Lời nói đầu
Nói đến sản xuất kinh doanh, dù trong hình thái kinh tế xã hội nào, vấn đề quan tâm trước nhất vẫn là hiệu quả. Hiệu quả là mục tiêu phấn đấu của mọi nền sản xuất, là thước đo trình độ về mọi mặt của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự lấy thu bù chi, đảm bảo có lãi. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh gnhiệp biểu hiện tập trung ở lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong quá trình sản xuất kinh doanh
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lợi nhuận và các phương hướng, biện pháp chủ yếu nâng cao lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
Sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận cao là điều kiện tiền đề để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Ngược lại, nếu doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ thì khó có thể đứng vững trên thị trường. Lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy kinh tế có hiệu lực nhất, kích thích mạnh mẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phấn đấu để có lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng nhiều là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Chính vì vậy cần đi sâu nghiên cứu tìm hiểu các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận.
Để giải quyết vấn đề quan trọng này, trong qua trình thực tập tại Công ty Giầy Thuỵ Khuê, với sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo Nguyễn Minh Hoàng, các thầy cô giáo trong bộ môn Tài chính doanh nghiệp, các cô chú lãnh đạo, đặc biệt là các cô chú phòng Tài chính – kế toán, em đã dần được tiếp cận thực tiễn, lấy thực tiễn làm sáng tỏ lý luận đã học, bước đầu tập dượt, vận dụng lý luận đó vào thực tiễn phân tích đánh giá thực tiễn hoạt động kinh doanh của Công ty, em đã mạnh dạn đi sau nghiên cứu và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp với đề tài:
"Lợi nhuận và các phương hướng, biện pháp chủ yếu nâng cao lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê" Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lợi nhuận và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng về kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty Giầy Thuỵ Khuê
Chương III: Một số ý kiến đề xuất về phương hướng và biện pháp tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê.
Chương I
Lợi nhuận và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1.1/Lợi nhuận và doanh lợi của doanh nghiệp.
1.1.1/Lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.1.1.1/Khái niệm và nội dung cơ bản.
Ngày 12/6/1999, Luật Doanh nghiệp đã được nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2000, trong đó nêu rõ: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Cũng theo luật Doanh nghiệp, “kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”.
Như vậy, cái mà một thời chúng ta không mấy coi trọng, lợi nhuận, đã được pháp luật ngày nay thừa nhận là mục tiêu chủ yếu và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Dưới góc độ doanh nghiệp, lợi nhuận là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí để có được doanh thu đó.
Lợi nhuận nói chung được xác định theo công thức:
Lợi nhuận = Doanh thu - chi phí.
Doanh thu là toàn bộ những khoản tiền thu được do các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đem lại. Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm doanh thu về tiêu thụ sản phẩm, doanh thu từ hoạt động tài chính, và doanh thu từ các hoạt động bất thường.
Chi phí là những khoản chi mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được doanh thu đó. Chi phí cũng bao gồm nhiều loại: Những khoản chi phí về vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (chi phí nguyên vật liệu, năng lượng, khấu hao máy móc thiết bị...), những khoản chi phí để trả lương cho người lao động nhằm bù đắp những hao phí lao động sống cần thiết mà họ đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, những khoản chi mà doanh nghiệp phải chi ra để làm nghĩa vụ với Nhà nước - các khoản thuế mà doanh nghiệp phải nộp theo luật định (Thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp...).
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến doanh thu và chi phí bỏ ra. Để hoạt động có hiệu quả, doanh nghiệp cần có biện pháp tăng doanh thu hợp lý. Bên cạnh đó, phải không ngừng phấn đấu giảm chi phí, xác định đúng đắn các loại chi phí hợp lý, hợp lệ, loại bỏ những chi phí không hợp lệ, trên cơ sở đó giúp doanh nghiệp xác định được giá bán hợp lý và có lãi.
Các hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường rất đa dạng và phong phú, do vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp cũng bao gồm nhiều bộ phận khác nhau:
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chính và phụ: Là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí của khối lượng sản phẩm hàng hoá lao vụ, dịch vụ thuộc các hoạt động kinh doanh chính và phụ của doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường cạnh tranh sôi động, ít có doanh nghiệp nào lại chịu an phận bó hẹp hoạt động của mình trong một lĩnh vực duy nhất. Từ các hoạt động khác như liên doanh liên kết, góp vốn cổ phần, mua bán chứng khoán... doanh nghiệp thu được lợi nhuận hoạt động tài chính. Từ các hoạt động mang tính chất đột xuất, không thường xuyên như nhượng bán thanh lý tài sản cố định... doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
1.1.1.2/Phương pháp xác định lợi nhuận.
Công thức:
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh =Doanh thu về tiêu thụ sản phẩm –Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ –Thuế gián thu (nếu có).
Trong đó:
Doanh thu về tiêu thụ sản phẩm không bao gồm giá trị hàng bán bị trả lại, giảm giá hàng bán.
Giá thành toàn bộ =Trị giá vốn hàng bán +Chi phí bán hàng + Chi phí QLDN.
(Trị giá vốn hàng bán đối với doanh nghiệp sản xuất chính là giá thành sản xuất của khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ, đối với doanh nghiệp thương mại là trị giá mua vào của hàng bán ra.)
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính= Doanh thu từ hoạt động tài chính –Chi phí hoạt động tài chính.
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường =Doanh thu từ hoạtt động bất thường –Chi phí hoạt động bất thường.
Lợi nhuận trước thuế =Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh +Lợi nhuận từ hoạt động tài chính +Lợi nhuận hoạt động bất thường.
Lợi nhuận sau thuế (Lợi nhuận ròng) = Lợi nhuận trước thuế –Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Lợi nhuận là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, tuy nhiên, việc sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn một số hạn chế:
Là một chỉ tiêu mang tính chất tổng hợp, lợi nhuận hàm chứa trong nó ảnh hưởng của cả nhân tố khách quan và chủ quan đã có sự bù trừ lẫn nhau. Chính sự bù trừ lẫn nhau giữa các nhân tố này đã che lấp kết quả cuối cùng, cái mà doanh nghiệp, bằng nỗ lực chủ quan của mình, đạt được.
Mặt khác, sẽ là rất khập khiễng nếu đem so sánh lợi nhuận tuyệt đối của doanh nghiệp này đối với doanh nghiệp khác trong khi bản thân các doanh nghiệp này lại không giống nhau về điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện giao thông vận tải, điều kiện thị trường...không giống nhau về cả quy mô lẫn trình độ trang bị kỹ thuật của ngành sản xuất...
Vì những lý do nêu trên, để có thể xem xét hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp một cách toàn diện từ những góc độ khác nhau, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối, người ta còn sử dụng các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp: tỷ suất lợi nhuận,
1.1.2/Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời.
Song song với việc sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận, trong phân tích kinh tế, người ta còn sử dụng các chỉ tiêu tương đối để đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, đó là các tỷ suất lợi nhuận, còn gọi là doanh lợi.
Doanh lợi là một chỉ tiêu tương đối phản ánh quan hệ so sánh giữa lợi nhuận thu được trong kỳ với các yếu tố có liên quan đến việc tạo ra lợi nhuận.
Có nhiều cách xác định doanh lợi, song chúng đều có chung mục đích là đưa các doanh nghiệp có những điều kiện sản xuất không giống nhau về cùng một mặt bằng so sánh. Bên cạnh đó, chỉ tiêu doanh lợi còn cho phép ta so sánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các thời kỳ khác nhau trong cùng một doanh nghiệp. Dưới đây là một số chỉ tiêu doanh lợi thường được sử dụng.
1.1.2.1/Doanh lợi vốn.
Doanh lợi vốn là quan hệ giữa lợi nhuận thu được với số vốn bình quân sử dụng trong kỳ.
Công thức xác định như sau:
DLv(%) =
Trong đó:
DLv: Doanh lợi vốn.
Vbq: Vốn bình quân sử dụng trong kỳ.
Tuỳ theo mục đích phân tích mà vốn bình quân có thể là vốn kinh doanh bình quân, vốn cố định bình quân, vốn lưu động bình quân...
Ln: Lợi nhuận thu được trong kỳ.
Lợi nhuận thu được trong kỳ có thể là lợi nhuận trước thuế, hoặc lợi nhuận sau thuế.
Doanh lợi vốn chỉ ra rằng: Cứ 100 đồng vốn bình quân trong kỳ góp phần tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận (lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế). Đây là chỉ tiêu tổng hợp nói lên trình độ sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn của doanh nghiệp, thông qua đó, kích thích doanh nghiệp tìm ra các biện pháp nhằm tận dụng mọi tiềm năng sẵn có, khai thác sử dụng vốn có hiệu quả.
1.1.2.2/Doanh lợi giá thành.
Doanh lợi giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận đạt được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh với giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá dịch vụ tiêu thụ trong kỳ.
Công thức xác định:
Dlg(%) =
Trong đó:
Dlg: Doanh lợi giá thành.
Ztb: Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Lnkd: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
(Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh có thể là lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế).
Doanh lợi giá thành cho thấy: Cứ bỏ ra 100 đồng chi phí cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kỳ sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận, nói một cách khác, đây là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả của những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
1.1.2.3/Doanh lợi doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Doanh lợi doanh thu tiêu thụ sản phẩm là quan hệ giữa lợi nhuận đạt được từ hoạt động sản xuất kinh doanh với doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ.
Công thức xác định:
Dld(%) =
Trong đó:
Dld: Doanh lợi doanh thu tiêu thụ.
Dt: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ.
Lnkd: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh có thể là lợi nhuận trước thuế hoặc lợi nhuận sau thuế.
Doanh lợi doanh thu tiêu thụ sản phẩm cho biết: Cứ trong 100 đồng doanh thu tiêu thụ thu về trong kỳ có bao nhiêu đồng lợi nhuận (lợi nhuận trước thuế hoặc lợi nhuận sau thuế).
1.1.2.4/Doanh lợi vốn chủ sở hữu.
Doanh lợi vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu tương đối phản ánh quan hệ so sánh giữa lợi nhuận ròng kết qủa sản xuất kinh doanh với vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ.
Công thức xác định như sau:
Dlvc=Lnr/Vcsh x 100%
Trong đó:
Dlvc: Doanh lợi vốn chủ sở hữu.
Vcsh: Vốn chủ sở hữu bình quan sử dụng trong kỳ.
Lnr: Lợi nhuận ròng thu được trong kỳ. (Có thể là lợi nhuận ròng từ hoạt động sản xuất kinh doanh).
Doanh lợi vốn chủ sở hữu chỉ ra rằng: Cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu bình quan trong kỳ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng.
Ngoài các chỉ tiêu doanh lợi nói trên, trong công tác quản lý, người ta còn sử dụng nhiều các chỉ tiêu doanh lợi khác như doanh lợi vốn đầu tư, doanh lợi giá trị tổng sản lượng để đánh giá chất lượng xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch trong kỳ.
1.1.2.5/Phương trình Du-pont.
Phương trình Du-pont, do nhà kinh tế học Du-pont tìm ra, được xác định như sau:
Doanh lợi vốn chủ sở hữu= Doanh lợi doanh thu x Vòng quay tổng vốn x 1/(1- hệ số nợ).
Từ phương trình Du-pont, ta có thể xác định doanh lợi vốn chủ sở hữu thông qua chỉ tiêu doanh lợi doanh thu, vòng quay tổng vốn và hệ số nợ của doanh nghiệp.
Nhìn vào công thức trên, ta thấy, doanh lợi vốn chủ sở hữu chịu tác động của 3 nhân tố kể trên. Để tăng doanh lợi vốn chủ sở hữu thì cần tăng doanh lợi doanh thu, tăng vòng quay tổng vốn và tăng hệ số nợ. Trong đó, hệ số nợ được coi là đòn bẩy kinh tế làm khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu (trong điều kiện doanh nghiệp có khả năng tạo ra tỷ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế lớn hơn lãi vay phải trả).
Việc sử dụng hệ số nợ làm đòn bẩy tài chính như một con dao hai lưỡi: nó có thể khuếch đại sự gia tăng nhanh chóng đối với doanh lợi vốn chủ sở hữu, đặc biệt là những nguồn nợ chiếm dụng hợp pháp như những khoản phải trả chưa đến hạn (không phải trả chi phí sử dụng vốn ), song nó cũng làm doanh nghiệp thua lỗ, thậm chí có nguy cơ phá sản rất nhanh, khi sản xuất kinh doanh có dấu hiệu suy thoái. Mục tiêu sản xuất kinh doanh là nâng cao lợi nhuận ròng cho chủ sở hữu doanh nghiệp, do vậy, khi sử dụng hệ số nợ để khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu cần phải đánh giá đúng khả năng phát triển của doanh nghiệp để quyết định một cơ cấu nợ hợp lý. Có như vậy mới khai thác được tác dụng của đòn bẩy dương và hạn chế những rủi ro có thể xảy ra.
