Lời Nói đầu
Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Với những điều kiện cụ thể khác nhau, cơ chế vận hành hoạt động kinh doanh khác nhau thì kết quả lợi nhuận cũng khác nhau.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước cấp phát vốn , cung ứng vật tư , nguyên vật liệu và bao tiêu sản phẩm, lãi nộp nhà nước, lỗ nhà nước chịu. Lợi nhuận đó chưa phản ánh đầy đủ các chi phí sản xuất và các yêu cầu t
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lợi nhuận và một số biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận trong của Công ty thương mại Hoàng Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực tế nghiêm khắc của thị trường, chưa kích thích được tính chủ động sáng tạo của người quản lý và công nhân trực tiếp sản xuất. Do đó có tình trạng lãi giả , lỗ thật. Nhiều doanh gnhiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, gây lãng phí nguồn lực.
Thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ban hành các chính sách, sắp xếp lại các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm lãi lỗ về các hoạt động của mình. Từ đó, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được cải thiện, nhiều doanh nghiệp bắt đầu làm ăn có lãi, tạo điều kiện mở rộng và phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động.
Trong thời gian thực tập tại Công ty thương mại Hoàng Lâm, vận dụng những kiễn thức đẫ học vào thực tế hoạt động kinh doanh của Công ty, em nghiên cứu vấn đề lợi nhuận của Công ty và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài:” Lợi nhuận và một số biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh của Công ty thương mại Hoàng Lâm”. Chuyên đề được trình bày theo 3 nội dung chính sau:
Chương I: Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng về lợi nhuận của Công ty thương mại Hoàng Lâm năm 2000 - 2002.
Chương III: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm nâng cao lợi nhuận của Công ty thương mại Hoàng Lâm thời gian tới.
Trên cơ sở thực trạng kinh doanh và định hướng của Công ty trong những năm qua, tôi đã mạnh dạn đưa ra các giải pháp, kiến nghị với nhà nước và với Công ty thương mại Hoàng Lâm nhằm nâng cao lợi nhuận của Công ty trong năm 2003 và những năm tiếp theo.
Chương I
Tổng quan về lợi nhuận doanh nghiệp
1. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận:
1.1. Khái niệm lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận:
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân được thành lập để sản xuất kinh doanh một hay nhiều loại sản phẩm, dịch vụ nhất định với mục đích chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận.
Hiện nay ở nước ta có rất nhiều loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển, bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào cũng phải tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tức là phải đảm bảo lấy thu bù chi và có lãi, từng bước cải thiện đời sống người lao động, chấp hành và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nhà nước giao mà trong đó mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, nó chính là phần lao động thặng dư vượt quá phần lao động tất yếu mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh và được đo bằng khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và toàn bộ chi phí bỏ ra để có doanh thu đó. Từ khái niệm trên ta có công thức:
Lợi nhuận = Thu nhập - Chi phí
Trong đó: Thu nhập là phần giá trị mà doanh nghiệp thu được từ mọi hoạt động của mình, bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh đó là khoản tiền mà doanh nghiệp thu được từ việc tiêu thụ những sản phẩm, hàng hoá, thực hiện những dịch vụ do mình tạo ra và được gọi là doanh thu từ hoạt động kinh doanh. Ngoài việc sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp còn tiến hành các hoạt động khác: hoạt động tài chính và hoạt động bất
thường, những khoản tiền thu được từ các hoạt động đó gọi là thu nhập từ hoạt động tài chính và hoạt động bất thường.
Chi phí là phần giá trị mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được khoản thu nhập từ các hoạt động đó. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các khoản chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm và các khoản thuế gián thu... mà doanh nghiệp phải bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Tương tự với thu nhập ta cũng có chi phí từ hoạt động tài chính và hoạt động bất thường.
Phù hợp với nội dung của thu nhập và chi phí - lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận từ các hoạt động khác.
*Lợi nhuận hoạt động kinh doanh: là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ số hàng hoá và dịch vụ đó.
Phần lợi nhuận này là cơ bản nhất trong tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp và thường chiếm tỉ trọng lớn nên nó có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
=
Doanh
Thu thuần
-
Giá thành toàn bộ của sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ
=
Doanh
thu thuần
-
Giá vốn hàng bán
-
Chi phí bán hàng
-
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Trong đó:
- Doanh thu thuần: là khoản doanh thu bán hàng sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu như thuế gián thu, giảm giá hàng bán, giá trị hàng bán bị trả lại.
- Giá vốn hàng bán: phản ánh trị giá vốn của thành phần hàng hoá, lao vụ, dịch vụ xuất bán trong kỳ như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Riêng đối với doanh nghiệp thương mại...
- Chi phí bán hàng: là những chi phí thực tế phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ, như chi phí bảo quản, đóng gói, vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo, tiếp thị...
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: là những chi phí liên quan đến quản lý chung trong toàn doanh nghiệp.
*Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: như lợi nhuận thu từ hoạt động liên doanh liên kết, từ các nghiệp vụ tài chính. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định bằng thu nhập từ hoạt động tài chính trừ đi chi phí của các hoạt động tài chính đó.
*Lợi nhuận từ hoạt động bất thường: như lợi nhuận thu được từ việc nhượng bán hay thanh lý TSCĐ, giá trị các loại vật tư thừa, thu được các khoản nợ khó đòi đã xử lý... Nó cũng được xác định bằng thu nhập trừ đi chi phí các hoạt động đó.
Lợi nhuận là kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh nên nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp và toàn nền kinh tế quốc dân. ý nghĩa đó được thể hiện như sau:
Thứ nhất: Lợi nhuận chỉ chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp: Lợi nhuận đạt được của mỗi hoạt động sản xuất kinh doanh là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu như chuẩn bị sản xuất, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và nó phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của từng khâu.
Thứ hai: Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh được coi là hiệu quả chỉ khi hoạt động đó thu được lợi nhuận và không ngừng nâng cao lợi nhuận.
Thứ ba: Lợi nhuận là nguồn tài chính vô cùng quan trọng để thực hiện tái sản xuất mở rộng, bù đắp những chi phí cũng như những rủi ro trong kinh doanh, thực hiện khuyến khích vật chất cũng như cải thiện đời sống người lao động.
Lợi nhuận được dùng để bù đắp những hư hao, mất mát vốn sản xuất, bù đắp những khoản chi phí chưa đưa vào giá thành qua đó thực hiện tái sản xuất giản đơn, mặt khác thông qua việc trích lập các quỹ gồm quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng phúc lợi, doanh nghiệp có điều kiện thực hiện tích luỹ mua sắm thêm máy móc thiết bị, khuyến khích đổi mới quy trình sản xuất, mở rộng sản xuất, thực hiện tái sản xuất mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua việc trích lập và sử dụng quỹ khen thưởng, phúc lợi, thực hiện khuyến khích vật chất đối với người lao động, phát huy quyền tự sáng tạo của người lao động nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho họ sau mỗi chu kỳ sản xuất.
Đối với toàn bộ nền kinh tế, lợi nhuận của doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Nhà nước động viên từ 25% - 35% lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất dưới hình thức thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay. Sau đó nhà nước điều hoà lợi ích kinh tế giữa các doanh nghiệp, xây dựng thêm các doanh nghiệp sản xuất mới đảm bảo thực hiện tái sản xuất mở rộng trên quy mô toàn xã hội.
Việc sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác lựa chọn dự án, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên nó còn có một số hạn chế nhất định.
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đây là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố có những nhân tố khách quan, có những nhân tố chủ quan, có nhân tố ảnh hưởng cùng chiều, có nhân tố ảnh hưởng ngược chiều, do vậy các ảnh hưởng có thể bù trừ lẫn nhau.
Bên cạnh đó lợi nhuận của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào điều kiện sản xuất kinh doanh, quy mô sản xuất kinh doanh. Những doanh nghiệp có điều kiện sản xuất thuận lợi, có quy mô sản xuất lớn thường thu được nhiều lợi nhuận hơn, nhưng như vậy chưa hẳn doanh nghiệp đó đã có chất lượng sản xuất kinh doanh tốt hơn.
Chính vì vậy để đánh giá một cách toàn diện và chính xác hơn chất lượng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bên cạnh chỉ tiêu lợi nhuận, người ta còn sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận.
