TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN LỊCH SỬ
---------------
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
LỊCH SỬ GIÁO DỤC AN GIANG
(1975 – 2005)
…F0G…
Chủ nhiệm đề tài:
TIẾN SĨ NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG
LONG XUYÊN – THÁNG 12 NĂM 2008
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN LỊCH SỬ
---------------
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
LỊCH SỬ GIÁO DỤC AN GIANG
(1975 – 2005)
Chủ nhiệm đề tài: TIẾN SĨ NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG
Cán bộ phối hợp chính
138 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1723 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Lịch sử giáo dục An Giang (1975 - 2005), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
:
GS – TS. PHAN NGỌC LIÊN (BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO)
TS. BÙI THỊ THU HÀ (HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH)
LONG XUYÊN – THÁNG 12 NĂM 2008
PHẦN TÓM TẮT
An Giang là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, giáp với Campuchia, là
tỉnh vùng sâu, vùng xa, đại bộ phận nhân dân sống chung với lũ cũng là địa bàn có mặt
bằng dân trí, giáo dục được xếp vào hạng thấp so với cả nước. Từ sau ngày miền Nam
hoàn toàn giải phóng đến nay, về lĩnh vực giáo dục, nâng cao dân trí An Giang đã có
những chuyển động mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu, đồng thời cũng bộc lộ những
hạn chế cần được khắc phục, giải quyết. Chính vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử giáo dục
An Giang trong hơn ba mươi năm từ năm 1975 đến năm 2005 nhằm làm rõ các chặng
đường phát triển của giáo dục An Giang, để nhận thức đầy đủ hơn vai trò động lực của
giáo dục, rút ra những bài học cần thiết, góp phần phát triển giáo dục An Giang trong
những năm tới…Đây cũng là một mặt của việc “xã hội hóa” giáo dục mà những người
nghiên cứu lịch sử có thể đóng góp theo chức năng, nhiệm vụ của ngành khoa học lịch
sử.
Nội dung chính của đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương I: Giáo dục An Giang hơn mười năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng (1975 - 1986): Chương này giới thiệu vài nét về lịch sử hình thành An giang, về
các điều kiện thuận lợi và khó khăn của tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến
giáo dục. Giáo dục An Giang trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng cũng được đề
cập đến, bởi vì giáo dục An Giang phát triển trên cơ sở kế thừa các nền giáo dục trước
đó: Lý, Trần, Lê, Nguyễn, thời Pháp thuộc, thời Mỹ- ngụy. Sau ngày hoàn toàn giải
phóng (6/5/1975), An Giang tiến hành xây dựng nền giáo dục cách mạng, xóa bỏ chế độ
giáo dục thực dân mới của Mỹ- ngụy nhằm đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn 1976 – 1986 nhân dân An Giang tiếp tục xây dựng nền giáo dục cách
mạng đạt được những thành tựu bước đầu, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng những yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn đó.
Chương II: Giáo dục An Giang trong mười năm đầu của công cuộc đổi mới
(1986 -1996): Chương này giới thiệu những quan điểm chủ trương của Đảng Cộng sản
Việt Nam về đổi mới giáo dục, bối cảnh của công cuộc đổi mới giáo dục, chứng minh
sự cần thiết phải đổi mới giáo dục nếu không muốn bị tụt hậu trong cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật đang diễn ra. Đảng bộ và chính quyền An Giang đề ra những giải
pháp để hiện thực hóa các đường lối chủ trương đó các mặt giáo dục: xóa nạn mù chữ,
giáo dục mầm non, tiểu học, trung học, nghề nghiệp, xây dựng đội ngũ giáo viên, đầu tư
kinh phí,xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và sự phối hợp gia đình – nhà trường – xã hội
trong công tác giáo dục.
Chương III: Giáo dục An Giang trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa
(1996 – 2005): Chương này giới thiệu những quan điểm chủ trương giáo dục của Đảng
trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, những giải pháp thực hiện của Đảng
bộ và chính quyền An Giang, việc thực hiện quan điểm chủ trương của Đảng thể hiện
trên các mặt giáo dục. Phân tích những nguyên nhân thành công và những yếu kém,
kiến nghị một số giải pháp và kết luận.
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ................................................................................................................ 1
Chương I: GIÁO DỤC AN GIANG MƯỜI NĂM
SAU NGÀY HOÀN TOÀN GIẢI PHÓNG (1975 – 1986 )
1. Vài nét về An Giang ..........................................................................................................4
2. Giáo dục An Giang trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975).....................7
3. Giáo dục An Giang từ năm 1975 đến năm 1986...........................................................12
3.1. Giáo dục An Giang trong năm 1975 ........................................................................12
3.2. Giáo dục giai đoạn 1976 – 1981 ..............................................................................16
3.3. Giáo dục An Giang giai đoạn 1981 – 1986..............................................................22
Chương II: GIÁO DỤC AN GIANG TRONG 10 NĂM ĐẦU
CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1986-1996)
1.Quan điểm, chủ trương đổi mới về giáo dục của Đảng ................................................32
1.1. Bối cảnh của công cuộc đổi mới giáo dục ..............................................................32
1.2. Những quan điểm chủ trương của Đảng về đổi mới giáo dục ................................33
1.3. Trong cuộc cách mạng công nghệ đang diễn ra
không đổi mới giáo dục là tụt hậu.................................................................................37
1.4. Những giải pháp đổi mới giáo dục của
Đảng bộ và chính quyền An Giang ...............................................................................39
2.Việc thực hiện quan điểm, chủ trương đổi mới thể hiện trên các mặt giáo dục .......43
2.1 Xóa nạn mù chữ, giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học..........................44
2.2 Giáo dục trung học: cơ sở và phổ thông................................................................53
2.3 Giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên, đào tạo đại học cao đẳng ...........57
2.4 Xây dựng đội ngũ giáo viên, đầu tư kinh phí,
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật .................................................................................64
2.5 Sự phối hợp của gia đình – nhà trường – xã hội trong
công tác giáo dục ..........................................................................................................74
Chương III: GIÁO DỤC AN GIANG TRONG THỜI KỲ CÔNG
NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA (1996 -2005)
1.Quan điểm, chủ trương giáo dục của Đảng trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu
thế kỷ XXI và những giải pháp của Đảng bộ và chính quyền An Giang……… 77
2.Việc thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng thể hiện trên
các mặt giáo dục ..................................................................................................................89
2.1.Giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, xóa mù chữ,
phổ cập giáo dục tiểu học...........................................................................................89
2.2.Giáo dục trung học: cơ sở và phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, các Trung
tâm Giáo dục thường xuyên, đào tạo đại học, cao đẳng, trường Đại học An
Giang, thành lập các Trung tâm học tập cộng đồng, giáo dục vùng dân tộc ít
người, xây dựng đội ngũ giáo viên.............................................................................94
2.3.Công tác tài chính, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,
cải tiến công tác quản lý ...........................................................................................100
2.4.Sự phối hợp gia đình – nhà trường – xã hội trong công tác giáo dục .................103
3.Tổng quát về sự nghiệp giáo dục ở An Giang
3.1 Phân tích những nguyên nhân thành công và những yếu kém ........................................108
3.2 Kiến nghị một số giải pháp và kết luận ..........................................................................114
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ PHỤ LỤC
DANH SÁCH CÁC BẢNG THÔNG KÊ Trang
Bảng 1.1: Số lớp, giáo viên, học sinh mẫu giáo 1976 – 1981 ...........................19
Bảng 1.2: Học sinh tốt nghiệp cấp II,III ...........................................................20
Bảng 1.3: Số lượng lớp học và GV ở trường phổ thông 1976 – 1980..............21
Bảng 1.4: Số trường học, lớp học phổ thông từ 1975 đến 1979.......................21
Bảng 1.5: Số học sinh tốt nghiệp THCN và cao đẳng ......................................22
Bảng 1.6: Trường, lớp học phổ thông những năm 1980 – 1983.......................27
Bảng 1.7: Trường, lớp, học sinh, giáo viên phổ thông 1981 – 1985 ................28
Bảng 1.8: Số lớp học, giáo viên, học sinh các năm 1981 – 1985 .....................28
Bảng 1.9: Tình hình phát triển ngành học bổ túc văn hóa. ................................29
Bảng 1.10: Tình hình phát triển giáo dục trung học chuyên nghiệp.................29
Bảng 1.11: Tình hình phát triển giáo dục đại học và cao đẳng ........................30
Bảng 2.1: Kinh phí cho công tác chống mù chữ...............................................44
Bảng 2.2: Số người được xóa mù chữ ..............................................................45
Bảng 2.3: Số nhà trẻ, trường mẫu giáo công lập 1986-1996 ............................47
Bảng 2.4: Kinh phí cho ngành giáo dục mầm non ..........................................48
Bảng 2.5: Số lượng HS, GV, hạnh kiểm, lớp học tiểu học1986 -1996 .............52
Bảng 2.6: Số giáo viên, số lớp, số học sinh trung học cơ sở ...........................53
Bảng 2.7: Số lớp, số học sinh, số giáo viên trung học phổ thông ....................54
Bảng 2.8: Hạnh kiểm, học lực học sinh lớp 12 trường THPT..........................56
Bảng 2.9: Số tiền đầu tư trung học cơ sở..........................................................56
Bảng 2.10: Số tiền đầu tư trung học phổ thông ...............................................56
Bảng 2.11: Số lượng tuyển sinh vào các trường dạy nghề ...............................58
Bảng 2.12: Số học sinh phổ thông học nghề ....................................................59
Bảng 2.13: Số lượng và trình độ giáo viên ngành đào tạo nghề .......................60
Bảng 2.14: Tài chính cho ngành đào tạo nghề .................................................60
Bảng 2.15: Số lượng học sinh thi và đỗ vào các trường đại học ......................63
Bảng 2.16: Số lượng giáo viên được tiêu chuẩn hóa ........................................65
Bảng 2.17: Tỉ lệ giáo viên đạt chuẩn ................................................................66
Bảng 2.18: Ngân sách Nhà nước tỉnh cấp cho giáo dục ...................................67
Bảng 2.19: Các nguồn tài chính....................................................................... 68
Bảng 2.20: Các nguồn tài chính cho các ngành học .........................................68
Bảng 2. 21: Chi đầu tư cơ bản cho ngành giáo dục ..........................................69
Bảng 2.22: Số lượng lớp học, phòng học từ 1985 – 1996 ................................71
Bảng 2.23: Thực trạng phòng thí nghiệm lý, hóa, sinh ....................................72
Bảng 3.1: Số lượng học sinh nhà trẻ, mẫu giáo những năm 1995 – 2000........90
Bảng 3.2: Giáo dục tiểu học những năm 1995 – 2005 .....................................92
Bảng 3.3: Tình hình phát triển giáo dục THCS 1995 – 2005 ...........................94
Bảng 3.4: Tình hình phát triển giáo dục THPT 1995 – 2005 ...........................95
Bảng 3.5: Tình hình kinh phí của ngành giáo dục..........................................100
Bảng 3.6. Số lượng học sinh, sinh viên ngành học.........................................105
Bảng 3.7: Phòng học mới của các năm học 1995 2005.................................105
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG ĐỀ TÀI
Chữ viết tắt: Đọc là
BCH, BGH: Ban chấp hành, ban giám hiệu
BVSKBMTE: Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em
CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CBQLGD: Cán bộ quản lý giáo dục
CSVC, CBGD: Cơ sở vật chất, cán bộ giảng dạy
CBCNV, CĐSP: Cán bộ công nhân viên, cao đẳng sư phạm
DNPT,CĐ: Dạy nghề phổ thông, cao đẳng
ĐTNCSHCM: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
ĐH, CĐ, ĐHSP: Đại học, cao đẳng, đại học sư phạm,
ĐHTC: Đại học tại chức
GDĐH, GDTX,THCN: Giáo dục đại học, giáo dục thường xuyên
THCN: Trung học chuyên nghiệp
GD – ĐT, GDPT, GV: Giáo dục – đào tạo, giáo dục phổ thông, giáo viên
HN, HS, SV, HV: Hướng nghiệp, học sinh, sinh viên, học viên
KTTH, PTN Kỹ thuật tổng hợp, phòng thí nghiệm,
KHKT: Khoa học kỹ thuật
MN, MG, MTTQ: Mầm non, mẫu giáo, Mặt trận Tổ quốc
TWĐCSVN: Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
NQTƯ: Nghị quyết Trung ương
THCS, THPT: Trung học cơ sở, trung học phổ thông
TP, TPHCM: Thành phố, thành phố Hồ Chí Minh
DN, TTDN: Dạy nghề, trung tâm dạy nghề
TT, TX: Thị trấn, thị xã.
TTGDTX: Trung tâm giáo dục thường xuyên
XMC-PCGDTH: Xóa mù chữ - Phổ cập giáo dục tiểu học
UBND: Ủy ban Nhân dân
SL, SP: Số lớp học, số phòng học
MỞ ĐẦU
1. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu: Đề tài khôi phục bức tranh toàn cảnh giáo
dục An Giang từ năm 1975 – 2005 từ nhiều góc độ: quan điểm, chủ trương, quá trình tổ
chức thực hiện công tác giáo dục, các giai đoạn phát triển của sự nghiệp giáo dục. Qua
đó có thể cung cấp những luận cứ khoa học nhằm đóng góp phần rất nhỏ nhoi vào việc
phát triển sự nghiệp giáo dục ở An Giang. Mặt khác việc nghiên cứu lịch sử giáo dục -
một bộ phận của lịch sử xã hội – cũng góp phần làm rõ hơn lịch sử An Giang giai đoạn
1975 – 2005.