Tóm lại, có thể coi doanh nghiệp là một hệ thống mà việc vận hành nó đòi hỏi phải tiến hành hàng loạt các giải pháp kinh tế - kỹ thuật và tổ chức. Do đó, đánh giá một cách toàn diện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là một việc không hề đơn giản. Chính vì vậy sẽ là thiếu sót nếu không kết hợp cả chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối với các chỉ tiêu lợi nhuận tương đối (doanh lợi) trong phân tích kinh tế. Chúng sẽ bổ trợ cho nhau và là công cụ đắc lực giúp nhà quản lý có được những quyết định đúng đắn nhất.
1.2/Sự cần thiết phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện kinh doanh hiện nay.
1.2.1/Xuất phát từ vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cac-Mac, trong lý luận của mình, đã chỉ ra rằng: bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng phải tính toán lao động xã hội bỏ ra và kết quả sản xuất thu được. Lợi nhuận, do vậy, có một vai trò quan trọng không thể phủ nhận đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung.
Vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, lợi nhuận là kết quả tổng hoà của hàng loạt các giải pháp kinh tế- kỹ thuật và tổ chức, nó phản ánh nhiều mặt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ khâu cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất đến khâu đưa sản phẩm tiêu thụ. Thông qua việc phân tích tình hình thực hiện lợi nhuận có thể đánh giá được trình độ của doanh nghiệp trong việc tổ chức quản lý và sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn. Lợi nhuận, chính vì vậy, là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, lợi nhuận là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng tác động đến việc hoàn thiện các mặt hoạt động của doanh nghiệp.
Để có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường cạnh tranh, các doanh nghiệp không còn con đường nào khác là phải tự bươn chải, lấy thu bù chi và đảm bảo có lãi. Lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp khai thác triệt để các nguồn lực sẵn có, sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn sao cho đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Lợi nhuận còn là cơ sở để doanh nghiệp chẳng những có thể tái sản xuất giản đơn mà còn có thể tái sản xuất mở rộng. Hơn nữa, đó còn là nguồn chủ yếu để cải thiện điều kiện sản xuất, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động, là đòn bẩy góp phần khơi dậy tiềm năng của người lao động vì sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp trong tương lai.
Thứ ba, một doanh nghiệp làm ăn có lãi cho thấy triển vọng phát triển của doanh nghiệp đó trong tương lai. Đây chính là động lực để các nhà đầu tư bỏ vốn vào doanh nghiệp, làm tăng quy mô và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Nhưng nếu như doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ, hoạt động không hiệu quả như mong muốn thì tất yếu sẽ có sự di chuyển vốn đầu tư sang lĩnh vực khác có lợi hơn.
Thứ tư, lợi nhuận là nguồn để doanh nghiệp có thể thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, thông qua đó góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Nếu ví nền kinh tế như một cơ thể sống thì các doanh nghiệp chính là những tế bào. Cơ thể- nền kinh tế- muốn phát triển lành mạnh, vững chắc, thì mỗi tế bào của nó- các doanh nghiệp- phải lớn mạnh, phải làm ăn có lãi. Lợi nhuận mà các doanh nghiệp đạt được chẳng những là cơ sở để doanh nghiệp có thể tái sản xuất mở rộng, mà còn là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế. Bằng việc trích nộp một khoản lợi nhuận vào ngân sách Nhà nước dưới hình thức thuế, các doanh nghiệp có thể đóng góp một phần đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, lợi nhuận không chỉ là vấn đề sống còn đối với bản thân mỗi doanh nghiệp, mà còn là uy tín của doanh nghiệp đối với Nhà nước và các đối tác, là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cán bộ công nhân viên, động thời là nguồn tạo nên sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường, trước các đối thủ. làm ăn thua lỗ, doanh nghiệp sẽ không có điều kiện để tích luỹ, thậm chí để tái sản xuất giản đơn, chưa nói đến tái sản xuất mở rộng, ngoài ra, doanh nghiệp cũng không làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước và các đối tác, không có điều kiện quan tâm nhiều hơn đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người lao động. Do đó, đối với mỗi doanh nghiệp, không ngững nâng cao lợi nhuận luôn luôn là điều trăn trở.
Đối với người bỏ vốn đầu tư.
Trước khi bỏ vốn cho một hoạt động kinh doanh nào đó, nhà đầu tư luôn muốn biết đồng vốn mà mình bỏ ra có khả năng sinh lời hay không. Lợi nhuận sau thuế mà doanh nghiệp có khả năng thu được chính là tương lai mà họ kỳ vọng. Phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp là một căn cứ giúp nhà đầu tư có thể cân nhắc để đưa ra những quyết định đúng đắn. Nếu doanh nghiệp hoạt động thua lỗ, không đạt hiệu quả như mong muốn thì tất yếu sẽ có sự di chuyển vốn đầu tư sang lĩnh vực khác có lợi hơn.
Đối với toàn bộ nền kinh tế.
Lợi nhuận của doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước dưới hình thức thuế. Nhà nước sử dụng ngân sách nhằm thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, tăng cường củng cố lực lượng an ninh quốc phòng, duy trì bộ máy hành chính, cải thiện đời sống vật chất lẫn văn hoá, tinh thần của nhân dân.
Là thước đo đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, thế mà chỉ tiêu lợi nhuận đã không thể nói lên điều gì trong cơ chế cũ, bởi tình trạng “lãi giả lỗ thật” tràn lan. Chuyển sang cơ chế thị trường, khi mà các doanh nghiệp phải tự bươn chải để lấy thu bù chi và đảm bảo có lãi, lợi nhuận mới thực sự là mục tiêu sống còn, thực sự là thước đo quan trọng để đánh giá các mặt hoạt động của doanh nghiệp.
Phần dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số phương hướng, biện pháp chủ yếu làm tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp.
1.3/Một số phương hướng biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh như hiện nay.
Như phần trên đã trình bày, lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng có liên quan tới nhiều khâu của quá trình sản xuất. Bất kỳ một khâu nào trong quá trình sản xuất không hiệu quả cũng đều làm giảm lợi nhuận. Trong tổng lợi nhuận, lợi nhuận tiêu thụ của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất. Chính vì vậy, luận văn xin giới hạn trong phạm vi lợi nhuận tiêu thụ và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận tiêu thụ của doanh nghiệp.
Lợi nhuận được xác định theo công thức:
Lnkd = Dt – Ztb – Tg.
Trong đó:
Lnkd: Lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm trong kỳ.
Dt: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Ztb: Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ.
Tg: Thuế gián thu trong kỳ.
Từ công thức trên ta thấy lợi nhuận tiêu thụ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi doanh thu bán hàng, giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ và thuế gián thu. Nhưng cần nhận thức rõ rằng, thuế là chỉ tiêu thể hiện nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp đối với Nhà nước. Thuế là nhân tố khách quan ảnh hưởng nghịch chiều với lợi nhuận, doanh nghiệp không được tìm cách giảm thuế, trốn thuế để tăng lợi nhuận.
Còn lại, lợi nhuận chịu ảnh hưởng của nhân tố doanh thu tiêu thụ và giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ. Nhưng mỗi nhân tố trên lại chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác theo những chiều hướng khác nhau. Vì vậy, những phương hướng chủ yếu để tăng lợi nhuận đều xoay quanh việc nghiên cứu và tác động vào các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận: Doanh thu tiêu thụ và giá thành sản phẩm.
1.3.1/Biện pháp thứ nhất: Tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ.
Trong điều kiện các yếu tố các không đổi, việc tăng doanh thu tiêu thụ sẽ làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tăng doanh thu lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Do vậy, để tăng doanh thu cần phải tác động vào các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu theo chiều hướng tích cực.
Thứ nhất: Cần phải tăng số lượng và chất lượng của sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. Thật vậy, từ công thức xác định lợi nhuận:
Lnkd =Sti (Gi – Ztbi – Tgi).
LNkd: Lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm trong kỳ.
Sti: Khối lượng sản phẩm loại i tiêu thụ trong kỳ.
Gi: Giá bán đơn vị sản phẩm loại i.
Ztbi: Giá thành toàn bộ của sản phẩm i.
Tgi: Thuế gián thu đơn vị.
Ta thấy: nếu các nhân tố: giá bán, giá thành toàn bộ, thuế gián thu được cố định thì lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ sẽ tăng đồng hành với sự gia tăng của khốilượng sản phẩm tiêu thụ.
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ gia tăng trước hết phụ thuộc vào khối lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất ra.
Để có thể tăng nhanh khối lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần đầu tư cho sản xuất về cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Đầu tư chiều sâu đồng nghĩa với việc hiện đại hoá máy móc thiết bị, mạnh dạn ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, song song với việc loại bỏ những máy móc đã lạc hậu, lỗi thời để các khâu của dây chuyền sản xuất được đồng bộ, hoạt động ăn khớp, nhịp nhàng với nhau. Bên cạnh đó là việc đầu tư nâng cao tay nghề cho công nhân để họ có thể làm chủ công nghệ hiện đại, vận hành có hiệu quả các dây chuyền sản xuất mới.
Đầu tư chiều sâu cũng là một giải pháp để tăng khối lượng sản phẩm sản xuất. Doanh nghiệp có thể huy động thêm vốn để mua sắm máy móc thiết bị, song phải đảm bảo tính đồng bộ, phải tiên tiến, có như vậy năng suất mới được nâng cao.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần có những biện pháp tổ chức sản xuất hợp lý và hiệu quả. Các quy trình sản xuất phải ăn khớp, nhịp nhàng, lao động phải được bố trí phù hợp với kỹ năng và trình độ của họ. Các bộ phận phục vụ sản xuất phải luôn đảm bảo cho sản xuất được thường xuyên, không bị gián đoạn vì máy hỏng, mất điện, hay vì nguyên liệu không kịp cung cấp...
Tuy nhiên, khối lượng sản xuất gia tăng không phải lúc nào cũng đồng hành với việc gia tăng khối lượng tiêu thụ. Từ sản xuất đến tiêu thụ là cả khoảng cách mà muốn vượt qua, các doanh nghiệp phải xây dựng được một cơ cấu sản phẩm và một chiến lược sản xuất không những cho phép tận dụng tối đa năng lực sản xuất sẵn có, mà còn có thể đáp ứng được tốt hơn nhu cầu tiêu dùng ngày một đa dạng của thị trường.
Khối lượng tiêu thụ gia tăng còn phụ thuộc vào công tác tổ chức bán hàng của doanh nghiệp. Sản phẩm làm ra nhiều mà tiêu thụ chậm hoặc không tiêu thụ được thì vốn sẽ bị ứ đọng, quá trình sản xuất tiếp theo sẽ không thể tiến hành. Chính vì vậy, công tác tổ chức bán hàng được ví như chiếc cầu nối giữa tiêu dùng và sản xuất.
Nếu doanh nghiệp biết kết hợp linh hoạt các hình thức bán hàng (bán tại kho, bán đại lý, bán buôn, bán lẻ...) thì hàng hoá của doanh nghiệp có thể len lỏi khắp mọi nơi. Nếu doanh nghiệp biết đa dạng hoá các phương thức bán hàng (tiền mặt, chuyển khoản, séc, ngân phiếu...) thì đối tượng khách hàng của doanh nghiệp có thể được mở rộng. Nếu doanh nghiệp tổ chức tốt các dịch vụ kèm theo (bảo hành, sửa chữa...) thì sản phẩm của doanh nghiệp càng chiếm được niềm tin yêu của khách hàng.
Thứ hai, cần xây dựng kết cấu sản phẩm có lợi nhất. Ta đã biết, kết cấu sản phẩm là một nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu theo những chiều hướng khác nhau, nó có thể làm tăng hoặc giảm lợi nhuận tiêu thụ. Trong thực tế, nếu doanh nghiệp thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ theo hướng tăng tỷ trọng những mặt hàng có mức lợi nhuận đơn vị cao, giảm tỷ trọng tiêu thụ những mặt hàng có mức lợi nhuận đơn vị thấp sẽ làm cho doanh thu và lợi nhuận tăng lên và ngược lại. Tuy nhiên, về tính chất, việc điều chỉnh kết cấu mặt hàng tiêu thụ trước hết có thể do nhu cầu thị trường, tức là do nhân tố khách quan tác động, nhưng để đáp những yêu cầu thường xuyên biến động đó, bản thân chủ quản lý doanh nghiệp lại phải đưa ra các biện pháp điều chỉnh từ khâu sản xuất đến khâu bán hàng. Việc điều chỉnh này lại mang yếu tố chủ quan của doanh nghiệp. Nhưng có thể nói, không có một người quản lý doanh nghiệp nào lại thay đổi kết cấu theo hướng làm giảm lợi ích của doanh nghiệp, do vậy, sự tác động của nhân tố này mang tính khách quan.
Để đạt đượclợi nhuận cao, doanh nghiệp cần đầu tư nghiên cứu, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, nhằm cung cấp và thoả mãn tối đa nhu cầu thị trường, đồng thời đảm bảo kết cấu mặt hàng tối ưu. Điều này thể hiện trước hết ở việc cải tiến mẫu mã, kiểu dáng bao bì đóng gói...Bên cạnh đó, cần mở rộng danh mục sản phẩm, đặc biệt những sản phẩm đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng và có mức lợi nhuận đơn vị cao.
