A. PHẦN MỞ BÀI
1. Lời nói đầu:
Lịch sử và con người của một vùng đất Phú Ninh hôm nay, là đề tài rộng lớn ,mang nội dung và ý nghĩa khoa học sâu sắc, mà khi bàn đến là vấn đề điều thú vị, và không so gì với vùng đất khác. Về với Phú Ninh hôm nay, là vùng đất được hình thành từ rất sớm trong lịch sử, gắn liền với dặm dài mở nước của dân tộc. Nơi mà thực dân Pháp và bọn đế quốc Mỹ, chọn điểm, để làm căn cứ quân sự, được mênh danh là “vùng đất vàng” trong thời chiến.
Và ngày nay trên mảnh đất
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4094 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Lịch sử và con người của một vùng đất Phú Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này, nhiều trận chiến đã diễn ra như: Đồi đá đen, đồi 61, là những trận chiến ác liệt, đáng tự hào nhất, đã biết bao anh hùng đã ngã xuống, vì quê hương đất nước, thống nhất hôm nay, trong thời bình, họ lại yên nghỉ với mảnh đất, gắn mình với con người Phú Ninh. Có lẽ về với mảnh đất và con người Phú Ninh, các bạn thấy rõ, sự huy sinh to lớn, để bảo vệ quê hương, những cái chết đó đã “hóa thành bất tử” những cái chết đã trở thành những “bài ca không thể nào quên” cho một thời lửa đạn.
Và ngày nay, chính mãnh đất này đã để lại cho chúng ta một công trình to lớn mang tầm cở Quốc gia. Đó là công trình đại thuỷ nông Hồ Phú Ninh, là một công trình vẫn tồn tại đến ngày nay, nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội huyện nhà.
Vì vậy tôi chọn đề tài “Một số biệnpháp nhằm phát triển du lịch đối với di tích Quốc gia Hồ Phú Ninh”
Đồng thời nêu cao ý thức và lòng tự hào của nhân dân, trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, cho thế hệ trẻ hôm nay,tiếp nối truyền thống cách mạng trong những năm xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao đời sống văn hóa, góp phần xây dựng quê hương Phú Ninh, ngày càng giàu đẹp và văn minh trên con đường hội nhập đất nước.
B. NỘI DUNG:
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1 Du lịch, khu du lịch và chức năng du lịch:
a) Khái niệm du lịch là gì:
Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan đến sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú.Thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất, và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức, văn hóa hoặc thể thao, kèm theo những việc tiêu thụ, những giá trị về tự nhiên ,kinh tế văn hóa.
b) Khu du lịch: Khu du lịch là nơi tập trung một số loại hình du lịch (trong đó về văn hoá, lịch sử hoặc kinh tế ) hay một số công trình tầm cỡ quốc gia, phục vụ du lịch, nhằm giải trí, chữa bệnh và phát triển thể chất, nâng cao trình độ nhận thức, tại những khu vực du lịch.
c). Chức năng du lịch:
Du lịch có những chức năng nhất định và xếp thành bốn chức năng:
Chức năng xã hội:
Chức năng xã hội thể hiện vai trò, của nó trong việc giữ gìn, hồi phục sức khỏe và tăng cường sức sống cho nhân dân.
Thông qua hoạt động du lịch, đông đảo quần chúng có điều kiện, tiếp xúc với những thành tựu, văn hóa phong phú và lâu đời của dân tộc,từ đó tăng thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế, hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp
Tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, cho người dân địa phương.
Chức năng kinh tế:
Chức năng kinh tế của du lịch liên quan mật thiết, vứoi vai trò của con người, là một trong những lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội.
Nó còn thể hiện ở khía cạnh khác,đó là dịch vụ du lịch của một ngành kinh tế độc đáo , ảnh hưởng đến cơ cấu ngành và cơ cấu lao động của nhiều ngành kinh tế khác. Hơn nữa, nhu cầu nghỉ dưỡng, giải trí của con người được thỏa mãn thông qua nhu cầu thị trường,hàng hóa và dịch vụ du lịch, trong đó nổi lên ưu thế của dịch vụ giao thông, vì vậy dịch vụ du lịch là cơ sở quan trọng kích thích sự phát triển kinh tế, là nguồn ngoại tệ lớn của nhiều nước. Đồng thời góp phần giải quyết kinh tế cho nông dân, tạo điều kiện thu nhập, lương không cao, nhưng ổn định dần dần và sẽ tiến triển một mai. Nâng cao mức sống cho người dân địa phương, cùng nhau thúc đẩy kinh tế xã hội.
Chức năng sinh thái:
Thể hiện tạo nên môi trường sống ổ định về mặt sinh thái như: Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố tác động kích thích việc bảo vệ, khôi phục, và tối ưu hóa môi trường thiên nhiên bao quanh, cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và các hoạt động của con người. Mặt khác việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung vào những vùng nhất định, đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch.
Các danh thắng và môi trường thiên nhiên bao quanh có ý nghĩa không nhỏ đối với khách du lịch. Tạo điều kiện hiểu biết sâu về tài nguyên và môi trường là việc hình thành từ đầu. Nên phải góp phần giáo dục cho khách du lịch về mặc sinh thái học.
