Lợi nhuận và các phương hướng biện pháp tăng lợi nhuận ở Công ty in Báo Hà Nội Mới

Lời nói đầu Nói đến sản xuất kinh doanh, dù trong hình thái kinh tế xã hội nào, vấn đề được quan tâm trước tiên là hiệu quả. Có thể nói, hiệu quả kinh tế là thước đo trình độ phát triển của các đơn vị sản xuất kinh doanh nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều phải lấy thu bù chi, đảm bảo có lãi. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp biểu hiện tập trung ở lợi nhuận mà

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lợi nhuận và các phương hướng biện pháp tăng lợi nhuận ở Công ty in Báo Hà Nội Mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp đạt được trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển song song của các thành phần kinh tế tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ. Vì thế, các đơn vị sản xuất kinh doanh phải tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phải kinh doanh như thế nào cho hiệu quả thu được lợi nhuận cao, có như vậy các đơn vị này mới có thể tồn tại phát triển được. Ngược lại, nếu đơn vị hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ thì đơn vị khó có thể đứng vững trên thương trường. Lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy kinh tế có hiệu lực nhất, kích thích mạnh mẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Như vậy, ta có thể khẳng định rằng, sản xuất kinh doanh như thế nào cho hiệu quả, thu được nhiều lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Chính vì thế, việc đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc của lợi nhuận, các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận doanh nghiệp là rất quan trọng và hữu ích. Xuất phát từ những lý do đó, trong quá trình học tập tại Học viện Tài Chính, kết hợp với quá trình thực tập tại Công ty in Báo Hà Nội Mới, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: “Lợi nhuận và các phương hướng biện pháp tăng lợi nhuận ở Công ty in Báo Hà Nội Mới” cho luận văn của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn còn gồm 3 chương: Chương 1: Lợi nhuận và các biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Chương 2: Tình hình thực hiện lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở Công ty in Báo Hà Nội Mới. Chương 3: Một số kiến nghị đề xuất nhằm tăng lợi nhuận ở Công ty in Báo Hà Nội Mới. Do thời gian thực tập không nhiều cộng với sự hiểu biết còn nhiều hạn chế cho nên bài viết của tôi không tránh khỏi thiếu sót sai lầm và những hạn chế đáng kể. Vì thế, tôi mong được các thầy cô giáo cùng bạn đọc quan tâm giúp đỡ đưa ra những phê bình và những ý kiến quý báu để bài viết của tôi được đầy đủ và hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn: Vũ Văn Ninh, các thầy cô giáo bộ môn: Quản trị tài chính doanh nghiệp – Học viện Tài chính, Ban lãnh đạo Công ty In Báo Hà Nội Mới đã giúp tôi hoàn thành bài luận văn này. Hà Nội, tháng 5 năm 2006 Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Hoa Chương 1: Lợi nhuận và các biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận doanh nghiệp 1.1. Lợi nhuận của doanh nghiệp. 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Vậy là, cái mà chúng ta một thời không mấy coi trọng – lợi nhuận- đã được chính pháp luật ngày nay thừa nhận, là mục tiêu chủ yếu và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp. 1.1.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp. 1.1.2.1. Khái niệm lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Dưới góc độ doanh nghiệp, lợi nhuận là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu đó trong một thời kỳ nhất định. Lợi nhuận nói chung được xác định bởi công thức: Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí Từ góc độ doanh nghiệp, doanh thu của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của các lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm doanh thu về tiêu thụ sản phẩm, doanh thu từ các hoạt động tài chính và doanh thu từ các hoạt động bất thường. Chi phí là những khoản chi mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được doanh thu đó. Nó bao gồm: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhiên liệu, động lực, tiền lương và các khoản trích nộp theo quy định, khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài, các khoản dự phòng giảm giá, các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động… Như vậy, để có được lợi nhuận thì toàn bộ các khoản doanh thu của Doanh nghiệp thu về phải đủ bù đắp chi phí mà Doanh nghiệp đã bỏ ra, đây là mục tiêu và cũng là nhiệm vụ mà bất cứ Doanh nghiệp nào đều phải cố gắng thực hiện, có như vậy thì mới có thể thúc đẩy Doanh nghiệp phát triển và đứng vững được. 1.1.2.2. Nội dung lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường các hoạt động của doanh nghiệp thường rất đa dạng và phong phú, vì vậy mà lợi nhuận của doanh nghiệp cũng bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh: là khoản chênh lệch giữa doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trừ đi các chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ (gồm giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp) và thuế phải nộp theo quy định (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp). Tức là: Lợi nhuận từ HĐSXKD = Doanh thu thuần - Trị giá vốn hàng bán - Chi phí bán hàng - Chi phí QLDN - Doanh thu thuần: là toàn bộ số tiền bán sản phẩm hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường sau khi trừ đi các khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế gián thu. - Giá vốn hàng bán: là trị giá vốn của thành phẩm, hàng hoá, lao vụ dịch vụ xuất bán trong kỳ. - Chi phí bán hàng: là toàn bộ các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ như: chi phí bao gói sản phẩm, chi phí bảo quản hàng hoá, chi phí vận chuyển, tiếp thị, quảng cáo. - Chi phí quản lý doanh nghiệp: là những chi phí cho việc quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và phục vụ chung khác liên quan đến hoạt động của toàn doanh nghiệp. Trong các loại lợi nhuận, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là phần cơ bản nhất trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp, thường chiếm tỷ trọng lớn. Do đó, để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp các nhà kinh tế chú ý đầu tiên đến lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp ngoài lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh còn có lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động khác. Lợi nhuận hoạt động tài chính: là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu từ hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính trong một thời kỳ nhất định. Lợi nhuận hoạt động khác: là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập từ các hoạt động khác và các khoản chi phải bỏ ra phục vụ cho các hoạt động khác không thường xuyên diễn ra trong một thời kỳ nhất định. Tổng hợp các loại lợi nhuận trong kỳ là lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp như sau: Lợi nhuận trước thuế = Lợi nhuận HĐSXKD + Lợi nhuận hoạt động tài chính + Lợi nhuận hoạt động khác 1.1.3. ý nghĩa của lợi nhuận. Lợi nhuận có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp - Lợi nhuận giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không thì điều quyết định là doanh nghiệp có đạt được lợi nhuận không. Lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế, nó kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nó là chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Lợi nhuận tác động đến mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp đặc biệt ảnh hưởng đến tình hình tài chính doanh nghiệp vì lợi nhuận đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp khi làm ăn có lãi, nó khẳng định hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. - Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để giúp doanh nghiệp tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Vì vậy mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. 