Nội dung nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu về lịch sử giáo dục An Giang trong
một khoảng thời gian dài ba mươi năm (1975-2005) . Đi sâu vào việc nghiên cứu giai
đoạn 1986-1996 đó là thời kỳ đổi mới giáo dục, cũng là thời kỳ giáo dục An Giang có
nhiều nét đột phá. Nghiên cứu giai đoạn trước đổi mới (1975-1986) để chứng minh sự
cần thiết phải đổi mới giáo dục nói chung, giáo dục An Giang nói riêng. Nghiên cứu
giai đoạn 1996 – 2005 để thấy được những thành quả của công cuộc đổi mới giáo dục
ở An Giang, tiếp tục phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế yếu kém thúc
đẩy giáo dục An Giang tiếp tục phát triển.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là
lịch sử giáo dục An Giang từ 1975 đến 2005 thể hiện trên các mặt: quan điểm, chủ
trương về giáo dục, những thành quả và hạn chế của sự nghiệp giáo dục tại An Giang
bao gồm giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Tuy nhiên, do điều
kiện tài liệu và những khó khăn trong thực tế, đề tài tập trung nghiên cứu về sự nghiệp
giáo dục trong nhà trường, đồng thời đặt giáo dục nhà trường trong mối liên hệ với giáo
dục gia đình và giáo dục xã hội.
Phạm vi không gian nghiên cứu là tỉnh An Giang với địa giới hành chánh là thời
điểm hiện nay. Phạm vi thời gian là thời kỳ 1975 – 2005 được chia làm 3 giai đoạn:
1975 – 1986: Giáo dục An Giang hơn mười năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng; 1986 – 1996: Giáo dục An Giang trong mười năm đầu của công cuộc đổi mới
;1996 – 2005: Giáo dục An Giang trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Bên cạnh việc viết lại lịch sử giáo dục An Giang, để thực hiện đúng chức năng sử
học, đề tài còn đúc kết những đặc điểm và những bài học kinh nghiệm nhằm đóng góp
phần nhỏ vào sự phát triển của ngành giáo dục An Giang nói riêng vùng đồng bằng
sông Cửu Long và cả nước nói chung, trong điều kiện hiện nay khi cả nước đang tập
trung thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở những nguyên tắc
phương pháp luận sử học theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh chúng tôi kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc và sử dụng các
phương pháp chuyên ngành về nghiên cứu lịch sử để trình bày và giải quyết các vấn đề
khoa học của đề tài.
Phương pháp lịch sử là cốt lõi của sự nghiên cứu và trình bày quá trình lịch sử
giáo dục An Giang giai đoạn 1975 – 2005 theo đúng bản chất phát triển cụ thể của nó.
1
Phương pháp lôgic nghiên cứu quá trình lịch sử giáo dục An Giang dưới hình thức
lý luận trừu tượng và khái quát nhằm vạch ra bản chất, qui luật phát triển của giáo dục
An Giang
Kết hợp phương pháp lịch sử với phương pháp lôgic trong nghiên cứu để xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa tài liệu – sự kiện và khái quát – lý luận đồng thời xử lý mối
quan hệ giữa quan điểm lịch sử và quan điểm giai cấp trong nghiên cứu lịch sử giáo
dục An Giang
Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng song song với phương pháp so
sánh và loại suy để phát hiện và vạch rõ những điểm tương đồng từ các sự việc khác
nhau cũng như những dị biệt từ những sự việc dường như được lặp lại giống nhau.
Phương pháp loại suy giúp đi đến kết luận về quan điểm về nhận thức được rút ra từ
lịch sử giáo dục An Giang
Sử dụng phương pháp đa bộ môn để nhằm tiếp cận giáo dục An giang từ nhiều
phía và nhằm tận dụng nhiều nguồn thông tin để nhận thức lịch sử
Sử dụng phương pháp phân kỳ: Dựa theo các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc để
phân kỳ vì sau mỗi kỳ Đại hội Đảng giáo dục An Giang chuyển sang một bước ngoặt
mới, do vậy, phân kỳ như sau: Giáo dục An Giang hơn mười năm sau ngày hoàn toàn
giải phóng (1975-1986); giáo dục An Giang thời kỳ đổi mới (1986-1996); giáo dục An
Giang trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa (1996 – 2005).
Thu thập, xử lý tài liệu, thống kê, so sánh, đối chiếu để trình bày và giải quyết các
vấn đề khoa học của lịch sử giáo dục An Giang. Các vấn đề đã nêu ra chúng tôi tự giải
quyết bằng các cuộc trao đổi với sinh viên, giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh,
chuyên gia, xem báo, xem ti vi, nghe đài v.v…
Phương pháp xin ý kiến của chuyên gia: sau khi viết xong từng chương chúng tôi
gởi bài đến các chuyên gia: Gs Ts Phan Ngọc Liên (Bộ Giáo dục – Đào tạo), PGs Ts
Ngô Minh Oanh (Trưởng khoa Sử, ĐHSP Tp HCM), PGs Ts Võ Văn Sen (Hiệu trưởng
Trường Đại học KHXH và NV Tp HCM), Ts Lê Hữu Phước (P. Hiệu trưởng Trường
Đại học KHXH và NV Tp HCM), Ts Bùi Thị Thu Hà (Học viện Chính trị Quốc gia
HCM) để được tư vấn, qua đó chúng tôi sửa chữa, thêm bớt để tác phẩm có thể đạt yêu
cầu.
4. Dự kiến những đóng góp kết quả nghiên cứu của đề tài:
Đóng góp về mặt khoa học, phục vụ công tác đào tạo: Đề tài tập hợp, hệ thống
những tài liệu cơ bản và đáng tin cậy để trình bày tương đối toàn diện đầy đủ về các
chặng đường phát triển của sự nghiệp giáo dục đào tạo ở An Giang trong 30 năm cuối
thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI trên cả 3 phương diện: giáo dục nhà trường, giáo dục gia
đình, giáo dục xã hội. Đề tài cung cấp những tài liệu và luận cứ khoa học cần thiết cho
việc nghiên cứu toàn diện về lịch sử địa phương An Giang trong công cuộc xây dựng,
phát triển kinh tế xã hội từ năm 1975 đến nay. Có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc giảng dạy lịch sử địa phương, lịch sử giáo dục, lịch sử Việt Nam hiện đại. Kết
quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo của Đảng bộ và Chính quyền An
Giang trong việc đề ra những quyết sách về giáo dục ở địa phương. Đề tài cũng góp
2
phần tổng kết thực tiễn hoạt động của ngành giáo dục, từ đó tìm ra những giải pháp cụ
thể khả thi nhằm thực hiện hiệu quả hơn mục tiêu phát triển giáo dục An Giang.
Những đóng góp liên quan đến phát triển kinh tế: An Giang nằm trong vùng Đồng
bằng sông Cửu Long, có chùm núi thấp Thất Sơn, cảnh quan kỳ tú, thiên nhiên có
nhiều nét độc đáo, có tiềm năng lớn lao về kinh tế. Việc khai thác An Giang vì thế cũng
cần phải có nguồn nhân lực đông, chất lượng cao, phù hợp. Giáo dục An Giang đóng
góp phần không nhỏ trong việc đào tạo nguồn nhân lực giúp khai thác An Giang hiệu
quả, phát triển bền vững.
Những đóng góp về mặt xã hội: Trên cơ sở của việc nghiên cứu lịch sử giáo dục
An Giang, qua đó rút ra được những bài học kinh nghiệm, các phương pháp giáo dục,
định hướng giáo dục, những mặt mạnh, yếu v.v…góp phần nhỏ vào việc phát triển giáo
dục, kinh tế, xã hội An Giang.
5. Cấu trúc của đề tài: Ngoài các phần Dẫn luận, Kết luận, Tài liệu tham khảo,
Phụ lục, Nội dung chính của đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Giáo dục An Giang hơn mười năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng (1975-1986)
Chương 2: Giáo dục An Giang trong mười năm đầu của công cuộc đổi mới (1986-
1996)
Chương 3: Giáo dục An Giang trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa
(1996 – 2005).
Nội dung chính của đề tài bao gồm 119 trang. Có 87 tài liệu tham khảo tiếng
Việt. Có các trang phụ lục bao gồm các bài viết, nêu các vấn đề liên quan đến thực trạng
và giải pháp phát triển giáo dục An Giang
3
CHƯƠNG I: GIÁO DỤC AN GIANG HƠN MƯỜI NĂM SAU NGÀY MIỀN
NAM HOÀN TOÀN GIẢI PHÓNG (1975 – 1986)
Hơn mười năm sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, giáo dục An Giang
có nhiều thay đổi, biến chuyển lớn song cũng gặp không ít khó khăn trong tình hình
chung của cả nước. Đặc biệt, An Giang là tỉnh có nhiều nét riêng về tự nhiên, kinh tế,
lịch sử, văn hóa, xã hội. Vì thế, sự phát triển giáo dục An Giang cũng có những nét đặc
thù.
1.Vài nét về An Giang
Tỉnh An Giang được thành lập vào năm Minh Mạng thứ 13(1832), số đinh là
25.645 người. Năm Tự Đức thứ 3, tỉnh An Giang có 3 phủ 10 huyện. Phủ Tuy Biên có
các huyện Tây Xuyên, Phong Phú, Hà Dương, Hà Âm; phủ Tân Thành: Đông Xuyên,
Vĩnh An, An Xuyên; phủ Ba Xuyên: Phong Xuyên, Phong Thạnh, Vĩnh Định. Thành
tỉnh An Giang đặt tại huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên (thị xã Châu Đốc ngày nay).
Thời Pháp thuộc An Giang chia làm nhiều tỉnh: Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sa
Đéc, Sóc Trăng.
An Giang ngày nay có diện tích 3.423,5km2, nằm ở phía Tây Nam nước ta, phần
lớn thuộc phủ Tuy Biên xưa, bao gồm tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc cũ. Phía Bắc giáp
Đồng Tháp, đường ranh giới tự nhiên là sông Tiền, dài 113km. Phía Nam giáp tỉnh
Kiên Giang với ranh giới là các sông ngòi kênh rạch nhỏ dài 62km. Phía Đông giáp
Cần Thơ, ranh giới là kênh Long Xuyên – Rạch Giá dài khoảng 45km. Vị trí địa lý này
tạo ra sự thuận lợi và cũng là gánh nặng về giao lưu giáo dục giữa An Giang với các
tỉnh Đồng Tháp, Kiên Giang, thành phố Cần Thơ.
Phía Tây Nam, An Giang giáp Campuchia với đường biên giới dài 95km, qua các
huyện: Tân Châu, An Phú, thị xã Châu Đốc, Tịnh Biên và Tri Tôn. Ở đó, trẻ em, thanh
niên nam nữ đã sớm và thường xuyên tham gia vào việc buôn bán ở vùng biên giới, trở
thành một trong những khó khăn cho việc tổ chức học tập. Khác với nhân dân sống xa
biên giới chuyên sống với nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, cư dân ở đây
buộc phải xông xáo, năng động trong buôn bán, ít quan tâm đến việc học hành. Tình
hình này ảnh hưởng tiêu cực đến công tác giáo dục nói chung, đặc biệt là việc học tập
của thanh thiếu niên.
Do nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long trù phú với hệ thống sông ngòi,
kênh rạch chằng chịt, lại có vùng đồi núi Thất Sơn, An Giang rất thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế nên yêu cầu học tập, việc đưa kiến thức khoa học vào lao động sản xuất,
thích nghi và chinh phục hợp lí điều kiện tự nhiên được đặt ra rất cấp thiết. Hơn nữa,
vùng đất Thất Sơn thuộc thị xã Châu Đốc, huyện Tịnh Biên, Tri Tôn, có cảnh quan kỳ
tú, là những căn cứ kháng chiến chống xâm lược, đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, với nhiều di tích lịch sử cách mạng, lại là vùng đất có nhiều chùa
chiền, đền miếu, chứa đựng nhiều điều bí ẩn về xã hội, huyền thoại về các vị giáo chủ
tôn giáo, anh hùng cứu quốc nên hàng năm thu hút lượng khách du lịch rất lớn.
Ngoài nông nghiệp, các ngành kinh tế khác như khai thác khoáng sản, lâm
nghiệp, chăn nuôi, trồng cây công nghiệp, nghề nuôi cá v.v…khá phát triển cũng đòi
hỏi nhiều lao động có trình độ văn hoá, chuyên môn, kỹ thuật, kinh tế, thương mại,
4
ngoại ngữ; nhất là An Giang từ lâu đã là nơi xuất khẩu lúa gạo và cá nước ngọt lớn nhất
nước. Đặc biệt ở đây người làm ra con cá, lúa gạo phần lớn nghèo khổ, nợ nần chồng
chất trong khi đó doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu,
chế biến thức ăn thủy sản, gia súc, chế biến thủy sản v.v…giàu to. Chính các doanh
nhân An Giang với ưu thế về tri thức, học vấn cao, nhiều vốn, khôn khéo giao thương
trong, ngoài nước…vét sạch túi của người nông dân rất đáng thương. Chỗ này rất cần
đến sự điều tiết của Nhà nước nhằm giúp cho nông dân có cuộc sống khá hơn.
