Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở

Lời cảm ơn Trong quá trình làm khoá luận tốt nghiệp, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn với Ban giám hiệu cùng toàn thể các thầy giáo cô giáo những người đã hết lòng vì học sinh thân yêu không tiếc mồ hôi công sức truyền thụ cho tôi lý luận và thực tiễn. Đặc biệt là tôi xin chân thành cảm ơn thầy Vũ Đạt – trường Đại học Công đoàn, thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi viết đề tài luận văn tốt nghiệp. Cũng nhân dịp này tôi xin được chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưn

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g Đồng chí Vũ Tiến Sửu – Chủ tịch LĐLĐ quận Hai Bà Trưng Đồng chí Trần Văn Chín – Phó chủ tịch LĐLĐ quận Hai Bà Trưng Đồng chí Lê Thuý Hoà - Thường vụ LĐLĐ quận Hai bà Trưng đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực tập tại cơ sở Nhờ những sự giúp đỡ quý báu đó, tôi đã hoàn thành được khoá luận tốt nghiệp này, nhưng với lượng kiến thức còn hạn chế, chắc chắn khoá luận còn nhiều thiếu sót, tôi mong nhận được sự chỉ đạo, góp ý của các thầy, cô Tôi xin chân thành cảm ơn Phần 1: mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Công tác xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được nêu ra từ lâu nhưng mãi đến Đại hội lần thứ V của Đảng công tác này được đưa vào nghị quyết với những nội dung, mục tiêu cụ thể. Và từ đó đến nay, các ngành , các cấp đang nỗ lực biến Nghị quyết của Đảng, chủ trương của Nhà nước thành kết quả cụ thể. Mục tiêu của việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở chính là nhằm xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã nhấn mạnh cần phải đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hoá - xã hội, phát triển văn hoá truyền thống, phát huy tình làng nghĩa xóm, sự giúp đỡ và hỗ trợ lẫn nhau phát triển trong cộng đồng . Hiện nay ở nước ta việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở với phương châm là “lấy xây dựng đời sống văn hoá để chống tệ nạn xã hội là phương châm đúng đắn và có hiệu quả nhất” vì nó tác động trực tiếp, thường xuyên đến mọi tầng lớp nhân dân lao động. Cương lĩnh của Đảng ta đã chỉ rõ chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những luận điểm quan trọng về xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định đó là “xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Qua quá trình nghiên cứu thực tế kết hợp với những báo cáo của Liên đoàn lao động Quận, tôi thấy việc xây dựng đời sống văn hoá ở cở sở là một trong những nội dung quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc. Đó chính là nguyên nhân để tôi lựa chọn viết đề tài: “ Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở ”. Là sinh viên khoa Công đoàn thuộc trường Đại học Công đoàn , tôi thực sự cảm nhận sự cần thiết của các hoạt động văn hoá - một công cụ quan trọng và cần thiết trong công tác tuyên truyền giáo dục công nhân lao động của Công đoàn. Qua 4 năm được học tập, nghiên cứu, tiếp thu lý luận tại trường Đại học Công đoàn, tôi rất mong muốn được sử dụng những kiến thức do nhà trường trang bị để tìm hiểu sâu hơn về hiệu quả của các hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở và mong tìm ra những giải pháp hữu hiệu sử dụng chúng trong công tác bản thân khi ra trường và trở về công tác tại đơn vị. 2. Mục tiêu của đề tài: - Nêu lên vai trò và nội dung hoạt động của đời sống văn hoá ở cơ sở. - Đánh giá một cách khách quan về thực trạng hoạt động của việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế cùng nguyên nhân của thực trạng đó. - Đưa ra những đổi mới về nội dung và phương pháp hoạt động nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. - Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 3. Phạm vi nghiên cứu: Với phạm vi đề tài hẹp nên tôi chỉ đi vào khía cạnh trong hoạt động của tổ chức Công đoàn, đó là việc Công đoàn tổ chức việc xây dựng đời sống văn hoá ở các cụm văn hoá thể thao hoạt động như thế nào sao cho có hiệu quả phù hợp với tình hình hiện nay. Do thời gian thực tập có hạn nên địa điểm khảo sát tìm hiểu không thể bao quát toàn bộ các cơ sở thành viên thuộc cụm văn hoá thể thao trong Quận mà chỉ dừng lại trong phạm vi một số đơn vị có hoạt động xây dựng đời sống văn hoá tiêu biểu và là hạt nhân của cụm văn hoá thuộc quận Hai Bà Trưng, do đó kết qủa thu được chỉ mang tính chất điển hình. 4. Tổng quan vấn đề nghiên cứu: Để viết đề tài này, tôi sử dụng những kiến thức lý luận từ các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Hồ Chí Minh, những văn kiện của Đảng cộng sản Việt nam và của tổ chức Công đoàn; những kiến thức trong sách xuất bản mang tính lý luận của các tác giả nghiên cứu nhiều năm về vấn đề văn hoá. Đồng thời còn có những tư liệu thực tế mang tính kinh nghiệm quý báu từ các cơ sở cũng đã đóng góp cho đề tài thêm phong phú sát với cuộc sống lao động sản xuất và sinh hoạt của công nhân lao động trong tình hình mới hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp sử dụng để viết đề tài là phương pháp phân tích và chứng minh để nêu rõ các khái niệm và từ đó dùng phương pháp hệ thống hoá để luận giải những cơ sở lý luận và thực tiễn về việc tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Do còn nhiều hạn chế về trình độ lý luận và thực tiễn nên đề tài viết ra chỉ mong được đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở để hệ thống này thực sự đủ mạnh nhằm thoả mãn nhu cầu thưởng thức và sáng tạo các giá trị văn hoá của công nhân lao động và công chúng trong khu vực, đồng thời phản ánh được tiếng nói của công nhân lao động trong công cuộc đổi mới đất nước. Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Vũ Đạt và các đồng chí lãnh đạo Liên đoàn lao động Quận cùng các đồng chí trong Ban chấp hành Công đoàn. Những sự giúp đỡ chân thành này đã cung cấp cho tôi nhiều tư liệu quý báu để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp đúng thời gian quy định. Qua đề tài này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với các thầy giáo, cô giáo – người đã hết lòng truyền thụ cho tôi những kiến thức lý luận và thực tiễn trong mọi hoạt động. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến chân tình về đề tài này để tôi có được những kinh nghiệm thực tiễn bổ ích, chuẩn bị hành trang bước vào lĩnh vực công tác mới. 6. Nội dung đề tài: Về nội dung đề tài được chia làm 3 phần cơ bản: Phần 1: Phần mở đầu Phần 2: Phần lý luận và những nội dung chính Phần 3: Kết luận - Đề xuất – Khuyến nghị Sau đây tôi xin giới thiệu nội dung chi tiết của khoá luận tốt nghiệp. Phần 2: nội dung Chương 1 Một số vấn đề lý luận về văn hoá và đời sống văn hoá ở cơ sở 1. Văn hoá và vai trò của văn hoá 1.1 Khái niệm về văn hoá 1.1.1 Một số cách tiếp cận về văn hoá của các học giả phương Tây: Vào thế kỷ XIX, thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những người này cho rằng văn hoá (văn minh) thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp nhất đến cao nhất, và văn hoá của họ chiếm vị trí cao nhất. E.B.Taylo cho rằng văn hoá là toàn bộ phúc thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội. ở thế kỷ XX, khái niệm “văn hoá” thay đổi. Theo F.Boas, ý nghĩa văn hoá được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng không theo tiêu chuẩn trí lực. đó cũng là “tương đối luận của văn hóa”. Văn hoá không xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt. Theo Knoibơ (A.L.Knoeber) và Klúchôn (C.L.Kluc Khohn) quan niệm văn hoá là loại hình hành vi rõ ràng và ám thị đã đựơc đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng và nó hình thành thành quả độc đáo của nhân loại, khác với các loại hình khác. Các học giả Mỹ cho rằng văn hoá là tấm gương nhiều mặt phản chiếu đời sống và nếp sống của một cộng đồng dân tộc. 1.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hoá: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì văn hoá là một hiện tượng xã hội phản ánh hiện thực từ khi xuất hiện xã hội loài người. Hiện tượng ấy xét cho cùng là do sản xuất vật chất quyết định, mỗi chế độ kinh tế xã hội nhất định đòi hỏi một nền văn hoá tương ứng với nó. Như vậy, văn hoá bao trùm những lĩnh vực rộng lớn của tư duy và hành động, trình độ phát triển các quan hệ nhân tính của xã hội và mỗi người trong xã hội, thế giới quan và nhân sinh quan, khoa học và kỹ thuât, luật pháp, đạo đức, mỹ học, lối sống và phong tục tập quán. Cốt lõi của văn hoá là hiểu biết và sáng tạo, được cộng đồng khẳng định và giữ gìn với tư cách là hệ giá trị đặc trưng cho bản sắc dân tộc, quốc gia. Khái niệm văn hoá rất rộng, đòi hỏi phải có sự đồng nhất về cách hiểu, cách nghiên cứu, xem xét. Văn hoá là một hiện tượng xã hội, nhưng không phải là một hiện tượng riêng rẽ, biệt lập với các hiện tượng xã hội khác mà nó đan xen với nhau. Khi nói đến văn hoá là nói đến năng lực, bản chất con người, được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống. Với quan niệm như vậy chúng ta có thể thống nhất hiểu văn hoá như sau: “văn hoá là một hiện tượng xã hội, biểu hiện những năng lực bản chất con người vươn lên làm chủ tự nhiên, xã hội, và bản thân. Những năng lực ấy được khách quan hoá, vật chất hoá, văn hoá hoá trong hoạt động và trong sản phẩm của hoạt động con người”. Khái niệm trên đây chỉ rõ nội dung, bản chất của văn hoá gồm ba mặt: Con người – Hoạt động – Sản phẩm. Ba mặt này có mối quan hệ biện chứng với nhau trong đó con người có vị trí vô cùng quan trọng, không thể có văn hoá nằm ngoài con người. Song văn hoá cũng bao gồm quá trình: Sản xuất – Bảo quản – Phân phối – Trao đổi – Tiêu dùng. 1.1.3 Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hoá: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng toạ và phát minh đó là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với mọi biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. 1.1.4 Định nghĩa của E.B.Taylo về văn hoá: Với E.B.Taylo: “văn hoá hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục về những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội”. 1.1.5 Định nghĩa văn hoá của UNESCO: Theo nghĩa hẹp của UNESCO: “văn hoá là một tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cáhc ứng xử và sự giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng. Có lẽ cũng nên nhấn mạnh thêm, văn hoá bao gồm hệ thống những giá trị để đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, đạo đức hay vô luân, phải hay trái, đúng hay sai…) theo cộng đồng ấy” UNESCO – 1994 nhìn nhận “văn hoá” với nghĩa rộng đó là một phức thể – tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, trí thức, tình cảm… khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng miền, quốc gia, xã hội. Văn hoá không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cả những lối sống những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng. 1.2 Vai trò của văn hoá Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng, trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX Đảng ta khẳng định : “ Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội” 1.2.1 Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội Văn hoá có các yếu tố chủ yếu là các tri thức và kinh nghiệm mà dân tộc đã tích luỹ được trong quá trình lịch sử, sức sống, sức sáng tạo của một dân tộc được hun đúc trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc mình. Bản sắc văn hoá dân tộc, những khuynh hướng và phẩm chất căn bản trong sáng tạo của mỗi dân tộc, hệ giá trị và truyền thống của dân tộc đó. Các yếu tố trên đây đã tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng, được truyền lại tiếp nối và phát huy qua các thế hệ, được vật chất hoá và khẳng địnhvững chắc trong cấu trúc chính trị – xã hội của từng dân tộc. Vì vậy, chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế xã hội bền vững. Nền tảng tinh thần của văn hoá còn thể hiện thông qua bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc cũng chính là bản sắc văn hoá của dân tộc, được phát triển trong những điều kiện xã hội, kinh tế, thể chế chính trị và quá trình giao lưu văn hoá. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam : “kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh của đất nước” Văn kiện Đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, trang 111 là thiết thực giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc biểu hiện một sức sống bên trong của một dân tộc, một quá trình thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự tái tạo từ bản thân mình và từ sự tiếp nhận từ ngoài vào. Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống ý thức nhưng được thể hiện sâu sắc nhất trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của văn hoá. Cốt lõi của văn hoá là hệ tư tưởng, nó có vai trò kết dính, định hướng các chuẩn mực giá trị và các vòng cộng đồng văn hoá. Hệ tư tưởng Mác – Lênin là hạt nhân của văn hoá xã hội chủ nghĩa. 1.2.2 Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội Quan điểm của Đảng ta về sự phát triển là : “phát triển phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn, giữ được cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hoá”1 Trích nghị quyết 09 của Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, khóa VI . Nguồn lực văn hoá của phát triển thể hiện trước hết là các yếu tố trong cấu trúc văn hoá. Các yếu tố đó kết tinh trong mỗi con người và cả cộng đồng. Vì vậy khi nói đến nguồn lực con người trong phát triển thì chủ yếu là nói đến văn hoá. Với tư cách là động lực của sự phát triển, văn hoá khơi dậy và nhân lên mọi tiểm năng sáng tạo của con người. Vì vậy, ngày nay trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại thì yếu tố quyết định cho sự phát triển là trí tuệ, là thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng nhằm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của toàn xã hội. Văn hoá và phát triển là vấn đề quan hệ mật thiết đến cuộc sống hiện tại và tương lai của một quốc gia. Bởi thế cho nên, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển kinh tế – xã hội là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Ngày nay, việc xem xét một quốc gia giàu hay nghèo không chỉ ở nó có nhiều hay ít lao động, vốn kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên, mà là ở khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hoá. Một chính sách phát triển đúng đắn phải là chính sách làm cho các yếu đ tố cấu thành văn hoá thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực hoạt động sáng tạo của con người như văn hoá trong sản xuất, văn hoá trong quản lý, văn hoá trong lối sống, văn hoá trong sinh hoạt gia đình, văn hoá trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hoá dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt, cái đẹp, nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện để người lao động phát huy sáng kiến , cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Mặt khác, văn hoá sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để giáo dục người lao động đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hoá độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại và khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý coi thường các giá trị nhân văn. 1.2.3 Văn hoá là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Mục tiêu phấn đấu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh ” là định hướng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng chính là mục tiêu của văn hoá. Khi xác định những đặc trưng của xã hội mới mà nhân dân ta đang xây dựng, Đảng Cộng sản Việt nam đã nêu lên một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đó là “ nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ”. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển của con người. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xóm – Tổ quốc. Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Như vậy trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cũng như trong các chủ trương, chính sách về văn hoá, Đảng ta xác định mục tiêu văn hoá, gắn liền với các mục tiêu kinh tế – xã hội : “ xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng văn minh con người phát triển toàn diện ”1 Văn kiện hội nghị lần V, BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII, NXB Chính trị Quốc gia 1998, trang 55 . 1.2.4 Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới Việc phát triển kinh tế – xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài nguyên, thiên nhiên, vốn… những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người là một nguồn lực vô tận, có khả năng tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn kiệt, lâu bền nhất trong sự phát triển của nhân loại và của mỗi dân tộc. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả, nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác. Trong giai đoạn hiện nay đang diễn ra quá trình chuyển dịch từ sử dụng sức lao động cơ bắp là chủ yếu sang sử dụng nhiều lao động trí tuệ để sản xuất ra sản phẩm. Chính vì vậy, cần đề cao vai trò của giáo dục, khoa học, văn học và nghệ thuật để bồi dưỡng đào tạo nguồn lực người lao động có trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngày nay, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao tức là có vốn trí tuệ toàn dân nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển cao hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào “ tài nguyên” con người. Cái vốn con người nói cho cùng là vốn trí tuệ của một dân tộc. Vì vậy, phải “ phát huy người tốt việc tốt hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại ”1 Văn kiện hội nghị lần V, BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia 1998, trang 113 . Cuộc chiến đấu “ ai thắng ai” đang diễn ra trên thị trường thế giới và khu vực hiện nay phụ thuộc chủ yếu vào việc đầu tư chuẩn bị cho nguồn vốn con người nhiều hay ít. 2. Đời sống văn hoá 2.1 Khái quát về đời sống văn hoá Đời sống văn hoá không phải là toàn bộ đời sống con người nhưng là bộ phân đặc biệt bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống con người. Từ việc sản xuất vật chất và tinh thần đến việc giữ gìn, trao đổi và tiêu dùng những sản phẩm do con người sáng tạo ra. Từ hoạt động sáng tạo nhằm tạo ra những giá trị tinh thần đến việc hưởng thụ những giá trị tinh thần, từ cảnh quan, môi trường xung quanh mà ở đó con người hoạt động văn hoá, lao động sáng tạo đến mọi quan hệ xã hội phức tạp và tinh tế. Đời sống văn hoá hiểu theo nghĩa rộng là bao quát mọi mặt của đời sống sản xuất, trao đổi, tiêu dùng, nhận thức, sáng tạo. Theo nghĩa hẹp, đời sống văn hoá chính là đời sống con người liên quan đến việc hưởng thụ và sáng tạo những sản phẩm văn hoá. Đời sống văn hoá là tổng hợp những yếu tố vật chất và tinh thần, môi trường tự nhiên và xã hội ở trong đó con người thực hiện hoạt động sản xuất bảo quản trao đổi và tiêu thụ những giá trị vật chất và tinh thần do chính con người tạo ra. Những hoạt động đó phản ánh mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, con người với con người và với xã hội đồng thời là cơ sở để hình thành lối sống con người trong chính môi trường đó. Với khái niệm này thì việc xây dựng đời sống văn hoá cũng chính là xây dựng môi trường văn hoá bởi môi trường văn hoá là môi trường chưa đựng những giá trị văn hoá và diễn ra các quan hệ văn hoá, các hoạt động sáng tạo, hưởng thụ văn hoá của con người nó được tạo nên bởi nhiều yếu tố trong đó trung tâm là yếu tố con người. 2.2 ý nghĩa của việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở Một trong những chủ trương lớn của Đảng ta là tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, đưa văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân : “ đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, nông trường, lâm trường mỗi đơn vị lực lượng vũ trang , công an nhân dân, mỗi xã, hợp tác xã, phường ấp đều có đời sống văn hoá ”1 Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần V, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1982, trang 101 . Tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được coi như bước đi ban đầu trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới. Đó là công việc xây dựng kết cấu văn hoá hạ tầng cơ sở để tiến hành các hoạt động văn hoá - giáo dục mở mang dân trí, bồi dưỡng đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và tổ chức hoạt động văn hoá trong thời gian rỗi theo nhu cầu của nhân dân. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở có ý nghĩa trực tiếp phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về mặt văn hoá, góp phần biến mọi giá trị văn hoá thành tài sản của nhân dân lao động. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, trực tiếp truyền bá thông tin đến mọi người ( bằng các loại hình văn bản) góp phần trực tiếp “ phát triển các hoạt động văn hoá nghiệp dư đẩy mạnh phong trào văn hoá quần chúng ở cơ sở”2 Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đảng cộng sản Việt Nam, khóa VII, 1994, trang 50 . Coi trọng việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở cũng có nghĩa là xây dựng nền văn hoá thực sự của dân, do dân và vì dân . Nó khẳng định một nhận thức hết sức đúng đắn sự nghiệp văn hoá phải do chính nhân dân xây dựng. Nhân dân phải là chủ thể hưởng thụ văn hoá. Nhận thức đúng đắn vấn đề này có ý nghĩa thiết thực trong tổ chức chỉ đạo mọi hoạt động văn hoá ở cơ sở. Việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở có ý nghĩa thiết thực và có hiệu quả trực tiếp vì nó tác động trực tiếp, thường xuyên đến mọi tầng lớp nhân dân lao động, có ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân và sự thể hiện của nó thường dễ nhận thấy. Việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở có tác động trực tiếp tới sự hình thành nhân thức đúng đắn trong nhân dân về chính trị, kinh tế, xã hội tạo điều kiện phát huy tính chủ động sáng tạo của nhân dân trong mọi mặt của đời sống xã hội, các hoạt động văn hoá góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để văn hoá thực sự trở thành động lực của sự phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát động phong trào “ toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ” nhằm huy động mọi lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị thực hiện nghiêm túc từ trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan Nhà nước, các đoàn thể ra ngoài xã hội. Trong việc xây dựng đời sống văn hoá, tạo điều kiện thuận lợi và môi trường lành mạnh cho mọi tầng lớp xây dựng, tham gia hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá. 2.3 Quan điểm của Đảng, Nhà nước và trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Đời sống văn hoá ở cơ sở là một trong những vấn đề được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm. Điều đó thể hiện quan điểm có tính xuyên suốt của Đảng ta là “ lấy dân làm gốc”, lấy việc phục vụ con người là mục đích cao nhất. Để cụ thể hoá quan điểm này, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ III khoá V đề ra “ tất cả các cơ sở đều có tổ chức hoạt động văn hoá, tức là không còn cơ sở trắng về văn hoá” và được xác định : xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phải là một trọng tâm công tác của Nhà nước. Trong văn kiện Đại hội lần thứ V Đảng ta nhận định “ phải đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở”… Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh “phát triển các hoạt động văn hoá nghiệp dư, đẩy mạnh phong trào văn hoá quần chúng ở cơ sở”. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng khẳng định “củng cố tăng cường mạng lưới văn hoá cơ sở”. Tại văn kiện Đại hội Đảng IX, Đảng ta đã khẳng định và nhấn mạnh nhiệm vụ trong đường lối kinh tế những năm đầu thế kỷ XXI là “ tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường”. Còn trong Hội nghị lần thứ năm ( khoá VIII) của Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết : “ về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (tháng 7 – 1998). Quan điểm của Đảng ta đặt ra là xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trong điều kiện thực tế ở Việt Nam chính là phương thức tốt nhất để rút ngắn khoảng cách giữa thành thị với nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi. Chính vì vậy mà trước lúc đi xa Bác Hồ kính yêu đã căn dặn “ Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở còn cần phải hiểu và quán triệt là tổ chức các hoạt động văn hoá để đưa “ văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân”. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là một cuộc đấu tranh lâu dài, gay go và phức tạp, đó là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa cái lạc hậu và cái tiến bộ, giữa cái phản động và cái cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá, trên lĩnh vực đời sống tinh thần, lối sống của mỗi con người, của cả một cộng đồng, cả dân tộc. Xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, trước hết là hướng vào việc giáo dục xây dựng con người phát triển toàn diện. Đó là những con người “ có tư tưởng và tình cảm, có tri thức và thể lực, có phẩm chất và năng lực”. Trên cơ sở đó đời sống văn hoá ở cơ sở là thực sự phát huy quyền làm chủ tập thể của công nhân lao động về văn hoá, là thưởng thức – hưởng thụ – sáng tạo những giá trị văn hoá nghệ thuật, tạo dựng nên một lối sống văn minh lành mạnh, tiến bộ, những phong tục tập quán tốt đẹp, mang đậm bản sắc dân tộc. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở chính là trực tiếp truyền bá dến người lao động những kiến thức tạo cho họ có khả năng tiếp cận những thành tựu văn hoá và tham gia tích cực vào các lĩnh vực khác nhau của hoạt động xã hội góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mới, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở với các hoạt động văn hoá sẽ từng bước và từ nhiều phía tác động đến tư tưởng, tình cảm tâm lý của nhân dân và công nhân lao động. Để thiết thực xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi tổ chức, mỗi đơn vị phải xác định đó là nhiệm vụ của chính mình, phải gắn chặt giữa tổ chức xây dựng với tổ chức hoạt động, giữa đẩy mạnh các hoạt động phong trào với xây dựng các thiết chế văn hoá “ tự nguyện tham gia liên kết văn hoá, tự thân vận động” song Đảng ta cũng yêu cầu “ mỗi hoạt động văn hoá, nghệ thuật đều phải tính đến hiệu quả xã hôi, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân”1 Văn kiện Đại hội IV Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, năm 1986 . Hiện nay Đảng và Nhà nước chủ trương chỉ đạo đẻ xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trong những năm tiếp theo là: - Quán triệt quan điểm “ lấy dân làm gốc” tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. - Nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá nghệ thuật chuyên và không chuyên nghiệp. - Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển các công trình Nhà nước và nhân dân cùng làm. - Tăng cường quản lý Nhà nước về văn hoá. - Quyền làm chủ tập thể về văn hoá của nhân dân lao động được thực hiện trực tiếp ở ngay từng cơ sở nó thể hiện ở mức hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hoá ở trách nhiệm cá nhân tham gia vào các hoạt động và tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, với phương châm : Đảng lãnh đạo Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ và xây dựng những công trình văn hoá, những mô hình văn hoá nhằm “ biến mọi giá trị văn hoá thành tài sản của nhân dân lao động”1 Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia năm 1976 . Với chủ trương đó đã được triển khai thực hiện đến nay đã xuất hiện nhiều mô hình hoạt động văn hoá tốt như các Cụm văn hoá thể thao, các công trình văn hoá và thiết chế văn hoá. Đối với tổ chức Công đoàn, các hoạt động văn hoá có tầm quan trọng đặc biệt giúp cho công nhân lao động hiểu rõ tình hình nhiệm vụ kinh tế – xã hội của đất nước, quán triệt các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước. Từ đó nêu cao vai trò lãnh đạo cách mạng và phẩm chất cao quý của giai cấp công nhân, trên cơ sở đó phát huy vai trò làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, hăng hái thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm, đẩy mạnh các tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng thái độ lao động mới với năng suất – chất lượng – hiệu quả kinh tế thiết thực đồng thời chống tham nhũng biểu hiện tiêu cực, xây dựng “ giai cấp công nhân và Công đoàn, vì sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh” mà nghị quyết Đại hội IX đề ra. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là việc làm rất quan trọng trong toàn bộ các hoạt động văn hoá của tổ chức Công đoàn bởi cơ sở là nơi tiếp nhận giáo dục và hình thành phát triển nhân cách của người công nhân mới. Tổ chức Công đoàn phải thấy được xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là nhằm giáo dục và tạo ra các giá trị đức, trí, thể mỹ, xây dựng nhân cách và ngày càng nảy nở những tình cảm tốt đẹp, tạo mối quan hệ gắn bó trong cuộc sống của công nhân lao động . Để thực hiện việc thoả mãn nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo văn hoá của công nhân lao động, tổ chức Công đoàn cần nghiên cứu, tổ chức các hoạt động phong phú đa dạng và cụ thể. Phải đi từ nhỏ tới lớn tuỳ theo điều kiện hoàn cảnh từng đơn vị, với nhiều cấp độ khác nhau như cơ sở, Cụm văn hoá, Quận, Thành phố. Với các t._.hiết chế như câu lạc bộ, nhà văn hoá, cung văn hoá. Quy mô lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào mật độ dân cư của địa bàn đó sao cho người công nhân đi từ gia đình hoặc nơi làm việc đến những công trình văn hoá không quá xa, bảo đảm cho họ có thời gian nghỉ ngơi, giải trí hợp lý. Bên cạnh đó, việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở còn là một nội dung quan trọng để giáo dục công nhân lao động. Công nhân lao động tham gia vào các hoạt động văn hoá văn nghệ cũng là sự tham gia vào quá trình giáo dục và tiếp nhận sự giáo dục, nâng cao trình độ để phấn đấu thực hiện đường lối chính sách của Đảng. Vì vậy xây dựng và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của công nhân và lao động là trách nhiệm trực tiếp của Công đoàn : “ Công đoàn có trách nhiệm cùng các cơ quan, đơn vị, tổ chức hữu quan chăm lo đời sống văn hoá, hoạt động thể dục thể thao, tổ chức nghỉ ngơi, du lịch cho công nhân lao động ”. Huy động mọi lực lượng tích cực tham gia phong trào bởi xuất phát từ việc giáo dục là một trong những chức năng cơ bản của Công đoàn: “ Công đoàn là người giáo dục”1 Lê nin toàn tập, tập 40, trang 311 và với vai trò là “ trường học” Công đoàn có trách nhiệm giáo dục toàn diện bằng nhiều hình thức, trong đó giáo dục văn hoá mà Lê- Nin gọi là “ giáo dục ngoài nhà trường” cũng nhằm mục tiêu là giáo dục xây dựng người công nhân mới thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chương 2 kết quả nghiên cứu Qua khảo sát ở Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng. 1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội ở quận Hai Bà Trưng: Quận Hai Bà Trưng nằm ở phía đông nam nội thành Hà Nội, vốn là một phần đất của huyện Thọ Xương cũ gồm các tổng Hậu Nghiêm, Tả nghiêm và một số xã của huyện Thanh Trì thuộc Sơn nam thượng, nằm trên con đường huyết mạch nối Hà Nội với các tỉnh phía nam Tổ quốc. Quận Hai Bà Trưng phía bắc giáp quận Hoàn Kiếm từ phố Nguyễn Du - Lê Văn Hưu - Hàn Thuyên kéo dài đến đầu phố Trần Hưng Đạo - dốc Vạn Kiếp. Phía đông giáp sông Hồng từ đoạn dốc Vạn Kiếp đến xã Thanh Trì. Phía tây giáp quận Đống Đa và Thanh Xuân theo trục đường Lê Duẩn - Giải phóng. Phía nam giáp huyện Thanh Trì. Năm 2003 là năm tiếp tục thực hiện nghị quyết Đại hội IX của Đảng, nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận Hai Bà Trưng lần thứ XXII, là năm thứ ba thực hiện nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thời kỳ 5 năm (2001 -2005). Đặc biệt công nhân viên chức - lao động và cán bộ đoàn viên Công đoàn tập trung vào việc tổ chức Đại hội Công đoàn các cấp tiến tới Đại hội IX Công đoàn Việt Nam, nhằm đánh giá, kiểm điểm thực hiện nghị quyết Đại hội Công đoàn các cấp và nghị quyết Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam nhiệm kỳ (1998 -2003). Đảng bộ, nhân dân, công nhân viên chức - lao động quận Hai Bà Trưng đã khắc phục khó khăn vươn lên có những bước phát triển mới về công tác như : Kinh tế trên địa bàn quận tiếp tục ổn định và có mức tăng trưởng khá. Về sản xuất công nghiệp tăng 13,7% so cùng kỳ trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 14% , khu vực ngoài quốc doanh tăng 30,8% ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 21,6%. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư đổi mới công nghệ, sản xuất được nhiều mặt hàng Việt Nam chất lượng cao, đồng thời quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu để gia tăng xuất khẩu và cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Công nhân viên chức - lao động có đủ việc làm, đời sống, thu nhập có phần được cải thiện hơn. Phong trào thi đua lao động giỏi chào mừng Đại hội Công đoàn các cấp Đại hội IX Công đoàn Việt Nam, Chào đón SEAGAMES 22 được đông đảo công nhân viên chức - lao động hưởng ứng. Các hoạt động văn hoá, xã hội thu được nhiều thành tích đáng kể, thông qua công tác tuyên truyền Đại hội Công đoàn các cấp, tuyên truyền các chính sách pháp luật mới, đặc biệt là việc tuyên truyền thực hiện nghị quyết 13/ CP của Chính phủ đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao được tổ chức sôi nổi từ cơ sở đến quận thu hút đông đảo công nhân viên chức - lao động tham gia và đã trở thành phong trào quần chúng tham gia xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ngành giáo dục đã tổ chức khai giảng năm học mới, đưa chương trình thay sách giáo khoa lớp 2 và lớp 7 vào năm học. Quận Hai Bà Trưng đã giành kinh phí đầu tư xây dựng nhiều trường học khang trang phục vụ kịp thời cho khai giảng năm học mới. Hoạt động y tế, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân đặc biệt đã được quan tâm và tập trung vào chiến dịch ngăn chăn SART có hiệu quả. Công tác xây dựng và quản lý trật tự đô thị có nhiều tiến bộ, tập trung vào việc xây dựng các trường học, trụ sở các phường, cụm tiểu thủ công nghiệp Đền Lừ. Đặc biệt đã tổ chức thành công phiên đấu giá quyền sử dụng đất đạt kết quả cao. Phong trào thi đua xây dựng nếp sống văn minh đô thị, xây dựng tuyến phố văn minh thương mại được thực hiện ở các tuyến phố. Việc đó là thực hiện theo chỉ thị 04 của Uỷ ban nhân dân thành phố được đông đảo nhân