1.2. tỷ suất lợi nhuận Mặc dù, lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp và là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau, bởi vì: - Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố thuộc về khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. - Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ khác nhau…thường làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng khác nhau cho dù các doanh nghiệp đó cùng quy mô sản xuất. - Các doanh nghiệp cùng loại, nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng sẽ khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém, nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý tốt hơn. Chính vì lý do đó, để đánh giá hoặc so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp, thì ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối, còn phải dùng chỉ tiêu lợi nhuận tương đối ( tỷ suất lợi nhuận ). Tỷ suất lợi nhuận là chỉ tiêu tương đối cho phép ta so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh giữa các thời kỳ khác nhau của một doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp với nhau. Mức tỷ suất lợi nhuận càng cao, chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng có hiệu quả. Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận, mỗi cách có nội dung kinh tế khác nhau, sau đây là một số cách xác định tỷ suất lợi nhuận: 1.2.1. Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh Là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận trước hoặc sau thuế đạt được với số vốn kinh doanh bình quân trong kỳ ( bao gồm vốn cố định và vốn lưu động ). Công thức xác định: TSV =x 100% Trong đó: Tsv : Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh P : Lợi nhuận trong kỳ ( trước hoặc sau thuế thu nhập ) Vbq : Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh: Mỗi đồng vốn kinh doanh ở trong kỳ có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước hoặc sau thuế. Việc sử dụng tỷ suất lợi nhuận vốn có thể đánh giá trình độ sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao hay thấp. 1.2.2. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế với số vốn mà các chủ sở hữu tự bỏ ra trong quá trình kinh doanh. Công thức xác định: Tvcsh = x 100 Trong đó: Tvcsh: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Pst: Lợi nhuận sau thuế. Vcsh: Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ. 1.2.3. Tỷ suất lợi nhuận giá thành Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế của sản phẩm tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ. Công thức xác định: T=x 100 Trong đó: T: Tỷ suất lợi nhuận giá thành. P: Lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ. Z: Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước hoặc sau thuế về tiêu thụ sản phẩm. Thông qua tỷ suất lợi nhuận giá thành có thể thấy rõ hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kỳ, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận tiêu thụ và việc quản lý chi phí trong kỳ. 1.2.4. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước hoặc sau thuế của sản phẩm tiêu thụ với doanh thu tiêu thụ sản phẩm đạt được trong kỳ. Đây là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Công thức xác định: T=x 100 Trong đó: T: Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng. P: Lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ (trước hoặc sau thuế). T: Doanh thu bán hàng trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng doanh thu mà doanh nghiệp thu được trong kỳ sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận trước hoặc sau thuế. 1.3. Vai trò của lợi nhuận và sự cần thiết phải phấn đấu tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Một doanh nghiệp khi bắt tay vào sản xuất kinh doanh ở mỗi thời kỳ khác nhau đều đặt cho mình những mục tiêu nhất định, tuy nhiên dù là mục tiêu nào đi chăng nữa thì cái đích cuối cùng phải là lợi nhuận. Đó là điều mà bất kì một doanh nghiệp nào, khi đã bước chân vào thương trường để kinh doanh cũng đều muốn làm được và buộc phải làm thật tốt nếu muốn tồn tại và phát triển. Tạo ra lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản trị, bởi lẽ lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận cũng chính là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Ta có thể xem xét dưới các góc độ: Đối với nền kinh tế: Doanh nghiệp là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế, sự hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp là một trong những bước đệm quan trọng nhất giúp cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Và nền kinh tế tăng trưởng nhanh hay chậm phụ thuộc vào quy mô tích luỹ, chính quy mô tích luỹ sẽ quyết định đến quy mô tăng trưởng. Doanh nghiệp muốn tăng trưởng nhanh thì phải có vốn để tái sản xuất mà nguồn chủ yếu để bổ sung vốn là lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong quá trình sản xuất kinh doanh. Khi có lợi nhuận cao thì doanh nghiệp có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng các doanh nghiệp là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế sẽ có tác động ngược trở lại tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và là động lực cho các doanh nghiệp có điều kiện phát triển. Bên cạnh đó lợi nhuận còn là một nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp, từ đó nó góp phần thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh xã hội, duy trì bộ máy hành chính, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đối với người lao động: Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp muốn tiến hành một cách thường xuyên liên tục và có hiệu quả thì không thể thiếu được yếu tố lao động. Vì vậy vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp là cần phải biết quan tâm đáp ứng yêu cầu của người lao động để họ nhiệt tình hăng say với công việc, phát huy hết năng lực của mình. Lợi nhuận là nguồn để trích lập các quỹ bao gồm: quỹ khen thưởng, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm… Đây chính là cơ sở để từng bước đáp ứng được nhu cầu đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Tăng lợi nhuận sẽ góp phần làm cho đời sống của người lao động từng bước được cải thiện. Với những chính sách đãi ngộ hợp lý của doanh nghiệp sẽ kích thích người lao động làm việc hết sức mình, góp phần tạo nên sự ổn định và thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển. Đối với nhà đầu tư: Trước khi bỏ vốn cho một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó, các nhà đầu tư luôn muốn biết đồng vốn của mình bỏ ra có sinh lời hay không. Lợi nhuận sau thuế mà doanh nghiệp có khả năng thu được chính là tương lai mà họ kỳ vọng. Phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp là một căn cứ giúp nhà đầu tư có thể cân nhắc để ra quyết định đúng đắn. Nếu doanh nghiệp hoạt động thua lỗ, không đạt hiệu quả như mong muốn thì tất yếu sẽ có sự di chuyển vốn đầu tư sang lĩnh vực khác. