Tài liệu Lợi nhuận và giải pháp gia tăng lợi nhuận tại Công ty Xây lắp Điện 1: ... Ebook Lợi nhuận và giải pháp gia tăng lợi nhuận tại Công ty Xây lắp Điện 1
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lợi nhuận và giải pháp gia tăng lợi nhuận tại Công ty Xây lắp Điện 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hoà mình vào xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam đang từng bước phát triển với những thành tựu khả quan, tạo nên những thành tựu này có sự đóng góp to lớn của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước - những tế bào chủ đạo của nền kinh tế quốc dân.
Nếu như trong cơ chế tập trung bao cấp, hoạt động của các xí nghiệp quốc doanh chỉ đơn thuần là sản xuất và giao nộp sản phẩm theo kế hoạch của Nhà nước mà ít quan tâm tới chất lượng, giá thành và lợi nhuận thì trong cơ chế thị trường, lợi nhuận trở thành nhân tố được quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Khi Nhà nước không còn bao cấp nữa, các doanh nghiệp phải tự quyết định mọi hoạt động của mình, tự xây dựng các chiến lược hoạt động riêng cho mình làm sao để vượt qua đối thủ cạnh tranh. Hiển nhiên ta thấy rằng: khi nguồn thu của doanh nghiệp không thể bù đắp được các chi phí bỏ ra thì dần dần các nguồn lực của doanh nghiệp sẽ bị vắt kiệt. Chính vì vậy, trong cơ chế cạnh tranh khốc liệt này, lợi nhuận trở thành yếu tố quyết định số phận của mỗi doanh nghiệp: hoặc tồn tại, phát triển hoặc bị loại bỏ. Do đó, khát vọng lợi nhuận, mục tiêu lợi nhuận trở thành một động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng tăng cường đầu tư, nâng cao hiệu quả và chất lượng quản lí các nguồn lực.
Với mục đích tìm hiểu về lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với các doanh nghiệp ngày nay, cùng với quá trình tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu lợi nhuận của Công ty Xây lắp Điện I, em đã chọn đề tài: “ Lợi nhuận và giải pháp gia tăng lợi nhuận tại Công ty Xây lắp Điện I” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn được trình bày theo ba chương:
- Chương I: Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chương II: Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình lợi nhuận của Công ty Xây lắp điện I
- Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm gia tăng lợi nhuận tại Công ty Xây lắp Điện I.
Do lần đầu tiên được tiếp cận với vấn đề thực tế và kiến thức thực tiễn chưa nhiều nên chuyên đề của em chắc còn nhiều khuyết điểm và sai sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của cô giáo hướng dẫn PGS.TS Trần Thị Hà cùng toàn thể các cô, chú, anh, chị Phòng Tài chính - Kế toán, Công ty Xây Lắp Điện I để em có thể hoàn thiện hơn bài viết của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm lợi nhuận.
Bất kì một doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều phải quyết định cho mình những mục tiêu hoạt động và lấy đó làm cái đích để hướng tới, trong đó mục tiêu chung nhất, tổng quát nhất là mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu vì mục tiêu này đã xem xét, đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dưới góc độ thời gian, rủi ro và nhiều yếu tố khác. Để thực hiện mục tiêu này doanh nghiệp phải đồng thời đảm bảo nhiều mục tiêu cụ thể, trong đó mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận đóng vai trò cơ bản, quan trọng, góp phần thực hiện mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Về lí luận cũng như thực tiễn các doanh nghiệp luôn quan tâm, nghiên cứu nhân tố lợi nhuận và tìm ra các biện pháp gia tăng lợi nhuận, coi đây là một trong những vấn đề phải quan tâm hàng đầu. Vậy lợi nhuận là gì? Tại sao nó lại được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm như vậy? Các quan điểm của các nhà kinh tế học dưới đây sẽ giúp chúng ta một phần trả lời được câu hỏi này.
Các nhà kinh tế học cổ điển trước Marx cho rằng: “Cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí là lợi nhuận”. Theo A. Smith, lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của lao động”, theo cách giải thích của A. Smith thì lợi nhuận, địa tô và lợi tức chỉ là những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư. Còn theo D.Ricardo: “ Lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công”, ông coi lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân, như vậy cả A.Smith và D.Ricardo đều chưa đưa ra được một luận chứng về nguồn gốc của lợi nhuận.
Quan điểm của K.Marx về lợi nhuận: Kế thừa những tư tưởng của các nhà kinh tế học cổ điển, kết hợp với việc nghiên cứu sâu sắc nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, K.Marx đã kết luận một cách đúng đắn: “Giá trị thặng dư hay cái phần trội lên trong toàn bộ giá trị hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận”.
Các nhà kinh tế học hiện đại như P.Samuelson và D.Norhaus lại cho rằng:
“ Lợi nhuận là khoản thu dôi ra, bằng tổng số thu trừ tổng số chi” , hay nói cách khác “ Lợi nhuận được định nghĩa là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của một doanh nghiệp và tổng chi phí”. Nhất trí với quan điểm này, D.Begg, S.Fiser và R.D.Bush cho rằng: “Lợi nhuận là khoản dôi ra so với chi phí”.
Các quan điểm trên tuy cách nói có khác nhau nhưng thực tế đều thống nhất rằng: Lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí của doanh nghiệp.
Ngày nay, các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp cho rằng: Lợi nhuận là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập đó. Đây là chỉ tiêu phản ánh kết quả tài chính cuối cùng, là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Các bộ phận cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp.
Theo chế độ kế toán Việt Nam, trước năm 2002, lợi nhuận của doanh nghiệp dước cấu thành từ ba bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động bất thường.
Lợi nhuận từ HĐSXKD: Là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm và chi phí đã bỏ ra của khối lượng hàng hoá, dịch vụ, lao vụ của các hoạt động kinh doanh chính và phụ của doanh nghiệp.
Lợi nhuận từ HĐTC: HĐTC là các hoạt động đầu tư về vốn và tài chính ngắn, dài hạn nhằm mục đích kiếm lời như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh bất động sản, buôn bán ngoại tệ…Lợi nhuận HĐTC là chênh lệch giữa doanh thu HĐTC và chi phí HĐTC.
Lợi nhuận từ HĐBT: Là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí của các hoạt động khác ngoài các hoạt động trên, các hoạt động khác gồm: thanh lý, nhượng bán TSCĐ, xử lí, giải quyết các tranh chấp, về vi phạm hợp đồng kinh tế, về xử lí tài sản thừa thiếu chưa rõ nguyên nhân, về các khoản nợ khó đòi…
Nhưng từ năm 2002 trở đi, theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31-12-2001 về việc ban hành và công bố 04 chuẩn mực kế toán và Thông tư số 89/2002/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính thì lợi nhuận của doanh nghiệp đựoc phân thành 2 bộ phận cơ bản: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và lợi nhuận khác, trong phần phương pháp tính lợi nhuận ta sẽ đề cập rõ hơn tới vấn đề này.
1.3. Phân phối lợi nhuận.
Phân phối lợi nhuận nhằm mục đích chủ yếu là tái đầu tư, mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh, bảo toàm và phát triển vốn, khuyến khích người lao động nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận kinh doanh thực hiện cả năm của doanh nghiệp được phân phối theo thứ tự như sau:
Nộp thuế TNDN theo luật định.
Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước (áp dụng đối với các doanh nghiệp có sử dụng vốn ngân sách Nhà nước).
Trả các khoản tiền phạt, các khoản chi phí hợp lí, hợp lệ chưa chi khi xây dựng thuế thu nhập phải nộp.
Trả các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế.
Trích lập các quỹ đặc biệt theo tỉ lệ do Nhà nước quy định (đối với doanh nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật quy định)
Chi lãi cho đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Trích lập các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp, gồm:
Quỹ đầu tư phát triển: Được dùng để đầu tư, mở rộng và phát triển kinh doanh, đổi mới thay thế hoàn chỉnh máy móc, thiết bị dây chuyền công nghệ; nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho các bộ công nhân viên trong doanh nghiệp; bổ sung vốn lưu động, tham gia liên doanh, mua cổ phiếu, trích nộp cấp trên (nếu có).
Quỹ dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp khoản chênh lệch từ những tổn thất, thiệt hại về tài sản do thiên tai địch hoạ, hoả hoạn, những rủi ro kinh doanh không được tính trong giá thành và đền bù của cơ quan bảo hiểm.
Quỹ trợ cấp mất việc làm: Dùng để trợ cấp cho người lao động có thời gian làm việc tại doanh nghiệp đủ một năm trở lệ bị mất việc làm và chi cho việc đào tạo lại chuyên môn kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ hoặc muốn chuyển sang việc mới, đặc biệt là đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ của doanh nghiệp.
Quỹ phúc lợi: Dùng để đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa các công trình phúc lợi công cộng của doanh nghiệp; góp vốn đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi chung trong ngành hoặc với các đơn vị khác theo hợp đồng thoả thuận; chi cho các hoạt động phúc lợi xã hội, trợ cấp khó khăn thường xuyên, đột xuất cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Ngoài ra, quỹ này còn chi trợ cấp khó khăn cho người lao động của doanh nghiệp đã nghỉ hưu, mất sức, lâm vào hoàn cảnh khó khăn không nơi nương tựa.
Quỹ khen thưởng: Dùng để khen thưởng thường kì hoặc đột xuất cho cán bộ công nhân viên, những cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sáng kiến cải tiến kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh doanh. Quỹ này còn dùng để thưởng cho các cá nhân và đơn vị ngoài doanh nghiệp có quan hệ hợp đồng kinh tế đã thực hiện tốt những điều kiện trong hợp đồng, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp.
1.4. Vai trò của lợi nhuận.
Qua việc nghiên cứu quá trình phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp, ta thấy lợi nhuận không những duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế. Lợi nhuận đáp ứng và kết hợp hài hoà các lợi ích, lợi ích của người lao động, của doanh nghiệp và của Nhà nước. Cụ thể như sau:
1.4.1. Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường, quy luật cạnh tranh dẫn tới sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, bắt buộc các doanh nghiệp phải hoạt động hiệu quả, làm sao để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Vì vậy, lợi nhuận luôn giữ vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp và gia tăng lợi nhuận được coi là một trong những mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận một cách tối đa hay không, nói cách khác: lợi nhuận là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là thước đo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Khi doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao, tức là doanh nghiệp đã đạt được mục tiêu “ tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu”, giá trị tài sản của doanh nghiệp ngày càng tăng, doanh nghiệp có thêm nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất, mở rộng áp dụng công nghệ mới, tăng chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
Mặt khác lợi nhuận của doanh nghiệp sau khi nộp thuế cho Nhà nước và chi trả các khoản phạt và chi phí khác sẽ được dùng để trích lập, phát triển các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp như quỹ đầu tư phát triển, quỹ trợ cấp mất việc làm… Các quỹ này đảm bảo khả năng tự chủ tài chính cho doanh nghiệp trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, tạo sự tín nhiệm cao đối với ngân hàng, các tổ chức tín dụng, có điều kiện thuận lợi hơn trong việc vay vốn, mở rộng kinh doanh, không những ở thị trường trong nước mà còn với thị trường quốc tế.
Lợi nhuận của doanh nghiệp tăng cao là yếu tố khẳng định tính đúng đắn của phương hướng và chiến lược hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, biểu hiện tính năng động và khoa học trong tổ chức lãnh đạo và quản lí doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì sẽ có điều kiện tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất tinh thần, đảm bảo quyền lợi cho người lao động, điều này thúc đẩy họ làm việc, tăng ý thức trách nhiệm, phát huy tính sáng tạo, nhờ đó năng suất lao động được nâng cao, làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy lợi nhuận còn được coi là đòn bẩy kinh tế, kích thích người lao động làm việc hiệu quả hơn cho doanh nghiệp.
1.4.2. Vai trò của lợi nhuận đối với xã hội.
Lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp, ngoài ra đối với xã hội, nó cũng có vai trò không kém phần quan trọng. Trước hết, doanh nghiệp có lợi nhuận cao sẽ có điều kiện hoàn thành tốt nghĩa vụ đóng góp tài chính vào ngân sách Nhà nước qua khoản thuế TNDN, đây là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước, mà ngân sách Nhà nước đảm bảo cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng, mở rộng tái sản xuất xã hôị, tăng cường sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, bằng việc đóng góp một phần lợi nhuận vào ngân sách Nhà nước, doanh nghiệp đã góp phần đảm bảo cho sự đóng góp công bằng, hợp lí, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân, do vậy nếu như mỗi doanh nghiệp có lợi nhuận cao, tức là hoạt động kinh doanh hiệu quả, tình hình tài chính ổn định và tăng trưởng thì sẽ làm cho nền kinh tế đất nước sẽ ổn định và tăng trưởng. Ngoài ra, lợi nhuận còn giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, tạo việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp cho xã hội.