dân và công nhân viên chức - lao động hưởng ứng, công tác phòng chống tệ nạn xã hội đặc biệt là phòng chống ma tuý, đấu tranh phòng chống tội phạm đã thu được những kết quả nhất định, góp phần bảo đảm an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các hoạt động thông tin, tuyên truyền cổ động, văn nghệ quần chúng diễn ra sôi nổi với nhiều hình thức phong phú, tất cả đều hướng về lập thành tích cao nhất chào mừng kỷ niệm 73 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam ( 3/2 ), 113 năm ngày sinh nhật chủ tịch Hồ Chí Minh ( 19/5 ), 74 năm thành lập Công đoàn Việt Nam ( 28/7 ), 58 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, chào mừng Đại hội IX Công đoàn Việt Nam, 49 năm ngày giải phóng Thủ đô ( 10/10 ) và các hoạt động chào đón SEAGAMES 22 lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam. Nhìn chung Đảng bộ, chính quyền và nhân dân quận Hai Bà Trưng đã lập được nhiều thành tích, duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân và công nhân viên chức - lao động trong quận. Từ đó làm thay đổi bộ mặt đô thị khang trang, sạch đép, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn giao thông - xã hội có những chuyển biến tích cực. Những kết quả đó đã tạo tiền đề vững chắc cho quận Hai Bà Trưng thêm tự tin phấn đấu trong những năm đầu thế kỷ XXI. 2. Khái quát về phong trào công nhân và hoạt động của Liên doàn lao động quận Hai Bà Trưng 2.1 Tình hình công nhân viên chức và lao động quận Hai Bà Trưng Năm 2003 là năm tổ chức Đại hội Công đoàn quận lần thứ XV, Đại hội Công đoàn thành phố lần thứ XIII và đại hội IX Công đoàn Việt Nam. Người lao động an tâm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, vào sự quan tâm động viên kịp thời của các cấp, các ngành ngay từ đầu năm. Qua đó, chăm lo đời sống cho công nhân viên chức – lao động, tạo không khí phấn khởi hăng hái hưởng ứng các phong trào thi đua “Mừng Đảng – Mừng Xuân – Mừng đất nước đổi mới – Chào mừng Đại hội IX Công đoàn Việt Nam”, thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, thi đua “giỏi việc nước - đảm việc nhà”, thi đua “ xanh – sạch - đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động” trong các doanh nghiệp. 2.1.1 Về cơ cấu và số lượng Với việc chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế và quá trình xây dựng phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đội ngũ công nhân viên chức – lao động đã có nhiều biến động, phát triển về số lượng, đa dạng về cơ cấu nhưng không đồng đều giữa các ngành và các thành phần kinh tế. Điều đó được thực hiện qua bảng sau: Bảng 1: Số lượng và cơ cấu công nhân viên chức – lao động quận Hai bà Trưng trong những năm qua TT Năm Tổng số Công đoàn cơ sở Tổng số lao động Tổng số đoàn viên Loại hình DNNN HCSN NQD 1 1998 176 16.100 14.711 24 58 94 2 1999 193 16.565 15.091 23 60 110 3 2000 204 16.315 14.826 19 61 124 4 2001 213 14.975 12.666 17 61 135 5 2002 219 16.248 13.585 17 61 146 Qua bảng số liệu trên ta thấy số lượng công nhân viên chức – lao động ở doanh nghiệp Nhà nước do yêu cầu chuyển đổi, phát triển về số lượng đa dạng về cơ cấu nhưng không đồng đều giữa các ngành và các thành phần kinh tế. Tiếp đó, năm 2003 có 286 / tổng số Công đoàn cơ sở, có 13.585/tổng số đoàn viên và có 17 doanh nghiệp Nhà nước, về hành chính sự nghiệp có 60 người, doanh nghiệp ngoài quốc doanh có 132 người. Công nhân viên chức – lao động ở doanh nghiệp tư nhân, khu vực kinh tế tập thể, khu vực liên doanh với nước ngoài tăng nhanh thu hút ngày càng nhiều công nhân lao động trẻ được đào tạo cơ bản. Cán bộ công chức, trí thức ở các cơ quan hành chính sự nghiệp phần lớn được đào tạo cơ bản về học vấn, chính trị, chuyên môn nghiệp vụ. 2.1.2 Về chất lượng Đội ngũ công nhân viên chức – lao động vốn có bản lĩnh vững vàng, với ý chí tự lực, tự cường vươn lên khắc phục mọi khó khăn trong giai đoạn cách mạng mới, nhận thức rõ hơn quy luật khắc nghiệt của thị trường. Do đó, đại bộ phận tin tưởng ủng hộ vào đường lối đổi mới của Đảng, tích cực tham gia đấu tranh chống hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, tệ nạn xã hội. Trình độ học vấn, khả năng nghiên cứu chuyên môn, nghiệp vụ được nâng lên nhất là lực lượng công nhân trẻ đã tiếp cận nhanh với khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến hịên đại. Bên cạnh những kết quả đạt được, đội ngũ công nhân viên chức lao động quận Hai Bà Trưng còn có những khó khăn hạn chế như sau: - Một bộ phận công nhân viên chức – lao động trong các doanh nghiệp, cổ phần hoá, doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn băn khoăn lo lắng về việc làm, đời sống, điều kiện bảo hộ lao động, thực hiện các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, có nơi còn xảy ra vi phạm cắt xén quyền lợi hợp pháp chính đáng của người lao động. - Tiến trình cải cách hành chính còn chậm, công tác quản lý Nhà nước ở một số lĩnh vực còn thiếu chặt chẽ, tệ nạn xã hội, tham nhũng đang là vấn đề bức xúc làm cho công nhân viên chức – lao động lo lắng thiếu yên tâm. Bảng 2: Trình độ học vấn và chuyên môn của công nhân viên chức – lao động năm 2003 Thứ tự Trình độ Số lượng Tỷ lệ (%) 1 Tiểu học 65 0,4 2 Trung học cơ sở 102 0,62 3 Trung học phổ thông 7.161 44,07 4 Trung học chuyên nghiệp 2.572 16,94 5 Đại học 5.595 34,44 6 Trên đại học 573 3,53 2.1.3 Tình hình việc làm và đời sống của công nhân viên chức – lao động Điều kiện việc làm của công nhân viên chức – lao động ở doanh nghiệp Nhà nước, liên doanh với nước ngoài đã có nhiều cải thiện. Khu vực ngoài quốc doanh điều kiện làm việc chậm được cải thiện, lao động thủ công nặng nhọc, nhiều công nhân viên chức - lao động phải làm việc trong điều kiện môi trường bị ô nhiễm, phương tiện bảo hộ lao động thiếu và kém chất lượng. Việc chăm sóc bảo vệ sức khoẻ, phòng chống bệnh nghề nghiệp cho công nhân viên chức – lao động chưa được quan tâm đúng mức, sức khoẻ của một bộ phận công nhân bị giảm sút. Tiền lương và thu nhập của cán bộ, viên chức cơ quan hành chính sự nghiệp tuy còn thấp nhưng tương đối ổn định. Khu vực sản xuất kinh doanh có thu nhập cao nhưng không đồng đều, những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tiền lương của người lao động cao hơn doanh nghiệp Nhà nước, cường độ lao động cũng có cao hơn. Còn với doanh nghiệp tư nhân thì tiền lương không ổn định và thấp, chính sách tiền lương tuy đã được điều chỉnh nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa khuyến khích được cán bộ, công nhân, viên chức làm việc. Tiền lương đã phát sinh chênh lệch giữa những người làm việc trong các ngành có thế độc quyền với đông đảo công nhân viên chức – lao động ở các ngành nghề khác, giữa cán bộ quản lý, lãnh đạo với công nhân trực tiếp làm việc. Bảng 3: Thu nhập bình quân hàng năm củacông nhân viên chức – lao động Thứ tự Năm Số lao động Thu nhập bình quân Thiếu việc làm Tuyển mới 1. 1998 219 400 620.000 2. 1999 308 340 650.000 3. 2000 387 541 685.000 4. 2001 1012 520 688.000 5. 2002 258 235 750.000 Mặc dù còn có những khó khăn nhất định nhưng năm 2003 hầu hết các doanh nghiệp đều ổn định sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm và đời sống cho công nhân viên chức – lao động. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và liên doanh với nước ngoài có những bước tăng trưởng cao từ 14% - 30% song còn một số đơn vị gặp khó khăn trong việc duy trì mặt hàng truyền thống, tiêu thụ sản phẩm, chất lượng và giá cả. Trong năm có 280 người nghỉ vì thiếu việc làm, bên cạnh những đơn vị ổn định, mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh đã thu hút được 1640 lao động mới. Thu nhập bình quân đạt 750.000đ/người/tháng; nơi cao nhất là 1.800.000đ/người/tháng; thấp nhất là 350.000đ/người/ tháng. 2.1.4 Tình hình tư tưởng của công nhân viên chức – lao động Tư tưởng của công nhân viên chức – lao động có nhận thức đúng về tình hình đất nước, có ý thức trong lao động sản xuất, công tác, học tập vươn lên tự khẳng định mình, có hiểu biết về Đảng, về giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn, luôn tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng. Nguyện vọng của công nhân viên chức – lao động hiện nay là mong muốn có việc làm ổn định, có thu nhập tương xứng với sức lao động.Vì thế, Nhà nước cần tạo điều kiện để công nhân viên chức – lao động được học tập nâng cao trình độ văn hoá, tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến. Được bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân viên chức – lao đông còn nhiều băn khoăn lo lắng trước tình trạng một số nơi còn mất dân chủ, thiếu công bằng, quan liêu, lãng phí, tham nhũng, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Tóm lại, 5 năm qua công nhân viên chức – lao động Quận có những bước phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, mặc dù còn có những khó khăn nhất định song vẫn giữ vững bản chất của giai cấp công nhân. Họ là những người đi đầu trong sự nghiệp đổi mới của Đảng góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng kinh tế hàng năm, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. 2.2 Khái quát về hoạt động của Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng Trong những năm qua, phong trào thi đua lao động giỏi – người tốt việc tốt trong công nhân viên chức – lao động đã mang lại hiệu quả rõ rệt Công đoàn các cấp đã quan tâm chỉ đạo cụ thể hoá các phong trào thi đua với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, nội dung cụ thể phù hợp với từng loại hình cơ sở như: phong trào lao động giỏi, lao động sáng tạo, phong trào thi đua “giỏi việc nước - đảm việc nhà”, “phong trào người tốt - việc tốt”, khơi dậy ý thức trách nhiệm, tinh thần lao động sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường thu hút đông đảo công nhân viên chức – lao động tham gia. Bảng 4: Kết quả phong trào thi đua lao động giỏi , người tốt việc tốt TT Năm LĐG cơ sở LĐG quận LĐG thành phố Cômh trình đề tài Sáng kiến Tiết kiệm Tập thể Cá nhân Tập thể Cá nhân Tập thể Cá nhân Thực hiện Khen thưởng Tổng số Làm lợi Khen thưởng 1 1998 180 7.128 80 210 3 10 38 6 142 2,8tỷ đ 96 trđ 2,8tỷ đ 2 1999 186 7.245 65 230 2 10 34 8 78 3,3tỷ đ 110 trđ 2,2tỷ đ 3 2000 280 10.128 77 256 4 10 44 10 108 2,6tỷ đ 52,2 trđ 2 tỷ đ 4 2001 260 10.102 82 245 6 15 42 10 124 2,8tỷ đ 64 trđ 1.8tỷ đ 5 2002 264 10.036 86 241 4 11 54 11 116 2,4tỷ đ 31,6 trđ 3,2tỷ đ Để chào mừng Đại hội Công đoàn các cấp và các ngày kỷ niệm lớn trong năm, Công đoàn cơ sở đã tổ chức các đợt thi đua. Mở đầu là ngày 15/1/2003 hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước và cơ quan hành chính sự nghiệp đã tổ chức phát động thi đua. Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng đã chọn 5 đơn vị làm điểm chỉ đạo có các đồng chí lãnh đạo thành phố và quận dự theo chủ đề “ Mừng Đảng – Mừng xuân – Mừmg thủ đô đổi mới – Phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ năm 2003 – Chào mừng Đại hội IX Công đoàn Việt Nam”. Nét nổi bật của phong trào thi đua năm 2003 là hầu hết các đơn vị đã năm bắt kịp thời những yêu cầu mới của địa phương, đơn vị về hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Xây dựng các mục tiêu thi đua, đăng ký phấn đấu lao động giỏi, chiến sỹ thi đua, xây dựng các công trình, đề tài sản phẩm. Từ đó, đã tạo được động lực mạnh mẽ, động viên công nhân viên chức – lao động phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ năm 2003. Tổ chức hội nghị biểu dương lao động giỏi, người tốt việc tốt trong khu vực công nhân viên chức – lao động. Tại hội nghị của quận đã biểu dương 89 tập thể, 134 cá nhân là lao động giỏi, tiêu biểu (tổng số 10.142 cá nhân và 253 tập thể lao động giỏi cơ sở). Hội đồng thi đua quận đã biểu dương khen thưởng 155 cá nhân, 10 tập thể là người tốt việc tốt năm 2003 của khu vực công nhân viên chức – lao động. Tháng 10/2003 triển khai chương trình phối hợp với Mặt trận Tổ quốc quận tổ chức phong trào thi đua kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng thủ đô (10/10/1954 – 10/10/2004). Trong năm đã hoàn thành 34 công trình và 12 đề tài chào mừng Đại hội Công đoàn các cấp và các ngày kỷ niệm lớn.Tổng giá trị các công trình là 250 tỷ đồng trong đó có 4 công trình được Hội đồng thi đua và Liên đoàn lao động thành phố Hà Nội gắn biển thưởng, 10 công trình được quận và ngành gắn biển khen thưởng. Phong trào sáng kiến tiết kiệm được hầu hết các đơn vị đưa vào mục tiêu phấn đấu từ đầu năm, tính dến hết tháng 10/2003 đã phát huy được 115 sáng kiến, giá trị làm lợi 2,8 tỷ đồng; đã khen thưởng 34,6 triệu đồng có 4 công nhân viên chức – lao động được cấp bằng lao động sáng tạo. Liên đoàn lao động quận đã phối hợp với các ngành, tổng công ty tổ chức hội thi lao động giỏi như: thi thợ giỏi ngành bánh keo, dệt may, cơ khí… có 6700 người dự thi, đạt thợ giỏi cấp cơ sở 2.430 người. Duy trì có hiệu quả phong trào LKTĐ qua 19 năm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng thi đua quận, sự phối hợp giữa Liên đoàn lao động quận với Công đoàn các Tổng công ty đã đưa được nhiều nội dung vào phong trào LKTĐ như: gắn phong trào thi đua về kinh tế – kỹ thuật với các hoạt động xã hội, an ninh quốc phòng, văn minh đô thị, trật tự an toàn giao thông, văn hoá thể thao, phòng chống tệ nạn xã hội gắn với việc sơ kết hàng quý đã tổ chức được các buổi toạ đàm, trao đổi kinh nghiệm. Liên đoàn lao động Quận đang chỉ đạo chuẩn bị cho tổng kết 20 năm hoạt động của phông trào LKTĐ vào tháng 5/2004. Với nhiệm vụ tham gia quản lý, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân viên chức – lao động, Liên đoàn lao động quận chỉ đạo Công đoàn cơ sở tổ chức tốt Đại hội công nhân viên chức và Hội nghị cán bộ công chức. Hàng năm có trên 90% đơn vị sản xuất kinh doanh và trên 95% đơn vị hành chính sự nghiệp tổ chức đại hội. Bảng 5: Tình hình thực hiện Đại hội công nhân viên chức và Hội nghị cán bộ công chức Thứ tự Năm Đại hội CNVC Hội nghị CBCC TH % TH % 1. 1998 22/24 91,6 52/59 88,1 2. 1999 23/25 92 49/58 84,4 3. 2000 18/19 94,7 56/61 91,8 4. 2001 17/17 94,1 58/61 95 5. 2002 17/17 100 58/61 95 Thực hiện nghị quyết liên tịch số 08 giữa Uỷ ban nhân dân và Liên đoàn lao động Hà Nội về việc tổ chức Đại hội công nhân viên chức và Hội nghị cán bộ công chức. Năm 2003, Liên đoàn lao động Quận phân công cán bộ phong trào phụ trách tuyến trực tiếp đôn đốc chỉ đạo và theo dõi kết quả đại hội, hội nghị của cơ sở. Năm 2003 có 19/19 doanh nghiệp Nhà nước tổ choc được đại hội công nhân viên chức đạt 100%, 59?61 đơn vị hành chính sự nghiệp tổ chức được hội nghị cán bộ công choc đạt 97%. Thông qua đại hội công nhân viên chức và hội nghị cán bộ công chức các đơn vị tập trung vào việc thực hiện chỉ thị 30 của Bộ chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ theo nghị định 29/CP, 71/CP và 07/CP. Liên đoàn lao động quận đã quan tâm xây dựng công tác tuyên truyền giáo dục năm 2003 tập trung vào việc tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và nghị quyết Công đoàn các cấp. Đặc biệt, năm 2003 tập trung vào việc giáo dục truyền thống của giai cấp công nhân, vai trò, vị trí của tổ chức Công đoàn, sự lãnh đạo của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh với việc tuyên truyền Đại hội Công đoàn các cấp và Đại hội IX Công đoàn Việt Nam. Có 100% Công đoàn tổ chức các hoạt động tuyên truyền giáo dục cho công nhân viên choc – lao động, có 15.819 công nhân viên choc – lao động tham gia thi tìm hiểu Bộ luật lao động sửa đổi, có 21 Công đoàn cơ sở tổ chức cho 720 công nhân viên chức – lao động trẻ học các bài lý luận chính trị cơ bản, phổ biến luật phòng chống ma tuý, mại dâm, pháp lệnh phòng chống HIV/AIDS. Ngoài ra, Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng còn chỉ đạo Công đoàn cơ sở cần đẩy mạnh thêm hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao. Đã tổ chức 126 lượt cơ sở và 2 cụm văn hoá thông tin. Đỉnh cao của Hội diễn văn gnhệ công nhân viên chức chào mừng Đại hội Công đoàn thành phố với 127 tiết mục có trên 1200 diễn viên tham gia. Tiếp theo, Quận đã vận động công nhân viên chức – lao động đóng góp xây dựng các loại quỹ trợ cấp khó khăn đặc biệt , qũy hỗ trợ nữ công nhân viên chức lao động nghèo phát triển kinh tế, quỹ đền ơn đáp nghĩa nhân dịp kỷ niệm 56 năm ngày thương binh liệt sỹ, quỹ trợ giúp các cháu có hoàn cảnh khó khăn đặ biệt đã thu được két quả là: quỹ trợ cấp khó khăn đặc biệt có số dư trên 209.370.000đ. Trong năm đã trợ cấp 750 lượt người với tổng số tiền là 180.300.00đ, quỹ ủng hộ người nghèo 130.000.000đ, quỹ đền ơn đáp nghĩa 123.650.000đ, quỹ trợ giúp trẻ em 33.000.000đ. Ngoài ra, Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng và Công đoàn cơ sở đã vận động công nhân viên chức – lao động tham gia các hoạt động xã hội từ thiện khác như mua vế xem văn nghệ, từ thiện, mua sản phẩm của Hội người mù tổng số tiền gần 100 triệu đồng. Vận động công nhân viên chức – lao động mua công trái giáo dục và tín phiếu chính phủ với tổng số tiền gần 8 tỷ đồng. 3. Thực trạng Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia chỉ đạo tổ chức các hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. 3.1 Quá trình hình thành và phát triển các cụm văn hoá thông tin ở quận Hai Bà Trưng. Theo nghị quyết số 37 của Quận uỷ Hai Bà Trưng về việc tổ chức tham gia chỉ đạo việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, hội đồng văn hoá thể thao quận Hai Bà Trưng đã phối hợp hoạt động giữa uỷ ban nhân dân với Liên đoàn lao động quận cùng các ban ngành có liên quan tập trung xây dựng các cụm văn hoá thể thao cho công nhân viên chức – lao động trong toàn quận. Ngày 19/5/1985 cụm văn hoá thể thao Minh Khai được thành lập và tiếp đến hai năm sau ngày 19/5/1987 cụm văn hoá thể thao Bạch Đằng cũng thành lập theo quyết định của Uỷ ban nhân dân quận. Cụm văn hoá thể thao Minh Khai được thành lập với 9 nhà máy thuộc ngành Dệt – may – da giầy – cơ khí của trung ương và địa phương. Đây là cụm văn hoá thể thao đầu tiên của Hà Nội. Cụm này được Nhà máy dệt vải công nghiệp đảm nhiệm, các thành viên gồm có: nhà máy dệt vải Hà Nội, nhà máy dệt 8/3, công ty may Thăng long, công ty bánh kẹo Hải châu, xí nghiệp khoá Minh Khai, tổng công ty lắp máy v.v… Trải qua 18 năm hoạt động với nhiều thay đổi về tình hình kinh tế – xã hội của đất nước, cụm văn hoá thể thao Minh Khai luôn duy trì và đáp ứng đầy đủ nhu cầu văn hoá thể thao của đông đảo công nhân viên chức – lao động trên địa bàn quận. Năm 2002, số đơn vị thể thao lên đến 18 đơn vị điều đó cũng khẳng định vị thế của cụm văn hoá thể thao ngày càng tăng và thu hút đông đảo đa số đơn vị trong quận tham gia. Các đơn vị này đều thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước ở đó có 16 đơn vị sản xuất kinh doanh, 1 đơn vị hành chính sự nghiệp, 1 bệnh viện với tổng số lên trên 16.842 lao động. Đơn vị đông lao động nhất là công ty Dệt may Hà Nội với 5800 lao động và đơn vị ít nhất là công an phường Minh Khai với 1.600.000 đồng/người/tháng trong khi đó nhà máy dệt vải công nghiệp chỉ được có 700.000 đồng/người/tháng. Qua những số liệu trên cho thấy việc mở rộng giao lưu, liên kết, trao đổi kinh nghiệm giữa các đơn vị là rất cần thiết. Vì thế, số lượng các đơn vị tham gia hoạt động ngày càng tăng kéo theo đó chất lượng hoạt động của cụm văn hoá thể thao ngày càng được đổi mới và nâng cao hơn. Với những nỗ lực phấn đấu, cụm văn hoá thể thao minh Khai đã được Nhà nước trao tặng Huân chương lao động hạng Ba về những thành tích đã đạt được trong những năm đầu kể từ khi thành lập cho đến nay. Tiếp đó, cụm văn hoá thể thao Bạch Đằng ra đời. Năm đầu thành lập có 13 đơn vị nằm trên các khu vực gồm phố Huế, Nguyễn Công Trứ. Cụm văn hoá thể thao gồm có trên 5.000 cán bộ công nhân viên gồm các nhà máy , xí nghiệp, công ty. Hầu hết, việc tham gia là do tự nguyện từ đóng kinh phí hoạt động, giúp nhau tổ chức các hoạt động văn hoá tinh thần cho công nhân viên chức – lao động chủ yếu là hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao v.v.. Với sự quan tâm chỉ đạo cùng lòng nhiệt tình của các đồng chí lãnh đạo gồm có Đảng uỷ, giám đốc, Công đoàn, đoàn thanh niên từ ngày đầu thành lập, Liên đoàn lao động quận đã phối hợp cùng với các đồng chí trong Hội đồng cụm đi khảo sát kiểm tra tình hình hoạt động thực tế của các đơn vị. Qua đó mới đánh giá đúng phong trào của mỗi đơn vị, rút ra những mặt làm được và chưa làm được nhằm giúp lãnh đạo kiện toàn tổ chức, có những hoạt động sao cho phù hợp với đặc điểm sản xuất của từng đơn vị. Trong suốt quá trình hoạt động, tình hình kinh tế – xã hội của nước ta cũng thay đổi, số lượng thành viên tham gia trong cụm liên tục thay đổi theo. Do điều kiện mà một số đơn vị lớn đã chia ra thành nhiều đơn vị nhỏ để dễ quản lý hoặc chuyển về các quận khác. Một số không thể tham gia hoạt động của cụm văn hoá thể thao như : xí nghiệp công trình giao thông 3, xí nghiệp cơ khí Lương Yên, công ty Đông á, viện mắt Trung ương. Nhưng thay vào đó là một số đơn vị mới như : bệnh viện Hữu nghị và công ty trách nhiệm hữu hạn Tân Hồng, công ty thoát nước Hà Nội v.v… Bảng 6: Số lượng thành viên của cụm văn hoá thể thao trong những năm gần đây TT Đơn vị Năm đầu thành lập Các năm tiếp theo 2000 2001 2002 1. Cụm VHTT Minh Khai 9 15 18 18 2. Cụm VHTT Bạch Đằng 13 12 13 12 Qua bảng số liệu thống kê ta thấy hiện trạng cụm văn hoá thể thao Bạch Đằng gồm có 12 thành viên, có 8 đơn vị sản xuất kinh doanh, 2 đơn vị hành chính sự nghiệp, 1 bệnh viện, 1 công ty trách nhiệm hữu hạn. Tổng số lao động tham gia là 6.787 người và Cục quản lý vốn, tài sản Nhà nước ít nhất chỉ có 125 lao động. Điển hình cho cụm văn hoá thể thao ở trên là những đơn vị có thành tích xuất sắc trong suốt năm qua là các đơn vị như : công ty xe buýt Hà Nội, xí nghiệp Dược phẩm Trung ương II, công ty thoát nước Hà Nội. 3.1.1 Sự cần thiết của việc tổ chức cụm văn hoá thể thao ở quận Hai Bà Trưng. Việc tổ chức cụm văn hoá thể thao ở các cơ sở của quận Hai Bà Trưng là nhiệm vụ rất quan trọng và có tính thiết thực. Bởi lẽ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, cả nước đang tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chiến lược đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Qua đó càng đẩy mạnh các cuộc cách mạng và điển hình là cuộc cách mạng tư sản văn hoá. Theo quyết định 159/HĐBT năm 1985 của Hội đồng Bộ trưởng và nghị quyết 20/NQ – TUHN của thường vụ thành uỷ Hà Nội về việc chăm lo đời sống tonh thần của công nhân viên chức – lao động, Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng đã phối hợp cùng với các cơ quan chức năng nhằm nghiên cứu đề ra những giải pháp thích hợp và mô hình hoạt động văn hoá sao cho phù hợp. Với mục đích trước mắt là duy trì, tạo ra phong trào quần chúng sâu rộng trong nhân dân, liên tục ở các đơn vị, cơ quan nằm trên địa bàn của quận Hai Bà Trưng. Tiếp theo, mở rộng giao lưu học hỏi, giúp đỡ nhau trong việc tổ chức các hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở sao cho có hiệu quả. Vì lẽ đó, mô hình hoạt động cụm văn hoá thể thao ra đời nhằm đáp ứng mọi yêu cầu. Bên cạnh đó, quận Hai Bà Trưng còn gặp ít nhiều khó khăn đó là một quận xa các trung tâm văn hoá thể thao của thành phố. Vì vậy, đời sống của công nhân viên chức – lao động cũng bị thiệt thòi hơn. Mặc dù đất nước ta đang phát triển nền kinh tế theo hướng cơ chế thị trường song tình hình chính trị, kinh tế – xã hội cũng có nhiều biến động, đô thị hoá tăng nhanh kéo theo là dân số cũng tăng theo, tệ nạn xã hội nhiều lên hầu hết là ở tuổi vị thành niên v.v… Có thể nói rằng quận đang gặp nhiều khó khăn trở ngại trong việc quản lý nhưng hầu hết việc tổ chức các hoạt động văn hoá đều mang tính tập trung. Để vượt qua mọi khó khăn trước mắt, quận đã hình thành thêm nhiều cơ sở công nghiệp như : sợi – dệt – may, công nghiệp chế biến thực phẩm, cơ khí giao thông, cơ khí chế tạo cùng với nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh khác ở cả trung ương và dịa phương. Mặt khác, đặt ra những yêu cầu có tính phù hợp đối với các hoạt động tham gia xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở cho công nhân viên chức – lao động trong toàn quận. Muốn có hiệu quả cần phải củng cố, chuyển hướng sao cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng khu vực trong quận Hai Bà Trưng trong tình hình mới hiện nay. Đó chính là điều kiện ra đời của cụm văn hoá thể thao trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. 