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự tiến hành hạch toán kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Không có lợi nhuận doanh nghiệp sẽ không mở rộng được quy mô sản xuất kinh doanh, không có điều kiện để thay đổi công nghệ sản xuất cũng như ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất. Thêm nữa, sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường luôn buộc các doanh nghiệp phải gồng mình lên để tồn tại. Để có thể lấy được thế chủ động của mình trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này, động lực chủ yếu để giúp các doanh nghiệp chiến thắng không gì khác đó chính là lợi nhuận, chẳng thế mà các hãng nổi tiếng như Sony, Cocacola, Toyota vẫn có thể đứng vững trên thị trường suốt mấy trăm năm mà không ai có thể thay thế được. Vì thế, lợi nhuận trở thành điều kiện quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc phấn đấu tăng lợi nhuận là vấn đề thời sự nóng hổi vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Để có thể tăng được lợi nhuận điều quan trọng là các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp phải tìm ra được những nguyên nhân dẫn đến sự tăng giảm lợi nhuận, để từ đó đề ra những biện pháp phát huy những nhân tố tích cực cũng như để hạn chế và loại trừ những ảnh hưởng tiêu cực. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận và một số phương hướng biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện nay. 1.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp. Trong tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp thì lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là một bộ phận quan trọng và thường chiếm tỷ trọng lớn. Vì thế, khi nghiên cứu các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp ta đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ công thức xác định: Lợi nhuận tiêu thụ = Doanh thu thuần – Giá thành tiêu thụ Ta có thể thấy các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh là: - Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu. - Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến giá thành tiêu thụ. 1.4.1.1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp. 1.4.1.1.1. Số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. Sản lượng sản phẩm tiêu thụ có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, tăng sản lượng tiệu thụ sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc tăng lợi nhuận, ngược lại nếu sản lượng tiêu thụ giảm sẽ làm cho tổng lợi nhuận của doanh nghiệp giảm theo. Cần phải thấy rằng sản lượng sản xuất và tiêu thụ tăng hay giảm phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp, vào trình độ trang bị máy móc thiết bị, trình độ quản lý sản xuất của doanh nghiệp, quy mô sản xuất và công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Việc tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ phản ánh kết quả tích cực của doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng không thể tăng khối lượng sản xuất và tiêu thụ một cách tuỳ tiện mà phải dựa vào nhu cầu thị trường để đưa ra một khối lượng sản phẩm thích hợp. Nếu như khối lượng sản phẩm đưa ra tiêu thụ quá lớn vượt quá nhu cầu thị trường thì cho dù sản phẩm có phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, giá cả có hợp lý nhưng sức mua có hạn nên cũng không thể tiêu thụ hết được, hàng hoá sẽ bị tồn đọng gây ứ đọng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm sút. Ngược lại, nếu đưa ra thị trường một khối lượng sản phẩm nhỏ hơn nhu cầu thì tất yếu doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ giảm đi ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp, mặt khác khách hàng do không được đáp ứng nhu cầu sẽ phải tìm đến những mặt hàng cùng loại của doanh nghiệp khác trên thị trường, như vậy doanh nghiệp sẽ mất đi một bộ phận khách hàng. Do vậy để quyết định đưa ra một khối lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp cần phải đánh giá đúng nhu cầu thị trường và khả năng sản xuất của mình để có một khối lượng sản phẩm thích hợp. 1.4.1.1.2. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ. Với hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thường đưa ra thị trường nhiều loại sản phẩm khác nhau, trong mỗi loại sản phẩm đó lại chia ra nhiều loại, kích cỡ, mẫu mã, phẩm cấp khác nhau, chi phí để sản xuất ra mỗi loại sản phẩm cũng khác nhau và tất yếu giá bán cũng khác nhau. Có những loại sản phẩm chi phí bỏ ra nhiều nhưng giá bán lại thấp hơn so với những sản phẩm có chi phí tiêu hao ít, cho nên mỗi loại sản phẩm có mức lãi lỗ khác nhau. Khi thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ sẽ làm cho tổng lợi nhuận thay đổi theo, nó có thể thay đổi theo hai chiều hướng: tăng tỷ trọng mặt hàng có lợi nhuận đơn vị( tỷ suất lợi nhuận đơn vị ) cao, giảm tỷ trọng mặt hàng có lợi nhuận đơn vị( tỷ suất lợi nhuận đơn vị ) thấp khi đó sẽ làm tăng quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp và ngược lại, tăng tỷ trọng mặt hàng có lợi nhuận đơn vị( tỷ suất lợi nhuận đơn vị) thấp, giảm tỷ trọng mặt hàng có lợi nhuận đơn vị( tỷ suất lợi nhuận đơn vị) cao sẽ làm giảm quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ có thể do nguyên nhân khách quan từ phía thị trường, nhưng cũng có thể do nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp. Nếu trên cơ sở nắm bắt tốt nhu cầu thị trường, doanh nghiệp đưa ra một kết cấu sản phẩm hợp lý thì sẽ đẩy mạnh được tiêu thụ sản phẩm, ngược lại nếu kết cấu sản phẩm đưa ra bất hợp lý thì sản phẩm sẽ bị ứ đọng. Điều này cho thấy mỗi doanh nghiệp cần phải bám sát thị trường để định ra cho mình một kết cấu sản phẩm thích hợp đồng thời phải tìm tòi nghiên cứu chế tạo ra các sản phẩm mới ưu việt hơn thay thế cho những sản phẩm đã lạc hậu, có như vậy mới có thể đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 1.4.1.1.3. Giá bán đơn vị sản phẩm. Trong điều kiện các nhân tố khác không biến động, giá bán đơn vị sản phẩm tăng hay giảm sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng hay giảm theo. Về nguyên lý, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá và xoay quanh giá trị hàng hoá. Việc tăng hay giảm giá bán sản phẩm do ảnh hưởng bởi các nguyên nhân : Nguyên nhân từ phía thị trường: Do tác động của quan hệ cung cầu trên thị trường làm cho giá bán sản phẩm thay đổi chẳng hạn như: lượng cung về sản phẩm ít hơn lượng cầu về sản phẩm đó. Nguyên nhân từ bản thân doanh nghiệp: doanh nghiệp đã chú trọng vào cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm làm cho giá bán sản phẩm tăng lên. Với cơ chế thị trường hiện nay, giá cả được hình thành tự phát trên thị trường theo sự thoả thuận giữa người mua và người bán, do đó doanh nghiệp có thể sử dụng giá cả như một công cụ để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu đưa ra một mức giá cả phù hợp với chất lượng sản phẩm được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiêu thụ sản phẩm của mình còn nếu như doanh nghiệp định giá cả quá cao người tiêu dùng không chấp nhận thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ bị ứ đọng. Vì vậy, để có một chính sách giá cả hợp lý đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm bắt được nhu cầu thị trường từ đó có chính sách giá cả phù hợp với thị trường. 