Để khai thác những tiềm lực về kinh tế và sản xuất nhiều mặt như vậy cần phải có
con người lao động có văn hoá, tri thức khoa học phù hợp với yêu cầu và trình độ phát
triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Ngoài các đặc điểm tự nhiên, kinh tế, lịch sử, xã hội nêu trên, việc tăng khá nhanh
dân số ở An Giang cũng như nhiều địa phương khác, tạo áp lực rất lớn về sự phát triển
trường lớp gây không ít khó khăn cho giáo dục. Dân số An Giang phân bố không đều:
đông đúc ở các thị xã, thị trấn, thưa thớt ở vùng sâu, vùng núi, vùng xa. Đặc điểm cư
trú của cư dân An Giang là sống dọc theo tuyến: xây dựng nhà cửa ở các gờ đất ven
sông, theo bờ kênh rạch, theo các con đường giao thông …bởi vì vào mùa lũ nước
trong đồng ngập rất sâu không thể cư trú được. Đặc điểm về phân bố dân cư và cư trú
như trên ảnh hưởng lớn đến sự xây dựng mạng lưới trường lớp. Do địa hình và việc
phân bố dân cư như đã nêu trên nên việc tìm đất xây trường gặp rất nhiều khó khăn, vì
nơi đất cao thì người dân đã cất nhà ở, còn nơi đất thấp thì ngập nước không thể xây
dựng trường lớp được. Vì thế, giáo dục kết hợp với dân số, địa điểm học tập là một
trong những việc mà ngành giáo dục An Giang đã đặc biệt chú ý, nhằm thu hút và đảm
bảo cho con em nhân dân lao động đến trường mà không ảnh hưởng đến cuộc sống của
nhân dân.
An Giang có khoảng 25 dân tộc, trong đó có bốn dân tộc đông dân là người Việt,
Khmer, Hoa, Chăm. Người Khmer có khoảng trăm ngàn người, theo đạo Phật, sống
quần cư theo các phum, sóc ở vùng đồi núi thấp Thất Sơn, thuộc huyện Tịnh Biên, Tri
Tôn. Người Chăm có khoảng hai chục ngàn người phần lớn theo đạo Islam sống tập
trung ở xã Châu Phong (huyện Tân Châu), xã Phú Hiệp (huyện Phú Tân), xã Đa Phước
(huyện An Phú ), xã Khánh Hòa (huyện Châu Phú)… Người Hoa cư trú tại các thị xã,
thị trấn, chuyên nghề buôn bán, phần lớn giàu có, song cũng sống hoà nhập với cộng
đồng các dân tộc anh em. Người Việt chiếm đa số, khoảng gần hai triệu người, sống rải
rác khắp nơi trong tỉnh, tập trung đông nhất ở vùng nông thôn, các đô thị, giữ vai trò
quan trọng trong các ngành kinh tế, chính trị xã hội văn hoá. Mỗi dân tộc có nền văn
hoá của riêng, có nhiều nét độc đáo, đặc thù, do đó, các trường học ở vùng dân tộc cũng
cần phải có những nét riêng phù hợp với đặc trưng của cộng đồng. Song, không vì vậy
mà hạ thấp mặt bằng giáo dục ở các vùng dân tộc ít người mà phải đảm bảo trình độ
chung của giáo dục cả tỉnh, cả nước.
An Giang cũng có nhiều tôn giáo: đạo Phật, Thiên Chúa, Tin Lành, Cao Đài…
đặc biệt là sự xuất hiện từ rất lâu các đạo có nguồn gốc An Giang như Bửu Sơn Kỳ
Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo. Tôn giáo ảnh hưởng khá lớn đến tư
tưởng, tình cảm của nhân dân và học sinh, sinh viên đáng kể nhất là Phật giáo Hoà Hảo
với số tín đồ đông nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Trước, trong và sau ngày lễ “18
tháng 5” có hàng triệu người hành hương về “ Thánh địa Hòa Hảo”. Khách hành hương
thường được đãi cơm chay, ở trọ miễn phí. Đó là sự lo lắng cho nhau của tín đồ theo
5
một đạo nghèo tiền của nhưng giàu lòng nhân ái, điều này đã làm ấm áp thêm tình bạn
bè, cũng là một nét văn hóa độc đáo của cư dân Hòa Hảo. Năm 2008, việc đãi cơm
được thực hiện ở hơn hai trăm tám chục Ban Trị sự ở nhiều tỉnh nhờ vậy nên số người
hành hương về vùng Hòa Hảo trong các ngày 15,16,17,18,19, 20 tháng 5 giảm: còn
khoảng tám trăm ngàn người; áp lực về môi trường sống trên vùng đất nhỏ bé Hòa Hảo
trong các ngày lễ, nhờ đó, cũng giảm nhẹ phần nào. Khách thập phương đến các chùa
Hòa Hảo không phải “cúng dường”. Người theo đạo là cư sĩ tại gia, “học Phật tu nhân”,
chăm chỉ làm ăn, chuyên tâm “làm phước”: bố thí, bồi lộ đắp đường, đào kênh xẻ
mương, giúp đỡ bệnh nhân nghèo, lập các nhà khám bệnh, trị bệnh (chủ yếu bằng thuốc
Nam), xây nhà tình nghĩa, tình thương…Cư dân Hòa Hảo sống trong sự chan hòa tình
thương yêu, bên cạnh đó lúc nào cũng được che chở, đùm bọc, giúp đỡ nhau; ở đó có
bóng dáng của một-xã-hội-có-nhiều-người- sống-vì-người-khác.
Trước kia, bên cạnh các tôn giáo đó lại có rất nhiều “ông đạo”, ông thì nằm suốt
năm gọi là “Đạo Nằm”; ông thì chỉ ăn ớt gọi là “Đạo Ớt”; ông thì ai nói gì cũng ừ gọi là
“Đạo Ừ”…Vậy mà cũng có nhiều người tin theo. Ngày nay, ở An Giang hàng trăm
thầy thuốc Nam hốt thuốc trị bệnh miễn phí; lúc mới “nổi” có đến hàng ngàn lượt
người đến trị bệnh, sau đó giảm dần, thầy khác tấn lên; đã cứu giúp rất nhiều cho người
nghèo – những người không có tiền để trị bệnh bằng thuốc Tây vượt qua khốn khổ vì
đau yếu bệnh tật. Sống trong các điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên, đời sống còn
quá nhiều khó khăn cho nên người dân dễ tin vào những điều dị thường ?
Do vậy, việc giáo dục học sinh ở An Giang cũng như ở vùng đồng bào tôn giáo
trong tỉnh cần được chú trọng đến tư tưởng yêu nước, tin tưởng cách mạng, Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do theo tôn giáo và không theo tôn
giáo. Chủ trương này hoàn toàn không đối kháng với nhau, bởi vì, giáo dục cung cấp
cho học sinh những kiến thức khoa học, theo mục tiêu giáo dục mà Đảng, Nhà nước đã
nêu ra, còn tôn giáo là vấn đề tâm linh của người dân. Mặt khác, giáo lý của các đạo,
như Phật giáo Hòa Hảo cũng phản ánh những yêu cầu chính đáng của đông đảo quần
chúng tín đồ, vốn là nhân dân lao động giàu lòng yêu nước, tin yêu cách mạng, Bác Hồ,
mong ước một xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ, một đời sống ấm no, hạnh phúc.
Tuy nhiên trong công tác giáo dục ở vùng đồng bào tôn giáo cần phải tiến hành đấu
tranh những luận điệu sai trái, xuyên tạc của bọn phản động quốc tế và trong nước,
mưu đồ gieo rắc và kích động tư tưởng chống phá cách mạng, phá vỡ sự đoàn kết dân
tộc.
Hơn 80% dân số An Giang sinh sống bằng nghề làm ruộng ở nông thôn, phần lớn
còn nghèo khổ, thiếu tri thức khoa học kỹ thuật, thiếu điều kiện đẩy mạnh sản xuất,
tăng năng suất. Vì vậy, cần phải tạo điều kiện cho con em nhà nghèo được đến trường.
Tuy nhân dân An Giang hiếu học, học sinh khắc phục khó khăn để đến trường, nhưng
chất lượng học tập chưa cao, học sinh bỏ học, chưa gắn bó với quê hương còn khá phổ
biến. Điều này do nhiều nguyên nhân: nghèo, lũ lụt, chưa có truyền thống học hành
chăm chỉ như cư dân ở các miền đồng bằng sông Hồng, Thanh Nghệ Tĩnh, Nam Ngãi._.,
Bình Phú. v v…
Điều kiện tự nhiên xã hội như trên, dĩ nhiên ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống
của người An Giang, song vốn có truyền thống anh hùng trong lao động của sản xuất
và đấu tranh xã hội, người dân đồng bằng sông Cửu Long nói chung, vùng đất An
Giang nói riêng, không chịu khuất phục mà tìm cách thích ứng và từng bước chinh
6
phục hợp lí thiên nhiên cho số dân cư ngày một đông đúc với nhu cầu ngày càng tăng.
Điều này có thể được giải thích bằng truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân
dân An Giang trong truyền thống chung của dân tộc.
Bên cạnh những thuận lợi, An Giang cũng có những khó khăn về điều kiện tự
nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội làm chậm sự phát triển của giáo dục so với các nơi khác.
Vì vậy, để đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục ngành chủ quản phải có chiến lược phát triển
phù hợp, khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm nhằm đạt kết quả tối ưu. Điều này
gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị và xây dựng đất nước, bởi vì giáo dục là một bộ
phận của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong tình
hình chung của cả nước sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đi lên chủ nghĩa xã
hội, An Giang cùng các địa phương khác có nhiều cơ hội và thuận lợi cũng như nhiều
khó khăn, thách thức trong công cuộc xây dựng, phát triển và thúc đẩy giáo dục tiến
lên.
2. Giáo dục An Giang trước ngày An Giang hoàn toàn giải phóng (6/5/1975)
Giáo dục Việt Nam nói chung, giáo dục An Giang nói riêng đều phát triển trên cơ
sở tiếp thu những tinh hoa của các nền giáo dục trước đó.
Thời Lý, Trần giáo dục đạt được những thành tựu rực rỡ, đào tạo nhiều nhân tài,
vì thế kinh tế, chính trị, văn hóa đều phát triển, đặc biệt, nước ta lúc đó trở thành một
cường quốc quân sự thể hiện ở các việc “đánh Tống, bình Chiêm”, ba lần đánh thắng
Mông Cổ - một đế quốc hùng mạnh từng “làm cỏ” châu Á, châu Âu. Người được giáo
dục lúc đó buộc phải có trách nhiệm với gia đình, với tộc họ, nếu làm tốt cả gia đình,
tộc họ được vinh quang, làm tội có khi bị “tru di tam tộc”. Trong xã hội đó không có
viện dưỡng lão cho người già vì trong mỗi gia đình đều phải “dưỡng nhi đãi lão” và
luật pháp qui định là con cái bắt buộc phải nuôi dưỡng ông bà cha mẹ, nếu không sẽ bị
qui vào tội “bất hiếu”, một trong “thập ác”: tội tử hình. Thanh niên thời Trần thường
xâm ở bụng các chữ “trọng nghĩa khinh tài”, xâm ở tay chữ “Sát Thát”. Vậy, thanh niên
thời Trần đã hấp thụ quan niệm sống không phải sống-cho-riêng-mình mà sống-cho-
cộng-đồng. Nền giáo dục đó được tiếp tục dưới các thời Lê, Nguyễn nhưng hiệu quả
thấp hơn.
Thời Nguyễn, An Giang có bốn trường học, đó là: Trường học tỉnh An Giang: ở
thôn Chu Phú về phía tây tỉnh thành dựng năm Thiệu Trị thứ 2; trường học phủ Tân
Thành: ở thôn Vĩnh Phúc về phía đông lị sở của phủ, dựng năm Minh Mệnh thứ 13;
trường học huyện Đông Xuyên: ở thôn Long Sơn về phía đông lị sở của huyện dựng
năm Minh Mệnh thứ 18; trường học huyện An Xuyên: ở thôn Tân Hựu về phía đông lị
sở của huyện, dựng năm Minh Mệnh thứ 20 (Viện Sử học, 2006). Ở tỉnh vua đặt chức
quan đốc học, giáo thụ ở phủ, huấn đạo ở huyện để giảng dạy và thúc đẩy việc học của
người dân. Bên cạnh đó là các trường tư do các nho sĩ, các “Thầy đồ xứ Nghệ” cùng
với người dân thành lập và giảng dạy.
Mục đích của sự học hành là: học chữ nghĩa, kinh sách để thi đậu làm quan giúp
vua cai trị dân, làm thầy thuốc, thầy bói, thầy địa lý, thầy giáo, thầy tướng số; học luân
lý, đạo nghĩa để trở thành người quân tử, người tốt trong xã hội, và đây được xem như
là mục tiêu tối cần thiết. Vì thế “người có học” được xã hội quí mến, trọng vọng. Hầu
như gia đình nào cũng cho con cái đi học “dăm ba chữ thánh hiền” để làm người lương
7
thiện, hiếu thảo, tín nghĩa. Nội dung giáo dục là các tư tưởng, luân lý đạo đức của đạo
Khổng giúp người học trau dồi nhân cách, học cách xử thế, học đạo làm người, duy trì
luân lý đạo đức trong xã hội và may mắn thì đỗ đạt làm quan…
Nhà nước phong kiến tuyển chọn quan lại bằng khoa cử, bảo cử và ấm sung; trong
đó chủ yếu là khoa cử. Muốn được bổ làm quan phải đỗ từ Cử nhân trở lên, sau này vào
cuối thời Nguyễn điều kiện khó hơn là phải đỗ Cử nhân thứ hạng cao. Ngoài các kỳ thi
Hương, Hội, Đình nhà vua còn tổ chức thêm các kỳ thi: Sĩ vọng khoa, Hoành tứ khoa,
Tứ trọng khoa để thu hút nhân tài còn lại như các danh sĩ, ẩn sĩ, học trò giỏi…Quan lại
ngày xưa thường có thực tài do làm quan sau khi thi đỗ; ít tham ô, tham nhũng vì các vị
ấy là người có thực học, trung thực trong học tập, thi cử, chỉ được làm quan sau khi thi
đậu. Thiếu trung thực trong thi cử, luồn lách để được làm quan khi có người tố giác sẽ
bị chém, vì vậy buộc mọi người phải đặt sự trung thực trong thi cử lên hàng đầu. Quan
lại nói chung là tốt cho nên ngày nay người dân nhắc đến “trăm quan cựu thần” với
lòng tôn kính. Chưởng binh Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, hành quân ngang An
Giang, đóng quân ở cù lao Cây Sao, thọ bệnh mất ở tuổi năm mươi; thời gian đến An
Giang chỉ khoảng sáu tháng, thế mà khắp nơi trong tỉnh có đền thờ Ông; cù lao Cây
Sao đổi tên thành Cù lao Ông Chưởng, con sông chảy giữa cù lao được gọi là sông
Lòng Ông Chưởng. Lễ Thành hầu được thờ phượng, kính yêu vì Ông Chưởng không
phải là quan tham, không phải là kẻ bất lương làm quan chỉ biết vơ vét của dân, chỉ biết
ra những quyết định có lợi cho mình, không phải là kẻ bất tài được làm quan mà đúng
là “dân chi phụ mẫu”, là vị quan có thực tài, hết lòng chăm lo đến hạnh phúc của người
dân.