Chức năng chính trị:
Chức năng chính trị của ngành du lịch thể hiện vai trò to lớn của nó như một mối quan hệ ngoại giao, để củng cố hòa bình, đẩy mạnh các mối quan hệ song phương, giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết của nền văn hóa dân tộc, trong lĩnh vực du lịch quốc tế.
1.2. Di tích quốc gia là gì:
a) Khái niệm:
Là di tích lịch sử văn hóa là những không gian vật chất cụ thể, khách quan trong đó có chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử quốc gia, do tập thể hoặc cá nhân, con người, hoạt động sáng tạo ra và để lại trong thời kỳ lịch sử.
b) Điều kiện công nhận:
Đã để lại cho chúng ta một công trình to lớn, vĩ đại và những mốc lịch sử chứng thực của tỉnh nhà.
Có giá trị điển hình lịch sử quốc gia.
Một kỳ tích lịch sử của Miền Trung.
Ngày 22 /1/2009, được Bộ Trưởng VHTT- DL quyết định trao Bằng xếp hạng di tích Quốc gia.
c) Phân loại: Di tích (gồm 4 loại)
Di tích văn hoá khảo cổ: Là một di tích đã nằm sâu trong lòng đất và được phát hiện và tu sửa hoặc khảo cổ trong thời gian dài, được gọi là di tích khảo cổ.
Di tích lịch sử: Là những di tích đã trãi qua những mốc lịch sử, những chiến công vang dội và để lại cho chúng ta một sự kiện nào đó, gọi là di tích lịch sử.
Di tích văn hoá nghệ thuật: Là những di tích mang tích chất chung về bản sắc văn hoá nhân gian, được công nhận là di tích văn hoá nghệ thuật.
Các loại danh lam thắng cảnh: Là những công trình mang tính chất sáng tạo, trên nhiều lĩnh vực của xã hội, được Bộ VH-TT-DL, quyết định công nhận là danh lam thắng cảnh.
d) Ý nghĩa xếp hạng của di tích:
Việc xếp hạng của các di tích là cơ sở pháp lý cho hoạt động và bảo vệ, để khai thác sử dụng di tích, vào đời sống nhân dân, phải tạo điều kiện nguồn đầu tư kế hoạch, phát huy cao độ những giá trị tốt đẹp trong xã hội.
Đồng thời góp phần nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo tồn các giá trị lịch sử văn hóa truyền thống, mà ông cha ta đã tạo dựng và để lại trong một thời gian dài.
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DI TÍCH HỒ PHÚ NINH
2.1 Sơ lược về vùng đất và con người Phú Ninh:
Đất Quảng Nam là một trong những vùng đất được Đảng và nhà nước đã truy tặng mệnh danh là vùng đất trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ. Là vùng đất được hình thành từ thưở ông cha ta, mang gươm, giáo mác đi mở cõi, khai hoang, lập ấp, phủ. Đồng thời Phú Ninh cũng được ra đời và hình thành trải qua biết bao thời kỳ biến cố của lịch sử nước nhà. Phú Ninh
là tên của một vùng quê êm đềm, thơ mộng và thanh bình nằm trên bờ sông Quán, sông Trường Cửu nối dài với sông Ba Kỳ thơ mộng thưở xưa. Xưa kia Phú Ninh là vùng đất thuộc tổng Chiên Đàn, huyện Hà Đông rồi phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Thời gian này đã trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, lúc nhập lại, lúc tách ra. Vùng đất Phú Ninh với nhiều địa hình, địa mạo hiểm trở và địa thế phức tạp và phong phú về tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn, truyền thống lịch sử văn hóa được sử dụng và đúc kết qua nhiều thời đại, có sự giao lưu văn hóa Bắc-Nam và văn hóa Đông-Tây, có sự nối tiếp giữa văn hóa núi, đồng bằng và vùng biển của xứ Quảng, đã tạo dựng một nét văn hóa riêng và dặc trưng của vùng đất Phú Ninh, phong phú và đa dạng nhưng cũng thấm nhuần tính bản địa, giá trị hào hùng mang đậm tinh thần nhân văn trung thực chất phát cũng không thua gì với tài hoa, thông minh, sáng tạo để đấu tranh với thiên nhiên và bọn giặc ngoại xâm vùng đất được mệnh danh và “lưu truyền vào sử sách” đặc biệt thể hiện rõ qua các cuộc kháng chiến trong lịch sử mà nổi bật nhất là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chính hai cuộc kháng chiến này đã để lại trong lòng người dân Quảng một ký ức lịch sử và năm tháng hào hùng của đất nước vẫn còn khát vọng theo những ca khúc ca ngợi đất nước và quê hương. Không những thế mà đọng mãi trong lòng người dân Quảng Nam một thời. Phú Ninh cũng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp ấy, với tố chất của người dân Quảng Nam nói chung, cộng với sự hiếu học, thông minh sắc sảo, con người Phú Ninh vốn lại thông minh giỏi giang và thực tế đã xuất hiện những con người nổi tiếng như: Phan Chu Trinh; Trần Văn Dư..............