Qua sự phân tích trên ta thấy việc tối đa hoá và gia tăng lợi nhuận có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn xã hội.
1.5. Các nhân tố tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính cuối cùng đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy nó chịu sự tác động của hàng loạt các nhân tố trung gian, cả khách quan lẫn chủ quan, đó là các nhân tố thuộc về thị trường, về chính sách vĩ mô của Nhà nước và bản thân doanh nghiệp. Dưới đây ta xét các nhân tố tác động chủ yếu.
1.5.1. Các nhân tố khách quan.
a. Cung, cầu về sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường.
Cung, cầu hàng hoá là khái quát hai lực lượng người mua và người bán trên thị trường. Cung ở đây là các nhà cung ứng có khả năng và sẵn sàng cung ứng sản phẩm, cầu là các khách hàng sẵn sàng tiêu thụ sản phẩm và có khả năng thanh toán.
Chính cầu về hàng hoá trên thị trường sẽ quyết định lượng cung ứng của doanh nghiệp. Cầu cao sẽ là nhân tố thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng doanh số bán, góp phần tăng lợi nhuận. Nếu cầu vượt quá cung, hàng hoá sẽ trở nên khan hiếm, doanh nghiệp có thể tăng giá bán hàng hoá và lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn. Ngược lại, nếu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp thấp, tình hình cạnh tranh gay gắt sẽ làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm, từ đó giảm doanh thu tiêu thụ, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Cung sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp cũng là yếu tố cần được doanh nghiệp phân tích kỹ. Nếu như sản phẩm của doanh nghiệp có ít nhà cung ứng hoặc trong trường hợp tốt hơn là doanh nghiệp đang độc quyền sản phẩm thì khi cầu về sản phẩm lớn, doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc xác định giá bán và tiêu thụ sản phẩm để đạt doanh thu lớn, góp phần tăng lợi nhuận. Nếu như sản phẩm của doanh nghiệp là một sản phẩm có nhiều đối thủ cạnh tranh thì tất nhiên doanh nghiệp không thể áp đặt giá bán và việc tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Thị trường đầu vào.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, chi phí nguyên vật liệu đầu vào chiếm tỉ trọng cao trong tổng chi phí và có ảnh hưởng lớn đến chi phí sản xuất và do đó ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu như doanh nghiệp tìm được nguồn cung ứng nguyên vật liệu với chất lượng tốt, giá cả phù hợp sẽ giúp cho hạ thấp giá thành sản phẩm, đồng thời đảm bảo chất lượng của sản phẩm bán ra, tạo điều kiện tăng doanh thu, giảm chi phí sản xuất, góp phần tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong trường hợp nguồn cung ứng gặp khó khăn buộc doanh nghiệp phải nhập nguyên vật liệu với giá cao sẽ làm giá thành sản phẩm tăng, làm tăng chi phí sản xuất và giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động của mình, doanh nghiệp cũng phải thanh toán nhiều chi phí dịch vụ mua ngoài thiết yếu như chi phí điện, nước, điện thoại, internet, sửa chữa TSCĐ, tư vấn, kiểm toán, tiếp thị, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm…những chi phí này cũng ảnh hưởng tới chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
c. Môi trường kinh doanh.
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh có tác động mạnh mẽ tới mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và từ đó ảnh tới kết quả kinh doanh và ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Gồm các yếu tố môi trường sau:
* Sự ổn định của nền kinh tế.
Sự ổn định hay không ổn định của nền kinh tế, của thị trường có ảnh hưởng tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ, ảnh hưởng trực tiếp tới mức doanh thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận, bên cạnh đó, những biến động của nền kinh tế có thể gây ra những rủi ro kinh doanh ảnh hưởng đến những khoản chi phí vật tư, chi phí trả lãi, tiền thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị…từ đó tác động xấu tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
* Cơ chế chính sách của chính phủ.
Đây là nhân tố khách quan có tác động mạnh mẽ nhất đến hoạt động của doanh nghiệp. Các cơ chế chính sách của chính phủ tầm vĩ mô đều có tác dụng điều tiết sản xuất, định hướng tiêu dùng, tạo môi trường ổn định cho doanh nghiệp hoạt động. Ở tầm vi mô, những chính sách này có thể sẽ khuyến khích hay hạn chế hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải lường trước những lợi thế cũng như rủi ro do những tác động của các chính sách của chính phủ để ra quyết định phù hợp. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số chính sách vĩ mô ảnh hưởng tới doanh thu và chi phí, từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chính sách thuế:
Thuế là hình thức nộp bắt buộc theo luật định, có tác động điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo tính chất, ngành nghề sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh phải nộp nhiều loại thuế khác nhau: thuế xuất nhập khẩu, VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt…ngoài các khoản thuế doanh nghiệp còn phải nộp một số khoản phí và lệ phí.
Mức thuế suất được Nhà nước quy định tuỳ theo tính chất của từng mặt hàng. Bởi vậy đòi hỏi doanh nghiệp theo dõi thường xuyên vì khi có những thay đổi liên quan tới thuế, phí, lệ phí thì các khoản mục hạch toán của doanh nghiệp cũng thay đổi, từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chính sách lãi suất:
Thông thường, để thực hiện việc sản xuất kinh doanh ngoài vốn tự có doanh nghiệp phải vay thêm vốn. Doanh nghiệp có thể vay vốn bằng cánh phát hành trái phiếu, vay ngân hàng hoặc các tổ chức, cá nhân khác và doanh nghiệp phải trả cho người cho vay một khoản tiền gọi là lãi vay trong từng thời kì nhất định.
Tiền lãi được tính trên cơ sở lãi suất, số tiền gốc và thời hạn vay. Lãi suất cho vay phụ thuộc vào lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định. Khi Ngân hàng Nhà nước thay đổi mức lãi suất cơ bản thì sẽ tác động trực tiếp tới chi phí trả lãi vay, tác động tới toàn bộ chi phí và tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Sự kiểm soát giá:
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả không do Nhà nước kiểm soát mà nó chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu trên thị trường. Doanh nghiệp căn cứ vào tình hình cung cầu trên thị trường mà xây dựng giá bán sản phẩm, Nhà nước chỉ tham gia can thiệp nếu cần thiết. Tuy nhiên, đối với những lĩnh vực then chốt, có vai trò quan trọng, có tính chất chiến lược với nền kinh tế quốc dân như viễn thông, điện lực, xăng dầu… thì Nhà nước sẽ kiểm soát giá. Nếu như doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này thì giá bán sản phẩm phải nằm trong khung giá do Nhà nước quy định. Trong trường hợp các nhân tố khác không thay đổi, thay đổi giá bán có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, từ đó trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.5.2. Các nhân tố chủ quan:
Đây là các nhân tố thuộc về quy mô và năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
a. Vốn:
Vốn là các quỹ tiền mà doanh nghiệp sử dụng vào quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Vốn là chỉ tiêu thể hiện khả năng tài chính và quy mô doanh nghiệp và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là điều kiện để doanh nghiệp mở rộng quy mô, tăng khối lượng sản phẩm làm ra, từ đó góp phần tăng doanh thu, tăng lợi nhuận doanh nghiệp.
Vốn của doanh nghiệp có thể được chia thành vốn chủ sở hữu và vốn vay, tỷ trọng các nguồn này trong tổng nguồn được gọi là cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu vốn có ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp, nếu tỉ trọng vốn vay lớn thì doanh nghiệp sẽ chia sẻ được rủi ro của mình cho các chủ nợ, có khả năng thu lợi nhuận cao, song doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí để trả lãi, nếu doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, trong khi chi phí trả lãi lớn sẽ làm tổng chi phí tăng, từ đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
b.Công nghệ:
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và việc áp dụng công nghệ vào sản xuất kinh doanh là nhân tố cực kì quan trọng cho phép các doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm, năng cao lợi nhuận và thành công trong kinh doanh. Nhất là trong điều kiện hiện nay, cuộc cách mạng khoa học phát triển hết sức mạnh mẽ, các thiết bị máy móc hiện đại được sử dụng trong sản xuất đã thay thế lao động nặng nhọc của con người, việc tiêu tốn nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm càng ít, nhiều loại vật liệu mới ra đời, lượng lao động dùng trong sản xuất cũng giảm bớt do áp dụng tự động hoá và công nghệ mới. Do vậy, các doanh nghiệp phải tuỳ theo điều kiện cụ thể mà nắm bắt thời cơ, ứng dụng thành tựu khoa học kĩ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp.
c. Lao động:
Bên cạnh vốn và công nghệ thì lao động cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trình độ kỹ thuật cao, lành nghề, sáng tạo trong công việc của người lao động sẽ góp phần làm tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp và ngược lại. Chi phí nhân công chiếm tỉ trọng khá lớn trong chi phí sản xuất, nhất là trong các ngành đặc thù như điện lực, viễn thông… Do vậy, chất lượng lao động trong những ngành này càng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
d. Công tác quản lý sản xuất và quản lý tài chính.
Hiệu quả của việc quản lý sản xuất và tài chính có ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Như ta biết, giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm là tuỳ thuộc vào kết quả của việc quản lý tài chính và sử dụng lao động, vật tư trong quá trình sản xuất. Trước hết nếu tổ chức quản lý sản xuất đạt trình độ cao có thể giúp doanh nghiệp xác định được phương án sản xuất tối ưu làm cho giá thành sản phẩm hạ xuống, nhờ vào việc bố trí các khâu sản xuất hợp lí có thể hạn chế sự lãng phí nguyên vật liệu, giảm thấp tỉ lệ phế phẩm, những chi phí về ngừng sản xuất…; đồng thời, thông qua việc tổ chức sử dụng vốn, kiểm tra tình hình dự trữ vật tư, tồn kho sản phẩm, doanh nghiệp có thể phát hiện, ngăn ngừa kịp thời tình trạng ứ đọng, mất mát hao hụt vật tư, sản phẩm… Việc đẩy mạnh tốc độ chu chuyển vốn có thể giảm bớt nhu cầu vốn vay, giúp doanh nghiệp giảm chi phí về lãi vay.
Tất cả các nhân tố trên đều là tác động chủ quan trong công tác quản lý của doanh nghiệp, nếu tổ chức tốt công tác này sẽ làm giảm bớt chi phí sản xuất, góp phần tích cực hạ giá thành sản phẩm nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp.
e. Công tác tổ chức tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Sau khi doanh nghiệp đã sản xuất được sản phẩm hàng hoá, dịch vụ theo quyết định tối ưu về sản xuất thì khâu tiếp theo là phải tổ chức bán nhanh, bán hết và thu tiền về cho quá trình tái sản xuất mở rộng tiếp theo.
Lợi nhuận của quá trình sản xuất kinh doanh chỉ có thể thu được sau khi thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Do đó, tổ chức tiêu thụ khối lượng lớn hàng hoá dịch vụ, tiết kiệm chi phí tiêu thụ sẽ cho ta khả năng thu lợi nhuận cao. Để thực hiện tốt công tác này, doanh nghiệp cần phải nâng cao chất lượng các mặt hàng, tổ chức tốt mạng lưới kênh tiêu thụ sản phẩm, công tác marketing, các phương thức bán và dịch vụ sau bán hàng. Đây là khâu quan trọng và chủ yếu trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, làm tốt khâu này có nghĩa là doanh nghiệp đã thực hiện tốt công việc chính của mình và đưa lại thu nhập cho doanh nghiệp.
Trên đây chúng ta đã tìm hiểu về những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc chia các nhân tố này thành hai nhóm chủ quan và khách quan như trên sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể chủ động điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình, điều chỉnh các yếu tố thuộc bản thân doanh nghiệp để thích ứng với điều kiện khách quan bên ngoài và đạt được kết quả kinh doanh cao nhất, đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và từ đó tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu.
1.6. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.6.1. Phương pháp trực tiếp.
Theo phương pháp này, lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định trực tiếp từ lợi nhuận HĐSXKD, lợi nhuận HĐTC và lợi nhuận HĐBT của doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận được tổng hợp từ ba bộ phận này là lợi nhuận trước thuế (hay thu nhập trước thuế) của doanh nghiệp.
a. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh( Thu nhập trước thuế hoạt động kinh doanh).
