Lịch sử phép biện chứng

I-Đặt vấn đề Phép biện chứng là một bộ môn khoa học triết học, nó có ý nghĩa thế giới quan rộng lớn cũng như bản thân của triết học vậy. Lịch sử phép biện chứng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài, với hơn 2000 năm lich sử mà đỉnh cao của nó là phép biện chứng Mácxít. Phép biện chứng mácxít dựa trên truyền thống tư tưởng biện chứng của nhiều thời kì lịch sử trước đó để nêu ra những đặc điểm chung nhất của biện chứng khách quan. Nghiên cứu những quy luật phổ biến của sự vận động và phát tr

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1779 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Lịch sử phép biện chứng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển của tự nhiên, của xã hội loài người và của cả tư duy nữa. Nó là chìa khoá giúp con người nhận thức và chinh phục thế giới. Nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật không những là một nhân tố cơ bản để hình thành thế giới quan mà còn là điều kiện tiên quyết cho sự sáng tạo của đảng cách mạng Thực tiễn cách mạng đã chứng minh chỉ khi nào ta nắm vững những lý luận phép biện chứng, biết vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của nó một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Lấy cái bất biến ứng vào cái vạn biến như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói thì vai trò và hiệu lực cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội được tăng cường. Ngược lại cách nghĩ, cách làm chủ quan duy ý chí siêu hình đã dẫn đến những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng gây tổn thất cho cách mạng và quá trình phát triển xã hội nói chung. Vì vậy học tập, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của phép biện chứng là một nhu cầu hết sức cần thiết. Hiện nay nước ta đang tiếp tục công cuộc đổi mới tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Việc nghiên cứu lịch sử phép biện chứng một cách có hệ thống và nhất là nắm vững bản chất biện chứng duy vật mácxít càng là nhu cầu bức thiết để đổi mới tư duy tiếp tục vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm đường lối của Đảng ta là biện chứng chủ quan phản ánh biện chứng khách quan của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nó đang là định hướng tư tưởng và là công cụ tư duy sắc bén để đưa cách mạng nước ta lên giành thắng lợi trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Phép biện chứng đã phát triển qua 4 hình thức cũng là 4 trình độ khác nhau. Quá trình phát triển đó phù hợp với trình độ khoa học bấy giờ cũng như phù hợp với các điều kiện khách quan khác như chính trị ,kinh tế-xã hội, cũng như là phù hợp với tiền đề lý luận. II-Giải quyết vấn đề Trước hết ta cần phải hiểu những nội dung của phép biện chứng để từ đó có thể nắm bắt được những tư tưởng biện chứng, cũng như sự phát triển của những tư tưởng đó trong việc nghiên cứu lịch sử phép biện chứng. Phép biện chứng là những lý luận về tính biện chứng của thế giới như là liên hệ, vận động biến đổi, phát triển, mâu thuẫn, liên hệ, tác động lẫn nhau thông qua những hệ thống quy luật như: quyluật về mối liên hệ phổ biến, quy luật mâu thuẫn v.v…Phép biện chứng cho rằng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, cũng như hình ảnh tinh thần của chúng có quan hệ qua lại với nhau, không ngừng vận động và phát triển. Trong đó vận động được hiểu là tự vận động, còn phát triển là phát triển tự thân, phát triển thông qua mâu thuẫn, là sự chuyển hoá trạng thái này thành trạng thái cao hơn, một sự vật này thành sự vật khác mới về chất. 1)Phép biện chứng cổ đại: Tiêu biểu bằng ba nền triết học ấn Độ cổ đại, Trung Hoa cổ đại và Hy Lạp cổ đại 1.1)Triết học ấn Độ cổ đại ấn Độ cổ đại là vùng đất thuộc nam châu á với đặc điểm khí hậu hết sức khắc nghiệt,do đó yếu tố địa lý cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới tư tưởng triết học của người ấn Độ.Tuy nhiên nhân tố ảnh hưởng lớn nhất tới quá trình đó là nhân tố