Với những nhân vật điển hình như ông Nghè, ông Cống cũng góp phần làm nên truyền thống hiếu học và thủ khoa của các trường đại học ở nước ta. Đó là con người Phú Ninh lại tài hoa, đảm đang chịu thương, chịu khó. Họ
đã và đang tạo dựng ra các giá trị lịch sử văn hóa vật thể và phi vật thể có giá trị to lớn của ngày hôm nay. Đến với vùng đất và con người Phú Ninh, bạn sẽ chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc như: Đình, Chùa, Miếu mộ và các ngôi nhà cổ đã tồn tại hàng trăm năm nay, và đặc biêt là công trình đại thủy nông Hồ Phú Ninh nổi tiếng. Đã nói lên được các giá trị văn hóa và mặt tinh thần như: truyền thống yêu nước, tinh thần nhân đạo, tương thân tương ái, thủy chung và các giá trị tốt đẹp của Phú Ninh hôm nay. Bên cạnh đó còn có sự hiện diện của rất nhiều lễ hội, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Cor, những câu ca dao hò, vè và những giá trị nghề nghiệp khác. Tất cả những giá trị đó góp phần tạo nên những giá trị lịch sử văn hóa đặc trưng cho vùng đất và con người Phú Ninh. Và ngày nay vùng đất Phú Ninh đã có một tên đơn vị hành chính độc lập là huyện Phú Ninh vào năm 2005. Và đây cũng là vùng đất tạo dựng nên một danh thắng hết sức thơ mộng, hữu tình là hồ Phú Ninh, chính hồ này đã góp phần đem lại cuộc sống ấm no cho người dân tỉnh nhà, đặc biệt là nơi du lịch sinh thái vô cùng hấp dẫn cho du khách gần xa tìm đến.
2.2: Khái quát vị trí lịch sử:
Hồ Phú Ninh là đại công trình thủy nông tầm cỡ quốc gia, là nơi có rừng phòng hộ giữ vai trò to lớn trong việc cải tạo tiểu vùng khí hậu, và phòng chống thiên tai, lũ lụt, nơi cấp nước sinh hoạt, thủy điện, nuôi trồng
thủy sản..... có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội tỉnh nhà. Bên cạnh đó Phú Ninh còn là vùng sinh thái tự nhiên rộng lớn và đa dạng, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, kỳ thú tạo nên sức hấp dẫn lớn trong việc phát triển du lịch sinh thái.
Hồ Phú Ninh thuộc huyện Phú Ninh , tỉnh Quảng Nam , nằm cách trung tâm thành phố Tam Kỳ 7km về phía Tây Nam. Có diện tích mặt nước 3.433
ha, với 30 đảo và bán đảo nhỏ xinh đẹp. Công trình được khởi công xây dựng vào năm 1977 và hoàn thành sau gần 10 năm xây dựng.... Đây là một trong những đại công trình thủy nông lớn nhất toàn quốc. Hồ Phú Ninh có diện tích tổng thể là 23.409 ha ( nằm trong lãnh thổ của huyện Núi Thành và huyện Phú Ninh). Trong đó diện tích mặt nước 3.433 ha. Hồ được ngăn bởi một đập chính thuộc Tam Xuân, và các đập phụ gồm:
+Đập tràn thuộc Tam Xuân( gần đập chính)
+ Đập Dương Lâm thuộc Tam Dân.
+ Đập Tư Yên thuộc Tam Đại.
+ Đập Long Sơn thuộc Tam Đại.
Sau khi chặn dòng, những đồi núi ngày xưa đã trở thành những hòn đảo nổi mượt xanh, thơ mộng với những tên gọi dân dã như đảo ông Sơ, đảo Khỉ, đảo Rùa, đảo Su, đảo 61, hố Khế, hố Ba Trăng.
Từ trên cao nhìn xuống, lòng hồ như một chảo nước khổng lồ, với nhiều ốc đảo, được bao bọc bởi những dãy núi, những bờ đê, và những cánh rừng xanh tốt. Bằng chiếc thuyền con, du khách có thể dạo chơi quanh các ốc đảo, chiêm ngưỡng vẻ đẹp nên thơ nhưng cũng thật hùng vĩ giữa màu xanh bạt ngàn của núi rừng. Trong lòng thung lũng Chấp Trà, giữa mặt hồ yên tĩnh,
có một mạch nước khoáng lộ thiêng, có công dụng chữa được nhiều bệnh về cơ khớp, gan, mật tiêu hóa.
Ngoài các lợi thế để phát triển thủy điện, thủy sản, thủy lợi, nông lâm nghiệp, cung cấp nước sinh hoạt... Hồ Phú Ninh còn là khu du lich sinh thái lý tưởng. Nơi đây có hơn 30 hòn đảo lớn nhỏ trong lòng hồ đang chờ du khách khám phá với nhiều hoang động, rừng nguyên sinh. Vùng có khí hậu trong lành với nhiệt độ trung bình hàng năm 26,4 0c. Hệ động vật vô cùng phong phú, đa dạng, có mỏ nước khoáng nóng có giá trị cao.