1.4.1.1.4. Chất lượng sản phẩm. Trong cơ chế hiện nay, chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng bậc nhất góp phần thúc đẩy hay kìm hãm công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm là một vũ khí cạnh tranh sắc bén giúp doanh nghiệp có thể dễ dàng thắng lợi trước các đối thủ cạnh tranh khác. Chất lượng sản phẩm tố không chỉ làm tăng khối lượng tiêu thụ mà còn có thể nâng giá bán. Ngược lại, chất lượng sản phẩm thấp thì việc tiêu thụ sẽ khó khăn, nếu chất lượng quá thấp thì ngay cả khi giá bán rẻ vẫn không được người tiêu dùng chấp nhận. Việc đảm bảo chất lượng lâu dài còn có ý nghĩa là lòng tin của khách hàng đối với doanh nghiệp, là uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng. 1.4.1.1.5. Công tác bán hàng và thanh toán tiền hàng. Đây cũng là nhân tố quan trọng tác động tới tiêu thụ sản phẩm. Nếu doanh nghiệp áp dụng tổng hợp nhiều hình thức bán buôn, bán lẻ… thì tất yếu tiêu thụ nhiều sản phẩm hơn khi chỉ áp dụng một hình thức bán hàng. Quảng cáo sản phẩm sẽ đem đến cho khách hàng những thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó làm cho khách hàng biết đến doanh nghiệp nhiều hơn. Nếu là sản phẩm mới quảng cáo sẽ làm cho khách hàng khơi dậy những nhu cầu mới, để khách hàng tìm tới doanh nghiệp làm cho thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng mở rộng. Bên cạnh đó, việc tổ chức các dịch vụ vận chuyển, lắp ráp, bảo hành cũng sẽ làm cho khách hàng cảm thấy thuận lợi, yên tâm và thoải mái hơn khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Việc lựa chọn hình thức thanh toán thích hợp cũng sẽ góp phần làm tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Nếu doanh nghiệp áp dụng nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng tiền mặt, séc, thanh toán qua ngân hàng… hay là chính sách ưu đãi đối với khách hàng quen thuộc, khách hàng thanh toán ngay(thông qua chiết khấu giảm giá) thì chắc chắn là khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ nhiều hơn so với khi doanh nghiệp chỉ áp dụng một hình thức thanh toán. 1.4.1.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến giá thành tiêu thụ sản phẩm. Về cơ bản, giá thành tiêu thụ sản phẩm được cấu thành như sau: Công thức: Giá thành tiêu thụ sản phẩm = Giá thành sản xuất sản phẩm + Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp 1.4.1.2.1. Nhân tố giá thành sản xuất sản phẩm. Giá thành sản xuất sản phẩm là toàn bộ chi phí bỏ ra cho khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành. Giá thành sản xuất bao gồm: + Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp gồm: Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm. Đây là khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản xuất vì thế muốn hạ giá thành sản phẩm để tăng lợi nhuận, doanh nghiệp cần làm thế nào để tiết kiệm khoản chi phí này. + Chi phí nhân công trực tiếp: Là khoản phải trả cho người lao động trực tiếp tham gia sản xuất. Đây cũng là khoản chi phí ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản xuất và ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận doanh nghiệp, vì thế cần phải có chính sách lương hợp lý, để vẫn tiết kiệm chi phí hạ giá thành và tăng lợi nhuận doanh nghiệp vừa khuyến khích người lao động. + Chi phí sản xuất chung: Là những khoản chi phí phát sinh ở phân xưởng, như chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí khấu hao TSCĐ dùng trong doanh nghiệp. 1.4.1.2.2. Chi phí bán hàng. Là những khoản chi phí bỏ ra phục vụ cho quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp. Khoản chi phí này có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành tiêu thụ sản phẩm và lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải làm thế nào để giảm được khoản chi phí này. Tuy nhiên cần phải hợp lý để vừa hạ giá thành sản phẩm tiêu thụ tăng lợi nhuận doanh nghiệp, vừa không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp. 1.4.1.2.3. Chi phí quản lý doanh nghiệp. Là những chi phí cho việc quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và phục vụ chung khác liên quan đến hoạt động của cả doanh nghiệp. Khoản chi phí này ảnh hưởng không nhỏ đến giá thành tiêu thụ sản phẩm. Vì thế, doanh nghiệp cần phải tiết kiệm một cách hợp lý để giảm giá thành góp phần làm tăng lợi nhuận doanh nghiệp. 1.4.2. Một số phương hướng và biện pháp chủ yếu nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện nay. Muốn nâng cao lợi nhuận thì doanh nghiệp phải có phương hướng và biện pháp phù hợp. Phương hướng cơ bản và lâu dài hiện nay đó là tác động trực tiếp vào hai nhóm nhân tố nói trên. Mỗi nhóm nhân tố có sự ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp khác nhau, cho nên doanh nghiệp phải đưa ra được những phương hướng phù hợp với từng nhóm nhân tố. Và để thực hiện được những phương hướng này doanh nghiệp cần phải xây dựng được các biện pháp chủ yếu sau: 1.4.2.1. Phấn đấu giảm chi phí hoạt động kinh doanh hạ giá thành sản phẩm. Giảm chi phí hoạt động kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ là biện pháp cơ bản để tăng lợi nhuận. Nếu như giá bán và mức thuế đã được xác định thì lợi nhuận đơn vị sản phẩm tăng thêm hay giảm bớt là do giá thành sản phẩm quyết định. Xuất phát từ việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm thì các doanh nghiệp cần phải làm từ các vấn đề sau: - Tăng năng suất lao động: nghĩa là cần phải giảm bớt thời gian hao phí lao động để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc là tăng số lượng sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Để thực hiện được vấn đề này thì trước hết doanh nghiệp cần phải biết áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. Đây là nhân tố cực kỳ quan trọng cho phép các doanh nghiệp hạ thấp giá thành sản phẩm và thành công trong kinh doanh. Khoa học kỹ thuật phát triển đã tạo ra những công nghệ chế tạo mới, đã làm thay đổi nhiều điều kiện cơ bản của sản xuất như việc tiêu tốn nhiên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm ngày một ít. Việc tổ chức lao động và sử dụng con người cũng là một biện pháp cần thiết để tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong sản xuất. Việc tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, loại trừ được tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, có tác dụng lớn thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm dịch vụ. Điều quan trọng hơn và có ý nghĩa to lớn trong việc tổ chức quản lý lao động của một doanh nghiệp để nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành của doanh nghiệp là biết sử dụng yếu tố con người, biết động viên, bồi dưỡng kiến thức khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người làm cho họ gắn bó và cống hiến lao động, tài năng cho doanh nghiệp. Điều đó tạo ra một khả năng to lớn để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, vấn đề này đòi hỏi người giám đốc doanh nghiệp phải biết bồi dưỡng trình độ cho công nhân, nhân viên, quan tâm đến đời sống điều kiện làm việc của mỗi con người trong doanh nghiệp, biết động viên một cách kịp thời và thoả đáng. - Sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu tiêu hao: Thông thường đây là khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, nếu tiết kiệm những khoản chi phí này sẽ có tác dụng rất lớn đến hạ giá thành sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu phụ thuộc vào hai nhân tố: số lượng nguyên vật liệu tiêu hao và giá cả nguyên vật liệu. Do vậy để tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu doanh nghiệp cần phải: + Xây dựng một hệ thống định mức tiêu hao vật tư làm căn cứ cho việc thực hiện tiết kiệm. Với một hệ thống định mức tiêu hao đã được quy định, các chi phí về nguyên vật liệu sẽ được quản lý một cách có hiệu quả, tránh được tình trạng sử dụng lãng phí nguyên vật liệu mà vẫn đảm bảo được quá trình sản xuất liên tục. + Quản lý chặt chẽ nguồn hình thành nguyên vật liệu, không ngừng giáo dục ý thức người lao động trong việc sử dụng vật tư. Nguyên vật liệu được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn lại có một giá cả khác nhau, do vậy đòi hỏi cán bộ thu mua nguyên vật liệu phải biết tìm kiếm những nguồn cung cấp phù hợp, tổ chức tốt công tác thu mua, vận chuyển nguyên vật liệu về ._.tới doanh nghiệp tránh tình trạng để thiếu nguyên vật liệu cho sản xuất gây ngừng sản xuất. Việc giáo dục ý thức người lao động trong việc sử dụng nguyên vật liệu cũng rất quan trọng, nó góp phần làm tiết kiệm nguyên vật liệu tiêu hao từ đó làm giảm chi phí sản xuất sản phẩm. - Tiết kiệm chi phí gián tiếp: Đây là những khoản chi tiêu rất khó kiểm tra, kiểm