xã hội, trong đó đặc biệt là sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế-xã hội theo mô hình riêng đặc biệt được C.Mác gọi là “Công xã nông thôn”. Chính trong mô hình này đã làm phát sinh sự phân biệt hết sức hà khắc, dai dẳng của bốn tầng lớp lớn trong xã hội: tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và tiện dân (nô lệ). Tư tưởng tôn giáo rất phát triển trong xã hội cổ đại ấn Độ đã đan xen vào triết học làm nên nét đặc thù của triết học cổ đại ấn Độ. Vào thời kỳ này nhiều tri thức về khoa học tự nhiên cũng ra đời và làm cơ sở cho nhận thức của chủ nghĩa duy vật. Tất cả những yếu tố như kinh tế, chính trị, và tri thức khoa học đó đã hợp thành cơ sở cho sự phát sinh và phát triển của những tư tưởng triết học-tôn giáo ấn Độ cổ đại Phép biện chứng thô sơ là một giá trị của triết học cổ đại ấn Độ. Các tư tưởng biện chứng được tập trung thể hiện trong các giáo lý, giáo điều đạo Phật sơ kỳ và tư tưởng của phái Jaina. Trung tâm của những tư tưởng triết học đạo phật sơ kỳ là những vấn đề nhân sinh quan. Tuy nhiên những vấn đề về phép biện chứng cũng là bộ phận cấu tạo hữu cơ của nó. Những tư tưởng biện chứng của đạo Phật sơ kỳ đã được Ăngghen đánh giá là “hết sức sâu sắc” , có thể nói những tư tưởng triết học về bản thể và phép biện chứng luôn là giá đỡ cho các luận điểm về nhân sinh. Tư tưởng biện chứng của đạo Phật sơ kỳ được trình bày tập trung trong các luận điểm: nhân-duyên-sinh, vô ngã, vô thường. Theo triết lý này thì vạn vật không do một uy lực thần linh nào chi phối, mà tất cả đều chịu tác động của các quy luật, “nhân-quả”, theo quá trình “sinh-trụ-hoại-không”. Và cũng vì vậy không có cái gì là thường hằng bất biến (vô ngã) và cũng không có cái gì là thường hằng không đổi (vô thường ) tức là trên bình diện tồn tại của hai chiều không gian và thời gian đều biến động. Tư tưỏng biện chứng của phái Jaina thể hiện ở học thuyết không tuyệt đối (tức là tuơng đối). Nó cho rằng tồn tại đầu tiên là bất biến vô thuỷ, vô chung, biến chuyển là không ngừng. Theo tư tưởng biện chứng của phái Jaina thì tồn tại vừa bất biến, vừa biến chuyển. Cái vĩnh hằng là bản thể, còn cái không vĩnh hằng, luôn luôn biến đổi, là các dạng của bản thể. Tức là thế giới bao quanh con người vừa vận động lại vừa đứng im, đó là một mâu thuẫn mà con người cần phải chấp nhận. Phép biện chứng của triết học cổ đại ấn Độ còn nhiều hạn chế như coi linh hồn con người là bất tử (đạo Phật) hay là có quan niệm về biện chứng chưa triệt để (thể hiện ở những phán đoán về thế giới hiện tượng của phái Jaina). 1.2)Phép biện chứng Trung Hoa cổ đại Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn có lịch sử lâu đời.Những biểu hiện tôn giáo, triết học cũng như tư tưởng biện chứng đã xuất hiện rất sớm ở xã hội Trung Hoa cổ đại. Và đặc biệt là từ thời kì Xuân thu-chiến quốc trở đi . Xã hội Trung Hoa thời bấy giờ là xã hội rất lộn xộn, sự phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất đã làm xuất hiện nhiều thế lực chính trị, làm cho hệ thống thiết chế xã hội-xã hội chủ nô dần tan rã và đang dần hình thành xã hội phong kiến với những quan hệ hết sức phức tạp. Do vậy đã làm xuất hiện hàng loạt các tư tưởng triết học khác nhau mà hầu hết đều có ý hướng muốn giải quyết vấn đề thực tiễn chính tri-xã hội, trong đó tiêu biểu là những hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng tới mãi về sau này trong lịch sử phong kiến Trung Quốc như đạo Nho, đạo Lão Phép biện chứng biến dịch là một nét đặc sắc của triết học Trung Hoa. Tiêu biểu là những tư tưởng biến dịch của Nho gia( Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử ). Triết lý âm dương đi sâu vào sự suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn hữu. Theo thuyết âm dương thì mọi sự biến hoá vô cùng, vô tận, thường xuyên của vạn hữu ( kể cả hiện tượng tự nhiên, xã hội và cả ý thức) đều có thể quy về nguyên nhân của sự tương tác giữa hai thế lực đối lập vốn có của “âm” và “dương”. Các nhà