1.2. Tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận là chỉ tiêu tương đối cho phép so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh giữa các thời kỳ khác nhau trong một số doanh nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận càng cao chứng tỏ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng có hiệu quả. Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận, mỗi cách xác định có một nội dung kinh tế khác nhau. Sau đây là một số tỷ suất lợi nhuận thường được sử dụng:
Thứ nhất: Tỷ suất lợi nhuận vốn (còn gọi là doanh lợi vốn) là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được so với số vốn sử dụng bình quân trong kỳ.
Công thức xác định:
Tsv(%) =
Trong đó:
+ Tsv(%): Tỷ suất lợi nhuận vốn
+ Vbq: Vốn sản xuất bình quân trong kỳ bao gồm cả VLĐ bình quân và VCĐ bình quân trong kỳ.
+ P: Lợi nhuận: gồm toàn bộ lợi nhuận thu được trong kỳ chưa trừ đi phần thuế TNDN phải nộp.
+ Pr: Lợi nhuận ròng - là phần lợi nhuận còn lại sau khi đã trừ đi thuế TNDN phải nộp cho nhà nước.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp, nó cho thấy cứ 1đồng vốn sử dụng bình quân trong kỳ sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Thông qua chỉ tiêu này doanh nghiệp có biện pháp thích ứng để khai thác mọi khả năng về vốn, quản lý và sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả, bảo toàn và phát triển số vốn hiện có.
Thứ hai: Tỷ suất lợi nhuận giá thành (còn gọi là doanh lợi giá thành) là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ với giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Công thức xác định:
Tsg(%) =
Trong đó:
+ Tsg(%): Tỷ suất lợi nhuận giá thành
+ P (Pr): Lợi nhuận (Lợi nhuận ròng) thu được trong kỳ
+ Ztb: Giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ
ý nghĩa: Tỷ suất lợi nhuận giá thành phản ánh hiệu quả của việc bỏ chi phí vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong kỳ. Cụ thể là cứ 1 đồng chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thu sản phẩm trong kỳ thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận (Lợi nhuận ròng). Từ đó giúp doanh nghiệp định hướng sản xuất mặt hàng có mức doanh lợi cao đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả tối đa.
Thứ ba: Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng là quan hệ giữa lợi nhuận tiêu thu (hoặc lợi nhuận tiêu thụ ròng) và doanh thu bán hàng của doanh nghiệp trong kỳ. Chỉ tiêu này được xác định theo công thức.
Tst(%) =
Trong đó:
+ Tst(%): Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
+ P (Pr): Lợi nhuận (Lợi nhuận ròng) tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
+ DT: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
ý nghĩa: Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể
cứ 1 đồng doanh thu bán hàng thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận (Lợi nhuận ròng). Thông qua chỉ tiêu này người ta đánh giá tình hình quản lý giá bán, tình hình quản lý chi phí của doanh nghiệp. Nếu tỷ suất lợi nhuận doanh thu của doanh nghiệp thấp hơn tỷ suất chung của toàn ngành, chứng tỏ doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hoặc giá thành sản phẩm thấp so với các doanh nghiệp khác.
Thứ tư: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu là tỷ lệ giữa lợi nhuận ròng với vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ.
Công thức tính:
Tsc(%) =
Trong đó: + Tsc(%): Tỷ suất lợi nhuận vốn CSH
+ Pr: Lợi nhuận ròng
+ Vesh: Vốn CSH bình quân trong kỳ
ý nghĩa: Đây là chỉ tiêu quan trọng thể hiện mục tiêu hoạt động kinh doanh của các chủ sở hữu. Nếu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu càng cao thì sẽ tăng khả năng tích luỹ nội bộ, nâng cao lợi tức cổ phần. Đối với các DNNN sẽ tạo điều kiện tích luỹ nội bộ, đảm bảo lợi ích người lao động thông qua chế độ phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhìn chung tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp cao hay thấp nó phụ thuộc vào đặc thù của từng ngành sản xuất, vào phương hướng sản xuất kinh doanh của từng ngành.
Ngoài bốn chỉ tiêu doanh lợi nêu trên, trong công tác quản lý trên thực thế để đánh giá chất lượng từng mặt hoạt động, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như tỷ suất giá trị tổng sản lượng, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư để đánh giá chất lượng, xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch trong năm của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tỷ suất, ta hoàn toàn có thể đánh giá được đầy đủ và chính xác tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, đồng thời so sánh và đánh giá chất lượng hoạt động giữa các doanh nghiệp với nhau. Việc đánh giá này sẽ chính xác hơn nếu biết kết hàng hợp chặt chẽ giữa chỉ tiêu tương đối và chỉ tiêu tuyệt đối đó là tỷ suất lợi nhuận và lợi nhuận.
2. Sự cần thiết phải nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp:
Như phần trên đã đề cập, đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh - lợi nhuận luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu. Tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh vì:
Thứ nhất: Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chỉ tiêu lợi nhuận phản ánh nhiều mặt hoạt động của doanh nghiệp từ việc cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất đến việc sản xuất ra sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra. Nếu doanh nghiệp phấn đấu cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh làm giảm giá thành, tăng chất lượng sẽ trực tiếp làm tăng lợi nhuận và ngược lại chính vì vậy lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai: Lợi nhuận là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng tác động đến việc hoàn thiện các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không là do việc doanh nghiệp có tạo được lợi nhuận hay không quyết định. Từ đó thúc đẩy doanh nghiệp phải sử dụng những nguồn dự trữ nội bộ, sử dụng lao động hợp lý, tiết kiệm tiền vốn, vật tư sao cho mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Mặt khác lợi nhuận có vai trò kích thích người lao động quan tâm hơn đến kết quả sản xuất kinh doanh tích cực tìm các biện pháp cải tiến quản lý doanh nghiệp thông qua việc sử dụng lợi nhuận một cách đúng đắn.
Thứ ba: Lợi nhuận còn là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất, mở rộng quy mô vốn kinh doanh cho doanh nghiệp, vì có tăng lợi nhuận thì doanh nghiệp mới có thể tăng được các giá trị tích luỹ như tăng quỹ đầu tư - phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng phúc lợi... Từ các quỹ này doanh nghiệp có thể bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh khi điều kiện thực tế đòi hỏi. Cũng chính từ các quỹ này doanh nghiệp mới có điều kiện hiện đại hoá máy móc thiết bị, không ngừng cải thiện đời sống cán bộ - công nhân viên.
Thứ tư: Lợi nhuận đạt được cao hay thấp tác động trực tiếp đến nguồn thu NSNN thông qua việc nộp thuế TNDN, nhà nước sử dụng nguồn lực này để thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, củng cố và tăng cường an ninh quốc phòng... Đây chính là việc nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, tạo môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp hoạt động.
Thứ năm: Lợi nhuận là khoản tài chính góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Để đánh giá kết quả, tình hình hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp người ta thường nhìn vào các chỉ tiêu chủ yếu như: Sản lượng tiêu thụ, doanh thu tiêu thụ, thu nhập bình quân của người lao động, tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước và đặc biệt là dựa vào chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận ròng của doanh nghiệp càng cao thì chứng tỏ trong kỳ doanh nghiệp làm ăn càng có hiệu quả, uy tín doanh nghiệp càng tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình SXKD. Như vậy lợi nhuận giữa một vị trí rất quan trọng trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, lấy thu bù chi, đảm bảo có lãi, điều kiện quyết định doanh nghiệp tồn tại và phát triển là lợi nhuận.
Trước năm 1987, kinh tế Việt Nam là nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, các thành phần kinh tế đều đặt dưới sự chỉ huy tập trung và nhà nước bao cấp về mọi mặt. Loại hình doanh nghiệp tồn tại chủ yếu dưới thời kỳ đó là doanh nghiệp nhà nước.