Sách giáo khoa chủ yếu là các quyển Nhất thiên tự, Tam thiên tự, Ngũ thiên tự, Sơ
học vấn tân, Ấu học ngũ ngôn nhi, Minh tâm bảo giám, Minh Đạo gia huấn, Tam tự
kinh, Bắc sử, Nam sử… Học sinh các lớp cao “còn được nghiền ngẫm các tư tưởng
Khổng học qua Tứ thư, Ngũ kinh (Đoàn Huy Oánh, 2004). Lồng trong các sách giáo
khoa đó là nội dung giáo dục con người có những đức tính của người quân tử: nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín, dũng, trung; đi sâu vào việc đào tạo thành người hiếu nghĩa vì “thiên kinh
vạn điển hiếu nghĩa vi tiên”.
Yểm trợ cho nền giáo dục đó là luật pháp thấm nhuần tinh thần nhân trị, theo đó,
các điều luật thường hướng đến việc trau dồi nhân cách, hướng dẫn nhân dân hành
thiện, chú trọng đặc biệt đến luân lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục. Các tội bị xem là
“thập ác” phải bị xử phạt rất nặng là bất hiếu, bất mục, loạn luân. Những tội ác này
thuộc phạm vi luân lý nhưng bị xử phạt ngang với các tội chính trị như nổi dậy chống
chính quyền, phản quốc…Không có ranh giới rõ ràng giữa luật pháp và luân lý. Thời
đó, làm quan dù to cở nào đi nữa thì khi cha, mẹ mất phải từ quan về nhà thọ tang ba
năm, sẽ trở lại làm quan sau khi nghiêm túc thọ tang (phải để râu tóc, ăn uống đạm bạc,
không nhậu nhẹt say sưa, không được mặc đẹp, tuyệt dục …)
Người xưa cho rằng người bất hiếu không thể làm quan được, bởi vì người sinh
dưỡng ra mình mà mình không lo, vậy thì làm quan mình lo cho ai? Những người bất
hiếu nếu có lo cho dân cũng chỉ nhằm mục đích vụ lợi. “ Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi
đại”, nhưng nếu người vợ đã thọ tang thì người chồng không được phép tìm vợ khác.
Nhà vua cũng ban các điều giáo huấn nhằm giáo dục toàn dân, trong đó nhấn mạnh đến
việc dạy dỗ người dân trở thành người sống vì gia đình, xã hội, đất nước.
8
Phụ nữ ít được đi học cộng với quan niệm “ trọng nam khinh nữ” và thuyết “tam
tòng” làm cho địa vị người phụ nữ trong gia đình và xã hội trở nên thấp kém. Nhưng,
trong thực tế, do đặc điểm riêng của xã hội Việt Nam người phụ nữ trong nhiều gia
đình được tôn trọng vì được pháp luật bảo vệ, vì bổn phận làm con là phải hiếu thảo với
cha mẹ, ảnh hưởng của tôn giáo, nhân dân ta vốn tôn trọng phụ nữ (Phật bà Quan Âm,
Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Kho…), trong nhiều gia đình người mẹ
đóng vai trò chính về kinh tế, nhất là khi chịu ảnh hưởng của văn minh phương Tây
v.v…nên với vai trò nội tướng người vợ góp phần đắc lực trong việc giúp chồng con
làm nên sự nghiệp.
Những người trung hiếu được tôn vinh. Ở An Giang những người đã từng được
vua khen ngợi là Nguyễn Văn Nhân, Tống Phước Thiêm, Nguyễn Văn Nhàn, Hoàng
Phúc Bảo, Nguyễn Văn Trọng, Đoàn Văn Trường, Nguyễn Văn Định, Nguyễn Văn
Tuyên, Nguyễn Công Yến, Dương Thị Ư, Nguyễn Thị Dung....
Nền giáo dục đó đã đào tạo nên những hiền nhân, quân tử, những người có đức
hạnh, giỏi làm thơ, văn, tầm chương trích cú, thủ cựu, sùng bái văn minh Trung Hoa,
kỳ thị với Tây học… nhưng bất tài, nhu nhược, dốt nát về chính trị, kinh tế, quân sự,
ngoại giao, khoa học, kỹ thuật do vậy đã không giúp nước nhà vươn lên giàu mạnh, bất
lực trước sự xâm lăng của các nước phương Tây.
Trong thời Pháp thuộc, giáo dục Nho học còn tiếp tục cho đến năm 1919 – năm
thi Hội cuối cùng. Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, nên thực dân Pháp làm cho người
dân lầm tưởng là được hưởng nhiều quyền tự do dân chủ hơn đồng bào mình ở Trung
Kỳ và Bắc Kỳ. Thực ra, việc chia Việt Nam làm “3 xứ ” với chế độ cai trị khác nhau
chỉ là thủ đoạn thâm hiểm, xảo quyệt của thực dân Pháp trong việc chia cắt đất nước,
chia rẻ nhân dân. Cả Việt Nam đều nằm dưới quyền thống trị của Pháp. Về thực chất,
nhân dân đã mất quyền độc lập tự do, trong đó có quyền tự do học tập. Tuy là xứ thuộc
địa, sớm tiếp thu văn hoá, giáo dục của Pháp, song nhân dân Nam Kỳ vẫn phải gánh
chịu hậu quả của“ chính sách ngu dân” mà Nguyễn Ái Quốc (1925) đã tố cáo trong
quyển “Bản án chế độ thực dân Pháp”.
Bức tranh ảm đạm về giáo dục của An Giang là một mảng trong cảnh u tối chung
của giáo dục Việt Nam dưới thời Pháp thuộc: hơn 95% dân số bị mù chữ, trường học
phần lớn dành cho con em các tầng lớp trên, các công chức cao cấp, quan lại, nhằm vào
việc đào tạo tay sai làm việc trong bộ máy cai trị của thực dân Pháp; việc vào học ở các
trường trung học, cao đẳng, đại học, du học chỉ là niềm ước mơ của con em nhà nghèo.
Thời Pháp thuộc, ở An Giang chỉ có “4 trường tiểu học, đặt ở Long Xuyên, Châu
Đốc, Thốt Nốt, Chợ Mới, khoảng 42 trường sơ học đặt rải rác ở các nơi trong tỉnh. Tất
cả gồm hơn 200 lớp học, do 200 giáo viên giảng dạy, tổng cộng khoảng 10.000 học
sinh” (Trần Thanh Phương, 1984) Điều đó cho thấy là mạng lưới trường lớp, cấp học,
số lượng giáo viên, học sinh đều rất thấp, xuất phát từ “chính sách ngu dân triệt để” của
thực dân Pháp. Trình độ dân trí lúc đó còn rất thấp. Tuy nhiên, tình hình giáo dục kém
phát triển thời Pháp thuộc không hề ảnh hưởng đến tinh thần yêu nước của nhân dân.
Cuộc đấu tranh cho quyền được học gắn với cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc; một số
người được đi học trở thành những người yêu nước chống Pháp chứ không làm tay sai
cho chúng, tiêu biểu là Tôn Đức Thắng.
9
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lại
bắt đầu trong điều kiện rất gian khổ, nhân dân Nam Bộ nói chung, nhân dân An Giang
nói riêng vẫn thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành đồng thời cuộc đấu
tranh chống “giặc dốt”, “giặc đói”, “giặc ngoại xâm”. Thực tiễn chứng minh rằng
những nhiệm vụ cấp bách mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra trong phiên họp đầu tiên của
Hội đồng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà (ngày 03/09/1945) đã xây dựng một
số cơ sở vững chắc cho thắng lợi của cuộc kháng chiến và kiên quốc. Bởi vì, khi được
quyền học hành người dân sẽ nhận thấy tính ưu việt của chế độ mới, cùng ra sức đấu
tranh cho nguyện vọng lâu đời của mình về độc lập, tự do và củng cố hơn nữa lòng tin
đối với cách mạng. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng Người
chỉ có “một ham muốn tột bậc” là làm cho đất nước độc lập, ai ai cũng được ấm no, học
hành hạnh phúc. Theo Hồ Chủ tịch nhân dân chỉ biết giá trị thực của độc lập, tự do khi
nào cách mạng đem lại cho họ sự no ấm, hạnh phúc và được học hành.
Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ, Ủy ban Hành chính Kháng chiến các cấp ở
Nam Bộ đã chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục. Nhiều lớp học ở An Giang được
thành lập; phong trào Truyền bá quốc ngữ phát triển sôi nổi ở khắp nơi trong tỉnh,
mang lại cho các tầng lớp nhân dân kiến thức của nền văn hóa cách mạng. Trong 9 năm
chống Pháp ở những vùng tự do nhân dân An Giang đã đạt được thành tựu to lớn về
giáo dục đào tạo là nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, chiến sĩ vùng kháng chiến
góp phần đáng kể vào công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.
Hệ thống giáo dục phổ thông miền Nam có 12 năm học bao gồm giáo dục tiểu học
5 năm và giáo dục trung học 7 năm.
Ở bậc tiểu học học sinh học các lớp năm, tư, ba, nhì, nhất và thi lấy Bằng Tiểu
học. Học sinh tiểu học thường bị đánh đòn rất nặng khi không thuộc bài, vi phạm kỹ
luật. Phụ huynh khi gởi con cho thầy thường nói “Thầy đánh con tôi thật nhiều nghen”
vì tin rằng “cho roi cho vọt” con sẽ nên người. Hậu quả là nhiều học sinh vì sợ đòn roi
mà tìm mọi cách để được bỏ học. Không có tình trạng gian lận trong học tập vì đó là sự
vi phạm không thể tha thứ, vì thế, học sinh lấy được Bằng Tiểu học là đạt chất lượng
thực sự về học vấn, đạo đức.
Giáo dục trung học chia làm 2 cấp: đệ nhất và đệ nhị cấp. Ở đệ nhất cấp học sinh
học các lớp đệ thất, đệ lục, đệ ngũ, đệ tứ và thi lấy Bằng Trung học đệ nhất cấp. Ở đệ
nhị cấp học sinh học các lớp đệ tam, đệ nhị thi lấy Bằng Tú tài I còn được gọi là Bằng
Tú tài phần thứ nhất. Thi Tú tài I rất khó đậu cho nên mới có câu: “ rớt Tú Tài anh đi
trung sĩ, em ở nhà lấy Mĩ nuôi con”. Sau đó tiếp tục học lớp đệ nhất thi lấy Bằng Tú tài
II còn gọi là Bằng Tú tài toàn phần. Đề thi Tú tài II cũng thường rất khó, tỉ lệ học sinh
thi đỗ rất thấp, thi lần một mỗi lớp đỗ chỉ vài người, thi lần hai được thêm vài người
nữa. Do phải trải qua nhiều kỳ thi cho nên số lượng học sinh đỗ Tú tài II không nhiều.
Học sinh đỗ Tú tài II được ghi danh để học các trường Văn Khoa, Khoa Học,
Luật Khoa…chứ không phải qua thi tuyển. Đầu vào thì dễ nhưng đầu ra bị bóp chặt. Ở
các trường đó, năm thứ nhất mỗi trường có vài chục ngàn sinh viên, bị sàng lọc dần qua
các năm thứ hai, thứ ba để đến năm thứ tư chỉ còn lại mỗi trường vài trăm sinh viên, vì
thế chỉ là những người thực sự giỏi mới lấy được Bằng Cử nhân. Các trường phải thi
tuyển là trường sư phạm, y, dược, đào tạo kỹ sư…và để đậu vào các trường đó, thông
thường sinh viên đã phải học một hoặc vài năm ở các đại học khác như Văn Khoa,
10
Khoa Học …cho nên những bác sĩ, kỹ sư, giáo sư (tên gọi giáo viên cấp II, III) thời đó
thường là những người rất giỏi.
Sau này, kỳ thi lấy Bằng Tiểu học chỉ dành cho người lớn tuổi. Từ năm 1968 bỏ
kỳ thi Trung học đệ nhất cấp, năm 1973 bỏ kỳ thi Tú tài phần thứ I. Năm 1974 thi Tú
tài dưới hình thức trắc nghiệm cho tất cả các môn học, tỉ lệ học sinh thi đậu lên đến gần
80%, trong khi các năm trước tỉ lệ đậu chỉ khoảng 30%.
Về sách giáo khoa. Bộ Giáo dục ngụy phát hành chương trình chuẩn để giáo viên
căn cứ vào đó mà soạn sách giáo khoa. Hầu như giáo viên nào cũng tham gia soạn và
xuất bản sách giáo khoa phù hợp với từng miền, từng vùng, với mọi trình độ vì thế học
sinh, giáo viên có nhiều lựa chọn sách giáo khoa để giảng dạy, học tập. Sách giáo khoa
cũ được tận dụng: người học lớp trước trao lại cho người lớp sau. Bộ Giáo dục ngụy lúc
đó không phải tốn một khoảng kinh phí rất lớn cho việc biên soạn, in ấn sách giáo
khoa, mà lại còn khai thác, tận dụng được chất xám và tiền bạc của hầu hết giáo viên
trực tiếp giảng dạy trên lớp. Những sách giáo khoa hay sẽ được Bộ Giáo dục ngụy thẩm
định, phát hành, khuyến khích sử dụng. Do cơ chế thị trường nên có sự cạnh tranh
quyết liêt: sách hay được nhiều người dùng, sách không hay bị loại bỏ không thương
tiếc. Một ưu điểm khác của sách giáo khoa thời đó là mỗi năm học đều có thêm phần
“cập nhật hóa”, vì thế học sinh không bị lạc hậu trước sự phát triển rất nhanh của cuộc
cách mạng khoa học, kỹ thuật đang diễn ra.