biện chứng thuộc phái này cho rằng trời đất vạn vật luôn luôn biến đổi không ngừng và có tính quy luật (tính thống nhất của các mặt đối lập và sự biến đổi từ mặt đối lập này sang mặt đối lập khác). Nguyên nhân của mọi biến hoá là do sự giao cảm của hai mặt đối lập như âm dương, nước và lửa, đất và trời… Chính trị-xã hội cũng theo đó mà biến đổi theo quy luật tự nhiên đó. Tuy nhiên hạn chế của phép biện chứng này là ở chỗ coi sự biến hoá chỉ có tính chất tuần hoàn theo chu kỳ khép kín, không có sự phát triển, không có sự xuất hiện cái mới. Đạo Lão ( Lão Tử, Dương Chu, Trang Chu ) với tư tưởng coi đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của vũ trụ, hiện tượng đã thể hiện những tư tưởng biện chứng. Tư tưởng đó là mọi hiện hữu đều biến dịch. Sự biến dịch này theo hai nguyên tắc cơ bản: quân bình và phản phục. ”Cái gì cũ sẽ mới”,”cái gì khuyết ắt tròn đầy”...Tư tưởng phản phục nói lên nguyên lý vận hành giản đơn mà không có phát triển của hiện hữu. Hay là tư tưởng các mặt đối lập trong một thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của nhau, trong cái này có cái kia: “Đẹp tức có xấu, dài ngắn tựa vào nhau. Cao thấp liên hệ với nhau,...” . Điều hạn chế của tư tưởng này là ở chỗ do các nhà biện chứng nhấn mạnh nguyên tắc quân bình và phản phục trong biến dịch, cho nên họ không đề cao tư tưởng đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn mà nhấn mạnh điều hoà của các mặt đối lập. Hạn chế chung của tư tưởng biện chứng Trung Hoa cổ đại đó là không chú ý đến quá trình phát triển, không coi trọng cái mới. Qua một số các học thuyết triết học ấn Độ và Trung Hoa cổ đại, ta có thể thấy nguyên tắc về sự thăng bằng của sự biến động đã được đặc biệt quan tâm. Trong khi đó những nguyên lý và nguyên tắc về sự biến động phát triển về cơ bản chưa được đề cập đến. 1.3)Triết học Hy Lạp cổ đại: Quá trình tan rã của chế độ bộ lạc nguyên thuỷ, quá trình hình thành xã hội có giai cấp kéo dài tới vài thế kỷ (từ thế kỷ XI-VIII tr.CN) đã dẫn tới vai trò sở hữu tư nhân trước hết là sở hữu của giới quý tộc nông nghiệp và quý tộc dòng dõi ngày càng phát triển. Vì vậy, cho nên mâu thuẫn giữa các giai cấp ngày càng gay gắt như đấu tranh giai cấp giữa chủ nô và nô lệ, giữa phe dân chủ-chủ nô tiến bộ và phe quý tộc-chủ nô bảo thủ. Thêm vào đó, là sự phát triển của nghề thủ công, nông nghiệp, thương mại (do có thuận lợi về đường biển) đã làm nền tảng cho sự phát triển tri thức về thiên văn, toán học, vật lý học...Những khoa học này ra đời đòi hỏi sự khái quát cao của triết học, thế nhưng ở thời kỳ này tri thức triết học và tri thức về khoa học cụ thể thường hoà lẫn vào nhau. Ngoài ra thời kỳ này cũng diễn ra sự giao lưu giữa Hi Lạp với các nước A Rập phương Đông nên triết học Hy Lạp cổ đại nói chung và các tư tưởng biện chứng nói riêng cũng có ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của nền triết học phương Đông Một trong những trang sáng chói nhất trong sự phát triển của tư tưởng biện chứng thế giới, với giai đoạn đầu của nó là phép biện chứng Hy Lạp cổ đại. Những quan niệm biện chứng đã chiếm một phần đáng kể trong thế giới quan của người Hy Lạp cổ đại. Về thực chất, quan niệm đó đã xuất hiện cùng với triết học. V.I.Lênin coi phép biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại là khởi nguyên lịch sử lịch sử phép biện chứng. Hay nói cách khác phép biện chứng mácxít, khoa học, hiện đại bắt nguồn từ biện chứng Hy Lạp thời cổ đại với tư cách là khởi nguyên của mình. Tư tưởng biện chứng nhận thức của thời kỳ này thông qua suy luận của Hêraclit là sự tương tác giữa cảm tính và tư duy, thông qua phỏng đoán sáng suốt của Đêmôcrit về tính chế định lẫn nhau giữa “nhận thức mờ ám” và “nhận thức trong sáng”. Trước tiên là Hêraclit- nhà duy vật có nhiều yếu tố biện chứng- người giữ vị trí trung tâm trong lịch sử phép biện chứng cổ đại. Lê-nin coi ông là “một trong những người sáng lập ra phép biện chứng”. Điều cơ bản và đặc thù trong học thuyết của Hêraclit là tư tưởng về sự thống nhất biện chứng của sự hài hoà và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ông có những phỏng đoán thiên tài về các mặt đối lập và về quy luật mâu thuẫn. Theo Hêraclit sự thống nhất có nghĩa là sự đồng nhất của cái đa dạng, là sự hài hoà giữa các mặt đối lập.