Lợi nhuận HĐSXKD là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và chi phí hoạt động kinh doanh. Đây là bộ phận lợi nhuận chủ yếu mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ trong kì, được xác định theo công thức:
LNHĐKD = DT thuần – GVHB – CPBH – CPQLDN
Trong đó:
- LNHĐSXKD: Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh
- DT thuần: Doanh thu thuần.
- GVHB: Giá vốn hàng bán.
- CPBH: Chi phí bán hàng.
- CPQLDN: Chi phí quản lí doanh nghiệp.
± Xác định doanh thu thuần.
Theo Điều 20 - Nghị định 59/CP của Chính phủ ngày 3 tháng 10 năm 1996 ban hành quy chế QLTC và HTKD đối với DNNN: “ Doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, (nếu có chứng từ hợp lệ), thu từ phần trợ giá của Nhà nước khi thực hiện việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của Nhà nước”.
Như vậy: DT thuần = Tổng DT – Các khoản giảm trừ DT
Trong đó:
- DT : Doanh thu
Các khoản = Chiết khấu - Giảm giá - Giá trị hàng - Thuế gián thu
giảm trừ DT bán hàng hàng bán bán bị trả lại thu hộ
Chiết khấu bán hàng: Là số tiền tính trên tổng số doanh thu mà doanh nghiệp trả cho khách hàng do khách hàng đã thanh toán trước thời hạn quy định
Giảm giá hàng bán: Là số tiền doanh nghiệp giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ, do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách… Ngoài ra, còn bao gồm khoản tiền thưởng cho khách hàng đã mua một khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt hay trong một khoảng thời gian nhất định.
Hàng bán bị trả lại: Là số hàng đã được coi là tiêu thụ (đã chuyển giao quyền sở hữu, đã thu được tiền hay được khách hàng chấp nhận thanh toán) nhưng bị người mua từ chối, trả lại do người bán vi phạm hợp đồng kinh tế đã kí kết hoặc do nguyên nhân khác.
Thuế: Gồm các loại thuế như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu…
± Xác định giá vốn hàng bán.
Giá vốn hàng bán phản ánh trị giá gốc của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã được coi là tiêu thụ, được xác định như sau:
- Đối với doanh nghiệp sản xuất:
Giá vốn = Giá thành + Chênh lệch thành
hàng bán sản xuất phẩm tồn kho
Chênh lệch thành = Thành phẩm _ Thành phẩm
phẩm tồn kho tồn kho đầu kì tồn kho cuối kì
Giá thành sản xuất bao gồm 3 yếu tố chi phí: nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
- Đối với doanh nghiệp thương mại:
Giá vốn hàng bán = Giá vốn hàng mua + Chênh lệch HTK
Chênh lệch HTK = HTK đầu kì - HTK cuối kì
Trong đó:
- HTK: Hàng tồn kho.
± Chi phí bán hàng: Là những khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ trong kì như: chi phí nhân viên bán hàng, chi phí khấu hao TSCĐ dùng trong bộ phận bán hàng, các chi phí quảng cáo, tiếp thị…
± Chi phí quản lí doanh nghiệp: Là những khoản chi phí liên quan tới việc tổ chức quản lí, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính( hay thu nhập trước thuế hoạt động tài chính):
Lợi nhuận HĐTC là chênh lệch giữa thu nhập HĐTC và chi phí HĐTC tài chính. Như vậy:
Lợi nhuận HĐTC= Thu nhập HĐTC – Chi phí HĐTC
- Thu nhập hoạt động tài chính: Là những khoản thu từ việc mua bán trái phiếu, cổ phiếu, từ hoạt động liên doanh, liên kết, lãi về cho thuê tài sản…
- Chi phí hoạt động tài chính: Là các chi phí cho việc mua bán chứng khoán, chi phí cho hoạt động liên doanh, hợp doanh, góp vốn cổ phần…
c. Lợi nhuận từ hoạt động bất thường( hay thu nhập trước thuế hoạt động bất thường): Lợi nhuận HĐBT là chênh lệch giữa thu nhập HĐBT và chi phí HĐBT. Như vậy:
Lợi nhuận HĐBT = Thu nhập HĐBT – Chi phí HĐBT
- Thu nhập hoạt động bất thường: Là những khoản doanh nghiệp thu về tiền phạt từ đối tác do bên kia vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi, thu về thanh lí, nhượng bán TSCĐ…
- Chi phí HĐBT: Là những khoản doanh nghiệp phải chi như chi phạt thuế, chi phạt do doanh nghiệp vi phạm hợp đồng, chi cho thanh lí, nhượng bán TSCĐ…
Sau khi đã xác định được lợi nhuận từ 3 hoạt động kinh doanh trên ta tính được lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp như sau:
Lợi nhuận = Lợi nhuận + Lợi nhuận + Lợi nhuận
trước thuế HĐKD HĐTC HĐBT
LNST = LNTT - Thuế TNDN
Thuế TNDN = LNTT * Thuế suất thuế TNDN
Với:
- LNTT: Lợi nhuận trước thuế
- LNST: Lợi nhuận sau thuế
- Thuế TNDN: Thuế thu nhập doanh nghiệp.
* Nhận xét: Cách tính lợi nhuận theo phương pháp trực tiếp rất đơn giản, dễ tính toán, do đó phương pháp này được áp dụng phổ biến và rộng rãi trong các doanh nghiệp sản xuất ít loại sản phẩm. Còn đối với những doanh nghiệp lớn, sản xuất nhiều loại sản phẩm thì phương pháp này không thích hợp bởi khối lượng công việc tính toán sẽ rất lớn, tốn nhiều thời gian và công sức.
1.6.2. Phương pháp gián tiếp.
Theo phương pháp này, lợi nhuận của doanh nghiệp được tính thông qua việc xác định lần lượt các chỉ tiêu sau:
Doanh thu bán hàng.
Các khoản giảm trừ doanh thu
Doanh thu thuần về bán hàng(= 1 - 2)
Giá vốn hàng bán
Lợi nhuận gộp về hoạt động kinh doanh( = 3 - 4)
Chi phí bán hàng
Chi phí quản lí doanh nghiệp
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh(= 5 - 6 - 7)
Thu nhập hoạt động tài chính
Chi phí hoạt động tài chính
Lợi nhuận hoạt động tài c._.hính (= 9 - 10)
Thu nhập hoạt động bất thường
Chi phí hoạt động bất thường
Lợi nhuận hoạt động bất thường (= 12 - 13)
Lợi nhuận trước thuế ( = 8 +11 + 14)
Thuế TNDN ( = 15 * Thuế suất thuế TNDN)
Lợi nhuận sau thuế (= 15 - 16)
* Nhận xét: Cách tính này cho phép người quản lý nắm được quá trình hình thành lợi nhuận và tác động của từng khâu hoạt động tới kết quả hoạt động kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp, đó là lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp (lợi nhuận ròng). Phương pháp này giúp ta có thể lập báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu trên, nhờ đó chúng ta dễ dàng phân tích và so sánh được kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kỳ trước so với kỳ này. Do vậy phương pháp này được sử dụng phổ biến.
Theo Thông tư số 89/2002/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính, lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định như sau:
1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
2. Các khỏan giảm trừ
3. Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ(=1-2)
4. Giá vốn hàng bán
5. Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ(=3- 4)
6. Doanh thu hoạt động tài chính
7. Chi phí tài chính
8. Chi phí bán hàng
9. Chi phí quản lí doanh nghiệp.
10. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh(= 5+6-7-8-9).
11. Thu nhập khác.
12. Chi phí khác.
13. Lợi nhuận khác(=11-12)
14. Tổng lợi nhuận trước thuế(= 10+13).
15. Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
16. Lợi nhuận sau thuế(=14-15).
1.7. Các chỉ tiêu lợi nhuận.
Như trên đã đề cập, lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính và kết quả hoạt động của doanh nghiệp, do đó để đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp người ta thường căn cứ vào các chỉ tiêu về lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong kì, bao gồm cả chỉ tiêu tuyệt đối và chỉ tiêu tương đối.
1.7.1. Các chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối.
Gồm một số chỉ tiêu như:
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ hoạt động tài chính, từ hoạt động bất thường.
Lợi nhuận trước thuế TNDN.
Lợi nhuận sau thuế TNDN.
Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng không thể coi lợi nhuận tuyệt đối là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động kết quả sản xuất kinh doanh và cũng không thể chỉ dựa vào nó để so sánh chất lượng hoạt động giữa các doanh nghiệp khác nhau, vì lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng nên nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố cả chủ quan và khách quan, nếu điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau thì lợi nhuận của các doanh nghiệp khác nhau là không giống nhau, mặt khác các doanh nghiệp cùng ngành nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng sẽ khác nhau.
Do vậy, để đánh giá và so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp thường quan tâm hơn tới các chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận.
1.7.2. Các chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận.
Các chỉ tiêu này phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó nó là cơ sở quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các quyết định tài chính trong cả ngắn hạn và dài hạn. Các chỉ tiêu chủ yếu gồm:
a. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm(tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu).
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu thuần mà doanh nghiệp thực hiện trong kì.
Lợi nhuận sau thuế
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = -------------------------- x 100
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh trong 100 đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp thực hiện trong kì có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để đánh giá chỉ tiêu doanh lợi tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp đạt đựơc cao hay thấp ta phải đặt nó trong một ngành cụ thể và so sánh chỉ tiêu năm nay với các năm trước và với các doanh nghiệp cùng ngành. Nếu chỉ tiêu này cao hơn chỉ tiêu chung của toàn ngành chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác trong ngành.
b. Doanh lợi vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu hay tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn chủ sở hữu.
Lợi nhuận sau thuế
Doanh lợi vốn chủ sở hữu = ------------------------ - x 100
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận sau thuế thu được từ 100 đồng vốn chủ sở hữu, hay nói cách khác chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu do đó nó được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lí tài chính doanh nghiệp. Doanh nghiệp tính chỉ tiêu này để thấy được lợi nhuận ròng do vốn chủ sở hữu đem lại, thấy được hiệu quả sử dụng vốn tự có và phục vụ cho việc phân tích tài chính. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt, phản ánh doanh nghiệp ngày càng hoạt động hiệu quả, song để so sánh với các doanh nghiệp khác cần phải dựa vào mức trung bình ngành.
c. Doanh lợi tài sản
Doanh lợi tài sản hay doanh lợi vốn là chỉ tiêu tổng hợp nhất dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của vốn đầu tư. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế hay lợi nhuận sau thuế dể so sánh với tổng tài sản.
- Với doanh nghiệp sử dụng nợ trong kinh doanh:
Lợi nhuận trước thuế và lãi
Doanh lợi tài sản = ------------------------------------- x 100
Tổng tài sản
- Với doanh nghiệp không sử dụng nợ trong kinh doanh:
Lợi nhuận sau thuế
Doanh lợi tài sản = -------------------------- x 100
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp tính trên 100 đồng giá trị tài sản đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Qua chỉ tiêu này ta có thể đánh giá trình độ sử dụng vốn, quản lí tài sản của doanh nghiệp.
d. Tỷ suất lợi nhuận giá thành.
Tỷ suất lợi nhuận giá thành cho biết 100 đồng giá thành( chi phí) tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất lợi nhuận giá thành giúp ta thấy rõ hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kì.
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận giá thành = --------------------------- x 100
Giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành cả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Chỉ tiêu này có thể tính riêng cho từng loại sản phẩm, từng hạng mục công trình cũng như tính chung cho toàn bộ sản phẩm, dịch vụ. Từ kết
quả tính toán này, doanh nghiệp có thể định hướng xem mặt hàng nào đạt mức lợi nhuận cao và tìm biện pháp để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận.
Ngoài các chỉ tiêu chủ yếu trên, xuất phát từ những mục đích khác nhau của các doanh nghiệp, và những đối tượng sử dụng thông tin mà doanh nghiệp có thể xây dựng những chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận khác nhau, có ý nghĩa khác nhau như: tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh, tỷ suất lãi gộp trên doanh thu…
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ TÌNH HÌNH LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY XÂY LẮP ĐIỆN I
2.1. Giới thiệu khái quát về công ty xây lắp điện I (CTXLĐ I)
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của CTXLĐ I.
CTXLĐ I là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng công ty (TCT) xây dựng Công nghiệp Việt Nam (Bộ công nghiệp), là một trong những đơn vị hàng đầu của ngành xây lắp Việt Nam, chuyên về xây dựng, lắp đặt và cung ứng trang thiết bị vật tư phục vụ ngành điện. Trụ sở của công ty đặt tại Số 18 - Lý Văn Phúc - Phường Cát Linh - Q. Đống Đa – Hà Nội, tên giao dịch của công ty là Power Construction Company No 1 (viết tắt là PCCI)
Tiền thân của CTXLĐ I là Công ty Xây lắp Đường dây và trạm I, trực thuộc Bộ Công nghiệp nặng, ra đời ngày 03/02/1963, với nhiệm vụ chính là xây dựng đường dây tải điện và trạm biến áp.