3.1.2 Mô hình tổ chức cụm văn hoá thể thao 18 đơn vị thành viên 12 đơn vị thành viên Hội đồng vhtt quận hai bà trưng Hội đồng chủ tịch cụm vhtt minh khai Hội đồng chủ tịch cụm vhtt bạch đằng Ban trị sự cụm vhtt minh khai Ban trị sự cụm vhtt bạch đằng Hội đồng vhtt đơn vị thnàh viên Hội đồng vhtt đơn vị thnàh viên Hội đồng vhtt đơn vị thnàh viên Hội đồng vhtt đơn vị thnàh viên Hội đồng vhtt đơn vị thnàh viên Hội đồng vhtt đơn vị thnàh viên Hội đồng vhtt đơn vị thnàh viên Hội đồng vhtt đơn vị thnàh viên Hội đồng vhtt đơn vị thnàh viên Hội đồng vhtt đơn vị thnàh viên * Hội đồng văn hoá thể thao quận Hai Bà Trưng - Về tổ chức cơ cấu: hội đồng văn hoá thể thao quận Hai Bà Trưng gồm có chủ tịch hội đồng và các uỷ viên. Chủ tịch hội đồng văn hoá thể thao quận hiện nay do đồng chí Nguyễn Xuân Minh, uỷ viên thường vụ quận uỷ, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân quận phụ trách công tác văn xã đảm nhiệm. Các uỷ viên gồm chủ tịch Liên đoàn lao động quận hai bà Trưng, trưởng phòng văn hoá thể thao quận, giám đốc trung tâm thể dục thể thao quận, giám đốc nhà văn hoá quận, đại diện Thường vụ Quận đoàn Hai Bà Trưng, đại diện thường vụ quận hội phụ nữ Hai Bà trưng. - Về nhiệm vụ: căn cứ kế hoạch chỉ đạo của thành phố, căn cứ vào nghị quyết của quận uỷ, căn cứ vào kế hoạch hướng dẫ._.mục đặc sắc, qua sơ khảo và chung khảo nhiều tiết mục đạt giải cao. Có 26 đơn vị và 2 cụm văn hoá thể thao với gần 100 diễn viên tham gia biểu diễn 17 đêm văn nghệ ngoài trời. Nhân kỷ niệm ngày sinh nhật Bác Hồ kính yêu, hội diễn ca múa nhạc “Bác Hồ – Niềm tin sáng mãi” với sự tham gia của 37đơn vị và trên 200 diễn viên quần chúng Bảng 10: Tổng hợp các hoạt động văn nghệ quần chúng STT Nội dung hoạt động Số lần Cấp độ tham gia Công ty Cụm Quận 1 Hội thảo toạ đàm 23 21 1 1 2 Hội thi thời trang 6 6 3 Thi kiến thức, tài năng 27 25 1 1 4 Hội diễn văn nghệ 25 23 1 1 5 Các hoạt động văn hoá văn nghệ khác Diễn ra thường xuyên ở tất cả các đơn vị trong toàn quận Năm 2003, để chào mừng Đại hội Công đoàn các cấp, Đại hội IX Công đoàn Việt nam và chào đón SEAGAMES 22 lần đầu tiên tổ chức ở Việt Nam, Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng đã tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ sôi nổi từ cơ sở đến quận thu hút được đông đảo công nhân viên chức – lao động trong toàn quận tham gia. Ngoài các thành tích trên, hàng năm Liên đoàn lao động quận cùng ngành văn hoá thể thao tổ chức được nhiều đêm biểu diễn ngoài trời phục vụ trực tiếp công nhân viên chức – lao động và nhân dân trong khu vực tại 8 điểm chủ yếu của quận như: Ngã tư Trung Hiền, ngã tư Đại Cồ Việt – Trần Khát Chân, nhà văn hoá quận, khu vực cổng công ty Dệt 8/3… phục vụ hàng chục vạn lượt người thưởng thức. Ngoài hoạt động văn nghệ quần chúng, tuỳ từng điều kiện cụ thể các đơn vị còn tổ chức nhiều hoạt động văn hoá văn nghệ khác như: tổ chức hội thảo tọa đàm về mô hình hoạt động cụm văn hoá thể thao do Liên đoàn lao động quận đứng ra tổ chức. Ngoài ra, dưới sự hướng dẫn của Liên đoàn lao động quận, các cụm văn hoá thể thao cũng đã tổ chức các buổi toạ đàm về củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động cụm văn hoá thể thao, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Ban chấp hành Công đoàn ở một số doanh nghiệp phối hợp với Đảng uỷ, ban giám đốc cũng đã tổ chức tọa đàm về văn hoá như Công ty Dệt vải công nghiệp, Công ty bia Việt Hà, Tổng công ty lắp máy Việt Nam, Xí nghiệp xe buýt Hà Nội… Do tình hình sản xuất kinh doanh và công tác có tính đặc thù, do vậy Liên đoàn lao động quận chỉ đạo các cơ sở tuỳ từng điều kiện cụ thể mà từng đơn vị tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ khác nhau. Các đơn vị ngành Sợi – Dệt – May liên kết tổ chức hội thi “Liên hoan văn nghệ thời trang” cấp công ty và nghành. Trong 3 năm qua công ty Dệt may Hà Nội tổ chức được 2 lần, công ty may Thăng Long tổ chức 5 lần, trong đó 3 lần tham gia tại Hội chợ triển lãm Việt Nam, công ty dệt kim Đông xuân tổ chức 1 lần… Các hoạt động văn hoá văn nghệ này thực sự góp phần quan trọng trong công tác chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng tình cảm đạo đức, ý thức giai cấp, nâng cao tay nghề, trình độ của bản thân và làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người lao động, góp phần xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh trong khu vực và trên địa bàn quận. Có được kết quả đó là do sự chỉ đạo sát sao của Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng về công tác xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Đặc biệt là tìm tòi sáng tạo, mạnh dạn nghiên cứu thử nghiệm đưa ra các hình thức hoạt động phong trào mới về cơ sở của ban chấp hành Công đoàn các đơn vị của quận. Qua thực tiễn hoạt động ở các đơn vị tiêu biểu trong hoạt động văn hoá văn nghệ như công ty Dệt 8/3, công ty bánh kẹo Hải châu, công ty giầy Thăng Long, cảng Hà Nội, công ty thoát nước Hà Nội, công ty bánh kẹo Hải Hà… hầu hết các đơn vị này có tổ chức Công đoàn liên tục đạt danh hiệu: “Công đoàn cơ sở vững mạnh”, 100% tổ Công đoàn hoạt động có hiệu quả, không có tổ Công đoàn yếu kém, các hạt nhân văn hoá văn nghệ đều được phát hiện, bồi dưỡng thông qua từ tổ Công đoàn. Chương 3 Đánh giá chung về công tác tổ chức chỉ đạo của Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia chỉ đạo nhằm xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở Trong 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội Công đoàn quận lần thứ XIV, nghị quyết Đại hội XII Công đoàn Hà Nội và nghị quyết đại hội VIII Quận uỷ Hai Bà Trưng, sự chỉ đạo của Liên đoàn lao động Hà Nội và sự phối hợp tạo điều kiện của chính quyền các cấp, cán bộ, đoàn viên, công nhân viên chức – lao động đã vượt qua nhiều khó khăn vươn lên thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ do đại hội đề ra. Qua các hoạt động thực tế, ta thấy được việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở đều được phối hợp thực hiện giữa Liên đoàn lao động quận với các cụm văn hoá ở các cơ sở. Với việc đánh giá, phân tích các nội dung hoạt động rút ra một số điểm sau: Thứ nhất là : tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ , thể dục thể thao. Duy trì hoạt động của hai cụm văn hoá thể thao Minh Khai – Bạch Đằng, thu hút đông đảo công nhân viên chức – lao động tham gia sôi nổi. Tạo nên cuộc sống tinh thần lành mạnh từ cơ sở đến quận, góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội. Thứ hai là : thực hiện cuộc vận động “ xây dựng nếp sống văn hoá công nghiệp ’’ góp phần xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, thực hiện các quy ước về việc cưới lành mạnh tiết kiệm, việc tang, xây dựng gia đình văn hoá, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “ trung thành – sáng tạo – tận tụy – gương mẫu ”. Thứ ba là : hoạt động xa hội từ thiện được Liên đoàn lao động quận coi trọng và tham gia tích cực như quỹ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng quỹ trợ cấp khó khăn đặc biệt, xây dựng nhà tình nghĩa, phục dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người có công với cách mạng, các gia đình chính sách. Thứ tư là : tổ chức các hoạt động thể dục thể thao thu hút mọi người trong đơn vị tham gia và hưởng ứng phong trào. Vì vậy, hàng năm có khoảng 60% - 70% đơn vị cơ sở được công nhận danh hiệu là đơn vị có thành tích xuất sắc về thể dục thể thao. Thứ năm là : tổ chức hoạt động câu lạc bộ nữ công, giáo dục giới tính, làm tốt công tác dân số – gia đình và trẻ em. Thông qua các hoạt động tuyên truyền giáo dục, tổ chức thăm hỏi, tặng quà trợ cấp, biểu dương mẹ giỏi, con ngoan. Thứ sáu là : thường xuyên tổ chức các hội thảo, chuyên đề có hệ thống thư viện, tủ sách, bảng tin, truyền thanh vận động mọi người mua và đọc báo Lao động, báo Đảng. Nguyên nhân của những kết quả trên là do: * Chủ quan Một là : do có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo chủ yếu là Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng đã thực hiện và làm tốt nhiệm vụ, chức năng chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng cho công nhân viên chức – lao động cả về đời sống lẫn vật chất tinh thần. Hai là : do bản thân công đoàn, do năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cán bộ Công đoàn còn hạn chế, sự phân cấp quản lý của hệ thống tổ chức Công đoàn Việt Nam còn nhiều bất cập. Ba là : hầu hết đội ngũ cán bộ làm công tác Công đoàn cơ sở hầu hết là bán chuyên trách có nhiều khó khăn, phải kiêm nhiệm nhiều công tác chuyên môn, trong khi đó công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và các chính sách đối với cán bộ làm công tác Công đoàn chưa được quan tâm đúng mức. * Khách quan Do cơ chế thị trường thay dổi làm cho công nhân viên chức – lao động ở từng khu vực có sự phân hoá giàu nghèo cộng thêm ảnh hưởng tiêu cực xã hội nên cũng có tác động ít hay nhiều. Pháp luật Nhà nước chưa được thực hiện nghiêm chỉnh cả quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân viên chức – lao động có nơi bị vi phạm, chính sách xã hội như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, hợp đồng lao động v.v… còn có những đơn vị chưa thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ. Hơn nữa, Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng đã biết phát huy nội lực xây dựng được mạng lưới tuyên truyền viên, cộng tác viên ở khắp các đon vị, cơ sở. Bên cạnh những mặt mạnh nêu trên, còn một số tồn tại sau : Thứ nhất : công tác tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở chủ yếu chỉ tập trung hầu hết ở các doanh nghiệp Nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp, khu vực ngoài quốc doanh còn yếu. Thứ hai : hoạt động thư viện tủ sách chưa được coi trọng đúng mức, các tủ sách còn nghèo nàn về chủng loại và số lượng các đầu sách, Liên đoàn lao động quận mới chú trọng các tủ sách trang bị thêm được các loại sách pháp luật. Thứ ba : gần đây việc tổ chức hoạt động văn nghệ thể dục thể thao, hội thảo chuyên đề chưa được duy trì thường xuyên vì thế không đạt được kết quả như ý muốn. Thứ tư : việc đổi mới công tác tổ chức Công đoàn còn chậm chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động Công đoàn trong