Tính kế hoạch và bao cấp thể hiện rõ nét từ việc nhà nước bao cấp về giá, vật tư, hàng hoá, lãi suất tín dụng, lập kế hoạch sản xuất, đến việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp. Nhà nước giao pháp lệnh chỉ tiêu cho các doanh nghiệp sản xuất, như các chỉ tiêu về khối lượng sản phẩm sản xuất, chủng loại mặt hàng, quy định nơi tiêu thụ và giá bán... Nếu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lỗ thì đã có nhà nước cấp bù, nếu sản xuất có lãi thì phải nộp cho nhà nước. Do đó khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trở nên thụ động, không hiệu quả dẫn đến tình trạng "cha chung không ai khóc", nền kinh tế trì trệ, không phát triển đó là đặc trưng của thời kỳ này.
Nhằm phát huy quyền tự chủ về tài chính và tự chủ về sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nền kinh tế nước ta đã từng bước chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách kinh tế nhằm từng bước cải thiện môi trường kinh doanh và buộc các doanh nghiệp phải chuyển sang tự hạch toán kinh doanh với phương thức lời ăn, lỗ chịu, đồng thời nhà nước cũng khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất trong môi trường cạnh tranh lành mạnh và cùng bình đẳng trước pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp là các đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ. Trong khi lựa chọn phương án kinh doanh, doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả, đồng thời là mục tiêu định hướng cho hành vi của doanh nghiệp.
Chính những thay đổi trên mà các doanh nghiệp phải tự khẳng định mình trên thị trường cũng như trong toàn nền kinh tế. Để làm được điều này doanh nghiệp phải bảo toàn và phát triển được vốn sản xuất, muốn vậy doanh nghiệp kinh doanh phải có lãi. Ngoài ra trong quá trình sản xuất kinh doanh để tăng vốn và phát triển sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải có vốn tích luỹ và tích luỹ càng nhiều càng tốt.
Tuy nhiên không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng thích nghi được với kinh tế thị trường có nhiều doanh nghiệp còn lúng túng, không linh hoạt dẫn đến tình trạng kinh doanh không có hiệu quả. Cơ chế thị trường sẽ đào thải dần các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và tạo điều kiện để các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả phát triển hơn.
Như vậy, rõ ràng các doanh nghiệp phải tự nhận thấy rằng lợi nhuận không những là mục tiêu hàng đầu, mà còn là điều kiện quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp và việc phấn đấu tăng lợi nhuận trong các doanh nghiệp là vấn đề nóng bỏng trong giai đoạn hiện nay.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận và những biện pháp chủ yếu nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp:
Lợi nhuận là mục tiêu của các doanh nghiệp. Để tăng lợi nhuận trước hết doanh nghiệp phải xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận từ đó mới vạch ra các phương pháp hiệu quả nhằm nâng cao lợi nhuận.
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận:
Như đã trình bày ở trên lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng có liên quan đến nhiều khâu của quá trình sản xuất. Bất kỳ một khâu nào trong quá trình sản xuất không tiết kiệm, không đem lại hiệu quả kinh tế đều làm giảm lợi nhuận. Trong tổng lợi nhuận thì lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất, vì vậy các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận chủ yếu là các nhân tố tác động đến lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ.
Lợi nhuận tiêu thụ được xác định theo công thức:
Pt = D - Z1 - TH
Trong đó:
Pt: Lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ
Z1: Giá thành toàn bộ của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong kỳ
TH: Thuế gián thu
Từ công thức trên ta thấy lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi: doanh thu bán hàng, giá thành sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và thuế gián thu. Tuy nhiên thuế là chỉ tiêu thể hiện nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải nộp đúng, nộp đủ và kịp thời cho ngân sách nhà
nước. Thuế là nhân tố ảnh hưởng khách quan nghịch chiều với lợi nhuận, doanh nghiệp không được tìm cách giảm thuế, trốn thuế để tăng lợi nhuận.
Như vậy, chỉ còn 2 nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận: là doanh thu tiêu thụ sản phẩm và giá thành toàn bộ của sản phẩm. Nhưng đối với mỗi nhân tố trên lại có các nhân tố nhỏ ảnh hưởng đến nó. Do vậy ta phải đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ và giá thành sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ.
*Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ:
Lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm được xác định theo công thức:
Pt = D - G1 - Z1 = Dt - Zt
Trong đó:
- Pt: Lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong kỳ
- D: Tổng doanh thu tiêu thụ trong kỳ
- G: Các khoản làm giảm trừ doanh thu (Giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế gián thu)
- Dt: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá trong kỳ
- Zt: Giá thành toàn bộ của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ
Từ công thức trên ta thấy lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ chịu ảnh hưởng bởi hai nhân tố: doanh thu bán hàng, giá thành toàn bộ của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ. Mỗi nhân tố trên lại có các nhân tố nhỏ ảnh hưởng đến nó. Do vậy ta phải đi sâu nghiên cứu từng nhóm nhân tố cụ thể.
* Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ sản xuất và tiêu thụ trong kỳ:
Giá thành toàn bộ của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ được xác định trên cơ sở giá thành sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm và chi phí quản lý doanh nghiệp. Như vậy, có ba nhân tố ảnh hưởng đến giá thành toàn bộ đồng thời cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Các nhân tố này phản ánh trình độ quản lý và sử dụng chi phí của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Cụ thể ảnh hưởng của các nhân tố:
+ Giá thành sản xuất của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ (Zsx): là biểu hiện bằng tiền của những khoản chi phí sản xuất, sản phẩm được tập hợp theo từng mặt hàng. Những chi phí này bao gồm:
• Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là khoản chi phí về nguyên liệu, nhiên liệu và động lực tiêu dùng trực tiếp cho việc sản xuất sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Chi phí này chiếm tỉ trọng lớn trong giá thành, vì vậy muốn tăng lợi nhuận tiêu thụ thì nhất thiết phải tìm các biện pháp cần thiết để tiết kiệm chi phí này.
• Chi phí nhân công trực tiếp: là khoản chi phí phải trả cho người lao động trực tiếp sản xuất, như tiền lương, tiền công và các khoản phục cấp (Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn). Để giảm giá thành, tăng lợi nhuận, doanh nghiệp cần có chính sách trả lương cho người lao động một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình.
• Chi phí sản xuất chung: là khoản chi phí chung, phát sinh ở các phân xưởng, các bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương, phụ cấp các khoản trích theo lương cho nhân viên quản lý phân xưởng, chi phí về vật liệu, công cụ dụng cụ xuất dùng cho phân xưởng, khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài... Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi các khoản mục chi phí này giảm xuống sẽ tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
+ Chi phí tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ (chi phí bán hàng): là khoản chi phí bỏ ra để đảm bảo cho quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp được thực hiện; những khoản chi phí này bao gồm: lương và các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên bán hàng, chi phí tiếp thị, đóng gói vận chuyển, bảo quản, khấu hao tài sản cố định, chi phí vật liệu, bao bì, dụng cụ, đồ dùng, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác: Chi phí điều tra thị trường, chi phí bảo hành sản phẩm, chi phí thông tin, quảng cáo...
Chi phí tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất, dịch vụ, điều kiện tự nhiên và xã hội... Để giảm giá thành, tăng lợi nhuận đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu tìm mọi biện pháp làm giảm các khoản chi phí trên. Tuy nhiên việc phấn đấu giảm các khoản chi phí hợp lý không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm bán ra, làm giảm uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là các chi phí quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan đến hoạt động toàn doanh nghiệp như tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lý các phòng ban, dự phòng phải thu khó đòi, và các khoản chi phí khác có liên quan đến việc quản lý, điều hành doanh nghiệp... Mặc dù các khoản chi phí này là nhỏ trong tổng giá thành nhưng nó cũng tác động, góp phần làm tăng giảm giá thành và ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Đòi hỏi các doanh nghiệp phải có biện pháp quản lý các khoản chi phí này một cách chặt chẽ.
* Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu bán hàng:
Dt = D - Gt
Trong đó:
Dt: Doanh thu bán hàng
D: Tổng doanh thu
Gt: Các khoản giảm trừ doanh thu
+ Tổng doanh thu: là toàn bộ số tiền có thể thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Tổng doanh thu cao hay thấp lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau bao gồm:
• Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ: khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ ảnh hưởng một cách trực tiếp tới doanh thu tiêu thụ và do đó nó cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận. Trong trường hợp các nhân tố khác không thay đổi sản lượng sản xuất và tiêu thụ tăng - giảm bao nhiêu lần sẽ làm cho tổng lợi nhuận tiêu thụ cũng tăng hoặc giảm bấy nhiêu lần. Việc tăng - giảm khối lượng sản phẩm tiêu thụ là do ảnh hưởng của nhân tố chủ quan doanh nghiệp trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh, nó phản ánh kết quả của việc sản xuất cả về khối lượng, chất lượng, chủng loại và thời hạn cũng như phản ánh kết quả của công tác bán hàng của doanh nghiệp.