Ngày 10/01/1988, CTXLĐ I được thành lập do sự hợp nhất của hai công ty: Công ty Xây lắp Đường dây và trạm I, Công ty Xây lắp Đường dây và trạm khu vực Hà Nội, theo Quyết định số 346/NL/TCCBNL của Bộ Năng lượng. Ngày 19/06/1993, công ty được thành lập lại theo quyết định số 346/NL/TCCBLĐ của Bộ Năng lượng về việc thành lập lại doanh nghiệp nhà nước.
Ngày 21/07/1995, Chính phủ ban hành Nghị định Số 14/CP về việc thành lập Tổng công ty Điện lực Việt Nam, hoạt động theo mô hình Công ty 91 với nhiều công ty thành viên thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, trong đó có CTXLĐ I.
Tháng 3/1997, CTXLĐ I ký kết liên doanh với công ty KINDEN của Nhật Bản để thành lập công ty liên doanh VINA - KINDEN.
Ngày 01/01/1999, do yêu cầu quản lý, công ty được tách khỏi TCT Điện lực Việt Nam và trở thành một công ty thành viên của TCT Xây dựng Công nghiệp Việt Nam (Trực thuộc Bộ Năng lượng).
Ra đời trong cơ chế bao cấp, cũng là thời kì nước nhà đang phải đương đầu với công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và xây dựng CNXH, công ty đã trải qua muôn vàn khó khăn và thử thách, nhất là chịu những tác động tiêu cực của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài. Đặc biệt vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90, khi Đảng và nhà nước ta đang có chủ trương bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường, cũng thời kì này phe XHCN và Liên Xô tan rã, nền kinh tế nước nhà lâm vào thời kỳ có nhiều yếu tố biểu hiện của sự khủng hoảng kinh tế. Trong hoàn cảnh đó cũng như nhiều doanh nghiệp khác, CTXLĐ I càng gặp nhiều khó khăn hơn. Tuy vậy với sự lãnh đạo sáng suốt của ban lãnh đạo công ty, và sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên (CBCNV), công ty vẫn đứng vững và phát triển. Đặc biệt vào đầu năm 1992, được sự tín nhiệm của Đảng và Nhà nước, CTXLĐ I được nhận nhiệm vụ khởi công xây dựng công trình Đường dây 500 KV Bắc- Nam và công ty đã hoàn thành xuất sắc, ngày 30/04/1994 lễ khành thành Đường dây 500 KV Bắc – Nam cùng với sự đăng quang của công ty đã đánh dấu một bước phát triển mới của CTXLĐ I .
Phát huy những thành quả, kế thừa những kinh nghiệm, uy tín mà TCT đạt được trong thị trường xây dựng, CTXLĐ I đã xác định mục tiêu chủ yếu là xây lắp các công trình, do vậy doanh thu của công ty có nguồn chủ yếu là từ hoạt động xây lắp điện. Hơn 40 năm qua, công ty đã trưởng thành và lớn mạnh cùng với sự phát triển của ngành Điện Việt Nam, công ty luôn hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao, đạt được nhiều thành quả quan trọng, góp phần phát triển và hoàn thiện mạng lưới điện quốc gia. Cụ thể công ty đã xây dựng được:
- 341 km đường dây 500kv ( đoạn Hoà Bình – Hà Tĩnh)
- 5000 km đường dây, 2000 trạm biến áp từ 6 – 10 kv
- 2000 km đường dây, 560 trạm biến áp 35 kv
- 2000 km đường dây, 30 trạm biến áp 110kv
Không chỉ có uy tín trong nước mà công ty còn tạo được sự tín nhiệm của các nhà đầu tư nước ngoài, công ty đã tham gia xây lắp hệ thống điện chiếu sáng cho các khu công nghiệp, nhà máy, khách sạn, bệnh viện như khu công nghiệp Nomura - Hải Phòng, khu chế xuất Nội Bài, nhà máy xi măng Chinfon-Hải Phòng, khách sạn Hà Nội Plaza, nhà máy bơm Ebara-Hải Dương, khách sạn Nikko, bệnh viện Bạch Mai… Việc ký kết liên doanh với công ty KINDEN- Nhật Bản vào năm 1997 đã mở ra thời kỳ phát triển mới trong quan hệ hợp tác của công ty với công ty nước ngoài.
Hiện nay, toàn công ty có 6 đơn vị thành viên và các đội, trạm trực thuộc là các đơn vị trực tiếp thi công công trình:
- Xí nghiệp cơ giới và xây dựng điện (Hà Tây)
- Xí nghiệp vật liệu và xây dựng điện (Thanh Xuân)
- Xí nghiệp dịch vụ và xây lắp điện (Thanh Xuân)
- Xí nghiệp xây lắp điện và nội thất (Từ Liêm)
- Xí nghiệp xây lắp và công trình công nghiệp ( Mai Động)
- Trung tâm tư vấn và xây dựng điện I( Số 18- Lý Văn Phúc- Hà Nội
Cùng với tiến trình phát triển của nền kinh tế nước nhà, CTXLĐI đã tự hoàn thiện mình, công ty đã đầu tư thêm máy móc thiết bị mới, luôn chú trọng tới công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho CBCNV, công ty đã xây dựng thành công nhiều công trình trọng điểm, có quy mô lớn, đã khẳng định được vị thế của mình trong toàn ngành cũng như trong nền kinh tế đất nước.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của CTXLĐ I
2.1.2.1. Chức năng của công ty.
CTXLĐ I là một doanh nghịêp nhà nước, có tư cách pháp nhân, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản tại ngân hàng, có con dấu riêng, hoạt động theo pháp luật và phân cấp của TCT Xây dựng Công nghiệp Việt Nam. Nghị định 15/CP, ngày 2/3/1993 của Chính phủ đã quy định rõ chức năng của công ty như sau:
Xây lắp các công trình đường dây tải điện và trạm biến thế.
Xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng .
Sản xuất cấu kiện kim loại, bê tông, vật liệu xây dựng, phụ kiện điện phục vụ nhu cầu xây dựng ngành điện.
Vận tải phục vụ sản xuất kinh doanh trong và ngoài ngành.
Tư vấn về xây dựng.
Kinh doanh ngành nghề khách sạn.
Thí nghiệm, hiệu chỉnh thiết bị điện trong quá trình xây lắp.
CTXLĐ I được TCT Xây dựng Công nghiệp Việt Nam và Nhà nước giao vốn và tài sản. Công ty có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, được huy động mọi nguồn vốn theo quy định của pháp luật, khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực để phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát huy quyền làm chủ của tập thể người lao động, công ty được phép liên doanh liên kết với các công ty trong và ngoài nước, thực hiện đấu thầu quốc tế.
2.1.2.2. Nhiệm vụ của công ty.
* Về đầu tư phát triển: Công ty lập và trình TCT Xây dựng công nghiệp Việt Nam kế hoạch đầu tư phát triển, đôỉ mới công nghệ và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuẩn bị sản xuất và tổ chức thực hiện các dự án mới khả thi.
* Về kế hoạch và tổ chức thực hiện: Công ty có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch ngắn, trung và dài hạn, kế hoạch hàng năm trình TCT Xây dựng Công nghiệp Việt Nam xét duyệt, trên cơ sở các loại kế hoạch được TCT Xây dựng Công nghiệp Việt Nam duyệt, công ty giao kế hoạch và chỉ đạo cho các đợn vị nội bộ tổ chức thực hiện.
* Về hoạt động tài chính và hạch toán kế toán:
Công ty có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch tài chính, kế hoạch tín dụng phù hợp với các kế hoạch sản xuất. Công ty được phép giữ lại khấu hao TSCĐ để tái đầu tư, được mua cổ phiếu theo quy định của pháp luật, được phép đăng ký cổ phần hoá hoặc cổ phần hóa một bộ phận công ty. Hoàn thành thu nộp cho TCT Xây dựng Công nghiệp Việt Nam và cho Nhà nước
* Về tổ chức cán bộ, lao động, đào tạo:
- Dựa trên cơ sở yêu cầu của nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh và tiêu chuẩn cán bộ để quy hoạch, lập kế hoạch đào tạo nhằm bố trí sử dụng tốt các nguồn lực hiện có.
- Đối với người lao động, công ty thực hiện chế độ hợp đồng lao động và thoả ước lao động theo Luật lao động.
- Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, công ty phải thường xuyên tập huấn và kiểm tra quy phạm kỹ thuật, an toàn lao động, tổ chức thực hiện các chức danh viên chức nhà nước, áp dụng các định mức kinh tế kỹ thuật của Nhà nước vào nội bộ.
- Căn cứ vào kế hoạch sản xuất hàng năm, công ty lập kế hoạch lao động tiền lương, bảo hộ lao động, chi trả và kiểm tra việc chi trả lương cho CBCNV, trình duyệt quyết toán tiền lương với các cơ quan chức năng. Hàng năm hoặc đột xuất công ty thực hiện việc khen thưởng cho CBCNV có thành tích trong việc phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, có thành tích trong sản xuất và công tác.
* Về quản lý kỹ thuật, an toàn:
- Công ty tổ chức thực hiện tốt quy trình quy phạm thi công do Nhà nước và TCT ban hành.Từng công ty phải xây dựng phương án tổ chức thi công nhằm đảm bảo chất lượng, tiến độ và an toàn cho người và máy móc thiết bị, có phương án bảo vệ môi trường, phòng chống cháy nổ.
- Công ty lập kế hoạch nghiên cứu áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến ở trong nước và quốc tế vào sản xuất, thi công.
- Chấp hành chế độ báo cáo thường xuyên, định kỳ về an toàn cũng như những sự cố đột xuất xảy ra một cách trung thực và khách quan.
- Thực hiện chế độ thanh tra kiểm tra an toàn lao động thường xuyên hoặc đột xuất.
* Về vật tư, thiết bị: Công ty có nhiệm vụ tổ chức mua vật tư, thiết bị phục vụ cho kế hoạch sản xuất kinh doanh với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, phải theo nguyên tắc đấu thầu, chọn thầu chào giá cạnh tranh nhằm thực hiện việc mua bán vật tư với chất lượng cao, giá thành hạ.
* Về thanh tra bảo vệ: Lập kế hoạch và thường xuyên kiểm tra cũng như diễn tập các phương án phòng chống chấy nổ, bảo vệ an ninh nội bộ, kết hợp tốt với các cơ quan chức năng nơi đơn vị đóng quân.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của CTXLĐ I
Khi mới thành lập, với tư cách là đơn vị chuyên ngành, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế và tổng hợp bộ máy của công ty khá đồ sộ với số lượng CBCNV gần 4000 người. Qua một quá trình phát triển bộ máy công ty đã được cơ cấu lại phù hợp và hiệu quả hơn. Cho tới nay tổng số CBCNV của công ty là 1868 người, trong đó nhân viên quản lý là 413 người.
Là đơn vị thi công xây lắp chịu sự chỉ đạo của TCT Xây dựng công nghiệp Việt Nam, ngoài các phòng ban chức năng công ty còn có các xí nghiệp hạch toán phụ thuộc và các đội công trình trực thuộc công ty. Cơ cấu tổ chức của công ty được thể hiện qua sơ đồ sau: (Trang bên)
Công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng, đứng đầu là Giám đốc, giúp việc cho Giám đốc là 3 Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật, nội chính, kinh tế và kế toán trưởng. Còn các phòng ban và các đơn vị trực thuộc thì chịu sự điều hành quản lý chung của giám đốc về kết quả công việc được giao. Giám đốc là người chiụ trách nhiệm quản lý chung toàn công ty và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của công ty trước TCT. Các phó giám đốc và kế toán trưởng là người quản lý từng lĩnh vực cụ thể của công ty theo sự phân công của giám đốc và chịu trách nhiệm trước giám đốc về lĩnh vực được giao.
Các phòng ban, xí nghiệp và các đội trực thuộc công ty được phân chia trách nhiệm như sau:
Văn phòng: Có nhiệm vụ thực hiện các nghiệp vụ văn thư, tổ chức lưu trữ hồ sơ, tài liệu của toàn công ty, quản lý và sử dụng con dấu. Ngoài ra còn hướng dẫn, kiểm tra các nghiệp vụ văn thư lưu trữ cho các đơn vị trực thuộc.
