Lợi nhuận và một số biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở Công ty may Thăng Long

Lời nói đầu Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và mở rộng hợp tác quốc tế, vấn đề được quan tâm hàng đầu đối với mọi doanh nghiệp đó chính là hiệu quả. Hiệu quả là mục tiêu, là thước đo trình độ mọi mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp biểu hiện tập trung ở lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong quá trình sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận là cơ sở tiền đề cho doanh

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lợi nhuận và một số biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở Công ty may Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, đảm bảo và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nguời lao động. Lợi nhuận còn là nguồn thu quan trọng cho Ngân sách Nhà nước, là kết quả tài chính cuối cùng mà các doanh nghiệp hướng tới. Nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì lợi nhuận cao, từ đó sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Ngược lại nếu doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, doanh thu không đủ bù đắp chi phí, không có lãi thì doanh nghiệp khó có thể đứng vững được trên thương trường. Lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy kinh tế có hiệu lực nhất, kích thích mạnh mẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước - là doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế - thì việc phấn đấu tăng lợi nhuận càng trở nên cấp bách hơn. Phấn đấu để có lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng nhiều là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Chính vì vậy cần đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận và các biện pháp tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để giải quyết vấn đề quan trọng này, trong quá trình thực tập tại công ty may Thăng Long, được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Tiến sỹ Bùi Văn Vần, các thầy cô giáo trong Bộ môn TCDN và các cô chú cán bộ lãnh đạo của công ty, em đã dần tiếp cận với thực tiễn, lấy thực tiễn làm sáng tỏ vấn đề đã học, bước đầu tập dượt, vận dụng lý luận đó vào phân tích, đánh giá thực tiễn hoạt động kinh doanh của công ty. Em đã mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: "Lợi nhuận và một số biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở công ty may Thăng Long" Nội dung chủ yếu của cuốn luận văn này ngoài phần mở đầu và kết luận còn gồm 3 phần chính: Chương 1: Lợi nhuận và sự cần thiết phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chương 2: Tình hình chủ yếu về lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở công ty may Thăng Long. Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phấn đấu tăng lợi nhuận ở công ty may Thăng Long. Chương 1 Lợi nhuận và sự cần thiết phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước 1.1. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp Lợi nhuận Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân được thành lập để sản xuất kinh doanh một hoặc nhiều loại sản phẩm, dịch vụ nhất định với mục đích chủ yếu là tìm kiếm lợi mhuận. Hiện nay ở nước ta có nhiều loại hình doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ... Chính vì vậy trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển, bất cứ loại hình doanh nghiệp nào cũng phải tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tức là phải đảm bảo lấy thu bù chi và có lãi, từng bước cải thiện đời sống người lao động. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động của doanh nghiệp. Từ góc độ của doanh nghiệp, có thể thấy rằng lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu đó. Lợi nhuận nói chung được xác định bởi công thức: Lợi nhuận = doanh thu - chi phí Doanh thu là toàn bộ các khoản tiền thu được từ các hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác mang lại. Doanh thu của doanh nghiệp gồm: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ các hoạt động bất thường. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến doanh thu thu được và chi phí phải bỏ ra. Doanh nghiệp cần tìm biện pháp tăng doanh thu hợp lý. Bên cạnh đó phải không ngừng phấn đấu hạ chi phí, xác định đúng đắn chi phí hợp lệ, loại bỏ các chi phí không hợp lệ, trên cơ sở đó giúp doanh nghiệp xác định giá bán hợp lý và có lãi. Tuỳ theo mục tiêu yêu cầu cụ thể mà các nhà quản lý doanh nghiệp hoặc các nhà phân tích kinh tế quan tâm đến các kết quả lợi nhuận khác nhau. * LN trước lãi vay và thuế = DT thuần - GVHB - CPBH - CPQLDN * LN trước thuế (LN chịu thuế) = LN trước lãi vay và thuế - lãi vay *LN sau thuế = LN trước thuế - Thuế TNDN (Thuế TNDN = LN trước thuế x thuế suất thuế TNDN) Chẳng hạn, để thấy được ảnh hưởng của giá vốn hàng bán tới kết quả kinh doanh, người ta tính đến chỉ tiêu lợi nhuận gộp. Khi đánh giá doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận như thế nào nếu không phải trả lãi vay và xem xét ảnh hưởng của việc thiếu vốn kinh doanh, người ta sẽ xem xét chỉ tiêu lợi nhuận trước lãi vay và thuế. Lợi nhuận sau thuế là kết quả thực mà doanh nghiệp đạt được trong quá trình sản xuất kinh doanh. Kết quả này cao hay thấp sẽ ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nâng cao lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp sẽ góp phần thực hiện mục tiêu " tối đa hoá giá trị tài sản chủ sở hữu". Lợi nhuận được xem xét ở đây là lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận ròng). Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú, do đó lợi nhuận đạt được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng gồm nhiều bộ phận khác nhau: -Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh : là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí của khối lượng sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ thuộc các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ của doanh nghiệp. - Lợi nhuận từ các hoạt động tài chính: là chênh lệch giữa các khoản thu với các khoản chi có tính chất nghiệp vụ tài chính trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh như: hoạt động đầu tư chứng khoán ngắn hạn và dài hạn, cho vay vốn ... -Lợi nhuận từ các hoạt động bất thường: là lợi nhuận thu được qua kết quả của các hoạt động kinh tế khác mang lại ngoài những hoạt động đã nêu ra ở trên như thu về nhượng bán, thanh lý tài sản cố định (TSCĐ), nhượng bán vật liệu thừa ... Như vậy, ta có công thức xác định tổng lợi nhuận của doanh nghiệp: Tổng LN = LN HĐSXKD + LN HĐTC +LN HĐBT Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất phong phú, đa dạng và tổng lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định dựa trên tất cả các hoạt động đó. Thực tế, tỷ trọng mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận cũng khác nhau giữa các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Ví dụ như đối với nhóm doanh nghiệp thông thường, hoạt động sản xuất kinh doanh tách biệt với hoạt động tài chính thì cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thông thường bao gồm cả ba bộ phận trên, nhưng trong đó lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng cao nhất. Ngược lại, khi nền kinh tế ở trình độ thấp, hoạt động của thị trường chứng khoán, thị trường tài chính chưa hoàn thiện, phổ biến, mảng hoạt động tài chính của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế thì lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm tỷ lệ cao trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp và nó có ý nghĩa quyết định đến tính hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp. Lợi nhuận giữ vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không, điều quyết định là doanh nghiệp đó có tạo ra được lợi nhuận hay không? Vì thế, lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời còn là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Do vậy, nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng và đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung. Tuy vậy, cũng không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau, bởi: - Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, có chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. Vì vậy nếu chỉ căn cứ vào mức lợi nhuận tuyệt đối thì không thể phản ánh đúng hết và không thấy được sự tác động của từng yếu tố đến lợi nhuận thu được của doanh nghiệp. - Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vật chất, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ khác nhau, thường làm cho lợi nhuận thu được giữa các doanh nghiệp cũng không giống nhau. - Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được sẽ khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém, nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý tốt hơn. Chính vì vậy, để đánh giá đúng đắn chất lượng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối, còn phải dùng chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận (còn gọi là mức doanh lợi). 1.1.2. Tỷ suất lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tương đối cho phép so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh giữa các thời kỳ khác nhau trong một doanh nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp. Mức tỷ suất lợi nhuận càng cao chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng có hiệu quả. Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận, mỗi cách có nội dung kinh tế khác nhau. Sau đây là một số tỷ suất lợi nhuận thường được sử dụng: Thứ nhất: Tỷ suất lợi nhuận vốn (doanh lợi vốn) : là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận trước hoặc sau thuế đạt được với số vốn sử dụng bình quân trong kỳ. Công thức xác định Tỷ suất LN trước (hoặc sau) thuế đạt được trong kỳ lợi nhuận = vốn(%) Tổng số vốn sử dụng bình quân trong kỳ Việc sử dụng tỷ suất lợi nhuận vốn phản ánh khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn vào hoạt động kinh doanh. Cụ thể là : nếu doanh lợi toàn bộ vốn của doanh nghiệp đạt thấp hơn so với mức trung bình của ngành, thể hiện việc tổ chức sử dụng vốn của doanh nghiệp là kém hiệu quả, có thể do số vòng quay của toàn bộ vốn thấp hoặc doanh lợi doanh thu của doanh nghiệp thấp, vì vậy doanh nghiệp cần phải quan tâm tới cả hai yếu tố trên. Thứ hai: Tỷ suất lợi nhuận giá thành (doanh lợi giá thành): là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước hoặc sau thuế của sản phẩm tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. Công thức xác định như sau: Tỷ suất LN LN trước(hoặc sau) thuế của SP tiêu thụ trong kỳ giá thành = (%) Giá thành toàn bộ SP tiêu thụ trong kỳ Thông qua tỷ suất lợi nhuận giá thành có thể thấy rõ hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong kỳ. Cụ thể là cứ 100 đồng chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kỳ thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Từ đó giúp doanh nghiệp định hướng sản xuất loại mặt hàng có mức doanh lợi cao, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả tối đa. Thứ ba: Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng (doanh lợi doanh thu): là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước hoặc sau thuế sản phẩm tiêu thụ với doanh thu thuần bán hàng đạt được trong kỳ. Công thức xác định như sau: Tỷ suất LN LN trước (hoặc sau) thuế SP tiêu thụ trong kỳ doanh thu = tiêu thụ(%) DT thuần bán hàng trong kỳ Đây là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể là cứ thực hiện 100 đồng doanh thu bán hàng thì sẽ mang lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng lợi nhuận trước (hoặc sau) thuế. Nếu tỷ suất lợi nhuận doanh thu của doanh nghiệp thấp hơn mức doanh lợi của ngành thì doanh nghiệp cần phải xem xét các biện pháp nhằm giảm chi phí tăng lợi nhuận hoặc phải xem lại khâu định giá bán sản phẩm. Việc phấn đấu tăng lợi nhuận và hơn nữa là tăng tỷ suất lợi nhuận là nhiệm vụ thường xuyên của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp cao hay thấp còn phụ thuộc vào đặc thù của từng ngành sản xuất, vào từng phương hướng sản xuất kinh doanh của từng ngành. Ngoài ba chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận trên, trong công tác quản lý kinh tế, để đánh giá chất lượng từng mặt hoạt động công tác khác nhau, người ta còn sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận giá trị tổng sản lượng, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư ... để đánh giá chất lượng xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu lợi nhuận trên, hoàn toàn có thể đánh giá được một cách đầy đủ và chính xác tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời so sánh và đánh giá chất lượng hoạt động giữa các doanh nghiệp với nhau một cách toàn diện. Điều đó được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn nếu như các doanh nghiệp biết kết hợp một cách chặt chẽ giữa chỉ tiêu tương đối và chỉ tiêu tuyệt đối là doanh lợi và lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện nay, sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường chấp nhận sự cạnh tranh, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi việc sản xuất kinh doanh phải có lợi nhuận. Chỉ bằng cách tạo ra lợi nhuận, doanh nghiệp mới có điều kiện tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng. Chính vì vậy, lợi nhuận là mục tiêu đầy hấp dẫn mà các doanh nghiệp không ngừng phấn đấu để đạt được và đạt được ngày càng nhiều hơn. 1.2. Sự cần thiết phải phấn đấu tăng lợi nhuận đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất luôn phải quan tâm đến vấn đề lợi nhuận. Lợi nhuận là điều kiện đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Phấn đấu để tăng lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận, đặc biệt là tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu trở thành nhu cầu khách quan của doanh nghiệp. Sự đặc biệt quan tâm của doanh nghiệp đến vấn đề lợi nhuận và tăng lợi nhuận xuất phát từ các lý do chủ yếu sau: 1.2.1. Xuất phát từ vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất kinh doanh Lợi nhuận đóng một vai trò quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của doanh nghiệp mà còn đối với sự phát triển của toàn bộ nền KTQD. Nếu như trong thời kỳ bao cấp trước đây, vai trò của lợi nhuận chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức thì trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý vĩ mô của Nhà nước, có sự cạnh tranh, lợi nhuận đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp. Đối với nền kinh tế, tăng lợi nhuận tạo điều kiện cho nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ, tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, từ đó nhằm tăng thêm nhu cầu chi tiêu về quốc phòng, giáo dục, y tế cho Nhà nước, đồng thời tăng quy mô sản xuất cho nền kinh tế. Tăng lợi nhuận làm cho đời sống cán bộ công nhân viên nói riêng và nhân dân nói chung được nâng cao. Đối với doanh nghiệp việc tăng lợi nhuận tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng, tăng vốn sản xuất, cải tiến máy móc thiết bị (MMTB), áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đầu tư dây chuyền công nghệ tiên tiến ... từ đó tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thương trường. Từ việc nhận thấy vai trò và ý nghĩa to lớn của lợi nhuận, các doanh nghiệp cần phấn đấu không ngừng để tăng lợi nhuận của mình với quy mô cũng như khối lượng năm sau phải cao hơn năm trước. 1.2.2. Xuất phát từ yêu cầu của việc phát huy quyền tự chủ tài chính và tự chủ sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Từ năm 1986, nền kinh tế nước ta bắt đầu có sự đổi mới, từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước ta đã đưa ra nhiều giải pháp từng bước tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, buộc các doanh nghiệp phải chuyển sang tự hạch toán kinh doanh. Nhà nước xoá bỏ cơ chế "thu đủ, chi đủ", mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, xoá bỏ bao cấp giá, thực hiện chính sách một giá trong kinh doanh vật tư hàng hoá, đưa dần mức giá lên sát với mức giá thị trường thế giới; xoá bỏ ách tắc trở ngại trong quá trình sản xuất và lưu thông, từng bước tạo thị trường thống nhất, hoàn chỉnh trong cả nước, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh trong môi trường lành mạnh, bình đẳng trước pháp luật. Hoạt động trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các doanh nghiệp vừa phải hợp tác vừa phải cạnh tranh với nhau, những doanh nghiệp nào làm ăn có hiệu quả, lợi nhuận cao sẽ tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh. Ngược lại các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không có điều kiện đầu tư đổi mới MMTB thì nguy cơ phá sản là không thể tránh khỏi. Bởi vì lợi nhuận thu được cao hoặc thấp sẽ tác động trực tiếp đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nếu lợi nhuận cao, thì doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, cũng như việc chiếm ưu thế trên thị trường, khẳng định được uy tín và chỗ đứng của mình. Mặt khác, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường phải đối mặt với rất nhiều vấn đề: doanh nghiệp không phải sản xuất những gì mình có mà phải sản xuất những gì thị trường cần, sản phẩm của doanh nghiệp chỉ được thị trường chấp nhận nếu sản phẩm đó có chất lượng cao, giá bán phải thấp và phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Để đạt được điều đó thì doanh nghiệp phải có một quy mô vốn đầu tư khá lớn, khi mà Nhà nước không còn tài trợ vốn cho doanh nghiệp thì lợi nhuận trở thành một nguồn tài chính quan trọng để đáp ứng nhu cầu đầu tư vốn cho đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Bởi vì có lợi nhuận doanh nghiệp mới có điều kiện trích lập các qũy: qũy dự trữ, qũy đầu tư phát triển sản xuất ... Từ các qũy này, doanh nghiệp mới có điều kiện bổ sung, phát triển vốn cho quá trình tái sản xuất nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời, cũng thông qua đó, doanh nghiệp có điều kiện nâng cao uy tín và đứng vững trên thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt này. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận và bịên pháp tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay Làm ra lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng nhiều là mục tiêu vươn tới của các doanh nghiệp. Để tăng lợi nhuận trước hết doanh nghiệp phải xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, từ đó mới vạch ra các phương pháp hiệu quả nhằm nâng cao lợi nhuận. 1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận Lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, liên quan đến tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó nó chịu tác động của rất nhiều các nhân tố khác nhau. Muốn đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận thì trước hết doanh nghiệp phải xác định được nhân tố nào tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, ảnh hưởng như thế nào và mức độ, xu hướng tác động là nhiệm vụ của các nhà phân tích và quản lý doanh nghiệp. Nói đến các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp có rất nhiều nhưng người ta chia thành hai nhóm chính: nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp và nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải đưa ra các biện pháp tác động một cách hợp lý có hiệu quả, kích thích hoặc hạn chế những nhân tố ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp phát triển ngày một tốt hơn. 1.3.1.1. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. - Sự ổn định của nền kinh tế Đây là nhân tố vĩ mô, tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của doanh nghiệp, bởi sự biến động của nền kinh tế có thể sẽ gây ra những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà các nhà quản trị tài chính phải lường trước. Những rủi ro đó có thể ảnh hưởng tới các khoản chi phí cũng như doanh thu của doanh nghiệp và làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ có xu hướng tăng lên hoặc giảm xuống. - ảnh hưởng của giá cả thị trường, lãi suất và tiền thuế. Giá cả thị trường, giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp tiêu thụ có ảnh hưởng lớn tới doanh thu, do đó có ảnh hưởng lớn tới khả năng tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Sự thay đổi giá cả thị trường còn ảnh hưởng tới việc gia tăng tài sản của doanh nghiệp. Lãi suất của thị trường tăng giảm sẽ có tác động trực tiếp đến chi phí tài chính của doanh nghiệp, khi lãi suất cao thì chi phí huy động vốn mà doanh nghiệp phải trả cao, khi đó nếu doanh nghiệp có hệ số nợ cao thì khoản chi phí đó sẽ chiếm một phần lớn trong tổng chi phí của doanh nghiệp và ngược lại, khi lãi suất thấp nếu doanh nghiệp có hệ số nợ cao sẽ tăng được doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Thuế là một khoản thu bắt buộc mà doanh nghiệp phải đóng góp vào Ngân sách Nhà nước. Bởi thuế là nguồn thu chủ yếu để nuôi sống bộ máy Nhà nước, đó chính là cái giá mà doanh nghiệp phải trả để được bảo trợ tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Thuế là nhân tố khách quan do Nhà nước quy định và các doanh nghiệp phải tuân theo. Mức tăng hoặc giảm thuế ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận ròng của doanh nghiệp. - Sự cạnh tranh của thị trường và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nền kinh tế thị trường vừa tạo thời cơ, vừa chứa đựng những thách thức đối với các doanh nghiệp. Bởi nền kinh tế thị trường kích thích các doanh nghiệp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất. Doanh nghiệp nào tiếp cận được tiến bộ khoa học kỹ thuật, tri thức mới vào sản xuất sẽ tạo được lợi thế kinh doanh, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh. - Chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước. Nhà nước với tư cách là chủ thể của nền kinh tế, quản lý vĩ mô đối với mọi hoạt động trong nền KTQD, Nhà nước ban hành những chính sách kinh tế tài chính để điều tiết nền kinh tế và làm sao có lợi nhất cho đất nước. Mỗi thời kỳ mỗi giai đoạn khác nhau, Nhà nước lại có những chính sách khác nhau và các doanh nghiệp phải có nghĩa vụ thực hiện những chính sách kinh tế ấy dù là bất lợi cho doanh nghiệp. - Sự hoạt động của thị trường tài chính và hệ thống các tổ chức tài chính: Thị trường tài chính có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng, bởi sự hoạt động của thị trường tài chính là cơ sở cho các doanh nghiệp giao lưu và huy động vốn từ tất cả các thành phần trong xã hội. Hệ thống các tổ chức tài chính càng chặt chẽ, làm ăn có hiệu quả sẽ càng hỗ trợ lớn cho các doanh nghiệp, là cơ sở tin cậy cho các doanh nghiệp huy động cũng như đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của mình. Như vậy, tất cả các nhân tố nói trên dù là trực tiếp hay gián tiếp đã tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp, nếu như doanh nghiệp nào biết tận dụng được môi trường kinh doanh để phát huy sức mạnh của doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ thu được nhiều lợi nhuận. 1.3.1.2. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay, lợi nhuận thường bao gồm: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường; trong đó lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn là cơ bản nhất. Vì vậy, xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận tiêu thụ là nội dung cơ bản để trên cơ sở đó phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận tiêu thụ được xác định theo công thức: Pt = T - TH - Zt Trong đó: Pt : lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ T: doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trong kỳ TH: thuế gián thu trong kỳ Zt: giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hóa trong kỳ Từ công thức trên ta thấy lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi doanh thu bán hàng, giá thành sản phẩm hàng hóa dịch vụ và thuế gián thu. Nhưng cần thấy rằng thuế là chỉ tiêu thể hiện nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải nộp đúng nộp đủ và kịp thời cho Ngân sách Nhà nước. Thuế là nhân tố ảnh hưởng khách quan đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp không được tìm cách giảm thuế, trốn thuế để tăng lợi nhuận. Còn lại là sự ảnh hưởng của hai nhân tố là doanh thu tiêu thụ sản phẩm và giá thành toàn bộ sản phẩm. Nhưng đối với mỗi nhân tố nói trên lại có các nhân tố nhỏ ảnh hưởng đến nó. Do vậy cần phải đi sâu nghiên cứu các nhân tố có ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ và giá thành sản phẩm hàng hóa dịch vụ. * Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa dịch vụ. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa dịch vụ được xác định bằng công thức: T= (Sti x Gi1) Trong đó: T: doanh thu bán hàng Sti: khối lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ tiêu thụ trong kỳ Gi: giá bán đơn vị sản phẩm hàng hóa dịch vụ i: loại sản phẩm hàng hóa dịch vụ tiêu thụ Từ công thức trên ta thấy doanh thu bán hàng lại chịu ảnh hưởng của sản lượng tiêu thụ, kết cấu sản phẩm tiêu thụ và giá bán sản phẩm trong kỳ. Một là: Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. Đây là nhân tố ảnh hưởng mang tính chất chủ quan. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi khi sản lượng tiêu thụ tăng lên hoặc giảm xuống bao nhiêu lần thì lợi nhuận cũng tăng lên hoặc giảm xuống bấy nhiêu lần. Việc tăng hoặc giảm khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ phản ánh kết quả của sản xuất cả về khối lượng, chất lượng, chủng loại và thời hạn cũng như phản ánh kết quả công tác bán hàng của doanh nghiệp. Theo công thức: Pt = Sti x (gi - ztbi) Trong đó: T: lợi nhuận tiêu thụ SP trong kỳ Sti: khối lượng SP hàng hóa dịch vụ từng loại tiêu thụ trong kỳ gi: giá bán đơn vị SP hàng hóa dịch vụ tiêu thụ trong kỳ ztbi: giá thành toàn bộ đơn vị SP hàng hóa dịch vụ tiêu thụ trong kỳ i: loại SP hàng hóa tiêu thụ. Khi khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng sẽ kéo theo lợi nhuận tăng lên, nhưng đây mới chỉ là khả năng. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp đưa quá nhiều ra thị trường, thị trường không tiêu thụ hết thì doanh nghiệp sẽ bị ứ đọng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm. Ngược lại nếu đưa ra thị trường một khối lượng sản phẩm nhỏ hơn nhu cầu thị hiếu thì doanh nghiệp có khả năng mất đi một bộ phận khách hàng. Do đó, trong công tác tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải đánh giá đúng nhu cầu thị trường và khả năng sản xuất thích hợp. Như vậy khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ là nhân tố tác động trực tiếp đến doanh thu cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp. Hai là: Kết cấu sản phẩm tiêu thụ. Đây là nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu bán hàng. Mỗi mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận cao thấp khác nhau, cho nên cùng doanh thu như nhau, nếu tăng tỷ trọng mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận cao, giảm tỷ trọng mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận thấp sẽ làm cho tổng lợi nhuận tăng lên và ngược lại. Kết cấu mặt hàng chịu tác động rất lớn của quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu trên thị trường. Mặt khác việc tăng giảm tỷ trọng của từng mặt hàng tiêu thụ còn tùy thuộc vào chính sách kích cầu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì việc điều chỉnh một cách chủ quan, chạy theo thành tích, kế hoạch, vì lợi ích trước mắt đối với những mặt hàng có lợi nhuận cá bịêt cao mà không chú trọng tới những sản phẩm theo đơn đặt hàng, những sản phẩm truyền thống của doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ khó tồn tại được. Bởi kết cấu mặt hàng tiêu thụ thường là do biến động của nhu cầu tiêu dùng, phụ thuộc vào thị hiếu, ... cho nên việc kết hợp điều chỉnh làm sao cho kết cấu mặt hàng hợp lý, phù hợp với điều kiện sản xuất của doanh nghiệp, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội là một bịên pháp quan trọng làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Ba là: Giá bán sản phẩm. Thông thường giá bán sản phẩm là do doanh nghiệp tự định đoạt. Trong điều kiện các nhân tố khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, giá thành sản phẩm không thay đổi thì giá bán tăng giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xác định giá bán dựa trên quan hệ cung cầu trên thị trường. Doanh nghiệp không thể tự tăng giá bán cao hơn giá bán các mặt hàng cùng loại trên thị trường. Trừ một số mặt hàng mang tính chất chiến lược như điện, nước, luyện kim do Nhà nước quy định giá bán. Các doanh nghiệp được Nhà nước giao cho sản xuất mặt hàng này có lợi nhuận tiêu thụ thay đổi do giá bán thay đổi, được coi là tác động khách quan. Bên cạnh đó chất lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận. Chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy hoặc kìm hãm công tác tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, việc nâng cao chất lượng sản phẩm là phương hướng, biện pháp lâu dài để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhu cầu của khách hàng ngày nay là luôn hướng tới những sản phẩm có chất lượng cao, do vậy chất lượng sản phẩm là một vũ khí cạnh tranh sắc bén, có thể dễ dàng thắng lợi trước các đối thủ cạnh tranh. Chất lượng sản phẩm tiêu thụ cao không chỉ làm tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ mà còn có thể nâng cao giá bán, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ngược lại, chất lượng sản phẩm thấp thì việc tiêu thụ sản phẩm sẽ khó khăn. Nếu chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp quá thấp sẽ gây ứ đọng vốn, mất vốn kinh doanh do doanh nghiệp giảm giá bán dẫn đến doanh thu giảm, khi đó doanh thu sẽ bé hơn chi phí. Do vậy việc đảm bảo chất lượng sản phẩm không chỉ đảm bảo tăng lợi nhuận mà còn tạo uy tín cho doanh nghiệp trên thị trường, tạo thế cạnh tranh vững chắc. * Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm Đây là nhóm nhân tố phản ánh trình độ quản lý và sử dụng chi phí của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nếu trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, giá thành sản phẩm hàng hóa dịch vụ càng cao thì chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra càng lớn, do đó lợi nhuận thu về càng thấp. Như vậy giá thành là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp theo chiều nghịch đến lợi nhuận. Nhất là trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh về giá, nếu giá thành sản phẩm càng thấp, doanh nghiệp có lợi thế để hạ giá bán sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, từ đó có thể đẩy mạnh khối lượng sản phẩm tiêu thụ, làm tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Giá thành của toàn bộ sản phẩm hàng hóa dịch vụ tiêu thụ được xác định theo công thức: Ztb = Zsx + CPbh + CPql Trong đó: Ztb: giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hóa dịch vụ Zsx: giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hóa tiêu thụ CPbh: chi phí tiêu thụ sản phẩm CPql: chi phí quản lý doanh nghiệp. Công thức trên cho thấy, ảnh hưởng đến giá thành toàn bộ có 3 nhân tố chủ yếu là: - Giá thành sản xuất sản phẩm hàng hóa tiêu thụ: bao gồm toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm là tùy thuộc vào kết quả quản lý ._.và sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Nếu trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp quản lý tốt và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả toàn bộ chi phí này thì sẽ hạ thấp được giá thành sản phẩm và làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên. - Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp là những chi phí không trực tiếp tạo nên sản phẩm nhưng lại đóng vai trò quan trọng đảm bảo cho quá trình tiêu thụ sản phẩm được tiến hành nhanh chóng. Việc quản lý hai loại chi phí này là vô cùng phức tạp, doanh nghiệp phải tổ chức sắp xếp một cách có hợp lý và khoa học nhằm giảm bớt các loại chi phí này. Qua việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, các doanh nghiệp có thể tìm ra những giải pháp hiệu quả nhằm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. 1.3.2. Một số phương hướng, biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay Ngoại trừ các doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu công ích, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều nhằm một mục tiêu duy nhất là lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao. Do mỗi doanh nghiệp có điều kiện và đặc điểm khác nhau nên có những cách thức khác nhau để thực hiện mục đích của mình. Nhìn chung để tăng lợi nhuận trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, có các biện pháp chủ yếu sau: 1.3.2.1. Hạ giá thành sản phẩm. Đây là phương hướng cơ bản, lâu dài để tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Việc tiết kiệm các chi phí về lao động sống và lao động vật hóa để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn xã hội, nó làm cho lợi nhuận tăng lên mà không phải tăng chi phí. Vì vậy nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp không chỉ tự bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh có lãi mà còn giúp doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm vốn để mở rộng quy mô sản xuất. Để hạ giá thành sản phẩm doanh nghiệp cần thực hiện tốt các biện pháp sau: Thứ nhất: Phấn đấu tăng năng suất lao động Tăng năng suất lao động là sử dụng tiết kiệm thời gian lao động hao phí để làm ra một đơn vị sản phẩm hoặc tăng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Muốn tăng năng suất lao động thì doanh nghiệp cần áp dụng các biện pháp sau: - áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Đây là nhân tố cực kỳ quan trọng, cho phép doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng khối lượng sản phẩm bán ra, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả MMTB. Việc tăng cường sử dụng MMTB cả về số lượng, thời gian, công suất có thể làm cho số tiền khấu hao tăng nhanh nhưng sản lượng sản phẩm sản xuất cũng tăng nên chi phí khấu hao tính trên mỗi đơn vị sản phẩm lại giảm đi, do đó làm giảm giá thành sản phẩm. Để sử dụng tối đa công suất MMTB thì việc sắp xếp dây chuyền sản xuất, bố trí lao động phải hợp lý, giảm thiểu những giờ máy chạy không trọng tải. Bên cạnh đó doanh nghiệp phải quan tâm đến việc sửa chữa, bảo dưỡng MMTB thường xuyên, thực hiện đúng các yêu cầu của quy trình vận hành máy, tránh tình trạng hỏng hóc gây gián đoạn sản xuất. - Nâng cao năng lực và ý thức trách nhiệm của người lao động, tổ chức sắp xếp lao động phù hợp với ngành nghề, có kỹ năng thành thạo, bố trí tối thiểu số lao động gián tiếp. Từ đó doanh nghiệp có thể giảm chi phí quản lý hành chính, hạ giá thành để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thứ hai: Sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu trong sản xuất kinh doanh. Chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm mỗi doanh nghiệp. Do vậy việc phấn đấu giảm chi phí nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đối với việc hạ giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp cần chú ý những vấn đề sau: - Kết hợp chặt chẽ giữa kế hoạch sản xuất và việc cung ứng nguyên vật liệu. Doanh nghiệp cần căn cứ vào kế hoạch sản xuất để có kế hoạch cung ứng vật tư một cách đầy đủ cả về số lượng, chủng loại, chất lượng, cả về thời gian nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành một cách thường xuyên liên tục. Ngoài ra, trong công tác cung ứng nguyên vật liệu, phải tìm nguồn nguyên vật liệu gần nhất, giá cả phải chăng nhằm làm giảm thiểu những chi phí trong quá trình thu mua, vận chuyển. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn phải chú ý đến khâu bảo quản dự trữ nguyên vật liệu, tránh tình trạng nguyên vật liệu do bảo quản không tốt nên không sử dụng được hoặc dự trữ vật liệu không đảm bảo cho sản xuất. Dù có sai sót, thiếu sự quan tâm đúng mức ở bất kỳ khâu nào cũng có thể dẫn đến tăng chi phí sản xuất sản phẩm. - Phấn đấu giảm chi phí nguyên vật liệu nhằm giảm tiêu hao nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm. Định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm là số nguyên vật liệu cần thiết để tạo ra một đơn vị sản phẩm theo yêu cầu kỹ thuật nhất định. Nếu định mức tiêu hao thực tế so với định mức kế hoạch càng nhỏ thì vật tư sử dụng càng tiết kiệm. Đây chính là cốt lõi của việc quản lý nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất. - áp dụng công nghệ mới, sử dụng vật liệu thay thế trên cơ sở đảm bảo chất lượng sản phẩm, sử dụng vật liệu trong nước thay thế cho vật liệu phải nhập từ nước ngoài. Bên cạnh đó doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra quá trình sản xuất để ngăn chặn mất mát do tổn thất khách quan, do mất cắp hoặc sử dụng lãng phí vật tư trong các khâu xuất dùng, sản xuất. Giảm được chi phí vật tư ở khâu nào cũng góp phần làm giảm giá thành sản phẩm. 1.3.2.2. Tăng số lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ Tiêu thụ là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất, là điều kiện để thực hiện quá trình sản xuất tiếp theo. Nhưng việc tiêu thụ sản phẩm lại phụ thuộc rất nhiều vào khâu sản xuất: vào chất lượng và số lượng sản phẩm sản xuất ra. Lợi nhuận của doanh nghiệp chỉ có thể được xác định khi kết thúc quá trình tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, tăng chất lượng và số lượng sản phẩm là một trong những giải pháp hàng đầu để tăng lợi nhuận. Để tăng chất lượng sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự đầu tư thỏa đáng vào hiện đại hóa MMTB, mạnh dạn chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất. Ngoài ra, việc cung cấp vật liệu cũng phải đảm bảo về số lượng, chất lượng, yếu tố trình độ tay nghề của công nhân cũng cần phải chú trọng vì nó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản phẩm mà họ làm ra. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng cuối cùng của quá trình sản xuất. Sản xuất được nhiều mà không tiêu thụ được thì vốn sẽ ứ đọng, quá trình sản xuất tiếp theo không thể tiến hành. Tiêu thụ được sản phẩm chứng tỏ thị trường đã chấp nhận cả về giá cả và chất lượng. Sản phẩm càng bán được nhiều thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng cao. Muốn vậy doanh nghiệp phải có sự đầu tư thỏa đáng cho việc nghiên cứu thị trường, xây dựng một chính sách marketing có hiệu quả. 1.3.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Đây là nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Sử dụng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh không phải là hoạt động đơn thuần về mặt thu chi tài chính, mà là một nghệ thuật. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là phải sử dụng vốn sản xuất đem lại hiệu quả cao nhất. Vốn sản xuất kinh doanh gồm hai bộ phận: vốn cố định (VCĐ) và vốn lưu động (VLĐ). VLĐ là biểu hiện bằng tiền của các loại vật tư, thành phẩm, tiền vốn ... Sử dụng tốt VLĐ có nghĩa là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất, tăng nhanh vòng quay của vốn, vật tư hàng hoá thành phẩm không bị ứ đọng, tránh hư hao mất mát. Tiết kiêm đựơc khoản chi phí này sẽ làm giảm giá thành sản phẩm và đẩy lợi nhuận tăng lên. VCĐ là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định (TSCĐ). Sử dụng có hiệu quả VCĐ có nghĩa là trong quá trình sản xuất phải tận dụng tối đa năng lực làm việc của MMTB. Đồng thời sử dụng TSCĐ tốt sẽ ngăn ngừa tình trạng hao mòn vô hình, MMTB được khấu hao nhanh, vốn quay vòng nhanh, doanh nghiệp có thể nhanh chóng đổi mới MMTB, trong điều kiện KHKT phát triển thì đó là một lợi thế để cạnh tranh. Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hiện nay, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn còn thể hiện ở khả năng huy động vốn bên ngoài với chi phí thấp nhất. Muốn giảm chi phí phải trả cho việc huy động vốn thì chỉ còn cách sử dụng vốn đó có hiệu quả: tăng nhanh vòng quay vốn vay, giảm chi phí vay vốn trên một đơn vị sản phẩm. Qua sự phân tích ở trên ta thấy rằng lợi nhuận và phấn đấu tăng lợi nhuận là mục tiêu của hầu hết các doanh nghiệp. Lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Xét về mặt tài chính, lợi nhuận ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, là một điều kiện đảm bảo sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp (TCDN) có tác động không nhỏ đến việc phấn đấu tăng lợi nhuận. Có thể nói rằng chúng có quan hệ tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ, thường xuyên và liên tục. 1.4. Vai trò của TCDN đối với việc phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp có tồn tại phát triển được hay không thì điều kiện quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Lợi nhuận có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là cơ sở quan trọng đảm bảo tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. TCDN cũng có tác động không nhỏ đến việc phấn đấu tăng lợi nhuận. Giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau hết sức chặt chẽ. Có thể hiểu TCDN là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng chuyển động và chuyển hóa các nguồn tài chính trong quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các qũy tiền tệ nhằm đạt tới mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Tài chính không chỉ là một phạm trù kinh tế khách quan mà nó còn là một công cụ để quản lý kinh tế, nó có vai trò quan trọng trong việc phấn đấu tăng lợi nhuận ở doanh nghiệp, được thể hiện ở: Thứ nhất: TCDN là một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm thực hiện các mục tiêu kinh doanh. Từ khi Nhà nước xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường nhiều thành phần, Nhà nước giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp buộc phải làm ăn có lãi. Lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư mới công nghệ, đầu tư vào các ngành nghề mới, đầu tư để chiếm lĩnh thị trường...Từ đó gia tăng nhu cầu vốn cho đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng các công cụ đòn bẩy kinh tế như lãi suất, lợi tức nhằm khai thác huy động vốn, lựa chọn phương án đầu tư vốn có hiệu quả, sử dụng linh hoạt các nguồn vốn. Đó là khai thác các chức năng phân phối, giám đốc, tài chính để nâng cao vai trò của TCDN trong tạo lập, khai thác, huy động vốn phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai: TCDN có vai trò trong sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả, góp phần hạ giá thành, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp là phải làm ăn có lãi. Bằng sự phân tích, đánh giá của mình, TCDN có thể lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh với chi phí hợp lý nhất, đảm bảo sản xuất các sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành thấp, từ đó cho phép doanh nghiệp có thể tăng lợi nhuận. Thứ ba: TCDN là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua các số liệu tính toán, các chỉ tiêu tài chính như hệ số thanh toán, hiệu quả sử dụng vốn, hệ số sinh lời, cơ cấu các nguồn vốn, cơ cấu sử dụng vốn, người quản lý có thể dễ dàng nhận thấy thực trạng tốt xấu của các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh, từ đó kịp thời phát hiện những hạn chế, nguyên nhân, để tìm ra biện pháp khắc phục nhằm không ngừng phấn đấu tăng lợi nhuận. Thứ tư: TCDN là công cụ kích thích, thúc đẩy sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngày càng có lãi. TCDN có thể sử dụng các công cụ sắc bén của mình như đầu tư, xác định lãi suất, cổ tức, giá bán hoặc mua sản phẩm dịch vụ .. . để kích thích việc tăng năng suất, kích thích tiêu dùng, thu hút vốn nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. TCDN là một nhân tố quan trọng giúp doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh trên thị trường và làm ăn có lãi. Vì vậy trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phát huy khả năng tiềm tàng của TCDN để không ngừng nâng cao lợi nhuận. Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh, cho nên không nằm ngoài mục tiêu kinh doanh có lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao. Để nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết vấn đề lợi nhuận và có biện pháp tăng nhanh lợi nhuận ở công ty, chúng ta đi vào xem xét qua trình thực hiện lợi nhuận và các biện pháp tăng lợi nhuận của công ty năm 2002. Chương 2 Tình hình chủ yếu về lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở công ty may Thăng Long 2.1. Vài nét về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty may Thăng Long 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam, tiến hành hạch toán kinh doanh độc lập. Tên gọi: Công ty may Thăng Long Tên giao dịch: Thăng Long Garment Company Tên viết tắt: Thaloga Trụ sở chính: 250 phố Minh Khai- Hai Bà Trưng- Hà Nội. Công ty may Thăng Long (Thaloga) được chính thức thành lập vào ngày 08/5/1958, do Bộ Ngoại Thương ra quyết định, với tên gọi ban đầu là “Công ty may mặc xuất khẩu” thuộc Tổng công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm, đặt trụ sở tại 15 Cao Bá Quát. Đây là công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam với nhiệm vụ chính là sản xuất gia công hàng may mặc xuất khẩu. Ngay từ những ngày đầu thành lập, do hoàn cảnh của nước ta lúc bấy giờ vừa phải chiến đấu, vừa phải sản xuất trong điều kiện vật chất như: tiền vốn, nguyên phụ liệu, thiết bị, dụng cụ sản xuất cũng như nhân lực vô cùng thiếu thốn nhưng với quyết tâm cao nên công ty đã hoàn thành xuất sắc năm kế hoạch đầu tiên của mình với tổng sản lượng là 391.129 sản phẩm, đạt 112,8% so với kế hoạch, giá trị tổng sản lượng tăng 840.880. Đây là cơ sở cho một nền móng vững chắc, thúc đẩy sự phát triển của công ty và cũng là mốc đánh dấu thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa to lớn. Trong những năm 90, thị trường rộng lớn của công ty bị tan rã: Đông Đức, kế tiếp là Liên Xô rồi lần lượt là các thị trường Đông Âu khác. Trước tình hình đó, công ty đã quyết định đầu tư, trang bị thêm một số MMTB hiện đại, nâng cao trình độ công nhân, khả năng sản xuất nhiều mặt hàng mới cao cấp, đồng thời phải tổ chức sắp xếp lại sản xuất, cải tiến các mặt quản lý cho phù hợp với yêu cầu mới. Đồng thời công ty không ngừng đẩy mạnh tiếp thị, chủ động tìm kiếm khách hàng, tháo gỡ những khó khăn về tiêu thụ cũng như mở rộng chủng loại mặt hàng xuất khẩu sang thị trường