• Kết cấu mặt hàng tiêu thụ: kết cấu mặt hàng tiêu thụ thay đổi có thể làm tăng hoặc giảm tổng số lợi nhuận. Trong thực tế nếu tăng tỉ trọng bán ra những mặt hàng có mức lợi nhuận cao, giảm tỷ trọng bán ra những mặt hàng mức lợi nhuận thấp thì mặc dù mức lợi nhuận cá biệt của từng mặt hàng không thay đổi nhưng tổng số lợi nhuận sẽ tăng lên hoặc ngược lại. Đây là nhân tố trước hết có tính chất khách quan, do nhu cầu của thị trường, song nếu các nhà quản lý nhận biết được điều này mà điều chỉnh kết cấu mặt hàng sản xuất cho phù hợp. Khi đó tác động này lại là tác động của nhân tố chủ quan thể hiện tính nhanh nhạy, linh hoạt của nhà quản lý.
• Giá bán sản phẩm: Nhân tố này ảnh hưởng thuận chiều với lợi nhuận. Khi các nhân tố khác không đổi - giá bán sản phẩm tăng sẽ làm lợi nhuận tăng và ngược lại. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường như hiện nay, giá bán của mặt hàng được hình thành một cách khách quan theo quy luật cung - cầu nên doanh nghiệp không thể tự điều chỉnh giá bán của mình làm tăng lợi nhuận được.
+ Các khoản giảm trừ doanh thu gồm: giảm giá hàng bán, giá trị hàng bán bị trả lại, thuế gián thu.
Trong đó thuế là chỉ tiêu pháp lệnh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải chấp hành đầy đủ, không thể trốn thuế để tăng lợi nhuận. Mặt khác trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để chiếm lĩnh thị trường thì các doanh nghiệp cũng cần phải có chính sách giảm giá. Như vậy để giảm các khoản giảm trừ doanh thu làm tăng lợi nhuận thì các doanh nghiệp chỉ có thể tìm cách làm giảm giá trị hàng bán bị trả lại, tức là phải nâng cao chất lượng sản xuất sản phẩm, không ngừng đổi mới trang thiết bị , công nghệ cải tiến mẫu mã sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường.
3.2. Một số phương hướng và biện pháp chủ yếu để thực hiện tăng lợi nhuận của doanh nghiệp:
Ngoại trừ các doanh nghiệp hoạt động vì mục đích công ích, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều nhằm một mục tiêu cơ bản là lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao. Do mỗi doanh nghiệp có những điều kiện và đặc điểm khác nhau, nên có những cách thức khác nhau để thực hiện mục đích của mình. Nhưng nhìn chung để tăng lợi nhuận trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có các biện pháp chủ yếu sau:
3.2.1. Sử dụng tiết kiệm chi phí, hạ giá thành:
Đây là biện pháp cơ bản lâu dài đối với mọi doanh nghiệp. Nếu như giá bán và mức thuế đã xác định... thì lợi nhuận đơn vị sản phẩm tăng hay giảm là do giá thành sản phẩm quyết định. Vì vậy để tăng lợi nhuận doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu hạ giá thành sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Các biện pháp hạ giá thành.
• Thứ nhất: Sử dụng tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu
Thông thường chi phí nguyên vật liệu chiếm một tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Do vậy việc phấn đấu giảm chi phí nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn trong việc hạ giá thành sản phẩm nhằm làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Để giảm chi phí nguyên vật liệu các doanh nghiệp thường sử dụng các biện pháp sau:
+ Kết hợp chặt chẽ giữa kế hoạch sản xuất với cung ứng nguyên vật liệu, doanh nghiệp cần căn cứ vào kế hoạch sản xuất để có kế hoạch thu mua, dự trữ nguyên vật liệu hợp lý cả về số lượng, chủng loại, chất lượng để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục đồng thời tránh được tình trạng ứ đọng vốn trong khâu dự trữ nguyên vật liệu.
+ áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất nhằm tiết kiệm nguyên vật liệu hạ giá thành.
+ Làm tốt công tác quản lý và sử dụng vật liệu, quản lý chặt chẽ từ khâu thu mua, vận chuyển, bảo quản đến khi đưa vào sản xuất. Cung ứng nguyên vật liệu phù hợp với yêu cầu của quá trình sản xuất. Muốn nâng cao chất lượng bảo quản nguyên vật liệu doanh nghiệp cần áp dụng các biện pháp đòn bẩy kinh tế thông qua việc giao trách nhiệm cho từng khâu, từng tổ, từng người. Xây dựng và kiểm tra định mức tiêu hao nguyên vật liệu đối với t._.ừng loại sản phẩm, vấn đề này rất quan trọng đối với việc quản lý vật tư trong sản xuất kinh doanh.
+ Có kế hoạch sử dụng vật liệu thay thế trong những trường hợp có thể, làm giảm giá thành. Tuy nhiên việc sử dụng vật liệu thay thế không được làm ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, ảnh hưởng tới uy tín của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó phải thường xuyên kiểm tra quá trình sản xuất, ngăn chặn kịp thời các hiện tượng mất mát, sử dụng lãng phí nguyên vật liêu, hạ giá thành góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
• Thứ hai: Phấn đấu tăng năng suất lao động
Tăng năng suất lao động là thực hiện tiết kiệm thời gian lao động, hao phí lao động để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hay tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Năng suất lao động phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: trình độ trang bị máy móc, trình độ, tay nghề của người lao động, trình độ quản lý, tổ chức sản xuất.... Vì vậy để tăng năng suất các doanh nghiệp cần có một số các biện pháp sau:
+ áp dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, tận dụng triệt để công suất máy móc thiết bị nhằm làm tăng năng suất lao động.
+ Tổ chức lao động khoa học, hợp lý giữa nhiệm vụ, công việc với trình độ tay nghề, loại trừ tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy hoạt động.
+ Tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc, thiết bị, hiện nay nhiều doanh nghiệp với trình độ tay nghề non kém, nên việc sử dụng máy móc thiết bị đem lại hiệu quả không cao làm giảm năng suất lao động kéo theo tăng chi phí và giá thành. Để khắc phục đòi hỏi các doanh nghiệp phải có kế hoạch tổ chức quản lý và sử dụng máy móc có hiệu quả hơn.
3.2.2. Tăng số lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ:
Đây là phương hướng quan trọng trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên số lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như trình độ trang bị máy móc kỹ thuật, trình độ tay nghề người lao động... Do đó để thực hiện tốt biện pháp này, doanh nghiệp cần phải:
+ Chú trọng đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá máy móc thiết bị, nhanh chóng và mạnh dạn chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất, có như vậy mới góp phần tăng năng suất lao động, tăng khối lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ.
+ Tổ chức tốt công tác quản lý và sử dụng lao động, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho người lao động, đồng thời doanh nghiệp cần tổ chức tốt các ca, kíp làm việc để vừa tận dụng tối đa công suất máy móc, vừa tận dụng triệt để năng lực làm việc của người công nhân.
+ Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường, cải tiến mẫu mã, bao bì phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Đối với mỗi loại sản phẩm đều có chu kỳ sống riêng, khi sản phẩm này đến giai đoạn suy thoái thì phải có sản phẩm khác thay thế để doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp được ổn định và người lao động có việc làm liên tục.
+ Doanh nghiệp cần tăng cường công tác tiếp thị, thực hiện các biện pháp điều tra nghiên cứu thị trường, xây dựng các danh sách marketing thích hợp. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá một cách hợp lý sẽ có tác dụng thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm. Để đáp ứng được yêu cầu đó quá trình kinh doanh hải được tổ chức một cách nhịp nhàng từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ.
+ Đa dạng hoá các hình thức thanh toán, mở rộng thị trường bằng cách mở thêm nhiều đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, áp dụng nhiều hình thức thông tin quảng cáo là cách tốt nhất cho việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.