Hiệp định Genève 1954 về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông
Dương được ký kết và có hiệu lực, An Giang cũng như cả miền Nam nằm dưới quyền
quản lý tạm thời của đối phương để hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước.
Tuy nhiên Mỹ - ngụy ra sức chia cắt đất nước, mưu toan đặt ách thống trị thực dân mới
ở miền Nam rồi “lấp sông Bến Hải”, “Bắc tiến”. Để có một cở sở xã hội vững chắc cho
chế độ thống trị của Mỹ – ngụy chúng ra sức xây dựng nền “giáo dục thực dân mới”,
gieo rắc tư tưởng “chống cộng”, “chống phá cách mạng”, đào tạo một đội ngũ tay sai
mang ý thức hệ “duy linh”, “quốc gia chủ nghĩa”. Chúng nặn ra những kẻ “tử vì đạo” –
thực chất là những tên ác ôn, những “vật hy sinh” cho Mỹ - ngụy, được Mỹ - ngụy trả
lương, hưởng nhiều bổng lộc. Để thu hút thanh niên vào con đường binh nghiệp để
chống phá cách mạng, chống lại nhân dân, chính quyền Sài Gòn qui định: người nào rớt
Tú Tài I vào học trường hạ sĩ quan để gắn lon “trung sĩ”.Đậu Tú tài I được học ở
trường Võ bị Thủ Đức, khi tốt nghiệp là sĩ quan mang quân hàm chuẩn úy, quân hàm
cao nhất là đại tá. Đậu Tú tài II vào học ở trường Võ bị Đà Lạt lúc tốt nghiệp là sĩ quan,
mang quân hàm trung úy, đây là “sĩ quan thực thụ”, được phong cấp Tướng, “phục vụ
suốt đời” trong quân đội của Mỹ – ngụy. Với việc dụ dỗ, cưỡng ép, mua chuộc thanh
niên, học sinh vào lính, Mỹ - ngụy mong xây dựng một đạo quân khá tinh nhuệ với
hàng triệu binh lính để gây ra nhiều khó khăn cho công cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam của nhân dân ta. Vì vậy, ý đồ thâm độc của Mỹ – ngụy là gây nhiều trở ngại
trong thi cử học hành để cho thanh niên chỉ còn một con đường là vào học trường sĩ
quan, hạ sĩ quan hay bị bắt quân dịch, làm bia đỡ đạn cho Mỹ.
Ở An Giang giáo dục thời kỳ Mỹ - ngụy có qui mô lớn hơn thời Pháp thuộc: số
lượng học sinh, giáo viên đông hơn, với nhiều trường tiểu học, trung học đệ nhất cấp,
đệ nhị cấp, trung học sư phạm, trung học kỹ thuật, Viện Đại học Hòa Hảo, các trường
giảng dạy theo chương trình Đài Loan, các trường tư thục, trường bán công, các trường
do các tôn giáo tổ chức (Phụng Sự, Bồ Đề, Hòa Bình..). Trình độ dân trí phần nào được
11
nâng cao lên, đào tạo được nhiều trí thức mà một bộ phận không nhỏ có tinh thần dân
tộc, được cách mạng giáo dục đã tham gia công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Song, về bản chất chế độ giáo dục thực dân mới của Mỹ - ngụy là phản động, nhồi nhét
cho thế hệ trẻ tư tưởng duy tâm, chống cộng, đi ngược lại quyền lợi dân tộc, chống phá
cách mạng, phục vụ cho sự thống trị của Mỹ. Nhìn chung, bức tranh giáo dục ở thời kì
này không mấy sáng sủa. Ở các làng quê việc học thường bị gián đoạn bởi chiến tranh
xâm lược của Mỹ. Nạn mù chữ và tình trạng học sinh bỏ học diễn ra phổ biến. Nhiều tệ
nạn xã hội đưa một số thanh thiếu niên vào con đường sa ngã trụy lạc, cầm súng cho
giặc bắn giết đồng bào mình.
Tình trạng giáo dục này của miền Nam thời Mỹ Ngụy cũng là bức tranh chung
của giáo dục An Giang. Vì vậy, chống phá giáo dục thực dân mới của Mỹ - ngụy ở
miền Nam nói chung, An Giang nói riêng, là một mục tiêu chung của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
3. Giáo dục An Giang từ năm 1975 đến năm 1986
3.1. Giáo dục An Giang trong năm 1975:
Sau ngày được hoàn toàn giải phóng 6.5.1975, nhân dân An Giang tiến hành xây
dựng nền giáo dục cách mạng, xoá bỏ chế độ giáo dục thực dân mới của Mỹ - ngụy,
nhằm đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa.
Chỉ thị của Ban Bí thư, số 221-CT, ngày 17 tháng 6 năm 1975 “Về công tác giáo
dục ở miền Nam sau ngày hoàn toàn giải phóng nêu ra những nhiệm vụ cụ thể và một
số vấn đề trước mắt về tổ chức và lãnh đạo công tác giáo dục.
Nhiệm vụ cụ thể trước hết là tích cực xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa”. Đây là
nhiệm vụ cấp thiết số một nhằm nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu do chính sách
ngu dân và nô dịch của chế độ phản động Mỹ - ngụy để lại, nâng cao trình độ văn hóa
của cán bộ chiến sĩ và nhân dân lao động, tạo điều kiện cho việc giáo dục chính trị và
phổ biến khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ trong những người đã trải
qua chiến đấu, sản xuất và công tác.
Nhiệm vụ cụ thể thứ hai là “phát triển mạnh và đều khắp các trường phổ thông”.
Ngành học phổ thông ở miền Nam ngay từ năm học 1975 – 1976 phải có kế hoạch để
đảm bảo việc học hành cho hầu hết con em trong tuổi học, nhất là con em nhân dân lao
động; cải biến thành phần xã hội trong học sinh nhất là ở các cấp học ở vùng mới giải
phóng, tiến tới làm cho con em nhân dân lao động chiếm đa số; nhằm bồi dưỡng thế hệ
thanh thiếu niên trở thành những người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ
tốt, người cán bộ tốt của nước nhà. Trường phổ thông ở miền Nam mở theo hệ thống
12 năm, gồm có cấp I: 5 năm, cấp II: 4 năm, cấp III: 3 năm. Nội dung giáo dục phổ
thông là toàn diện, gồm có giáo dục chính trị và đạo đức cách mạng, giáo dục văn hóa
khoa học, giáo dục kỹ thuật, giáo dục lao động và giáo dục thể chất. phương pháp giáo
dục phải thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp với lao động sản xuất và hoạt động xã
hội, nhà trường phải gắn với đời sống. Mở thí điểm trường phổ thông vừa học vừa làm
ở những tỉnh và thành phố có điều kiện. Trong các trường phổ thông lực lượng giáo dục
không thể thiếu được là Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng Hồ Chí Minh và Đội
Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đối với trường tư ở vùng giải phóng: hạn chế, cải
12
biến từng bước, tiến tới xóa bỏ hẳn. Từ đầu năm học 1975 – 1976 không cho phép các
tôn giáo các đoàn thể chính trị phản động, các ngoại kiều mở trường tư, không cho
phép các trường tư đào tạo giáo viên phổ thông.
Nhiệm vụ cụ thể thứ ba là “từng bước xây dựng ngành mẫu giáo”, xem ngành
mẫu giáo là một bộ phận của giáo dục phổ thông.
Nhiệm vụ cụ thể thứ tư “xây dựng thật tốt các trường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
và giáo viên” vì cán bộ và giáo viên là nhân tố quyết định việc phát triển và nâng cao
chất lượng giáo dục. Đó là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp giáo dục. Đối với miền
Nam hiện nay nhiệm vụ này càng hết sức cấp thiết nhằm chuẩn bị cho bước phát triển
giáo dục theo qui mô lớn, cải tạo đội ngũ giáo chức cũ theo yêu cầu của cách mạng,
nâng cao từng bước chất lượng giáo dục.
Một số vấn đề trước mắt về tổ chức và lãnh đạo công tác giáo dục cần phải khẩn
trương thực hiện đó là: cải tạo cơ sở giáo dục cũ của Mỹ - ngụy; xây dựng bộ máy quản
lý giáo dục các cấp; tiến hành điều tra cơ bản về giáo dục để có cơ sở chuẩn bị tốt cho
việc xây dựng kế hoạch giáo dục trong những năm tới; phát động phong trào quần
chúng tham gia xây dựng giáo dục.
Chỉ thị của Ban Bí thư nhấn mạnh các cấp ủy đảng cần đặt đúng vị trí của công
tác giáo dục trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của miền Nam trong giai đoạn mới,
phối hợp chặt chẽ lãnh đạo giáo dục với lãnh đạo kinh tế và quốc phòng, trước mắt cần
nghiên cứu và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị này. Nội dung Chỉ thị này cần
được các tỉnh ủy phổ biến đến các huyện ủy, các đảng ủy và chi ủy, các tổ chức cơ sở
đảng về các phần thuộc phạm vi trách nhiệm từng cấp
Chỉ thị của Ban Bí thư số 222-CT/TW ngày 17 tháng 6 năm 1975 “Về công tác
giáo dục và chuyên nghiệp ở miền Nam trong thời gian trước mắt” xác định nhiều
nhiệm vụ cụ thể phải khẩn trương thực hiện.
Trước hết đó là “đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho thầy giáo và
học sinh”. Chỉ thị nhấn mạnh đến việc là phải đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư
tưởng trong nhà trường và đặt nó lên hàng đầu trong mọi công tác của ngành. Trong
năm học 1975 – 1976, ngoài việc giảng dạy các môn văn hóa và chuyên môn theo
chương trình và nội dung mới, phải ghi vào chương trình các môn học chính trị và hoạt
động xã hội cho suốt cả năm học và cho tất cả các đối tượng học sinh từ năm đầu đến
năm cuối. Nội dung giáo duc chính trị xoay quanh 3 chủ đề lớn: thắng lợi vĩ đại của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đường lối và chính sách cách mạng Viêt Nam,
đường lối giáo dục cách mạng; nghĩa vụ và quyền lợi của người công dân mới, của
người cán bộ cách mạng. Trong hè năm 1975, tổ chức cho thầy giáo và học sinh các
trường đại học và chuyên nghiệp tham gia một đợt sinh hoạt chính trị dưới hình thức
hội thảo xoay quanh chủ đề: “Không có gì quí hơn độc lập tự do”. Các văn kiện làm tài
liệu cơ bản cho hội thảo: Di chúc của Hồ Chủ tịch; bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn
tại Lễ mừng chiến thắng ở Hà Nội; bài phát biểu của đồng chí Chủ tịch Nguyễn Hữu
Thọ tại Lễ mừng chiến thắng ở Sài Gòn. Bên cạnh đó là việc tổ chức cho thầy giáo và
học sinh tham gia các hoạt động xã hội, đặc biệt trên mặt trận văn hóa, xóa bỏ những
ảnh hưởng của văn hóa đồi trụy phản động, xây dựng đời sống văn hóa mới.
13
Nhiệm vụ thứ hai là “nhanh chóng cải biến thành phần giai cấp trong trường học.
Bằng con đường bổ túc văn hóa, tuyển sinh mà cải biến nhanh chóng thành phần giai
cấp trong học sinh đại học và chuyên nghiệp, tích cực tạo điều kiện cho các chiến sĩ
giải phóng, cán bộ cách mạng, con liệt sĩ, con gia đình có công với cách mạng, con em
nhân dân lao động được vào học ngày một đông và chiếm đại đa số trong các trường
đại học và chuyên nghiệp ở miền Nam. Giáo dục, bồi dưỡng và sử dụng các thầy giáo
do chế độ cũ để lại; tuyển chọn giáo viên miền Bắc vào Nam.
Nhiệm vụ thứ ba là “sửa đổi cơ cấu ngành học, hệ thống đào tạo ở miền Nam và
nghiên cứu gấp việc sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học và chuyên nghiệp trên
phạm vi toàn quốc”. Cải tạo về cơ bản các ngành khoa học xã hội trước khi mở lại các
khoa luật, văn, triết…Các sinh viên học luật, văn, triết cho chuyển sang học sư phạm,
kĩ thuật, kinh tế. Mở rộng qui mô đào tạo các ngành sư phạm, y, dược, công nghiệp,
nông nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, kinh tế, v.v. Năm
học 1975 – 1976 chưa tuyển sinh các ngành khoa học xã hội. Tạm thời duy trì bảy Viện
Đại học công ở Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn, Thủ Đức, Mỹ Tho, Cần Thơ và
các trường chuyên nghiệp hiện có và tổ chức tuyển sinh cho năm học 1975 – 1976 .
Nhiệm vụ thứ tư là “sửa đổi chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo” dựa
theo chương trình, nội dung giảng dạy ở các trường đại học và trung học chuyên nghiệp
miền Bắc, đặc biệt chú trọng các môn khoa học xã hội, sao cho phù hợp với phương
hướng tiến lên thống nhất dần dần với hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Thực hiện từng bước nguyên lý giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, giáo dục trong
nhà trường kết hợp với giáo dục ngoài xã hội. Thông qua lao động và hoạt động xã hội
để rèn luyện và nâng cao giác ngộ chính trị cho thầy và trò.