Ông phê phán những nhà triết học không nhận thấy mọi sự đối lập tạo ra một chỉnh thể thống nhất, rằng các mặt đối lập không thể có được nếu thiếu nhau, chẳng hạn ta không thể quý sức khỏe nếu không biết mặt đối lập của nó là bệnh tật. Việc nhận thức thuộc tính, bản chất sự vật phải thông qua các mặt đối lập của nó. Các mặt đối lập luôn chuyển hoá lẫn nhau và sự chuyển hoá đó phải thông qua đấu tranh. (phù hợp với mối liên hệ phổ biến). Về nhận thức luận, ông đứng trên lập trường duy vật và biện chứng. Ông cho rằng vũ trụ tồn tại theo những quy luật nội tại của nó. Nhận thức là nhận thức cái tất yếu, cái thống nhất bao gồm các mặt đối lập là nhận thức cái quy luật nội tại của vũ trụ. Con đường nhận thức bắt đầu từ cảm tính sau đó qua lý tính. Theo ông, chân lý mang tính cụ thể và tuơng đối. Ông cho rằng thế giới vật chất bắt nguồn từ bản thân nó. Thế giới vật chất vận động không ngừng, “mọi vật đều trôi đi, chảy đi không có cái gì đứng nguyên tại chỗ”. Cũng như ta “không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông” Với sự phát hiện ra các mối liên hệ phổ biến trong vũ trụ, phép biện chứng khách quan của người Hy Lạp cổ đại đã sớm đạt tới đỉnh cao của mình trong học thuyết của Hêraclit về sự đấu tranh phổ biến và về sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Tuy nhiên hạn chế của phép biện chứng Hêraclit là nặng về phỏng đoán thế giới mà chưa giải thích được nguyên nhân sâu xa của nó. Đêmôcrít là nhà duy vật biện chứng lớn nhất thời cổ đại Hi Lạp. Nếu học thuyết của Hêraclit về cơ bản là sự lý giải biện chứng về vũ trụ, thì phép biện chứng của Đêmôcrit đã nghiên cứu một lĩnh vực mới mẻ, đó là lý luận về nhận thức. Đêmôcrit đã chỉ ra được mối liên hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, giữa cảm giác và tư duy lý luận, nhận thức đem lại do cơ quan cảm giác là loại nhận thức “mờ tối” chưa đem lại chân lý, còn nhận thức lý lính là nhận thức thông qua phán đoán và cho phép đạt tới chân lý vì nó chỉ ra được khởi nguyên của thế giới là nguyên tử, tính đa dạng của thế giới chính là do sự sắp xếp của các nguyên tử. Trong lĩnh vực lý luận Đêmôcrit thừa nhận tính nhân quả và tính quy luật chống lại “mục đích luận” của duy tâm, đặc biệt ông đã đưa yếu tố biện chứng vào lý luận nhận thức, phát triển tư duy trên cơ sở mặt đối lập của nó- cảm giác. Tuy nhiên ông đã phủ nhận tính ngẫu nhiên, đó là sai lầm rất lớn của Đêmôcrít. Quan điểm về vũ trụ vĩnh cửu vô tận, cấu thành từ vô số thế giới biến đổi vĩnh hằng, có sự sống và không có sự sống là một trong các thành tựu tuyệt vời của lịch sử phép biện chứng cổ đại về biện chứng khách quan của thế giới vật chất. Tuy nhiên những lý luận biện chứng về sự ra đời của thế giới vật chất phép biện chứng của ông còn nặng về phỏng đoán. Tuy phép biện chứng Hy Lạp cổ đại đóng vai trò là khởi thuỷ trong sự phát triển của lịch sử phép biện chứng nhưng nó còn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy. Đối với những nhà triết học thời đại này thì mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về mặt chi tiết vì mối liên hệ đó chỉ là kết quả của sự quan sát trực tiếp. Do vậy, phép biện chứng Hy Lạp cổ đại mới chỉ phát triển với tư cách là một quan niệm chung về thế giới. Các nhà triết học ở thời kỳ này còn nặng về tính biểu trưng và mô tả thế giới như, cho rằng bản nguyên vật chất thế giới là lửa-Hêraclit,không khí-Anaximăngđrơ, nước-Talét,v.v.. Các nguyên lý được xây dựng trên cơ sở tập hợp kinh nghiệm kết hợp với việc quan sát trực quan và những suy luận mở rộng chưa có căn cứ khoa học xác đáng do đó còn nặng là phỏng đoán (Đêmôcrit và Hêraclit với sự