3.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh là nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Sử dụng vốn có hiệu quả sẽ ảnh hưởng lớn đến quy mô sản xuất kinh doanh và hầu hết các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Nếu trong kỳ doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả thông qua việc đẩy mạnh tốc độ luân chuyển vốn làm tăng nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm thì sẽ nhanh chóng thu hồi vốn, hơn nữa còn làm tăng nhanh mức doanh lợi của doanh nghiệp và ngược lại. Do vậy việc sử dụng vốn đạt hiệu quả là phương hướng quan trọng để tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp.
Sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh không phải là hoạt động đơn thuần về mặt thu - chi tài chính mà thực chất nó là một nghệ thuật trong sản xuất kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tức là sử dụng vốn sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả cao nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định. Để sử dụng có hiệu quả vốn lưu động và vốn cố định doanh nghiệp cần áp dụng các biện pháp sau:
+ Tăng tối đa công suất sử dụng tài sản cố định nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Phát huy một cách có hiệu quả vai trò của tài chính trong việc quản lý và sử dụng vốn cố định.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc tài chính đối với bộ phận vốn lưu động như vốn dư sau sản xuất, vốn sản phẩm đang chế tạo và vốn thành phẩm tồn kho. Kiểm tra chặt chẽ các định mức tiêu hao, phát huy tính năng động, sáng tạo, tự giác, tự chủ của người lao động, từ đó khẳng định được trình độ của người quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường các loại hình kinh doanh ngày càng đa dạng, đã mở ra cho doanh nghiệp nhiều hình thức huy động vốn, vì vậy trong vấn đề tạo vốn và quản lý vốn cần phải lựa chọn phương pháp và thời điểm huy động vốn một cách hợp lý nhằm giảm bớt chi phí sử dụng vốn từ đó tăng lãi suất ròng cho doanh nghiệp. Nếu kế hoạch huy động vốn tốt, đạt hiệu quả, sẽ giúp cho doanh nghiệp chớp được thời cơ trong kinh doanh, tăng nhanh vòng quay của vốn, giảm chu kỳ luân chuyển của vốn, từ đó tiết kiệm chi phí sử dụng vốn, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Trên đây là một số phương hướng và biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp nói chung. Trên thực tế mỗi doanh nghiệp có điều kiện sản xuất kinh doanh khác nhau, vì thế phải căn cứ vào đặc điểm tình hình sản xuất, đặc thù của mỗi doanh nghiệp để áp dụng các biện pháp, phương hướng phù hợp nhằm tăng lợi nhuận ngày càng cao cho doanh nghiệp mình.
Chương II
Thực trạng về lợi nhuận
ở công ty thương mại hoàng lâm năm 2000-2002
1. Một vài nét về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty thương mại Hoàng Lâm:
1.1. Quá trình thành lập và phát triển của Công ty:
Công ty thương mại Hoàng Lâm là một đơn vị thành viên của Công ty thương mại và chuyển giao công nghệ Hà Nội, được thành lập từ năm 1992.
Công ty chuyên sản xuất và kinh doanh gạch cho xây dựng tại địa điểm Đại Mỗ - Từ Liêm - Hà Nội. Sau một thời gian chuyên nghiên cứu thị trường xây dựng, Công ty thấy rằng gạch lát nền rất cần thiết cho xây dựng. Và để đáp ứng nhu cầu của thị trường xây dựng tháng 4 năm 1994, Công ty đã nhập dây chuyền sản xuất sản phẩm gạch lát nền và toàn bộ thiết bị tự động hoá từ Italia. Tháng 11/1994, dây truyền này đã đi vào hoạt động, từ đó Công ty Thương mại Hoàng Lâm thuộc Công ty thương mại và chuyển giao công nghệ Hà Nội được thành lập, sản phẩm gạch lát nền được bán rộng rãi trên thị trường cả nước và ngày càng được khách hàng đánh giá cao. Sự ra đời của dây chuyền I với công suất gần 1 triệu m2/năm không đáp ứng được là bao so với thị trường xây dựng ở Việt Nam ngày càng gia tăng. Qua một số việc khảo sát, thăm dò về nghiên cứu thị trường và thực tại chiến lược sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty đã nhận thấy rằng thị trường tiềm năng thương mại của mình còn rất lớn. Được sự chỉ đạo tháng 4 năm 1996, Công ty xây dựng dây chuyền II với thiết bị và công nghệ được nhập từ Italia, có công suất 2 triệu m2/ năm, nâng cao công suất gạch của Công ty. Dây chuyền II được đặt ngay cạnh dây chuyền I. Cơ cấu sản phẩm của dây chuyền II là gạch lát nền chiếm 70% và gạch ốp tường 30%.
Công ty thuộc địa phận quận Thanh Xuân, Hà nội với tổng diện tích là 11.300m2. Trong đó:
Nhà xưởng sản xuất : 9.000m2
Nhà làm việc: 1.300m2
Nhà kho + bãi: 750m2
Vườn hoa cây cảnh: 250m2
Tổng số công nhân viên của Công ty là 109 người. Trong đó:
Số nhân viên quản lý là 9 người
Số cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng là 35 người
Số cán bộ có trình độ trung cấp là 65 người
Quy mô vốn kinh doanh của Công ty năm 2002:
Tổng vốn kinh doanh bình quân là 165.098.685 VNĐ. Trong đó:
+ Vốn cố định: 96.302.776 VNĐ chiếm 58,3%.
+ Vốn lưu động: 68.795.909 VNĐ chiếm 41,7%
Có thể nói chất lượng sản phẩm của Công ty hầu như không thua kém gì so với hàng ngoại nhập, song mẫu mã, hình thức, bao bì sản phẩm cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự cạnh tranh. Công ty đã không ngừng cải tiến mẫu mã cho phù hợp nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng truyền thống của Công ty, đồng thời nghiên cứu bổ sung thêm các chi tiết trang trí để tăng thêm sức hấp dẫn của sản phẩm. Với chính sách: "Chỉ sản xuất những mặt hàng phù hợp và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm", Công ty đã và đang là địa chỉ tin cậy đối với người tiêu dùng.
1.2. Đặc điểm về tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty:
1.2.1. Cơ cấu bộ máy tổ chức sản xuất kinh doanh và chức năng của từng bộ phận:
Công ty Hoàng Lâm được tổ chức quản lý theo kiểu trực tiếp. Giám đốc là người có quyền lãnh đạo cao nhất, trực tiếp chỉ đạo mọi hoạt động của Công ty, các phòng ban tham mưu cho giám đốc theo chức năng và nhiệm vụ của mình.
w Ban giám đốc: Ban giám đốc của Công ty gồm 3 người: 1 giám đốc và 2 phó giám đốc.
- Giám đốc là người đứng đầu bộ máy quản lý trực tiếp chỉ đạo chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài việc uỷ quyền cho các giám đốc - giám đốc còn chỉ đạo trực tiếp thông qua các phòng ban.
- Các phó giám đốc là người giúp việc trực tiếp cho giám đốc, trực tiếp chỉ đạo về mặt nghiệp vụ, các bộ phận hoạt động trong phạm vi trách nhiệm của mình.
Công ty có 2 phó giám đốc:
- Phó giám đốc sản xuất công nghệ
- Phó giám đốc kinh doanh
w Các phòng ban: Việc tổ chức ra các phòng ban tuỳ thuộc vào yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Đứng đầu là các trưởng phòng và phó phòng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ban giám đốc và đồng thơì cũng có vai trò trợ giúp ban giám đốc chỉ đạo các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Công ty có các phòng ban:
+ Phòng tài chính kế toán: có chức năng lập kế hoạch tài chính và tổ chức thực hiện tốt kế hoạch đó theo tháng, quý, năm. Cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết cho giám đốc Công ty, thực hiện hạch toán kế toán theo quy định của nhà nước và điều lệ hoạt động của Công ty, Phòng TCKT gồm 4 cán bộ công nhân viên: 1 kế toán trưởng, 1 thủ quỹ, còn lại là các kế toán viên.
+ Phòng kinh doanh: phòng kinh doanh có chức năng thực hiện các hoạt động xúc tiến bán hàng xây dựng và thực hiện các chiến lược marketing, thu thập, tìm hiểu thông tin về thị trường và nhu cầu của khách hàng về sản phẩm mới.