Thứ ba: Cần xây dựng một chính sách giá cả hợp lý. Chính sách giá cả cũng là một nhân tố không thể không đề cập đến, nó ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận theo những chiều hướng khác nhau. Sản phẩm sản xuất ra không những phù hợp với nhu cầu mà còn phải phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng, có như vậy mới có thể mở rộng khả năng và thị phần tiêu thụ, từ đó mới nâng cao doanh thu được. Giá cả luôn là công cụ sắc bén trong cạnh tranh, khi có sự tương đương về chất lượng sản phẩm giữa các doanh nghiệp trên cùng một thị trường thì giá cả “phải chăng” trở thành một vũ khí cạnh tranh đắc lực nhất trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là đối với những vùng thị trường mà thu nhập của đại đa số người dân còn chưa cao.
Sản phẩm tiêu thụ được chứng tỏ nó đã được thị trường chấp nhận cả về giá cả và chất lượng. Sản phẩm tiêu thụ được ngày càng nhiều thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng cao.
Thứ tư: Cần làm tốt công tác thanh toán. Trong nền kinh tế toàn cầu, khách hàng của mỗi doanh nghiệp không chỉ ở một phạm vi nhỏ, mà mở rộng đến khắp mọi miền đất nước, toàn cầu. Do vậy, đa dạng hoá phương thức thanh toán sẽ là một điều kiện giúp cho doanh nghiệp mở rộng được mạng lưới tiêu thụ. Những phương thức đó có thể là thanh toán bằng tiền mặt, bằng séc, chuyển khoản, tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, trả chậm,L/C...Với mỗi hình thức thanh toán có những ưu điểm riêng, cần linh hoạt áp dụng với những khách hàng khác nhau để có hiệu quả cao nhất, và đảm bảo thuận tiện cho khách hàng.
Cuối cùng, một biện pháp không thể không nhắc đến, đặc biệt trong tình hình kinh doanh hiện nay, đó là việc tổ chức tốt công tác xây dựng các chiến lược chung, trong đó chiến lược chung Marketing đóng vai trò quan trọng. Doanh nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chiến lược: chiến lược sản phẩm, chiến lược định giá, chiến lược phân phối và chiến lược xúc tiến yểm trợ. Có thể nói, việc tăng doanh thu của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách, chiến lược để đạt hiệu quả cao nhất
1.3.2/Biện pháp thứ hai: Hạ giá thành sản phẩm.
Lnkd = Sti ( Gi – Ztbi – Tgi).
Công thức trên cho thấy: Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá thành hạ sẽ làm cho lợi nhuận tăng lên và ngược lại.
Giá thành toàn bộ của sản phẩm được xác định theo công thức:
Ztb =Zsx +CFbh +CFqldn.
Trong đó:
Ztb: Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Zsx: Giá thành sản xuất của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Giá thành sản xuất của sản phẩm tiêu thụ là biểu hiện bằng tiền của những khoản chi phí sản xuất đã được tập hợp theo từng mặt hàng. Những khoản chi phí này là:
Chi phí vật tư trực tiếp: Bao gồm các khoản chi phí nguyên vật liệu, động lực trực tiếp dùng cho sản xuất.
Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm các khoản phải trả cho người lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm như tiền lương, chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn.
Chi phí sản xuất chung: Bao gồm các khoản chi phí chung phát sinh ở các phân xưởng, bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương trả cho nhân viên quản lý phân xưởng, khấu hao tài sản cố định...
CFbh: Chi phí bán hàng.
Chi phí bán hàng là những khoản chi phí phải bỏ ra đảm bảo cho quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được thực hiện như tiền lương trả cho nhân viên bán hàng, chi phí đóng gói vậnn chuyển sản phẩm...
CFqldn: Chi phí quản lý doanh nghiệp.
Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm chi phí quản lý hành chính, các chi phí chung khác liên quan đến hoạt động của toàn bộ doanh nghiệp như trả lương cho Ban giám đốc, chi phí tiếp tân...
Như vậy, hạ giá thành sản phẩm thực chất là tiết kiệm các chi phí về lao động sống và lao động vật hoá bỏ ra cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Việc tiết kiệm các khoản chi phí trực tiếp tạo nên thực thể sản phẩm phải được thực hiện một cách hợp lý để không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Đối với chi phí bán hàng phải tuỳ vào đặc điểm của sản phẩm, điều kiện tự nhiên, xã hội, thị trường tiêu thụ.
Đây là phương hướng cơ bản, lâu dài để tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đặc biệt trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh về giá, nếu giá thành sản phẩm càng thấp thì doanh nghiệp càng có lợi thế để hạ giá bán sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, làm tăng doanh thu, và tăng lợi nhuận.
Việc tiết kiệm các chi phí về lao động sống, lao động vật hóa (chi phí nguyên vật liệu, máy móc, chi phí quản lý...) có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn xã hội bởi nó làm cho lợi nhuận tăng lên mà không cần phải tăng chi phí. Vì vậy, nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp không chỉ tự bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh có lãi, mà còn giúp cho doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm vốn để mở rộng quy mô sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra. Để hạ giá thành sản phẩm, nên chăng, doanh nghiệp nên áp dụng một số biện pháp sau:
Một là: Phát huy tối đa năng lực sản xuất hiện có thông qua việc tăng cường sử dụng máy móc thiết bị về cả thời gian và công suất. Như vậy, mặc dù số tiền khấu hao tăng lên, song do khối lượng sản phẩm sản xuất tăng đồng hành với nó, nên chi phí khấu hao tính trên một sản phẩm lại giảm đi. Để có thể tận dụng tối đa năng lực sản xuất thì việc sắp xếp dây chuyền sản xuất, bố trí lao động phải hợp lý, giảm thiểu những giờ máy chạy không trọng tải...Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến việc sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị thường xuyên, thực hiện đúng các yêu cầu của quy trình vận hành máy, tránh tình trạng hỏng hóc bất thường, gây gián đoạn sản xuất.
Hai là: Đầu tư nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, có chính sách khen thưởng kịp thờ._.i đối với những lao động có thành tích trong sản xuất, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của họ, tổ chức sắp xếp lao động phù hợp với trình độ chuyên môn, bố trí hợp lý số lao động gián tiếp. Từ đó, doanh nghiệp có thể ghiảm chi phí quản lý hành chính, hạ giá thành, góp phần làm tăng lợi nhuận.
Ba là: Tiết kiệm nguyên vật liệu dùng cho sản xuất có ý nghĩa, tác dụng to lớn trong việc hạ giá thành, vì chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản xuất sản phẩm. Doanh nghiệp cần chú ý những vấn đề sau:
Trong khâu cung ứng nguyên vật liệu cần phải phải chọn nguồn cung cấp gần, thuận tiện cho việc chuyên chở, giá cả phải chăng, đặc biệt là phải ổn định hoá nguồn cung cấp những vật tư chính. Đây cũng là nhân tố giúp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải chú ý đến khâu bảo quản, dự trữ vật tư, tránh tình trạng để vật tư bị thất thoát, mất phẩm chất, hay không đủ đảm bảo cho sản xuất được liên tục. Thực hiện quản lý và sử dụng nguyên vật liệu tiết kiềm nagy từ khâu mua vào, dự trữ bảo quản cho đến khâu sản xuất, áp dụng phương pháp quản trị hàng tồn kho dự trữ thích hợp nhằm tối thiểu hoá chi phí quản trị hàng tồn kho.
Doanh nghiệp cần xây dựng các định mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị sản phẩm, xây dựng định mức phế phẩm vật tư hợp lý. Đồng thời tham gia vào việc lựa chọn nguồn vật tư, địa điểm giao nhận hàng. Ngoài ra, doanh nghiệp cần dự đoán trước sự biến động của thị trường để xây dựng định mức dự trữ phù hợp, tránh dự trữ quá lớn, hoặc quá thấp, ảnh hưởng đến sản xuất.
Phấn đấu giảm chi phí nguyên vật liệu nhằm giảm tiêu hao nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm. Muốn vậy phải áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, chú trọng nâng cao tay nghề và tinh thần trách nhiệm của người lao động trong sản xuất. Ngoài ra phải thường xuyêm kiểm tra, rà soát định mức tiêu hao vật tư, ngăn chặn và xử lý kịp thời các trường hợp gây thất thoát lãng phí vật tư.
Có kế hoạch sử dụng nguyên vật liệu thay thế trong những trường hợp cần thiết trên cơ sở đảm bảo chất lượng sản phẩm cũng như giá thành của sản phẩm đó.
1.3.3/ Biện pháp thứ ba: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Yêu cầu hạch toán kinh tế và mục tiêu lợi nhuận đã đặt các doanh nghiệp trước vấn đề phải tổ chức sử dụng vốn kinh doanh sao cho tiết kiệm và có hiệu quả. Vốn kinh doanh của doanh nghiệpgồm hai bộ phận: vốn lưu động và vốn cố định.
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của các loại vật tư, thành phẩm...Sử dụng có hiệu quả vốn lưu động có nghĩa là trong quá trình sản xuất phải tận dụng tối đa vốn sản xuất, tăng nhanh vòng quay vốn vật tư hàng hoá, tránh ứ đọng, mất mát hư hao. Tiết kiệm được chi phí sẽ làm giảm giá thành, từ đó làm lợi nhuận tăng lên.
Vốn cố định là biểu hiện bằng của tài sản cố định. Đối với vốn cố định, doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp bảo toàn về cả mặt hiện vật lẫn giá trị. Nghĩa là phải có sự phân cấp quản lý chặt chẽ, huy động sử dụng tối đa tài sản cố định vào sản xuất, thanh lý nhượng bán kịp thời những tài sản cố định không cần dùng hoặc không thể sử dụng được nữa, thực hiện tôt việc sửa chữa bảo dưỡng, khấu hoa tài sản cố định một cách hợp lý. Song song với việc cần phải đổi mới, hiện đại hoá máy móc thiết bị để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tóm lại, trên đây là một số phương hướng biện pháp, song không phải là giải pháp chung tối ưu cho tất cả các doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng lợi nhuận. Để có thể phát huy của một biện pháp nào đó, mỗi doanh nghiệp cần phải cân nhắc, đánh giá các mặt lợi thế của riêng mình (vốn, lao động, nguồn cung cấp, thị trường tiêu thụ...). Và vì lợi nhuận là kết quả tổng hoà của hàng loạt các giải pháp về kinh tế kỹ thuật và tổ chức, nên các doanh nghiệp cần phải phối hợp tất cả các mặt quản lý mới có thể tìm ra các giải pháp thích ứng nhất nhằm biến các lợi thế vẫn còn ở dạng tiềm năng thành hiện thực.
1.4/Kế hoạch hoá lợi nhuận – Phân phối và sử dụng lợi nhuận.
1.4.1/Kế hoạch hoá lợi nhuận.
Kế hoạch hoá lợi nhuận giúp cho nhà quản trị doanh nghiệp biết trước được quy mô số lãi mà doanh nghiệp sẽ tạo ra, từ đó giúp cho doanh nghiệp có kế hoạch sắp xếp nhiệm vụ hoạt động kinh doanh và tìm các giải pháp thực hiện.
Kế hoạch lợi nhuận hàng năm là một bộ phận của kế hoạch tài chính doanh nghiệp, do đó, nó cũng được lập đồng thời với các kế hoạch khác. Việc dự tính trước được quy mô lợi nhuận tạo ra sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động sử dụng, chủ động phân phối, chủ động lập kế hoạch đầu tư, đổi mới thiết bị...
Việc lập kế hoạch lợi nhuận phải kết hợp với việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh, phân tích tài chính và phân tích điểm hoà vốn.
Nội dung của lợi nhuận doanh nghiệp như đã phân tích ở trên bao gồm lợi nhuận hoạt động kinh doanh, lợi nhuận hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động khác.
1.4.2/Phân phối và sử dụng lợi nhuận.
Sau một quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thu được một khoản lợi nhuận nhất định, và cần phải tiến hành phân phối số lợi nhuận đó. Đây không chỉ đơn thuần là việc phân chia số lợi nhuận thu được, mà là giải quyết một cách tổng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra đối với doanh nghiệp. Việc phân phối một cách hợp lý, đúng đắn số lợi nhuận thu được sẽ trở thành một động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.
Việc phân phối lợi nhuận cần được giải quyết hài hoà các mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và công nhân viên. Do đó, trước hết cần làm nghĩa vụ với Nhà nước thông qua việc nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, nộp tiền về sử dụng ngân sách nhà nước (nếu có), sau đó, lợi nhuận được trích lập về các quỹ theo đúng quy định của chế độ tài chính.