phỏng đoán về sự ra đời của thế giới vật chất). Hơn nữa các luận điểm của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại chưa có tính hệ thống rõ rệt còn mang nặng về tầm triết lý hơn là tầm lý luận triết học. 2)Phép biện chứng trong triết học trung đại: Tuy triết học thời kỳ Phục hưng và triết học Tây Âu thế kỷ XVII– XVIII được đặc trưng bởi sự thống trị của phương pháp siêu hình nhưng các học thuyết triết học thời kỳ cũng chưa đựng những quan điểm biện chứng hết sức sâu sắc, với các đại biểu như: Đềcáctơ, Xpinôda hay là Brunô... Sự tiêu vong của chế độ phong kiến đồng thời với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, những thành tựu to lớn đầu tiên của giới khoa học tự nhiên là điều kiện tiền để của các tư tưởng biện chứng thời kì này mà tiêu biểu là của Brunô Brunô cũng có những đóng góp cho phép biện chứng, ông đưa ra tư tưởng biện chứng về sự phù hợp của các mặt đối lập trong sự thống nhất vô tận của vũ trụ. Rằng trong tự nhiên mọi cái đều liên hệ, vận động, thay đổi. Cái này mất đi thì cái khác ra đời, không chỉ là sự vận động mà còn là sự chuyển hoá các mặt đối lập ví dụ như tình yêu chuyển thành hận thù,chất độc cũng chữa khỏi bệnh. Về nhận thức luận,để chống lại những giáo lý hoang đường ông đưa ra nguyên tắc nghi ngờ, ông loại bỏ “chân lý của niềm tin” và chỉ thừa nhận chân lý khách quan đã được khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm, với ông đối tượng của nhận thức là giới tự nhiên, nhận thức cái muôn màu, muôn vẻ của thế giới rồi đi đến cái cơ sở, cái nguyên thể duy nhất, vĩnh viễn và vô cùng, vô tận. Đó chính là tính thống nhất biện chứng của thế giới thể hiện trong triết học của Brunô. Trên con đường kéo dài hơn 2000 năm của lịch sử triết học cổ đại, phương pháp tư duy siêu hình là giai đoạn chuẩn bị của các tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ và thắng lợi sau này của lịch sử phép biện chứng. Thậm chí sự phát triển của các học thuyết triết học phi biện chứng dưới hình thức khác nhau cũng gắn liền với việc đặt ra các vấn đề tạo thành nội dung của phép biện chứng. Vì vậy, thực chất của vấn đề là ở chỗ, dù cho có thái độ tiêu cực đối với phép biện chứng cổ đại, song về mặt lịch sử, các nhà triết học thời kỳ trung đại đã chuẩn bị cho phép biện chứng của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức ra đời. Như vậy, lịch sử phép biện chứng không bị gián đoạn ngay cả ở thời đại thống trị của phương pháp tư duy siêu hình 3)Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức Nửa cuối thế kỷ XVIII, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghiệp ở hàng loạt các nước Tây Âu đã phát triển ở trình độ cao. Cách mạng công nghiệp Anh, cách mạng tư sản Pháp đã làm rung chuyển châu Âu, và đưa châu Âu vào giai đoạn mới của nền văn minh công nghiệp. Trong khi đó, Đức vẫn là một nước phong kiến, lạc hậu về kinh tế chính trị. Thêm vào đó là điều kiện địa lý không thuận lợi, tài nguyên nghèo nàn, chiến tranh liên miên, đã đưa nước Đức đến thảm cảnh: sản xuất chậm phát triển, lòng người hoang mang, xã hội bế tắc. Do đó mâu thuẫn giữa nhân dân và giai cấp tư sản tiến bộ với chế độ phong kiến đã lỗi thời ngày càng nâng cao. Nhưng địa vị thấp kém về chính trị và kinh tế của giai cấp tư sản Đức, sự sợ hãi trước cơn bão của cuộc cách mạng Pháp, sự nhượng bộ của giai cấp tư sản quá yếu trước một thế lực phong kiến đã già cỗi,lỗi thời đã được phản ánh vào hệ tư tưởng xã hội dẫn đến tư tưởng dao động, nhị nguyên và dẫn đến duy tâm thần bí trong triết học của các nhà tư tưởng thời bấy giờ như Sêlinh, Phictơ, CanTơ mà tiêu biểu là học thuyết của Hêghen. Tóm lại 3 tiền đề ra đời của lịch sử phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức là: Cuộc khủng hoảng vô cùng sâu sắc của xã hội phong kiến Tây Âu và sự xuất hiện rất mạnh mẽ của xã hội tư bản chủ nghĩa.Sự tiến bộ của nhận thức khoa học làm cho các quan niệm siêu hình bị loại bỏ, các quan niệm khách quan về giới tự nhiên