Bên cạnh nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên , còn có tài nguyên du lịch nhân văn vô cùng phong phú. Thật hấp dẫn và tuyệt hảo khi các bạn hãy đặt chân đến mảnh đất này để nhìn lại một thời. Trước hết phải kể đến một lịch sử chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của người dân địa phương, với những địa điểm nổi tiếng như Đồi Đá Đen, Đảo 61...Bên cạnh đó là sự có mặt của dân tộc Cor với nhiều phong tục tập quán, lễ hội văn hóa đặc sắc. Cùng với công trình đại thủy nông Phú Ninh, là vùng hồ Phú Ninh là một điểm du lịch có thể phát triển các loại hình du lịch sinh thái, nghĩ dưỡng, chữa bệnh, tham quan, nghiên cứu, thể thao... Nơi đây đang thực sự là một điểm đến hấp dẫn khách du lịch gần xa tìm đến.
2.3: Giới thiệu các địa danh lịch sử đối với việc phát triển khai thác du lịch trên hồ:
Phú Ninh vùng đất được hình thành từ rất sớm trong lịch sử gắn liền với dặm dài mở nước của dân tộc. Là tên của một làng quê êm đềm bên đôi bờ sông Quán, sông Trường Cửu ngày xưa. Nơi được mệnh danh là “vùng đất vàng” một thưở. Lưu danh trong sử sách, núi non hùng vĩ, sơn thủy hữu tình, phong cảnh kỳ thú, núi rừng chiếm 90% diện tích, là vùng chuyển tiếp bởi các dãy núi non Ngọc Linh, Trà Cok, Trà Bồng, Trà Liên ở phía Nam trong dãy Trường Sơn hùng vĩ ăn lan ra tận biển Đông. Phía Bắc được bao bọc bởi tuyến đường bê tông, liên xã trên bờ đập Tư Yên, Long Sơn, Dương Lâm, và các dãy núi Dương Mốc, Cháp Chài, Núi Móp, núi Vàng( Xã Tam Đại, Tam Dân). Phía Tây tiếp giáp với với tuyến đường giao thông nối liền xã Tam Dân-Tam Lãnh và dãy núi Dương Huê, Nổng Phương. Phía Đông tiếp giáp với núi Đá Đen, núi Cóc, núi Tân Lợi (xã Tam Đại-Phú Ninh) và một phần thuộc các xã Bích Ngô, Thạch Kiều, Phú Tân thời thuộc Pháp (nay
thuộc huyện Núi Thành). Là cửa ngõ đi đến xứ sở vàng “Bồng Miêu”. Thời thuộc Pháp, vùng lòng hồ Phú Ninh là đất thuộc các xã Phú Ninh, Long Sơn, Ngọc Anh, Ngọc Nha, Dương Quế, Trường Cửu, Phước Lợi, Phú Đức, Qúy Đức, Đức An, Phú Thành, Đồng Bằng, một phần của xã Thạch Xương và Đức Phú thuộc các đổng Phước Lợi, Vinh Qúy, Đức Tân, Chiên Đàn huyện Hà Đông, rồi phủ Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam.(Có một thời gian ngắn thời Tây Sơn, đầu thời Nguyễn , nằm trong “nội thuộc Kim Hộ” nơi có nhiều hộ dân khai thác vàng). Từ 1945-1975 thuộc các xã Kỳ Long, Kỳ Quế, Kỳ Sơn, Kỳ
Yên, Kỳ Trà huyện Bắc và Nam Tam Kỳ. Hiện nay hồ Phú Ninh thuộc địa phận hành chính 2 huyện Phú Ninh và Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
Vùng đất tuy mới bị chia tách trong thời gian gần đây, nơi đây đã sản sinh, nuôi dưỡng những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể hết sức quý giá. Riêng qua mỗi tên gọi, mỗi địa danh trên địa bàn huyện cũng chứa đựng những ý nghĩa hết sức to lớn.
Trong thời bình Phú Ninh còn gắn liền với tên gọi của một công trình thủy nông vào thời hạn lớn của miền Trung, được xây đắp nên từ công sức của người dân Xứ Quảng trong những năm đầu, sau ngày quê hương sạch bóng quân thù-công trình đại thủy nông Phú Ninh. Đây là kết quả của mồ hôi, xương máu và nước mắt của người dân tạo nên. Ngoài việc cung cấp điện, nước tưới cho vùng, đây còn là một vùng du lịch sinh thái lý tưởng.
Từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành, công trình đã huy động 18.500000 ngày công chưa kể đến gần một triệu ngày công tham gia gián tiếp phục vụ công trình với một khối lượng lớn 15.700000 m3 đất đá, 139.000 m3 đã xây, 120000 m3 đá lác, 65000 m3 bê tông các loại, đã sử dụng một số vật tư chiến lược khá lớn, xi măng 33000 tấn, sắt thép 5300 tấn, xăng dầu 9000 tấn, gỗ tròn 12000 m3. Vốn đã sử dụng 282 triệu đồng tiền mặt.