Phòng kế hoạch tổng hợp: Có chức năng lập kế hoạch sản xuất kinh doanh theo tháng, quí, năm và giám sát việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo kế hoạch, lập dự toán tham gia đấu thầu, dự toán khối lượng các công trình. Ngoài ra còn có nhiệm vụ tìm kiếm các hoạt động tới công việc cho công ty và phụ trách quảng cáo, giới thiệu về công ty.
Phòng kỹ thuật: Thực hiện giám sát kiểm tra kỹ thuật công trình, nhằm đảm bảo chất lượng, lập các bản thiết kế, tính toán công trình nhắm đảm bào tiến độ thi công và an toàn lao động.
Phòng tổ chức lao động: Hàng tháng, quí tổng kết, duyệt đơn giá tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội cho công nhân viên. Cân đối kế hoạch tuyển dụng lao động, tổ chức quản lý nhân sự, bố trí và sắp xếp lao động trong công ty.
Phòng Tài chính – Kế toán: Có trách nhiệm tổng hợp, ghi chép kịp thời mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phát sinh trong toàn công ty. Có trách nhiệm áp dụng đúng chế độ kế toán hiện hành về tổ chức chứng từ, tài khoản, sổ sách kế toán và lập các báo cáo tài chính, đôn đốc nợ của khách hàng và lập kế hoạch về tài chính.
Phòng vật tư: Cung ứng vật tư, phụ tùng đúng số lượng, chất lượng, chủng loại kịp thời cho các dơn vị thi công , chỉ định nguồn, duyệt giá trần, mua các vật liệu cho các tổng đội thực hiện công trình công ty giao.
Phòng an toàn: Tổ chức các đơn vị, tổ đội thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn trong sản xuất kinh doanh và xây dựng công trình. Xây dựng phương án thi công nhằm đảm bảo an toàn cho người cùng máy móc thiết bị. Tổ chức các lớp bồi dưỡng cho CBCNV về thực hiện an toàn lao động.
Ngoài ra công ty còn có trạm xá và ban thanh tra riêng. Trạm xá có trách nhiệm điều dưỡng và chăm sóc sức khoẻ cho CBCNV trong toàn công ty. Ban thanh tra có nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo trong công ty và giải quyết các tranh chấp hợp đồng lao động, kiểm tra việc thực hiện các quy chế, nội quy trong công ty.
Các xí nghiệp trực thuộc là các đơn vị thực hiện chế độ hạch toán phụ thuộc, trong mỗi xí nghiệp đều có một giám đốc phụ trách chung, xí nghiệp được phân thành các tổ, đội xây lắp. Đứng đầu các tổ, đội là tổ trưởng, đội trưởng, dưới đội, tổ trưởng là các tổ viên - là những người công nhân trực tiếp xây dựng.
Chức năng, nhiệm vụ chính của các xí nghiệp là xây lắp điện, ngoài ra tuỳ thuộc và đặc điểm riêng mà mỗi xí nghiệp, tổng đội có các chức năng, nhiệm vụ như sau:
Xí nghiệp cơ giới và xây dựng điện: Có nhiệm vụ sản xuất, gia công cơ khí, phục vụ cho nhu cầu xây lắp điện.
Xí nghiệp vật liệu và xây dựng điện: Có nhiệm vụ sản xuất vật liệu xây dựng
Xí nghiệp dịch vụ và xây lắp điện: Có nhiệm vụ kinh doanh khách sạn Nàng Hương và các dịch vụ khác như ăn uống, du lịch, phục vụ cho các nhân viên trong và ngoài công ty.
Trung tâm tư vấn xây dựng điệnI: Có nhiệm vụ tư vấn về đấu thầu, về khảo sát, thiết kế, giám sát thi công .
Các đội xây lắp điện 1,2,3,5,8 và các đội trạm: Có nhiệm vụ chính là xây lắp đường dây và trạm biến thế, là lực lượng dự bị chiến lược bổ sung đáp ứng cho nhu cầu đột xuất khi TCT và Nhà nước yêu cầu hoặc khi các xí nghiệp thành viên không hoàn thành công trình đúng tiến độ.
Như vậy, mỗi phòng ban trong công ty đều có chức năng, nhiệm vụ riêng song giữa chung luôn có sự liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ban giám đốc công ty. Qua một chặng đường phát triển, bộ máy tổ chức quản lí của công ty đã được cải tiến, sắp xếp lại ngày càng hiệu quả hơn, thuận lợi hơn trong công tác quản lý và phân công lao động cũng như tăng tính chuyên môn hoá sản xuất của các xí nghiệp, nâng cao năng suất lao động của công ty.
2.1.4. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của CTXLĐ I.
2.1.4.1. Ngành nghề kinh doanh.
CTXLĐ I là một doanh nghiệp có hình thức sở hữu vốn là sở hữu nhà nước, hình thức hoạt động là xây dựng cơ bản, lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là:
- Xây lắp các công trình đường dây tải điện và trạm biến thế.
Xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng .
- Sản xuất cấu kiện kim loại, bê tông, vật liệu xây dựng, phụ kiện điện phục vụ nhu cầu xây dựng ngành diện.
Vận tải phục vụ sản xuất kinh doanh trong và ngoài ngành.
Tư vấn về xây dựng.
Kinh doanh ngành nghề khách sạn.
Thí nghiệm, hiệu chỉnh thiết bị điện trong quá trình xây lắp.
2.1.4.2. Đặc điểm sản phẩm và quy trình công nghệ.
a. Đặc điểm sản phẩm xây lắp của công ty.
Là một doanh nghiệp chuyên về xây dựng và lắp đặt các công trình phục vụ cho ngành điện, dân dụng và công nghiệp, sản phẩm chính của công ty là các công trình xây lắp, có những đặc điểm chung sau:
- Sản phẩm mang tính đơn chiếc và thường là những công trình lớn, xây dựng và sử dụng tại chỗ, một công trình xây lắp thường đi qua nhiều địa phương, do vậy phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện của địa phương, đặc điểm này cũng làm cho sản xuất xây lắp có tính chất lưu động cao, thiếu ổn định.
- Có tính đa dạng và cá biệt cao về công dụng, về cách cấu tạo. Mỗi sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật, hình thức, mẫu mã khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng, của chủ đầu tư, để thực hiện công trình công ty thường phải tiến hành các giai đoạn khảo sát, thiết kế, thi công…
- Mỗi một sản phẩm xây lắp thường có vốn đầu tư và nhân công lớn, thời gian hoàn thành lâu dài.
- Sản phẩm xây lắp có liên quan và ảnh hưởng rất lớn tới tổ chức sản xuất và quản lí kinh tế của nhiều ngành, cả về phương diện cung cấp nguyên vật liệu cũng như phương diện sử dụng sản phẩm của ngành xây dựng làm ra.
b. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất:
Sản phẩm chính của công ty là các đường dây và trạm biến áp. Mỗi công trình đều có dự toán, thiết kế riêng, địa điểm thi công khác nhau nhưng đều được thực hiện tuần tự qua các giai đoạn như sau:
Giai đoạn 2:
Thi công
Phần I : Phần móng
Phần III : Phần kéo dây và lắp đặt
Phần II :
Phần cột
Giai đoạn 1:
Khảo sát và thiết kế
2.1.4.3. Đặc điểm công tác tổ chức sản xuất xây lắp của CTXLĐ I
a. Những đặc điểm xuất phát từ tính chất của sản phẩm xây lắp.
Tình hình và điều kiện sản xuất trong xây dựng thiếu ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng và giai đoạn xây dựng. Cụ thể là trong xây dựng công nhân và công cụ lao động luôn phải di chuyển từ công trình này tới công trình khác, do vậy các phương án xây dựng về mặt kỹ thuật và tổ chức sản xuất của công ty luôn phải được hoạch định trước kĩ lưỡng, phù hợp theo từng địa phương và giai đoạn xây dựng. Để khắc phục những khó khăn này, công ty phải tổ chức sao cho tăng tính cơ động, linh hoạt, gọn nhẹ về mặt trang thiết bị, giảm chi phí cho khâu vận chuyển, tận dụng tối đa lực lượng sản xuất tại chỗ và liên kết tại chỗ để tranh thầu xây dựng.
- Chu kì sản xuất sản phẩm dài và việc thanh toán được thực hiện theo hạng mục công trình, do đó công tác nghiệm thu các hạng mục công trình hoàn thành phải nhanh chóng.
Sản xuất xây dựng tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường hợp cụ thể, thông qua hình thức kí hợp đồng sau khi thắng thầu, các sản phẩm này không thể sản xuất sẵn để bán, yêu cầu công ty phải định giá sản phẩm xây dựng trước khi làm ra, hình thức đấu thầu và giao nhận thầu cho từng công trình đã trở nên phổ biến. Do vậy công ty cần chú ý tới việc nâng cao năng lực và uy tín để giành thắng lợi trong kinh doanh.
Đặc điểm xuất phát từ điều kiện tự nhiên và kinh tế Việt Nam.
- Ảnh hưởng rõ nhất của điều kiện tự nhiên Việt Nam lên hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa mưa và khô rõ rệt. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chủ yếu là tiến hành ngoài trời nên bị ảnh hưởng của khí hậu, thường bị gián đoạn do những thay đổi bất thường của thời tiết. Đặc điểm này yêu cầu CTXLĐ I phải chú ý tới nhân tố rủi ro do thời tiết khi lập tiến độ thi công, tìm cách hoạt động đều đặn, bảo đảm độ an toàn của người lao động và máy móc trong quá trình thi công, đặc biệt quan tâm tới điều kiện làm việc của công nhân, phát triển phương pháp xây dựng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa.
- Về nền kinh tế Việt Nam, trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế lĩnh vực CN & XDCB cũng có những biến chuyển quan trọng, tuy nhiên thực tế thì tốc độ phát triển của lĩnh vực này còn thấp, máy móc nhìn chung còn lạc hậu, sự phát triển giữa các địa phương có sự chênh lệch khá lớn...điều này đỏi hỏi công ty phải có kế hoạch thi công chi tiết khi xây dựng các công trình đi qua nhiều đại phương, sao cho phù hợp và tận dụng được các nguồn lực tại chỗ.
2.2. Thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh và tình hình lợi nhuận của CTXLĐ I
2.2.1. Khái quát về kết quả hoạt động kinh doanh của CTXLĐ I từ năm 2001 đến năm 2003.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, các DNNN nói chung và CTXLĐ I nói riêng phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh mẽ của các doanh nghiệp kinh doanh khác cùng ngành.Trong 3 năm gần đây tình hình hoạt động của công ty khá hiệu quả và ngày càng tăng trưởng. Để có được một cái nhìn toàn diện về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, chúng ta sẽ phân tích khái quát về tình hình tài sản, nguồn vốn và kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm qua.
2.2.1.1. Đánh giá về nguồn vốn của công ty.
Như chúng ta đã biết, vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, nó là yếu tố cơ bản không thể thiếu được trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh, là nguồn lực tài chính tài trợ cho mọi hoạt động của doanh nghiệp được liên tục phát triển. Do vậy, bảo toàn và phát triển vốn là một mục tiêu quan trọng, nó hỗ trợ cho mục tiêu tồn tại và tăng trưởng của mỗi doanh nghiệp ngày nay. Xuất phát từ vai trò quan trọng của vốn, trước tiên ta sẽ xem xét về tình hình nguồn vốn và huy động vốn của công ty.
Qua bảng 01: Nguồn vốn của công ty, ta nhận ra ngay rằng tổng nguồn vốn của công ty khá lớn và không ngừng tăng trưởng qua các năm, từ năm 2001 tới năm 2003. Nếu như nguồn vốn của công ty năm 2001 là gần 243 tỷ đồng thì tới năm 2003 con số này đã lên tới gần 365 tỷ đồng, tăng gần 122 tỷ đồng, tương ứng với tỉ lệ là 50,14%. Qua đó chứng tỏ công tác huy động vốn của công ty được tổ chức khá tốt, đáp ứng được mục tiêu tăng trưởng và phát triển của công ty.
Nguồn vốn của công ty được huy động từ hai nguồn cơ bản: nợ và nguồn vốn chủ sở hữu, trong đó nợ chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu vốn của công ty và có xu hướng tăng dần qua các năm(bảng 02), điều đó cho thấy công ty sử dụng chủ yếu là vốn đi vay để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Bảng 02: Cơ cấu nguồn vốn của CTXLĐ I
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
1.
Nợ phải trả
Tr.đ
177.134
236.327
294.638
2.
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tr.đ
65.956
66.471
70.345
3.
Tổng nguồn vốn
Tr.đ
243.090
302.798
364.983
4.