Nhiệm vụ thứ năm là thực hiện một số chính sách về việc sử dụng lại thầy giáo
cũ, về tuyển sinh, việc sử dụng học sinh tốt nghiệp, học phí, học bổng, không cho phép
tồn tại chế độ trường tư ở cấp đại học và trung học chuyên nghiệp, đối với các trường
tư chuyên dạy nghề, nếu có đủ điều kiện, thì tạm thời cho phép mở nhưng phải chịu chế
độ quản lý của Nhà nước.
Nhiệm vụ thứ sáu là qui định việc “tổ chức và chỉ đạo các trường đại học và trung
học chuyên nghiệp ở miền Nam”. Việc tổ chức và chỉ đạo các trường đại học và trung
học chuyên nghiệp ở miền Nam tạm thời phân công như sau: ở miền Nam, Bộ Giáo dục
Cộng hòa miền Nam Việt Nam thống nhất quản lý tất cả các Viện đại học và các
trường chuyên nghiệp; ở miền Bắc, Trung ương giao cho Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp chịu trách nhiệm phối hợp với các bộ có liên quan trong công tác chỉ
đạo và chi viện cho miền Nam. Tạm thời duy trì cơ cấu tổ chức các Viện đại học như
hiện nay và đặt trực thuộc Bộ Giáo dục miền Nam. Xây dựng tổ chức đảng và các đoàn
thể trong nhà trường. Bổ sung và kiện toàn bộ máy lãnh đạo và quản lý của nhà trường,
bảo đảm cho các trường đi đúng đường lối giáo dục cách mạng.
Theo các chủ trương trên, An Giang xây dựng đội ngũ giáo viên. Cùng với việc
giáo dục, cải tạo số giáo viên cũ, một lớp đào tạo giáo viên mới ở Tràm Chim (tỉnh
Long Châu Tiền) được tổ chức để cung cấp đủ nhu cầu phát triển giáo dục. Đổi mới
việc dạy học ở Trường Trung học Sư phạm Long Xuyên, ở các trường phổ thông và các
loại hình trường lớp khác được tiến hành khẩn trương. Mục tiêu của việc đổi mới là xoá
14
bỏ những mặt tiêu cực, phản động về nội dung và phương pháp dạy học của giáo dục
cũ, xây dựng nền giáo dục mới, cách mạng.
Đẩy mạnh phong trào xoá nạn mù chữ cũng là công việc cấp thiết. Các lớp xoá
mù chữ được thành lập khắp nơi, đến tận làng xớm ở vùng sâu vùng xa. Lớp học mở tại
các trường học, đình, chùa vào ban ngày, ban đêm kể cả ngày chủ nhật. Giáo viên các
trường phổ thông đóng vai trò chính trong việc giảng dạy các lớp xoá mù; ngoài ra còn
có những người biết chữ dạy người không biết chữ. Chính quyền địa phương động
viên, giúp đỡ người dân mù chữ ở khóm, ấp đi học. Người dân rất ham học: có người,
cả ngày lao động mệt nhọc, nhưng ban đêm vẫn đến lớp học. Một bầu không khí học
tập vui tươi, rộn rã lan rộng khắp làng quê nghèo. Chưa có điện, dưới ánh đèn dầu, đêm
đêm vang tiếng đọc bài của những người lao động hiếu học. Cán bộ, giáo viên thực
hiện qui chế “một hội đồng hai nhiệm vụ”; theo đó, ngoài việc dạy ở trường phổ thông,
giáo viên còn có nhiệm vụ quan trọng là tham gia xoá mù chữ, bổ túc văn hoá cho nhân
dân, cán bộ.
Trong năm 1975 sau ngày giải phóng, cả tỉnh dâng lên phong trào học tập rất sôi
nổi, vui vẻ, sinh động của học sinh, cũng như học viên các lớp xóa mù, bổ túc văn hóa.
Cả người dạy lẫn người học hăng hái thực hiện nhiệm vụ của mình. Điều này có thể
giải thích rằng, sau khi thoát khỏi ách thống trị của Mỹ - ngụy, được hưởng độc lập tự
do, mọi người ai cũng muốn muốn biết chữ để trí óc được mở mang, để thật sự làm chủ
quê hương, đất nước. Nhiều gương sáng của học sinh phổ thông, học viên các lớp xóa
mù, bổ túc văn hoá, của thầy, cô giáo các cấp, các loại trường đã nẩy sinh và phát
triển.Ví như ở huyện Tân Châu cán bộ Bình dân học vụ rất nhiệt tình giảng dạy, vì họ
nghĩ rằng: Ta đã đánh thắng “giặc ngoại xâm”, “giặc đói” bây giờ còn “giặc dốt” phải
tiêu ._. phải
đi làm thuê như những lao động phổ thông khác; chủ trương phân ban đáp ứng phần
nào yêu cầu hướng nghiệp, nhưng vẫn còn đang thử nghiệm. Giáo dục nghề nghiệp có
nhiều tiến bộ đáp ứng phần nào nhu cầu nhân lực tỉnh nhà. Việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ
giáo viên, cán bộ giảng dạy, đầu tư kinh phí, phát triển cơ sở vật chất được ráo riết thực
hiện đáp ứng các yêu cầu giáo dục trong thời kỳ đổi mới.
Trong những năm cuối của thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI (1996 – 2005 ), tiếp tục
tiến trình đổi mới cảnh quan giáo dục – đào tạo ngày càng thêm tươi sáng hơn so với
trước kia. Năm 1998, An Giang hoàn thành công tác xóa mù chữ - phổ cập giáo dục
tiểu học, 97,82% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn, được Bộ Giáo dục – Đào tạo và
công nhận kết quả. Giáo dục mầm non phát triển với nhiều trường lớp khang trang,
sáng sủa, thoáng, mát, có hàng rào kiên cố; chất lượng nuôi dạy tốt hơn; năm học 1999
– 2000 có 99,97% trẻ học các lớp mẫu giáo 5 tuổi đến trường. Năm 2005 hệ thống nhà
trẻ, mẫu giáo phủ kín các huyện, thị thành. Năm học 1999 – 2000, toàn tỉnh có 385
trường tiểu học với 262. 000 học sinh; chấm dứt tình trạng dạy ba ca ở bậc tiểu học kéo
dài hơn hai mươi năm; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học. Năm 2005 toàn tỉnh có
400 trường tiểu học khang trang, chất lượng nâng lên: tỉ lệ học sinh cần cố gắng 0,0%.
Giáo dục trung học, số lượng học sinh tăng; chất lượng giảng dạy được nâng lên, tỉ lệ
học sinh lưu ban, bỏ học giảm hơn trước nhưng cũng vẫn còn, năm học 1999 – 2000, ở
bậc trung học cơ sở, có 68 trường số học sinh 116.500, tỉ lệ lưu ban là 1,61%, bỏ học là
6,6%; phổ thông trung học có 46 trường, 35.000 học sinh, tỉ lệ lưu ban 1,24%, bỏ học
5,16%. Năm 2005 số trường THCS: 143, THPT: 56 tất cả đều đạt chuẩn. Phần lớn giáo
viên được chuẩn hóa, đặc biệt giáo viên trung học cơ sở đạt chuẩn trên 90%, trong đó
có 20% đạt trình độ đại học; giáo viên phổ thông trung học tất cả đạt chuẩn đại học, có
một số giáo viên đạt trình độ thạc sĩ. Công tác phổ cập giáo dục đã được triển khai kết
quả đạt được không như mong muốn, toàn tỉnh chỉ mới hoàn thành ở phường Mỹ Long,
Mỹ Bình thành phố Long Xuyên. Mạng lưới trường học phủ kín vùng người dân tộc, đã
hình thành trường phổ thông dân tộc nội trú dành cho người dân tộc Khmer ở Tri Tôn,
một phân hiệu ở Tịnh Biên. Ngân sách tỉnh cấp cho giáo dục – đào tạo ngày càng tăng.
Giáo dục nghề nghiệp đạt được nhiều thành tựu: học sinh chen vào học ở các trường
Trung học Y tế, Đại học An Giang vì tốt nghiệp các trường này các em dễ tìm việc làm;
trường Cao đẳng Nghề thu hút không nhiều học sinh vì sau khi tốt nghiệp rất khó tìm
118
việc làm. Đại học An Giang từ ngày thành lập đến nay đã góp phần không nhỏ vào sự
nghiệp đào tạo giáo viên, cán bộ khoa học kỹ thuật cho nền kinh tế xã hội tỉnh nhà.
Bên cạnh những thành tựu, giáo dục An Giang cũng có nhiều hạn chế cần được
khắc phục:
Do cửa vào đại học quá hẹp cho nên áp lực học tập đè nặng lên học sinh từ mẫu
giáo cho đến trung học cơ sở, phổ thông trung học dẫn đến tệ nạn dạy thêm học thêm
tràn lan. Nội dung chương trình giáo dục phổ thông chưa hợp lý, môn nào cũng là môn
chánh, học sinh buộc phải học nhiều nhưng không sâu, vì thế thi đầu vào đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp phần lớn đạt điểm thấp.
Giáo dục đạo đức rất yếu kém, đặc biệt, việc rèn luyện các đức tính trung thực,
cao thượng, tín nghĩa, ít được nhắc tới vì thế học sinh có điều kiện là gian dối trong thi
cử, xem chuyện lừa dối thầy cô, bất hiếu với ông bà, cha mẹ, khi ra làm việc thì lợi
dụng chức quyền để trục lợi… là việc bình thường. Điều đó xuất phát từ nền giáo dục
dạy bảo học trò theo hướng “sống để mà ăn”, để hưởng thụ, để thành chuyên gia giỏi
hầu đạt được yêu cầu vinh thân phì da; khi cha mẹ già họ đưa vào viện dưỡng lão một
cách không thương tiếc; làm sao để có nhà cao cửa rộng; có nhiều tiền là giỏi, là được
nể trọng…. Một trong nhiều nguyên nhân của tệ nạn đó, có thể là do các nhà lãnh đạo,
tổ chức, quản lý giáo dục sắp xếp nội dung chương trình giảng dạy chịu ảnh hưởng sâu
sắc của giáo dục Âu Mỹ, của chế độ thực dân, quên đi bản sắc dân tộc - truyền thống
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, hiếu kính với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Con người mà không giữ
chữ hiếu với ông bà cha mẹ - người sinh thành, thương yêu, nuôi dưỡng mình thành tài,
thì việc “hiếu với dân” chỉ là dối trá để trục lợi. Cổ nhân từng nói “ người có tài nhưng
không có đức là người ác”, rõ ràng nền giáo dục lúc bấy giờ đào tạo ra phổ biến là
người tàn ác, phủ nhận mọi giá trị đạo đức truyền thống. Thậm chí còn cho rằng “ông
không phải là bố tôi”, khi người bố không còn giá trị lợi dụng (tiêu đề và nội dung của
một vở kịch nói nổi tiếng của tác giả Lưu Quang Vũ). Những con người thất đức đó
không giúp nước nhà phát triển bền vững. Việc một số cá nhân được “học làm người”
và trở thành thành người với nhân sinh quan “ăn để sống”, để phục vụ Tổ quốc, rất
hiếm hoi, được vậy là do học từ nơi khác chứ không phải được đào tạo chính qui từ nhà
trường. Nhiều người than phiền là “chất lượng giáo dục - đào tạo thấp”, nhưng thực tế,
phải xác định rõ là giáo dục đạo đức thấp, còn chất lượng chuyên môn như đã trình bày
ở trên thì rõ ràng là có phát triển. Những điều đó tác động xấu dây chuyền: tạo ra một
xã hội có nhiều tiêu cực, kẻ xấu chiếm đa số, người tốt trở nên lạc lỏng, thậm chí còn bị
hại, người làm việc xấu trở nên giàu có được quí trọng.
Học sinh tốt nghiệp phổ thông, sau hơn 12 năm học hành ở trường, ra đời chẳng
biết làm gì để sống, nếu có, thì cũng là lao động phổ thông giống như các người không
đi học khác, lãng phí công đi học, vì vậy giáo dục nghề nghiệp cần phải được tiến hành
ngay ở trường phổ thông để cung cấp cho xã hội nguồn lao động tốt hơn.
Công tác nâng chuẩn giáo viên đạt kết quả thấp vì không ít người đi học thiếu sự
trung thực trong học tập, thi cử.
Tất cả những hạn chế trên cần phải được quan tâm khắc phục trong những năm
đầu của thế kỷ XXI, có vậy, giáo dục An Giang mới hoàn thành tốt nhiệm vụ “trồng
người”./.
119
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 1976. “ Báo cáo
Chính trị” tại Đại hội Đảng lần thứ tư. Tài liệu lưu trữ.
Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 1994. Thông báo số 77 –
TB / TƯ về “Thực hiện Nghị quyết TƯ 4 trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo”, Hà
Nội, ngày 19/6/1994.
Ban Chấp hành Đảng bộ An Giang. 1983. Nghị quyết về tình hình, nhiệm
vụ từ nay đến năm 1985. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang. 1986. “Báo cáo Chính trị” tại Đại
hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ tư. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang. 1987 – 1996. “Các Nghị quyết về
tình hình, nhiệm vụ từ năm 1987 đến năm 1996”. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang. 1991. “Báo cáo Chính trị” tại Đại
hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ năm. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang. 1991. Văn kiện Đại hội tỉnh Đảng
bộ lần V . Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang. 1993. Văn kiện Hội nghị lần thứ
sáu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, khoá V. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang. 1994. Văn kiện Đại hội tỉnh Đảng
bộ giữa nhiệm kỳ, lần V.Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang. 1996. “ Báo cáo Chính trị” tại Đại
hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ sáu. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang. 1997. Chương trình hành động của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) “
Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000”. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang. 2001. “Báo cáo Chính trị”tại Đai
hội tỉnh Đảng bộ lần thứ bảy. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang.1988. Chỉ thị số 05/TU “Về việc
tăng cường lãnh đạo nâng cao chất lượng giáo dục năm học 1987 – 1988 và
những năm tiếp theo”. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 1981“Báo cáo Chính
trị” tại Đại hội Đảng lần thứ năm. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 1991. “Báo cáo
Chính trị” tại Đại hội Đảng lần thứ bảy. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 1994. Thông báo
“Về việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 trong lãnh vực giáo dục, đào tạo”,
Hà Nội.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 1996. “Báo cáo
Chính trị” tại Đại hội Đảng lần thứ tám. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 2001. “Báo cáo
Chính trị” tại Đại hội Đảng lần thứ chín. Tài liệu lưu trữ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.1986. “Báo cáo
Chính trị” tại Đại hội Đảng lần thứ sáu” Tài liệu lưu trữ..