Phòng kinh doanh gồm 15 người trong đó có 1 cán bộ quản lý, 2 nhân viên văn phòng, còn lại là đội ngũ kinh doanh có nhiệm vụ bán hàng và chào hàng đến từng địa điểm trong thành phố và các tỉnh lân cận.
+ Phòng quản lý nhân sự: có chức năng xây dựng kế hoạch quản lý công tác tổ chức, lao động tiền lương, định mức lao động, bảo hiểm xã hội,...
+ Phòng sản xuất công nghệ: Có chức năng lập kế hoạch sản xuất và kế hoạch giá thành sản phẩm theo tháng, quý, năm.
w Phân xưởng sản xuất: Có chức năng sản xuất có hiệu quả gạch ốp tường, lát nền theo kế hoạch của Công ty giao cho bảo đảm về số lượng, chất lượng, chịu trách nhiệm quản lý, bảo dưỡng và sử dụng tài sản cố định, vật tư, nguyên nhiên liệu, phụ tùng, công cụ, lao động sản xuất, thành phẩm chưa nhập kho, giữ bí mật về công nghệ, số liệu chủng loại trong quá trình sản xuất.
1.2.2. Đặc điểm về sản phẩm:
Ngày nay khi nền kinh tế đã và đang phát triển mạnh, nhu cầu về nhà ở ngày càng tăng, kéo theo hàng loạt các dự án về đô thị hoá, xây dựng những khu đô thị mới, khu chung cư cao tầng... Do vậy nhu cầu về vật liệu xây dựng trên thị trường tăng mạnh trong đó có gạch ốp lát. Nắm bắt được tình hình này Công ty đã cho ra đời nhiều loại gạch ốp, lát với quy mô sản xuất ngày càng tăng. Công ty Hoàng Lâm sản phẩm chính là gạch lát nền với nhiều loại kích cỡ, mẫu mã khác nhau phù hợp với thị hiếu nhu cầu của từng khách hàng. Công ty không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm với hình thức đẹp, hoa văn trang nhã, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng
w Các loại sản phẩm sản xuất chính gồm:
Gạch lát nền 300 ´ 800 ´ 8mm
Gạch lát nền 400 ´ 400 ´ 9mm
Gạch lát nền 200 ´ 200 ´ 7,5mm
Gạch lát nền 500 ´ 500 ´ 10mm
Gạch lát nền 200 ´ 250 ´ 6mm
1.2.3. Đặc điểm về nguyên vật liệu sản xuất:
* Nguyên vật liệu chủ yếu được sử dụng là: Đất sét (chiếm 70%), Feldspar, đá thạch anh và một số phụ liệu khác. Các loại nguyên liệu này được khai thác từ các mỏ và được ủ sau một thời gian nhất định mới đưa vào sản xuất.
1.2.4. Tình hình vốn, nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty:
Bảng 1:
S
TT
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
Chênh lệch (+/-)
ST(đ)
Tỷ
trọng
ST(đ)
Tỷ
trọng
ST(đ)
%
Tỷ
trọng
1
Tổng vốn
172.770.118
100
157.427.25
100
- 5.342.866
-8,9
0
2
Vốn cố định
105.961.325
61,3
86.644.225
55
- 9.317.100
-18,2
-6,3
3
Vốn lưu động
66.808.793
38,7
70.783.027
45
3.974.234
5,9
6,3
4
Nợ phải trả
159.483.129
92,3
141.851.803
90,1
-17.631.326
-11,1
-2,2
5
Vốn chủ SH
13.286.989
7,.7
15.575.449
9,9
2.288.460
17,2
2,2
Căn cứ vào các số liệu được phản ánh trên ta thấy:
Tính đến ngày 31/12/2002 tổng vốn sản xuất kinh doanh của công ty là157.427.252 đồng, so với năm 2001 vốn sản xuất kinh doanh giảm 15.324.866 đồng, tương ứng giảm 8,9%. Số giảm nói trên phản ánh quy mô sản xuất kinh doanh của Công ty giảm so với năm 2001. Trong đó, vốn cố định là 86.644.225 đồng, chiếm tỷ trọng 55%, vốn lưu động: 70.783.027 đồng, chiếm 45%. Như vậy, so với năm 2001 tỷ trọng vốn cố định đã giảm 6,3% tương ứng tỷ trọng vốn lưu động tăng 6,3%. Có thể nói một cơ cấu vốn như thế là tương đối hợp lý đối với một doanh nghiệp sản xuất.
Xét về mặt nguồn vốn ta thấy trong tổng nguồn vốn: 157.427.252 đồng nợ phải trả là 141.851.803 đồng chiếm 90,1% trong khi đó, nguồn vốn CSH chỉ chiếm 9,9% (15.575.449 đồng), hệ số nợ của công ty năm 2002 là:
H =
Tỷ trọng nợ như trên là khá cao so với mức trung bình ngành (tuy nhiền nó đã giảm 2,2% so với năm 2001). Công ty sẽ có điều kiện để phát huy tác dụng của đòn bẩy tài chính thông qua hệ số nợ.
1.2.5. Kết quả kinh doanh của Công ty trong một số năm gần đây:
Bảng 2: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh trong một số năm gần đây
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
So sánh 2001/2000
So sánh 2002/2001
ST(+,-)
% (+,-)
ST(+,-)
% (+,-)
1
Tổng vốn SXKD BQ
Tr.đ
123.227
174.923
165.099
51.696
41,95
-9,824
-5,62
2
Tổng giá thành
-
166.700
193.430
200.298
26.730
16,35
6.868
3,55
3
Tổng DT t.thụ
-
169.960
214.092
219.152
44.132
25,96
5.060
2,36
4
D.thu thuần
-
3.260
213.735
218.762
43.775
25,75
5.027
2,35
5
LN thuần
-
2,64
3.848
3.686
588
18,04
-162
-4,21
6
Doanh lợi vốn
%
1,92
2,20
2,23
-0,44
-
0,03
-
7
D.lợi D.thu
%
1,95
1,80
1,68
-0,12
-
-0,12
-
8
D.lợi Z
%
1,516
1,99
1,84
0,04
-
-0,15
-
9
TN bình quân ng/tháng
Tr.đ
1,561
1,602
0,045
2,97
0,041
2,56
Những năm gần đây, tình hình kinh tế xã hội của đất nước có chiều hướng thuận lợi, tốc độ tăng trưởng chung của cả nước tăng đáng kể. Nhu cầu về nhà ở tăng mạnh, kéo theo hàng loạt các dự án về đô thị hoá, xây dựng những khu đô thị mới, khu chung cư cao tầng do vậy nhu cầu về vật liệu xây dựng trên thị trường tăng mạnh. Đây là điều kiện thuận lợi để Công ty mở rộng quy mô sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nâng cao lợi nhuận của mình. Trong những năm gần đây, Công ty đã đạt được những kết quả khích lệ. Với tổng doanh thu tiêu thụ trong 3 năm liên tiếp từ năm 2000đến năm 2002 là 169.960 triệu đồng (2000); 214.092 triệu đồng (2001) và 219.152 triệu đồng (2002) liên tục tăng và lợi nhuận là 3.260 triệu (năm 2000); 3.848 triệu (2001) và 3.686 triệu (2002). Như vậy lợi nhuận năm 2001 so với năm 2000 tăng 588 triệu tương ứng tăng 18,04%. Mặc dù năm 2002 chỉ đạt 3.686 triệu, giảm so với năm 2001 là 162 triệu tương ứng giảm 4,21% nhưng nó vẫn đạt mức tương đối cao so với các doanh nghiệp khác và nguyên nhân chủ yếu ở đây là do sự biến động của lãi suất thị trường và của tỷ giá hối đoái.