ngày càng được phát triển.Và sự phát triển của tri thức triết học ngày càng đòi hỏi phải có phép biện chứng với tư cách là phương pháp để không những lý giải các vấn đề cấp bách của triết học mà còn nâng nó lên một trình độ khoa học thực sự. Thành tựu quan trọng nhất của triết học cổ điển Đức là xây dựng được phép biện chứng với tư cách là lý luận phát triển nhận thức luận và lôgic. Nếu phép biện chứng trong triết học cổ đại chủ yếu được nghiên cứu trên cơ sở kinh nghiệm hàng ngày, các phép biện chứng trong thời đại tiếp theo về căn bản đã bị tư duy siêu hình thay thế và chỉ được phát triển không đều trong một số học thuyết triết học riêng biệt chưa có tính hệ thống, thì phương pháp tư duy biện chứng trong chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức đã được xây dựng thành lý luận một cách có hệ thống. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức đã áp dụng một cách có ý thức phép biện chứng vào các lĩnh vực khác nhau hình thành nên quy luật chung nhất của nhận thức. Học thuyết của Hêghen là thành tựu cao nhất về phép biện chứng của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX. Học thuyết này có đặc điểm khác biệt là nội dung rộng lớn và sâu sắc đặc biệt,sự đa dạng của các vấn đề do nó đặt ra rất quan trọng Lần đầu tiên trong lịch sử biện chứng,Hêghen đã phát hiện ra các quy luật biện chứng cơ bản mà ở Phíctơ và Senling chỉ mới thể hiện dưới dạng không rõ ràng hay chưa được đề cập tới. Sự hợp nhất một cách hữu cơ yếu tố bản thể luận và yếu tố nhận thức trong phép biện chứng Hêghen đã được tiến hành một cách đầy đủ hơn so với ở Phíctơ và Senling. Chẳng hạn các phạm trù ở hêghen trở thành các hình thức phổ biến không những trong nhận thức mà còn cuả cả bản thân thế giới khách quan. Bên cạnh các yếu tố tích cực trong việc thống nhất giữa các quy luật của tồn tại và nhận thức về nó, còn có các yếu tố tiêu cực đó là đưa nhưng quy luật của tồn tại một cách duy tâm vào tồn tại tư duy. Lần đầu tiên trong lịch sử biện chứng Hêghen đã tạo ra lý luận phát triển mâu thuẫn,và sau đó giải quyết mâu thuẫn thông qua tổng hợp.Tính chất thần bí mà phép biện chứng ấy tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức vận động chung của phép biện chứng ấy. Phép biện chứng của ông là một hệ thống phạm trù được nghiên cứu toàn diện, các quy luật biện chứng được rút ra từ việc phân tích sự tác động qua lại giữa các phạm trù. Đồng thời phương pháp biện chứng của ông được xây dựng với tư cách là phương pháp là hợp nhất của phép biện chứng và lôgic học thành một quan niệm thống nhất về “lôgic học biện chứng”. Hêghen đã xây dựng học thuyết biện chứng của mình đồng thời với cả phép quy nạp và phép diễn dịch, rút ra một phạm trù của phép biện chứng từ phạm trù khác.Ông đã rút ra được các phạm trù bằng con đường khái quát các dữ liệu kinh nghiệm, mặc dù không nhận thức được điều đó. Thành tựu vĩ đại của Hêghen về lý luận biện chứng là “khoa học về lôgic”, nó có liên quan mật thiết đến quan điểm duy tâm và được ông nghiên cứu hết sức tỉ mỉ. Theo Hêghen phải xây dựng các phạm trù của lôgic học sao cho phản ánh mối liên hệ phổ biến và tất yếu của tồn tại và cả tư duy trong sự vận động và chuyển hoá lẫn nhau. Điều đó thể hiện qua 3 học thuyết : +Học thuyết về sự tồn tại: Tồn tại tìm thấy hư vô - mặt đối lập của mình. Tồn tại-hư vô đi vào sự thống nhất, đồng nhất tạo nên sinh thành. Học thuyết này được thể hiện qua quy luật “lương-chất” + Học thuyết về bản chất: Hêghen đã đóng góp cho phép biện chứng hàng loạt những cặp phạm trù sâu sắc về bản chất-hiện tượng, thống nhất-đối lập, mâu thuẫn, khả năng-hiện thực, tất nhiên- ngẫu nhiên, nguyên nhân – kết quả. + Học thuyết về khái niệm: nhấn mạnh việc nghiên cứu cái đặc thù của sự vật, hiện tượng rồi từ đó rút ra khái niệm Biện chứng về lịch sử nhân loại là trung tâm chú ý của Hêghen. Đóng góp lớn của ông là việc xây dựng học thuyết về biện chứng của tha hóa, với tư cách mâu thuẫn xã hội đặc biệt