Bộ Chính trị. 1979. Nghị quyết về Cải cách giáo dục, số 14 NQ/TƯ, ngày
11/1/1979. Tài liệu lưu trữ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1983. Tài liệu chuyên đề hoạt động lao động sản
xuất ở các trường học phổ thông phục vụ mục tiêu đào tạo và 3 chương trình kinh
tế. Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1995. 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào
tạo(1945 – 1995). Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1995. Các định hướng chiến lược phát triển giáo
dục và đào tạo từ nay đến năm 2020. Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1996. Số liệu thống kê !0 năm đổi mới giáo dục và
đào tạo 1987 – 1996. Trung tâm Thông tin Quản lý Giáo dục. Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo.1996. Tổng kết và đánh giá 10 năm đổi mới giáo
dục và đào tạo (1986 – 1996 ). Tài liệu lưu trữ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo: 1989. Dự án quốc gia nghiên cứu tổng thể về giáo
dục và đào tạo và phân tích nguồn nhân lực” (VIE 89-022). Hà Nội.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1994. Chỉ thị số 09/GD-ĐT về “Nhiệm
vụ năm học 1994 – 1995 “, Hà Nội.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1995. Chỉ thị số 17/GD-ĐT về việc
“Tăng cường chỉ đạo tiếp tục thực hiện Quyết định số 242/Ttg của Thủ tướng
Chính phủ về việc dạy thêm giờ của giáo viên các trường phổ thông công lập”,
Hà Nội.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1995. Chỉ thị số 19/GD-ĐT về “Tăng
cường quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông, mầm non, cán bộ
quản lý, củng cố và đổi mới hệ thống các trương sư phạm năm học 1995 – 1996
và các năm tiếp theo”, Hà Nội.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.1994. Chỉ thị số 05/GD-ĐT về “Công
tác bồi dưỡng giáo viên mầm non lớn tuổi thành giáo viên tiểu học ở những vùng
có nhu cầu”, Hà Nội.
Cục Thống kê tỉnh An Giang: Các số liệu thống kê về giáo dục, đào tạo từ
năm học 1975 – 1976 đến năm học 1999 – 2006. Tài liệu lưu trữ.
Đại Nam Nhất Thống Chí,tập 5.2006., Viện Sử học. NXB Thuận Hóa. Huế.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh An Giang. 2006. Báo cáo Chính trị
tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2005-2010”. Tài liệu lưu
trữ.
Đảng Cộng sản Việt Nam. 1991. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VII. NXB Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam. 1993. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương, khoá VII”. Tài liệu lưu trữ.
Đảng Cộng sản Việt Nam. 1994. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành trung ương khoá VII. Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam. 1996. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII. NXB CTQG. Hà Nội. Tài liệu lưu trữ.
Đảng Cộng sản Việt Nam. 1997. Văn kiện Hội nghi lần thứ hai Ban Chấp
hành trung ương khoá VIII. NXB CTQG. Hà Nội. Tài liệu lưu trữ.
Đảng Cộng sản Việt Nam. 2001.Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX. NXB CTQG. Hà Nội. Tài liệu lưu trữ.
Đảng Cộng sản Việt Nam. 2004.Văn kiện hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương khoá IX. NXB CTQG. Hà Nội.
Đỗ Mười. 1993. Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là chìa kháo để
mở cửa tiến vào tương lai. Nghiên cứu Giáo dục, số 2. Hà Nội.
Đỗ Mười.1993. Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. Bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ tư
BCHTƯ Đảng khoá VII, Hà Nội, ngày 4/1/1993.
Đoàn Huy Oánh. 2004. Sơ lược lịch sử giáo dục. NXB ĐHQG. Tp HCM.
Hà Nguyên. 2003. Người Nhật học và học người Nhật”. Báo Thanh Niên, số
323, ngày 16/11/2003.
Hồ Chí Minh. 1977. Về vấn đề giáo dục. NXB Giáo dục. Hà Nội.
Hồ Chí Minh. 1996. Toàn tập. NXB CTQG. Hà Nội.
Luật phổ cập giáo dục tiểu học. 1991. Hội đồng Nhà nước công bố ngày
16/8/1991.
N.P. 2003. Luyện thi cũng có “ ngôi sao”?. Báo Tuổi Trẻ, ngày thứ bảy
22/11/2003.
Nguyễn Ái Quốc. 1976. Bản án chế độ thực dân Pháp. NXB Sự Thật. Hà
Nội.
Nguyễn Minh Hiển. 2003. Vật chất tốt hơn nhưng sự tận tuỵ của người thầy
thua ngày xưa”. Báo Nông nghiệp Việt Nam, số 228, ngày 14/11/2003.
Phan Ngọc Liên. 2007. Biên niên sử: Các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam.
NXB Từ điển Bách khoa. Hà Nội.
Phan NgọcLiên (Chủ biên). 2006. Đảng Cộng sản Việt Nam với sự nghiệp
giáo dục và đào tạo. NXB Giáo dục.
Quyết định số 1317/GD-ĐT của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT. 1993. Về: “Qui chế
tạm thời tổ chức và hoạt động của trung tâm dạy nghề quận, huyện, thị xã” và qui
chế tạm thời ban hành theo quyết định, ngày 19/6/1993.
Quyết định số 1317/GD-ĐT ngày 27/7/1993 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về
việc ban hành“ Danh mục ngành đào tạo trung học chuyên nghiệp của nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam” và danh mục ngành đào tạo ban hành theo quyết định.
Quyết định số 1860/GD-ĐT ngày 25/5/1995 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về
việc ban hành“Quy chế tạm thời về xét tuyển, thi, kiểm tra và cấp chứng chỉ, văn
bằng tốt nghiệp giáo dục từ xa” và quy chế tạm thời ban hành theo quyết định.
Quyết định số 2957/GD-ĐT ngày 14/01/1994 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về
việc ban hành“Mục tiêu, kế hoạch giáo dục tiểu học”.
Quyết định số 382/GD-ĐT của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT. 1993. Về: “Qui chế
trường dạy nghề Nhà nước” và qui chế trường nghề Nhà nước ban hành theo
quyết định, ngày 27/2/1993.
Quyết định số 3968/GD-ĐT ngày 14/10/1995 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về
việc ban hành “Quy chế về tổ chức đào tạo đại học cao đẳng chính quy” và quy
chế ban hành theo quyết định.
Quyết định số 4059/GD-ĐT ngày 19/10/1995 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về
việc ban hành“Quy chế trường trung học nghề công lập” và quy chế ban hành
theo quyết định.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1987. Tổng kết năm học 1986 – 1987 và
phương hướng năm học 1987 – 1988. Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1995. Qui hoạch phát triển giáo dục và
đào tạo 1996 – 2000 – 2010”. Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1996. Báo cáo tổng kết 10 năm đổi mới
giáo dục, đào tạo (1986 – 1996 ). Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1996. Báo cáo tổng kết công tác giáo
dục mầm non (1986 – 1996). Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1996. Báo cáo tổng kết công tác xoá mù
chữ (1986 – 1996 ). Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1996. Báo cáo tổng kết công tác giáo
dục trung học cơ sở (1986 – 1996 ). Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1996. Báo cáo tổng kết công tác giáo
dục trung học phổ thông (1986 – 1996 ). Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1996. Báo cáo tổng kết công tác đào tạo
nghề (1986 – 1996 ). Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1996. Báo cáo tổng kết công tác đào tạo
đại học, cao đẳng (1986 – 1996 ). Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1996. Báo cáo tổng kết công tác bồi
dưỡng cán bộ giảng dạy và giáo viên (1986 – 1996 ). Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1996. Báo cáo tổng kết công tác tài
chính (1986 – 1996 ). Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1996. Báo cáo tổng kết công tác cơ sở
vật chất, kỹ thuật (1986 –1996 ). Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1996. Phụ lục về công tác xây dựng đội
ngũ 1995 – 2000”, dự thảo. Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 1999. Qui hoạch phát triển giáo dục, đào
tạo giai đoạn 2001 – 2010”. Tài liệu lưu trữ.
Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang. 2006. Báo cáo tổng kết năm học 2005-
2006. Tài liệu lưu trữ.
Thanh Hà. 2003. Để dạy thêm học thêm tràn lan, Hiệu trưởng phải chịu
trách nhiệm”. Báo Tuổi Trẻ, ngày 11/12/2003.
Thông tư liên Bộ Giáo dục và Đào tạo- Hội Cựu Chiến binh Việt Nam số
07-TT/LB,(1994), “Về việc đẩy mạnh công tác xoá mù chữ và phổ cập giáo dục
tiểu học”, ngày 18/6/1994.
Thông tư số 03/GD-ĐT ngày 10/4/1994 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về công
tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý trung học chuyên ban.
Thông tư số 25/GD-ĐT của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT,(1994), “Hướng dẫn mở
lớp trung học nghề”, ngày 29/12/1994.
Thông tư số 35/TT.LB ngày 21/4/1994 và thông tư số 05/TT.LB ngày
8/4/1995 hướng dẫn quản lý ngân sách GD-ĐT và các chương trình- mục tiêu của
ngành GD-ĐT.
Tỉnh ủy An Giang. 2005. 30 năm xây dựng và phát triển. Sở Văn hóa Thông
tin An Giang xuất bản.
Tỉnh ủy An Giang. 2006. Các văn bản của Ban Chấp hành và Ban Thường
vụ Tỉnh ủy (2001-2005). Tài liệu lưu hành nội bộ.
Trần Hồng Quân. 1997. Giáo dục Việt Nam 10 năm đổi mới và chặng
đường trước mắt.
Trần Hữu Tá. 2003. Trông người mà ngẫm. Báo Thanh Niên, số 323, ngày
thứ tư 19/11/2003.
Trần Nam, Lê Tân. 2003. Trăm mánh luyện thi. Cẩm nang mua sắm. NXB
Lao động Xã hội. Hà Nội.
Trần Thanh Phương. 1984. Những trang về An Giang. Hội Văn học Nghệ
thuật An Giang xuất bản. An Giang.
Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục. 1999. Cải cách giáo dục ở Hàn quốc.
NXB Giáo dục. Hà Nội.
Việt Hưng. 2003. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo: có một thế lực đen
muốn đẩy lùi cải cách. Báo Thanh Niên, số 318, ngày 14/11/2003.
PHỤ LỤC
1. Nguyễn Xuân Tư: Hoài niệm trường xưa
Nguồn: Báo Xuân của trường Thoại Ngọc Hầu năm 2009
Ô. Nguyễn Xuân Tư là Nguyên Giám đốc Sở Giáo dục – Đào tạo An Giang,
cũng là Cựu Học sinh của Trường Thoại Ngọc Hầu, đó là trường tiêu biểu về
chất lượng giảng dạy, học tập của tỉnh An Giang.
2. Đức Vịnh: Vùng lũ mà không có phao
Nguồn: Báo Tuổi Trẻ.
Nhà báo Đức Vịnh đã phỏng vấn Ô. Đặng Hoài Dũng, nguyên Giám Đốc Sở
Giáo dục – Đào tạo An Giang về việc Ông đã kiên quyết chỉ đạo thực hiện
nghiêm túc trong thi cử. Bài báo đã gây chấn động trong ngành giáo dục vì lúc đó
hành vi tiêu cực trong thi cử trở nên phổ biến trong toàn quốc. GS TS Nguyễn
Thiện Nhân, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo từ Thủ đô Hà Nội bay vào An
Giang để tìm lời giải cho vấn đề này. Sau đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã phát động phong trào “Nói không với tiêu cực thi cử” trên toàn quốc
3. Đức Vịnh: Chuyện thật như đùa: Không học ngày nào cũng tốt nghiệp THCS!
Nguồn: Tuổi Trẻ, thứ năm 18/5/2006.
Bài viết này nói lên tình trạng gian dối trong học tập, thi cử - một biểu hiện của bệnh
chạy theo thành tích.
4. Chương trình Sử, Địa lớp 12 cũ.
Giáo viên đã căn cứ vào chương trình để soạn sách giáo khoa để giảng dạy mà không
phải lệ thuộc vào sách giáo khoa của Bộ Giáo dục miền Nam, vì tin rằng giáo viên khi
tốt nghiệp trường Sư phạm đủ khả năng soạn sách giáo khoa để giảng dạy.
5. Các câu hỏi.
Các câu hỏi được tác giả tự giải quyết từ nhiều nguồn thông tin. Trong đó cũng
có nhiều vấn đề mà mặc dù có nhiều cố gắng nhưng tác giả cũng không giải quyết được:
Vấn đề sách giáo khoa, về đổi mới phương pháp giảng dạy, về vấn đề nghiện trò chơi
điện tử của học sinh, sinh viên v.v…
Thứ Hai, 02/01/2006, 12:08 (GMT+7)
Nhìn lại giáo dục năm 2005: Ba cái được, sáu tồn tại
Càng ngày người ta càng thấm rõ một điều, GD-ÐT không phải chuyện riêng của
ngành GD-ÐT, càng không phải chuyện riêng của một trường học, mà là vấn đề của
cả xã hội.