Một vài thông số lỹ thuật:
Diện tích mặt hồ 18,9-36 km2
Độ cao đập 37,4 m
Mực nước chết (HC) 20,44 m
Mực nước bình thường (Hbt) 32,2 m
Mực nước cường (Hcg) 35,29 m
Dung tích chết (Wch) 344*106m3
Dung tích hứng với mực nước gia cường 461*106m3
Dung tích lưu vực 235 km2
Với những đặc điểm như vậy, hồ Phú Ninh có ưu thế rất lớn để phát triển thủy lợi, thủy điện, thủy sản, nông lâm nghiệp, cung cấp nước sinh hoạt... Cùng với khí hậu mát mẻ, hệ động thực vật rất đa dạng, hồ Phú Ninh còn là một khu du lịch sinh thái lý tưởng với những địa danh như: mỏ nước khoáng, đảo Su, đập Dương Lâm, hố Khỉ, hố Khế, hố Ba Trăng, đảo Ống Sơ, Lăng Ông Nghè, đồi Sim, đập tràn, đảo Rùa, đảo 61...Mỗi địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử văn hóa...tạo thành những giá trị to lớn cho vùng đất.
+ Đảo 61: Xưa đảo 61 là Phước Tài, thuộc thôn Phú Phong, Xã Kỳ Trà cũ, nguyên trước đây là đồi ông Tú (ông xã Tú người có nhiều ruộng, đất trong vùng). Năm 1890, khi bắt đầu phát tuyến chuẩn bị mở đường đi Bồng Miêu, người Pháp đo đạc độ cao đồi ông Tú là 61 mét và đã xây dựng cột mốc trên đỉnh đồi. Theo một người dân vốn sống lâu năm ở đây cho rằng, đó là vị trí đóng quân thứ 61 của thực dân Pháp. Đây là đảo trồng rừng nên đảo có cảnh quan thực vật hiện đại, có đài quan sát cửa rừng của trạm kiểm lâm Phú Ninh, cần được tiến hành tu bổ và tăng cường việc trồng rừng, nuôi các loại động vật để tạo điểm thắng cảnh cho du khách.
+ Đảo Rùa: (hay còn gọi là đảo khỉ): Nhìn từ xa, hòn đảo có hình dạng giống con rùa, nhất là vào mùa nước cạn. Dưới chân đảo xưa có dòng Xà Lang chạy đến đập chính, chung quanh có nhiều nà, thổ rộng lớn bên dòng
sông Ba Kỳ. Đảo còn rừng tự nhiên, dây leo rậm rạp và có nhiều loại động vật thú quý hiếm.
+ Đảo Su: Trước đây còn gọi là đồi Ngọc Nha, có lẽ khi đặt chân đến hòn đảo này người ta hay bắt gặp nhiều cây cao nên tên gọi đảo Su xuất hiện từ đó. Trong thời kỳ thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa, năm 1892 một người Pháp tên là Ký Lai đã đến và trồng thí điểm cây cao su, sau khi Ký Lai mất, người con trai của ông là Tư Ma tiếp tục trồng cây cao su với quy mô lớn, tiếp giáp đến nông trường chè Đức Phú. Tuy nhên về sau do chiến tranh và chất lượng không phát triển để nhân rộng. Năm 1973, nơi đây là địa điểm đứng chân của Phái đoàn đàm phán bốn bên Hiệp định Pari tỉnh Quảng Nam ( địa bàn tỉnh Quảng Tín ) và đã diễn ra sự kiện trao trả tù binh giữa ta và địch. Hiệ đây là nơi vui chơi, cắm trại, câu cá, nghỉ ngơi...lý tưởng cho du khách.
Không chỉ trồng su, người Pháp còn trồng chè trên các mỏm đồi, ngay tại vùng hồ Phú Ninh, thực dân Pháp còn xây dựng đồn quản lý việc khai thác chè. Đồi chè Đức Phú là một trong những nơi có diện tích trồng chè khá lớn của thực dân Pháp tại Trung Kỳ.
+ Đảo ông Sơ: Đảo này lấy tên gọi của ông Nguyễn Văn Sơ, nguyên là lý trưởng thôn Đức An. Đây là đảo lớn nhất trên hồ, có nhiều loại chim thú, bò sát có trữ lượng tuy thấp nhưng có khả năng phát triển tốt. Ngoài ra còn có đảo ông Hiền, ông Châu và nhiều đảo khác...cũng có giá trị rất lớn ( mỗi đảo gắn liền với tên một nhân vật hương mục, hào lý có nhiều ruộng đất địa phương).
+ Lăng Ông Nghè: Đây là một trong những dinh lăng lớn nhất vùng thời bấy giờ (rộng hơn 500 m2) do nhân dân các xã Phú Ninh, Long Sơn, Ngọc Anh, Ngọc Nha, Đương Quế, Trường Cửu, Phước Lợi lập nên để tưởng nhớ những người có học vị cao nhất, vùng có nhiều đóng góp cho địa phương ( theo một vị cao niên, lăng này cũng thờ nhiều Ông Nghè ở Thạnh Bình thuộc tổng Tiên Giang, Tiên Phước ngày nay). Hiện nay cửa lăng ở sau dưới mực nước hồ 5 m vẫn còn lại tấm bia đá lưu tại nhiều bút tích và sự kiện này. Tuy nhiên do ở dưới nước sâu nên chưa có điều kiện nghiên cứu.