Hệ số nợ (1/3)
%
72,87
78,05
80,73
5.
Hệ số tự tài trợ (2/3)
%
27,13
21,95
19,27
Nguồn: Báo cáo tài chính, P. Tài chính - Kế toán, CTXLĐ I
Về nguồn nợ vay, công ty huy động từ nhiều nguồn khác nhau: vay ngân hàng, phải trả nhà cung cấp, người mua trả tiền trước, nguồn phải trả công nhân viên và một số khoản phải nộp khác, trong đó nợ ngắn hạn chiếm tỉ trọng lớn: năm 2001 chiếm 88,38% tổng nợ phải trả (=156.548/177.134), tới năm 2003 đã chiếm tới 93,63%. Trong nguồn nợ ngắn hạn thì công ty sử dụng nguồn vay ngắn từ ngân hàng là chính (chiếm 133.989/275.877 = 50,7% nợ ngắn hạn - năm 2003). Thực trạng này là do mức tăng trưởng của công ty trong thời gian này khá mạnh, cần phải tăng vốn lưu động để tài trợ cho hoạt động của mình, song vốn chủ sở hữu của công ty nhỏ, Nhà nước cấp vốn hạn chế, do đó công ty phải tăng cường đi vay, đặc biệt là vay ngân hàng.
Tuy nhiên, ta thấy rằng với tỉ trọng nợ cao như vậy, công ty sẽ có nguy cơ gặp rủi ro thanh toán - một trong những rủi ro tài chính mà mỗi doanh nghiệp phải đặc biệt lưu tâm. Đứng trước rủi ro này, nếu nhà quản trị tài chính không có biện pháp hợp lí, kịp thời thì khả năng phá sản là không thể tránh khỏi với doanh nghiệp. Đối với công ty, đây cũng là mối quan tâm đặc biệt của các nhà quản lí tài chính và lãnh đạo công ty. Khả năng thanh toán của công ty được thể hiện qua một số chỉ tiêu chính sau: (bảng 03).
Qua bảng 03 ta thấy, nhìn chung khả năng thanh toán của công ty là tốt (tỷ suất thanh toán hiện hành lớn hơn 1 khá nhiều), nhưng tỷ suất khả năng thanh toán nhanh nhỏ hơn nhiều so với khả năng thanh toán chung, điều đó cho thấy tỉ trọng hàng tồn kho của công ty là lớn. Tỷ số thanh toán nhanh xấp xỉ bằng 1
Bảng 03: Một số tỷ suất thanh toá._.hiện.
- Tập trung đổi mới công nghệ sản xuất, đổi mới và hoàn thiện các tiêu chuẩn chất lượng sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của công ty trong từng giai đoạn nhất định; ban hành quy chế nghiêm ngặt về quản lí hành chính, kỹ thuật sản xuất, công tác định mức và tiêu chuẩn hoá.
- Thực hiện thanh tra, kiểm tra có hiệu quả, kiểm tra, nghiệm thu theo từng bước công việc (Từ kiểm tra hồ sơ dự thầu đến nghiệm thu kết quả cuối cùng trước khi bàn giao công trình)
b. Hoàn thành đúng tiến độ thi công xây lắp
Đây là yếu tố vô cùng quan trọng tạo uy tín cho công ty trước các khách hàng tiềm năng cũng như các khách hàng truyền thống. Kế hoạch sản xuất xây lắp là nội dung cơ bản của hệ thống kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính thống nhất của doanh nghiệp xây lắp bởi nó là mục tiêu hành động của doanh nghiệp, là chỗ dựa cơ bản để lập các kế hoạch khác, là căn cứ chủ yếu để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Do đó việc phân tích tình hình hoàn thành kế hoạch sản xuất là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng giúp doanh nghiệp hoàn thành cân đối và vững chắc kế hoạch sản xuất thi công của mình.
Cùng một lúc công ty có thể nhận thầu thi công một hay nhiều công trình khác nhau, mỗi công trình thường bao gồm nhiều hạng mục công trình, trong đó có hạng mục công trình được coi là chủ yếu và có hạng mục công trình được coi là thứ yếu trong từng kỳ kinh doanh, để hoàn thành kế hoạch sản xuất thi công được đồng bộ, đúng hạn đối với từng hạng mục công trình công ty cần phải đảm bảo thi công cân đối về khối lượng giữa các hạng mục công trình chủ yếu. Việc hoàn thành bàn giao công trình, hạng mục công trình để nhanh chóng đưa vào sử dụng là nhiệm vụ rất quan trọng, nó thể hiện đầy đủ, tập trung nhất việc thực hiện hợp đồng kinh tế giữa công ty với các đơn vị giao thầu. Sau mỗi lần bàn giao công trình, ban lãnh đạo công ty cần đúc rút kinh nghiệm trong việc cải tiến và lập tiến độ thi công, nhằm rút ngắn thời gian xây dựng, nhanh chóng bàn giao công trình và đưa vào khai thác, sử dụng. Muốn rút kinh nghiệm, trước hết phải đi sâu tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới việc khởi công chậm và những nguyên nhân làm kéo dài thời gian thi công đối với từng công trình như: hồ sơ thiết kế, chỉ đạo thi công chưa phù hợp, không hoàn thành khối lượng xây lắp trong từng thời kì thi công, có sự mất cân đối trong thi công... tuy nhiên do tính chất phức tạp của công trình XDCB, việc hoàn thành khối lượng sản xuất xây lắp chịu sự tác động của rất nhiều các nhóm nhân tố khác nhau như: nhân tố thuộc về lực lượng sản xuất, nhân tố thuộc về tư tưởng tổ chức và chỉ đạo thi công, nhân tố thuộc về thời tiết và các nhân tố khác. Bởi vậy việc tìm hiểu, đánh giá đúng nguyên nhân làm chậm tiến độ hoàn thành công việc cũng gặp nhiều khó khăn.
Để thực hiện đúng kế hoạch sản xuất xây lắp mà công ty đã đề ra thì trong các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo thi công phải quán triệt đầy đủ và đúng đắn sau:
Thi công phải tập trung dứt điểm, thi công phải nhịp nhàng về thời gian.
Phổ biến rộng rãi về tiến độ thi công và thời gian hoàn thành, bàn giao công trình. Thường xuyên đánh giá mức độ hoàn thành công trình. Tổ chức tốt công tác thu mua nguyên vật liệu ở mức cần thiết đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất.
Đưa ra các chính sách khuyến khích, đôn đốc người lao động tăng năng suất lao động để đảm bảo đúng tiến độ thi công.
Phải kết hợp đúng đắn lợi ích của công ty với lợi ích của các đơn vị chủ quản công trình và lợi ích của các đơn vị, tổ chức khác có liên quan. Công ty cần phải cân nhắc giữa việc điều chuyển và đi thuê ngoài (về nhân công, máy móc, thiết bị, dàn giáo, cốp pha,...) sao cho vừa đảm bảo tiến độ thi công vừa tối thiểu hoá chi phí. Nếu việc điều chuyển nguồn lực của công ty có chi phí thấp hơn nhưng lại không góp phần đảm bảo đúng tiến độ thi công thì công ty cũng không nên điều chuyển mà nên đi thuê những nguồn lực tại địa điểm thi công công trình bởi vì phần chi phí chênh lệch giữa việc điều chỉnh và đi thuê chắc chắn sẽ được bù đắp do vòng quay vốn tăng làm tăng doanh thu.
- Việc chuẩn bị tốt công tác ký kết hợp đồng kinh tế với các đơn vị mua, xuất giao hàng nhanh chóng sau khi sản phẩm được sản xuất xong, kịp thời lập các chứng từ thanh toán dưới nhiều hình thức thích hợp, tính toán chính xác khối lượng sản xuất, khối lượng xây lắp hoàn thành... Tất cả những công việc đó đều làm tăng tốc độ quá trình nghiệm thu và bàn giao công trình hoàn thành và thanh quyết toán hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư, có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao doanh thu cho công ty.
c. Đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm hợp đồng xây dựng.
Một trong những vấn đề quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp xây dựng trong cơ chế thị trường là phải giành được lợi thế cạnh tranh để có thể kí được nhiều hợp đồng xây dựng có lợi nhuận cao. Vì thế, hoạt động tìm kiếm hợp đồng xây dựng có thể xem như là một trong những hoạt động chủ yếu, có vai trò quan trọng của doanh nghiệp xây dựng. Nếu hoạt động này đạt được kết quả tốt, thì các hoạt động khác của doanh nghiệp (sản xuất thi công xây lắp, bàn giao công trình hoàn thành, hoạt động tài chính..) mới có thể thực hiện được.
Trong đấu thầu xây dựng, các nhà thầu cạnh tranh nhau để thắng thầu và kí được hợp đồng xây dựng, các doanh nghiệp trúng thầu là những doanh nghiệp chào hàng (dự thầu) với giá cả hợp lí, và thoã mãn tốt nhất những điều kiện của chủ đầu tư (thời gian, năng lực, tài chính, uy tín,...). Như vậy, để có thể tìm kiếm được các hợp đồng xây dựng, yêu cầu CTXLĐ I chẳng những phải có thực lực cạnh tranh, phải có chiến thuật đấu thầu mà còn cần thiết phải có chữ tín với chủ đầu tư, phải xây đắp các mối quan hệ thường xuyên với khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng. Trong hoạt động tìm kiếm hợp đồng xây dựng thì hoạt động marketing có vai trò quan trọng. Đối với CTXLĐ I, nhìn chung thị trường tiêu thụ của công ty khá rộng lớn, khách hàng của công ty hầu hết là những doanh nghiệp ngành điện và là các doanh nghiệp Nhà nước, ngoài ra, công ty cũng có một số các khách hàng ngoài ngành, các công ty nước ngoài. Những hợp đồng của công ty được thực hiện chủ yếu là ở miền Bắc và miền Trung, miền Nam còn rất ít. Do vậy, để kí được nhiều hợp đồng xây dựng, công ty cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tìm kiếm khách hàng, khuyếch trương hình ảnh, tạo lòng tin trong khách hàng để mở rộng thị trường tiêu thụ, trước hết là cố gắng chiếm lĩnh thị trường trong nước, trên cơ sở tập trung vào thị trường xây lắp tại miền Bắc, miền Trung, sau đó xâm nhập vào thị trường miền Nam.
d. Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu thầu
Như trên đã nói, để kí được nhiều hợp đồng xây dựng, công ty phải thắng thầu hoặc được chủ đầu tư công trình chọn. Để được chủ đầu tư công trình cho, công ty cần phải củng cố năng lực tài chính và uy tín của mình, đáp ưng tốt nhất yêu cầu của chủ đầu tư. Còn để thắng thầu trong đấu thầu xây dựng, trên cơ sở những khó khăn trong hoạt động đấu thầu của công ty, em xin đề xuất các giải pháp như sau:
Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Đây là yêu cầu tất yếu khách quan đặt ra cho công ty vì nghiên cứu thị trường giúp công ty phát hiện nhu cầu xây dựng của các khách hàng trên cả thị trường mục tiêu và thị trường tiềm năng một cách nhanh nhất, chuẩn bị và hoàn thành hồ sơ dự thầu đúng địa điểm và thời gian chủ đầu tư yêu cầu.
Đảm bảo và không ngừng tăng chất lượng sản phẩm, tạo lòng tin vững chắc cho các chủ đầu tư.
Tăng cường liên kết dự thầu với các doanh nghiệp cung ứng nguyên vật liệu. Việc này có lợi là đối với các gói thầu lớn, gồm nhiều công việc riêng biệt thì việc liên doanh dự thầu có thể khoả lấp được những mặt yếu của công ty. Ngoài ra, việc liên kết này cũng giúp công ty tiết kiệm được chi phí nguyên vật liệu, tạo nguồn cung cấp chắc chắn cho công ty. Tuy nhiên, công ty cũng phải xem xét kĩ lưỡng việc liên doanh, liết kết bởi hoạt động này khá phức tạp, nếu không xem xét đúng đắn thì hậu quả là công ty có thể phải chịu thua thiệt.
3.2.2.2. Giải pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm xây lắp.
Giá thành là chỉ tiêu chất lượng, biểu hiện bằng tiền những chi phí có liên quan đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong sản xuất xây dựng, chỉ tiêu giá thành đặc trưng hạn mức chi phí cho thi công xây lắp công trình, nếu như khối lượng sản phẩm xây lắp biểu thị kết quả về mặt lượng của sản xuất xây lắp thì giá thành công tác xây lắp biểu thị chất lượng quá trình sử dụng các nguồn vật tư, lao động và tiền vốn của doanh nghiệp xây dựng trong quá trình sản xuất thi công.