mới, tập trung vào Tây Âu, Nhật Bản và chú ý hơn đến thị trường nội địa. Hiện nay, công ty đang mạnh dạn vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau để mua sắm, trang bị thêm MMTB nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên. Trải qua 45 năm phát triển, từ những bước đi chập chững ban đầu cho đến những bước tiếp theo ngày một vững chắc hơn nhưng cũng không ít khó khăn trở ngại, công ty đã, đang và ngày càng khẳng định được chỗ đứng của mình trong nền kinh tế thị trường, không ngừng vươn lên để ngày một vững mạnh hơn nữa. 1.2. Tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty may Thăng Long hai năm gần đây. Công ty Thaloga là một doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất và gia công hàng may mặc, nên việc xác định chuyên môn hoá được coi là hạt nhân trọng tâm và là phương hướng chủ đạo trong phát triển sản xuất kinh doanh của công ty. Trong hai năm gần đây, công ty đã đạt được một số kết quả sau: xem biểu 01 trang 27. Qua số liệu ở biểu 01 đã phần nào phản ánh được những cố gắng chủ quan của đội ngũ ban lãnh đạo công ty cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty. Trong hai năm qua, những kết quả mà công ty đạt được đó là đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động, không ngừng nâng cao mức thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên, đồng thời công ty cũng tiến hành đổi mới, mua sắm MMTB phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Tuy nhiên, bước sang năm 2003, dự báo sẽ có nhiều thách thức không chỉ với ngành dệt may nói chung mà còn là một thách thức với công ty Thaloga nói riêng. Chính vì vậy công ty cần phải cố gắng hơn nữa, không ngừng vươn lên, phát huy những thành tích đã đạt được thì mới có thể chiếm lĩnh được thị trường, mới thắng được các đối thủ cạnh tranh, nhằm đưa thương hiệu may Thăng Long có chỗ đứng vững chắc đối với người tiêu dùng cả ở trong và ngoài nước. Biểu 01: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty may Thăng Long năm 2001 - 2002 Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2001 Năm 2002 So sánh 2002 / 2001 ±Tuyệt đối ±Tỷ lệ 1.Vốn SXKD bình quân Triệu đồng 107.183 119.579 +12.396 +12 -VLĐ Triệu đồng 57.674 63.342 +5.668 +9,8 -VCĐ Triệu đồng 49.509 56.237 +6.728 +13,6 2.Tổng doanh tiêu thụ Triệu đồng 128.226 158.190 +29.964 +23 Trong đó: doanh thu hàng xk Triệu đồng 95.838 139.754 +43.916 +46 3.Doanh thu thuần Triệu đồng 116.248 150.201 +33.953 +29 4.Giá vốn hàng bán Triệu đồng 97.488 110.453 +12.965 +13,3 5.Lợi nhuận trước thuế Triệu đồng 1.767 2.194 +427 +24,14 6.Thuế TNDN phải nộp Triệu đồng 577 476 -101.000 -17,5 7.Lợi nhuận sau thuế Triệu đồng 589 1.351 +762 +129 8.Thu nhập bình quân 1.000 đồng 1.000 1.115 +150 +15 9.Sản lượng SP SX chủ yếu 1.000 chiếc 6.319 7.627 +1.308 +21 2.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quy mô sản xuất kinh doanh và cơ cấu quản lý của công ty 2.1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ, quy mô sản xuất kinh doanh. Công ty Thaloga là một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Là doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn, số vốn ban đầu do Nhà nước cấp nhưng qua 45 năm trưởng thành và phát triển, công ty đã không ngừng phát triển và vươn lên, số vốn kinh doanh của công ty tính cho tới thời điểm 31/12/2002 là 119.579 triệu đồng. Nhiệm vụ chính của Công ty Thaloga là sản xuất gia công hàng may mặc phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra, công ty còn tiến hành nghiên cứu, thiết kế mẫu để sản xuất và tiêu thụ ra bên ngoài thị trường. Các sản phẩm của công ty đã đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng và từng bước chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước, vì vậy đã đảm bảo cho công ty có được mức tăng trưởng lợi nhuận tương đối ổn định hàng năm, mang lại cho ngân sách quốc gia một lượng ngoại tệ lớn nhờ xuất khẩu. Toàn công ty hiện nay có 2956 người. Trong đó: lao động trực tiếp là 2.690 người, chiếm 90% tổng số lao động. Do đặc thù của ngành may nên tỷ lệ lao động nữ trong công ty rất lớn, chiếm 92%. Công nhân của công ty có tuổi đời bình quân là 26 tuổi, đại đa số đã tốt nghiệp PTTH và đã qua các trường lớp đào tạo về may mặc. Trong đó công ty có khoảng 2.117 người đã qua các trường trung cấp dạy nghề may mặc. Bậc thợ bình quân của công nhân là 4/7. Hàng năm công ty đều có tổ chức thi tuyển công nhân vào công ty và thi sát hạch tay nghề cho công nhân lao động. Bên cạnh việc sắp xếp lại sản xuất và lao động thì bộ máy tổ chức quản lý cũng được giảm nhẹ với phương châm tinh giản lao động gián tiếp mà vẫn nâng cao hiệu quả và chất lượng quản lý. Trong số lao động gián tiếp của công ty có 110 người đều tốt nghiệp ĐH hoặc CĐ, 45 người trong số này nằm giữ những vị trí chủ chốt trong công ty. Số cán bộ 266 người tức là khoảng 9% tổng số lao động của công ty là một tỷ lệ khá hợp lý trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện nay cần tinh giản tối đa bộ máy quản lý, bộ phận làm việc gián tiếp. 2.1.3.2. Cơ cấu tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của công ty Công ty Thaloga là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, trực thuộc Tổng công ty Dệt may Việt Nam, tổ chức quản lý theo kiểu “chức năng trực tuyến”- nghĩa là các phòng ban tham mưu với ban giám đốc theo từng chức năng, nhiệm vụ của mình, giúp ban giám đốc điều hành, ra quyết định đúng đắn, có lợi cho công ty. Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty được chia thành 2 cấp: - Cấp công ty: có ban giám đốc chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo trực tiếp; các phòng ban tham mưu với giám đốc theo từng chức năng, nhiệm vụ của mình, giúp ban giám đốc điều hành, ra những quyết định đúng đắn có lợi cho công ty. - Cấp xí nghiệp có ban giám đốc xí nghiệp: gồm giám đốc và phó giám đốc xí nghiệp, ngoài ra còn có các tổ trưởng sản xuất, các nhân viên kinh tế giúp việc cho giám đốc. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý của Công ty may Thăng Long: Sơ đồ 01 trang 29a. Trong hệ thống các phòng ban của công ty, phòng Tài chính kế toán đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thông qua phòng Kế toán tài vụ, giám đốc có thể nắm bắt được nguồn vốn phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Phòng Kế toán tài vụ ghi chép, phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động giúp cho giám đốc kiểm soát bằng tiền mọi hoạt động kinh tế nhằm bảo vệ thường xuyên, đầy đủ tài sản, đồng thời tổ chức quản lý sử dụng các nguồn vốn một cách có hiệu quả nhất. Phòng Kế toán của công ty gồm 11 người, được tổ chức theo các phần hành kế toán khác nhau, đứng đầu là kế toán trưởng, tiếp đó là 2 phó phòng kế toán, các nhân viên và thủ qũy. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty may Thăng Long: Sơ đồ 02 trang 30a. 2.1.3. Đặc điểm tổ chức sản xuất và quy trình công nghệ 2.1.3.1. Đặc điểm tổ chức sản xuất Mô hình tổ chức sản xuất ở công ty được chia thành 7 xí nghiệp, ngoài ra còn có phân xưởng phụ trợ, phân xưởng thiết kế thời trang. Mỗi xí nghiệp được tiến hành sản xuất theo nhiệm vụ được giao Mô hình tổ chức sản xuất của Công ty may Thăng Long: Sơ đồ 03 trang 30b. 2.1.3.2. Đặc điểm quy trình công nghệ Công ty Thaloga là một doanh nghiệp lớn chuyên sản xuất và gia công hàng may mặc theo quy trình công nghệ khép kín, gồm cắt, may, là, đóng gói, đóng hòm, nhập kho, với các loại máy móc chuyên dùng và số lượng sản phẩm tương đối lớn, được chế biến từ nguyên liệu chính là vải. Với đặc điểm chủ yếu là sản xuất và gia công theo đơn đặt hàng nên quá trình sản xuất của công ty thường mang tình hàng loạt, chu kỳ ngắn, quy mô lớn. Quy trình sản xuất sản phẩm của công ty là phức tạp kiểu liên tục và quy trình này đã ảnh hưởng lớn đến tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý của công ty. Sơ đồ 04: NVL(vải) CắT Trải vải - đặt mẫu - đánh số - cắt MAY May cổ - may tay - ghép thành phẩm Thêu Giặt tẩy mài Đóng gói Là Nhập kho thành phẩm Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm ở Công ty may Thăng Long. 2.2. Tình hình chủ yếu về lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở công ty may Thăng Long. 2.2.1. Những thuận lợi và khó khăn chủ yếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty năm 2002 2.2.1.1. Những thuận lợi Công ty Thaloga nằm trên một vị trí khá thuận lợi. Với địa thế mặt tiền đường Minh Khai phía Nam thủ đô Hà Nội, có diện tích sử dụng rộng rãi 20.000m2 thuộc cụm công nghiệp Minh Khai, là đầu mối giao thông quan trọng, dân cư đông đúc. Với địa thế như vậy đã tạo cho công ty nhiều thuận lợi trong việc giao dịch với khách hàng, với Ngân hàng cũng như việc chuyển nguyên vật liệu từ xa về công ty và vận chuyển sản phẩm giao cho khách hàng. Mặt khác, nằm ở trung tâm kinh tế - văn hóa - xã hội của cả nước, công ty Thaloga có thể nắm bắt những thông tin mới nhất về giá cả, thị trường cũng như kiểu dáng mẫu mã hàng may mặc đang được ưa chuộng trong nước và quốc tế. Công ty Thaloga là một công ty may xuất khẩu có bề dày truyền thống 45 năm xây dựng và trưởng thành, có đội ngũ lao động trực tiếp có chuyên môn khá. Có đến 2.117 công nhân trong tổng số 2.690 công nhân trực tiếp sản xuất đã qua các trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề, số còn lại đã qua các lớp đào tào tạo cơ bản về ngành may mặc. Đây là một điểm lợi thế để nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Bên cạnh đó, công ty còn có dây truyền công nghệ với trình độ chuyên môn hóa cao, chủng loại sản phẩm đa dạng, do vậy có thể đáp ứng mọi đơn đặt hàng của khách hàng, điều này rất có lợi cho công ty trên thị trường trong việc ký kết các hợp đồng. Bên cạnh những thuận lợi như đã trình bày ở trên, công ty Thaloga cũng gặp phải không ít những khó khăn. 2.2.1.2. Những khó khăn. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, công ty phải hoạt động trong điều kiên cạnh tranh mạnh mẽ của các công ty bạn như : may 10, may Chiến Thăng, may Đức Giang... Bên cạnh đó còn có các đối thủ cạnh tranh khác là các tập đoàn công ty may mặc của Trung Quốc, Thái Lan, Singapore của khu vực Đông Nam á, nơi mà ngành may mặc được xem là ngành mũi nhọn trong việc tăng cường xuát khẩu, tăng ngoại tệ. Điều này đã dẫn đến sự chèn ép giá không riêng gì công ty Thaloga mà các công ty may khác thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam cũng gặp phải những vấn đề này. Làm thế nào để cạnh tranh và đứng vững trên thị trường có quá nhiều đối thủ “sừng sỏ” như vậy là một bài toán không dễ đối với công ty Thaloga. Hàng may mặc là sản phẩm mang tính thời vụ, thời trang theo từng thời kỳ, từng mùa, do vậy mà chi phí sản xuất chế tạo mẫu mã mới rất tốn kém, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thu được của công ty. Nhiều khi việc tiêu thụ sản phẩm trong từng giai đoạn với hạn ngạch xuất khẩu của Bộ Thương Mại và Tổng công ty may cũng ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của công ty. Mặt khác, do đặc điềm chung của ngành may là đòi hỏi sự cẩn thận và khéo léo nên Công ty Thaloga cũng như các doanh nghiệp khác cùng ngành, có số lao động nữ chiếm tỷ lệ cao (chiếm 90% tổng số lao động). Điều này sẽ gây cho công ty một số khó khăn về chi phí chính sách, chế độ như ốm đau, thai sản, gia đình ... và phần nào đã ảnh hưởng đến công tác sản xuất kinh doanh của công ty. Bên cạnh đó, hệ thống MMTB của công ty đa dạng nhiều chủng loại (gần 40 chủng loại), thời gian đưa vào sử dụng khác nhau, không đồng bộ là một nguyên nhân gây ra sự giảm sút chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty. Mặc dù với không ít khó khăn nhưng năm 2002 toàn thể cán bộ, công nhân viên Công ty Thaloga đã phấn đấu vượt qua những trở ngại nói trên, tận dụng những lợi thế mà mình có được để sản xuất kinh doanh và đạt được những kết quả đáng kể. 2.2.2.2. Tình hình thực hiện lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở Công ty may Thăng Long trong năm 2002 Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Trong quá trình chuyển biến đó, mỗi doanh nghiệp luôn phải tìm cách hoàn thiện mình để đứng vững và không ngừng phát triển. Chính vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt này, đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm sao để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đạt được hiệu quả cao. Nhận thức được điều đó cũng như thấy được tầm quan trọng của lợi nhuận đối với sự tồn tại và phát triển của công ty, Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viện trong công ty đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo, vượt qua những khó khăn, tận dụng những lợi thế để tìm ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận. Trong năm 2002, thực hiện chỉ đạo của Tổng công ty Dệt may Việt Nam, Công ty Thaloga rất chú trọng chiến lược phát triển và mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty đã duy trì và củng cố thị trường đã có, nghiên cứu phát triển thị trường mới và đã đạt được những kết quả sau: xem biểu 02 trang 33a Căn cứ vào bảng tổng hợp thực hiện kế hoạch kinh doanh của công ty năm 2002 ta có thể thấy đựơc một số nét chính sau: Tổng doanh thu tiêu thụ của công ty năm 2002 đạt 158.190 triệu đồng, tăng so với năm 2001 là 29.964 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 23% và so với kế hoạch đề ra thì công ty đã hoàn thành vượt mức kế hoạch về doanh thu tiêu thụ là 4.190 triệu đồng , tương ứng với tỷ lệ là 2,7%. Có được kết quả như vậy là do công ty đã chú trọng đến chiến lược phát triển và mở rộng thị trường; công ty chú ý đầu tư mới MMTB hiện đại cho các xí nghiệp, nâng cấp nhà xưởng, hệ thống kho tàng… và phát triển sản xuất theo hướng chuyên môn hóa đối với các xí nghiệp và đa dạng hóa sản phẩm đối với công ty để đáp ứng các hợp đồng lớn, hàng hóa đa dạng và có chất lượng cao với khách hàng. Bên cạnh đó công ty thường xuyên đổi mới tổ chức quản lý, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho cán bộ công nhân viên cũng như việc áp dụng tốt hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và được BVQI (Vương Quốc Anh) cấp chứng chỉ ngay từ đầu năm 2000 và chứng chỉ ISO 9001 năm 2002. Nhờ có chiến lược về thị trường và khách hàng nên sau khi Hiệp định Thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, công ty đã có nhiều khách hàng mới đến ký kết hợp đồng để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Trong tổng số lợi nhuận ròng của công ty thì lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm phần lớn, còn lợi nhuận từ các hoạt động khác ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ không đáng kể. Do vậy trong giới hạn bài luận văn chỉ xin được đề cập đến lợi nhuận mang lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh và những vấn đề có liên quan đến tình hình thực hiện lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh. Năm 2002, lợi nhuận ròng của công ty tăng so với năm 2001 là 762 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ 129% và tăng so với kế hoạch là 1,96%. Như vậy có thể nói kế hoạch lợi nhuận của công ty đã được xây dựng một cách khoa học, dựa trên sự đánh giá những thuận lợi, khó khăn, cũng như năng lực của công ty khi bước vào năm 2002. Nhìn chung, kết quả sản xuất kinh doanh của công ty năm 2002 tốt hơn năm 2001. Các chỉ tiêu về lợi nhuận đều tăng. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu năm 2002 là 0,9%, tăng so với năm 2002 là 0,4%. Mặc dù tỷ suất lợi nhuận doanh thu của công ty năm sau tăng hơn so với năm trước nhưng kết quả này vẫn chưa thể đánh giá là cao. Chi phí cho nguyên phụ liệu chính để sản xuất sản phẩm chủ yếu do khách hàng cung cấp, số tiền mà khách hàng trả cho công ty(doanh thu của cô._.kinh tế hàng hóa. Trong thời gian thực tập tại công ty Thaloga, qua nghiên cứu về tình hình tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp góp phần tăng lợi nhuận của công ty. 3.2.1. Chủ động tìm kiếm, nắm bắt nhu cầu thị trường, phấn đấu không ngừng tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Tiêu thụ là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất, chỉ có thể thực hiện tốt các khâu trước đó thì khâu này mới thực hiện tốt được. Như đã trình bày ở trên, đặc điểm của ngành may mặc nói chung và của công ty Thaloga nói riêng là hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là hàng may gia công với nguyên phụ liệu do khách hàng cung cấp: hàng gia công thường chiếm trên 70% còn các mặt hàng khác thì chiếm khoảng trên 20%. Để đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, công ty cần chú trọng đến cả hai hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nói trên. Đối với mặt hàng gia công, công ty hầu như bị động. Việc sản xuất nhiều hay ít phụ thuộc vào các hợp đồng được ký. Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với công ty là làm sao ký được nhiều hợp đồng gia công hàng may mặc, nhất là đối với hàng gia công xuất khẩu, vì những mặt hàng đó có giá gia công cao, lợi nhuận cá biệt cũng cao. Để thực hiện được điều đó, công ty cần duy trì tốt mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, lâu dài bằng các chính sách ưu đãi của mình song song với việc đảm bảo chất lượng sản phẩm và thời hạn giao hàng đúng tiến độ. Bên cạnh đó, công ty cũng cần có sự cải tiến mẫu mã, kiểu cách sản phẩm để chào hàng. Mẫu mã phong phú cũng là yếu tố cần thiết, công ty có thể nhờ đó mà ký được hợp đồng với những khách hàng mới. Chẳng hạn những khách hàng ở khu vực ấn Độ, Nam Mỹ... thì sản phẩm để chào hàng với họ phải có những đặc điểm riêng, phù hợp với khí hậu cũng như truyền thống, tập quán của họ. Đối với thị trường trong nước, đây là một thị trường khá rộng lớn mà công ty chưa có sự quan tâm đúng mức, trong khi đó công ty chỉ chú trọng đến việc tìm kiếm thị trường hàng may mặc xuất khẩu. Hiện nay, hàng may mặc xuất khẩu đang là mặt hàng đem lại cho công ty nhiều lợi nhuận hơn nhưng thị trường này ngày càng có nhiều đơn vị tham gia, cạnh tranh ngày càng gay gắt. Chính vì vậy, việc chủ động khai thác thị trường trong nước là một công việc hết sức cần thiết đối với công ty hiện nay. Bởi đây là một thị trường đầy tiềm năng, nếu có một chiến lược cụ thể thì sẽ mang lại cho công ty nhiều lợi nhuận từ nguồn thu nội địa này. Một bộ phận khách hàng mà công ty cần quan tâm đó là thị trường hàng may mặc dành cho trẻ em. Bởi trong một vài năm trở lại đây, đời sống của nhân dân nói chung không ngừng được nâng lên, mỗi gia đình thường chỉ có từ một đến hai con, do vậy, họ có điều kiện để chăm sóc cho con cái tốt hơn từ việc ăn mặc đến học hành vui chơi. Thực tế, công ty Thaloga cũng có một số mặt hàng cho trẻ em nhưng chủ yếu là sản phẩm tiết kiệm được từ vải vụn chứ chưa có sự quan tâm đúng mức. Để đẩy mạnh việc sản xuất và tiêu thụ mặt hàng này, công ty cần có sự đầu tư vốn cho công tác tiếp thị, quảng cáo sản phẩm cũng như nghiên cứu để thiết kế mẫu cho trẻ em. Nếu muốn giới thiệu sản phẩm may thời trang cho người lớn, công ty phải thuê người mẫu, dàn dựng một chương trình công phu, tốn kém. Còn đối với hàng may mặc cho trẻ em, công ty có thể phối hợp với các nhà trẻ, cho các cháu trình diễn sản phẩm của công ty. Chính sự hồn nhiên ngây thơ của trẻ sẽ gây hiệu quả cao mà chi phí lại không đáng kể. Bộ phận khách hàng nữa mà công ty cần phải quan tâm là các trường học, bệnh viện, công sở, nhà máy... với mặt hàng chủ yếu là trang phục đồng phục. Đối với công ty, họ nhằm mục đích là khẳng định những nét riêng của mình và tạo không khí tích cực trong công việc. Còn đối với học sinh, nhà trường nhằm mục đích tạo sự hòa hợp, trong sáng trong tình bạn để học tập tốt hơn. Đi sâu nghiên cứu thị trường này ta thấy, cả nước nói chung và trên địa bàn Hà Nội nói riêng có nhiều công ty, nhà máy, trường học... mỗi thành viên trong đó phải có ít nhất một bộ đồng phục, mỗi năm đồng phục lại được thay đổi ít nhất một lần. Như vậy, chỉ tính sơ bộ đã thấy thị trường này không nhỏ. Để khai thác thị trường này, công ty phải có sự đầu tư về vốn, con người cũng như tổ chức lại công tác quản lý sản xuất để việc sản xuất trang phục đồng phục đạt được hiệu quả cao. Trước hết, phòng kỹ thuật của công ty phải nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm riêng của từng ngành, từng lĩnh vực, trên cơ sở đó thiết kế các mẫu mã sao cho phù hợp với những ngành, lĩnh vực đó. Công ty thực hiện những thiết kế đó trên vải để đem chào hàng hoặc bằng hình vẽ và nên chào hàng đến tận các đơn vị. Việc phục vụ khách hàng đến tận nơi như vậy công ty sẽ dễ dàng ký được hợp đồng làm hàng đồng phục cho họ hơn là đợi khách hàng tìm đến. Đối với hàng đồng phục, yêu cầu về kỹ thuật không quá cao nhưng công ty phải quan tâm đến giá cả và các hoạt động khác đi kèm. Ví dụ: đối với các trường học, công ty không chỉ tìm cách hạ giá thành mà nên có các hoạt động phối hợp với nhà trường như tặng quà cho học sinh nhân dịp tổng kết học kỳ, lập qũy học sinh nghèo vượt khó... Bằng cách ấy, công ty có thể có quan hệ lâu dài với nhà trường. Nước ta là một nước có dân số trẻ, lứa tuổi thanh niên chiếm phần lớn trong tổng dân số. Họ là những người rất quan tâm đến thời trang, nhu cầu về mặc và mặc đẹp cũng rất lớn. Nếu công ty Thaloga đầu tư vào lĩnh vực này thì ngoài những lợi thế như là sử dụng nguyên phụ liệu tiết kiệm để giảm giá thành, cơ sở vật chất sẵn có thì còn có một đội ngũ cán bộ trẻ đầy say mê sáng tạo. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với công ty trong việc sản xuất trang phục may sẵn là kiểu dáng, mẫu mã. Mẫu mã phải liên tục được thay đổi, phải biết nhấn vào những điểm mà họ yêu thích, chẳng hạn như phỏng theo trang phục của những “ ngôi sao” mà họ đang hâm mộ... Với mỗi kiểu mẫu, dù sản xuất và bán rất chạy công ty cũng chỉ nên dừng lại ở một số lượng nhất định, không nên sản xuất ồ ạt, tránh tình trạng nhàm chán. Để nắm được tâm lý của giới thanh niên, sinh viên, để đánh trúng vào tâm lý của họ, công ty phải đi vào tìm hiểu và nắm bắt kịp thời trào lưu mốt đang lên, từ đó có kế hoạch sản xuất và tiêu thụ kịp thời. Nếu sản phẩm sản xuất ra vào lúc trào lưu đó đang xuống thì sẽ rất khó bán, thậm chí còn đem về chất trong kho. Mặt khác, với đặc điểm của ngành may là lao động chủ yếu là nữ, thời gian làm việc tương đối nhiều nên công nhân có rất ít thời gian để đi mua sắm. Vì vậy, việc sản xuất những sản phẩm may sẵn có kiểu dáng mẫu mã đẹp, giá cả phù hợp để thu hút số khách hàng là công nhân trong công ty cũng là một giải pháp nhằm khai thác thị trường nội địa. Để chinh phục những khách hàng nói trên, để sản phẩm của công ty được tiêu thụ mạnh, nâng cao lợi nhuận, công ty cần có sự đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường cũng như công tác quảng cáo và giới thiệu sản phẩm. Muốn thâm nhập vào thị trường thì công tác điều tra nghiên cứu thị trường là vấn đề không thể thiếu. Nó giúp công ty nắm được những gì thị trường cần, sức mua, tình hình cạnh tranh trên thị trường... từ đó công ty tiến hành tổ chức sản xuất và tiêu thụ sao cho phù hợp. 3.2.2. Tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm, giữ vững và nâng cao uy tín thương hiệu sản phẩm của công ty. Để khẳng định vị thế của mình trên thương trường, mỗi công ty đều phải lựa chọn sản phẩm cung cấp với tiêu chuẩn chất lượng nhất định. Chất lượng của sản phẩm không chỉ biểu hiện trình độ hiện đại của MMTB, của tay nghề công nhân mà còn biểu hiện trình độ quản lý, sắp xếp tổ chức sản xuất của lãnh đạo công ty. Mặt khác, chất lượng sản phẩm còn quyết định mức giá mà thị trường có thể chấp nhận, do vậy nó quyết định đến doanh thu tiêu thụ hàng hóa của công ty. Đây là một nhân tố quan trọng giúp đẩy nhanh việc tiêu thụ sản phẩm cũng như để giữ uy tín với khách hàng cũ và thu hút thêm những khách hàng mới đến với công ty. Đối với những hàng may gia công, mẫu mã do khách hàng cung cấp hoặc 2 bên đã có sự thống nhất về kiểu dáng, thì yêu cầu về chất lượng đặt ra là sự chính xác đến từng chi tiết, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật và không có một sai sót nhỏ nào. Để đáp ứng yêu cầu này, yếu tố trình độ tay nghề công nhân có ý nghĩa quyết định to lớn. Đối với những sản phẩm khác như hàng đồng phục, trang phục may sẵn... thì mẫu mã, kiểu dáng lại được đặt lên hàng đầu nhưng cũng không thể bỏ qua yếu tố chất lượng được. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều loại MMTB mới ra đời, thực hiện nhiều công việc thủ công trước đây một cách nhanh chóng và hiệu quả. Công ty nên tranh thủ điều kiện thuận lợi này, đầu tư các trang thiết bị, dụng cụ, phục vụ cho công tác tạo mẫu và thiết kế. Chẳng hạn như việc sử dụng máy vi tính trong thiết kế, tạo mẫu giúp cán bộ kỹ thuật phối hợp màu sắc bắt mắt hơn, gây ấn tượng hơn, giúp cho việc ghép các bộ phận của sản phẩm nhanh chóng mà vẫn tiết kiệm vải. Ngoài ra, nó còn giúp công ty tiết kiệm hao phí lao động ở phòng kỹ thuật, chuyển số lao động dư dôi đó sang làm ở các bộ phận khác cần thiết hơn. Mặt khác, ngành thời trang Việt Nam hiện nay đang phát triển, ngày càng có nhiều Viện mẫu ra đời, các bộ sưu tập mốt của Việt Nam dần tìm được chỗ đứng trong khu vực, đã được nhà chuyên môn đánh giá cao. Công ty Thaloga nên tạo lập các mối quan hệ tiếp xúc với các Viện mẫu như: Fadin, Dagarco, Legar Fashion... để có được các mẫu trang phục mới nhất, nắm bắt được các thông tin thời trang mới nhất trong nước cũng như trên thế giới. Thời kỳ tư tưởng “ăn chắc mặc bền” đã qua, nếu công ty không nhanh chóng thay đổi những sản phẩm truyền thống, khám phá nhiều lĩnh vực mới thì sẽ mất dần thị trường, khó phát triển trong cạnh tranh. Công ty cũng nên có sự đầu tư cho công tác đào tạo kể cả cán bộ lẫn công nhân. Đội ngũ cán bộ gián tiếp của công ty có 266 người, trong đó số người có trình độ ĐH và trên ĐH chỉ chiếm 41%. Để nâng cao năng lực quản lý của họ, công ty cần đầu tư một khoản kinh phí, cử cán bộ đi học các lớp trong và ngoài giờ, đặc biệt là nhân viên thuộc phòng kỹ thuật và phòng kinh doanh. Cán bộ đi học cần có sự phân chia ngành nghề đào tạo và đào tạo chuyên sâu và các chuyên môn mà họ được cử đi học phải phù hợp và phục vụ đắc lực cho lĩnh vực mà họ phụ trách. Còn đối với công nhân trong công ty, có đến hơn 20% chưa qua đào tạo dài ngày về kỹ thuật may, họ chỉ mới qua các lớp may cơ bản và làm việc dựa trên kinh ngiệm. Vì vậy để đáp ứng nhiều sản phẩm đòi hỏi có sự tinh vi, chính xác đến từng đường kim mũi chỉ công ty nên tạo điều kiện về thời gian cũng như kinh phí để công nhân học tập nâng cao tay nghề, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao. Việt bỏ vốn đầu tư cho công tác đào tạo con người là một sự đầu tư đem lại hiệu quả về lâu dài, rất có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 3.2.3. Tăng cường công tác quản lý chi phí, hạ giá thành sản phẩm Thường đối với các doanh nghiệp sản xuất, chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn. ở công ty Thaloga với trên 70% là sản phẩm hàng gia công, nguyên phụ liệu do khách hàng cung cấp, thì chi phí nguyên vật liệu chiếm một tỷ trọng không lớn. Khách hàng giao nguyên phụ liệu cho công ty dựa trên định mức vật tư đã được xây dựng chung cho toàn ngành. Vì vậy công ty muốn tăng lợi nhuận thì phải tiết kiệm vải vóc và quản lý tốt các phụ liệu khác trong đinh mức. Có thể nói rằng đối với công tác tiết kiệm vải trong định mức thì công ty Thaloga đã thu được những kết quả đáng kể, nhưng việc quản lý vật tư tiết kiệm được vẫn còn nhiều khe hở. Bên cạnh việc sản xuất những mặt hàng gia công, công ty còn tiến hành sản xuất sản phẩm theo đơn đặt hàng hoặc những sản phẩm nhằm khai thác thị trường. Đối với việc sản xuất những sản phẩm này, việc tìm kiếm thị trường đầu vào với công ty không mấy khó khăn, vấn để là ở chỗ làm sao lựa chọn được nguyên vật liệu với chất lượng nhất định và với giá thấp nhất có thể. Muốn làm được việc đó, công ty phải không ngừng nghiên cứu thị trường đầu vào, đồng thời cần thiết phải lựa chọn và tạo dựng cho mình những mối quan hệ nhất định để tạo ra các nhà cung cấp truyền thống cho công ty. Theo dõi chặt chẽ sự biến động của giá cả để có quyết định mua với số lượng bao nhiêu và vào thời điểm nào cho hợp lý. Với vật liệu chính cần có chính sách với bên bán để có thể có được mức giá hợp lý với nguồn cung cấp ổn định, thường xuyên. Với các vật liệu phụ thì mua vừa phải, tránh tình trạng ứ đọng, tiết kiệm được chi phí bảo quản. Với các nguyên vật liệu nhập thì cần có kế hoạch thu mua, dự trữ hợp lý để bảo đảm họat động sản xuất kinh doanh được liên tục, tránh tình trạng thiếu nguyên vật liệu bị ép giá . Thực hiện được công việc này ngoài tác dụng giúp công ty mua được sản phẩm đầu vào với chất lượng đảm bảo, còn giúp công ty giảm được chi phí giao dịch, mua sắm. Công tác kiểm soát nguyên vật liệu đầu vào không chỉ dừng ở việc mua sắm sản phẩm đầu vào mà vấn để cốt lõi là sử dụng vật liệu ra sao để giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đó mới là mục tiêu cuối cùng của công tác kiểm soát nguyên vật liệu đầu vào. Để làm được điều đó, công ty cần định ra định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho mỗi đơn vị sản phẩm sản xuất ra. Muốn vậy, bộ phận giám sát sản xuất cần theo dõi chặt chẽ định mức tiêu hao nguyên vật liệu để làm sao tiết kiệm được tối đa nguyên vật liệu đầu vào, trên cơ sở đó định ta định mức tiêu dùng tối đa và tối thiểu cho mỗi loại MMTB, mỗi loại sản phẩm . Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào công tác kế hoạch hóa vật tư của công ty. Bởi vậy, cần tuyển chọn nhiều cán bộ trong lĩnh vực này là những người vừa được đào tạo cơ bản, vừa có kinh nghiệm thực tế. Mặt khác, công tác quản lý chi phí ở đây cũng bao gồm cả chi phí tiền lương. Tiết kiệm chi phí tiền lương được hiểu theo nghĩa là phải tăng năng suất lao động của người công nhân. Để làm được điều này, yếu tố trước hết phụ thuộc vào tay nghề của công nhân và do đó tất yếu liên quan đến việc tuyển dụng, đào tạo công nhân. Khi trình độ tay nghề nâng cao, thời gian hoàn thành sản phẩm cũng được rút ngắn, chi phí do sản phẩm hỏng không đạt yêu cầu cũng giảm. Bên cạnh đó, định kỳ nên tổ chức những cuộc thi tay nghề giỏi nhằm khuyến khích công nhân không ngừng học hỏi lẫn nhau, áp dụng hình thức khen thưởng với những cá nhân có tiến bộ nhanh, ít sản phẩm sai hỏng, những cá nhân có năng suất lao động cao mà chất lượng sản phẩm vẫn được đảm bảo. Một vấn đề nổi cộm trong năm 2002 của công ty là số ngày nghỉ việc của công nhân do mất điện. Đây là một vấn đề mà công ty cần phải có biện pháp để giải quyết kịp thời nếu hiện tượng mất điện thường xuyên xảy ra, bởi trong những ngày ngừng việc đó sản phẩm không làm ra nhưng công ty vẫn phải trả lương cho công nhân. Lấy số chi phí lương trả cho mỗi công nhân nhân với số công nhân trong công ty thì đây là một khoản chi phí tương đối lớn. Với khoản chi phí này, công ty có thể đầu tư mua máy phát điện để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục và tiết kiệm những chi phi không đáng phải bỏ ra Ngoài ra, công ty có thể tổ chức cho các cán bộ gián tiếp đi thăm quan học hỏi kinh nghiệm ở các công ty bạn, để từ đó có những biện pháp thích hợp nhằm quản lý tốt chi phí sản xuất cũng như có những chính sách về giá cả hợp lý. Chất lượng sản phẩm tốt cùng với việc giao hàng đúng hạn , đủ số lượng và đồng bộ sẽ giúp công ty tạo lập uy tín với khách hàng, là cơ sở để công ty ký kết các hợp đồng trong tương lai. 3.2.4. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh *Đối với VLĐ VLĐ là một trong những yếu tố quan trọng để công ty tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi vậy , việc quản lý và sử dụng có hiệu quả VLĐ mang ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc tăng lợi nhuận của công ty. Vấn đề nổi cộm cần được tháo gỡ ngay là lượng VLĐ bị chiếm dụng (chiếm gần 40% tổng VLĐ của công ty). Bị khách hàng chiếm dụng vốn như vậy, công ty sẽ gặp khó khăn về VLĐ cho sản xuất, trong khi đó công ty còn cần tiền để trả cho việc mua nguyên phụ liệu, trả lương công nhân viên và trang trải những khoản chi phí phát sinh khác. Việc tồn tại các khoản phải thu ở quy mô nhất định là tất yếu khách quan của sản xuất và trao đổi hàng hóa trong nền kinh tế thị trường do yêu cầu của chế độ không dùng tiền mặt và chính sách bán chịu của nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên duy trì tỷ lệ khoản phải thu trên tổng tài sản ở mức độ thích hợp, đảm bảo được cả quyền lợi của công ty là cả một nghệ thuật. Nếu công ty tăng cường hoạt động sản xuất hàng may mặc cho trẻ em, làm hàng đồng phục thì nhu cầu về VLĐ càng lớn hơn, tình trạng VLĐ bị khách hàng chiếm dụng cần phải chấm dứt ngay. Để quản lý tốt khoản mục này, công ty cần đưa ra những giải pháp sau: - Tìm hiểu kỹ khách hàng mà công ty cho chịu, đặc biệt là tình trạng tài chính của họ để có chính sách đôn đốc các khoản phải thu phù hợp , thậm chí có thể tận dụng việc khách hàng ứng trước tiền. - Chú trọng hơn nữa các ràng buộc trong hợp đồng ký kết với khách hàng, đặc biệt các điều khoản thời hạn thanh toán và hình thức thanh toán, tránh tình trạng dây dưa. - Theo dõi chi tiết từng khoản phải thu đối với khách hàng, phân tích và quy trách nhiệm cho từng đơn vị trong công tác thanh toán. - Công ty có thể sử dụng biện pháp tài chính như chiết khấu để khuyến khích khách hàng thanh toán trước thời hạn nhằm thu hồi sớm nhất các khoản nợ này để sử dụng đầu tư vào các hoạt động có thể sinh lời của công ty. Như vậy, phương thức thanh toán của công ty cần phải tổ chức lại cho có hiệu quả. Ngay trong khâu ký kết hợp đồng gia công hoặc cung cấp sản phẩm may mặc, công ty phải chú trọng khoản mục thời gian thanh toán: có thể ghi rõ các đợt thanh toán cụ thể trong quy trình sản xuất và ngày thanh toán cuối cùng. Cụ thể là : sau khi ký xong hợp đồng, khách hàng phải đưa trước cho công ty 30% số tiền phải trả. Số tiền phải trả đó nếu là hàng gia công thì là tiền gia công (có thể gồm cả chi phí mua một số nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất). Nếu là hàng do công ty tự bỏ vốn mua nguyên phụ liệu thì số tiền phải trả đó là doanh thu bán số hàng đó của công ty. Số tiền đó cũng có thể coi như khoản đặt cọc, đảm bảo hợp đồng được thực hiện. Khi hợp đồng thực hiện được 50%, tức là còn một nửa thời gian thì giao hàng, công ty đề nghị khách hàng thanh toán tiếp 20% số tiền hàng, 30% số tiền hàng sẽ được thanh toán vào ngày giao hàng theo hợp đồng, còn lại 20% khách hàng có thể thanh toán sau một tháng nếu như hàng không có gì sai sót như kém chất lượng, lỗi kỹ thuật, ẩm mốc ... Sau thời gian đó nếu khách hàng không thanh toán hết, công ty có thể áp dụng mức lãi suất như lãi suất cho vay