soát và dễ bị lạm dụng vì vậy phải xây dựng được định mức chi tiêu cho từng hoạt động khi lập dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp và phải nghiêm chỉnh chấp hành. - Tổ chức quản lý sản xuất và tài chính: tổ chức quản lý tốt sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính là nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, tổ chức quản lý sản xuất đạt trình độ cao có thể giúp cho doanh nghiệp xác định mức sản xuất tối ưu làm cho giá thành sản phẩm hạ xuống. Nhờ vào việc bố trí các khâu sản xuất hợp lý có thể hạn chế sự lãng phí nguyên liệu, giảm thấp tỷ lệ sản phẩm hỏng. Vai trò của quản trị tài chính ngày càng tăng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp và tác động của nó đối với việc hạ giá thành, tăng lợi nhuận ngày càng mạnh mẽ. Tổ chức sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu mua sắm vật tư sẽ tránh được những tổn thất cho sản xuất như việc ngừng sản xuất do thiếu vật tư, nguyên vật liệu. Thông qua việc tổ chức sử dụng vốn kiểm tra được tình hình dự trữ vật tư, tồn kho sản phẩm, từ đó phát hiện ngăn chặn kịp thời tình trạng ứ đọng, mất mát, hao hụt vật tư, sản phẩm. Việc đẩy mạnh sự chu chuyển vốn có thể giảm sút nhu cầu vay vốn, và sẽ giảm bớt chi phí phải trả về lãi tiền vay. Tất cả sự tác động trên làm giảm bớt chi phí sản xuất, góp phần tích cực đến hạ giá thành sản phẩm. 1.4.2.2. Tăng số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là hai mặt của một quá trình sản xuất, thông thường sản phẩm sản xuất ra càng nhiều, chất lượng cao và đẩy mạnh việc tiêu thụ thì lợi nhuận thu được càng lớn. Vì vậy, tăng số lượng sản phẩm sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và đẩy mạnh công tác tiêu thụ là một biện pháp quan trọng để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh số lượng sản phẩm sản xuất ra bao nhiêu, chất lượng sản phẩm cao hay thấp và quá trình tiêu thụ được thực hiện tốt hay không tốt chủ yếu phụ thuộc vào trình độ trang bị kỹ thuật của máy móc thiết bị, phụ thuộc vào trình độ tay nghề của người lao động, trình độ quản lý sản xuất và khả năng nắm bắt thông tin thị trường của doanh nghiệp. Do vậy để làm tốt công tác tăng số lượng sản phẩm sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và đẩy mạnh tiêu thụ thì các doanh nghiệp phải làm tốt các biện pháp: - Để tăng số lượng sản phẩm sản xuất, các doanh nghiệp cần có sự đầu tư cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đầu tư về chiều rộng tức là phải mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường mua sắm máy móc thiết bị, sử dụng nhiều nhân công hơn để có thể tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn hơn, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp tiến hành đầu tư về chiều sâu tức là tăng cường cải tiến máy móc, thiết bị, nâng cấp mua sắm đổi mới, tăng công suất của máy, áp dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất nhằm mục đích tăng năng suất lao động, tạo nên thế lực mới cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời doanh nghiệp cần làm tốt khâu tổ chức quản lý và sử dụng lao động một cách hợp lý có hiệu quả, tổ chức tốt các hệ thống ca kíp, có đầy đủ cơ sở và quy trình phục vụ sản xuất thuận lợi, đảm bảo tận dụng mọi năng lực của người lao động cũng như của máy móc thiết bị. Song song với việc tăng thêm khối lượng sản phẩm sản xuất là việc không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở đầu tư cho chiều rộng bằng cách trang bị thêm máy móc thiết bị, tuyển thêm lao động có trình độ tay nghề cao, mở rộng quy mô sản xuất hoặc đầu tư theo chiều sâu như hiện đại hoá máy móc thiết bị, mạnh dạn áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất ngoài ra doanh nghiệp cũng cần phải luôn luôn quan tâm đến anh em công nhân lao động trong doanh nghiệp bằng cách có chế độ khen thưởng, khuyến khích vật chất cụ thể nhằm động viên người lao động gắn bó với công việc và có ý thức trách nhiệm quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà mình trực tiếp tạo ra. - Để nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần phải có sự đầu tư cải tiến máy móc thiết bị, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của máy móc khi sản xuất sản phẩm, đồng thời cần phải đảm bảo chất lượng của nguyên vật liệu từ khâu cung ứng cho đến khi được sử dụng vào sản xuất sản phẩm. Doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm tới công tác nâng cao tay nghề cho công nhân sản xuất, tăng năng suất lao động… Để có được thế mạnh về chất lượng sản phẩm đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ của các khâu trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ như vậy thì mục tiêu về chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp mới được thực hiện. - Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất, đây cũng là khâu quan trọng nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ khi nào sản phẩm được tiêu thụ hết thì doanh nghiệp mới có cơ sở để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất giản đơn được thực hiện. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ thì sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ hết là mong ước của tất cả các doanh nghiệp. Để đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải điều tra nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng và khoa học nhằm thu thập nắm bắt mọi thông tin, nhu cầu của thị trường trên cơ sở đó xây dựng một chính sách Marketing thích hợp. Nhưng muốn khâu tiêu thụ được đẩy mạnh thì yêu cầu đầu tiên đặt ra cho doanh nghiệp là sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo về chất lượng, chủng loại, mẫu mã và giá cả hợp lý, bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng nên đầu tư chi phí cho hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm… nhằm thu hút người tiêu dùng mua sản phẩm của doanh nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp cũng cần đa dạng hoá các hình thức bán hàng như: bán buôn, bán lẻ, bán trả góp… nhằm tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra với số lượng cao nhất. Tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ là một biện pháp hữu hiệu nhất để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều mong muốn bán hàng với số lượng cao nhất cho dù giá bán thấp hơn. Hiện nay, các doanh nghiệp có xu hướng bán hàng với giá bán thấp hơn. Cho dù lợi nhuận thu được trên một đơn vị sản phẩm có giảm, nhưng nhờ có giá bán giảm, khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng lên từ đó tổng lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được vẫn nhiều hơn. Chính vì vậy, mà trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, mọi doanh nghiệp đều tìm mọi biện pháp để thu hút khách hàng, đẩy mạnh công tác tiêu thụ nhằm bán được khối lượng hàng lớn nhất, từ đó thu được lợi nhuận cao nhất. 1.4.2.3. Tổ chức sử dụng vốn và nguồn vốn có hiệu quả Trong cơ chế thị trường để tạo ra lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả. Đối với vốn cố định doanh nghiệp cần phải lựa chọn cho mình một phương pháp khấu hao thích hợp, tận dụng tối đa năng lực hiện có, kết hợp với việc xử lý nhanh chóng số tài sản không cần dùng và chờ thanh lý để nhanh chóng quay vòng vốn, tránh được hao mòn vô hình và hữu hình. Đối với vốn lưu động, doanh nghiệp cần quản trị tốt các khoản phải thu, phải trả tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn, cần quản trị tốt vật tư hàng hoá tồn kho để tránh ứ đọng vốn, tránh mất mát hư hỏng qua đó tăng nhanh số vòng quay vốn lưu động. Như vậy có thể tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Về nguồn vốn, tuỳ thuộc điều kiện của mình các doanh nghiệp sẽ xây dựng cơ cấu nguồn vốn hợp lý, điều quan trọng là các doanh nghiệp phải biết sử dụng ảnh hưởng tích cực của đòn bầy tài chính để tăng lợi nhuận nhưng vẫn giữ được tính tự chủ về mặt tài chính. Trên đây là những biện pháp cơ bản để tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp. Nhưng trong thực tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều các yếu tố khác nhau: điều kiện tự nhiên, qui mô sản xuất, tình hình tài chính… Vì vậy, không có một biện pháp nào có thể sử dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh doanh cụ thể mà mỗi doanh nghiệp tìm ra các giải pháp thích hợp cho riêng mình. Chương 2: Tình hình thực hiện lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở Công ty in Báo Hà Nội mới 2.1. Tổng quan về tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty in Báo Hà Nội mới. 