Thu nhập bình quân đầu người mỗi tháng cũng không ngừng tăng. Cụ thể năm 2000 đạt 1,516 triệu đến năm 2001 đạt 1,561 triệu tăng 2,97% và năm 2002 đạt 1,602 triệu tăng 2,63% so với năm 2001.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, Công ty còn gặp một số khó khăn nhất định. Do ngày càng có nhiều công ty, nhà máy gạch ốp lát ra đời hầu hết các nhà máy đều hoạt động vượt công suất thiết kế bên cạnh đó nhiều nhà máy mới xây dựng với công suất thấp, chưa ổn định đã đi vào hoạt động dẫn đến tình trạng vượt xa so với cầu. Mặt khác trong năm qua nhà nước đã xoá bỏ hàng rào thuế quan đối với các mặt hàng vật liệu xây dựng trong đó có sản phẩm gạch ceramic, granite dẫn đến hiện tượng cạnh tranh về giá xảy ra rất khốc liệt không chỉ giữa các nhà sản xuất trong nước mà còn cả với các nhà cung cấp nước ngoài.
Để phát huy những thành quả sản xuất kinh doanh đã đạt được và khắc phục kịp thời những khó khăn còn tồn tại nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch năm 2003. Công ty Hoàng Lâm đã đề ra phương án cho năm tới. Phát huy hết nội lực hiện có, thực hiện định hướng tăng tốc trong đột phá về sản xuất và đầu tư phát triển. Tổ chức điều hành sản xuất tốt hơn trên cơ sở các thiết bị hiện có, làm ra sản phẩm đẹp hơn với giá thành thấp hơn nhằm tăng khả năng cạnh tranh và tạo đà phát triên lâu dài của Công ty.
2. Thực trạng về lợi nhuận của Công ty Hoàng Lâm:
2.1. Những thuận lợi và khó khăn chủ yếu của Công ty trong điều kiện kinh doanh hiện nay:
2.1.1. Những thuận lợi
w Về mặt khách quan:
Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh, nâng cao quyền và khả năng tự chủ kinh doanh, tự chủ tài chính cho các doanh nghiệp đã đem lại luồng sinh khí mới cho đời sống kinh tế. Được quyền tự lựa chọn phương án kinh doanh, được giữ lại toàn bộ quỹ khấu hao để mở rộng sản xuất... Đó là những thuận lợi khách quan cơ bản nhất giúp cho các doanh nghiệp trong đó có Công ty Hoàng Lâm có thể phát huy hơn nữa những lợi thế sẵn có của mình.
Mặt khác do nền kinh tế thị trường đất nước không ngừng tăng trưởng và phát triển, nhu cầu về nhà ở tăng mạnh, hàng loạt các dự án về đô thị hoá, xây dựng các khu chung cư, các công trình công nghiệp... Do vậy nhu cầu về vật liệu xây dựng trên thị trường tăng mạnh. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi để Công ty có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất nâng cao lợi nhuận.
w Về phía Công ty:
Công ty Hoàng Lâm thuộc thủ đô Hà Nội, vị trí khá thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh cũng như việc giao dịch với khách hàng và ngân hàng.
Nằm ở thủ đô Hà Nội, trung tâm kinh tế, văn hoá xã hội của cả nước, Công ty Hoàng Lâm có điều kiện nắm bắt những thông tin mới nhất về nhu cầu, về giá cả thị trường cũng như về kiểu dáng, mẫu mã. Đây là điều kiện thuận lợi để Công ty chiến thắng trong cạnh tranh. Mặt khác đây cũng là nơi tập trung những công trình những khu công nghiệp và những trường học lớn... Đó là nguồn tiêu thụ lớn cho sản phẩm của Công ty.
Công ty còn có những dây chuyền công nghệ và thiết bị hiện đại không ngừng cải tiến đổi mới. Đây chính là một lợi thế để nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm gạch ốp lát trên thị trường.
Với đội ngũ cán bộ quản lý không những giỏi về chuyên môn, mà còn gắn bó tận tâm với công việc. Và đội ngũ công nhân viên nhiệt tình, giàu kinh nghiệm, là nguồn nội lực mạnh mẽ để Công ty có thể vượt qua những khó khăn, phát huy những khả năng tiềm tàng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận. Công ty luôn luôn đề cao chính sách chất lượng, coi chất lượng là tiêu chuẩn hàng đầu, bên cạnh đó không ngừng cải tiến mẫu mã, với giá cả phải chăng. Chính vì thế sản phẩm của Công ty đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Với chính sách: "Chỉ sản xuất những sản phẩm phù hợp và không ngừng nâng cao chất lượng". Công ty đã và đang là địa chỉ tin cậy đối với người tiêu dùng.
Bên cạnh những thuận lợi nói trên, Công ty cũng gặp không ít những khó khăn.
2.1.2. Những khó khăn chủ yếu:
w Về mặt khách quan:
Một trong những hệ quả của chính sách mở cửa nền kinh tế là việc hàng hoá được tự do lưu thông khiến cho hàng ngoại tràn vào thị trường trong nước theo nhiều con đường. Đây là một thách thức không dễ vượt qua đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và đối với Công ty Hoàng Lâm nói riêng. Sản phẩm gạch ốp lát của nước ngoài phong phú về chủng loại, đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã, nhiều sản phẩm cao cấp với giá cả phải chăng (Trung Quốc, Nhật, Inđônêxia...). Bên cạnh đó sản phẩm của Công ty còn phải cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm cùng loại của nhiều Công ty trong nước như Công ty gạch Đồng Tâm, Mỹ Đức và nhiều công ty liên doanh khác.
Ngày càng có nhiều công ty gạch ốp lát ra đời và đi vào hoạt động với công suất cao làm cho nguồn nguyên liệu (chủ yếu là đất sét) ngày càng khan hiếm, việc khai thác ngày càng khó khăn, giá thành cao làm ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất kinh doanh của công ty.
w Về phía chủ quan:
Hiện nay Công ty vừa sản xuất vừa tiếp tục xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002, vì vậy công ty gặp không ít khó khăn trong vấn đề huy động vốn. Đặc biệt khi mà hệ số nợ của Công ty lên tới 0,9, việc huy động vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh càng trở lên khó khăn, chi phí vay vốn rất cao.
Đội ngũ lao động trực tiếp của Công ty còn chưa đồng đều về trình độ, có tới khoảng 75% là lao động phổ thông mới chỉ qua các lớp đào tạo cơ bản về kỹ thuật, số còn lại là trình độ trung cấp nên việc nắm bắt làm chủ công nghệ mới còn hạn chế. Chưa phát hiện kịp thời những sai sót trong quá trình sản xuất, lãng phí nguyên vật liệu sản phẩm còn mắc nhiều khuyết tật làm ảnh hưởng đến uy tín của Công ty.
Nắm bắt được những thuận lợi và khó khăn trên Công ty đã kịp thời triển khai những giải pháp để tận dụng những lợi thế và khắc phục những khó khăn trên. Cụ thể:
+ Về sản lượng sản xuất: Qua nghiên cứu thị trường, nắm bắt được nhu cầu của khách hàng. Năm 2002 Công ty đã tập trung sản xuất gạch lát nền với nhiều loại kích cỡ, mẫu mã khác nhau. Tổng sản lượng sản xuất là 3.597.037 m2.
+ Về chất lượng: Năm 2002 Công ty đã có nhiều biện pháp nhằm xiết chặt kỷ luật công nghệ, duy trì hình thức chấm điểm theo ca, theo tỷ lệ chất lượng sản phẩm, trả lượng theo từng công đoạn để khuyến khích người lao động gắn trách nhiệm của họ đối với công việc được giao.
+ Về chuẩn bị vật tư, nguyên liệu: Để chủ động cho kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2003 trong điều kiện nguồn nguyên vật liệu khan hiếm Công ty đã tìm ra nguồn đất sét thay thế. Các nguyên liệu khác được cung ứng kịp thời phục vụ cho sản xuất.
+ Về công tác tiêu thụ sản phẩm:
Cũng như các năm trước, Công ty tiếp tục củng cố và mở rộng mạng lưới tiêu thụ trong cả nước, xây dựng kênh phân phối phủ kín đến thị trường tuyến huyện, thị trấn.Việc triển khai thị trường thông qua nhiều kênh phân phối và tuyển dụng những nhân viên tiếp thị có năng lực nằm vùng tại thị trường đã mang lại kết quả cao,
+ Về lao động: Công ty bố trí sắp xếp lại bộ máy quản lý để phù hợp với khả năng, trình độ và năng lực của cán bộ, phân công giao và trách nhiệm cụ thể cho từng cán bộ quản lý. Đồng thời sắp xếp lại đội ngũ công nhân phù hợp với chuyên môn, tổ chức đào tạo lại về quy trình công nghệ kỹ năng vận hành thiết bị.