+ Hố Ba Trăng: Đây là hốc núi có một dòng suối bắc nguồn từ nông trường chè Đức Phú chảy qua và đổ ra hồ Phú Ninh. Trong những chuyến điền giả năm 2003, những vị cao niên trong vùng cho rằng trước đây thực dân Pháp đã xây dựng đường giao thông đi Bồng Miêu quan khu vực này gặp nhiều khó khăn, phải trải qua 3 mùa trăng mới xong đoạn đường nên gọi là hố Ba Trăng. Tuy nhiên còn nhiều ý kiến khác lại cho rằng vùng đất này, xưa kia người Chăm Pa đã cư ngụ, khu vực này khí hậu khắc nghiệt, để phù hợp với thời tiết, khí hậu, người Chăm Pa đã gieo trồng luad giống Ba Trăng, trải qua ba mùa trăng mới thu hoạch. Sau này cư dân Đại Việt đến đây khai hoang lập ấp, đã xây dựng một con đập nhỏ ngăn nước tưới cho ruộng đồng trong vùng nên có tên gọi là hố Ba Trăng. Trong kháng chiến chống Mỹ, nơi đây cũng là một căn cứ cách mạng bí mật của cơ quan thị ủy Tam Kỳ.
+ Nguồn nước khoáng: Giữa thung lũng Chấp Trà, thuộc thôn 2 xã Kỳ Quế, có một nguồn mỏ nước khoáng nóng tự nhiên với nhiều nguyên tố vi lượng có tác dụng chữa bệnh, kích thích tiêu hóa, sảng khoái tinh thần, giúp điều trị một số bệnh về cơ khớp, gan, mật và không thua bất kỳ loại nước
khoáng nào trên thị trường. Xưa kia, khi chưa ngăn đập đắp hồ, đây là một cánh đồng rộng lớn bên dòng sông Ba Kỳ có nhiều nà thổ rộng lớn như: nà
Bộng, nà Làng trồng hoa màu. Giữa thung lũng một dòng suối nhỏ có nguồn nước nóng phun lên trong hốc đá ( vùng Cát-Tơ đá vôi ) nhiệt độ đo được 900C làm cháy những ruộng lúa ven suối, vì vậy người dân đã tiến hành đắp mương, ngăn dòng nước chảy theo một dòng suối nhỏ ra dòng Ba Kỳ. Sau khi đắp đập ngăn hồ, các nhà khai thác đã cắm ống nước sâu vào trong hốc đá sử dụng cho đến ngày hôm nay.
+ Đồi 159 (Đồn Chóp Chài): Di tích lịch sử Chóp Chài với độ cao 159 mét, hiện tọa lạc tại thôn 10, xã Tam Đại, Huyện Phú Ninh. Do đồi cao 159 mét so với mực nước biển nên gọi là đồi 159. Trong kháng chiến chống Mỹ đã diễn ra nhiều trận đánh lớn, giữa địch và ta, nhiều chiến sỹ đã anh dũng ngã xuống trên vùng đất này. Điểm cao Chóp Chài được xem là trong những căn cứ điểm quan trọng của Mỹ, Ngụy trong chiến tranh, nhằm bảo vệ áng ngữ cánh cửa phía Tây vào thị xã Tam Kỳ. Ngày 8-9-1964, tiểu đoàn 70-tỉnh đội Quảng Nam bất ngờ đồng loạt bao vây nổ súng tấn công tiêu diệt quân địch tại cứ điểm, quân địch tại đây ra sức cố thủ, kêu gọi quân cứu viện nhưng trước sự tấn công quyết liệt của quân ta. Cuối cùng quân địch tại Chóp Chài đã bị tiêu diệt gọn với một tiểu đoàn lính cộng hòa (tiểu đoàn 6-sư 2 Ngụy) Mỹ-Ngụy, hỗ trợ đắc lực cho các lực lượng vũ trang ở các xã huyện Bắc Tam Kỳ đánh địch, mở một vùng giải phóng, làm bàn đạp thuận lợi để quân ta tổ chức các cuộc tấn công vào sào huyệt của Mỹ-Ngụy tại tỉnh lụy Quảng Tín.
+ Sông Ba Kỳ: Bắt nguồn từ thác Mui, đá Chặt chảy xuống kết hợp với dòng sông Quán, sông Trường Cửu từ Đương Quế, Đức An chảy ra tạo thành ngã ba sông ( sông Cái) chảy xuống Tam Kỳ, nhánh trên gọi thành sông Ba Kỳ, có ý kiến cho rằng, thời thuộc Pháp, người Pháp ngăn 1/3 con sông để khai thác tiềm năng nên gọi là sông Ba Kỳ.
Ngoài ra trên hồ Phú Ninh, còn nhiều địa danh khá nổi tiếng như: đảo Khế, đồi Đá Đen, đập Long Sơn, thác Mui, đá Chặt, đèo Bình Yên, sông Trường Cửu, đảo Trại Dược ...Có thể nói mỗi nơi có những cách gọi tên khác nhau. Có thể là đặt theo tên người đi đầu khai phá, mở đất lập làng, hay đặt tên theo một sự kiện lịch sử, đặt tên theo hình dạng địa hình...Ngoài ra vùng hồ còn có hàng trăm loài thực vật và dược liệu quý, cùng hệ động vật phong phú với nhiều loài thú quý hiếm. Như: sói Đỏ, khỉ mặt đỏ, gấu, sơn dương...Đặc biệt những sự kiện lịch sử trận đánh ác liệt, cuộc sống mưu sinh của những người nông dân chân lấm tay bùn cùng với phong tục tập quán của người dân địa phương...đã góp phần rất lớn làm nên những sức sống lâu bền cho một vùng đất.