và cơ bản. Biện chứng đặc thù này của ông gắn liền với lịch sử biến đổi của nhận thức và với biện chứng của cái cũ, cái mới trong lịch sử nhận thức và trong đời sống con người. Tuy nhiên, học thuyết của Hêghen còn nhiều hạn chế như : hệ thống ấy được xây dựng trên lập trường duy tâm coi biện chứng tư tưởng là cơ sở của biện chứng khách quan, phủ nhận tính chất khách quan của nguyên nhân bên trong, cái vốn có của sự phát triển xã hội. Ông đã thần thánh hoá tư duy, đối lập nó với hiện thực vật chất. Do đó phép biện chứng của Hêghen còn thiếu tính khoa học. C.Mác đã phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen một cách sâu sắc và nghiêm khắc vì đã coi thường nội dung thực tế của các quá trình tự nhiên và xã hội và do đó bóp méo, giải thích một cách thần bí tính biện chứng của chúng, miêu tả sự biến đổi và phát triển như là quá trình tinh thần thuần tuý.Nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng tính không triệt để trong triết học của Hêghen bởi lẽ phương pháp tư duy siêu hình đã thống trị trong các khoa học của thời đại lịch sử này. Trong khi vạch ra tính chất không có căn cứ của việc giải thích duy tâm của sự phát triển Mác cũng đã nhấn mạnh ý nghĩa lớn lao của phép biện chứng Hêghen : “ở Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu, chỉ cần dựng nó lại thì sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó đằng sau lớp vỏ thần bí”. 4-Phép biện chứng khoa học(Mác-Ăngghen-Lênin) Vào những năm 40 của thế kỷ XIX chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được Mác và Ăngghen sáng lập nên và nó được Lênin phát triển hơn nữa vào đầu thế kỷ XX đã đưa phép biện chứng lên đỉnh cao của nó. Đó là phép biện chứng khoa học. Phép biện chứng mà ở đó có sự sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Nhờ đó, nó đã khắc phục được những hạn chế trước đây và thực sự trở thành môn khoa học. Lịch sử phát triển của nó được chia làm hai giai đoạn : a)Giai đoạn C.Mác - Ănghen : Triết học Mác ra đời và kèm theo nó là phép biện chứng duy vật khoa học là cuộc cách mạng trong triết học và khoa học xã hội. Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử dựa trên ba tiền đề sau : +Điều kiện về kinh tế-xã hội và chính trị: triết học Mác xuất hiện vào thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở một số nước châu Âu và Bắc Mỹ. Cùng với sự phát triển kinh tế tư bản đó một mặt tạo ra những thành tựu to lớn về kinh tế chính trị tiêu biểu đó là tạo ra nền sản xuất tư bản chủ nghĩa (nền sản xuất dân chủ tư sản), một mặt nó làm cho mức độ bóc lột cững tăng nhanh.Nông dân,công nhân lâm vào cảnh bần cùng,khốn khổ.Điều đó làm cho các tầng lớp lao động ngày càng bất binh với xã hội tư bản. Chính vì lý do đó mà đã nổ ra các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân như : phong trào hiến chương Anh, khởi nghĩa của thợ dệt Lyon ...Từ đó đặt ra nhu cầu phải xây dựng một thế giới quan mới cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống áp bức. +Tiền đề lý luận : Triết học Mác kế thừa,cải tạo và phát triển các tư tưởng triết học tiến bộ của nhân loại suốt hơn hai nghìn năm lịch sử mà đặc biệt là triết học cổ điển Đức. Phép biện chứng duy tâm của Hêghen,tư tưởng biện chứng duy vật của Phoiơbắc đã góp phần rất lớn để Mác xây dựng phép biện chứng duy vật. +Tiền đề về khoa học tự nhiên: Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời đã mở rộng sản xuất, tạo điều kiện cho khoa học phát triển. Tiêu biểu cho sự phát triển khoa học thời kỳ này là ba phát minh khoa học lớn mà Ăngghen đã đánh giá chúng như một cuộc cách mạng triệt để về thế giới quan trong khoa học về tự nhiên: thứ nhất là định luật về bảo toàn và chuyển hoá năng lượng,thứ hai là học thuyết về tế bào,thứ ba là học thuyết tiến hoá các giống ,các loài của Đacuyn. Những thành tựu về khoa học tự nhiên đòi hỏi phải có sự khái quát một cách triết học mà công việc đó không thể thực hiện với chủ nghĩa duy tâm và phương pháp siêu hình. Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác là bước lớn trong lịch sử triết học mà nội dung quan trọng nhất của nó là việc xây dựng thành công chủ nghĩa duy vật biện chứng khác về căn bản tất cả các nền triết học trước đó. Mác và Ănghen đã liên kết một cách hữu cơ, không tách rời chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, xây dựng thế giới quan khoa học triết học duy vật biện chứng với tư cách một học thuyết về những quy luật chung nhất của giới tự nhiên, xã hội và của cả nhận thức. Việc xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng hoàn toàn không phải là sự kết hợp giản đơn chủ nghĩa duy vật trước Mác với phép biện chứng duy tâm, chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng không thể liên kết được với quan điểm biện chứng về tự nhiên, vì nó phủ nhận bất kỳ phép biện chứng nào. Từ đó ta có thể thấy được thành tựu vĩ đại của Mác và Ăngghen trong việc sáng lập ra chủ nghĩa Mác là ở chỗ đã cải tạo toàn bộ di sản triết học một cách biện chứng trên lập trường lý luận, chính trị, khoa học mới về nguyên tắc, đã phủ nhận nó một cách biện chứng trong khi vẫn duy trì và phát triển sáng tạo những thành tựu của các tư tưởng triết học tiền bối Phép biện chứng mácxít còn được xây dựng trên những cơ sở khoa học tự nhiên hiện đại. Ănghen đã nói rằng bản thân phép biện chứng là khoa học về sự phát triển lịch sử tư duy của con người. Trong việc phát triển của phép biện chứng duy vật Ăngghen đã không coi nó như là một sự chồng chất hỗn loạn các quy luật và các phạm trù, mà như là một hệ thống khoa học có cấu trúc xác định, có sự kết hợp các bộ phận và các yếu tố hợp thành khác nhau. Sau khi đã phê phán nghiêm khắc và vứt bỏ quan niệm duy tâm và siêu hình, Ănghen đã phác hoạ một hệ thống lôgíc thật sự khoa học dựa trên các nguyên lý duy vật biện chứng. Ănghen đã đưa ra khái niệm về các quy luật cơ bản của phép biện chứng và xác định đấy là những quy luật nào, chỉ rõ ý nghĩa quyết định của chúng trong hệ thống các quy luật có tính bộ phận hơn. Từ đó, có thể thấy phép biện chứng duy vật đã phát sinh và phát triển trong mối liên hệ khăng khít với những nhu cầu chín muồi về mặt lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Phép biện chứng duy vật-phương pháp của sự nhận thức và của hoạt động cải tạo cách mạng phù hợp với bản chất sự vật-được Mác và Ănghen xây dựng đã đáp ứng cho nhu cầu này. Nó xuất hiện tất yếu và hợp quy luật một cách khách quan trong sự phát triển lâu dài của tư tưởng triết học. b)Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác Nền tảng cho những tư tưởng triết học của Lênin là thực tiễn sinh động của các hoạt động của Đảng cộng sản Nga và cách mạng vô sản. Đồng thời chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ 19 đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản đã trở nên gay gắt ,trung tâm của cách mạng thế giới đã chuyển từ Đức sang Nga. Các thế lực bảo thủ và phản động Nga và quốc tế đã nhận thấy được vai trò lớn lao của chủ nghĩa Mác đối với cách mạng Nga, nên chúng tấn công điên cuồng vào chủ nghĩa Mác từ mọi phía .Chủ nghĩa”kinh nghiệm phê phán”,”chủ nghĩa xét lại”, bọn theo “chủ nghĩa Makhơ” ở Nga, bọn cơ hội chủ nghĩa của Quốc tế II là đại diện về mặt tư tưởng của bọn phản cách mạng. Mặt khác cuối thể kỷ 19 đầu thế kỷ 20 khoa học tự nhiên, đặc biệt là vật lý học đã có những bước nhảy vọt đòi hỏi những khái quát về triết học .Trước tình hình như thế, Lênin – vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng vô sản Nga phải bảo vệ chủ nghĩa Mác mà nhất là triết học Mác chống lại tư tưởng phản cách mạng, đưa phong trào cách mạng Nga và phong trào vô sản thế giới đến thắng lợi. Giai đoạn mới trong lịch sử chủ nghĩa Mác xứng đáng được mang tên “V.I.Lênin-người kế tục vĩ đại sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen” Lênin luôn đấu tranh để bảo vệ triết học ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0049.doc
Tài liệu liên quan