Vì thế, mọi hay dở, tốt xấu, thành bại của GD-ÐT cần được xã hội nhìn nhận công
bằng, để cùng sẻ chia, quan tâm và tháo gỡ khó khăn.
Ba cái được...
Năm 2005, sẽ đi vào biên niên sử giáo dục với một dấu ấn riêng, năm Luật Giáo dục
(sửa đổi) ban hành, với tên gọi chính thức Luật Giáo dục 2005. Ðó là cơ sở pháp lý
cao nhất, cùng với một loạt văn bản pháp lý quan trọng: Kết luận Hội nghị T.Ư 6 về
GD-ÐT, Chỉ thị 40-CT/ T.Ư của Ban Bí thư T.Ư, Quyết định 09/2005/TTg của Thủ
tướng Chính phủ xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ, cán bộ quản lý giáo dục,
ngành GD-ÐT có thêm điểm tựa hành động gặt hái được "ba cái được" lớn.
Thứ nhất, mạng lưới và quy mô giáo dục tiếp tục phát triển. Số trường học mầm
non, phổ thông đều tăng so với năm trước. Cả nước có 93 trường đại học, 137
trường cao đẳng (công lập, ngoài công lập), 37.270 trường học từ mầm non đến phổ
thông, trong đó mầm non tăng 349 trường, tiểu học tăng 174 trường, THCS tăng 202
trường, THPT tăng 84 trường.
Các trường phổ thông dân tộc nội trú mỗi năm một khẳng định sự vững chắc của
mạng lưới giáo dục dành cho con em nhân dân các dân tộc thiểu số với 13 trường
trung ương, 50 trường tỉnh, 266 trường huyện, và 519 trường bán trú xã, cụm xã.
Mạng lưới các trường sư phạm, các trung tâm kỹ thuật tổng hợp- hướng nghiệp, các
trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm tin học, ngoại ngữ, mở rộng khắp nước,
chưa kể hơn 5.000 trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường, tạo nên một không khí,
một sắc thái "xã hội học tập từ cơ sở".
Quy mô học sinh, sinh viên đều tăng, được ngành xác định trên quan điểm - tăng
cường các điều kiện bảo đảm chất lượng, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Trừ bậc tiểu học có xu hướng ổn định và giảm,
học sinh, sinh viên các bậc học mầm non, THCS, THPT, đại học, cao đẳng và trung
học chuyên nghiệp đều tăng. Theo đó, các điều kiện từ kinh phí, cơ sở vật chất, giáo
viên, giảng viên đều tăng theo.
Năm 2005, ngân sách đầu tư cho GD-ÐT là 41.630 tỉ đồng (chiếm 18%) trong tổng
chi ngân sách Nhà nước, trong đó chi thường xuyên là 26.575 tỉ đồng (tăng 6,8%), chi
cho chương trình mục tiêu quốc gia 1.770 tỉ đồng (tăng 42%) so với năm 2004.
Riêng kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia tập trung cho các dự án để ngành GD-
ÐT thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm. Ðó là Dự án đổi mới nội dung, chương trình
sách giáo khoa (SGK): 800 tỉ (tăng 54%); Dự án bồi dưỡng giáo viên, tăng cường cơ
sở vật chất cho các trường sư phạm: 120 tỉ đồng ( tăng 20%); Dự án hỗ trợ giáo dục
miền núi, vùng dân tộc khó khăn: 150 tỉ đồng (tăng 25%); Dự án tăng cường năng lực
đào tạo nghề: 340 tỉ đồng (tăng 70%); Dự án tăng cường năng lực trung học chuyên
nghiệp: 35 tỉ đồng.
Việc triển khai Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học góp phần quan trọng bảo
đảm cơ sở vật chất trường học nhất là các tỉnh vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao theo
hướng chuẩn hóa. Ðến nay, đã có 42.148 phòng được xây dựng, đạt tỷ lệ 70,8% so
với kế hoạch, trong đó, 34.055 phòng đã hoàn thành đưa vào sử dụng.
Với việc xây dựng đội ngũ, đưa tổng số giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục lên gần
một triệu người, ngành GD-ÐT quan tâm cải thiện chất lượng đội ngũ này ở cả ba
phương diện: chuẩn hóa, bồi dưỡng nâng trình độ, và tăng tỉ lệ giáo viên/ lớp.
Khảo sát ở 37 tỉnh, thành phố cho thấy, tỉ lệ giáo viên mầm non đạt chuẩn và trên
chuẩn 79,65%; ở tiểu học tỉ lệ này là 94,47; THCS 95,02; và THPT 96,98%. Tỉ lệ
giáo viên/ lớp cũng tăng hơn, tiểu học: 1,25 GV/ lớp; THCS: 1,73; và THPT: 1,78
GV/ lớp (năm học trước, tỉ lệ này là 1,21; 1,70 và 1,77 GV/ lớp).
Thứ hai, trên nền tảng mạng lưới, quy mô tiếp tục phát triển, các mục tiêu quốc gia về
dân trí đều đang tiến dần đến độ "chín". Ðến tháng 7-2005, cả nước đã có 26/ 64
tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, và cũng có 26/
64 tỉnh, thành phố cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS.
Ở mục tiêu tạo nguồn đào tạo nhân tài, học sinh Việt Nam tại các kỳ thi Olympic
quốc tế và khu vực vẫn giữ được truyền thống mang về cho đất nước các huy chương
vàng, bạc và đồng, góp phần khẳng định trí tuệ tuổi trẻ Việt Nam trên trường thi quốc
tế.
Thứ ba, chủ trương "ba chung" trong tuyển sinh đại học, cao đẳng sau những
phản ứng, lo ngại, phê phán của xã hội, đã bắt đầu đi vào ổn định, khẳng định
bước đầu cái "được" của một chủ trương, rõ nhất là ở nội dung chung đề, chung đợt;
không chỉ làm giảm sự tốn kém, căng thẳng cả xã hội, mà còn làm cơ sở khẳng định
"thương hiệu", tên tuổi các trường đại học, góp phần điều chỉnh cách dạy, cách học
của các trường đại học khác, đồng thời ít nhiều hạ "nhiệt" các lò luyện thi vốn đầy sự
bất ổn mà ít hiệu quả.
... Và sáu vấn đề đáng quan tâm
Phải khẳng định một điều, năm 2005, ngành GD-ÐT thật sự có thái độ cầu thị trước
những khen chê của xã hội. Mong muốn ngăn chặn, hạn chế căn bệnh thành tích lúc
ẩn, lúc hiện, bảo đảm chất lượng giáo dục, ngành đã có những động thái tích cực
trong quản lý và chỉ đạo, nhằm từng bước tạo sự chuyển biến về chất lượng gắn với
xây dựng kỷ cương, nền nếp môi trường giáo dục lành mạnh.
Vươn tới mục tiêu đầy khó khăn đó, ngành tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu tổ chức cơ quan
quản lý giáo dục các địa phương (sở GD-ÐT). Ðặc biệt, bước đầu ngành xây dựng các
tiêu chí đánh giá, giúp các địa phương nhìn rõ mình hơn trong dạy và học, tăng cường
hoạt động thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh kỷ cương, nền nếp giáo dục từng trường học
đến toàn ngành. Ðồng thời mở rộng xã hội hóa giáo dục, tạo sự đồng thuận của xã hội
để cùng tháo gỡ khó khăn cho giáo dục, hỗ trợ giáo dục trên hành trình đổi mới và
phát triển.
Nhưng, giữa mong muốn và thực tiễn còn là khoảng cách lớn. Có những khoảng cách
khách quan ngành khó vượt qua. Thí dụ như ngân sách giáo dục, mặc dù đã được đầu
tư 18% tổng chi ngân sách Nhà nước, nhưng thực chất, ngành phải dùng tới 7.100 tỉ
đồng (chiếm 18,5% tổng chi) để thực hiện cải cách tiền lương.
Tỉ lệ chi thường xuyên được bố trí tăng 5% so với năm 2004, rốt cuộc chưa đáp ứng
nhu cầu, chưa đủ tạo ra những thay đổi có tính đột phá cho việc cải thiện chất lượng.
Tỉ lệ và cơ cấu chi cho con người vẫn tiếp tục ở mức 85-90%, trong khi chi cho các
hoạt động giảng dạy, giáo dục... vẫn ở ngưỡng 10-15%.
Quy mô phát triển quá lớn, quá nhanh, trong lúc những điều kiện bảo đảm chất lượng
không đáp ứng kịp, cả trường lớp, cơ sở vật chất thiết bị, giáo viên... Nhưng, cũng có
những khoảng cách lớn mang tính chủ quan do yếu kém, bất cập trong quản lý, khiến
tiêu cực, từ hiện tượng trở thành "vấn nạn" mà ngành không sao khắc phục được.
Chính vì thế, năm 2005, dù rất nỗ lực, sự chuyển biến chất lượng giáo dục toàn ngành
chưa rõ rệt. Hơn thế, trong đời sống giáo dục lại nảy sinh sáu hiện tượng, tạo nên sáu
"sự kiện", sáu "cú sốc", gây phản cảm, lo lắng, bàn luận nhiều chiều trong xã hội.
Một là, hiện tượng quá tải trong chương trình, SGK, đặc biệt quá tải ở tiểu học;
sai sót trong SGK mới. Tuy đây là hai sự kiện, nhưng lại có một cái gốc chung của
quản lý và khoa học giáo dục. Mặc dù trong chính ngành GD-ÐT có sự tranh cãi của
các tác giả sách, các nhà sư phạm, nhà khoa học theo kiểu "sư nói sư phải, vãi nói vãi
hay", nhưng cái gốc là ở chỗ, làm ngược lại với chủ trương quy trình đổi mới.
Các nhà khoa học giáo dục, ngành GD-ÐT đã không xây dựng chuẩn kiến thức để từ
đó có được chương trình chuẩn, và những bộ SGK chuẩn mực, phù hợp mục tiêu cấp
học, phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi học đường, không tạo được sự liên thông trong
chương trình giữa các cấp học mang tính tổng thể; và do sự phân tâm, do cơ chế "tiền
+ quyền lực dự án", ngành đã không tập hợp được những tác giả SGK thật sự giỏi.
Hai là, hiện tượng thiết bị giáo dục lãng phí và ít hiệu quả. Với sáu, bảy trăm tỉ
đồng mỗi năm cho thiết bị giáo dục (TBGD), nguy cơ "tiền tỷ ném ra gió" trong công
tác TBGD là có thật. Cơ chế quản lý TBGD hiện nay, tưởng có đầu mối mà thật ra
không có, cùng với đặc thù về ngân sách mua TBGD, tất yếu tạo ra hiện tượng "đi
đêm". TBGD sản xuất lại kém chất lượng, rốt cục, thiệt hại nhất vẫn là Nhà nước và
các em học sinh. Mô hình và cơ chế quản lý TBGD hiện nay dứt khoát cần phải được
đổi mới.
Ba là, hiện tượng tỉ lệ tốt nghiệp môn ngoại ngữ cấp THCS ở Khánh Hòa quá
thấp. Có thể có rất nhiều nguyên nhân: hoặc giảng dạy quá yếu, hoặc học sinh quá
kém, hoặc đề thi quá khó. Nhưng, dù từ nguyên nhân nào, thì việc Khánh Hòa được
phép cho số thí sinh này thi lại ở kỳ thi bổ túc văn hóa THCS sau đó, vẫn chỉ là giải
pháp "yên dân", chứ không có ý nghĩa gì về chất lượng giáo dục. Hơn nữa, hiện tượng
này khiến xã hội thêm một lần nữa lo ngại về chất lượng dạy và học hiện nay.
Bốn là, hiện tượng "điểm thưởng": Chỉ với một lá thư nhỏ của một học sinh nữ ở
Nghệ An dũng cảm gửi tới Bộ GD-ÐT, đã làm "vỡ" ra sự thật về mặt trái của một chủ
trương có mục đích tốt. Cùng với kết quả mới đây của các đoàn cán bộ GD-ÐT khảo
sát các trường ĐH cho thấy, các sinh viên (là học sinh tốt nghiệp THPT đạt loại giỏi)
được cộng điểm thưởng không hơn gì các sinh viên khác.
Ðáng chú ý, số học sinh được cộng điểm thưởng ba năm trở lại đây tăng nhanh vùn
vụt, từ hơn 13.000 lên gần 30.000 em. Rõ ràng, một chủ trương với mục đích tốt,
trong thực tế triển khai, đã bị nhiều người lợi dụng, làm nảy sinh không ít tiêu cực.
Năm là, hiện tượng "mô hình và chương trình phân ban": Có thể nói, đây là một
chủ trương gây bàn cãi, rắc rối, gây tốn kém không ít giấy mực, dù mới ở diện thí
điểm. Mới đây, chương trình phân ban lại một lần nữa được ngành GD-ÐT điều
chỉnh.
Xem xét kỹ chủ trương này, người ta thấy mọi con đường phân ban chỉ để đi đến cánh
cửa trường ĐH, không góp phần gì cho việc đào tạo nguồn nhân lực, một nhiệm vụ
lớn của ngành, phản chiếu sự bị động và lúng túng trong tư duy phát triển giáo dục
của ngành.
Sáu là, hiện tượng "điều chỉnh học phí cấp THPT và đại học". Ðây là một chủ
trương vừa phù hợp tinh thần Luật Giáo dục 2005 mới ban hành, vừa góp phần cải
thiện chất lượng GD-ÐT, hạn chế hiện tượng lạm thu của các trường.
Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề cực kỳ nhạy cảm, cần được xem xét kỹ lưỡng, có căn
cứ thực tiễn và cơ chế quản lý phù hợp, tính đến yếu tố xã hội. Một chủ trương đúng,
nhưng do thông tin vội vã, rất đáng tiếc đã tạo ra những hiệu ứng bất lợi cho ngành
và gây căng thẳng trong xã hội.
Theo Nhân Dân
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7697.pdf