Khu du lịch Phú Ninh hôm nay không chỉ là một kỳ tích lao động của người dân Quảng Nam-Đà Nẵng mà nó còn là nơi phát triển du lịch sinh thái lý tưởng. Việc đẩy mạnh phát triển tham quan các địa danh lịch sử văn hóa tại hồ, nhằm góp phần giáo dục truyền thống yêu nước chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đồng thời, nêu cao ý thức và lòng tự hào của nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, cho thế hệ trẻ hôm nay, tiếp nối truyền thống cách mạng trong những
năm xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao đời sống văn hóa, góp phần xây dựng quê hương Phú Ninh ngày một giàu đẹp và văn minh.
2.4 Khai thác tuyến du lịch trên hồ:
* Đồi Đá Đen->đập Tư Yên ( Đồi 159) -> mỏ nước khoáng ->đảo Su
* Thuyết minh tuyến du lịch trên:
Đất Quảng Nam chưa mưa đã thắm
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say
Bạn về nằm nghỉ gác tay
Chớ nơi mô ơn trượng nghĩa dày cho hơn đây
Vâng-Quảng Nam, vùng đất vốn chưa mưa đã thắm, chưa nhấm đã say, vùng đất luôn đi đầu trong dặm dài mở cõi, đi đầu trong quá trình đấu tranh giữ gìn quê hương, đất nước, vùng đất mà hôm nay lại tiên phong trong quá trình xây dựng và phát triển. Nơi đây đã trở thành niềm tự hào, mà mỗi ai khi được sinh ra trên mảnh đất này đều phải hãnh diện khi giới thiệu với bạn bè rằng quê tôi ở Quảng Nam. Ngày nay, thật tự hào khi Quảng Nam còn sở hữu hai di sản văn hóa thế giới “Đô thị cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn”. Và sẽ thiếu sót nếu đến với Quảng Nam lại không có một chuyến dạo hồ Phú Ninh xanh. Đến với Phú Ninh, có mấy ai biết rằng ngay dưới lòng hồ này, trước đây vốn làng, những làng quê yên tĩnh nằm dọc 2 bên bờ sông Quán. Hồ Phú Ninh trước kia là đất thuộc xã Long Sơn, Ngọc Anh, Ngọc Nha, Dương Quế, Trường Cửu, Phú Đức, Đức Tân, Phú Thành một phần xã Thạnh Xương và Đức Phú thuộc tổng Phước Lợi, Vinh Qúy, Đức Tân phủ Tam Kỳ, Tỉnh Quảng Nam (thời Pháp thuộc). Sau năm 1945 thuộc các xã Kỳ Long, Kỳ Nghĩa, Kỳ Quế, Kỳ Sơn, Kỳ Yên, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nam-Đà Nẵng. Ngày nay Phú Ninh đã trở thành một vùng hồ rộng lớn, có phong cảnh núi non hữu tình thơ mộng, nhưng để có điều này người dân Phú Ninh nói riêng và Quảng Nam nói chung đã cống hiến sức người, sức của đã có biết bao sự hy sinh to lớn đến dường nào.
Cách đây 30 năm sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cùng với cả nước, nhân dân huyện Phú Ninh đã chung tay góp sức làm nên một kỳ tích lịch sử. Đó là ngăn sông đắp đập xanh hồ Phú Ninh, tên gọi Phú Ninh bắt nguồn từ tên một làng cổ bên dòng sông Ba Kỳ, ngay nơi đắp đập chính ngăn sông Ba Kỳ để xây dựng công trình đại thủy nông Phú Ninh. Làng cổ tuy nay đã nằm xâu dưới lòng hồ nhưng tên làng thì vẫn cứ tồn tại với thời gian, trở thành tên một công trình không chỉ người dân Quảng Nam, người dân miền Trung mà cả người dân cả nước biết đến. Ngày nay tên gọi Phú Ninh còn gắn liền với một huyện mới được chia tách từ thị xã Tam Kỳ, đó là huyện Phú Ninh. So với thời gian lúc bấy giờ việc xây dựng một công trình như thế thật là vĩ đại, với 18.500.000 ngày công, chưa kể gần 1000000 ngày công tham gia gián tiếp phục vụ công trình, với một khối lượng lớn 15700000 m3 đất đá, 139000 m3 đá xây, 120000 m3 đa lót, 65000 m3 bê tông các loại, đã sử dụng một số vật tư chiến lược khá lớn, xi măng 33000 tấn, sắt thép 5300 tấn, xăng dầu 9000 tấn, gỗ tròn 12000 m3. Vốn đã sử dụng là 282 triệu đồng tiền mặt. Quả thật là “ Bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm”.