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty in báo Hà Nội mới. - Tên công ty: Công ty in Báo Hà Nội mới - Trụ sở chính: Số 35 Nhà Chung – Quận Hoàn Kiếm – Hà Nội Công ty in báo Hà Nội mới là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp nhân và chịu sự quản lý trực tiếp của Ban tài chính quản trị Thành uỷ Hà Nội, sử dụng ngân sách của Đảng đồng thời là cơ quan của Đảng bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam, thành phố Hà Nội. Hiện nay, trụ sở chính của công ty đóng tại số 35 Nhà Chung – quận Hoàn Kiếm – Hà Nội. Tiền thân của Công ty in báo Hà Nội mới là xí nghiệp in Hà Nội. Nhằm nâng cao vai trò công tác xây dựng Đảng và công tác tuyên truyền vận động quần chúng thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của Thủ đô, ngày 26/02/1957, Ban thường vụ thành uỷ Hà Nội ra nghị quyết số 93 NQ/ĐBHN về việc ra một tờ báo hàng ngày của Hà Nội. Ngày 24/10/1957 báo Thủ đô đầu tiên được ra mắt bạn đọc, đó là ngày thành lập báo Thủ đô và cũng là ngày thành lập nhà in báo Thủ đô. Ngày 01/01/1968 theo chủ trương của Trung ương Đảng là sáp nhập báo Thủ đô Hà Nội với báo Thời Mới và chính thức đổi tên là báo Hà Nội mới, còn nhà in cũng được đổi tên là nhà in báo Hà Nội mới. Số báo Hà Nội mới đầu tiên được phát hành vào ngày 30/01/1968. Ngày 23/03/1970, Uỷ ban hành chính thành phố Hà Nội ra quyết định số 007 UB/CN sáp nhập xí nghiệp Lê Cường (nhà in của Sở thông tin) và nhà in báo Hà Nội mới. Nhưng trên thực tế, đây vẫn là hai cơ sở sản xuất riêng biệt. Vì vậy, ngày 03/09/1973, Uỷ ban hành chính thành phố Hà Nội ra quyết định số 129 UB/CN, tách xưởng in thuộc xí nghiệp in Hà Nội số 35 Nhà Chung- quận Hoàn Kiếm thành xí nghiệp in báo Hà Nội mới. Cùng với sự đi lên và phát triển của đất nước, xí nghiêp in báo Hà Nội mới trở thành một xí nghiệp in báo chuyên nghiệp, có bề dày kinh nghiệm trong cả nước. Ngày 01/01/2000 thực hiện quyết định số 49 ngày 15/12/1999 của Thường vụ Thành uỷ Hà Nội và quyết định số 378 ngày 27/01/2000 của UBND thành phố Hà Nội về việc sáp nhập Công ty sản xuất dịch vụ Thăng Long vào Xí nghiệp in báo Hà Nội mới thành công ty in báo Hà Nội mới. Kể từ ngày 01/01/2000, Công ty in báo Hà Nội mới có thêm một số nhiệm vụ chủ yếu: kinh doanh vật liệu in nhập khẩu, kinh doanh bất động sản. Khi mới thành lập, Công ty in báo Hà Nội mới là một công ty có năng lực in yếu kém do máy móc thiết bị thiếu thốn và lạc hậu, công nghệ in chủ yếu là typo. Nhằm đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật in, năm 1980 Công ty đã mạnh dạn đề nghị với cấp trên mua 2 máy in offset thay cho kỹ thuật sắp chữ in typo trước đây. Năm 1988, thành phố cấp vốn cho công ty là 23.000 đôla để mua 4 máy chữ điện tử XT, 2 máy đặt trang AT, 1 máy in laser và 1 máy in kim. Để có máy chữ điện tử thay thế khi bị hỏng nhằm phục vụ tờ báo và nhận in thêm báo, tạp chí, tập san của Trung ương và Hà Nội, năm 1989 Công ty đã bỏ vốn tự có 200 triệu đồng mua thêm 4 máy chữ điện tử, 2 máy đặt trang, 1 máy in laser và 1 máy in kim. Do có máy móc hiện đại nên thời gian cho ra sản phẩm được rút ngắn, góp phần cải tiến điều kiện làm việc của công nhân sản xuất. Việc trang bị máy chữ điện tử đã tạo ra sự chuyển biến mới về kỹ thuật in và là bước ngoặc cơ bản trong việc phát triển của công ty. Do có sự cạnh tranh gay gắt của thị trường ngành in, mọi nhà in đều đua nhau mua sắm thiết bị hiện đại để lôi kéo khách hàng. Cho nên vào năm 1994 bằng vốn tự có cộng với vốn ngân sách cấp, công ty đã đầu tư 12 tỷ đồng để mua máy in hiện đại (máy in tờ rời MP94). Sau 4 năm đưa vào hoạt động, đến năm 1998 máy in mới đã thu hồi đủ vốn và tạo điều kiện cho công ty có thể đầu tư tiếp 15 tỷ đồng vào máy in Cromoman. Với trang thiết bị có thể coi là hiện đại nhất lúc bấy giờ, công ty in báo Hà Nội mới trở thành xí nghiệp in hàng đầu, đặt tiêu chí chất lượng sản phẩm và thoả mãn đòi hỏi của khách hàng là nhiệm vụ tiên quyết. Quan điểm này của công ty thực sự phù hợp với cơ chế thị trường và sớm trở thành nguồn động lực để công ty tiếp tục phát triển. Đến năm 2002, công ty lại quyết định đầu tư 23 tỷ đồng (trong đó 14,9 tỷ đồng là nguồn vốn đi vay) vào dây chuyền máy in màu Cromoman 2. Kết quả là số lượng sản phẩm của công ty không ngừng tăng lên: từ năm 1994 đến năm 2002, số lượng sản phẩm đã tăng lên gấp 3 lần cùng với sự tăng lên của chất lượng sản phẩm: các trang in màu sắc nét đẹp, các trang in chữ sạch rõ ràng, khó phai, chất lượng giấy đảm bảo. Cho đến nay, sản lượng của công ty tiếp tục tăng lên đều đặn. Trải qua giai đoạn phấn đấu và phát triển hơn 45 năm, hiện nay công ty có một cơ sở vật chất vững mạnh, bao gồm: Về nhà xưởng có: nhà 4 tầng mái bằng, nhà 2 tầng mái bằng, nhà 1 tầng mái bằng trên diện tích sử dụng 1500m2 Về trang thiết bị có: 2 máy in offset cuốn 4 màu Cromoman (Đức), 2 máy đặt trang Delloptiplex 5133 và 5166, 2 máy in laser, hệ thống máy tính và các thiết bị khác dùng cho phân xưởng, văn phòng. Không ngừng lớn mạnh và phát triển, công ty đã khắc phục mọi khó khăn vươn lên bằng sự chỉ đạo sáng suốt của ban giám đốc, lãnh đạo công ty, công ty đã giành được thắng lợi tạo niềm tin đối với toàn thể nhân viên trong công ty, đứng vững được trong thị trường ngành in, đồng thời xây dựng được uy tín với khách hàng. Bằng chỉ tiêu sau đây cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong mấy năm qua có sự tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước cả về doanh thu cũng như việc thực hiện kế hoạch nộp ngân sách Nhà nước, ngân sách Đảng và cải thiện đời sống người lao động. Một số chỉ tiêu về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty in báo Hà Nội mới. Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 1.giá trị sản xuất CN 18.802.000.000 22.186.360.000 23.411.000.000 24.019.000.000 2.tổng doanh thu 55.838.007.268 57.742.556.194 66.183.353.743 73.186.992.157 3.tổng lợi tức trước thuế 8.064.584.281 8.274.517.078 9.579.347.402 10.938.743.511 4.tổng nộp ngân sách 5.626.920.513 6.209.819.173 6.310.550.919 8.100.470.340 5.thu nhập bình quân/ tháng 2.300.000 2.311.000 2.783.161 3.121.136 2.1.2. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của công ty in báo Hà Nội mới. 2.1.2.1. Sản phẩm Công ty in báo Hà Nội mới là một doanh nghiệp nhà nước có nhiệm vụ gia công in các loại như: - Nhiệm vụ trọng tâm của công ty in báo Hà Nội mới các loại hàng ngày, Hà Nội mới chủ nhật, Hà Nội mới tin chiều, Hà Nội mới cuối tuần… - Bìa Báo thiếu niên tiền phong - Các loại báo: báo Phụ nữ Việt Nam, Công an nhân dân, Pháp luật, An ninh Thủ đô, An ninh Hải Phòng, an ninh Thế giới, Đại đoàn kết, Giao thông vận tải, kinh tế đô thị, Báo Thế giới… - Tạp chí: Người làm báo, Thế giới…, dân trí… Ngoài ra công ty còn kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư ngành in, kinh doanh bất động sản. 2.1.2.2. Bộ máy tổ chức sản xuất của công ty in báo Hà Nội mới Để đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo sự tồn tại và phát triển đứng vững trên thị trường nên bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến, bộ máy quản lý gọn nhẹ theo chế độ một thủ trưởng. Đứng đầu công ty là Giám đốc, giúp việc cho giám đốc là Phó giám đốc. Tiếp theo là hệ thống phòng ban, như: Phòng tổ chức hành chính, Phòng tài vụ thống kê, Phòng tổng hợp, phòng vật tư kinh doanh xuất nhập khẩu, Phân xưởng sản xuất. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty Giám đốc Phó Giám đốc Phòng Tổ chức hành chính Phòng Tài vụ Phòng vật tư Phòng Tổng hợp Phân xưởng chế bản Phân xưởng sản xuất Chức năng- nhiệm vụ của từng bộ phận trong doanh nghiệp *Giám đốc: là người đại diện pháp nhân của công ty, chịu trách nhiệm về tình hình hoạt động kinh doanh, là người giữ vai trò lãnh đạo chung toàn công ty, chỉ đạo trực tiếp đến từng phòng ban của công ty. Giám đốc chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước cơ quan chủ quản cấp trên của đơn vị là ban tài chính quản trị thành uỷ Hà Nội về mọi hoạt động kinh doanh của công ty đồng thời đại diện cho quyền lợi của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty. *Phó giám đốc: là người giúp việc đắc lực cho giám đốc trong quá trình thực hiện các chức năng nhiệm vụ chính của mình, cùng nhau bàn bạc thảo luận về các vấn đề thuộc chức năng nhiệm vụ của người quản lý: Quản lý điều hành quá trình sản xuất, máy móc thiết bị, tham gia giải quyết các sự cố về kỹ thuật vượt quá khả năng của phân xưởng. Chỉ đạo sản xuất theo kế hoạch. Chỉ đạo kế hoạch tác nghiệp tại các phân xưởng. Quản lý kỹ thuật, chất lượng sản phẩm. Chỉ đạo xây dựng các định mức vật tư. Quản lý thực hiện vệ sinh an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp. *Các phòng ban chuyên môn: - Phòng tổ chức hành chính: là phòng nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc công tác xây dựng và chỉ đạo tổ chức cán bộ công nhân viên toàn công ty. Quản lý, đề bạt, bố trí lao động trong công ty. Phòng có nhiệm vụ bố trí sắp xếp lao động trong công ty về số lượng, trình độ tay nghề của từng phòng ban phân xưởng. Phòng cũng có nhiệm vụ tổ chức, thực thi các công việc hành chính khác như: tiếp khách, bố trí sắp xếp phòng làm việc cũng như trang thiết bị văn phòng khác. - Phòng tài vụ thống kê: giúp giám đốc trong lĩnh vực thống kê, kế toán tài chính, đồng thời có trách nhiệm trước nhà nước theo dõi kiểm tra giám sát tình hình thực hiện kế hoạch thu chi tiền và hạch toán kinh tế nhằm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Phòng vật tư kinh doanh xuất nhập khẩu: xây dựng và thực hiện kế hoạch cung ứng vật tư, nhiên liệu phục vụ yêu cầu sản xuất, theo dõi nhập – xuất – tồn. Cung ứng vật tư trong nước và vật tư nhập khẩu cho bộ phận sản xuất, bảo quản kho hàng. - Phòng tổng hợp: giúp giám đốc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phục vụ yêu cầu đối ngoại của công ty. Tổng hợp, phân tích thông tin, xử lý thông tin chính xác và có hiệu quả theo yêu cầu của giám đốc, giúp giám đốc trong việc xây dựng đường lối, chiến lược kinh doanh. *Phân xưởng sản xuất (bao gồm phân xưởng chế bản và phân xưởng máy in): Tiến hành sản xuất sản phẩm hay là hoàn thành một giai đoạn trong quá trình sản xuất. Căn cứ vào nhiệm vụ của công ty giao cho phân xưởng, phân xưởng tiến hành mọi hoạt động cần thiết để ra sản phẩm đúng đủ đảm bảo chất lượng. 2.1.2.3. Đặc điểm về cơ cấu tổ chức sản xuất Công ty tổ chức sản xuất theo quy trình công nghệ khép kín, gia công theo các hợp đồng in. Căn cứ vào quy trình công nghệ và kỹ thuật in báo công ty tổ chức thành 2 phân xưởng: phân xưởng chế bản và phân xưởng máy in. Theo quy trình này, khách hàng đến ký hợp đồng tại phòng Tổng hợp. Nơi đây, khách hàng đề xuất những yêu cầu cho sản phẩm in của mình về kích cỡ, màu sắc, chất lượng giấy, thời gian giao hàng, giá cả và những thông tin cần thiết khác trong hợp đồng kinh tế. Mô hình sản xuất và quy trình công nghệ Phòng tổng hợp Khách hàng Phân xưởng máy in Phân xưởng chế bản Sắp chữ In Sửa bài OTK Tổ đóng gói sách Phân màu kho Mi phim Phơi bản Phân xưởng chế bản gồm: tổ sắp chữ điện tử, tổ sửa bài, tổ mi phim, tổ chụp ảnh, tổ phơi bản. Tại đây, bông bài được sắp xếp và hiệu chỉnh trên các máy móc thiết bị hiện đại để hình thành sơ lược thành trang in. Tiếp theo tạo thành các bản in để chuyển cho phân xưởng in tiến hành công đoạn in. Phân xưởng in gồm có: tổ máy in cuốn, tổ máy in offset tờ rời, tổ kiểm tra chất lượng OTK, tổ máy gấp, tổ sách, tổ máy xén. Bông bài từ phòng tổng hợp được đưa xuống đây để phân xưởng bố trí lao động, máy móc thời gian hợp lý, chia ca, chia giờ, để có kế hoạch làm việc có hiệu quả tốt, kịp thời gian của khách hàng giao. Khi nhận bản in từ phân xưởng chế bản, qua các khâu in ấn, đóng gói, sản phẩm đựơc lưu giữ trong kho rồi chuyển lại cho khách hàng vào đúng thời hạn giao hàng. Với quy trình công nghệ như vậy giúp cho công ty chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong sản xuất. Mối quan hệ khăng khít này khiến cho các bộ phận trong dây chuyền luôn phải phấn đấu vì mục tiêu chung nên năng suất và kết quả sản xuất của công ty tăng lên đều đặn. Không những thế, khả năng kiểm tra kiểm soát của đơn vị đối với từng công đoạn sản xuất rõ ràng và minh bạch, khi bất kỳ sai sót nào xảy ra cũng dễ dàng kiểm soát và khống chế. 2.1.2.4. Tổ chức bộ máy kế toán tại công ty. Tổ chức bộ máy kế toán của công ty luôn hướng tới việc thực hiện các nguyên tắc sau: - Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của kế toán trưởng. - Phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của đơn vị, tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên kế toán nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn. - Gọn nhẹ, tránh những khâu trung gian không cần thiết. Căn cứ vào khối lượng công tác kế toán nhiều hay ít, nghiệp vụ kinh tế phức tạp hay đơn giản mà bố trí cơ cấu bộ máy kế toán và phân công người phụ trách. Do đặc điểm tổ chức bộ máy và yêu cầu quản lý quy mô hoạt động sản xuất nên Công ty in Báo Hà Nội mới áp dụng hình thức tổ chức công tác kế toán tập trung. Toàn bộ công tác kế toán được thực hiện tập trung tại phòng kế toán của công ty từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp báo cáo và kiểm tra kế toán chi tiết đến hạch toán tổng hợp, các phân xưởng không có kế toán riêng. Bộ máy kế toán của công ty được thiết lập thep kiểu trực tuyến. Phòng tài vụ – Thống kê được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc công ty còn các nhân viên trong phòng được điều hành trực tiếp từ kế toán trưởng. Các phần hành kế toán đều có trách nhiệm liên hệ với kế toán tổng hợp để hoàn thành ghi sổ tổng hợp hoặc lập báo cáo định kỳ chung ngoài báo cáo phần hành. Quan hệ giữa các lao động kế toán phần hành là quan hệ ngang, có tính chất tác nghiệp, không phải là quan hệ trên dưới có tính chất chỉ đạo. Sơ đồ: Cơ cấu bộ máy kế toán của công ty in Báo Hà Nội mới. Kế toán trưởng Kế toán vật tư, tài sản Kế toán thanh toán Kế toán tiền lương Kế toán tổng hợp Thủ quỹ Dưới đây ta xem xét vai trò cụ thể của từng kế toán: * Kế toán trưởng ( kiêm trưởng phòng ): là người giúp việc cho giám đốc về công tác chuyên môn, phổ biến chủ trương và chỉ đạo công tác chuyên môn của bộ phận kế toán, chịu trách nhiệm trước cấp trên và chấp hành luật pháp chế độ tài chính hiện hành. Kế toán trưởng có nhiệm vụ kiểm tra, tổng hợp, cân đối mọi số liệu phát sinh trong các tài khoản, lập báo cáo kế toán, tham mưu cho giám đốc về quản lý tài chính phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh ở công ty, đồng thời hướng dẫn đôn đốc mọi bộ phận kế toán chấp hành nghiêm chỉnh các