trên thị trường của Ngân hàng. Nếu thực hiện đầy đủ các biện pháp trên thì việc thu hồi nợ của công ty sẽ được tiến hành nhanh chóng và tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi sẽ được giảm bớt, công ty có điều kiện phát triển VLĐ để quay vòng sản xuất. Đối với khoản mục hàng tồn kho năm 2002 vừa qua, tồn kho trung bình là 33.516 triệu đồng, tăng 35,1% so với năm trước, trong đó nguồn vốn ứ đọng chủ yếu là do công ty mua nguyên vật liệu từ nước ngoài về dự trù để phục vụ cho hoạt động sản xuất. Nhưng trong điều kiện hiện nay, khi mà chất lượng nguyên vật liệu của các công ty trong nước đang ngày càng được nâng cao thì công ty nên thay thế nguyên vật liệu mua từ nước ngoài bằng nguyên vật liệu trong nước. Nếu thực hiện được như vậy công ty sẽ giảm bớt được một khối lượng VLĐ bị ứ đọng để đầu tư vào những lĩnh vực khác nhằm mang lại lợi nhuận cao hơn cho công ty. Trong thời gian tới, công ty sẽ tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp. Sau khi được cho phép, công ty đã tiến hành kiểm kê đánh giá lại tài sản, toàn bộ cán bộ công nhân viên của công ty đang phấn đấu từng bước hoàn thành công tác cổ phần hóa doanh nghiệp. Công ty Thaloga là một doanh nghiệp Nhà nước, được thành lập năm 1953 với số vốn ban đầu do nhà nước cấp. Trong quá trình hoạt động nhu cầu vốn ngày càng tăng lên, công ty phải tự xoay sở: vay ngân hàng, vay nội bộ. Việc tiến hành cổ phần hóa là một giải pháp huy động vốn của công ty. Các cán bộ công nhân viên trong công ty có thể mua cổ phiếu theo khả năng của họ. Hội đồng quản trị của công ty phải sở hữu ít nhất 20% số cổ phiếu. Cán bộ công nhân viên công ty khi mua cổ phiếu sẽ trở thành thành viên sở hữu công ty. Công ty làm ăn có hiệu quả hay không ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ. Vì vậy mỗi thành viên đều phải cố gắng và có tinh thần trách nhiệm cao. Hiện nay, thiếu vốn đang là tình trạng phổ biến ở nhiều công ty. Do vậy với số vốn đang có, công ty phải cố gắng quản lý, sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. Bên cạnh đó không ngừng tìm kiếm các biện pháp thích hợp để bảo toàn vốn, huy động vốn cũng như có biện pháp sử dụng vốn huy động được một cách thích hợp. * Đối với VCĐ - Về mặt quản lý và sử dụng TSCĐ, công ty nên tiến hành kiểm tra phân loại TSCĐ đối với những MMTB cần sử dụng, nên vận dụng triệt để để phát huy hết công suất những tài sản MMTB đang dùng. Đối với những tài sản là MMTB không cần dùng đến thì nên tiến hành nhượng bán hoặc thanh lý nhằm thu hồi vốn để đầu tư cho tài sản khác; những TSCĐ đang dùng nhất là MMTB đang sử dụng thì phòng Kế hoạch sản xuất cùng phòng Kỹ thuật nên xây dựng hệ thống định mức ca máy, theo dõi năng suất của từng loại MMTB để từ đó đánh giá được hiệu quả sử dụng TSCĐ một cách chính xác nhằm đề ra phương hướng đầu tư đúng đắn và có hiệu quả nhất. Vấn đề tính khấu hao và sử dụng qũy khấu hao công ty cũng cần xem xét tính toán lại để có tỷ lệ khấu hao một cách hợp lý hơn phù hợp với đặc điểm MMTB hiện có đảm bảo nguồn khấu hao đủ bù đắp đổi mới TSCĐ nhằm bảo toàn nguồn vốn đầu tư ban đầu. Việc sử dụng qũy khấu hao ở công ty và tính khấu hao của nhiều tài sản đã trích hết nhưng hiện tại công ty vẫn còn sử dụng thì nên tính toán trước việc đầu tư mua sắm mới, song phải tính được hiệu quả của việc đầu tư đó. Đối với việc huy động các nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty: đây là công tác không thể thiếu được đối với bất kỳ một công ty nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn là yếu tố cần thiết để đầu tư đổi mới MMTB, do đó công ty Thaloga cần phải có giải pháp huy động vốn đầu tư hợp lý và có hiệu quả. Trước hết là nguồn vốn tự có của công ty, nguồn vốn tốt nhất mà công ty có thể huy động được chính là lợi nhuận để lại trích lập qũy phát triển kinh doanh qua các năm. Như chúng ta đã biết, lợi nhuận mà công ty đạt được hàng năm là tương đối cao, vì vậy đây là nguồn vốn cơ bản mà công ty nên huy động để đầu tư đổi mới MMTB. Tiếp đến là việc huy động vốn trong cán bộ công nhân viên của công ty. Nếu công ty huy động được nguồn vốn này sẽ tạo điều kiện cho việc đổi mới MMTB, đồng thời gắn bó được quyền lợi và trách nhiệm của người lao động đối với công ty, từ đó người lao động sẽ luôn quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh mà công ty đạt được thông qua nâng cao năng suất lao động của bản thân. Ngoài ra hình thức thuê tài chính cũng là một phương thức tốt để công ty tiến hành đổi mới đồng bộ hệ thống MMTB của mình trong điều kiện hiện nay. Kết luận "Lợi nhuận và một số biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận" không phải là một đề tài nghiên cứu mới mẻ đối với các thế hệ sinh viên TCDN nhưng nó không bao giờ là vấn đề lạc hậu đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế thị trường. Do vậy mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng mong muốn đạt được nhiều lợi nhuận với quy mô chất lượng ngày càng cao. Nhưng để đạt được điều đó doanh nghiệp phải trải qua một quá trình lâu dài cũng như phải thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên trong từng giai đoạn khác nhau, các biện pháp được vận dụng để tăng lợi nhuận là khác nhau. Trong thời gian thực tập tại công ty may Thăng Long, qua việc tìm hiểu, phân tích đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận ở công ty, em xin đề xuất một số ý kiến, giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng lợi nhuận của công ty. Mặc dù còn nhiều hạn chế song em mong rằng sự đóng góp nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho công ty trong việc tăng lợi nhuận. Hy vọng năm 2003 và những năm sau công ty sẽ đạt nhiều thành tích trong kinh doanh và đạt được nhiều lợi nhuận. Cuối cùng em xin chân thành cám ơn thầy giáo - Tiến sỹ Bùi Văn Vần đã tận tình hướng dẫn, cám ơn các thầy cô trong bộ môn cũng như các thầy cô giáo trong trường đã cho em kiến thức quý báu, xin cám ơn các cô chú phòng TCKT của công ty may Thăng Long đã tạo điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành cuốn luận văn này. Hà Nội, tháng 05 năm 2003 Sinh viên thực hiện Bùi Thu Huyền Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp - NXB. Tài chính, 2001 2. Giáo trình Phân tích hoạt động kinh tế - NXB. Tài chính, 2002. 3. Giáo trình Kế toán quản trị - - NXB. Tài chính, 2002. 4. Chế độ mới về quản lý tài chính và cổ phần hoá đối với doanh nghiệp Nhà nước - - NXB. Tài chính, 1996. 5. Thời báo Kinh tế . 6. Thời báo Tài chính. 7. Tạp chí Tài chính 8. Một số tài liệu khác. Mục lục Trang Tổng giám đốc Sơ đồ 01: Mô hình tổ chức bộ máy quản lý của công ty may Thăng Long. PTGĐ điều hành nội chính PTGĐ điều hành sản xuất PTGĐ điều hành kỹ thuật Phòng KCS Văn phòng Phòng kế hoạch Phòng thị trường Phòng kho Phòng kế toán TTTM & GTSP CH thời trang XNDV đời sống Phòng kỹ thuật PX thêu PX mài XN1 XN3 XN 4 XN 5 XN6 XN may Hải Phòng XN may Nam Hải XN may phụ trợ XN thiết kế thời trang, kỹ thuật Nhân viên kinh tế các XN Nhân viên thống kê PX Giám đốc các XN thành viên Sơ đồ 02: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán tại công ty may ThăngLong. Kế toán trưởng Phó phòng kế toán Kế toán TM & TGNH Kế toán TSCĐ &Vốn Kế toán NVL Kế toán tiền lương & BHXH Kế toán chi phí và giá thành Kế toán tiêu thụ thành phẩm Kế toán thanh toán Kế toán công nợ Kế toán tổng hợp Thủ qũy Nhân viên thống kê tại XN Sơ đồ 03: Công ty Mô hình tổ chức sản xuất của công ty may Thăng Long. XN 1 XN 3 XN 4 XN 5 XN 6 XN may HP XN may N.Hải XN may phụ trợ C.H. thời trang Văn phòng XN Tổ cắt Tổ may Tổ hoàn thiện Tổ bảo quản PX thêu PX mài Biểu 02: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của công ty may Thăng Long năm 2002 Chỉ tiêu Đơn vị tính TH 2001 2002 TH 2002 / KH 2002 TH 2002 / TH 2001 KH TH ±Tuyệt đối ±Tỷ lệ ±Tuyệt đối ±Tỷ lệ 1.Vốn SXKD bình quân Triệu đồng 107.183 123.260 119.579 -3.681 -2,9 +12.396 +12 2.Tổng doanh thu t.thụ Triệu đồng 128.226 154.000 158.190 +4.190 +2,7 +2.996 +23 3.Doanh thu thuần Triệu đồng 116.248 146.223 150.201 +3.978 +2,72 +33.953 +29 4.Tổng giá thành t.thụ Triệu đồng 110.710 130.857 124.625 -6.232 -5 +13.915 +12,6 5.Lợi nhuận trước thuế Triệu đồng 1.767 2.194 +427 +24,1 6.Lợi nhuận sau thuế Triệu đồng 589 1.325 1.351 +26 +1,96 +762 +129 7.Tỷ suất LN vốn % 0,5 1,13 +0,63 8.Tỷ suất LN doanh thu % 0,5 0,9 0,9 - +0,14 Biểu 03: Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công ty may Thăng Long năm 2002 Chỉ tiêu Sản lượng sản xuất (chiếc) Sản lượng tiêu thụ (chiếc) Doanh thu tiêu thụ(triệu đồng) KH TH TH/KH (%) KH TH TH/KH (%) TH KH TH/KH (%) 1.Hàng xk -Hàng gia công 2.872.000 2.978.500 103,71 2.720.000 2.650.000 97,43 40.800 37.100 90,93 -Hàng bán đứt 456.750 436.750 95,62 368.750 359.657 97,53 29.500 28.773 97,53 2.Hàng nội địa -áo các loại 150.500 157.500 104,69 102.550 104.650 102,05 9.230 9.210 99,78 -Quần các loại 300.500 315.000 104,83 226.594 215.750 95,21 19.261 18.339 95,21 Tổng cộng 98.791 93.422 94,57 Biểu 05: Giá thành toàn bộ tính cho một triệu đồng doanh thu của công ty may Thăng Long năm 2002 Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 So sánh 2002/2001 Số tiền (đồng) % Số tiền (đồng) % ± Tiền (đồng) ±Tỷ lệ 1.Chi phí NVL trực tiếp 582.829 61,1 490.503 59,1 -92.326 -15,8 2.Chi phí NC trực tiếp 154.841 16,3 119.606 14,4 -35.235 -22,8 3.Chi phí SX chung 100.957 10,6 125.252 15,1 +24.295 +24,1 Cộng giá thành SX 838.627 88 735.361 88,6 -103.266 -12,3 4.Chi phí bán hàng 50.184 5,3 41.990 5,1 -8.194 -16,3 5.Chi phí quản lý DN 63.551 6,7 52.361 6,3 -11.190 -17,6 Cộng giá thành toàn bộ 952.362 100 829.721 100 -122.641 -12,9 Biểu 06: Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của công ty may Thăng Long năm 2002 Chỉ tiêu ĐVT Năm 2001 Năm 2002 So sánh ± Tuyệt đối ± Tỷ lệ 1.Doanh thu thuần Triệu đồng 116.248 150.201 +33.953 +29 2.Lợi nhuận ròng Triệu đồng 589 1.351 +762 +129 3.Vốn SXKD bình quân Triệu đồng 107.183 119.579 +12.396 +12 -VLĐ bình quân Triệu đồng 57.674 63.342 +5.668 +9,8 -VCĐ bình quân Triệu đồng 49.509 56.237 +6.728 +13,6 4.Vòng quay vốn -Vòng quay vốn SX Vòng / năm 1,08 1,26 +0,18 +0,17 -Vòng quay VLĐ Vòng / năm 2,02 2,37 +0,35 -Hiệu suất sử dụng VCĐ 2,35 2,67 +0,32 5.Doanh lợi vốn -Doanh lợi vốn SX % 0,55 1,13 +0,58 -Doanh lợi VLĐ % 1,02 2,13 +1,11 Doanh lợi VCĐ % 1,19 2,40 +1,21 Biểu 07: Tình hình tăng giảm TSCĐ của công ty may Thăng Long năm 2002 Loại TSCĐ Số đầu năm Số tăng trong năm Số giảm trong năm Số cuối năm NG (tr.đ) % NG (tr.đ) % NG (tr.đ) % NG (tr.đ) % 1.TSCĐ đang dùng 90.940 100 1.091 100 0 92.031 100 -Nhà cửa, vật kiến trúc 28.058 30,9 1.005 92,1 0 29.063 31,6 -MMTB dùng cho SX 57.972 63,7 38 3,5 0 58.010 63,0 -Phương tiện vận tải 2.242 2,5 - - 0 2.242 2,4 -TBDC quản lý 1.944 2,1 48 4,4 0 1.992 2,2 -TSCĐ khác 724 0,8 - - 0 724 0,8 2.TSCĐ chưa cần dùng 0 0 0 0 0 0 3.TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý 0 0 0 0 0 0 Biểu 08: Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty may Thăng Long năm 2002 Chỉ tiêu ĐVT Năm 2001 Năm 2002 So sánh 2002 / 2001 ± Tuyệt đối ± Tỷ lệ 1.Doanh thu thuần Triệu đồng 116.248 150.201 +33.953 +29 2.Doanh thu trung bình ngày Triệu đồng 322,9 417,2 +94,3 +29,2 3.SD bình quân các khoản phải thu Triệu đồng 22.315 25.154 +2.839 +12,7 4.SD bình quân hàng tồn kho Triệu đồng 24.810 33.516 +8.706 +35,1 5.SD bình quân các khoản phải trả Triệu đồng 72.962 93.719 +20.757 +28,4 6.Vòng quay VLĐ Vòng / năm 2,0 2,4 +0,4 7.Kỳ thu tiền bình quân Vòng /năm 69 60 -9 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37133.doc
Tài liệu liên quan