản cố định, tiền dùng để mua nguyên vật liệu nhưng chưa đến kỳ mua; bộ phận giá trị thặng dư tích luỹ (dưới dạng tiền) để mở rộng sản xuất nhưng chưa sử dụng... số tiền nhàn rỗi như thế không đem lại một thu nhập nào cho nhà tư bản. Nhưng đối với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy nhà tư bản phải cho người khác vay để kiếm lãi. Vì trong cùng một thời gian đó có những nhà tư bản khác rất cần tiền để mở rộng sản xuất do đó họ có nhu cầu vay. Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người cần đến nó thường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một khoản lãi nào đó. Số lãi đó được gọi là lợi tức". Bản chất của lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng. Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức che dấu mất thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa. Dựa vào công thức vận động tư bản cho vay, chúng ta hoàn toàn vạch trần được điều đó.
Lợi tức vận động theo quy luật tỷ suất lợi tức.
Tỷ suất lợi tức là tủ lệ tính theo % giữa tổng số lợi nhuận bình quân, tỷ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và thu nhập của xí nghiệp mà nhà tư bản hoạt động, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của tư bản cho vay.
- Lợi nhuận ngân hàng.
Lợi nhuận ngân hàng là thu nhập của nhà tư bản ngân hàng là hình thái biến tướng riêng biệt của m. Nghiệp vụ chính của ngân hàng là thu nhận tiền gửi cho vay. Lợi tức cho vay của ngân hàng cao hơn lợi tức tiền gửi, còn số chênh lệch ấy là nguồn gốc của lợi nhuận ngân hàng. Tuy vậy, không phải toàn bộ con số chênh lệch ấy đều là lợi nhuận ngân hàng mà lợi nhuận ngân hàng chỉ là con số còn lại sau khi đã trừ đi một phần để bù vào chi phí nghiệp vụ ngân hàng (lương nhân viên, sổ sách...)
Ngân hàng cho các nhà trực tiếp kinh doanh vay. Nhà tư bản lấy số tiền đó để sản xuất ra giá trị thặng dư (tư bản công nghiệp) hoặc thực hiện giá trị thặng dư (tư bản thương nghiệp), sau đó đem một phần m thu được làm thành lợi tức trả cho ngân hàng. Do đó, lợi tức ngân hàng cũng là giá trị thặng dư.
Sự cạnh tranh giữa các ngành trong xã hội tư bản cũng là do lợi nhuận ngân hàng bằng lợi nhuận bình quân, nếu không chủ ngân hàng sẽ chuyển vốn sang kinh doanh ngành khác.
- Thị trường trái khoán, vốn cổ phần.
Muốn mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp lớn phải hợp nhất nhiều tư bản cá nhân lại thành những công ty cổ phần. Công ty cổ phần là những xí nghiệp mà vốn của nó do những người tham gia gọi là cổ đông đóng góp vào.
Cổ đông là người mua cổ phiếu, căn cứ vào số tiền ghi trên cổ phiếu cổ đông sẽ được lĩnh một phần thu nhập của xí nghiệp gọi là lợi tức cổ phần. Lợi tức cổ phần không cố định mà phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của Công ty.
Cổ phiếu được mua bán trên thị trường gọi là thi giá cổ phiếu. Thi giá cổ phiếu không phải là số tiền ghi trên mặt phiếu, mà là một số tiền đem gửi ngân hàng sẽ thu được một số lợi tức bằng lợi tức cổ phần.
Công ty cổ phần ngoài phát hành cổ phiếi còn phát hành trái khoán. Người mua trái khoán được nhận lợi tức cố định nhưng không được dự đại hội cổ đông.
Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các chứng khoán có giá trị giao dịch theo hình thức tín dụng người mua chứn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35241.doc