Đối với sản phẩm XDCB (thi công xây lắp), do sản xuất có tính chất đơn chiếc, không giống nhau, không thi công cùng một lúc và không cùng một địa điểm nên từng sản phẩm xây lắp có giá trị khác nhau và giá thành cũng khác nhau. Vì thế, khi xem xét việc hạ giá thành sản phẩm xây lắp, người ta thường chỉ so sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch hoặc với giá thành dự toán của khối lượng sản phẩm trong cùng một kỳ. Để thực hiện được điều đó, nhà quản lý doanh nghiệp phải thấy được các nhân tố tác động đến việc giảm giá thành sản phẩm, từ đó xác định phương hướng và tìm ra giải pháp thích ứng hữu hiệu đối với doanh nghiệp của mình. Đối với CTXLĐ I, các biện pháp chủ yếu nhằm hạ giá thành sản phẩm là:
a. Nâng cao năng suất lao động
Một là, hiện đại hoá TSCĐ.
Để đạt hiệu quả, năng suất lao động cao trong sản xuất kinh doanh thì yếu tố nhà xưởng, máy móc thiết bị đóng một vai trò rất quan trọng. Việc tăng cường đổi mới, hiện đại hoá TSCĐ là một lợi thế để chiếm lĩnh không chỉ thị trường hàng hóa mà cả thị trường vốn. Máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại tạo điều kiện cho công ty tăng năng lực sản xuất của mình từ đó thu hút vốn đầu tư, mở rộng tái sản xuất. Đến cuối năm 2003, tỷ trọng TSCĐ trên tổng tài sản là 10,22% vì vậy CTXLĐ I cần đầu tư thêm vốn kinh doanh vào TSCĐ, nâng cao hiệu quả sử dụng của TSCĐ, muốn vậy công ty cần tiếp tục duy trì khả năng khai thác toàn bộ số TSCĐ hiện có vào hoạt động sản xuất kinh doanh, không dự trữ những TSCĐ chưa cần dùng và không cần dùng, góp phần tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao lợi nhuận cho công ty. Cần phân loại, xác định số TSCĐ kém hiệu quả, lạc hậu để kịp thời có kế hoạch thanh lý, nhượng bán; nhanh chóng thu hồi vốn và tái đầu tư vào TSCĐ mới hiện đại. Tận dụng tối đa năng lực sản xuất TSCĐ vào sản xuất kinh doanh. Thường xuyên đánh giá lại giá trị TSCĐ để nắm được chính xác phần giá trị còn lại, phần giá trị đã hao mòn, từ đó xây dựng phương pháp khấu hao hợp lý. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trình độ khoa học công nghệ ngày càng phát triển cao, CTXLĐ I cần xây dựng kế hoạch khấu hao nhanh, rút ngắn thời gian, thu hồi vốn để tránh hao mòn vô hình. Đây là giải pháp được nhiều doanh nghiệp thuộc các nước phát triển áp dụng nhằm không chỉ tái sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng.
Hai là, tổ chức sử dụng lao động và con người hợp lí.
Đây cũng là nhân tố rất quan trọng để nâng cao nâng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm doanh nghiệp, nhất là đối với những doanh nghiệp đang sử dụng nhiều lao động trong sản xuất xây lắp thi công công trình như CTXLĐ I. Việc công ty tổ chức lao động một cách khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lí, loại trừ được tình trạng lãng phí sức lao động, lãng phí giờ máy, có tác dụng to lớn thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Nhưng điều quan trọng hơn và có ý nghĩa hơn trong việc tổ chức quản lí sử dụng lao động nhằm tăng năng suất lao động là CTXLĐ I cần phải biết sử dụng “yếu tố con người”, biết khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người, làm cho họ gắn bó và cống hiến lao động, tài năng cho công ty. Để làm được điều này Ban lãnh đạo công ty phải có kế hoạch bồi dưỡng trình độ cho công nhân viên, quan tâm đến đời sống, sinh hoạt, điều kiện làm việc của mỗi người trong công ty, phải có chế độ khen thưởng vật chất và tinh thần công nhân một cách thoả đáng. Giám đốc, người lãnh đạo công ty phải biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến đóng góp, những nghiên cứu khoa học có tính chất tích cực mang lại lợi ích cho công ty.
3.2.2.3. Giải pháp nhằm quản lí chi phí có hiệu quả.
* Đối với chi phí nguyên vật liệu, đặc điểm quan trọng nhất của sản phẩm ngành xây dựng là chu kì sản xuất dài, do đó mà thành phần và kết cấu chi phí sản xuất của CTXLĐ I không những phụ thuộc vào từng giai đoạn xây dựng công trình. Trong thời kì khởi công xây lắp, chi phí về tiền lương, chi phí máy móc thi công chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí, thời kì tập trung thi công chi phí về nguyên vật liệu, thiết bị lại tăng lên và thời kì hoàn thiện công trình thì chi phí tiền lương lại tăng lên. Trên thực tế, phần lớn chi phí của của các doanh nghiệp xây lắp hoạt động trong ngành xây dựng cơ bản đều nằm ở các công trình chưa hoàn thành và CTXLĐ I cũng là một doanh nghiệp xây lắp, năm 2001 chi phí sản xuất dở dang của công ty là 24,13% tổng tài sản, năm 2003 là 24,71% với số tuyệt đối là 90.205 tr.đ, như vậy tỉ trọng này đang có xu hướng tăng lên tuy rằng không nhiều.Vì thế, nhiệm vụ quan trọng của công ty là phải ra sức tập trung tiền vốn, rút ngắn thời gian thi công, tăng thêm số công trình hoàn thành trong những năm tới. Xuất phát từ thực tế của công ty, một trong những nguyên nhân làm chi phí kinh doanh cao là do chi phí nguyên vật liệu cao, chiếm (59,53%), bởi vậy muốn quản lí tốt chi phí nguyên vật liệu, công ty cần phải thực hiện định mức tiêu hao hợp lí cho từng khoản mục và tìm mọi biện pháp để giảm định mức đó, phải xác định chính xác nhu cầu nguyên vật liệu của từng công trình. Vì địa bàn hoạt động của công ty khá rộng, giá cả của nguyên vật liệu của từng địa phương có thể chênh lệch. Do đó, cần phải xác định riêng đối với từng loại công trình, trên cơ sở đó lập kế hoạch về cung ứng vốn. Không nên xác định nhu cầu nguyên vật liêu một cách chung chung cho tất cả công trình vì như vậy có thể dẫn tới tình trạng thừa nguyên vật liệu ở công trình này nhưng lại thiếu nguyên vật liệu ở công trình kia.
Công ty nên tăng cường tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu mới, vừa đảm bảo chất lượng, giá cả hợp lí và chi phí vận chuyển thấp, kết hợp với việc bố trí phương tiện vận tải, tổ chức tốt quá trình vận chuyển sao cho nguyên vật liệu luôn đáp ứng đẩy đủ cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà không tồn đọng làm phát sinh nhiều chi phí lưu kho, chi phí trông coi, chi phí bảo quản. Trong qua trình sử dụng nguyên vật liệu, cần tiến hành giao sử dụng theo định mức đồng thời gắn trách nhiệm quản lí nguyên vật liệu cho từng tổ, đội sản xuất theo từng công trình và hạng mục công rình nhằm tránh mất mát, hao hụt.
* Đối với chi phí nhân công, trong ngành sản xuất xây lắp, chi phí nhân công là một yếu tố của chi phí trực tiếp, có liên quan trực tiếp đến kết cấu công trình, trực tiếp phục vụ cho việc hình thành công trình ấy. Tuy nhiên chi phí nhân công (tiền lương công nhân sản xuất) lại không ổn định mà thay đổi theo từng giai đoạn thi công công trình, do đó để thực hiện tốt việc quản lý chi phí nhân công, CTXLĐ I cần phải xem xét kết cấu chi phí sản xuất và nghiên cứu xu hướng thay đổi của nó, đồng thời cần phải thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân sản xuất để họ có kiến thức, có sự hiểu biết trong khi thực hiện thi công xây lắp, đảm bảo chất lượng công trình, đảm bảo đúng yêu cầu kỹ thuật của công trình, tránh tình trạng do thiếu hiểu biết mà vi phạm quy trình kỹ thuật trong khi xây dựng gây thiệt hại về tài sản và con người khi sử dụng công trình kém chất lượng.
* Đối với chi phí quản lý, để tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất kinh doanh nhằm hạ giá thành sản phẩm, CTXLĐ I không chỉ cần quan tâm tới chi phí trực tiếp mà còn cần phải quan tâm tới chi phí gián tiếp, đó là những chi phí không trực tiếp gắn với cấu thành thực thể của công trình, không có liên quan trực tiếp tới quá trình sản xuất sản phẩm, quá trình xây lắp công trình nhưng lại rất quan trọng và cần thiết để phục vụ cho công tác xây lắp và tổ chức quản lý công trường, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thi công xây lắp. Chi phí gián tiếp gồm có: chi phí về quản lý hành chính, chi phí phục vụ công nhân, chi phí phục vụ thi công và chi phí gián tiếp khác,... Chi phí gián tiếp chiếm tỷ trọng không lớn trong giá thành, bởi vậy để quản lý tốt chi phí này thông thường không xác định mức tiêu hao mà chỉ xây dựng chỉ tiêu trong kỳ kế hoạch. Biện pháp cụ thể là CTXLĐ I cần phải xem xét chỉ nên mua sắm, cải tiến trang bị văn phòng, thiết bị quản lý khi thấy thực sự cần thiết và sau khi đã xem xét cân đối kế hoạch đầu tư mua sắm tài sản cố định phục vụ cho quản lý hành chính.
3.2.2.4. Giải pháp nhằm tổ chức quản lý tốt tài chính Công ty.
Vai trò của quản trị tài chính ngày càng tăng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây lắp nói chung và của CTXLĐ I nói riêng, tác động của nó đối với việc hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận ngày càng mạnh mẽ.
Như trong phần đánh giá về tài sản và nguồn vốn, ta thấy vấn đề quản lí tài sản và nguồn vốn của công ty có nhiều vấn đề nổi cộm cần phải giải quyết ngay, nếu không sẽ tiếp tục làm lợi nhuận của công ty giảm xuống, đó là việc quản lí khoản phải thu, hàng tồn kho, cơ cấu tài sản và tỉ trọng nợ. Để giải quyết vấn đề này, công ty cần:
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài qua việc giảm tỉ trọng nợ, phát triển phương thức vay CBCNV.
- Quản lí chặt chẽ TSLĐ, tăng đầu tư vào TSCĐ. Đối với việc quản lí TSLĐ, công ty phải nhanh chóng giải quyết tình trạng bị nợ đọng và chiếm dụng vốn, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu, tăng vòng quay của vốn lưu động thay cho phần vốn công ty phải đi vay bên ngoài vì lãi vay lớn làm giảm lợi nhuận của công ty.
- Tổ chức sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu cho việc mua sắm vật tư sẽ giúp Công ty tránh được những tổn thất cho sản xuất như máy móc ngừng hoạt động, ngừng thi công do thiết vật tư, thiếu nguyên vật liệu. Đồng thời thông qua việc tổ chức sử dụng vốn, Công ty kiểm tra được tình hình dự trữ vật tư, công cụ dụng cụ tồn kho, từ đó có phát hiện ngăn ngừa kịp thời tình trạng ứ đọng, mất mát, hao hụt vật tư, sản phẩm. Cụ thể là để sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh, CTXLĐ I cần xác định chính xác nhu cầu vốn tối thiểu thường xuyên, cần thiết cho hoạt động xản xuất kinh doanh của Công ty. Từ đó có biện pháp tổ chức huy động và sử dụng sao cho hợp lý, xác định thứ tự tài sản cần ưu tiên đầu tư, thứ tự cấp vốn đối với từng công trình. Khi sử dụng vốn Công ty cần phải căn cứ vào kế hoạch đã lập để làm cơ sở phù hợp với tình hình thực tế, nếu phát sinh thêm nhu cầu vốn Công ty cần đáp ứng kịp thời để đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, nhanh chóng hoàn thành tiến độ thi công, nếu thừa vốn cần có biện pháp xử lý ngay không để vốn bị ứ đọng như: mở rộng sản xuất kinh doanh, thực hiện hoạt động cho vay. Ngoài ra, vấn đề cấp vốn đối với từng công trình rất dễ xảy ra tình trạng lãng phí vốn khi không cân đối khối lượng vốn cấp giữa các công trình, do đó Công ty cần thực hiện việc quy định rõ ràng thời gian thanh quyết toán công trình, quy định các khoản vốn cấp cho từng công trình, chủ công trình hoặc các công trình, do đó công ty cần thực hiện việc quy định rõ ràng thời gian thanh quyết toán công trình, quy định các khoản cấp vốn cho từng công trình.