Kết luận, toàn bộ chương I đã cho chúng ta những lý luận cơ bản về lợi nhuận và các phương hướng, biện pháp tăng lợi nhuận, trên cơ sở đó, cho phép chúng ta tiếp cận một cách dễ dàng hoạt động kinh doanh của công ty Giầy Thuỵ Khuê, nắm được thực trạng về tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty qua phần nghiên cứu ở chương II.
Chương II
Thực trạng về kết quả sản xuất kinh doanh ở công ty giầy Thuỵ Khuê năm 2001.
2.1/Khái quát về tình hình tổ chức quản lý kinh doanh ở công ty Giầy Thuỵ Khuê.
Công ty giầy Thuỵ Khuê, tên giao dịch quốc tế: Thuy Khue shoes
company. Văn phòng giao dịch của công ty hiện ở 152 Thuỵ Khuê- Quận Tây Hồ- Hà Nội. Cơ sở sản xuất tại A2 Phú Diễn- Từ Liêm- Hà Nội.
2.1.1/Quá trình hình thành phát triển công ty.
Công ty giầy Thuỵ Khuê là một doanh nghiệp nhà nước thuộc sở công nghiệp Hà Nội. Công ty được chính thức thành lập vào ngày 1/4/1989, theo quyết định số 93/QĐ - UB của UBNN thành phố Hà Nội, với tên ban đầu là xí nghiệp giầy vải Thuỵ Khuê. Tháng 8/1993, UBND thành phố quyết định số 1558/QĐ đổi tên Xí nghiệp Giầy vải Thuỵ Khuê thành Công ty Giầy Thuỵ Khuê.
Tiền thân của Công ty Giầy Thuỵ Khuê là một xí nghiệp quân nhân X30 ra đời tháng 1/1975 với nhiệm vụ sản xuất giầy vải mũ cứng cung cấp cho quân đội. Sau đó, từ Xí nghiệp Tổng cục hậu cần quân đội chuyển thành Xí nghiệp Giầy vải Hà Nội thuộc Cục công nghiệp Hà Nội, nay là Sở công nghiệp Hà Nội.
Năm 1978, Xí nghiệp được sáp nhập với Xí nghiệp Giầy vải Thượng Đình và là một bộ phận của Xí nghiệp Giầy vải Thượng Đình. Do yêu cầu phát triển của ngành, UBND thành phố Hà Nội ra quyết định cho phép xí nghiệp tách ra và trở thành Xí nghiệp Giầy vải Thuỵ Khuê với 650 công nhân và số vốn của công ty lúc đó chưa đến 500 triệu đồng, gồm có 2 phân xưởng cấp bốn, hầu hết máy móc thiết bị sản xuất lạc hậu và thiếu đồng bộ. Sản xuất mang tính chất thủ công, sản lượng mỗi năm đạt thấp, chất lượng sản phẩm không cao.
Năm 1994, theo quy hoạch của thành phố, công ty đã chuyển địa điểm sản xuất về khu A2 xã Phú Diễn- Từ Liêm- Hà Nội. Được quyền tự chủ về hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty đã mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất với dây chuyền thiết bị hiện đại của Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc..., nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lên 4 triệu đôi giầy mỗi năm trong đó gồm 2 dây chuyền sản xuất giầy dép nữ thời trang và 4 dây chuyền sản xuất giầy thể thao.
Sản phẩm chủ yếu của công ty là các loại giầy dép nam, nữ thời trang, giầy thể thao các loại, giầy vải cao cấp xuất khẩu, giầy bảo hộ lao động...
Do các sản phẩm của công ty được sản xuất trên dây chuyền thiết bị công nghệ hiện đại, cùng với trình độ tay nghề cao của người lao động mà các sản phẩm của công ty liên tục đạt các danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao, đạt top ten các sản phẩm được người tiêu dùng ưa thích, đạt giải thưởng cúp bạc năm 1997, cúp vàng năm 1998 về chất lượng Việt Nam do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi Trường xét chọn, và gần đây nhất năm 2001, công ty được tặng Cúp sen vàng tại hội chợ xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng mùa thu. Sản phẩm của công ty không chỉ được ưa chuộng ở thị trường trong nước mà còn được xuất khẩu sang hơn 20 nước trên thế giới như Anh, Pháp, Bỉ, úc, Tây Ban Nha...
Để thực hiện tốt các chỉ tiêu kinh tế xã hội hàng năm đề ra là sản xuất các sản phẩm với chất lượng cao và số lượng cao hơn năm trước, cũng như đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng trên cơ sở mở rộng quy mô sản xuất, công ty đã tiến hành liên kết hợp tác và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Năm 1992 - 1993, công ty đã hợp tác với công ty PDG của Thái Lan mở thêm dây chuyền sản xuất giầy dép nữ thời trang xuất khẩu, và tuyển thêm 250 lao động mới.
Năm 1994, công ty liên kết hợp tác với công ty Chairimings của Đài Loan để mở rộng thêm dây chuyền sản xuất giầy dép cao cấp xuất khẩu và tuyển thêm 350 lao động mới.
Năm 1995, công ty tiếp tục thành lập một xưởng hợp tác với với công ty ASE- Hàn Quốc với giá trị 7 tỷ đồng để xây dựng nhà xưởng và đầu tư thiết bị sản xuất.
Năm 1996, công ty mở rộng hợp tác sản xuất với công ty Yenkee- Đài Loan để đầu tư dây chuyền sản xuất giầy dép nữ thời trang xuất khẩu.
Với năng lực sản xuất hiện có về lao động, vốn, công nghệ, cùng với việc hợp tác với nước ngoài, công ty đã học tập được nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc quản lý tài chính cũng như sản xuất kinh doanh. Với dây chuyền máy móc thiết bị hiện đại, và sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ công nhân viên, sự tận tâm, sáng suốt của ban giám đốc, số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ của công ty ngày càng nhiều, năm sau cao hơn năm trước, chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao. Công ty ngày càng có vị thế vững vàng trên thị trường trong ngoài nước.
2.1.2/Phương hướng nhiệm vụ kinh doanh
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sắp tới đây, sẽ hội nhập AFTA vào năm 2006. Có biết bao nhiêu cơ hội và thách thức đang đặt ra cho các doanh nghiệp, trong đó có công ty giầy Thuỵ Khuê. Hơn nữa, mặt hàng da giầy là một trong các mặt hàng nằm trong danh mục giảm thuế. Do vậy, điều này càng đang đặt ra cho công ty những thách thức mới. Để có thể vững bước trong hội nhập, Đại hội đại biểu công nhân viên chức năm 2001 đã đề ra các nghj quyết và phương hướng chiến lược phát triển công ty đến năm 2005, cụ thể như sau:
Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm hiện có về mọi phương diện: mẫu mã, chất lượng, giá cả và phương thức tiêu thụ, nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm nguồn lực chủ yếu cho đầu tư phát triển.
Đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, máy móc thiết bị, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Đảm bảo sự tồn tại, phát triển lâu dài, bền vững của công ty cũng như việc duy trì công ăn việc làm, ổn định đời sống cho cán bộ công nhân viên.
Xây dựng đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, đội ngũ cán bộ lãnh đạo có năng lực trình độ để tạo động lực cho phát triển.
Cùng với những nhiệm vụ trên, trong năm 2001, công ty tiếp tục đẩy mạnh công tác sản xuất kinh doanh và các mặt hoạt động khác. Quyết tâm phấn đấu thực hiện hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của UBND, Sở Công nghiệp Hà Nội đã giao.
Phấn đấu được các tổ chức cấp chứng nhận hệ thống quản lý môi trường chất lượng theo ISO 14000.
Phấn đấu giữ vững các danh hiệu thi đua đã đạt được như: Đơn vị quản lý giỏi xuất sắc toàn diện; Đảng bộ trong sạch vững mạnh...
Giữ vững an ninh, chính trị, đảm bảo an toàn trong lao động, trong toàn khu vực công ty, không có tham ô, tham nhũng...Thực hành tiết kiệm đảm bảo xã hội công bằng văn minh và dân chủ, đoàn kết nội bộ tốt.
2.1.3/Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh.
2.1.3.1/Quy mô kinh doanh
Về vốn:
Năm 2001, vốn sản xuất kinh doanh bình quân của công ty là 86.734.771 nghìn đồng, được huy động từ nhiều hai nguồn: vốn vay là vốn chủ sở hữu. Trong đó, phần nợ phải trả chiếm tỷ lệ cao gần 88%, còn lại là vốn chủ sở hữu. Bên cạnh nguồn vốn vay từ ngân hàng, công ty còn chiếm dụng hợp pháp các khoản phải trả người bán, phải trả công nhân viên. Tình hình sử dụng vốn của công ty trong mấy năm gần đây rất tốt, hiệu quả sử dụng vốn không ngừng được nâng cao.
Về lao động.
Công ty Giầy Thuỵ Khuê có một lực lượng lao động đông đảo với trên một nghìn lao động có tay nghề, trình độ cao. Hiện nay, số lao động trong công ty là gần 2500 công nhân, trong đó, số lao động trong danh sách là 2143 người. Hàng năm, bên cạnh việc tuyển dụng thêm các lao động mới, công ty còn phát động nhiều phong trào thi đua làm động lực thúc đẩy tinh thần lao động, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ công nhân viên. Thường xuyên mở các lớp đào tạo cho số lao động mới vào nghề, đồng thời, tiến hành bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, thi nâng bậc cho 657 công nhân lao động. Ngoài ra, công ty còn động viên khuyến khích cho 19 đồng chí đi học tại các trường cao đẳng, đại học.
Trong năm 2001, 1064 cá nhân đạt lao động giỏi và người tốt việc tốt, 20 cá nhân được công ty đề nghị hội đồng thi đua cấp trên xét và công nhận đạt chiến sỹ thi đua các cấp.
Về cơ sở vật chất kỹ thuật.
Trong những năm qua, công ty không ngừng nâng cao năng lực sản xuất, đầu tư cho máy móc thiết bị. Hiện nay, các dây chuyền thiết bị công ty đều rất hiện đại, được nhập từ các nước tiên tiến như Nhật Bản, Đài Loan...Các dây chuyền đồng bộ, đảm bảo chất lượng cao. Bên cạnh đó, công ty còn tiến hành xây dựng các phòng thí nghiệm cơ lý hoá, phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, tiến hành đầu tư chiều sâu cho các nồi hấp giầy, nồi hơi đốt điện...
Nhìn chung, các điều kiện hoạt động kinh doanh của công ty là khá tốt, khả năng tiêu thụ được mở rộng, công suất máy móc được khai thác tối đa, hiệu quả hoạt động ngày được nâng cao.
2.1.3.2/Đặc điểm sản phẩm và quy trình công nghệ.
Đặc điểm sản phẩm.
Công ty Giầy Thuỵ Khuê sản xuất các loại giầy da, trong đó sản phẩm chủ yếu là các loại giầy vải xuất khẩu theo đơn đặt hàng thông qua hình thức gia công, bên cạnh đó còn sản xuất các loại giầy thể thao xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, các loại giầy dép thời trang, giầy trẻ em...
Về chất lượng sản phẩm: Sản phẩm được sản xuất trên các dây chuyền thiết bị hiện đại, tiên tiến, phải trải qua nhiều bước kiểm tra chất lượng mới tiến hành nhập kho và xuất bán, nên sản phẩm của công ty đều là các sản phẩm tốt, chất lượng cao, đã có uy tín trên thị trường, được người tiêu dùng tin cậy, và các đối tác yên tâm trong việc ký kết hợp đồng.
Sản phẩm của công ty là một trong những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao của nước ta, do vậy, luôn được ưu tiên phát triển. Sản phẩm tiêu thụ mạnh vào đầu và cuối năm. Trong những năm gần đây, sản phẩm của công ty liên tục được công nhận là Hàng Việt Nam chất lượng cao, đặc biệt, trong năm 2001, công ty được tặng Cúp sen vàng tại hội chợ xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng mùa thu.
Quy trình công nghệ sản xuất giầy của Công ty giầy Thuỵ Khuê .
Quy trình sản xuất giầy của công ty là quy trình sản xuất vừa theo kiểu song song vừa theo kiểu liên tục. Các nguyên liệu khác nhau sẽ được xử lý theo các bước công nghệ khác nhau để cuối cùng kết hợp lại cho ra sản phẩm hoàn chỉnh. Nguyên liệu dùng vào sản xuất gồm các loại vải phin làm mũ giầy, các loại cao su làm đế giầy, các loại hoá chất sử dụng bao gồm cacbonat, kẽm bột màu, paraphin, các chất xúc tác, chất độn để làm dẻo cao su, tăng độ bền và chống lão hoá.
Quy trình sản xuất giầy diễn ra như sau:
Phần may mũ giầy gồm các loại vải đã được bồi ở công đoạn bồi sẽ được cắt thành mũ giầy. Những mũ giầy hoàn thành ở công đoạn may sẽ được đưa sang bộ phận bộ phận dập ôzê và được đưa sang bộ phận gò.