Từ xa xưa, khi thực dân Pháp đặt chân đến đô hộ nước ta, Pháp đã có ý định xây dựng đập Phú Ninh, song có lẽ do mục đích ban đầu của người Pháp đã có ý định mở mang các đồn điền, trồng cây công nghiệp, mà việc này đã không được tiến hành. Tuy nhiên từ năm 1925 do nhu cầu nguồn
nước tuới cho đồng bằng vùng phía Bắc thị xã Tam Kỳ, mà họ đã làm con kênh dẫn nước từ thác Mui đi qua 3 xã dài hơn 30 km, đó là kênh Ba Kỳ. Kênh Ba Kỳ được hoàn thành do người Pháp ngăn 1/3 thác Mui phía tả ngạn để dẫn nước về nên có tên gọi là tên Ba Kỳ. Còn một ý kiến khác thì cho rằng, từ thác Mui nước sông chảy xuống sông Tam Kỳ nên gọi là sông Ba Kỳ. Nằm trong dãy núi Tân Lợi thuộc xã Tam Đại là đồi Đá Đen, do đặc điểm của đá vùng đất này có nhiều màu đen, mà ngọn đồi có tên gọi là đồi Đá Đen. Như các bạn đã biết vào tháng 4 năm 1946, bộ đội ta trung đoàn 31 chủ lực QKV, đã bố trí một trận đánh và tiêu diệt gọn 41 xe cơ giới của địch, trong đó có 2 xe bọc thép và nhiều vũ khí. Gần 30 năm sau vào ngày 24-3-2005 tại khu địa danh đồi Đá Đen này đã đi vào sử sách. Và ngày nay vào ngày này ở khu du lịch hồ Phú Ninh, đã tổ chức cho các đôi trai gái tụ họp về đây và tổ chức đám cưới tập thể, làm sinh động tăng thêm hào khí vùng Đá Đen này. Và tưởng nhớ các anh chị thanh niên đã ngã xuống vì đất vì quê, nếu các bạn muốn biết rõ thì vào ngày này bạn hãy đến với Phú Ninh quê tôi để được chiêm ngưỡng đám cưới thiên nhiên giữa núi rừng.
Dọc theo con đường bê tông từ đập Tư Yên nhìn lên phía trên tay phải là đồn Chóp Chài “đồi 159” hiện Tọa Lạc, tại thôn Đại An, xã Tam Đại, huyện Phú Ninh. Do ngọn đồi cao 159 mét so với mực nước biển nên mới có tên gọi là đồi 159. Điểm cao Chóp Chài được xem là những căn cứ điểm quan trọng của Mỹ-Ngụy trong chiến tranh, nhằm bảo vệ án ngữ cánh cửa phía Tây vào thị xã Tam Kỳ. Năm 1963 do phát hiện được ngọn đồi có thế hiểm trở khó lên, địch đã chọn đóng đồn ở đồi 159 để án ngữ phía Tây Nam thị xã, lúc này bộ đội ta tuy có tổ chức nhiều trận đánh lên khu đồi song không thành công. Đến năm 1965, khi Mỹ phái 3 tên biệt kích đổ xuống
vùng đất này, quân ta mới cử người theo dõi và bắt được 2 tên còn một tên chạy thoát nhưng cũng không thoát khỏi cái chết. Ngày 8-9-1964, tiểu đoàn 70 tỉnh đội Quảng Nam bất ngờ đồng loạt bao vây, nổ súng tấn công tiêu diệt quân địch tại cứ điểm, quân địch tại đây ra sức cố thủ, kêu gọi quân cứu viện nhưng trước sự tấn công quyết liệt của quân ta. Cuối cùng quân địch tại Chóp Chài đã bị tiêu diệt gọn với một tiểu đoàn quân cộng hào, phá vỡ căn cứ đồn trú án ngữ phía Tây Nam thị xã Tam Kỳ của Mỹ-Ngụy, hỗ trợ đắc lực cho các lực lượng vũ trang ở các xã huyện Bắc Tam Kỳ đánh địch, mở một vùng giải phóng làm bàn đạp thuận lợi để quân ta tổ chức các cuộc tấn công vào sào huyệt của Mỹ-Ngụy tại tỉnh lỵ Quảng Tín.
Với tầm quan trọng một thời đồi Chóp Chài và nguồn sử liệu khá phong phú hôm nay đã góp phần rất lớn trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, đấu tranh chống xâm lược, niềm tự hào cho thế hệ trẻ huyện nhà. Cũng ngay trên mảnh đất này, nhiều trận đánh diễn ra như: trận phản kích đánh địch ở đập chính, trận đánh Mỹ ở đồi chè Đức Phú...Có rất nhiều trận đánh nhưng điều đáng tự hào nhất là đã có biết bao anh hùng ngã xuống và nay vẫn còn ở lại vì bầu trời hòa bình và thống nhất nước nhà hôm nay.
Trong thời chiến, họ đã bám đất, giữ làng, dù “một tất” cũng “không đi” “một ly” cũng “không rời”. Trong thời bình họ lại yên nghỉ với mảnh đất, gắn mình với con người Phú Ninh. Có lẽ không có sự hy sinh nào to lớn đến vậy, những cái chết đã “hóa thành bất tử”, những cái chết đã trở thành những “bài ca không thể nào quên” cho một thời lửa đạn. Nhưng ký ức đó vẫn trải qua năm tháng hoài niệm trong lòng người dân Phú Ninh.
Xuôi theo dòng Phú Ninh, chúng ta sẽ đến với mỏ nước khoáng, giữa thung lũng Chấp Trà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2929.doc