- Công ty cần nghiên cứu và nhanh chóng áp dụng các chuẩn mực kế toán mới ban hành của Bộ Tài chính để thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn hoạt động tài chính kế toán, phục vụ đắc lực cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
3.2.2.5. Giải pháp nhằm tổ chức tốt quá trình thi công công trình.
Với đặc thù riêng biệt của ngành xây lắp thì việc đảm bảo đầy đủ về nội dung và các giai đoạn của quá trình sản xuất xây dựng cũng góp phần làm giá thành sản phẩm hạ. Cụ thể là để thi công hoàn thành một công trình, công ty cần đảm bảo thực hiện theo ba giai đoạn sau:
Giai đoạn chuẩn bị xây dựng công trình. Ngay sau khi nhận được thông tin về đấu thầu hoặc mời thầu một công trình, công ty phải tiến hành lập phương án tổ chức thi công công trình để tham gia đấu thầu. Sau khi thắng thầu, công ty mới thực sự bước vào giai đoạn chuẩn bị xây dựng. Trong giai đoạn này CTXLĐI cần phải làm các công việc như: tiến hành ký kết hợp đồng xây dựng chính thức với bên giao thầu, tiến hành hoàn chỉnh thiết kế tổ chức thi công đã dùng để tranh thầu, nhằm chính thức hoá và nghiên cứu khả năng hạ giá thành hơn nữa, tiến hành ký kết hợp đồng với các tổ chức nhận thầu phụ nếu cần. Chuẩn bị ký hợp đồng mua sắm vật tư, thiết bị và máy móc xây dựng có liên quan đến nhiệm vụ của nhà thầu xây dựng. Tiến hành thủ tục mở rộng công trường bao gồm các việc đăng ký với cơ quan về công trường, xuất trình giấy phép xây dựng, hành nghề xây dựng, tiến hành san lấp mặt bằng,...
Giai đoạn xây dựng: đây là giai đoạn cơ bản được tính từ khi khởi công đến khi hoàn tất công việc. Chất lượng công trình phụ thuộc vào trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm của công nhân, chất lượng vật tư, sự phù hợp đồng bộ của máy móc thiết bị của dụng cụ thi công, điều kiện thi công công trình. Giai đoạn này công ty phải căn cứ vào thiết kế bản vẽ thi công và thiết kế tổ chức thi công để phối hợp con người với máy móc thiết bị và đối tượng lao động theo trình tự nhất định về thời gian (tức tiến độ thi công) và sơ đồ di chuyển theo mặt bằng thi công nhằm đảm bảo việc thực hiện dự án thiết kế một cách tốt nhất.
Giai đoạn vận hành, thử nghiệm bàn giao: Sau khi đã hoàn tất công tác thi công xây lắp công trình, công ty phải làm thủ tục để nghiệm thu bàn giao công trình để đưa công trình vào khai thác và sử dụng. Công ty phải tiếp tục bảo hành công trình theo quy chế quản lí đầu tư xây dựng, khi bàn giao công trình công ty phải giao hồ sơ hoàn thành công trình và những vấn đề có liên quan. Hồ sơ xây dựng công trình phải được tổ chức lưu giữ, công ty phải làm thủ tục kết thúc hợp đồng công trình, hoàn trả lại đất đai cho thuê tạm và thực hiện trách nhiệm bảo hành công trình theo quy định của Nhà nước.
3.3. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho CTXLĐ I tăng lợi nhuận.
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng chịu sự tác động của các nhân tố môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh ảnh hưởng rất lớn tới điều kiện kinh doanh và cơ hội phát triển của các doanh nghiệp. Để có thể thực hiện được các giải pháp trên, em có một số kiến nghị với Nhà nước và Tổng Công ty Xây dựng và Công nghiệp Việt Nam để các cơ quan này xem xét, tạo điều kiện, hỗ trợ cho CTXLĐ I đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất, không ngừng gia tăng lợi nhuận.
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước
3.3.1.1. Nhà nước tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp xây lắp.
- Sau sự ra đời của hiệp hội các nhà thầu xây lắp năm 2002, Nhà nước, các Bộ, các ngành nên có những yêu cầu hoặc khuyến khích cho hoạt động của các hiệp hội.
- Hình thành ngân hàng thông tin nhằm cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin về máy móc thiết bị, giá cả nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp xây dựng, đặc biệt là cung cấp các thông tin về chủ đầu tư nước ngoài, các nhà thầu quốc tế nhằm tạo điều kiện cho các nhà thầu Việt Nam khi tham gia đấu thầu quốc tế.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng trong việc đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị theo hình thức tín dụng thuê mua, cho phép các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ có khả năng nâng cao chất lượng máy móc thiết bị của mình
- Cho phép các nhà thầu thực hiện các dự án mang tính xã hội được vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi.
- Thành lập nên các tổ chức tư vấn hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm và phương thức có được chứng nhận về chất lượng của các tổ chức quốc tế có uy tín, đặc biệt là bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và 14000 trong tình hình hiện nay.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đào tạo cán bộ quản lí, cán bộ kỹ thuật phục vụ cho hoạt động xây dựng nói chung và công tác đấu thầu nói riêng.
3.3.1.2. Tăng cường quản lí Nhà nước và hoàn thiện hơn nữa hành lang pháp lí trong đấu thầu.
Thực trạng công tác đấu thần hiện nay có nhiều minh chứng cho thấy phương thức đấu thầu nhiều khi chỉ diễn ra về mặt hình thức vì doanh nghiệp nào tham gia và thắng thầu thường nằm trong sự dự tính trước của chủ đầu tư. Tính cạnh tranh khốc liệt trong ngành làm nảy sinh các vi phạm nghiêm trọng về nguyên tắc đấu thầu. Sự móc ngoặc giữa nhà thầu và chủ đầu tư gây thất thoát và tổn phí vô ích cho Nhà nước và các nhà thầu khác, hơn thế nữa làm suy giảm chất lượng công trình.
Tạo dựng sân chơi, luật chơi nhưng không điều khiển cuộc chơi thì thật là nguy hiểm. Vì vậy, Nhà nước cần có những giải pháp trực tiếp hoặc gián tiếp để quản lí quá trình đấu thầu các dự án, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng và ít nhất các biểu hiện tiêu cực. Đây là một yêu cầu rất khó khăn nhưng rất cần thiết, đã đến lúc phải đưa thị trường XDCB đi vào nề nếp để tránh những hậu quả đáng tiếc cho xã hội.
Đặc biệt quản lí chặt chẽ đối với các dự án đầu tư nước ngoài vì chủ đầu tư thường bắt tay với các tập đoàn xây dựng lớn để gây khó khăn cho nhà đầu tư trong nước, làm thiệt hại chung cho nền kinh tế, yêu cầu Nhà nước phải xử lí các vi phạm nghiêm khắc và triệt để.
Việc tạo một hành lang pháp lí cho hoạt động đấu thầu diễn ra công bằng, hiệu quả, đi đúng hướng là công việc cần có sự bám sát thị trường, vấn đề hoàn thiện cần có sự chỉ đạo kịp thời mới có hiệu quả cao, sự thay đổi này bắt nguồn từ những bức xúc của thị trường.
Vấn đề ưu tiên cho nhà thầu Việt Nam trong đấu thầu quốc tế, tránh sự lấn lướt của các nhà thầu nước ngoài là vấn đề cần xem xét vì chủ ý của Nhà nước là quốc tế hoá và tạo dựng sự tự chủ, khuyến khích sự nỗ lực phấn đấu của các doanh nghiệp. Nên ưu tiên hợp lí và chủ yếu tập trung vào công tác nâng cao lực bản thân doanh nghiệp Việt Nam mới có thể đứng vững được trên thị trường quốc tế.
3.3.2. Kiến nghị với Tổng công ty Xây dựng và Công nghiệp Việt Nam.
Đề nghị Tổng công ty Xây dựng và Công nghiệp Việt Nam làm việc với Chính phủ, Bộ Công nghiệp, Bộ kế hoạch và đầu tư , đề nghị sớm bổ xung quy chế đấu thầu thống nhất và trọn gói từng công trình, không nên phân nhiều gói thầu trong một công trình để cho các doanh nghiệp Nhà nước có điều kiện phấn đấu và phát triển.
Đề nghị Tổng công ty làm việc với Bộ Công nghiệp, Bộ tài chính và Nhà nước nghiên cứu bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có lãi hàng năm và tăng trưởng.
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu trên, ta đã có được các vấn đề cơ bản nhất về lợi nhuận của doanh nghiệp và vai trò quan trọng của lợi nhuận đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ngày nay. Chính vì vậy, trong cơ chế thị trường này, tìm ra giải pháp đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh tối ưu, không ngừng tăng lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của mọi doanh nghiệp.
Những phân tích về lợi nhuận của Công ty Xây lắp Điện I đã cho ta biết được tình hình lợi nhuận của công ty, các kết quả đã đạt được và các khó khăn công ty cần phải khắc phục. Nhìn chung, tình hình lợi nhuận của công ty là khá tốt, quy mô lớn và không ngừng tăng trưởng. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động kinh doanh của công ty đã và đang làm nảy sinh một số bất cập, hạn chế mà những điểm này làm ảnh hưởng xấu tới tình hình lợi nhuận, ngăn cản sự tăng trưởng tối đa lợi nhuận của công ty. Qua một quá trình thực tập tại Công ty Xây lắp Điện I, em đã đi sâu nghiên cứu tình hình lợi nhuận của công ty và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của công ty, tập trung vào hai nhóm giải pháp chính, đó là nhóm giải pháp nhằm tăng doanh thu tiêu thụ và nhóm giải pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm xây lắp.
Em mong rằng các giải pháp này sẽ góp phần làm tăng lợi nhuận của công ty, góp phần làm cho công ty ngày càng phát triển ổn định và vững chắc trên thị trường xây dựng, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH và HĐH đất nước.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP. 3
1.1. Khái niệm lợi nhuận. 3
1.2. Các bộ phận cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp 4
1.3. Phân phối lợi nhuận 5
1.4. Vai trò của lợi nhuận 6
1.4.1. Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp 6
1.4.2. Vai trò của lợi nhuận đối với xã hội 7
1.5. Các nhân tố tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp 8
1.5.1. Các nhân tố khách quan 8
1.5.2. Các nhân tố chủ quan 11
1.6. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp 13
1.6.1. Phương pháp trực tiếp 13
1.6.2. Phương pháp gián tiếp 17
1.7. Các chỉ tiêu lợi nhuận 18
1.7.1. Các chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối 18
1.7.2. Các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận 19
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ TÌNH
HÌNH LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY XÂY LẮP ĐIỆN I 22
2.1. Giới thiệu khái quát về Công ty Xây lắp Điện I (CTXLĐ I) 22
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của CTXLĐ I 22
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của CTXLĐ I 24
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của CTXLĐ I 26
2.1.4. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của CTXLĐ I 29
2.2. Thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh và tình hình lợi nhuận của CTXLĐ I 32
2.2.1. Khái quát về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của CTXLĐ I từ năm 2001đến năm 2003 32
2.2.1.1. Đánh giá về nguồn vốn của Công ty 32
2.2.1.2. Đánh giá về tài sản của Công ty 36
2.2.1.3. Đánh giá chung về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của CTXLĐ I 37
2.2.2. Tình hình lợi nhuận của CTXLĐ I 38
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM GIA TĂNG LỢI NHUẬN TẠI CTXLĐ I 55
3.1. Phương hướng và mục tiêu phát triển của CTXLĐ I 55
3.1.1. Về đầu tư phát triển 55
3.1.2. Về phát triển thị trường 56
3.1.3. Về tổ chức và chỉ đạo điều hành 56
3.1.4. Về công tác kỹ thuật và tiến độ kỹ thuật 57
3.1.5. Về công tác thu hồi vốn 57
3.1.6. Về công tác tài chính kế toán 57
3.2. Giải pháp góp phần nâng cao lợi nhuận tại CTXLĐ I 59
3.2.1. Các giải pháp chung để nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp 59
3.2.2. Các giải pháp để nâng cao lợi nhuận tại CTXLĐ I 64
3.3. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho CTXLĐ I tăng lợi nhuận 75
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 75
3.3.2. Kiến nghị với Tổng công ty Xây dựng và Công nghiệp Việt Nam 77
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28700.doc