Cao su được cắt nhỏ, nghiền sơ bột, trộn với các loại hoá chất rồi đưa vào máy cán. Công đoạn đúc đế có tác dụng làm mềm cao su này được cắt thành đế giầy và đưa sang bộ phận ép đế với cao su mỏng dán trên mặt đế, sau đó đưa vào bộ phận gò định hình.
Sản phẩm giầy sau khi hoàn thành được đưa sang bộ phận KCS để kiểm tra chất lượng, những sản phẩm có đóng dấu KCS mới được đóng bao bì nhập kho thành phẩm.
2.1.3.3/Hình thức tổ chức sản xuất Công ty Giầy Thuỵ Khuê.
Hiện nay, công ty có hai địa điểm hoạt động:
Nơi giao dịch và trưng bày sản phẩm tại 152 Thuỵ Khuê, Hà Nội.
Bộ máy hành chính và các xí nghiệp sản xuất đặt tại khu A2 Phú Diễn- Từ Liêm- Hà Nội.
Từ ngày 1/4/1998, công ty được công nhận có 3 xí nghiệp thành viên trực thuộc sản xuất độc lập, hạch toán phụ thuộc, cùng thực hiện nhiệm vụ do công ty giao và hỗ trợ nhau sản xuất:
Xí nghiệp giầy vải số 1 và số 3 là hai xí nghiệp sản xuất giầy xuất khẩu các loại hợp tác với Đài Loan.
Xí nghiệp giầy số 2 là xí nghiệp do công ty trực tiếp hạch toán.
Cơ cấu của mỗi xí nghiệp bao gồm các phân xưởng may, phân xưởng gò, phân xưởng cán cao su. Riêng 2 xí nghiệp liên doanh với Đài Loan có thêm phân xưởng đúc đế giầy, còn phân xưởng 2 sử dụng đế mua ngoài.
Trong tương lai, mỗi xí nghiệp sẽ trở thành xí nghiệp sản xuất độc lập, hạch toán kinh doanh riêng biệt và hỗ trợ nhau cùng phát triển.
2.1.4/ Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh và bộ máy quản lý tài chính kế toán.
2.1.4.1/Bộ máy kinh doanh.
Xuất phát từ điều kiện thực tế, đặc thù sản xuất của ngành, quy mô, loại hình doanh nghiệp mà doanh nghiệp cần tổ chức bộ máy quản lý sao cho có hiệu quả cao nhất trong quá trình điều hành sản xuất kinh doanh của mình.
Công ty giầy Thuỵ Khuê là một doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập, do đặc thù của ngành cũng như điều kiện thực tế của công ty mà bộ máy quản lý của công ty được phân cấp khá hoàn chỉnh bao gồm: ban giám đốc và các phòng ban chức năng, thực hiện các chức năng quản lý nhất định.
Ban giám đốc gồm có:
Một tổng giám đốc
Hai phó tổng giám đốc.
Tổng giám đốc là người đại diện cho pháp nhân của công ty, đứng đầu bộ máy quản lý, có nhiệm vụ chỉ huy toàn bộ bộ máy quản lý, chịu trách nhiệm với cấp trên về mọi mặt, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Tổng giám đốc chỉ huy mọi hoạt động thông qua việc phân quyền cho các phó tổng giám đốc điều hành, các giám đốc xí nghiệp hoặc các trưởng ban trực thuộc.
Phó tổng giám đốc kỹ thuật: Thay mặt tổng giám đốc trực tiếp điều hành các hoạt động về điều hành kỹ thuật, chỉ đạo chương trình nghiên cứu và phát triển khoa học- kỹ thuật, đổi mới thiết bị. Mặt khác, còn chỉ đạo xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.
Phó tổng giám đốc kinh doanh: Thực hiện các nhiệm vụ được giao về mặt kinh doanh như nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, xây dựng chiến lược kinh doanh, kế hoạch hoá các chiến lược đó, tham mưu cho tổng giám đốc trong việc thu hút vốn và kí kết các hợp đồng kinh tế.
Các phòng ban chức năng trong công ty: Gồm 7 phòng ban với các chức năng cụ thể như sau:
Phòng cơ năng: Phụ trách về công tác đảm bảo điện nước phục vụ sản xuất, sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị.
Phòng kỹ thuật: Chịu trách nhiệm về kỹ thuật trong sản xuất.
Phòng đảm bảo chất lượng: Có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra, đảm bảo chất lượng của những sản phẩm làm ra.
Phòng tài chính- kế toán: Chịu trách nhiệm về quản lý tài chính, hạch toán kế toán trong công ty.
Phòng tổ chức: Có nhiệm vụ tổ chức công việc có liên quan đến lao động nhân sự ở công ty.
Phòng hành chính: Thực hiện các công việc liên quan đến tổ chức xây dựng các vấn đề nội bộ, đối ngoại trong và ngoại công ty.
Phòng kế hoạch- kinh doanh- xuất nhập khẩu: Phụ trách các vấn đề có liên quan đến xây dựng các chiến lược kinh doanh, thực hiện các kế hoạch nhập xuất nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm, xây dựng các dự án đầu tư.
Các phòng ban chịu sự chỉ đạo của tổng giám đốc thực hiện các nhiệm vụ được giao, đồng thời tham mưu góp ý kiến đề xuất với ban giám đốc để nâng cao hiệu quả của công việc.
2.1.4.2/ Tổ chức bộ máy quản lý tài chính- kế toán của Công ty Giầy Thuỵ Khuê.
ở các doanh nghiệp nói chung và ở công ty giầy Thuỵ Khuê nói riêng, phòng tài chính kế toán giữ một vai trò hết sức quan trọng. Với chức năng của mình, phòng có nhiệm vụ theo dõi tình hình hiện có, và sự vận động của các loại tài sản trong công ty, thu nhận, xử lý thông tin về các hoạt động kinh tế- tài chính một cách thường xuyên, liên tục, toàn diện và có hệ thống, nhằm cung cấp những thông tin cần thiết, chính xác, cụ thể và kịp thời cho ban giám đốc, các phòng ban có liên quan để ra quyết định điều hành sản xuất kinh doanh của công ty. Để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ này, đồng thời, đảm bảo sự lãnh đạo và chỉ đạo tập trung thống nhất, và xác định vị trí quan trọng của phòng tài chính- kế toán do đặc điểm tổ chức sản xuất của công ty.
Một kế toán trưởng kiêm trưởng phòng tài chính- kế toán, điều hành mọi công việc trong phòng và chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc về toàn bộ công tác tài chính của công ty.
Hai phó phòng kế toán kiêm công tác kế toán thành phẩm bán hàng, doanh thu và xác định kết quả, theo dõi phải thu khách hàng.
Bộ phận kế toán nguyên vật liệu.
Bộ phận kế toán công cụ dụng cụ kiêm thủ quỹ.
Bộ phận kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm.
Bộ phận kế toán tiền lương và các khoản tính theo lương.
Bộ phận kế toán phải trả người bán.
Bộ phận kế toán vốn bằng tiền, các khoản phải thu và ứng trước.
Bộ phận kế toán thanh toán với ngân hàng.
Hiện nay, các xí nghiệp thành viên không có tổ chức hạch toán độc lập mà chỉ có các nhân viên kinh tế theo dõi ghi chép, hạch toán ban đầu về lao động, tiền lương, nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ xuất dùng, và thành phẩm ở các xí nghiệp, sau đó chuyển chứng từ lên phòng tài chính kế toán.
Các nhân viên này chịu sự quản lý của giám đốc, phòng kế toán chỉ đạo kiểm tra, hướng dẫn họ về mặt chuyên môn, nghiệp vụ.
Trong những năm gần đây, nhằm hiện đại hoá công tác quản lý tài chính, nâng cao hiệu quả công việc, công ty đã áp dụng chương trình kế toán máy để đảm bảo việc kiểm tra, đối chiếu cũng như in ấn các báo cáo một cách nhanh chóng và hiệu quả, góp phần tiết kiệm chi phí thời gian cũng như nâng cao hiệu quả làm việc độc lập của kế toán viên. Đây là hướng đi đúng của công ty, phù hợp với xu hướng hiện đại hoá của đất nước.
2.2/Một số nét chủ yếu về lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê.
2.2.1/Những thuận lợi và khó khăn chủ yếu đối với hoạt động của công ty trong điều kiện kinh doanh hiện nay.
2.2.1.1/Những thuận lợi
Về mặt khách quan.
Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh, nâng cao quyền và khả năng tự chủ kinh doanh, tự chủ tài chính cho các doanh nghiệp nói chung, và Công ty Giầy Thuỵ Khuê nói riêng đã đem lại một luồng sinh khí mới trong đời sống kinh tế của công ty. Được quyền lựa chọn phương án kinh doanh hiệu quả, được giữ lại toàn bộ quỹ khấu hao để mở rộng sản xuất, đó là những thuận lợi khách quan cơ bản nhất giúp cho các doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có công ty Giầy Thuỵ Khuê, có thể phát huy hơn nữa những lợi thế của riêng mình.
Cùng với sự khởi sắc kinh tế của nước nhà trong nhũng năm gần đây, với chủ trương hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, ngành giầy da nói chung và công ty nói riêng đang được sự quan tâm thích đáng từ phía Nhà nước. Đây là một mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao, được chọn là một trong các mặt hàng chủ đạo xuất khẩu của nước ta.
Về phía chủ quan của công ty.
Công ty Giầy Thuỵ Khuê có tập thể lãnh đạo và đoàn thể công nhân viên chức với truyền thống đoàn kết nhất trí cao, quyết tâm vượt mọi khó khăn để hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế- xã hội mà công ty đã đề ra.
Công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên có nhiều kinh nghiệm trong quản lý, trong sản xuất kinh doanh, có thời gian công tác lâu trong ngành, có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao, ngày càng gắn bó và tâm huyết xây dựng công ty vững mạnh và phát triển toàn diện.
Quan hệ hợp tác với các đối tác, với khách hàng trong ngoài nước một cách chân tình trên phương diện hai bên cùng có lợi. Cho nên, trong những năm qua, mối quan hệ này càng được thắt chặt và có hiệu quả hơn: tình hình cung cấp nguyên vật liệu khá tốt, cung cấp kịp thời, đúng số lượng, chất lượng và ổn định giá cả; với khách hàng, tình hình ký kết đơn đặt hàng ổn định, vì công ty chủ yếu quan hệ với các khách hàng truyền thống.
Công ty không ngừng đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, ngày càng đa dạng hoá về chủng loại, phong phú về mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm để hợp tác với nhiều khách hàng ngoài nước và mở rộng thị phần trong nước, được nhiều người tiêu dùng ưa thích hơn.
Bên cạnh những thuận lợi nói trên, Công ty Giầy Thuỵ Khuê cũng gặp không ít khó khăn.
2.2.1.2/Những khó khăn.
Về mặt khách quan.
Một trong những hệ quả của chính sách mở cửa nền kinh tế là việc hàng hoá được tự do lưu thông khiến cho hàng ngoại tràn vào nước ta theo nhiều con đường. Đây là một thách thức không dễ vượt qua đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, không chỉ riêng Công ty Giầy Thuỵ Khuê. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, thị phần trong nước của công ty rất nhỏ, doanh thu nội địa chỉ chiếm khoảng 10,6% tổng doanh thu của công ty, hơn nữa, công ty phải đối mặt với các điều kiện khắt khe hơn về thị truờng xuất khẩu, về tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn môi trường và thay đổi thị hiếu người tiêu dùng.
Hơn nữa, mấy năm qua, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, cộng với tình trạng suy thoái kinh tế đã làm cho nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng nói chung, trong đó có mặt hàng giầy da giảm mạnh, gây ra nhiều khó khăn trong hoạt động của công ty. Tuy nhiên, trong hai, ba năm gần đây, tình hình đã có nhiều khởi sắc.
Sản phẩm của công ty chủ yếu là xuất khẩu thông qua trung gian nên nhiều khi bị ép giá. Không những thế, công ty luôn gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các công ty khác trong ngành như: Công ty Giầy Ngọc Hà, Công ty Giầy Thượng Đình....
Về mặt chủ quan của công ty.
Tình trạng thiếu vốn kinh doanh luôn là bài toán đặt ra cho nhiều công ty Nhà nước, không ngoại lệ với Giầy Thuỵ Khuê. Theo như cơ cấu vốn năm 2001 thì số nợ phải trả là trên 76.000.000 nghìn đồng, trong đó nợ vay là gần 16.000.000 nghìn đồng. Như vậy có thể nói, công ty đi chiếm dụng vốn rất lớn. Điều này sẽ gây ra khả năng thanh toán thấp, tạo rủi ro kinh doanh, về lâu dài là không tốt, ảnh hưởng đến tình trạng tài chính của công ty.
Trong công tác chuẩn bị kế hoạch vật tư, nguyên liệu có tiến bộ hơn so với nhiều năm trước đây, song đôi khi vẫn chưa đáp ứng kịp thời, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất.
Trong sản xuất, có những bộ phận nhiều lúc chưa chấp hành triệt để quy trình công nghệ sản xuất,hoặc việc theo dõi, giám sát của các phòng ban chức năng, của cán bộ quản lý còn chưa thường xuyên, chặt chẽ, thiếu cụ thể, dẫn đến một số sản phẩm làm ra chưa đạt yêu cầu phải tái chế lại.