Ngoài ra Công ty còn có chế độ khen thưởng kịp thời cho những cán bộ công nhân viên có thành tích cao, có sáng kiến mới trong công tác tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm làm giảm chi phí, tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng sản phẩm.
2.2. Kết quả sản xuất kinh doanh và tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty Hoàng Lâm:
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trở ngại song do có những giải pháp phù hợp kịp thời, Công ty đã không ngừng phấn đấu vượt qua và đã đạt được những kết quả khả quan. Cụ thể:
Bảng3 (trang bên) thể hiện một số chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh. Qua số liệu ở bảng trên ta nhận thấy rằng: Năm 2002 tổng doanh thu tiêu thụ của Công ty đạt 219.151.840 đồng, tăng hơn so với cùng kỳ năm 2001 là 5.059.647 đồng tương ứng với tỷ lệ 2,36% đồng thời tăng so với kế hoạch là 7.418.626 đồng tương ứng với 3,5%. Đây được coi là thành tích của Công ty trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Tuy nhiên các khoản giảm trừ doanh thu năm 2002 lại tăng 9,13% so với cùng kỳ năm 2001 và tăng 36,8% so với kế hoạch mà chủ yếu là giảm trừ do hàng bán bị trả lại. Điều này chứng tỏ chất lượng của sản phẩm đã bị giảm sút, đòi hỏi Công ty cần có biện pháp khắc phục kịp thời để đảm bảo uy tín của mình đối với khách hàng. Cũng chính vì thế mà doanh thu thuần của Công ty chỉ đạt 218.762.273 đồng, tăng 2,35% so với năm 2001 và tăng 3,46% so với kế hoạch. Tổng giá vốn hàng bán năm 2002 chiếm 149.042.737 đồng tăng 496.768 đồng tương ứng tăng 0,33% so với cùng kỳ. Việc tăng giá vốn như trên là do khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng so với năm 2001. Tuy nhiên so với kế hoạch thì giá vốn lại giảm 10.797.350 đồng tương ứng giảm 6,75%.
Bảng 3: Báo cáo kết quả kinh doanh
STT
Chỉ tiêu
TH 2001
Năm 2002
Chênh lệch
Chênh lệch
KH
TH
ST(+/-)
% (+/-)
ST(+/-)
% (+/-)
1
Tổng doanh thu
214092
211733
219152
5060
2.36
7419
3.50
Doanh thu tiêu thụ
214092
211733
219152
5060
2.36
7419
3.50
Giảm trừ doanh thu
357
285
389
32
8.96
104
36.49
2
Doanh thu thuần
213735
211448
218762
5027
2.35
7314
3.46
3
Giá vốn hàng bán
148546
159840
149043
497
0.33
-10797
-6.75
4
Lợi nhuận góp
65189
51608
69719
4530
6.95
18111
35.09
5
Chi phí bán hàng
34197
14740
40383
6186
18.09
25643
173.97
6
Chi phí quản lý doanh nghiệp
10687
7915
10872
185
1.73
2957
37.36
7
Lợi nhuận hoạt động SXK
20305
28953
18463
-1842
-9.07
-10490
-36.23
8
Lợi nhuận hoạt động tài chính
-16457
-24189
-14777
1680
-10.21
9412
-38.91
9
Tổng lợi nhuận trước thuế
3847
4764
3686
-161
-4.19
-1078
-22.63
10
Thuế TNDN
0
0
0
0
0
11
Lợi nhuận sau thuế
3847
4764
3686
-161
-4.19
-1078
-22.63
Nguyên nhân chủ yếu là do Công ty đã tìm được nguồn nguyên liệu mới (đất sét) tại Hà Bắc. Mặc dù chi phí cho việc khai thác vẫn còn hơi cao. Đồng thời khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ cũng không đạt mức kế hoạch đề ra. Chi phí bán hàng năm 2001 có sự đột biến chiếm 40.383.815 n đồng tăng đáng kể so với năm 2000 và so với kế hoạch. Cụ thể, so với kế hoạch tăng 25.643.452 đồng tương ứng tăng 173,97%. Việc tăng mạnh chi phí bán hàng thể hiện trong năm, Công ty rất quan tâm tới công tác đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, Công ty đã tiến hành các chương trình quảng cáo khuyến mại, tham gia nhiều hội chợ triển lãm
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của Công ty năm 2002 đạt 18.463.586 đồng. So với năm 2001 giảm 1.841.308 đ tương ứng giảm 9,07% và so với kế hoạch giảm 10.489.259đ tương ứng giảm 36,23% việc giảm lợi nhuận chủ yếu là do chi phí bán hàng quá lớn. Tuy nhiên, ta không thể đánh giá là khuyết điểm của doanh nghiệp, vì công tác thông tin, tiếp thị mở rộng thị trường là rất quan trọng, nó sẽ mang lại hiệu quả về lâu dài cho Công ty.
Trên đây là những đánh giá sơ bộ về kết quả sản xuất kinh doanh năm 2002 của Công ty. Để có thể thấy được những cố gắng cũng như những hạn chế, vướng mắc của Công ty trong quá trình thực hiện lợi nhuận ta đi sâu nghiên cứu cụ thể, tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tình hình quản lý chi phí, giá thành và tình hình quản lý, sử dụng vốn của Công ty.
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của Công ty năm 2002
Các doanh nghiệp thời kỳ bao cấp có thể chẳng mấy nhọc lòng với vấn đề tiêu thụ sản phẩm bởi một lẽ đơn giản là tất cả những gì họ sản xuất ra chắc chắn sẽ được nhà nước điều tiết, phân phối tới những nơi cần đến. Thế nhưng trong cơ chế thị trường, vấn đề tiêu thụ sản phẩm luôn luôn được các nhà doanh nghiệp sản xuất quan tâm hàng đầu, một khi sản xuất không gắn liền với tiêu thụ thì doanh nghiệp chắc chắn sẽ không tồn tại. Do vậy, bất cứ doanh nghiệp nào cũng lấy thị trường làm căn cứ và đối tượng cho cả việc hoạch định lẫn thực thi các chiến lược sản xuất kinh doanh. Một khi khả năng tiêu thụ được mở rộng thì doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để biến các tiềm năng về vốn, lao động, dây chuyền công nghệ... thành hiện thực, từ đó làm tăng lợi nhuận mà không phải tăng giá bán.
Năng lực sản xuất tương đối lớn trong khi nhu cầu thị trường không phải là có hạn và đã đặt ra một bài toán khó cho các cán bộ quản lý, kinh doanh ở Công ty trong việc tìm kiếm thị trường và các đơn đặt hàng mới. Chính vì vậy, trong năm qua Công ty đặc biệt chú trọng tới công tác bán hàng, giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm khách hàng Với uy tín cao và đội ngũ tiếp thị năng động nhiệt tình, thông qua việc thường xuyên tham gia các triển lãm Công ty đã ký kết được nhiều hợp đồng bán hàng. Đây là thành tựu đáng kể của Công ty.
Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, làm cho Công ty gặp không ít khó khăn. Song bù lại nhờ những chính sách kích cầu kịp thời của Nhà nước, đồng thời do nhu cầu kiến thiết nhà cửa không ngừng tăng, mà sản phẩm của công ty vẫn có chỗ đứng trên thị trường. Tuy nhiên nếu không có những nỗ lực chủ quan từ phía Công ty trong năm qua thì những kết quả khả quan trên khó có thể đạt được. Những nỗ lực đó là gì?
+ Thứ nhất: Công ty đã không ngừng đa dạng hoá sản phẩm, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm cả về giá trị sử dụng lẫn giá trị thương mại và giá trị thẩm mỹ để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
Từ chỗ chỉ sản xuất 2 loại sản phẩm gạch 300 ´ 300 và gạch 400 ´ 400 với hoa văn thông thường. Đến nay Công ty đã có rất nhiều loại sản phẩm với nhiều kích cỡ khác nhau, mẫu mã đa dạng, hoa văn trang nhã và không ngừng nâng cao chất lượng thông qua việc đầu tư, thay thế bằng các thiết bị công nghệ mới nhất của._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33594.doc