tình hình mới hiện nay, chất lượng Công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh ỳon hạn chế, phương pháp hoạt động còn lúng túng. Thứ năm : cán bộ làm công tác văn hoá thể thao ở cơ sở chưa quan tâm đúng mức. Thứ sáu : có một số đơn vị có tham gia vào các hoạt động chung của quận nhưng không tổ chức được các hoạt động thường xuyên ngay tại đơn vị để phục vụ trực tiếp cho công nhân viên chức - lao động của đơn vị mình. Từ những kết quả đã đạt được trong những năm vừa qua và những tồn tại trong công tác tổ chức, xây dựng và tham gia chỉ đạo hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở của quận Hai Bà Trưng có thể rút ra một số những bài học kinh nghiệm như sau: 1. Động viên được đông đảo công nhân viên chức – lao động tham gia mọi hoạt động văn hoá, thể dục thể thao phục vụ trực tiếp đến sức khoẻ cho người lao động ở từng cơ quan đơn vị. 2. Cần phải chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong phương pháp hoạt động, chọn công việc trọng điểm, bố trí cán bộ sát người, sát việc. Tập trung tháo gỡ những khó khăn bức xúc nảy sinh trong sản xuất, công tác và đời sống của công nhân viên chức – lao động. 3. Ban chấp hành Liên đoàn lao động quận quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Công đoàn có năng lực, nhiệt tình công tác, có tâm huyết với phong trào công nhân viên chức – lao động và hoạt động Công đoàn. 4. Các cấp uỷ Đảng, lãnh đạo và các đoàn thể ở từng cơ sở phải thực sự đoàn kết, phối hợp xây dựng phong trào ngay từ cơ sở. 5. Xây dựng được mối quan hệ làm việc giữa Công đoàn và chính quyền, xây dựng được chương trình phối hợp giữa Liên đoàn lao động quận với các ban ngành đoàn thể của quận và Công đoàn các Tổng công ty. 6. Lãnh đạo các cấp phải có quan điểm đúng về vị trí, vai trò, tác dụng của văn hoá coi việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là một trong những mục tiêu quan trọng của đơn vị mình. 7. Công đoàn từ cơ sở đến quận dưới sự chỉ đạo của Đảng, Công đoàn cấp trên cần nắm vững được tâm tư nguyện vọng hợp pháp chính đáng của công nhân viên chức – lao động. *Một số giải pháp của Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia chỉ đạo nhằm tăng cường công tác xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Năm 2004 là một năm có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi vì đó là những năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm (2001 – 2005) Đảng bộ và nhân dân quận Hai Bà Trưng tiếp tục phấn đấu thực hiện nghị quyết Đại hội IX của Đảng, nghị quyết đại hội XXII Đảng bộ quận Hai Bà Trưng. Là năm Công đoàn các cấp tổ chức triển khai học tập, thực hiện nghị quyết đại hội IX của Đảng, nghị quyết Đại hội XXII Đảng bộ quận Hai Bà Trưng. Là năm Công đoàn các cấp tổ chức triển khai học tập thực hiện nghị quyết Đại hội IX Công đoàn Việt Nam, kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam, 50 năm ngày giải phóng thủ đô, chào mừng bầu cử hội đồng nhân dân các cấp. Căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ của Liên đoàn lao động thành phố Hà Nội và nhiệm vụ chính trị của Quận uỷ trong những năm tới, Ban thường vụ Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng đã đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm làm tốt hơn nữa trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở như sau: 1. Tập trung tuyên truyền, giới thiệu, quán triệt học tập các nghị quyết của Đảng, nghị quyết Đại hội Công đoàn các cấp đặc biệt là nghị quyết đại hội XV Công đoàn quận, Đại hội XIII Công đoàn thành phố, Đại hội IX Công đoàn Việt Nam đến tận công nhân viên chức – lao động. Đồng thời xây dựng chương trình hành động nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết Đại hội Công đoàn các cấp đã đề ra. 2. Thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục công nhân viên chức – lao động, chú trọng giáo dục công nhân viên chức – lao động trẻ về truyền thống giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn Việt Nam nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Công đoàn. Tăng cường công tác giáo dục pháp luật, giới thiệu kịp thời các chủ trương chính sách của Nhà nước. Tuyên truyền vận động công nhân viên chức – lao động thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Thực hiện chương trình phối hợp phòng chống ma tuý và các tệ nạn xã hội. 3. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng “ nếp sống văn hoá công nghiệp ” trong công nhân viên chức – lao động, tổ chức thi về “ giao thông văn minh đô thị ” nhằm tạo sự chuyển biến về tác phong công nghiệp và nếp sống văn minh trong công nhân viên chức lao động. Tiếp tục vận động công nhân viên chức – lao động thực hiện tốt “ kỷ cương giao thông – văn minh đô thị ”, xây dựng tuyến phố văn minh thương nghiệp chào mừng kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng Thủ đô. 4. Tổ chức sôi nổi các hoạt động văn hoá, thể thao chào mừng các ngày lễ lớn và chào mừng bầu cử hội đồng nhân dân các cấp. Củng cố hoạt động 2 cụm văn hoá thể thao Bạch Đằng và Minh Khai, tổ chức thành công các giải bóng chuyền, cầu lông, bóng đá của công nhân viên chức – lao động quận và tham gia với thành phố. 5. Tuyên truyền vận động công nhân viên chức – lao động tham gia học tập văn hoá, nghiệp vụ ngoại ngữ, tin học nâng cao kiến thức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nắm vững tâm tư nguyện vọng của công nhân viên chức – lao động, đề xuất kịp thời với Đảng, Nhà nước, Công đoàn cấp trên điều chỉnh, sửa đổi những bất cập trong chế độ chính sách. 6. Tăng cường tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện duy trì việc xây dựng quỹ trợ cấp khó khăn, vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, quỹ hỗ trợ nữ công nhân lao động nghèo phát triển kinh tế, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ vì người nghèo, quỹ khuyến học, trợ cấp các cháu có hoàn cảnh khó khăn, ủng hộ các vùng bị thiên tai lũ lụt. 7. Tham gia với chính quyền chăm lo đời sống, việc làm cho công nhân viên chức – lao động thực hiện tốt các chính sách xã hội. Phối hợp với các ngành chức năng tăng cường công tác giám sát kiểm tra thực hiện Bộ luật lao động sửa đổi. 8. Tiếp tục phát triển nâng cao chất lượng thông tin tuyên truyền, thư viện, báo chí, đẩy mạnh các hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, tổ chức các hội thảo, chuyên đề. 9. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Công đoàn các cấp và tổ chức cơ sở Đảng quan tâm. Bước đầu xây dựng được đội ngũ cán bộ có trình độ và bản lĩnh, hiểu biết chính sách pháp luật, nghiệp vụ công tác Công đoàn. từng bước đáp ứng nhu cầu hoạt động công đoàn trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phần 3 Kết luận - Đề xuất - Khuyến nghị. 1. Kết luận Việc tổ chức, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là một việc làm rất quan trọng bao gồm nhiều mặt hoạt động đa dạng và phức tạp bởi nó gắn liền với đời sống tinh thần của con người. Có lẽ vì thế mà việc tổ chức, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được coi như là bước đi ban đầu trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới. Đó là công việc xây dựng kết cấu văn hoá hạ tầng cơ sở để tiến hành các hoạt động văn hoá - giáo dục, mở mang dân trí, bồi dưỡng đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và tổ chức hoạt động văn hoá trong thời gian rỗi theo nhu cầu của nhân dân lao động. Hơn thế, việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc sáng tạo, phổ biến và hưởng thụ những giá trị văn hoá nghệ thuật tiên tiến, tạo dựng một lối sống văn minh, lịch sự, hình thành những phong tục tập quán lễ thức tốt đẹp, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa phù hợp với trào lưu văn hoá tiến bộ của nhân loại. Tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở chính là xây dựng một mạng lưới thiết chế văn hoá xã hội. Ngoài ra, nó còn là nhiệm vụ của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Vì qua đó việc tổ chức hoạt động văn hoá ở cơ sở còn mang tính chiến lượclâu dài. Phải chăng đây cũng là một chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong đó con người là trung tâm, là tổng hoà mọi mối quan hệ. Vì lẽ đó, chúng ta càng cần phải quan tâm đến việc tổ chức hoạt động văn hoá ở cơ sở nhiều hơn nữa. Thực tế, việc tổ chức và tham gia chỉ đạo các hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở của Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng đã và ngày càng khẳng định được tầm quan trọng của công tác tư tưởng văn hoá. Song trong điều kiện đổi mới của cơ chế thị trường hiện nay, chúng ta vẫn còn mắc bệnh hình thức, khuôn mẫu, chưa có cách nhìn nhận toàn diện tổng thể nên hiệu quả đạt được chưa cao. Do vậy, vệc tổ chức và tham gia chỉ đạo hoạt động xây dựng đời sống văn hoá càng cần phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của cơ sở mình. Để thoả mãn nhu cầu của người lao động thì cần có những hoạt động phù hợp với trình độ, xu thế phát triển của người lao động qua đó nhằm đáp ứng được nhu cầu và hoạt động đó đạt hiệu quả. Vì vậy, văn hoá là động lực của sự phát triển kinh tế. Mỗi yếu tố văn hoá được gắn kếtchặt chẽ với đời sống của xã hôi về mọi mặt kinh tế, chính trị, pháp luật. Đó là nguồn lực nội sinh quan trong của sự phát triển. 2. Đề xuất: Trong thời gian thực tập tại Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng, được sự giúp đỡ tận tình của Ban chấp hành Liên đoàn lao động quận cùng với quá trình nghiên cứu tình hình thực tế trong việc tổ chức chỉ đạo các hoạt đôngk nhằm xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở tôi xin đề xuất một số ý kiến sau đây: 2.1 Về tổ chức Mặc dù các cụm đã thành lập được Hội đồng chủ tịch văn hoá thể thao và Ban trị sự cụm, dưới là các Hội đồng văn hoá thể thao cơ sở, những năm qua hoạt động tương đối có hiệu quả. Song thực tế để hoạt động có chiều sâu hơn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cụm văn hoá thể thao trong điều kiện hiện nay. Trên cơ sở quy chế hoạt động trong những năm qua cần phải bổ sung cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, căn cứ vào chương trình hoạt động của cụm cho phù hợp với yêu cầu tránh hình thức. Có quy chế phân công đơn vị làm Chủ tịch rõ ràng nhưng mềm dẻo, không nhất thiết phải quay vòng mà nên động viên các đơn vị có kinh nghiệm về điều kiện, về cơ sở và kinh tế thay nhau đảm nhiệm. 2.1.1 Với hoạt động truyền thông đại chúng Chúng ta cần phải phối hợp thường xuyên với tổ Công đoàn, Ban chấp hành Công đoàn cơ sở để nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, tư tưởng và tâm trạng của mọi công nhân viên chức – lao động từ đó có những hình thức hoạt động và nội dung phù hợp. Kết hợp với các hình thức hoạt động sao cho giữa nội dung chính trị với nội dung kinh tế , xã hội, văn hoá, văn nghệ trong công tác tuyên truyền cổ động luôn đa dạng, phong phú, không tẻ nhạt, khô cứng luôn hấp đẫn, lôi cuốn mọi công nhân viên chức – lao động tham gia. Phải chú trọng việc phát triển và sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc có sẵn với hiệu quả tốt nhất. Phổ biến các hình thức tuyên truyền như sách, báo, tạp chí, các ấn phẩm văn hoá, bản tin, việc phát thanh trên hệ thống loa truyền thanh với những nội dung phong phú, đa dạng tơi từng công nhân viên chức – lao động và quần chúng nhân dân trong toàn quận Hai Bà Trưng. Tận dụng những phương tiện tuyên truyền có sẵn ở từng đơn vị, khu vực cùng với việc mua sắm thêm các trang thiết bị, phương tiện hiện đại nhằm nâng cao chất lượng , đáp ứng nhu cầu thị hiếu cho nhân dân về mọi mặt như nâng cao kiến thức hiểu biết, nhu cầu thông tin liên lạc. 2.1.2 Với các hoạt động vui chơi, giải trí Khuyến khích tổ chức các môn thể thao dễ tổ chức, ít tốn kém lại đông người cùng tham gia được. Cần có sự giao lưu, liên kết mọi hoạt động trong từng bộ phận ở các khu vực, các đơn vị cơ sở do đó có điều kiện giao lưu trao đổi kinh nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau trong việc tổ chức các hoạt động phong trào mang ý nghĩa thiết thực và hiệu quả cao. Nên thường xuyên tổ chức các hoạt động phong trào, hoạt động thể dục thể thao nêu gương những đơn vị tiêu biểu có cá nhân đạt thành tích xuất sắc tời từng công nhân lao động. Có những băng zôn, khẩu hiệu, cờ, tổ chức liên hoan gặp mặt giao lưu chào mừng những cá nhân đại diện khi đi tham gia hội thi thể dục thể thao toàn quận nhằm động viên, khích lệ tinh thần đối với cá nhân đó nói riêng cũng như Liên đoàn lao động quận nói chung. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho mọi hoạt động thể dục nhằm đáp ứng đủ nhu cầu luyện tập, rèn luyện thân thể và tổ chức tốt các giải thi đấu, thu hút đông đảo sự hưởng ứng nhiệt tình tham gia của đông đảo công nhân viên chức – lao động. Tạo nguồn lực hỗ trợ hoạt động này, trích kinh phí kể cả cho những hoạt động tài trợ, quảng cáo để tuyên truyền nâng cao nội dung, mục đích sử dụng. 2.1.3 Với hoạt động từ thiện tình nghĩa Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng cần phải đẩy mạnh những hoạt động nhân đạo hơn nữa để những quỹ tấm lòng vàng bám rễ trong đời sống công nhân lao động Trong mỗi chúng ta đều là người dân đất Việt với tấm lòng tương thân thương ái đùm bọc nhau trong những lúc gặp khó khăn hoạn nạn, mỗi người dân tuỳ theo khả năng của mình giành chút ít tình cảm ủng hộ quỹ vì người nghèo. Qua đó càng thể hiện lòng nhân ái,vị tha, đức tính bao dung luôn hướng tới nguồn cội “ uống nước phải nhờ lấy nguồn ”. Đó chính là những giá trị cao cả, bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay, nó cũng là giá trị chân chính của con gnười Việt nam trong thiên niên kỷ mới. Phát động hưởng ứng ngày ví người nghèo mỗi công nhân viên chức lao động trong quận ủng hộ 1 ngày lương. 2.1.4 Với cuộc vận động “ xây dựng nếp sống văn hoá công nghiệp” trong công nhân viên chức – lao động Hầu hết ở các đơn vị, các cơ sở đều có những tiêu chí phù hợp, vận động công nhân lao động hưởng ứng tham gia việc “xây dựng nếp sống văn hoá công nghiệp”. Qua khảo sát thực tế, ta thấy ở một số nơi, có chỗ việc vận động chưa thực sự có hiệu quả, vẫn còn hời hợt. Trong quá trình thực hiện chưa có sự đánh giá, rút kinh nghiệm cho những hoạt động lần sau đạt kết quả cao hơn nữa. Muốn hoạt động có hiệu quả cần phải có sự tham gia chỉ đạo trực tiếp của các cấp lãnh đạo, đảng uỷ, chính quyền cùng phối hợp với Công đoàn để vận động người dân lao động cùng thực hiện. Có như vậy, hoạt động phong trào mới sôi nổi, lan rộng vào trong cuộc sống của công nhân viên chức – lao động. 2.2 Về kinh phí Mọi hoạt động đều cần phải có kinh phí, từ hội họp đến tổ chức các hoạt động đều phải có kinh phí. Hơn thế nữa kinh phí cho hoạt động văn hoá thể thao là tốn kém, ước tính mỗi năm các đơn vị cơ sở cần chi cho hoạt động văn hoá thể thao tới hàng chục triệu đồng. Còn các cụm để tổ chức được hội khoẻ truyền thống hàng năm cũng phải chi tới 30 triệu đồng trong khi thực tế thu được ở các đơn vị đóng góp lên là 20 triệu đồng, phần hỗ trợ các ban ngành không đáng kể dẫn đến đăng cai phải bù chi quá nhiều. Vì vậy để tổ chức được các hoạt động văn hoá thể thao cấp cơ sở và duy trì hoạt động của các cụm văn hoá thể thao theo tôi ngoài phần kinh phí đóng góp theo quy định cần huy động thêm nguồn kinh phí khác như là thu hút thêm các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh vào hoạt động của cụm văn hoá thể thao, giảm bớt các hoạt động gây tốn kém nhiều cho cơ sở ( hội diễn, hội thi cấp cụm, Quận chỉ nên tổ chức mỗi năm một lần). 3. Khuyến nghị 3.1 Với sở thể dục thể thao, sở văn hoá thông tin Hà Nội, Liên đoàn lao động Hà Nội. Thành phố Hà Nội cần có hội đồng văn hoá thể thao để chỉ đạo các quận, huyện, các cụm văn hoá thể thao thực hiện. Đề nghị Sở thể dục thể thao cần có thêm bằng khen, giấy khen đối với những cá nhân xuất sắc, đối với cụm văn hoá thể thao ở cơ sở có thành tích cao trong lĩnh vực hoạt động thể dục thể thao từ đó kích thích phong trào phát triển lên cao hơn nữa và Sở thể dục thể thao cần hỗ trợ kinh phí. Đề nghị nhà văn hoá quận, các cấp lãnh đạo cùng với trung tâm thể dục thể thao phối hợp cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đơn vị. 3.2 Với các cấp uỷ Đảng, chính quyền Đối với các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể xã hội cần có sớm kế hoạch chỉ đạo việc tham gia tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Ngoài ra phải gắn hoạt động này với việc bình xét trọn danh hiệu thi đua hàng năm ở cơ sở 3.3 Đối với các cơ sở Nên củng cố hội đồng văn hoá thể dục thể thao ở những đơn vị cơ sở chưa có điều kiện thì phải thành lập ngay với mô hình tổ chức gọn, nhẹ, phù hợp với nội dung hoạt động ít tốn kém. Đồng thời vận động công nhân viên chức, lao động đóng góp quỹ nhằm phát triển cụm văn hoá thông tin ở đơn vị mình có hiệu quả. 3.4 Đề nghị nhà văn hoá Quận, trung tâm thể dục – thể thao Cần dành một khoản quỹ hoạt động cho cụm văn hoá thể thao. 3.5 Đối với tổ chức công đoàn Công đoàn cần phải nhận thấy rằng việc tham gia chỉ đạo hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là một nội dung quan trọng trong việc giáo dục công nhân viên chức lao động, đảm bảo tinh thần cho người lao động chính là nhiệm vụ chung của tổ chức Công đoàn. Có thể nói, đời sống tinh thần của công nhân viên chức – lao động được đảm bảo và nâng cao thì ở đó Công đoàn mới hoàn thành nhiệm vụ.Vì vậy, qua thực tiễn ở quận Hai Bà Trưng cho thấy những năm qua Liên đoàn lao động quận hoàn thành rất tốt nhiệm vụ này, chỉ đạo tốt Ban trị sự hai cụm văn hoá thể thao Minh Khai và Bạch Đằng . Thường xuyên có sơ kết, tổng kết đánh giá mạnh yếu để chỉ đạo kịp thời các phong trào ở cơ sở Tuy nhiên để hoạt động vững mang lại hiệu quả cao Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng cần phải kiện toàn, củng cố tổ chức, bố trí cán bộ và đào tạo lại cán bộ cho việc hoạt động công tác văn hoá quần chúng ở các cơ sở để đáp ứng được nhu cầu xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trong tình hình mới hiện nay. Liên đoàn lao động quận gắn nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là một trong các tiêu chuẩn xét thưởng công đoàn cơ sở vững mạnh. Hàng năm có sự sơ kết, tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm hơn thế phải có chế độ khen thưởng cho các công đoàn cơ sở từ tổ công đoàn trở lên có thành tích trong việc vận động công nhân viên chức lao động trong quận tham gia vào các hoạt động chung. Trên đây là một số ý kiến đề xuất của tôi đối với việc nâng cao hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Với tinh thần và nguyện vọng là làm sao ngày càng đáp ứng được nhu cầu văn hoá của công nhân viên chức lao động. Vì điều kiện bản thân là sinh viên, kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, do vậy trong quá trình đề xuất, khuyến nghị chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót rất mong được sự thông cảm và chỉ đạo tận tình của các đồng chí lãnh đạo trong liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng. Tài liệu tham khảo 1. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV, V, VI, VII, VIII, IX của Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Công đoàn Việt Nam lần thứ VI , V, VI, VII , VIII, IX – Nhà xuất bản Lao động , Hà Nội. 3. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, IX – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1998. 4. Giáo trình Văn hoá Xã hội chủ nghĩa, chủ biên Trần Văn Bính, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1993. 5. Giáo trình Lý luận và nghiệp vụ Công đoàn, chủ biên PGS – TS Nguyễn Viết Vượng, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, năm 1999. 6. Tài liệu những hiểu biết cần thiết đối với cán bộ Công đoàn, chủ biên PGS – TS Nguyễn Viết Vượng, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, năm 2001. 7. Văn hoá trong phát triển, GS Vũ Khiêu, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1993. 8. Xã hội hoá hoạt động văn hoá, PGS – TS Lê Như Hoa, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội, năm 1996. 9. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, chủ biên Trần Độ, Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, năm 1984. 10. Mấy vấn đề xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở hiện nay Nguyễn Văn Hy, Nhà xuất bản văn hoá, Hà Nội, năm 1985. 11. Văn hoá quần chúng, Hà Huy Giáp, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1977. 12. Văn hoá vì sự nghiệp phát triển xã hội, PGS – TS Lê Như Hoa, Nhà xuất bản văn hoá thông tin và Viện văn hoá, Hà Nội năm 2002. 13. Văn hoá học đại cương và cơ sở văn hoá Việt Nam, chủ biên GS Trần Quốc Vượng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1996. 14. Văn hoá một số vấn đề lý luận, Nhà xuất bản văn hoá thông tin, Hà Nội năm 1998. 15. Văn hoá với đời sống xã hội, Thanh Lê, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, hà Nội, năm 1998. 16. Luật Công đoàn, Nhà xuất bản Pháp lý, Hà Nội, năm 1990. 17. Giá trị bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình xây dựng giai cấp công nhân Việt nam, chủ biên Thạc sỹ Đinh Đăng Định, Nhà xuất bản Lao động, hà Nội, năm 2002. 18. Các báo cáo của Ban chấp hành và ban tuyên giáo Liên đoàn lao động quận Hai bà Trưng. Mục lục Trang Lời cảm ơn Phần 1: Mở đầu 2 Tính cấp thiết của đề tài 2 Mục tiêu của đề tài 3 Phạm vi nghiên cứu 3 Tổng quan vấn đề nghiên cứu 4 Phương pháp nghiên cứu 4 Nội dung đề tài 5 Phần 2: Nội dung 6 Chương 1: Một số vấn đề lý luận về văn hoá và đời sống văn hoá ở cơ sở 6 1. Văn hoá và vai trò của văn hoá 6 Các khái niệm về văn hoá 6 1.2 Vai trò của văn hoá đối với đời sống xã hội 9 2. Đời sống văn hoá ở cơ sở 13 2.1 Khái quát về đời sống văn hoá 13 2.2 ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở 14 2.3 Quan điểm của Đảng, Nhà nước và trách nhiệm của Công đoàn trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở 15 Chương 2: Các kết quả nghiên cứu được ở Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng 20 1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội ở quận Hai Bà Trưng 20 2. Khái quát về phong trào công nhân và hoạt động của Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng 22 2.1 Tình hình công nhân viên chức – lao động quận Hai Bà Trưng 22 2.2 Khái quát về hoạt động của Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng 29 3. Thực trạng Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia tổ chức các hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở 32 3.1 Quá trình hình thành và phát triển các cụm văn hoá thể thao ở quận Hai Bà Trưng 32 3.2 Hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở 43 Chương 3: Đánh giá chung về công tác tổ chức chỉ đạo của Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia chỉ đạo nhằm xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở 63 Phần 3: Kết luận - Đề xuất – Khuyến nghị 70 1. Kết luận 70 2. Đề xuất 71 2.1 Về tổ chức 71 2.2 Về kinh phí 74 3. Khuyến nghị 75 Tài liệu tham khảo 78 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0086.doc
Tài liệu liên quan