Trong công tác cập nhật, thống kê báo cáo số liệu, chứng từ sổ sách của các phòng ban nghiệp vụ, của các giám đốc xí nghiệp còn chưa thường xuyên. Vì thế, việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác sản xuất, và các hoạt động khác chưa kịp thời, chưa sát với thực tế.
2.2.2/Kết quả sản xuất kinh doanh và tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty năm 2001.
2.2.2.1/Đánh giá khái quát tình hình tài chính của công ty năm 2001.
Từ số liệu tính toán ở biểu 02 ta có nhận xét khái quát về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong năm qua.
Tính đến 31/12/2001, tổng tài sản của công ty hiện có là 87.232.044 nghìn đồng, tăng thêm so với đầu năm là 994.543 nghìn đồng, với tỷ lệ tương ứng là 1,15%. Trong đó, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chiếm 52,46%, tăng thêm 2.877.129 nghìn đồng, đạt 45.762.839 nghìn đồng, tài sản cố định và đầu tư dài hạn chiếm 47,54%, giảm đi 1.882.586 nghìn đồng, tương ứng với tỷ lệ là 4,34%.
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn tăng lên chủ yếu là do tiền mặt và hàng tồn kho tăng lên. Sở dĩ lượng tiền tăng mạnh vào thời điểm cuối năm như vậy là do công ty đã thu được một khoản tiền lớn từ phía khách hàng. Tuy nhiên, để một lượng tiền lớn tồn quỹ như vậy là điều không cần thiết, vì đây là khoản tiền nhàn rỗi, không sinh lời, do đó, cần có phương án sử dụng hiệu quả hơn.
Cùng với lượng tiền mặt, hàng tồn kho cũng tăng lên đáng kể, vào thời điểm 1/1/2001 chiếm 51,91% trong tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, đến thời điểm cuối năm là 55,87%, tăng thêm 3.304.741 nghìn đồng, với tỷ lệ tương ứng là 14,84%. Trong khoản nay, phần tăng chủ yếu là do chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và thành phẩm nhập kho tăng đột biến. Cụ thể, chi phí sản xuất kinh doanh tăng thêm 2.472.344 nghìn đồng, tương ứng với tỷ lệ là 201,64%. Chi phí tăng như vậy là do theo quy trình công nghệ sản xuất, nguyên vật liệu được xuất một lần toàn bộ, hơn nữa, do các đơn đặt hàng vào cuối năm tăng mạnh, nên tiến độ sản xuất tăng lên để kịp cho việc cung ứng hàng. Vì vậy, tại thời điểm cuối năm, chi phí sản xuất dở dang quá lớn, đó cũng là điều chấp nhận được.
Cũng như vậy, do đặc điểm sản xuất của công ty là tiêu thụ mạnh về đầu năm và cuối năm, do đó, việc hàng tồn kho tăng mạnh vàp thời điểm cuối năm là hoàn toàn hợp lý, vì vừa phải đáp ứng lượng hàng tiêu thụ mạnh ở cuối năm, vừa đảm bảo đúng việc cung cấp hàng theo đơn đã ký vào quý I năm sau. Tại thời điểm cuối năm, giá trị thành phẩm tồn kho là 16.243.556 nghìn đồng, tăng thêm là 2.192.724 nghìn đồng, với tỷ lệ tương ứng là 15,61%.
Trong kỳ, công ty đã giải phóng được một lượng nguyên vật liệu trị giá 848.433 nghìn đồng, tương ứng với tỷ lệ là 13,96%, điều này là hoàn toàn hợp lý, do doanh nghiệp có tình trạng cung cấp nguyên vật liệu rất tốt, kịp thời, đúng chất lượng, số lượng, vẫn đảm bảo lư._.trình hội nhập AFTA từ nay đến 2006, sản phẩm giày da sẽ đưa vào danh mục giảm thuế, hơn nữa, việc xuất khẩu sẽ đối mặt với nhiều khó khăn về tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn môi trường và thay đổi thị hiếu. Không chỉ vậy, việc Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết đem lại không chỉ riêng công ty những cơ hội và thách thức mới trong việc thâm nhập vào thị trường “khó tính” này.
Với kinh nghiệm bề dày nhiều năm hoạt động, cộng thêm sự quyết tâm của Ban lãnh đạo công ty, đoàn thể công nhân viên, Công ty Giầy Thuỵ Khuê đặt quyết tâm vượt qua mọi thách thức để đưa công ty làm ăn có hiệu quả và ngày càng phát triển.
Cụ thể trong thời gian tới, công ty sẽ thực hiện đẩy mạnh công tác khoa học kỹ thuật, không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm để mở rộng thị phần trong nước và nước ngoài. Trong năm tới, phòng kỹ thuật, phòng kế hoạch – xuất nhập khẩu, phòng kinh doanh cần phối hợp chặt chẽ với 2 xí nghiệp gia công để nắm bắt quy trình công nghệ sản xuất các loại giày dép của nước bạn, từ đó, bộ phận tạo mẫu của công ty sẽ tiến hành sản xuất thử nghiệm, tiến tới sản xuất đại trà khi sản phẩm đã được khách hàng chấp nhận.
Thực hiện chuyển mạnh phương thức sản xuất gia công sang phương thức mua bán trực tiếp.
Đảm bảo tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm và mức tăng trưởng là 15% trở nên.
Để có thể thực hiện được những kế hoạch nêu trên, công ty cần phải xây dựng các chiến lược kinh doanh, đề ra các biện pháp cụ thể và thực thi một cách hiệu quả.
3.2/Một số biện pháp chủ yếu nhằm phấn đấu tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê.
Trên con đường phát triển kinh doanh, Công ty cần nắm bắt xu thế thời đại, và nhanh chóng chuyển đổi phương thức sản xuất. Qua thời gian tìm hiểu thực tế và phân tích tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty, em xin mạnh dạn đề ra một số phương hướng và biện pháp nhằm phấn đấu tăng lợi nhuận ở công ty trong phần dưới đây.
3.2.1/Biện pháp thứ nhất: Tăng cường đầu tư, đổi mới kết hợp sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất cũng như năng suất lao động của công ty.
Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra trên thế giới đã và đang tác động sâu sắc đến cuộc sống con người, và các doanh nghiệp là những nơi được tiếp xúc với nhiều nhất với các tiến bộ khoa học công nghệ. Do vậy, nếu ứng dụng được các công nghệ mới vào sản xuất sẽ giảm được các khoản chi phí liên quan đến quá trình sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đầu tư, đổi mới tài sản cố định, máy móc thiết bị đã lạc hậu, cũng như nâng cấp sửa chữa các máy móc hiện có vì thế đã trở thành một nhiệm vụ thường xuyên của doanh nghiệp.
Đối với việc đầu tư đổi mới tài sản cố định, công ty có thể đi theo hai hướng: mua mới hoặc thuê tài chính. Trong trường hợp mua mới, công ty có thể huy động vốn từ lợi nhuận để lại, vay ngân hàng...Việc huy động vốn từ nguồn nào cần phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng nhiều yếu tố: chi phí sử dụng vốn, tình hình tài chính, độ an toàn của dự án, và lợi ích thu được. Bên cạnh đó, công ty cần thận trọng trong việc tìm kiếm các đối tác có đủ năng lực, uy tín trong việc cung cấp các thiết bị có chất lượng cao, cần cử cán bộ kỹ thuật có chuyên môn, có trách nhiệm trong việc chọn mua máy móc thiết bị.
Ngoài ra công ty có thể thực hiện đổi mới máy móc thiết bị theo hình thức thuê tài chính. Đây là một hình thức còn khá mới mẻ ở Việt Nam, song nó đã cho thấy ưu thế riêng có. Thuê tài chính giúp cho công ty không phải huy động vốn tập trung tức thời nguồn vốn lớn, do vậy, với một số vốn nhỏ, công ty vẫn có được các thiết bị tiên tiến, hiện đại để mở rộng sản xuất kinh doanh. Như thế, công ty mới có thể chớp được các cơ hội kinh doanh mà không phải chờ đợi đến khi đủ vốn, hoặc thế chấp như đối với tín dụng ngân hàng. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà công ty có thể lựa chọn một trong hai hình thức thuê tài chính là “thuê ba bên” hay ‘bán và tái thuê”.
Một vấn đề quan trọng khác là làm sao công ty có thể vừa chọn được công nghệ vừa hiện đại, vừa phù hợp với khả năng tài chính, cũng như các điều kiện cụ thể khác của công ty. Tình trạng nhập khẩu những máy móc thiết bị đã lạc hậu do thải loại từ các nước phát triển hơn đã gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất. Để tránh tình trạng này, công ty nên thận trọng trong công tác giao dịch, kiểm tra chất lượng máy móc thiết bị, chế độ bảo dưỡng, bảo hành và các dịch vụ khác sau bán hàng, thậm chí cần đến sự giúp đỡ, tư vấn của các công ty tư vấn và chuyển giao công nghệ trong những trường hợp cần thiết.
Đối với các tài sản hiện có, việc bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên, định kỳ là rất cần thiết. Điều này đòi hỏi công ty phải bố trí đội ngũ công nhân sửa chữa tay nghề cao, tích cực và có trách nhiệm. Về mặt tài chính cần tính toán, dự trữ đủ vốn, quan trọng hơn phải xác định được hiệu quả của việc sửa chữa đó. Nếu chi phí sửa chữa bỏ ra mà lớn hơn giá trị còn lại của thiết bị thì việc sửa chữa là không hiệu quả, và công ty tốt hơn là nên thanh lý mua mới tài sản khác.
Song song với công tác sửa chữa, bảo dưỡng, việc nâng cao tay nghề, trình độ và trách nhiệm của công nhân lao động cũng rất quan trọng. Việc đầu tư mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, tổ chức các cuộc họp báo cáo kinh nghiệm, huấn luyện kỹ thuật trên máy móc trực tiếp, hay tổ chức các cuộc thi tay nghề trong phạm vi phân xưởng, xí nghiệp, kết hợp với các hình thức khen thưởng, biểu dương xứng đáng các cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong sản xuất là diều cần thiết nên làm, đồng thời có các biện pháp khuyến khích công nhân phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật.
3.2.2/Biện pháp thứ hai: Nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định. Sử dụng vốn có hiệu quả có nghĩa là làm cho lợi nhuận thu được trên một đồng vốn bỏ ra ngày càng nhiều hơn. Qua sự phận tích ở chương II, ta thấy, hiệu quả sử dụng vốn của công ty có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, nó vẫn còn ở mức thấp. Yêu cầu đặt ra đối với công ty là cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng các loại vốn.
Vốn kinh doanh bao gồm 2 loại: vốn lưu động và vốn cố định. Đối với mỗi loại vốn này cần có các biện pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả sử dụng.
Trước hết, đối với vốn lưu động.
Vòng quay vốn lưu động năm 2001 là 1,31 vòng/năm, tăng 0,06 vòng/năm so với năm trước. Nhưng nhìn chung là chưa đáng kể, chỉ tăng 4,3%. Ta đã biết vòng quay vốn phụ thuộc vào hai yếu tố: Doanh thu thuần và vốn lưu động tham gia vào sản xuất kinh doanh. Như vậy, để tăng vòng quay vốn thu cần phải tăng doanh thu thuần. Làm được điều này, công ty cần tăng nhanh doanh thu tiêu thụ, giảm tối thiểu các khoản giảm trừ doanh thu như: giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại.
Để tăng doanh thu tiêu thụ, công ty cần làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm; duy trì quan hệ với các bạn hàng truyền thống, đẩy mạnh tìm kiếm khách hàng mới, mở rộng thị phần...Để thực hiện được điều này, công ty cần làm tốt những công tác sau:
Một là: Huy động tối đa tài sản cố định tham gia vào sản xuất, khai thác tối đa công suất thiết kế của máy móc thiết bị. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng nhượng bán, thanh lý các tài sản cố định không cần dùng cũng như đã lạc hậu. Làm như vậy, hiệu quả sử dụng tài sản cố định, vốn cố định cũng như doanh lợi vốn cố định chắc chắn được nâng cao.
Hai là: Cần có kế hoạch cụ thể đối với việc dự trữ hàng tồn kho, cần tính toán sao cho hàng tồn kho không quá nhiều: nguyên vật liệu, chi phí sản xuất dở dang, thành phẩm..., nhưng luôn phải đảm bảo tiến độ sản xuất cũng như cung ứng hàng hoá theo đơn đặt hàng. Tình hình thị trường luôn có sự biến động không ngừng, do vậy, để hướng tới phương pháp quản trị hàng tồn kho bằng không là điều không thể thực hiện. Vì thế, việc hợp đồng chặt chẽ với các đơn vị cung cấp nguyên vật liệu kịp thời sẽ giúp công ty có được một khoản vốn để sử dụng vào việc khác cũng như giảm được chi phí lưu kho và chi phí thực hiện hợp đồng.