quy định, các chế độ kế toán do nhà nước quy định. Kế toán trưởng còn có trách nhiệm kiểm tra tình hình tài chính về vốn và huy động vốn, thực hiện tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả, khai thác các khả năng tiềm năng của tài sản, cung cấp các thông tin và tình hình tài chính một cách trung thực, chính xác và kịp thời để ban giám đốc ra quyết định kinh doanh có hiệu quả tối ưu. * Kế toán thanh toán: là một nhân viên kế toán phụ trách về vấn đề các khoản thanh toán của công ty như: đối với nhà cung cấp khi mua các yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất, với khách hàng trong quan hệ mua bán với công ty, với ngân hàng, cũng như với ngân sách nhà nước… Kiểm tra, kiểm soát các chứng từ hoá đơn hợp lệ đã được ký duyệt để lập phiếu thu chi, định khoản theo đúng tính chất của nội dung kinh tế đã được phản ánh và để thanh toán thu chi kịp thời. Phân loại kê khai các hoá đơn được hoàn thuế theo quy định của nhà nước. Thường xuyên nắm và quản lý tiền mặt thu chi hàng ngày, đối chiếu xác định số tồn quỹ cuối ngày để có số liệu chính xác báo cáo trưởng phòng và giám đốc. Xác định doanh thu bán hàng trong kỳ. Mở sổ sách theo dõi chi tiết từng khách hàng, từng khoản công nợ phải thu phải trả, thanh toán tiền hàng cho khách hàng phải đủ chứng từ hợp lệ và đã được giám đốc ký duyệt. Thường xuyên đối chiếu công nợ phải thu, công nợ phải trả để thanh toán dứt điểm. * Kế toán tổng hợp: Tập hợp đầy đủ mọi chi phí phát sinh để tính giá thành sản phẩm. Xác định kết quả kinh doanh của các hoạt động sản xuất kinh doanh trong công ty cũng như thực hiện công tác kế toán cuối kỳ, giữ sổ cái tổng hợp cho tất cả các phần hành và ghi sổ cái tổng, lập báo cáo nội bộ và cho bên ngoài đơn vị theo định kỳ báo cáo ( như báo cáo tài chính nộp cơ quan thuế, cấp trên, tổng cục thống kê…) hoặc theo yêu cầu đột xuất. * Kế toán vật tư, tài sản: Theo dõi, ghi chép tính toán giá thành thực tế của từng loại nguyên vật liệu, quản lý theo dõi tình hình nhập xuất của từng loại nguyên vật liệu, xác định tình hình tồn kho thường xuyên theo số lượng và giá trị, thường xuyên kiểm tra đánh giá chất lượng thực tế của vật tư tồn kho, lập các báo cáo, báo biểu, kiểm kê định kỳ để phục vụ cho công tác tổng hợp và quyết toán. Lập sổ sách theo dõi hạch toán kế toán, lập thẻ theo dõi từng loại TSCĐ và phản ánh giá trị hao mòn hàng năm của TSCĐ để tính giá trị còn lại của TSCĐ của kỳ báo cáo. Ghi chép tình hình tăng giảm, mua sắm xây dựng cũ mới của từng loại TSCĐ. * 2 kế toán tiền lương và thông kê phân xưởng: với đặc điểm là lương khoán, lương của công nhân viên và cán bộ viên chức trong công ty được thanh toán vào thứ 6 hàng tuần nên công việc của kế toán tiền lương tương đối vất vả. Do vậy, trong bộ máy kế toán của đơn vị có 2 kế toán tiền lương và thống kê phân xưởng để phục vụ cho đặc thù quản lý của công ty. Kế toán lương có nhiệm vụ nhận bản chấm công, phiếu giao nhận sản phẩm, phiếu giao khoán, biên bản kiểm tra chất lượng sản phẩm, công việc hoàn thành… từ các phân xưởng chuyển lên, sau đó tiến hành ghi chép, tổng hợp số liệu về số lượng, thời gian và kết quả lao động, tính lương, trích các khoản theo lương, BHXH, BHYT và kinh phí công đoàn, phân bổ chi phí nhân công đúng đối tượng sử dụng lao động và thanh toán cho người lao động. * Thủ quỹ: Nắm được các nguyên tắc quản lý thu chi tiền mặt của nhà nước và công ty quy định. Căn cứ vào các phiếu thu chi đã lập, nguồn tiền thu vào chi ra phải có chứng từ hợp lệ, được cấp có thẩm quyền ký duyệt. Xác định, đóng dấu trên hoá đơn số tiền thu chi rõ ràng vào bản kê bán hàng thường xuyên kịp thời. 2.1.3. Thuận lợi và khó khăn của Công ty. 2.1.3.1. Thuận lợi Công ty in Báo Hà Nội mới là doanh nghiệp của Đảng hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước vì thế Công ty được sự quan tâm của các cấp trên, được sử dụng ngân sách Đảng, được sớm tiếp nhận chính sách Đảng và Nhà nước ban hành cho nên sớm tiếp thu được đường lối phát triển đúng đắn. Do là đơn vị gia công sản xuất theo đơn đặt hàng vì thế không thực hiện khâu tiêu thụ và không có sản phẩm ế thừa, đây có thể nói là thuận lợi hết sức quan trọng đối với công ty. 2.1.3.2. Khó khăn Do cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế nói chung và cạnh tranh gay gắt trong thị trường ngành In nói riêng, cho nên Công ty luôn không ngừng đổi mới máy móc thiết bị, hoàn thiện sản phẩm để có sức cạnh tranh trên thị trường, hấp dẫn khách hàng. Do tính chất công việc cho nên chủ yếu là công nhân của Công ty phải làm ca và làm đêm. 2.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty in Báo Hà Nội mới trong một số năm gần đây. Từ những cơ sở vật chất ban đầu rất thiếu thốn (máy móc thiết bị lạc hậu; trình độ, tay nghề của công nhân chưa cao) Công ty in Báo Hà Nội mới đã nỗ lực không ngừng phấn đấu đi lên. Từ chỗ thành phố phải cấp vốn, nay Công ty đã chủ động bỏ vốn của mình ra để đầu tư đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo tay nghề cho công nhân, từ đó chất lượng sản xuất của công ty không ngừng tăng lên. Hiện nay, Công ty đã từng bước đứng vững trong cơ chế thị trường, có sức hấp dẫn trong cạnh tranh, và cũng chính bởi sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, công nhân viên mà Công ty không những đã vượt qua rất nhiều khó khăn mà hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng ngày càng tăng lên một cách đáng kể, doanh thu và lợi nhuận làm ra ngày càng nhiều, đời sống của anh chị em công nhân ngày càng được cải thiện. Đó là động lực to lớn thúc đẩy Công ty phấn đấu hơn nữa trong những năm tiếp theo. Để thấy được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty một số năm gần đây ta xem xét qua bảng sau: (Bảng 01). Qua số liệu ở bảng 01 cho ta thấy: Trong những năm gần đây kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty in Báo Hà Nội mới rất đáng được khích lệ, hầu hết các chỉ tiêu đều tăng và ổn định qua các năm, biểu hiện cụ thể là: * Giá trị sản xuất công nghiệp: năm 2005 tăng hơn so với năm 2004, với mức tăng là 608 000 000(đ) và với tỷ lệ tăng là 2,6%. * Về chỉ tiêu hiện vật (Sản lượng tờ báo): năm 2005 tăng hơn so với năm 2004, với mức tăng là 6 999 782(tờ ) và với tỷ lệ tăng là 4,86%. * Về chỉ tiêu doanh thu thuần: năm 2005 Công ty đạt được mức doanh thu thuần là 71 651 888 974(đ), tăng 6 464 074 018(đ) tương ứng với tỷ lệ tăng là 9,92% so với năm 2004. Qua 2 chỉ tiêu trên cho ta thấy, năm 2005 Công ty đã rất nỗ lực trong việc phấn đấu tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Từ đó, làm cho doanh thu tăng lên. Đây là biểu hiện rất tốt, nói lên thành tích của Công ty trong việc phấn đấu mở rộng quy mô, mở rộng thị trường… Điều này có ý nghĩa rất lớn, góp phần làm tăng lợi nhuận của Công ty. * Về chỉ tiêu lợi nhuận: Năm 2005 là năm công ty thu được tổng số lợi nhuận cao nhất từ trước tới nay, với tổng lợi nhuận trước thuế là: 10 938 743 511(đ), tăng 1 359 396 109(đ), tương ứng với tỷ lệ tăng là 14,19% so với năm 2004. Trong tổng số lợi nhuận đạt được đó, thì chủ yếu là lợi nhuận sản xuất kinh doanh. Năm 2005 lợi nhuận sản xuất kinh doanh của Công ty là 9 357 998 116(đ), chiếm 85,55%. Còn lại, lãi hoạt động tài chính chiếm 14,19%, lãi hoạt động khác chiếm 0,26%. Vì thế, trong những năm tới Công ty cần chú trọng đầu tư hoạt động khác để thu lợi nhuận góp phần làm tăng tổng lợi nhuận của công ty. Việc năm 2005 Công ty thu được lợi nhuận cao như thế là vì năm 2004 là năm Công ty đạt được mức doanh thu cao nhất từ trước tới nay. Mặt khác, năm 2005 công tác quản lý chi phí, giá thành của Công ty khá tốt. Đây có thể nói._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32286.doc
Tài liệu liên quan