Ba là: Quản lý tốt công tác thu hồi nợ. Theo số liệu tính toán trong biểu 02, tại thời điểm đầu năm, khoản phải thu chiếm tỷ trọng là trên 20% trong tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, song đến 31/12/2001 thì con số này là 40%. Như vậy có thể thấy, tuy rằng trong kỳ công ty đã tiến hành thu hồi bớt nợ, nhưng các khoản phải thu phải thu phát sinh thêm trong năm là khá lớn, và vẫn còn đang bị chiếm dụng. Điều này tất có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. Dù trong điều kiện kinh doanh hiện nay, việc công ty cấp tín dụng cho các đối tác là điều cần thiết, nhưng đối với Công ty Giầy Thuỵ Khuê, các khách hàng là các đối tác liên kết, công ty chỉ thực hiện gia công và nhận công, thì việc gia hạn và cung cấp tín dụng là rất hạn chế, công ty cần có biện pháp tốt hơn nữa trong việc thu hồi nợ. Để thực hiện điều này, công ty cần:
Thực hiện chế độ khuyến khích đối với những khách hàng trả tiền đúng hạn và trước hạn như chiết khấu, tặng quà hay các hình thức đãi ngộ thoả đáng khác.
Có sự phân loại, theo dõi sát xao các loại nợ cần thu hồi như nợ chưa đến hạn, nợ đến hạn, nợ quá hạn, nợ không có khả năng thu hồi để có các biện pháp thu hồi phù hợp.
Chủ động các biện pháp thu hồi nợ: Chuẩn bị các chứng từ thích hợp, cần thiết đối với các khoản nợ sắp đến hạn, đối với các khoản nợ quá hạn, cần linh hoạt các biện pháp: gia hạn thêm thời gian trả nợ, thu trước một phần nợ...
Phạt vi phạm hợp đồng trong những trường hợp cần thiết.
Có các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong thanh toán: yêu cầu đặt cọc, tạm ứng trước một phần giá trị hợp đồng...
Khi ký hợp đồng cần có sự ràng buộc chặt chẽ về quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên để tránh những rủi ro không đáng có.
Bốn là: Cần tăng tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu.
Hiện nay nguồn vốn chủ sở hữu của công ty chiếm khoảng 12,5%, đây là một con số còn khiêm tốn. Điều này có nghĩa là hệ số nợ của công ty là khá lớn, xấp xỉ 87,5% tại thời điểm 31/12/2001, và kéo theo hệ số thanh toán hiện thời của công ty thấp, chỉ đạt 0,64 lần. Điều này có thể khiến cho tình hình tài chính của công ty dễ gặp rủi ro, gây tâm lý bất an cho các đối tác làm ăn.
Để tình hình tài chính của công ty có thể lành mạnh hơn, công ty cần tích cực tìm kiếm các nguồn vốn chủ sở hữu như: sử dụng tối đa lợi nhuận để lại; sử dụng linh hoạt các loại quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi theo nguyên tắc sử dụng có hiệu quả và hoàn trả đúng hạn; nguồn vốn liên doanh, liên kết, vay vốn của người lao động trong công ty.
3.2.3/Biện pháp thứ ba: Nâng cao và giữ vững thị trường tiêu thụ nội địa, bên cạnh việc duy trì thị trường nước ngoài.
Chúng ta đều biết, đối với mỗi doanh nghiệp, việc mở rộng thị phần tiêu thụ luôn là vấn đề quan trọng, đặc biệt trong tình hình kinh doanh hiện nay, các công ty luôn có sự cạnh tranh gay gắt về chất lượng, giá cả, phương thức kinh doanh...Việc duy trì và tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới đang đặt ra cho công ty nhiều vấn đề cần giải quyết, nó không thể chỉ thựchiện trong một thời gian ngắn đã đạt ngay kết quả như mong muốn, cần phải có kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn. Để có thể làm được điều này, công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
Một là: Nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, chinh phục khách hàng bằng sản phẩm chất lượng và giá thành thấp.
Cơ chế thị trường đã tạo ra một luồng sinh khí mới cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh, tự chủ lựa chọn các dự án đầu tư có lợi nhất, lựa chọn các sản phẩm đem lại lợi ích kinh tế cao nhất. ở tất cả các lĩnh vực, không riêng ngành giầy da, đều có sự cạnh tranh gay gắt. Cũng như các công ty khác, Công ty Giầy Thuỵ Khuê không phải là không có đối thủ cạnh tranh. Người tiêu dùng lâu nay không chỉ biết đến Giầy Thuỵ Khuê, bên cạnh đó, còn có giầy Ngọc Hà, giầy Thượng Đình...Để tạo cho mình chỗ đứng trong thị trường nội địa và đẩy mạnh xuất khẩu, không còn cách nào khác là phải nâng cao chất lượng sản phẩm, song song với nó là việc nâng cao uy tín doanh nghiệp, uy tín cho sản phẩm.
Hai là: Tạo sự đột phá trong thiết kế mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm.
Ngày nay, cuộc sống người dân Việt Nam đã được cải hiện hơn rất nhiều. Thay vào nhu cầu được “ăn no mặc ấm” là nhu cầu “ăn ngon mặc đẹp”, đặc biệt đối với người phụ nữ nói chung, nhu cầu làm đẹp đã trở nên không thể thiếu. Do đó, song song với việc cung cấp sản phẩm có chất lượng thì một điều quan trọng nữa là phải có kiểu dáng đẹp, tính thẩm mỹ cao.
Hiện nay, các sản phẩm của công ty tuy đã có những cách điệu mới nhưng vẫn chưa đủ để gây sự chú ý. Trong thời gian tới, để có thể tạo ra những đột phá mới trong cải tiến mẫu mã, công ty cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Quan tâm, đúng mức, hợp lý đến việc nghiên cứu, tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, tiến hành sản xuất thử, đưa sản phẩm mới ra thị trường, đồng thời theo dõi phản ứng của khách hàng. Sau khi sản xuất thử đạt kết quả khả quan mới đem sản xuất đại trà, vẫn tiếp tục theo dõi nhu cầu thị trường để có những cải tiến, thích ứng hơn cho các sản phẩm tiếp theo. Đây là một công tác rất quan trọng, nếu làm tốt, công ty có thể thu hẹp được khoảng cách đối với người tiêu dùng, và dễ dàng chinh phục khách hàng.
Tổ chức các cuộc thi thiết kế mẫu, tìm tòi phát hiện các ý tưởng sáng tạo mới trong nội bộ công ty: bộ phận thiết kế mẫu, công nhân sản xuất...khi khả năng tài chính của công ty còn hạn chế. Bộ phận thiết kế cần năng động, sáng tạo, nắm bắt xu hướng tiêu dùng mới, trên cơ sở đó biến những ý tưởng sáng tạo thành hiện thực. Đồng thời có sự kết hợp với công nhân sản xuất.Bởi một lý do hết sưc đơn giản, công nhân sản xuất là những người trực tiếp làm ra sản phẩm, do đó họ hiểu hơn ai hết những ưu điểm cũng như sự bất tiện hoặc chưa hợp lý khi sử dụng sản phẩm. Bất cứ một ý tưởng nào cũng có thể trở thành sáng kiến có tính khả thi cao. Nếu tận dụng được điều này không chỉ giúp cho công ty tiết kiệm một khoản chi phí lớn mà còn tận dụng triệt để hiệu quả nguồn nhân lực tiềm năng chưa được khai thác...Về lâu dài, khi tình hình tài chính cho phép có thể mở rộng quy mô các hoạt động trên, bởi trong kinh tế thị trường, sản phẩm luôn phải thay đổi, luôn phải được cải tiến. Người tiêu dùng sẽ để ý đến công ty nhiều hơn khi sản phẩm của công ty luôn có những cải tiến bất ngờ và hiệu quả.
Xây dựng uy tín về nhãn hiệu sản phẩm trong lòng người tiêu dùng, khi đã biết đến chất lượng và uy tín của doanh nghiệp, khách hàng sẽ tự tìm đến với công ty. Trong môi trường kinh doanh hiện nay, thương hiệu sản phẩm đã trở nên ngày càng quan trọng hơn, nó khẳng định vị thế của công ty trên thương trường và là ranh giới thị phần với các sản phẩm khác. Người tiêu dùng đã biết đến cái tên Giầy Thuỵ Khuê, nhưng mới chỉ dừng lại ở những sản phẩm giầy vải xuất khẩu, giầy bảo hộ lao động...Do vậy, cần phải thay đổi cái nhìn và nhận thức của khách hàng về sản phẩm của công ty. Nhưng để có được điều này, công ty cần xây dựng một chiến lược phát triển ngay từ bây giờ.
Thứ ba: Xây dựng chiến lược Marketing đồng bộ, hiệu quả trong việc thâm nhập, mở rộng thị phần tiêu thụ.
Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vai trò của Marketing trong việc mở rộng thị phần tiêu thụ, nó ngày càng trở nên quan trọng, thậm chí giữ vai trò then chốt. Dù sản phẩm của công ty có tốt đến đâu, có đẹp đến đâu mà người tiêu dùng không biết đến thị cũng không thể tiêu thụ mạnh được, trong khi các đối thủ luôn dẫn đầu trong việc đưa sản phẩm phổ biến ra công chúng. Do vậy, công ty cần chú ý hơn đến vấn đề này.
Trong hệ thống chiến lược chung của doanh nghiệp bao gồm nhiều bộ phận khác nhau như chiến lược tổ chức sản xuất, chiến lược tổ chức con người, chiến lược tài chính và chiến lược marketing chiếm một vị trí then chốt.
Chiến lược marketing xác định vấn đề sản phẩm - thị trường, tác động đến các chiến lược khác. Nó liên kết giữa các yếu tố bên trong với các điều kiện bên ngoài thị trường của doanh nghiệp, và hướng đến các mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp, mà một trong những mục tiêu quan trọng không thể thiếu là nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Chiến lược chung marketing bao gồm hệ thống các chiến lược bộ phận: Chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối và chiến lược xúc tiến yểm trợ. Làm tốt các chiến lược trên sẽ giúp cho doanh nghiệp có một vị thế vững chắc và an toàn trong kinh doanh, đồng thời thu được lợi nhuận cao.
Đối với chiến lược sản phẩm, công ty cần xác định rõ sản phẩm nào sẽ cung ứng ra thị trường nội địa, thị trường xuất khẩu...sản phẩm cần thiết phải cải tiến các chi tiết gì, cơ cấu chủng loại sản phẩm như thế nào...
Đối với chiến lược giá cả: Công ty cần xác định đường lối chính sách định giá. Trên cơ sở tình hình chi phí và thị trường cụ thể, xác định nên các chiến lược định giá hoà vốn, chiến lược sử dụng giá để cạnh tranh...
Đối với chiến lược phân phối: Công ty cần tổ chức hệ thống phân phối sao cho đạt hiệu quả cao nhất, trong đó xác định các kênh phân phối, người trung gian, các hệ thống cơ sở vật chất để thực hiện chức năng phân phối hàng hoá trên thị trường.
Đối với chiến lược xúc tiển yểm trợ: Công ty cần tiến hành các hoạt động xúc tiến bán hàng, thông tin quảng cáo, thiết lập khách hàng...
Cụ thể hơn cần phải thực hiện:
Mở rộng các đại lý bán hàng, hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm trên khắp đất nước, đặc biệt ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh...Điều này không chỉ đem sản phẩm đến tay người tiêu dùng ở khắp nơi trong nước, mà còn cho thấy sự lớn mạnh không ngừng của công ty trong việc phổ biến sản phẩm ra công chúng. Một điều nữa, tuy nhỏ nhưng không phải là không có tác dụng: ngày nay, hoạt động du lịch đang rất phát triển, khách nước ngoài biết đến Việt Nam nhiều hơn. Họ đến Việt Nam để tham quan, và còn để giao lưu văn hoá. Một du khách người Nhật đã nói rằng: đến Việt Nam không thể không may một chiếc áo dài, hay mua một vài đôi dép san-dan, vì nó rất rẻ. Như vậy rõ ràng là tuy chưa phải độc đáo, nhưng giầy dép Việt Nam vẫn mang đến cho khách hàng một sự lựa chọn. Vậy tại sao chúng ta lại không lưu tâm đến điều này?
Tham dự các hội chợ, triển lãm trên ở tỉnh lớn (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh...) như: triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao, hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợ xuân...Đây là con đường ngắn nhất để đưa sản phẩm tiếp cận với khách hàng, và qua đó có thể thu thập các ý kiến, phản ứng của khách hàng về sản phẩm của công ty. Các hoạt động này ngày càng thu hút được sự chú ý không chỉ của các công ty, giới kinh doanh, mà còn thu hút đông đảo khách hàng. Qua những hoạt động này, công ty có thể có được những đơn đặt hàng mới, khách hàng mới, tìm hiểu thị hiếu tiêu dùng mới, đưa thương hiệu sản phẩm gần hơn với người tiêu dùng...Rõ ràng công ty sẽ có được những cái lợi không chỉ đo bằng tiền, mà là hiệu quả lâu dài
Chiến lược tiếp thị, khuyến mại, khuyến mãi đặc biệt đối với khách hàng, các đại lý nhằm thu hút sự quan tâm của họ đối với sản phẩm của công ty, và khuyến khích các đại lý hoạt động hiệu quả hơn. Đây là những hoạt động không thể thiếu trong cơ chế hoạt động mới như hiện nay. Người tiêu dùng đã quen với các chương trình khuyến mại của các công ty dưới rất nhiều hình thức hấp dẫn. Và theo tâm lý chung, họ sẽ lựa chọn sản phẩm nào có các hình thức khuyến mại hấp dẫn.
Đẩy mạnh công tác quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, đài, báo chí, pa-nô, áp phích, các băng rôn, khẩu hiệu..., trong tình hình nay, khi tài chính chưa cho phép công ty tiến hành quảng cáo trên truyền hình thì vẫn có các phương tiện quảng cáo khác rẻ mà lại hiệu quả để công ty lựa chọn.
Thực hiện biện pháp này không chỉ một sớm chiều có thể làm được và phát huy ngay tác dụng, do đó, công ty cần xây dựng chiến lược lâu dài, phù hợp với tình hình cụ thể của công ty trong từng giai đoạn. Một điều quan trọng nữa là việc thực hiện nó đòi hỏi một khoản chi phí rất lớn, hơn nữa, điều này có thể làm giá thành sản phẩm tăng lên, công ty cần có kế hoạch xây dựng ngân sách ngay từ bây giờ.
3.2.4/Biện pháp thứ tư: Đẩy mạnh chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang phương thức mua bán trực tiếp.
Đây không chỉ là cách thức làm ăn phù hợp với đường lối phát triển chung của ngành giầy da, mà còn đảm bảo cho công ty có thể phát triển và bền vững trong tiến trình hội nhập.
Từ trước đến nay, công ty chỉ chủ yếu thực hiện gia công cho phía nước ngoài, thực hiện xuất khẩu qua trung gian. Đều này đã khiến công ty gặp không ít khó khăn ví như tình trạng ép giá, không chủ động đàm phán trong việc xây dựng chính sách giá...Vì thế, để có thể tiếp tục phát triển cao hơn, công ty không thể không thực hiện chuyển đổi phương thức làm ăn, và các giải pháp cụ thể cho vấn đề này là:
Thứ nhất: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển thị trường. Tuy rằng công ty thực hiện gia công xuất khẩu là chủ yếu, song khi thực hiện mua bán trực tiếp, mọi việc vẫn còn là thách thức, khó khăn không dễ vượt qua. Thị trường quốc tế ngày càng đòi hỏi gay gắt hơn các vấn đề về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn an toàn môi trường, và thị hiếu luôn thay đổi. Vì vậy, công tác nghiên cứu thị trường nước ngoài vẫn là một điều không thể thiếu. Tuy nhiên, công ty có một lợi thế là uy tín và chất lượng sản phẩm, hơn nữa còn được cấp chứng chỉ ISO 9001 phiên bản 2000 nên sẽ là một bước thuận lợi trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài. Làm tốt công tác này sẽ giúp công ty dễ dàng tiếp mở rộng trường nước ngoài và đưa sản phẩm tiêu thụ rộng rãi hơn
Thứ hai: Thực hiện tìm kiếm khách hàng mới bên cạnh việc duy trì quan hệ với các bạn hàng truyền thống.
Khách hàng luôn là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp, có được nhiều khách hàng mới, các doanh nghiệp mới có thể tiêu thụ nhiều hơn khối lượng sản phẩm. Có thể nói “khách hàng là thượng đế”, “khách hàng là ân nhân”, do vậy, việc tìm kiếm khách hàng là rất quan trọng, doanh nghiệp không thể chờ đợi khách hàng tìm kiếm sản phẩm của mình, mà ngược lại, họ phải đưa sản phẩm của mình đến với khách hàng, cả khách hàng hiện thực và khách hàng tiềm năng (những người sẽ sử dụng sản phẩm của công ty trong tương lai). Để có được điều này, công ty cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Mở các chi nhánh giao dịch, của hàng giới thiệu sản phẩm tại những nước công ty đang hoạt động và đạt sản lượng, doanh số bán cao, đồng thời tại các thị trường mà công ty đang hướng tới, ví dụ như Anh, Pháp, Nhật Bản, Đài Loan, và thị trường tiềm năng và mới mẻ: Mỹ.
Cử các chuyên gia, thợ lành nghề sang học hỏi kinh nghiệm, cách thức vận hành, sản xuất các sản phẩm tiên tiến của nước bạn. Nâng cao trình độ quản lý cho các cán bộ chủ chốt của công ty để học hỏi cách thức hoạt động, điều hành công ty cho phù hợp với xu thế làm ăn mới.
Tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế, từ đó đưa sản phẩm dần thâm nhập vào thị trường nước ngoài, để họ biết đến sản phẩm của công ty.
Quảng cáo về sản phẩm trên các phương tiện truyền thông sao cho chi phí hợp lý mà hiệu quả cao. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, internet đã trở nên phổ biến thì việc biến nó thành một công cụ quảng bá sản phẩm sẽ rất hữu hiệu, hơn nữa, chi phí lại rẻ.
Để có thể thực hiên được giải pháp này, công ty cần có kế hoạch lâu dài. Trước mắt, công ty cần giữ vững nhịp độ sản xuất - tiêu thụ như hiện nay, đồng thời cần chú trọng lựa chọn các mặt hàng chiến lược, tạo uy tín trong ngoài nước, tập trung thiết kế, chế thử mẫu mã để có thể chủ động chào hàng và tự tổ chức sản xuất, tiêu thụ mà không phụ thuộc vào phía nước ngoài.
Có thể nói, việc chuyển đổi phương thức hoạt động mới đòi hỏi sự nỗ lực và đoàn kết của toàn bộ công ty, đặc biệt là ban lãnh đạo công ty. Không chỉ vậy, còn cần đến sự quan tâm, hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua các chính sách, cơ chế điều hành...nhưng trước hết vẫn là chủ quan từ phía công ty. Do vậy, không còn cách nào khác, công ty phải xây dựng một chiến lược hoàn chỉnh, đồng bộ ngay từ bây giờ. Làm được điều này sẽ giúp cho công ty có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và nước ngoài, đồng thời phát triển bền vững, lâu dài.
3.2.5/Biện pháp thứ năm: Tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận theo hướng chuyển đổi loại hình doanh nghiệp.
Với chủ chương của Đảng và Nhà nước sẽ tiến hành cổ phần hoá hầu hết các doanh nghiệp nhà nước. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá thường có hướng làm ăn hiệu quả hơn, vì lúc đó quyền lợi trở nên “sát sườn” đối với người lao động – những người chủ của công ty. Do vậy, họ toàn tâm toàn ý cống hiến hết mình vì công ty và cũng chính là vì bản thân họ. Như vậy, trong thời gian tới, công ty nên có kế hoạch cổ phần hoá công ty. Điều này là phù hợp với thời cuộc mới của xã hội.
Trên đây là một số ý kiến đề xuất của cá nhân tác giả về một số phương hướng và biện pháp gia tăng lợi nhuận để công ty tham khảo nhằm nâng cao lợi nhuận, nâng cao hiệu quả hoạt động trong những năm tới. Do năng lực còn hạn chế nên rất mong nhận được sự phê bình, góp ý của các cô chú, các anh chị trong công ty.
Kết luận
Trong thời gian thực tập tại Công ty Giầy Thuỵ Khuê, được tiếp xúc với thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh, qua tìm hiểu nghiên cứu về tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty trong năm qua, nhận thấy tình hình hoạt động kinh doanh của công ty là ổn định và khá tốt, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần nhanh chóng tháo gỡ để đưa công ty hoạt động tốt hơn, qua đó, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp chủ yếu với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận của công ty trong thời gian tới.
Do trình độ và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự giúp đỡ, chỉ bảo của các Thầy, Cô giáo trong bộ môn cùng các cô chú trong công ty.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Nguyễn Minh Hoàng, cùng các Thầy cô giáo trong bộ môn Tài chính doanh nghiệp, cảm ơn Ban lãnh đạo công ty cũng như các cô chú trong, anh chị trong phòng Tài chính – kế toán ...đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập và hoàn thành đề tài này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2002
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Khánh Thuỷ.
Tài liệu tham khảo
Cẩm nang Quản trị tài chính doanh nghiệp- Arthur Young- Nhà xuất bản tổng hợp An Giang-1989
2.Luật doanh nghiệp-Nhà xuất bản chính trị quốc gia-1999
3.Phân tích hoạt động kinh tế– Trường Đại học tài chính kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản tài chính-1997
4.Quản trị Tài chính doanh nghiệp- Trường Đại học Tài chính- Kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản tài chính-2000
5. Giáo trình Kế toán tài chính- Trường Đại học Tài chính- Kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản Tài chính- 1999
6.Giáo trình Marketing- Trường Đại học Tài chính- Kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản Tài chính- 1996
7.Các tạp chí tài chính- Nhà xuất bản tài chính
8.Luận văn tốt nghiệp các khoá trước.
Mục lục
Lời nói đầu
Chương I/Những lí luận cơ bản về lợi nhuận
1.1/Lợi nhuận và doanh lợi của doanh nghiệp
1.1.1/Lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1.1.1/Khái niệm và nội dung cơ bản
1.1.1.2/Phương pháp xác định lợi nhuận
1.1.2/Doanh lợi
1.1.2.1/Doanh lợi vốn
1.1.2.2/Doanh lợi giá thành
1.1.2.3/Doanh lợi doanh thụ tiêu thụ sản phẩm
1.2/Sự cần thiết phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện kinh doanh hiện nay
1.2.1/Xuất phát từ vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.2/Xuất phát từ tình hình thực hiện lợi nhuận của các doanh nghiệp nước ta trong cơ chế quản lý kinh tế cũ
1.2.3/Xuất phát từ yêu cầu của việc phát huy quyền tự chủ tài chính và tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế quản lý kinh tế mới
1.3/Một số phương hướng, biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh như hiện nay
1.3.1/Biện pháp thứ nhất: Tăng số lượng và chất lượng của sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ
1.3.2/Biện pháp thứ hai: Hạ giá thành sản phẩm
1.3.3/Biện pháp thứ ba: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
ChươngII: Tình hình thực hiện lợi nhuận tiêu thụ ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê năm 2001
2.1/Khái quát về tình hình tổ chức quản lý kinh doanh ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê
2.1.1/Quá trình hình thành và phát triển Công ty Giầy Thuỵ Khuê
2.1.2/Phương hướng, nhiệm vụ kinh doanh
2.1.3/Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh
2.1.3.1/Quy mô kinh doanh
2.1.3.2/Đặc điểm sản phẩm và quy trình công nghệ
2.1.3.3/Hình thức tổ chức sản xuất Công ty Giầy Thuỵ Khuê
2.1.4/Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh và bộ máy kế toán tài chính
2.2/Một số nét chủ yếu về lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở Công ty GIầy Thuỵ Khuê
2.2.1/Những thuận lợi – khó khăn chủ yếu đối với hoạt động của công ty Giầy Thuỵ Khuê trong điều kiện kinh doanh hiện nay
2.2.2/Kết quả sản xuất kinh doanh và tinh hình thực hiện lợi nhuận của Công ty Giầy Thuỵ Khuê năm 2001
2.2.2.1/Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của Công ty Giầy Thuỵ Khuê năm 2001
2.2.2.2/Tình hình quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm
2.2.2.3/Tình hình quản lý và sử dụng vốn của Công ty Giầy Thuỵ Khuê năm 2001
2.2.3/Một số biện pháp chủ yếu nhằm phấn đấu tăng lợi nhuận mà Công ty Giầy Thuỵ Khuê đã áp dụng năm 2001
2.2.4/Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh cần tiếp tục giải quyết để phấn đấu tăng lợi nhuận của Công ty Giầy Thuỵ Khuê
Chương III/Một số ý kiến đề xuất về phương hướng, biện pháp tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê
3.1/Định hướng phát triển Công ty trong thời gian tới
3.2/Một số phương hướng, biện pháp chủ yếu phấn đấu nhằm tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê
3.2.1/Biện pháp thứ nhất: Tăng cường đầu tư, đổi mới kết hợp với sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất cũng như năng suất lao động của công ty
3.2.2/Biện pháp thứ hai: Nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
3.2.3/Biện pháp thứ ba: Nâng cao và giữ vững thị trường tiêu thụ nội địa, bên cạnh việc duy trì thị trường nước ngoài
3.2.4/Biện pháp thứ tư: Đẩy mạnh chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang phương thức mua bán trực tiếp
3.2.5/Biện pháp thứ năm: Tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận theo hướng chuyển đổi loại hình doanh nghiệp
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34284.doc